Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

HỒI KÝ MẶT THẬT CỦA BÙI TÍN - KỲ 3


1      2      3      4     5     6
CÁI SỢ

Biết lo thì rồi ắt phải biết sợ. Lo và sợ đi với nhau thành lo sợ. Nỗi sợ đói nghèo không đến nỗi nặng nề. Vì đã có chánh sách bao cấp. Gạo, muối, đường, xà phòng, vải, dầu đun bếp... có nhà nước lo cho ở mức tối thiểu. Khám bệnh cho thuốc không mất liền, tuy là ở mức thấp. Tiền học không phải trả. Mọi người sống ngang nhau, gần như giống nhau, không mấy ai băn khoăn phải vươn hơn người về vật chất. Nỗi sợ về chính trị có phần nặng nề. Lý lịch là bản mệnh cán bộ và công dân. Nhận xét của cơ quan tổ chức cán bộ và cơ quan công an là có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh chính trị mỗi người. Đối với công dân được nhận xét là trung thành với chế độ, thông suốt chính sách của đảng và nhà nước là điểm son.
Đối với cán bộ thì lập trường chính trị vững vàng, thông suốt đường lối chính sách, tin tưởng ở đảng và nhà nước, không có vướng mắc gì là đạt điểm ưu. Lại tùy tình hình chính trị. Như trong cải cách ruộng đất và sửa sai thì phải có nhận xét: lập trường giai cấp rõ ràng, dứt khoát đứng về phía nông dân, căm thù lên án địa chủ, không mơ hồ, thông suốt và tin tưởng ở chính sách sửa sai, không hoang mang giao động; có lập trường kiên định, giữ vững niềm tin ở đảng, nhà nước; khi có vận động cải tạo công thương nghiệp tư doanh thì phải đạt được nhận xét: lập trường rõ ràng dứt khoát lên án giai cấp bóc lột, đứng hẳn về phía công nhân lao động, thông suốt chính sách cải tạo... Học nghị quyết cũng vậy. Mấy chục năm, cán bộ, đảng viên, công dân phải học không biết bao nhiêu nghị quyết! Nghị quyết Đại Hội đảng thì phải học hàng năm; nghị quyết Bộ chính trị hay Trung ương Đảng cứ trung hình một năm từ 3 đến 5 dân, mỗi lần hàng tháng! Học thì phải liên hệ, phải thu hoạch, viết ra giấy, ký tên. Hoặc các tổ trưởng học tập phải ghi rõ kết quả từng người, nộp cho tổ chức. Tổ trưởng phải khéo khêu gợi thắc mắc học viên, nêu lên để tranh luận, theo phương châm: tự do tư tưởng? Chữa bệnh cứu người. Người nói không có tội, người nghe để răn mình.
Toàn là cân vàng thước ngọc của "Mao chủ tịch"! Nhưng chẳng ai dại gì nói lên thắc mắc của mình, để bị ghi lại là chưa thông chính sách. Tổ trưởng thường phải nghĩ ra, bịa ra, vay mượn "thắc mắc" ở nơi khác để đặt vấn đề thảo luận... Trong thảo luận chữ "quán triệt" được nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần. Thật là "Tàu, thật là khó định nghĩa, nên không dùng được chữ nào khác. ý nghĩa của "quán triệt" là hiểu cho thật sâu sắc, rõ ràng và ngấm vào mình để thành hành động thực tế có kết quả cao. Học là để quán triệt, cho nên phải thông suốt, không còn có vướng mắc, băn khoăn nào. Còn vướng mắc băn khoăn là học chưa kết quả. Cuối cùng là tổng kết và giải đáp; thường là Bí thư đảng ủy được Trưởng ban Tuyên huấn phụ giúp làm việc này. Đó là nhắc lại nội dung nghị quyết, giải thích các lý lẽ, giải đáp mọi thắc mắc còn tồn tại và động viên hành động... Vẫn chưa xong. Còn phải một buổi thu hoạch, thu hoạch chung ở tổ, và thu hoạch riêng. Thường trong thu hoạch, học viên đua nhau ca ngợi và khoe: học thật kết quả! Đảng ta thật tài tình! Nhận thức được nâng lên hơn hẳn trước khi học. Và bao giờ thu hoạch cũng thường có câu: "Dưới ánh sáng của nghị quyết, tôi nhận thấy lớp học thật bổ ích..." Cứ y như là xã luận báo Nhân Dân vì nghị quyết của đảng, thường là bắt đầu bằng công thức: dưới ánh sáng của nghị quyết... Đã hàng chục năm nay, cứ mỗi lần học như thế (như năm 1989 và 1990, học Nghị quyết 7, 8 và 9 của Trung ương Đảng về tình hình Đông Âu, về quan hệ đảng với quần chúng, về quan hệ quốc tế ) tôi không khỏi bấm bụng cười, hoặc cười nháy với 1, 2 ông bạn thân cùng trong phòng họp và trộm nghĩ: thật là kỳ quặc, thật là khôi hài, ai cũng tham gia đóng kịch, nghĩa là thường phải xưng tụng, nói lên những điều mình không nghĩ và chỉ nghĩ như điều mình không dám nói ra... Tôi đoán rằng mới đây, những đợt học về nghị quyết đại lội 7, về Hiến pháp mới, về nghị quyết 3 và nghị quyết 4 của Trung ương đảng giữa năm 1992 và đầu năm 1993, có thêm rất nhiều người phải bấm bụng cười thầm như thế. ắt rằng nhiều người tự nghĩ hoặc trao đổi lẻ với nhau: văn là trò nhảm nhí, tuyên truyền áp đặt, nhồi nhét một cách bắt buộc, ánh sáng thì tù mù, nâng cao mà là hạ thấp, nói lấy được bất chấp thực tế và lẽ phải... Thế nhưng trong lớp, có ai dám nói ra những suy nghĩ thật của mình. Bởi vì mọi người còn sợ! Bởi vì cán bộ, đảng viên mà không thông nghị quyết thì sẽ là tai họa! Không thông nghị quyết thì có nghĩa là chống nghị quyết. Chống nghị quyết thì đồng nghĩa với chống đảng. Chống đảng thì đồng nghĩa với phản động. Phản động trong quan điểm nhận thức thì là có lập trường phản bội. Phản bội đảng thì ắt là phản quốc, phản nhân dân.


Nhưng không phải chờ đến khi bị chụp mũ là chống đảng, là phản động mới biết sợ. Ngay khi bị nhận xét: "Không thông suốt chính sách"; "có nhiều quan điểm chính trì mơ hồ"; "bị ảnh hưởng nặng những luận điệu tuyên truyền của địch"; là đã đủ để bị phiền hà, bị ngồi ở bên lề, bị ngồi chơi xơi nước, bị "mác kê", và cả vợ con, gia đình cũng có thể bị liên lụy. Vì sợ nên phải dấu kín lòng mình. Vì sợ nên đành phải dối trá. Vì sợ nên phải đóng kịch. Vì sợ nên giả dối là lẽ thường. Mà sợ trong điều kiện hoàn cảnh ấy là để tự vệ. Và quyền tự vệ luôn được coi là chính đáng. Và sợ là thuộc bản nàng sinh tồn trong tình hình cụ thể như thế.


Cho nên nhà văn Nguyễn Tuân đến cuối đời ông đã nói một câu đau đớn, mỉa mai mà chí lý: "Tớ còn tồn tại như thế này là bởi vì tớ còn biết sợ". Có nghĩa là nếu không biết sợ thì ắt đã bị nghiền nát từ lâu rồi? Không biết sợ thì có thể đã bị vứt ra bên lề cuộc sống, bị bôi đen, chụp mũ, mất cần câu cơm, mất nhà cửa, mất danh dự, mất hết mọi quyền lợi, và vợ con, bạn bè bị vạ lây... Có người biết xử sự như thế là hận, là mất nhân cách nhưng lại luôn thấy cơ chế như một cỗ máy khổng lồ không đầu óc, không tim gan, nó chạy một cách lạnh lùng, nghiền nát mọi vật trên đường của nó. Phải ở trong cuộc mới thấy hết nỗi dằn vặt của những người lương thiện phải giả dối trước cỗ máy nghiền hung tợn. Tránh voi chẳng xấu mặt nào!

Nhà thơ Chế Lan Viên mất cuối năm 1991, vữa tròn 70 tuổi ở trong nước, giới văn học đều biết rõ về nhà thơ mà tài năng xuất hiện từ rất trẻ với tập Điêu Tàn đặc sắc. Sau vào chính trị, là một đại biểu quốc hội, còn cố "phấn đấu để có thể vào trung ương đảng, phụ trách văn học và văn nghệ, trở thành "quan chức lãnh đạo". Với mục tiêu ấy, ông đã giở nhiều thủ thuật phê phán, sát phạt nhiều anh chị em đồng nghiệp để ngoi lên. Xuân Sách trong tập thơ Chân dung nhà văn từng khắc họa khá đậm về nhà thơ cơ chế này. Ông mất rồi, vợ ông, nhà văn Vũ Thị Thường công bố mấy bài thơ ở dạng phác thảo ông viết khi nằm trên giường bệnh. Hai bài rất đáng chú ý là Bánh Vẽ và Trừ Đi. Có thể coi đây là lời trăn trối, thanh minh, ân hận của nhà thơ đối với cuộc đời, với bạn đọc. Bài Bánh Vẽ có nhưng câu:

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ

Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn

Cầm lên nhấm nháp

Chả là nếu anh từ chối

Chúng sẽ bảo anh phá rối

Đêm vui...

Chúng là những ai? Là ông trùm và những kẻ a tòng?

Bài Trừ Đi như một lời sám hối, có những câu:

Sau này anh đọc thơ tôi thì nên nhớ

Có phải tôi viết đâu! Một nửa

Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi. . .

Cả 17 câu thơ toát lên niềm ân hận, xót xa, tự nhận thái độ hèn nhát của mình, và cái tàn ác thâm độc của cơ chế.

Tôi viết bằng xương thôi, nhưng không có thịt của mình...

Bởi vì cơ chế này không cho anh được là anh; nó buộc mọi người mang mặt nạ, nói theo sách của họ, chỉ còn một nửa là mình! Chỉ là một nửa của mình thì còn đâu là mình nữa. Lời tâm huyết này, khi còn sống, nhà thơ không thổ lộ cùng ai! Anh chưa dám, còn sợ. Nỗi sợ dai dẳng. Để rồi khi khuất mới cất được nên lời. Lỗi ở anh một phần, còn tội, tội rất lớn là ở cái cơ chế, cái học thuyết mà đảng đã du nhập và áp đặt lên toàn xã hội.
CÁC BẠN VĂN NGHỆ VÀ CÁC QUAN VĂN NGHỆ

Tôi quen khá nhiều văn nghệ sỹ thuộc đủ các ngành văn, thơ, nhạc, họa... Có nghiêng người quen từ 30, 40 năm trước. Đó là Nguyên Hồng, Văn Cao. Hồi ấy, Văn Cao mới hơn 30 tuổi trẻ măng. Anh có bàn tay mềm, thon như bàn tay con gái. Cách nói chuyện thủ thỉ của Văn Cao thật hấp dẫn. Có khi kể chuyện tiếu lâm, hóm hỉnh, mặt vẫn tỉnh khô, cuối cùng mới nổ ra một tràng cười đến chảy nước mắt. Chính Văn Cao dạy tôi khiêu vũ, từ nhảy valse đến tangô. Văn Cao vẽ ít nhưng có hoa tay, nét vẽ đơn sơ, khỏe khoắn. Anh già đi rất nhanh, từ khoảng 1968 đến 1975, lấy rượu làml khuây cho nên nghiện rượu nặng. Thơ anh cũng khá hay, nhiều rung cảm. Tôi cứ nhớ mãi những câu anh hát trong bài Thiên Thai tuyệt diệu khi chúng tôi đi dạo bên bờ sông. Nguyên Hồng như một ông nông dân, râu rậm để lún phún, hai má đen sạm, chiếc răng khểnh trông rất đặc sắc; anh lại hay mặc bộ áo quần nâu. Anh chất phác, ngay thật, sôi nổi. Giữa đường gặp nhau là hét lớn, hỏi chuyện oang oang. Anh sống rất bình dân..



Văn Cao làm thơ phải trên giấy pơluya mỏng, đẹp. Nguyễn Tuân viết văn phải trên giấy hoa tiên, có in tên mình ở phía trên, đàng hoàng, duyên đáng. Còn Nguyên Hồng dùng đủ loại giấy, vở học trò, ấy xam xám, chữ nghệch ngoạc, ngón tay dính mực như học trò tiểu học. Tôi quý Nguyên Hồng ở tính tình ngay thật, xởi lởi do không chịu nổi không khí lãnh đạo văn nghệ ngột ngại mà anh lên vùng Yên Thế (Bắc Giang) ở ẩn, theo chân cụ Đề Thám, thỉnh thoảng mới về Hà Nội. Anh rất dễ xúc động, rất hay khóc. Nghe tin bạn cũ chết, anh khóc. Nghe tin các vị lãnh đạo chửi bới báo Văn do anh phụ trách, anh cũng khóc. Nghe tin Hoàng Cầm, Trần Dần bị đưa đi cải tạo, anh cũng khóc. Phải thấy con người râu rậm, lốm đốm bạc, mặt đen sạm, mồm méo xệch, khóc nức nở mới thấy trong anh tình cảm thật dồi dào. Anh kể rằng khi viết Bỉ Vỏ về thân phận những con người ở dưới đáy của xã hội, anh vừa viết vừa khóc với những nhân vật của mình. Nét rất quý ở anh là không chịu a dua nói theo lãnh đạo. Rất tình cảm, mà cũng rất cứng cỏi. Văn nghệ sĩ trong quân đội, có Hoàng Minh Châu quan sát xã hội sắc sảo, viết khỏe và có những suy nghĩ sâu sác. Anh xót xa và uất giận đối với kiểu văn học minh họa một thời. Hoàng Ngọc Hiến khá già dặn, có bản lĩnh tư duy riêng của mình, rất được sinh viên trẻ ái mộ; anh chịu khó tìm hiểu nền phê bình văn học của thế giới. Nguyễn Duy có nhiều suy tưởng lắng đọng về xã hội, về con người, biết đau và biết phẫn nộ. Trần Mạnh Hảo viết văn, làm thơ, có lần kể cho tôi nghe thời anh học ở trường dòng, Kinh Thánh đã bồi bổ kiến thức của anh về nhân sinh; anh có những suy nghĩ về thơ rất mới mẻ. Thu Bồn to con, đen như người Tây Nguyên, tóc quăn tít, sống sôi động; anh làm thơ rất khỏe, có bài dài hàng trăm câu, thuộc thơ rất giỏi, có thể đọc và ngâm thơ liền một đêm thâu. Với Nguyên Ngọc, tôi có những kỷ niệm khó quên; hồi 1964 tôi vào căn cứ Liên Khu 5, anh ở Ban Văn Nghệ, cùng Thu Bồn, Liên Nam đi làm rẫy trong vùng rừng Đỗ Xá (Tây Quảng Ngãi). Thu Bồn vác súng đi bắn rộc (loại khỉ nhỏ) về nấu cháo rồi chúng tôi kể chuyện trong Nam, ngoài Bắc, chuyện vùng địch hậu Điện Ngọc, Điện Bàn... suốt cả đêm. Nguyên Ngọc người nhỏ bé, trán cao, thông minh, nói rất ít mà nghĩ rất sâu.



Hồi tôi ở báo Quân Đội Nhân Dàn (từ 1965 tới 1982) thường gặp anh em văn nghệ sĩ làm việc tại tòa soạn tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Hai tờ báo cùng chung một bếp tập thể, chung một khu nhà ở tập thể, anh em thường ngày chơi bóng chuyền, bóng bàn, đánh bi- a, đánh tu- lơ- khơ với nhau. Nghe nói chuyện thời sự, học chính trị cũng đều học chung. Hồ Phương hóm hỉnh, hay tủm tỉm cười. Nguyễn Khải rất thông minh, hơi ranh mãnh nữa, xọm hẳn người đi khi con trai anh bị chết đuối ngoài sông Hồng. Hữu Mai thì đạo mạo, cẩn thận, hay hốt hoảng khi nghe trên nhận xét, phê bình; anh chuyên viết cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nghe Đại lượng kể rồi viết lại, thêm thắt ít nhiều, về Điện Biên Phủ, về chiến sự xuân 1975, về "những năm tháng không thể nào quên. Xuân Thiều hói trán, hay đỏ mặt, lại hay nghịch ngầm trong các lớp học. Lớp trẻ hơn có Đỗ Chu từ lính pháo, viết rất khá, sau về Bắc Ninh ở ẩn để viết tiểu thuyết. Vùng anh ở có rượu lúa nếp nổi tiếng, khi về Hà nội thường mang vài chai cho bạn bè. Lê Lựu học vấn ít nhưng thông minh, trí nhớ tốt; những cuốn sách anh viết khi đi Mỹ về có chỗ cường điệu; đó là điều dễ hiểu vì là những lần đầu anh được xuất ngoại, tiếp xúc với thế giới bên ngoài... Anh Ngọc làm thơ rất khá, cuốn Sông Mê Công Bốn Mặt của anh có đoạn nhắc đến sự tàn bạo mất hết tính người trong cải cách ruộng đất, sau khi suy tưởng về tội giết người man rợ của bọn quỷ Khơ- me đỏ.


Tôi từng vài lần gặp Phạm Thị Hoài. Có lần Hoài đến dự cuộc họp cộng tác viên của báo Nhân Dân Chủ Nhật. Hoài ít nói mà suy nghĩ rất sâu. Cô giỏi tiếng Đức, biết tiếng Anh và Pháp, rất chịu đọc các lác phẩm văn học phương Tây. Cô ít nói trực tiếp đến chính trị, nhưng luôn hiểu rằng chính trị gắn chặt với sáng tác văn học. Cô mới chừng 35 tuổi mà tư duy đã rất chín, vững vàng trong. nhận định và tìm tòi. Hãy nghe Phạm Thị Hoài nói về nền văn học nước ta: "Truyền thống lớn nhất của văn học Việt nam là truyền thống bị công cụ hóa, tới mức nó không thể hình dung nổi một chức năng nào khác ngoại chức năng công cụ, và tinh thần thẩm mỹ thống trị nó là tinh thần phục vụ chứ không phải tinh thần dẫn đường, lấy ý thức tận tụy, nhiệt tình chứ không phải y thức sáng tạo, phiêu lưu, là cảm khái và nhiệt huyết chứ không phải là trí tuệ khách quan, là sự trịnh trọng cứng đờ chứ không phải tiếng cười..." Cô mạnh dạn khẳng định: "ở Việt nam, không phải tôn giáo, mà văn học luận đề mới chính là thuốc phiện của nhân dân." Sâu sắc, già dặn bao nhiêu, ở cô gái trẻ bề ngoài dịu hiền này! Những văn nghệ sĩ từng đi hàng đầu trong phong trào đòi tự do sáng tạo như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán... Về sau, họ bị chỉnh huấn, kìm cặp gắt gao nên thường viết theo công thức, cốt truyện nhàm, văn sáo. Từ khi bắt đầu đổi mới vào năm 1986 mới dần đà có tác phạm đáng nói. Để quản các nhà văn đã có các ông quan văn nghệ đủ cỡ. ở cấp tỉnh, có người như Ma Văn Kháng, Chu Văn. Họ vừa viết và có cuốn sách đọc được, lại vừa quản lý anh chị em văn nghệ sĩ khác, hạn chế tự do của họ. ở Hà nội có Tô Hoài, Chủ tịch Hội Văn Nghệ Thủ Đô. Anh viết tốt, viết khỏe, thường có những chuyến đi xa cùng Nguyễn Tuân, nhưng cũng chính anh phải truyền đạt mọi ý kiến của lãnh đạo chỉ trích người này, đe nẹt người khác, khi lãnh đạo cho rằng họ đã đi trệch khỏi phương hướng của đảng. Đó là "Cụ Chánh khảo" - nhà thơ Chính Hữu - khá nổi tiếng về các bài thơ Tòng Quân, Đầu Súng Trăng Treo, vài năm mới có một bài, vì bận làm quan, làm Trưởng phòng Văn nghệ Quân Đội rồi đại tá Phó cục trưởng Tuyên huấn chuyên phụ trách về văn nghệ trong quân đội. Các quan to văn nghệ thì có Nguyễn Đình Thi gần 30 năm làm Tổng thư ký Hội nhà văn. Khi sáng tác, anh giành quyền tự do cho mình. Khi là lãnh đạo anh phải vâng dạ các vị ở Ban văn hóa văn nghệ trung ương đảng, Ban tuyên huấn trung ương đảng để uốn nắn những điều họ cho là lệch lạc. ở Nguyễn Đình Thi do đó có hai con người. Một nghệ sĩ tài hoa cả về văn, thơ, họa, kịch, nhạc và một con người của cơ chế. Anh có thể nói với bạn thân của mình: hôm nay phải lên nghe cụ Lành (chỉ ông Tố Hữu) giảng đạo, và khi lên nghe những buổi giảng đạo ấy, anh luôn phát biểu: vâng, dạ, phải, thưa anh nhận xét rất chí lý ạ, quả đúng thế, tôi xin nhận phần khuyết điểm để về đấu tranh và uốn nắn kịp thời ạ... Trần Bạch Đãng cũng là một ông quan như thế. Ông có nhiều tài. Viết báo, viết sách, làm thơ, viết kịch bản phim, bình luận thời sự, bình luận chính trị, bình luận quốc tế... Ông có vẻ am hiểu đủ linh vực. Ông từng hoạt động trong ngành an ninh, rồi làm công tác trí thức vận, từng là Bí thư đảng bộ Sài Gòn- Chợ Lớn. ở ông luôn có hai con người. Một con người của đổi mới, của kiến thức và nhận định mới mẻ, có lúc đòi dân chủ khá mạnh, đòi đảng phải nhận rõ những sai lầm trong quá khứ... Và một con người hoàn toàn khác hẳn, bảo thủ, giáo điều, chủ trương rằng muốn phát triển cần đề cao kỷ luật và tập trung, gác lại yêu cầu dân chủ... Tất nhiên một con người có thể có ý kiến thế này, về sau lại có ý kiến thế khác. Nhưng ở Trần Bạch Đằng nổi lên nhân cách của một con người cơ hội tiêu biểu. Nó hoàn toàn trái với thái độ của kẻ sỹ. Tôi đã gặp ông nhiều lần ở Đại hội nhà văn cuối năm 1989. Anh em văn nghệ sĩ trẻ, ham đổi mới lắc đầu về Trần Bạch Đằng; ông không bao giờ hiểu họ. Những bài viết của ông dần dần nhạt nhẽo, đuối lý, lẩm cẩm. Đã vậy, ông bao sân rất ghê, mỗi dịp Tết, ông viết cho hơn mười tờ báo? Có thể nói ông đã không theo kịp sự chuyển biến và yêu cầu chuyển động của đất nước. Anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn còn chê trách ông quá vụ lợi đi Hồng Ông, Đài Loan, mang về một số băng video, ông cho thuê từng buổi độc quyền các băng ấy để bỏ túi, tiền không kể xiết.

Chính Xuân Tùng từng là trợ lý Tổng bí thư đã nói với tôi rằng: Trần Bạch Đằng chưa từng bao giờ là cố vấn cho Tổng bí thư cả? ông Nguyễn Văn Linh thỉnh thoảng hỏi ý kiến ông ta như hỏi ý kiến một số cán bộ khác thôi. Ông Linh có nhiều thành kiến với Trần Bạch Đằng: tự do, vô tổ chức trong việc thương lượng với đối phương về trao đổi người bị bắt của hai bên hồi sau Tết Mậu Thân; ông ngấp nghé vào Trung ương nhưng không được bầu đi Đại hội đảng và không được cử ra ứng cử. Đến Đại hội 6, ông hy vọng được trên chú ý, nhưng ông vẫn trượt. Chuyện Bạch Đằng là "Bật Đèn", là đổi mới, chỉ là chuyện tự tô vẽ kiểu tuyên truyền; ông không còn có cái tư duy xanh tươi, khỏe khoắn, ông đã già cỗi đi rất rõ và đang lùi vào quá khứ, để lại hình ảnh của một ông quan văn nghệ múa may rất nhiều lại quá nghèo về thực chất.
MẢNG TƯỜNG ĐEN VÀ CHIẾC ÁO CẤT BÔNG SỜN

Trước khi sang Pháp tháng 9 năm 1990, tôi vô tình gặp anh Tạ Đình Đề ở ngay cổng báo Nhân Dân. Tôi rủ anh đi uống nước. Chuyện anh kể kéo đài hàng mấy giờ. Chúng tôi quen nhau khi anh là chỉ huy biệt động đội thành phố Hà nội. Anh xuất quỉ nhập thần. Quân anh thường ở vùng Vân Đình quê tôi, coi đó là một căn cứ xuất phát. Tuấn Sơn, tay Trung đoàn trưởng rất trẻ, bạn chúng tôi, có lúc định lấy cô em họ tôi, về sau Tuấn Sơn bị chết trận trên đường số 6. Chúng tôi nhắc chuyện cũ, rồi đến chuyện anh. Anh chuyển ngành từ sau Điện Biên Phủ, làm Trưởng ban Thể dục Thể thao ngành đường sắt. Anh bị bắt, bị giam, ở tù trong Hỏa Lò. Phiên tòa xử anh cách đây đến 8 năm không lên án nổi anh. ( Chú thích: Bùi Tín nhầm, phiên toà xử Tạ Đình đề vào tháng 10- 1976, khi ấy Hoàng Văn Hoan còn là phó chủ tịch quốc hội phụ trách công việc của toà án, ngồi ở tầng trên theo dõi vụ án này. Chánh án xử vụ Tạ Đình Đề vốn không ưa các tay công an ép cung nên mới vờ hỏi những câu ngớ ngẩn để qua đó tìm cách gỡ cho Đề. Đến hồi kết, chánh án xin ý kiến Hoan, nhờ Hoan nói câu nổi tiếng: Có tội thì xử theo tội, không có tội thì mạnh dạn tha bổng mà Đề thoát nạn.. Đó là phiên tòa đông kín người xung quanh tòa án Hà nội. Chánh án hỏi: "Ai kết nạp anh vào đảng?" Trả lời: "Chủ tịch Hồ Chí Minh." Anh vốn là lính bảo vệ ông Hồ hồi ở Hoa Nam. Tòa án chất vấn: "Sao anh tuyển vào xí nghiệp cầu lông và vợt ping- pong xuất khẩu toàn những kẻ bị tiền án tiền sự." Trả lời: "Họ ở tù ra muốn trở thành công dân lương thiện; tôi dùng họ vì thương họ, tin họ, luyện họ thành người tốt, đó là tội ư? Các ông muốn họ cứ lêu lổng để phạm tội ư?" Vỗ tay vang dội mỗi vân anh trả lời. Lắc đầu, xuỵt, ê của quần chúng sau mỗi câu hỏi vớ vẩn của chánh án. "Anh nhận tội tham nhũng, có đúng không?" Trả lời: "Tôi nhận qua loa vì bị sức ép của người lấy khẩu cung; họ không cho tôi ăn, không cho tôi uống, không cho tôi ngủ, tôi đành nhận bừa để sống, để ra đây phản cung, tự bênh vực tôi. Tôi không bỏ túi riêng một đồng nào.". Tòa án đã định kết án anh năm năm tù, lại phải đình. ít lâu sau anh được ra tù. Người ta động viên anh: thôi, được ra tự do là may rồi, thông cảm với đảng! Anh không chịu. Anh mất danh dự, ai bồi thường cho anh? Anh bị tù oan hàng năm trời, có ai xin lỗi, đền bù cho anh? Cái tai tiếng khủng khiếp: bị tù, bị nằm Hỏa lò, tội tham nhũng, đã có báo nào cải chính? Một người có thành tích trong kháng chiến như vậy, vào đảng trước cả chánh án, bị tước quyền công dân, tước đảng tịch, bị chụp mũ, bôi đen, khi ra tù rồi vẫn còn bị hăm dọa: Coi chừng! Lôi thôi thì lại vào nhà đá! Phải biết điều!



Anh cho tôi biết anh không chịu khuất phục cường quyền. Anh đã kiện lại ông nhà nước. Họ sai thì phải sửa, phải sửa theo luật pháp chứ! Sức khỏe anh mất đến 40 phần trăm. Danh dự, tài sản, chức vụ, mất sạch. Anh gửi hàng chục lá đơn, đến mọi cửa. Từ tòa án, Viện Kiểm sát Tối cao, đến Tổng bí thư, Thanh tra chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng... Tất cả đều im re! Chỉ hai nơi gửi lại một cái vé con: đã nhận đơn, chờ xét. Chờ mòi cổ, dài cả cổ vẫn im lặng!



Thân phận một con người! Anh hiểu: cái cơ chế này nó là một bộ máy không hồn, không thần kinh, không tim gan và trí tuệ. Nó lặng lẽ, không thương tiếc, nghiền nát hêí mọi trở ngại trên đường đi của nó. Anh kể những thủ đoạn lấy khẩu cung của cơ quan an ninh. Tùy tiện, thâm độc, hèn hạ. Làm cho ý chí con người bị lung lay, không còn tỉnh táo, để họ mớm cung và buộc nhận tội. Khi không kết tội nổi anh, buộc phải thả anh về, họ vẫn còn giở trò:


- Này! Viết đơn xin ra tù để trên xét.

- Sao lại vậy, thưa các quan. Tôi có viết đơn xin vào ngồi đây đâu mà lại phải xin ra? Tôi không viết, tùy các quan!

Vẫn cái kiểu nói năng rất "lếu láo" kiểu Tạ Đình Đề. Xe com- mãng- ca chở anh từ Tuyên Quang về đến Hà nội qua đường Nguyễn Du, rẽ vào đường Trần Bình Trọng, trụ sở Bộ Công An, rồi dừng lại. Anh đang lo phải khập khiễng về nhà thì bỗng mấy tiếng la lớn:

- Bố Tạ Đình Đề phải không? Trời? Đúng! Bố Đề về đây rồi chúng mày ơi! Thủ trưởng chúng mình về đây rồi?

Mấy anh xe xích lô trẻ ôm lấy anh, hôn lên bộ râu quai nón lởm chởm cứng quèo của anh mà hét lên, mặc cho mấy tay công an ngơ ngác đứng nhìn. Mấy anh xích lô vốn là công nhân xí nghiệp làm vợt ping- pong và vợt câu lông của Tổng Cục Đường Sắt do anh phụ trách. Anh em mời anh đi làm một chầu bia, rồi mời anh lên xích lô, cười ròn rã:

- Bố ơi, từ nay đi đâu bố cứ gọi chúng con nhé!

Hôm gặp ấy, chúng tôi nhắc đến số anh em văn nghệ sĩ, hơn 60 người, bị xử trí oan trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Bốn anh vừa được "cho phép sinh hoạt trở lại ở Hội Nhà Văn". Vẫn là kiểu trịch thượng, ban ơn. Tôi đã gặp Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt... ở Đại hội nhà văn cuối năm 1989. Hoàng Cầm thường ghé tôi chơi, còn nhận họ hàng vì bà nội anh vốn lấy người họ Bùi làng Liên Bạt. Nếu bình thường thì các anh ấy không thể hài lòng vc cách xử xử của đảng và nhà nước. Trước chuyển biến mới ở Đông Âu, lo sợ sự căm giận của nhân dân, họ buộc phải có chính sách cởi mở một chút, đâu phải là thật lòng, đâu phải là thực hiện công bằng với những người bị án oan. Các anh bị mất không biết bao nhiêu điều vô giá, bị chụp mũ, lăng mạ, bị mất việc, mất lương, bị chửi bới thậm tệ, vợ con bị liên lụy, thế mà nay chỉ có "được trở lại sinh hoạt ở Hội Nhà Văn" và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm vẫn được giải thích chính thức là: không điều gì phải xem lại cả! (Qua nhận định của Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tư tưởng và Văn hóa tháng 2 năm 1990).

Bàn chuyện này, Tạ Đình Đề nhận xét: .

- Ông ạ, ở ta, không có luật, kiện là kiện củ khoai à?

- Với lại ông không bị lù, ông không biết! Khủng khiếp lắm. Mình nghĩ lại còn rùng mình. Mình là cái thằng lang bạt kỳ hồ, nếm đủ mùi, liều lĩnh, bạt mạng mà còn khiếp thì hỏi thằng nào còn dám chống lại họ. Họ là công an, là mật vụ, theo gương Gestapo,theo gương KGB Nga, và lecole stalinienne (theo trường phái Stalin). Đó là thời kỳ Beria? sau Odjonokidze, nghĩa là tàn ác, tai quái, ma giáo hơn vài bực. Còn ghê hơn cả thằng Gestapo Đức. Ông thử hỏi mấy cậu ấy, bảo kể lại, viết lại thời kỳ bị bắt, bị tra hỏi, bị cật vấn, bị o ép, mớm cung, bị khống chế, bị chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc... Có ai dám kể lại đâu! Nó nặng nề đến kinh khủng. Có lúc nó đè nặng ngay lên lương tâm mình!

- Khi ra tù, họ có cách khóa mồm các vị, và họ giữ chìa khóa. Tài nghệ họ siêu đến vậy đó.

Chuyện chẳng khác gì thời Stalin. Cùng trong Bộ chỉ huy khởi nghĩa cách mạng tháng mười, vậy mà sau khi Lênin chết, Stalin đày Trotsky đi Alma Ata (rồi Trosky buộc phải xuất ngoại nếu không sẽ bị Stalin lấy đầu, để rồi sau vẫn bị Stalin cho người sang tận Mexico để ám sát vào năm 1940). Còn bốn vị còn lại của Bộ chỉ huy khởi nghĩa ấy là Bukharine, Zinoviev, Kamenev và Ri- cốp đều bị xử bắn bởi Stalin vì tội phản nghịch. Điều siêu phàm của KGB là 4 vị này trước khi chết đều "tự" nhận tội là có ý định ám sát đồng chí Stalin vĩ đại và hô: "Stalin muôn năm!" Có nghĩa là đến khi không còn gì để mất nữa, cuộc đời sắp kết liêu rồi, vẫn xin lỗi, ca tụng... chính tên đồ tể của mình! Mà đó lại là những nhân vật cách mạng kiên cường nhất, những trí thức cỡ lớn, có trình độ trí thức cao hơn Stalin đến mấy cái đầu!

Đó là khoa học của KGB trong việc khống chế, làm bấy nát nghị lực, làm hủy diệt nhân tính, làm mất lòng tự tin và niềm tin ở lẽ phải con người, làm cho đối tượng có mặc cảm sâu nặng về tội lỗi, về sự phản trắc, về sự phản bội bạn bè mình. Và họ giữ những lời khai, lời phát biểu trên giấy tờ, trên phim ảnh, trong ghi âm làm bằng chứng. Con người kiên cường đến mấy cũng phải có một giây yếu mềm, trong những điều kiện đặc biệt. Con người trung thành với lý tưởng, với bạn bè mình cách mấy cũng phải có một phút lầm lạc do bị nài ép, dụ dỗ hay đe dọa nặng nề. Họ sẽ chộp lấy giây ấy, phút ấy để khống chế cả cuộc đời anh, nói đạo lý với anh, đưa cách mạng và nhân dân ra để dụ dỗ anh, để anh "trở về với chính nghĩa, dân tộc", để anh tự phủ định lý tưởng thật sự cao đẹp của anh, để anh tự sỉ vả, nguyền rủa anh. Anh tự phản bội cái lý tưởng thật của anh, nhưng sĩ diện vẫn được ve vuốt là trở về với chính nghĩa. Anh sẽ được họ tán tụng, ở trên mây xanh. Khi tỉnh ra thì ôi thôi, chuyện đã rồi, tay đã nhúng chàm. Anh luôn luôn mặc cảm tội lỗi ở cả phía này và phía khác. Có khi anh không hiểu chính mình là ai, ra sao nữa. Anh đã bị phân tâm ra thành từng mảnh, từng mảng rồi.

Giống hệt như một số trí thức Nga bị gán cho là bị bệnh tâm thần để bị giam ở bệnh viện tâm thần gần Gorki, ngoại ô Moscou, sau khi bị thẩm vấn, ở tù, nhiều anh em khi trở về từ nơi bị giam giữ thường giật mình hốt hoảng; có khi nửa đêm thức dậy hoảng hốt nghĩ: mình vẫn còn bị giam chăng? Hay đã được tự do? Phải mấy phút hãi hùng mới lấy lại được tâm trí và biết rõ mình đang ở nơi nào, đang làm gì, thời gian này là thời gian nào, địa điểm này là địa điểm nào. Đó là trường hợp Trần Dần sau nhiều năm bị thẩm vấn, bị kết tội, bị mất tự do, trở về ngôi nhà nhỏ phố Khâm Thiêm. Anh cứ ngày đêm ngồi thừ một chỗ; chỉ mặc một chiếc áo cốt bông của bộ đội màu dưa đã bạc, chỉ đã sờn, chiếc quần nâu cũng bạc, đưa vào tường đến vàng bóng cả khoảng tường trắng, cả mảng tường trên đen kịt vì khói thuốc lào; đôi mắt thờ thẫn... Ngày này qua ngày khác, hết ngày dài lại đêm thâu, cái đầu trẻ trung, sáng tạo, xuất sắc ấy nghĩ gì? Uất hận? Cay đắng? Buồn tủi cho thân phận? Anh nghĩ đến quá khứ, đến hiện tại, đến tương lai? Anh dự tính điều gì? Những điều anh nói hồi ấy, trong bài thơ Ta Nhất Định Thắng có gì là phản động, là phản bội, so với những bài thơ, bài báo nhan nhản hiện nay? Anh chỉ có cái "tội" đi trước, nói trước những điều đến nay người ta mới dám nói. Anh đúng hơn, anh dũng cảm hơn, anh bén nhậy hơn người khác chứ! Vậy mà là tội ư? Cái giá phải trả thật kinh hoàng! Có ai muốn công bằng cho anh. Để bây giờ anh ốm, già nua, nói trước quên sau như bây giờ! ở cổ anh bây giờ vẫn còn vết sẹo nhỏ, anh tự vân bằng một nhát dao, nhưng anh vẫn còn nợ với đời, chưa ra đi được Tôi còn nhớ hồi chống nhóm Nhân văn giai Phẩm, mấy câu thơ bị lên án nhất là:

Tôi bước đi

Không thấy phố

Không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

Trên màu cờ đỏ...

Người ta bảo, cờ đỏ là màu cờ đất nước, là cờ đảng thì chỉ được tả trong nắng, trong gió thôi! Nắng chói và gió lộng.

Và ở dưới còn có câu:

Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người?

Người vẫn thường hoảng hốt trước tương lai?

Mấy câu này bị phê rất mạnh vì Người sao lại viết hoa

Người viết hoa thì chỉ có thể là chủ tịch Hồ Chí Minh. Tội này là tội tày đình! Khi bị giam giữ, anh đã bị cật vấn dữ dội về bài thơ này, và đặc biệt là mấy câu thơ trên đây.

Sau đổi mới ít lâu, hồi 1986, bỗng một người bạn đến nhà Trần Dần. Lâu lắm rồi, nhà anh mới có khách. Anh bạn tốt vừa kiếm cho anh một việc làm ở hiệu sách, xếp các trang in lại để đóng. Công việc không nặng nhọc, có chút tiền, trong cơn túng quẫn cùng cực. Anh phấn chấn. Ra khỏi được cái ghế đã nhẵn thín, trút chiếc áo bằng cốt bông bộ đội sặc mùi thuốc lào, ra khỏi mảng tường đen kịt ám khói thuốc, anh cạo râu ria. Lên đường kiếm việc. Chẳng may hôm ấy vẫn còn đen? Đã có người khác nhận công việc ấy. Thân phận một con người... Đến năm 1989, anh mới vui một chút ít, khi đến hội trường Ba Đình, dự Đại hội Nhà Văn, được nghe một lời xin lỗi chân tình của một nhà viết kịch và đóng kịch già Bửu Tiến của xứ Huế.

Cũng giống như Lê Đạt. Lê Đạt bị kết án về bài thơ Ông bình vôi":

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại...

Anh ám chỉ ai đây? Ai là người nhiều tuổi trong lãnh đạo? Ai là người hay được chúc sống lâu trăm tuổi, sống muôn năm? Lại tội phạm thượng tày đình!

Sau một thời gian dài mất tự do, không được viết, hầu như bị bạn bè xa lánh hết, Lê Đạt trở về ngôi nhà nhỏ. cùng bà mẹ anh ở phố Lãn Ông làm nghề mua bán giấy cũ, mua hộp cạc tông cũ về cắt, xén, tạm sống trong túng bấn và cơ cực cơ cực cả vật chất và tinh thần, phần thưởng cho một tấm lòng, một tài năng ít giống ai...
NỖI SỢ THUYÊN GIẢM

Nỗi sợ như một căn bệnh. Vì con người đối mặt với một cơ chế dù cho can trường đi mấy vẫn chỉ là một con người. Mà cơ chế là một cỗ xe nghiền lạnh lùng, không thương tiếc. Nỗi sợ như một căn bệnh truyền kiếp, lây lan. Sợ là phản ứng tự vệ, là bản năng sinh tòn trước tai họa hủy diệt. Thêm nữa nỗi sợ là căn bệnh chung, nên ít ai sĩ diện, xấu hổ vì sợ cả. Vì ai cũng ít nhiều biết sợ để sống, để tồn tại, và có người còn nghĩ là để rồi đấu tranh, nên không ai cảm thấy mình hèn mọn vì sợ. Thông cảm cho nhau, thân phận một thời, cá nằm trên thớt mà. Và an ủi một chút: tránh voi chẳng xấu mặt nào. Nếu không voi dữ xông và chà cho đến chết, thế là uổng mạng; từ khi thế cục xoay vần, Liên xô đổ sập, nỗi sợ đã bớt, bệnh sợ có thuyên giảm.



Cụ Nguyễn Mạnh Tường khi sang Pháp hồi 1990 đã ngay thật kể lại tất cả nỗi khổ ải trải qua thời Nhân Văn Giai Phẩm, nhất là sau sửa sai, khi cụ nói chuyện ở Mặt trận Tổ quốc ngày 30- 10- 1956 về tình hình coi thường luật pháp, đảng chuyên quyền làm bậy ở miền Bắc. Cụ bị đưa ra trường đại học, cho sinh viên đấu tố theo sự chỉ đạo của Bí thư đảng ủy trường đại học. Hồi đó cụ cũng vẫn còn chút "sợ", chưa muốn kể thật kỹ, thật rõ. Về nước, cụ nghĩ lại, tình hình trong nước và thế giới chuyển biến có lợi cho dân chủ. Đảng cộng sản buộc phái nhượng bộ một số bước, nới lỏng cả về kinh tế và phần nào về chính trị. Cụ quyết định: gửi bản thảo cuốn Người Bị Khai Trừ sang Pháp. Cụ viết bằng tiếng Pháp: Lexcommunié và cho phép dịch ra tiếng Việt để xuất bản cả hai. Nay sách của cụ đã xuất bản. Một số bạn đọc trong nước đã được đọc. Cụ nói: Tôi đã 84 tuổi rồi (cụ sinh 1909), chẳng có gì để mất nữa.



Có những người không chờ cho đến 80 tuổi, để không có gì để mất, đó là nhà văn Dương Thu Hương, gan dạ, không biết sợ từ tuổi chưa đến 40. Chị nói thẳng những điều mình nghĩ, không gượng nhẹ chút nào. Chị là nhà văn ngồi bệt xuống cỏ với dân đen, với vô vàn phó thường dân mà chị nhận là người phát ngôn của họ. Chị nói lớn là chẳng tín nhiệm ai trong Bộ chính trị Đảng cộng sản, chẳng ai có đủ tài năng và đức độ để chị gửi lòng tin. Chị phê phán chế độ độc đoán ở Bình Nhưỡng và La Havana. Nơi thì thực hiện chế độ phong kiến cha truyền con nối, nơi thì trị vì từ 1959, hơn 30 năm, tham quyền cố vị, xây dựng quyền thế trên sự sùng bái cá nhân tệ hại. Chị phải trả giá bằng 7 tháng 10 ngày mất tự do. Ra tù, chị vẫn vững vàng tuy mệt mỏi. Chị nói với nhà sử học Damel Hemery tháng Giêng 1993 vừa rồi rằng chị vẫn bị theo dõi chặt chẽ. Chị có thể bị họ bắt lại bất cứ lúc nào, chị lo rằng cuốn phim với đề tài: một người phụ nữ qua 3 đời chồng vẫn không tìm ra hạnh phúc, biểu hiện số phận của dân tộc ta qua ba thời kỳ đấu tranh, đang vấp phải những khó khăn khó vượt qua. Nỗi lo nữa của chị là chị cảm thảy cô độc. Đó là nỗi buồn day dứt của chị. Tôi mong rằng đó là một cảm giác lầm lẫn của chị. Qua thư từ bạn bè của tôi từ trong nước, ai cũng tỏ ra ca ngợi, quý mến lòng dũng cảm của chị. Chị không cô độc, vì ngày càng có nhiều người gia nhập hàng ngũ những người dũng cảm của chị phụ nữ còn dám lên tiếng, nói thẳng, nói mạnh đến thế huống hồ các đấng năm nhi. Tết vừa rồi, hàng chục sinh viên cũ đã đến nhà Cụ Nguyễn Mạnh Tường và Cụ Trương Tửu, các giáo sư cũ của mình. Tất cả là trí thức, nhà văn, giáo sư, có người là Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Đại Học và Đào Tạo. Giáo sư Trương Tửu bị án tù hồi 1957 cùng với Thứ trưởng Nguyễn Hữu Đang trong vụ Nhân văn Giai Phẩm. Sau khi ra tù ông Trương Tửu sinh sống bằng nghề châm cứu ở phố hàng Bông. Nay ông lặng lẽ được xã hội, dư luận, sinh viên phục hồi danh dự. Ông được chút lương hưu còm. Nhà trí thức một thời được coi là uyên hác cầm đầu nhóm Hàn Thuyên với những loạt sách giới thiệu chủ nghĩa duy vật biện chứng kiểu phổ thông ký tên Nguyễn Bách Khoa, đã vào tuổi 80, hơn 30 năm ôm hận.


Cả đất nước bị thiệt thòi. Nền giáo dục bị thiệt thòi. Kiến thức của sinh viên bị thiệt thòi. Tết Quý Dậu vừa qua, ông tâm sự với sinh viên cũ của mình về nhân tính, về tình người trong ứng xử. Ông nói về sự sụp đổ của Liên xô, của chủ nghĩa xã hội hiện thực, ông nói lên điều ông nghĩ, chẳng còn biết sợ bất cứ ai, cả cái cỗ xe cơ chế, người tri thức lão thành này cũng chẳng còn có gì để mà sợ, mà hãi nữa cả? Ông vẫn khẳng định đòi hỏi hồi nào, trả văn nghệ về cho các văn nghệ. Tuổi trẻ hồi đó còn nhớ mãi câu nói trứ danh: "Tôi yêu đảng, nhưng yêu sự thật hơn." Ông bị kết án là phản động, vì đảng dạy phải đặt đảng trên sự thật? Nay ông cho rằng, vế thứ nhất của câu ấy không còn đúng, nhưng vế thứ hai thì không thể bỏ được.

Ngày càng có thêm bằng chứng là nhà văn can đảm Dương Thu Hương không cô độc. Tin từ Hà nội, nhà văn Phùng Quán đã gửi đơn cho Tòa án Tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao đòi ông nhà nước phải đền bù cho anh chị em bị kết án oan trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cụ thể là tính mỗi năm không được sáng tác, không được viết sách, bị thiệt thòi ít nhất là 1 triệu đồng hiện tại. Vậy mỗi người phải được đền ít nhất là 15 triệu... Ông nhà nước không trả lời. Thường vụ Hội nhà văn cố dàn xếp, ỉm chuyện này đi. Luật dân sự nước ta chưa có khoản bồi thường danh dự bằng tiền. Nếu như ở Pháp, theo luật hiện hành, một số luật sư cho rằng môi nhà văn bị xúc phạm nặng nề phải được đính chính trên mặt báo (bị lên án ở báo nào, ra sao thì phải được đính chính ở trên báo đó), và phải được bồi thường danh dự từ nửa triệu đến 5 triệu Phờ- răng Pháp, chưa nói nếu bị mất tự do một cách oan ức thì mỗi tháng bị tù, bị giam giữ sẽ được đền bù ít nhất là 20.000 phăng một tháng. Nhà văn càng lớn, giáo sư có uy tín, tài năng cao thì đền bù càng lớn hơn (xin nhớ nửa triệu phrãng là bằng 250 lạng vàng và 20 000 phrăng là bằng 10 lạng vàng, theo thời giá hiện nay).

Theo luật pháp, không thể có chuyện xí xóa, thông cảm, bỏ qua kiểu cao thượng. Lúc họ xử xử độc ác với các nhà trí thức và nhà văn, họ có tỏ ra cao thượng đâu! Phải công bằng như vậy, mới răn đe được những kẻ làm càn, để chuyện tương tự không thể lại xảy rai
ĐIỀU KHÁC TRƯỚC: KHÔNG CÒN TỆ ĐÁNH HÔI

Một anh trí thức Việt kiều phân vân hỏi tôi, "Tôi rất băn khoăn về thái độ của anh chị em trí thức ở bên nhà. Họ đâu cả rồi Dạo nữ văn sĩ Dương Thu Hương bị bắt, bọn tôi liền làm ngay bản kiến nghị gửi chính quyền ở Hà nội, chỉ một tháng được hơn 800 chữ ký, về sau lấy thêm được tới gần hai ngàn, họ là những nhà khoa học, luật sư, nhà báo, nhà kinh doanh... người Việt, người Pháp. Xem báo Hà nội, chưa thấy có một bài nào lên tiếng bênh vực cô ta, trong nước chưa thấy một bản kiến nghị nào! Vì sao vậy? Mà trí thức ta đâu có hèn phải không anh? Trong nước có vẻ êm ru? Tôi không làm sao hiểu nổi!"



Tôi đọc trên tập san Hợp Lưu số 9, bài "Dân Tộc Chúng Tôi Có Đâu Là Thảo Mộc" của Phan Tấn Hải (trang 45) có đoạn viết: "Chúng ta ngạc nhiên và đau xót vì thái độ "im lặng có vẻ quy thuận" của nhiều nhà văn trong nước giữa khi một số người khác đang bị truy bức như Dương Thu Hương, Đoàn Viết Hoạt. Sự im lặng này dường như mang nhiều vẻ tội lỗi của hành động đồng lõa với nhà nước... Nhưng, hãy tự hỏi trường hợp chúng ta đang ở trong nước, thật sự chúng ta có thể làm gì khi đối diện với cả guồng máy điên dại kia! Khi ông Ngô Đình Diệm giết Nguyễn Phan Châu, bức bách Nhất Linh tới phải tự tử, thì các ông Mai Thảo, Võ Phiến đã làm gì?"



Thật ra, sự lý giải như trên chưa thật thấu đáo. Phải ở trong cuộc mới biết hết mọi nhẽ. Như dạo "đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm" do chính quyền, do Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng, thực tế là đo ông trùm văn hóa Tố Hữu giật dây, có một sức ép lớn yêu cầu mọi nhà văn đều phải vào cuộc Không một ai có thể đứng ngoài, hoặc được phép đứng ngoài. Phải tỏ thái độ rõ ràng: theo đảng hay theo bọn xấu, bọn hư bỏng, bọn phản động ấy! Không được đứng giữa, vô tư không có thái độ. Không có thái độ cũng bị xem là chống đảng, "nối giáo cho giặc", là ngầm ủng hộ bọn xấu. Phát biểu trong học tập, chỉnh huấn chưa đủ, phải viết bài đăng trên báo, ký tên rõ ràng. Nhất là những nhà văn có chút tên tuổi là phải viết bài tỏ rõ thái độ, đăng trên báo Văn, báo Văn Học, và đặc biệt là trên báo Nhân Dân. Về sau, cách đánh ấy, được gọi là "đánh ép", "đánh hôi", "đánh đòn hội chợ", "đánh hội đồng", "đánh a đua", "đánh theo gậy chỉ huy", "đánh theo com- măng" và cả "đánh theo thời thượng". Ban Tuyên huấn và Ban Tố chức Cán bộ theo dõi sát động tác của từng người để xếp loại: ai là hăng hái nhất, ai là hăng hái vừa, ai chỉ đấu cho phải đạo, ai là còn hữu khuynh, lập trường không rõ ràng, nghiêng ngửa, ai giả dương cao tay mà chỉ đánh khẽ, lấy lệ... cho đến kẻ nào ù lỳ, im hơi lặng tiếng, được chụp mũ là ngoan cố! Cái kiểu ấy, về sau như thành nếp đối với những kẻ cơ hội. Lắp đi lắp lại, kiếu cách ấy đi vào tiềm thức, như là một bản năng, bản năng ứng xử, bản năng tự vệ. Họ lao vào kiểu đánh hôi, để giữ mình, và để được một danh hiệu: trung thành với chế độ, có lập trường vững vàng, dứt khoát. Có được danh hiệu ấy trong lý lịch, trong nhận xét hàng năm là sẽ được biết bao quyền lợi: được xem xét đế lên lương, lên bậc, để được bố nhiệm vào chức "lãnh đạo", từ tổ trưởng đến trưởng phó phòng, đền vụ trưởng, vụ phó... Đó là điểm cơ bản nhất của "hồng" trong vừa hồng, vừa chuyện. Gắn liền với lương, nhà, quyền lợi... "Chế độ" là chế độ gì? Không ai nghĩ đến chuyện phân tích cho rõ cả. Đây là chế độ chính trị, là chế độ cách mạng, là chế độ chính nghĩa, là đứng về phía nhân dân... Cực hiếm người nghĩ và nói trắng ra với bạn bè rằng đây là chế độ độc đoán, chế độ gia trưởng, chế độ không dân chủ...


"Lập trường" đây là điều đầu tiên để xem xét một cán bộ, đảng viên. Lập trường được hiểu là tin tưởng vững chắc ở đảng, đảng đồng nghĩa với cách mạng, được hiểu là thông suốt mọi chính sách, từ chính sách cải cách ruộng đất đến chính sách hợp tác hóa, cải tạo tư sản, chính sách công nghiệp hóa, lấy công nghiệp nặng làm then chốt... Hơi có tỳ vết trong sự trung thành với chế độ, trong lập trường giai cấp là bị đặt thành vấn đề nghi vấn, thành câu hỏi, thành chuyện. Một cán bộ có "vấn đề" là một cán bộ xấu cán bộ ấy thường cảm thấy xấu hổ, có tội và vợ con, bạn thân cũng cảm thấy như thế. ở một cuộc họp, Bí thư Đảng ủy hay Thủ trưởng nói đến tên một người trong đơn vị, bảo rằng anh này "có vấn đề", trên đang kiểm tra để kết luận, để xử trí, thì phản ứng đầu tiên là mọi người nhìn anh ta bằng một đôi mắt khác. Xa lánh là phản ứng đầu tiên, tức thời. Giữ một khoảng cách, thanh minh về mọi quan hệ trước đây nếu có quan hệ gần gũi, vì sợ bị tội "liên quan", bị liên lụy? Người ta không nhìn anh ta. Khi gặp thì nhìn đi nơi khác, chưa nói đến không chào hỏi, bắt tay! Tổ chức bao giờ cũng đúng. Không thể hoài nghi nhận định của tổ chức. Những người nhanh nhẩu, cố tỏ ra trung thành, sẽ vào hùa với tổ chức để xoi mói, kể tội có khi bịa đặt thêm, để tỏ ra là: có thế chứ, tổ chức sáng suốt chát! Đó là phản ứng đã thành lệ, có thể nói là hết sức phổ biến một thời. Bất kể là ở một cơ quan hành chánh, một nhà trường, một xí nghiệp, một đơn vị quân đội, đều như thế. Phản ứng của mỗi người đấu được tổ chức quan sát rất kỹ. Tai mắt của tổ chức không thiếu. Đó là cán bộ tổ chức, là các cấp ủy viên của đảng, là cán bộ óc ban kiểm tra, thanh tra, là cán bộ tuyên huấn, là cán bộ công đoàn, là cán bộ bảo vệ, là tất cả các vị "chức sắc" đều phải lo quản lý người dưới quyền của mình rất chặt. Trong đầu các vị đã sẵn ý kiến, có khi là định kiến với mỗi người dưới quyền chi phối của mình.

Mỗi vị lại có sổ tay, ghi kỹ những sự kiện liên quan đến nhân sự đến mỗi người thuộc quyền mình quản lý. Trí nhớ về đất nước, về.sự kiện thế giới, về phát minh của nước này nước khác có thể tùy tiện, có thể quên lãng, còn về từng người trong đơn vị thì họ nhớ kỹ. Trong các cuộc họp để "học nghị quyết", xin nhớ: không phải "nghiên cứu mà là "học", có nghĩa là phải thông, phải thuộc nghị quyết, còn có các phái viên chia xuống các tổ? Đó là những phái viên của Ban tổ chức, của Ban tuyên huấn, của Ban kiểm tra, của Ban thanh tra... ghi chép các ý kiến, đánh giá kết quả đối với từng người, giúp cho tổ trưởng học tập nhằm quản lý chặt mỗi cán bộ, đảng viên... Để lý lịch, nhận xét cán bộ luôn được bổ sung những nét mới nhất, cập nhật nhất!

Tất cả sự "quan tâm" của tổ chức đến phản ứng của từng người như thế dẫn đến thái độ buộc phải thích ứng của mỗi người nằm trong cơ chế: không thể cụ cựa khác được. Ví dụ như khi vụ báo Giai Phẩm Mùa Xuân bùng ra, rồi Giai Phẩm Mùa Thu, báo Nhân yđn nổ mạnh, báo chí của đảng liền chỉ mặt vạch tên những văn nghệ sĩ "chống đảng", "có nhận thức sai lầm", "có tư tưởng chống đối", "bị ảnh hưởng của địch", "rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân", sử dụng bút pháp "xỏ xiên", "lá mặt lá trái" nhằm "bôi đen chế độ" thì lần lượt các văn nghệ sĩ phải lên tiếng. Họ phải nói rõ lập trường trong lớp học 3 tuần lễ. Họ còn phải viết bài trên báo để nói công khai lập trường của mình, phải lên án rõ ràng những tên "chống đảng". Đảng se xoa đầu, ghi công, cho điểm tốt những ai nhanh nhẩu, kịp thời, có lập trường bén nhạy, vững vàng.

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận phải viết bài lên án Văn Cao, Đặng Đình Hưng. Nhà viết kịch Bửu Tiến viết bài lên án Lê Đạt, Sỹ Ngọc... Nhà phê hình Như Phong (em Hoài Thanh) viết bài rất lên gân để kết tội Hoàng Cầm, Trần Dân, Tô Hoài lên án "cả nhóm do Nguyễn Hữu Đang giật giây". Nguyễn Công Hoan phê phán Phan Khôi... Những cuộc thảo luận ở các trường đại học thành những cuộc đấu tố các giáo sư. Giáo sư Đại học Nguyễn Mạnh Tường, giáo sư Trương Tửu bị nhiều sinh viên trẻ lên án gắt gao, như là xỉ vả, chửi bới nữa. Không khí cải cách ruộng đất như được hâm lại...

Đó là cảnh đánh hôi, đánh bề hội đồng sôi nổi nhất trong làng văn, theo gậy chỉ huy của đảng. Có người sau này không còn trông thấy mặt nhau nữa. Tình bạn chấm dứt. Cay đắng. Ngậm ngùi.

Từ cảnh tượng trước kia như thế, so sánh với hiện nay, tôi có thể trả lời các bạn phân vân là anh chị em trí thức, văn nghệ sĩ hiện ở trong nước có hèn không, rằng: Không! Chớ nghĩ sai, nghĩ oan cho anh chị em ở trong nước. Họ đã khác trước. Từ 1986 đến nay đã khác. Từ cuối 1990 lại khác hơn nữa rồi.

Nếu như vào trước năm 1986, nếu vụ án Dương Thu Hương xảy ra 30 năm trước thì chỉ cần một vị trong Ban Tuyên Huấn Trung ương la lớn: "Dương Thu Hương chống Đảng!" Chưa cần đến Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thóa mạ: "Cái con ranh con ấy định làm loạn" là lập tức được ngay sự hưởng ứng của hàng vài chục văn nghệ sĩ luôn "trung thành với đảng", "có ý thức sâu sắc bảo vệ đảng", "có lập trường kiên định, nhạy bén chống mọi kẻ thù của nhân dân". Họ sẽ lập tức viết bài trên báo Văn Nghệ, nhất là trên báo Nhân Dân của đảng, mặc sức, chửi bới, thóa mạ theo kiểu đánh hôi: "Nó đây rồi? Mới nứt mắt đã có tham vọng làm Tổng Thống!", "tên cơ hội lợi dụng lúc đảng khó khăn để kiếm chác", "kẻ cá nhân chủ nghĩa, mới đi tới đường mòn Hồ Chí Minh làm thanh niên xung phong mà đã công thần", "đô vô ơn bội nghĩa, nhờ đảng nên viết lách được chút ít đã huênh hoang..." Thế rồi các văn nghệ sĩ đều lần lượt lên tiếng, thi nhau ai lên tiếng trước, lên tiếng mạnh, nếu cao lập trường và ý thức bảo vệ đảng kính yêu... Họ sẽ còn bám vào những chuyện thuộc về đời tư đức bôi đen, dèm pha, hạ uy thế với những tranh châm biếm, thơ đả kích, chuyện tiếu lâm... quyết hạ nhục đến tận bùn đen. Và cuối cùng vụ án Dương Thu Hương có thể kết thúc bằng một tòa án, với lời buộc tội: chống đảng, chống chủ nghĩa xã hội, chống nhân dân, liên quan đến địch, đến bọn phản động trong Việt kiều, bị CIA hay đơ bê (deuxième bureau - phòng nhì Pháp) mua chuộc, lôi kéo trong âm mưu lật đổ nền chuyên chính của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam... Những điều trên đây đã không xảy ra. Hãy xem lại vụ án Nhân văn Giai Phẩm kéo dài từ 1956 đến 1959 sẽ rõ. Sau 3 năm đấu tranh một chiều (chỉ đánh mà không cho đỡ, không cho cãi), vụ án văn học lớn nhất trong lịch sử Việt nam này tạm kết thúc ngày 21 tháng Giêng năm 1960 với tin giật gân có tít là: "Tòa án nhân dân Hà nội đã xử vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang- Thụy An". Dưới là: Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, mỗi tên 15 năm tù. Trần Thiếu Bảo (giám đốc nhà in Minh Đức): 10 năm tù. Nội dung xử không đưa ra một bằng chứng nào kể tội làm gián điệp, ngoài một chi tiết là hai người có quan hệ với một người Pháp tên là Maurice Durand làm việc ở Trường Viễn Đông Bác Cổ (một cơ quan văn hóa); người Pháp này được đội cho một cái mũ lớn: nhân viên tình báo của thực dân Pháp và Đế Quốc Mỹ!

Tất nhiên là phiên tòa xử kín, không có báo chí nước ngoài và trong nước dự, mọi việc đã được quyết định từ trước khi xử không có kháng án, những người bị tội chỉ có nghe tuyên án để rồi trở về Hỏa lò.

Nguyễn Hữu Đang là ai? Là một đảng viên cộng sản kỳ cựu, quê từ Thái Bình, có trình độ trí thức khá. Ông từng là Phó hội trưởng Hội Truyền bá Quốc Ngữ (Hội Trưởng là nhà học giả Nguyễn Văn Tố) những năm 1943- 1945, là một cán bộ lãnh đạo của Việt Minh từ 1941. Ông là một cán bộ chủ chốt của Hội văn hóa cứu quốc. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Thanh niên rồi Thứ trưởng Thông tin trong chính phủ Hồ Chí Minh được thành lập đầu tháng 9- 1945. Ông được ông Nguyễn Văn Tố đề cử làm Trưởng ban Tổ chức buổi lễ long trọng Tuyên Ngôn Độc Lập sáng 2- 9- 1945 ở quảng trường Ba Đình, Hà nội. Ngày 28- 8- 1945, ông Tố đã đưa ông vào gặp ông Hồ để trình bày kế hoạch buổi lễ ấy. Chính ông Hồ đã ký giấy giới thiệu ông là Trưởng ban Tổ chức buổi lễ, giấy này ông còn giữ làm kỷ niệm. Việc dựng lên đài gỗ cao ở quảng trường, đặt 8 cột gắn loa lớn cho gần một triệu người đủ nghe, việc huy động cua- rơ mô- tô nổi tiếng Võ Tấn cùng 20 xe đạp đi hộ vệ xe ô tô Peugeot đen của Chủ tịch Hồ Chí Minh... đều do Nguyễn Hữu Đang đề xuất và đôn đốc thực hiện.

Sau khi ở tù ra từ 1972, ông về quê ở Thái Bình sinh sống trong cơ cực và cô đơn. Một chiếc xe đạp lọc cọc. Cứ đến gần ngày khai trường, vị trí thức gầy ốm ấy đạp xe vài chuyến lên Hà nội đi mua những họa báo cũ thồ đến chừng nửa tạ về các vùng quê Kiến Xương, Tiền Hải, Đông Quan bán cho các em học sinh để bọc vở và bọc sách... Đó là nguồn thu nhập "đáng kể" nhất của nhà văn hóa khá nổi danh trong Hội Văn Hóa Cứu Quốc hồi Việt Minh, năm 1944 và 1945. Năm ngoái, 1992, Nguyễn Hữu Đang tròn 80 tuổi. Tình hình đã đổi khác đôi chút, bạn bè đã gom góp, tổ chức lễ, nghĩa là kín đáo, một buổi lên "đại lão", "thượng thọ" cho ông ở Hà nội, ông vẫn còn sức khỏe khá, trí nhớ tốt. Kể về ngày 2- 9- 1945, ông cho rằng chuyện ông Hồ Chí Minh đang đọc bản tuyên ngôn, ngừng lại để hỏi: "Đồng bào nghe rõ không?" chỉ là chuyện tán tụng để tuyên truyền. Đã có nhiều bài viết, bài thơ về sự chan hòa, đồng cảm giữa lãnh tụ và quần chúng trong buổi đầu gặp gỡ ấy. Thật ra, trước khi đọc bản tuyên ngôn, ông Hồ gõ gõ vào mi- crô và hỏi anh thợ điện phụ trách hệ thống loa: "Nghe rõ không?" Chỉ có thế. Nhắc lại chuyện này, ông nói rõ rằng ông không hề có ý nói xấu hay hạ thấp ông Hồ, chỉ là để cho lịch sử được viết lại chính xác không thêu dệt, bịt đặt, nâng cao người này, hạ thấp người khác theo nhu cầu tuyên truyền, một cái tệ của những nhà sử học có "lập trường vững" ở Hà nội.

Mới đây, theo tin từ Hà nội, Nguyễn Hữu Đang đã được nhà nước trả lương hưu theo bậc chuyên viên 5, trong khi Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán được lương chuyên viên bậc 3 và Phùng Cung - tác giả của truyện ngắn Con Ngựa Già của Chúa Trịnh (bị lên án là dùng biểu tượng hai mặt để sỏ những bậc đại thần của triều đại mới) cũng được lương chuyên viên bậc 1.

Vụ án lớn hơn 30 năm trước chưa thể khép lại! Nếu theo đúng luật thì cần kết luận lại toàn bộ vụ Nhân Văn Giai Phẩm dưới ánh sáng mới của tình hình. Những oan ức cần được giải bày cặn kẽ. Ai gây oan phải xin lỗi và bồi thường. Sự phục hồi danh dự trên báo chí, công luận cần rõ ràng, minh bạch, không thể xúy xóa, ù xọe được. Nhất là khi đương sự đã hơn 80 tuổi và còn sống. Không thể để họ ngậm oan khiên xuống dưới tuyền đài!
TRỐN NỢ?

Vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang" chẳng lẽ đã khép lại, xếp vào tủ kín, coi như kết thúc hoàn toàn khi nhà nước vui lòng trả lương hưu chuyên viên bậc 5? Chuyên viên bậc 5 có nghĩa là bậc Vụ trưởng. Có nghĩa là vẫn là bị hạ 2 hoặc 3 bậc so với 47 năm về trước, khi ông là Thứ trưởng, ở bậc 7 và bậc 8 chuyên viên. Các vị tổ chức cán bộ thường nghĩ rằng: thế đã là một sự đối xử tốt rồi. Từ chỗ anh bị tù, bị coi là chống đảng, là gián điệp tay sai thực dân, đế quốc, bị quản thúc mấy năm sau khi ra tù, phải tự kiếm sống lấy, nay anh được quyên công dân, được có thẻ cử tri, có giấy chứng minh công dân, được sổ nhận lương hưu, được thò bút ký vào sổ để nhận tiền hàng tháng, vinh dự quá rồi còn gì! Đảng đã cho anh đổi đời, còn muốn gì nữa. Và nhiều hạn bè Nguyễn Hữu Đang ắt cũng chúc mừng anh như vậy. Từ một người bị lên án là một tên gián điệp nay được gặp bạn bè, tay bắt mặt mừng, tổ chức lễ thượng thọ, khá là rôm rả, có bia, có chút rượu, quả là một niềm an ủi lớn rồi.



Thế nhưng rượu ngọt vẫn còn vị đắng. Thế là xong ư? Họ phủi tay hết ư? Đảng bao giờ cũng đúng. Không chút thanh minh, minh oan, xin lỗi anh. Đúng là kiểu gia trưởng phong kiến. Vua bao giờ cung đúng. Đúng cả trong những sai lầm bậy bạ, kỳ quặc trong hành động của ông ta. Cũng có thể có người khuyên anh. Thôi, cho qua tha thứ tất cả? Thể tất cho họ! Miễn là cuối cùng anh trở lại là công dân. Còn hơn khối kẻ đến chết vẫn chưa được hồi phục quân công dân. Một lời an ủi chân tình. Cũng có người có thể khuyên anh: chấp nhận thái độ, chính sách của họ là hơn, chớ cựa quậy gì nữa. Kiện ai bây giờ? Kiện củ khoai à? Phải biết sống yên ổn với họ, tránh những phức tạp, phiền hà... Thế nhưng đảng và nhà nước đang nói ro rằng: quyết tâm xây dựng một nhà nước - pháp luật kia mà! Có nghĩa là nhà nước ứng xử với xã hội, với công dân theo pháp luật và công dân cũng ứng xử với đảng và nhà nước theo pháp luật. Đó là lẽ đương nhiên.



Thương nhau ta để trong lòng


Chuyện này ta cứ phép công mà làm!

Đã theo pháp luật thì không thể có thương hại, thông cảm, thể tất cho qua được!

Các vị lãnh đạo và nhà nước thường viện cớ rằng nhưng chuyện ấy lâu quá rồi, những người liên quan đến vụ án hồi đó đã thay đổi cả rồi, nhiều người đã không còn sống nữa... Việc cũ không thể đặt lại ra bây giờ. Ba mươi năm qua rồi, còn có ai nhớ nữa?...

Xin thưa rằng ở các nước có nếp sống theo pháp luật, các vụ án cũ 10 năm, 20 năm, thậm chí 50 năm, khi phát hiện ra sai lầm, khi đương sự đặt vấn đề, đều có thể và phải xem xét lại và xử lại nếu cần công bằng không có quy định về thời gian. Mấy năm gần đây, ở cộng hòa liên bang Đức đã xử những tên đồ tể thời Hitler trốn gần 40 năm sang Nam Mỹ được truy tìm và dẫn độ về. Thời gian không thể xí xóa tội lỗi, không thể hòa cả làng!

Và có sự ràng buộc về trách nhiệm của tác cơ quan nhà nước nối tiếp nhau. Khi một chính phủ mới được thành lập thay chính phủ cũ, khi một quốc hội được bầu thay quốc hội mãn hạn, khi một Thủ tướng mới nhậm chức thay Thủ tướng cũ một chánh án tuyên thệ nhận trách nhiệm thay chánh án cũ đều có một nguyên tắc: tôi kế thừa trách nhiệm của người bàn giao, tôi phải làm liếp những việc còn làm dở dang, tôi tiếp thu tất cả những công việc trong nhiệm kỳ trước để xem xét lại khi cần, trong sự kế thừa ấy, tôi tiếp nhận cả những ưu điểm và khuyết điểm, thành tích và sai lầm, kể cả những sai lầm chưa được phát hiện để truy cứu trách nhiệm và giải quyết thỏa đáng theo hiến pháp và luật pháp.

Tình hình đã chín để có thể đặt vấn đề xem xét lại một số vụ án oan, gián điệp, chống đảng, xét lại, tay sai địch, chống chủ nghĩa xã hội, chống nhân dân... trong đó vụ Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình. Vụ án theo nghĩa rộng này không chỉ liên quan đến 5 người bị đưa ra xét xử ở tòa án Hà nội cuối năm 1959: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thi Yên (tức Thụy An), Trần Thiếu Bảo (tức Minh Đức), Phan Tài và Lê Nguyên Chi (tòng phạm); nó liên quan đến mấy chục trí thức, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ thuộc đủ các ngành văn, nhạc, kịch, họa, và một số sĩ quan quân đội có thành tích trong kháng chiến. Nó còn liên quan đến cả chục ngàn "Nhân văn xóm", "Nhân văn huyện", "Nhân văn tỉnh", những người bị bất, bị giam, bị xét hỏi, bị ghi vào sổ đen... do đã tàng trữ, truyền tay, tán thành ủng hộ các tác phẩm Nhan văn Giai Phẩm. Những người có trách nhiệm đối với vụ án oan này là các ông trùm tư tưởng và văn hóa, những người cám cân nảy mực ở Bộ Nội Vụ, Tòa án Nhân Dân. Đó là Trưởng ban Tuyên huấn của đảng, Tố Hữu, với người trợ thủ đắc lực là Hoài Thanh, đó là cựu Phó an ninh Dương Thông và Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn, với các Thứ trưởng Nguyễn Quốc Thân và Viễn Chi. Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch nước Hồ Chí Minh tất nhiên có phần trách nhiệm của mình. Không ai có thể nói một cách vô lý rằng tất cả vinh quang của chiến thắng và thành tích là thuộc về tôi còn tất cả thất bại, sai tâm, khuyết điểm và tội lỗi là thuộc người khác!

Tôi đã nghĩ đến việc xem xét lại vụ án lớn này từ năm 1986, khi bắt đầu cái gọi là "thời kỳ đổi mới", trong không khí chuẩn bị cho Đại hội 5. Khi ông Nguyễn Văn Linh từng bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị (tháng 12- 1981) và vừa trở lại làm tổng bí thư (tháng 12- 1986) gặp các văn nghệ sĩ trong không khí cởi mở, chân thành, tôi cũng nghĩ rằng đã đến lúc xem xét lại vụ án văn nghệ này. Thế nhưng sau đó ít lâu, tình hình Đông Âu đã làm cho ông ta "co vòi" lại. Những anh em từng làm việc thời gian dài gần ông ở Nam Bộ hồi kháng chiến chống Pháp cho biết "ông "Mười Cúc" (tên hồi đó của ông Linh) đôi khi biết lặng nghe, nhưng ai cũng thấy sợ sợ, rợn rợn vì ông mà "để ý đến ai, chiếu tướng ai là người đó coi như tịch!". Con người định kiến đầy mình như vậy thì sao mà đổi mới được! Tôi đã nghĩ sai và ảo tưởng về thiện chí của người từng nói rằng: "Anh chị em văn nghệ sĩ phải tự cứu lấy mình, không được bẻ cong ngòi bút..." Những người lãnh đạo cộng sản khi phạm sai lầm, rất sợ ánh sáng của sự thật, họ rất sợ công luận. Cho nên họ rất ưa cách làm âm thầm, lặng lẽ, thật ra là dấm dúi, theo kiểu "xử trí nội bộ". Cách làm này trước kia còn có hiệu quả, khi dân trí còn thấp, cả xã hội bị cô lập, khép kín, "ở dưới đáy giếng". Nay tình hình đã khác lắm rồi. Nếu không công khai sửa chữa sai lầm, chủ động và công khai xem lại những vụ án lớn thì họ sẽ bị kẹt to. Tốt nhất là họ có chút lương tâm để tự làm lấy, lập ra một tổ chức gồm các đại diện các cơ quan có trách nhiệm, chọn một số người có công tâm, xem xét lại và kết luận lại, minh oan và xin lỗi nếu cần. Họ làm vậy thì chỉ có được hoan nghênh, họ sẽ khôi phục được phần nào niềm tin...

Không làm như vậy, cứ trốn tránh trách nhiệm thì sẽ đến lúc tất cả những người bị án oan sẽ phải họp nhau lại đòi công bằng. Cả xã hội sẽ thấy không có nỗi oan nào của riêng ai cả, vi người này bị oan hôm nay, thì ngày mai sẽ đến lượt anh, lượt chị, lượt tôi, không ai không cảm thấy bị đe dọa trong cuộc sống. Sẽ phải lập nên một "ủy ban đòi công bằng cho những người bị xử oan" trong 50 năm qua, và ủy ban ấy tất sẽ tìm sự ủng hộ của các nhân vật và tổ chức quốc tế quan tâm đến dân chủ, quyền con người. Những người cầm quyền ở Hà nội cần hiểu rõ công luận thế giới vừa qua đã được động viên, Liên Hiệp Quốc đã thảo luận về quyền và nghĩa vụ can thiệp để bảo vệ nhân quyền ở nước này và nước khác, trên nguyên tắc: Trong một xã hội cũng như trong cộng đồng thế giới mỗi người phải có nghĩa vụ cứu những người đang bị nạn. Thấy người bị nạn mà không cứu là phạm pháp. Bị xử trí oan, bị giam cầm oan là bị nạn...

Hoàn toàn ngoài ý kiến tôi việc trả thù cá nhân. Theo tôi, nguồn gốc mọi sai lầm, thảm họa, bất công là cơ chế. Đó là bộ máy, từ những học thuyết ngoại lai. Con người đều là nạn nhân của cơ chế sai lầm, của cỗ máy nghiền ấy. Vấn đề là bỏ đi cơ chế cũ, dựng nên cơ chế mới, có dân chủ và pháp luật Không phải nay lại đưa những người gây bất công ra xét xử bởi những người bị xử oan hồi trước. Không thể thế được, sẽ tạo nên thù hận không cùng. Cần tỉnh táo xem xét kết luận công khai, khôi phục danh dự cho mọi người bị oan. Rõ ràng, minh bạch, không sót một ai. Đề phòng sự trả thù cá nhân, theo kiểu ân oán giang hồ, sẽ gây hỗn loạn. Đất nước đã hỗn loạn quá lâu, quá nhiều rồi. Hiện nay các tệ nạn tham nhung, buôn lậu, quan liêu, đặc quyền đặc lợi đã gây hỗn loạn quá mức rồi. Nhân dân không thể chấp nhận thêm bất cứ một sự hỗn loạn nào nữa. Món nợ lớn của hàng loạt vụ án chính trị vô lý, oan ức của mấy chục năm quá không ai có thể xóa được. Nợ thì phải trả. Đó là nhu cầu của "đổi mới" thứ thiệt, nhu cầu của tương lai trước mắt.
QUẢ LÊ CÓ CHẤT ĐỘC

Tôi được biết ở trong nước số người vào hùa với một số nhà cầm quyền lên án, miệt thị nhà văn Dương Thu Hương chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Đó là một nhà văn nữ trong Ban chấp hành Hội Nhà Văn được đảng chọn để đi dự đại hội đảng lần thứ 7; nhà văn này cũng chỉ ám chỉ Dương Thu Hương (những người cầm bút lợi dụng tình hình để bôi xấu chế độ) mà không dám nêu tên. Còn ở trong gia đình, trong cơ quan, giữa bạn bè tin cậy, bà con ta vẫn khen nữ văn sỹ họ Dương là can đảm, có dũng khí, dám nói lên điều bản thân và nhiều người nghĩ. Không ít người quý trọng nhà văn "ngồi bệt xuống cỏ" với dân đen. Cách nói bộc toạc, thẳng thừng của Dương Thu Hương nói lên một cá tính rất cứng cỏi một phương cách sống chống nạnh ngẩng cao đầu. Đó là phương cách mà mẹ Phùng Quán đã dạy anh: yêu ai thì bảo là yêu ghét ai thì nói là ghét, dù dao kề cổ cũng không thể nói ghét thành yêu. Tôi đã đôi lầnn gặp Dương Thu Hương. Một phong cách khác thường, rất đàn ông. Đứng giữa một số bạn trai và gái, Dương Thu Hương có thể bô bô: Này, thằng đểu ha, lại đây tao bảo! Giọng nói không đểu chút nào, mà là thân tình, hơi kẻ cả, kiểu đồng đội thương nhau từ thời dưới bom đạn. Đưa bài đến báo Nhân Dân, cô ta có thể xẵng giọng với người phó ban văn nghệ: này, đăng hay không thì bảo, đừng có ỡm ờ, không thì để người ta xé đi! Hơi chua ngoa, nhưng chân tình, ngay thật và sòng phẳng. ở cơ quan làm phim truyện cũng thế. Anh bạn cùng cơ quan với Dương Thu Hương kể, một lần đi công lác cần ứng trước một khoản tiền, mấy anh quản trị luôn làm khó dễ. Dương Thu Hương ghi luôn vào giấy yêu cầu ứng tiền đi công tác: "Mượn 50 ngàn, thằng em tôi đi Đức sắp về, có áo lông sẽ bán để trả..." rồi đưa cho văn phòng quản trị, kèm một câu: số tiền còm ấy ai thèm quịt mà sợ!



Đó phong cách của Dương Thu Hương, ngay thật nhưng hơi ngổ ngáo. Bộc trực nhưng lại có phần đanh đá, chua ngoa. Lên án viên tướng Quang Phòng, Dương Thu Hương không chút nể nang: "Tôi không bao giờ thù hận ông. Tôi khinh bỉ và thương hại ông!", "Ông có thói quen của thứ trương tuần, chánh tổng!" "Ông chưa chết, nhưng nếu cần đối chất tôi thiếu gì phương tiện để bật nấp ván thiên quan tài ông lên"; Tôi cho ông quyền tự do chọn phương án chìm tàu "ông non tay nghề quá"; "bộ máy quốc gia mà phải dùng loại cán bộ đầu loãng như ông thì tội nghiệp thay!". Dương Thu Hương đã từng tự nhận là nhẹ dạ cả tin. Hình như cô vẫn chưa sửa được nhược điểm ấy. Việc cô tha thứ cho kẻ đã ngã ngựa là Quang Phòng có thể hiểu được. Nhưng khi cô cho rằng viên tướng Bùi Quốc Huy đại diện cho Bộ trưởng Bùi Thiên Ngộ là người biết điều, có lòng tốt với cô thì xin cô hãy dè chừng! Cô nói "nguyên tắc sống của tôi là ai cho ta ăn lê thì ta mời họ án táo". Cô cho rằng "Tổng cục trưởng Tổng cục Phản gián Năm Huy cư xử đàng hoàng tử tế với cô. Cô cho rằng cô cần "tôn trọng người đồng nghiệp cấp trên" của Quang Phòng, cô cần giữ chữ tín với hai ông Năm Huy và Nguyễn Công Nhuận... Tôi cho rằng cô lại nhẹ dạ và cả tin mất rồi! Có thể cô không hiểu rõ rằng khi Bộ nội vụ quyết định bắt giữ cô thì cả hai viên tướng Nam Huy và Công Nhuận đều biết và đồng tình. Đó là cách làm việc tập trung thống nhất ở Bộ Nội Vụ, có giao ban hàng tuần trước mặt ông bộ trưởng, thường là vào sáng thứ ba hàng tuần.



Họ thí quân để giữ tướng. Thí Quang Phòng rồi sau đó sẽ thí cả Dương Thu Hương. Họ có thể xoa dịu cô, đầu rất mềm với cô thậm chí ve vuốt nhem tự hào của cô nữa, chỉ để vô hiệu hóa cô. Cô chớ chấp mấy kẻ đã ngã ngựa, cô hãy tha thứ cho họ. Chúng tôi đây, những người mới, chúng tôi hiểu và quý trọng cô. Nếu chúng tôi đến sớm ở cương vị này thì cô đâu có bị đụng chạm tới! Cô hãy cho qua. Ngọt ngào biết bao. Đó là quả lê ngọt lịm đó. Nhưng là quả lê có chất độc! Quả lê có bùa ải. Quả lê định giải giáp tất cả nghị lực và tinh thần sáng suốt đấu tranh của cô!


Họ về cơ bản chẳng khác gì nhau. Theo nguyên tắc kế thừa, các ông Bùi Thiện Ngộ, Bùi Quốc Huy đều phải gánh mọi hồ sơ tất cả các vụ án của thời các ông Mai Chí Thọ, Dương Thông và cả của thời ông Trần Quốc Hoàn rồi Phạm Hùng nữa. Cái đúng và cái sai, họ có trách nhiệm kế thừa hết. Đó là nguyên tắc. Nếu thật lòng ngay thật, ông Ngộ và ông Huy phải nói rõ là "Chúng tôi đã làm sai, những người trước chúng tôi đã làm sai. Việc giam cô 7 tháng 10 ngày là sai luật pháp và đạo lý. Chúng tôi xin lỗi cô . Và do báo chí có đưa tin, cả trong và ngoài nước, nên cô có quyền đòi họ phải cải chính và xin lỗi công khai trên báo và đài. Và họ cũng có nghĩa vụ phải nói rõ là những người trước đây của Bộ Nội Vụ đã làm sai, đã phạm pháp, đã bị kiểm điểm và xử trí ra sao. Cô có quyền đòi bồi thường danh dự....Và chiếu theo luật, tòa án sẽ quyết định.

Họ lùi thì nếu đúng là Dương Thu Hương, một Dương Thu Hương gan góc, quả cảm, đứng về phía nhân dân bị áp bức, tất cô sẽ thừa thắng, vươn dậy đòi công bằng cho mình và cho vô số người bị oan ức mà cô đã biết là không ít đâu. Trước hết là những nhà văn đồng nghiệp trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Rồi các nhà trí thức ngay thật, sáng suốt và dũng cảm của đất nước. Rồi như bác sĩ Nguyễn Đan Quế và giáo sư Đoàn Viết Hoạt (ông Hoạt bị xử 20 năm tù giam chỉ vì đòi dân chủ, đòi sửa hiến pháp, đòi bầu cử tự do và bị chụp mũ là âm mưu lật đổ!).

Họ làm vậy chỉ tổ gây khổ cho dân. Vì thái độ kiêu ngạo, bất chấp thế giới, coi trời bằng vung ấy của họ, mà rồi ách cấm vận khó có thể gỡ ra sớm! Họ đâu có khổ, chỉ dân đen là cơ cực.

Hẳn Dương Thu Hương biết rất rõ rằng nguyên nhân cơ bản là từ cơ chế, từ bộ máy và những nguyên lý điều hành của bộ máy ấy. Không thay bộ máy thì tất cả những con người trong bộ máy đều phải tham gia vào cho guồng máy đó chạy trơn tru, nghiền nát mọi quyền tự do, mọi cá tính, mọi người ngay thẳng, sáng suốt và can đảm trên hành trình hung hãn của nó.

Do rất tin và rất quý nhà văn nữ hết sức đặc biệt Dương Thu Hương, một chiến sĩ đặc sắc đấu tranh cho quyên sống và quyền dân chủ của đất nước mà tôi phát biểu về tấm lòng cao thượng của cô. Hãy cao thượng với những người đáng được đối xử một cách mã thượng. Không bao giờ nên nhẹ dạ cả tin một lần nữa!
ĐÁNH TRÁO LƯƠNG TÂM

Đây có thể gọi là thủ thuật đánh tráo lương tâm". Lương tâm của nhà văn can đảm đấu tranh chống áp bức độc đoán được đổi bằng "lương tâm" khác: tha tội cho kẻ tàn ác đối với mình, xử xử có "lễ" đối với bộ máy đàn áp hà khắc, mà lương tâm vẫn cảm thấy yên ổn. Tôi nghĩ đến một trường hợp khác: tướng Trần Văn Trà. Thượng tướng Trà là một tướng có tài năng. Ông là con người gắn bó với chiến trường miền Nam, thường xuyên nhất, bền bỉ nhất, trong thời gian dài nhất. Từ khu trưởng khu 8 thời kháng chiến Pháp, ông là tư lệnh miền Nam rồi tư lệnh B2 (Nam Bộ) thời chống Mỹ. Tôi có dịp ở gần ông 60 ngày liền ở Sài gòn, trong trại Davis, sân bay Tân Sơn Nhất. Lúc ấy ông là trung tướng Trưởng đoàn đại biểu quán sự của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam, Trưởng đoàn đại biểu quân sự chính phủ Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa là thiếu tướng Lê Quang Hòa.



Hai ông trưởng đoàn khác hẳn nhau. Khác hoàn toàn, cứ như là trái ngược nhau về trình độ, tính tình, tác phong. Ông Hòa to lớn, ông Trà tầm thước. Ông Trà vui tính, xởi lởi, ông Hòa nghiêm nghị lạnh lùng. Ông Trà am hiểu chiến trường, nhiều kinh nghiệm, ông Hòa lần đầu vào phía Nam, vốn là cán bộ chính trị, chính ủy của quân khu 4. Ông Trà chăm đọc sách, xem báo, ưa nghe âm nhạc, thích dùng máy ảnh, máy ghi âm, hiểu biết nhiều loại kỹ thuật, vì vốn tốt nghiệp trường kỹ nghệ thực hành ở Huế. Ông Hòa ít đọc, ít nghe đài, văn hóa mới qua trường văn hóa Lạng Sơn học tắt, chưa đậu lớp 7, xuất thân từ nông dân. Ông Trà đọc được sách tiếng Pháp, hiểu sơ qua tiếng Anh, ham học. Ông Trà rất thông minh, đối đáp sắc sảo ở bàn hội nghị. Ông Hòa đối đáp khó khăn, thường phải do ông Lưu Văn Lợi, nhà ngoại giao ngồi cạnh, chuẩn bị cho các câu phát biểu. Tại các buổi chiêu đãi của các trưởng đoàn trong các câu lạc bộ không quân Huỳnh Hữu Bạc, ông Trà rất vui chuyện.



Đã thỏa thuận là không nói chuyện chính trị ở các buổi ăn tiệc ấy, nên ông Trà nói chuyện rất vui, linh hoạt. Chuyện phong tục, tập quán, chuyện món ăn, thể thao, chuyện ca hát, văn nghệ, cả đến chuyện vui, tiếu lầm gây cười. Ông Hòa thì giữ lặp trường rất "vững", đến kỳ quặc. Hai buổi tiệc do hai Trưởng đoàn Mỹ và Sài Gòn khoản đãi, ông định không dự. Ông Trà thuyết phục mãi, ông mới chịu đi. Nhưng ông ngồi đó, không cầm đũa hay cầm dao, thìa, mắt nhìn thẳng, không chạm cốc, không nói một câu? Ông chỉ ăn trong bữa tiệc ông Trà khoản đãi. Còn phần ông, ông quyết đinh không mời ăn. Các trưởng phó đoàn ngày cuối còn đùa kháy ông rằng: một trưởng đoàn còn mắc nợ? Tất cả thành viên đoàn miền Bắc đều băn khoăn về thái độ cứng rắn đến kỳ quặc của một ông tướng đi làm ngoại giao! Họ quý trọng, cảm phục ông Trà bao nhiêu thì lại phàn nàn về ông Hòa bấy nhiêu.


Sau khi thống nhất đất nước, ông Trà cho ra cuốn hồi ký Kết Thúc 30 Nam Chiến Tranh, tập cuối của một loạt sách của ông viết về 30 năm chiến tranh. Ông bắt đầu từ tập cuối, rồi ngược dòng lịch sử viết các phần khác sau. Cuốn sách vừa ra được hai tuần thì ông Lê Đức Thọ triệu tập các cán bộ tuyên huấn, báo chí, xuất bản có mặt ở Sài Gòn để đưa ra nhận xét: đây là cuốn sách sai từ trang đầu đến trang cuối, viết không đúng sự thật. Tự đề cao mình. Tổng cục chính trị ra lệnh cấm lưu hành trong quân đội, thu hồi từ các thư viện trong toàn quân!

Nếu đọc kỹ hai cuốn hồi ký, Chiến thắng mùa Xuân của tướng Văn Tiên Dũng do Hồng Hà ghi và cuốn của ông Trà thì quả thật có nhiều chỗ khác nhau. Có những chỗ khác nhau do mỗi người ở một cương vị và vị trí khác nhau nên cách nhìn nhận khác nhau. Có chỗ khác nhau do mỗi người muốn nhấn nạnh những ý mà mình muốn tô đậm. Bình thường ra thì không nên cấm cuốn nào, mà nên tổ chức thảo luận lành mạnh, ngay thật nhằm đính chính những sai sót. Theo tôi nghĩ cuốn sách ông Trà bị cấm là vi cuốn sách ấy nói lên một số sự thật đúng như nó có, mà những người lãnh đạo cao nhất không muốn công nhận! Nếu nhận định một cách khách quan thì công lao trong chiến thắng mùa xuân 1975 phần lớn thuộc về Bộ tư lệnh miền Nam, và phần thuộc về ông Trà có vẻ nhỉnh hơn hẳn một số nhân vật khác. Chính ông và Bộ tư lệnh miền đã sớm chuẩn bị và mở cuộc tiến công vào Phước Long cuối tháng 12- 1974, một cuộc tiến công có nhiều khó khăn nhưng bảo đảm thắng lợi. Qua trận này đã có thể tham dò khả năng phản ứng của chính phủ Ford một cách chuẩn xác cho cả thời gian sau. Mặc dầu có ý kiến ngăn ông không cần ra Hà nội, ông đã cảm thấy nhất thiết phải có mặt ở đại bản doanh để góp ý kiến vào kế hoạch cụ thể của chiến dịch mở ra ở Tây Nguyên, trong đó xác định hướng tiến công chủ yếu vào Ban Mê Thuộc là rất hệ trọng. Giữa bộ tổng tham mưu và các bộ tư lệnh chiến trường và quân khu thường có những điểm khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau. Đó là mâu thuẫn giữa bộ phận và toàn cục, giữa trung ương và địa phương. Nam bộ lại ở xa, Bộ tổng tham mưu ở Hà nội không thể hiểu hết được mình hình cụ thể của chiến trường, những khó khăn, yêu cầu của nó cũng như những khả năng và tiềm lực của nó. Sự bén nhạy với những thay đổi, những chuyển biến của ta và của địch cũng khác nhau. Hơn nữa trong hệ thống lãnh đạo và chỉ huy, không phải không có những trục trặc. Đại tướng Bộ Trưởng Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp không có toàn quyền chỉ huy. Bộ chính trị được coi là cơ quan tối cao lãnh đạo chiến tranh. Tổng bí thư có tiếng nói quyết định vì kiêm Bí thư quân ủy trung ương. ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ từ đầu những năm 70 lại tham gia quân ủy trung ương và thường ứng cử ở đại hội đảng toàn quân. Ông thường tự coi là nhân vật quan trọng thứ hai sau Tổng bí thư khi quyết định những vấn đề quân sự. Tướng Trà rất hiểu mọi ngóc ngách của việc hình thành những quyết định quân sự trong đảng, trong bộ máy quốc phòng, trong hệ thống lãnh đạo và chỉ huy. Ông đã quyết định phải có mặt ở Hà nội, tiếp cận rất quả đoán Tổng bí thư đảng, ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, xông vào cặn cơ quan Bộ tổng tham mưu, các cục tác chiến, cục quân báo, cục thông tin liên lạc, rồi tổng cục hậu cần, tổng cục kỹ thuật để làm cho ý kiến của mình được chấp nhận, tranh thủ được sự chi viện đủ và kịp thời của bộ. Ông có những cách nhìn, cách nghĩ khác với tướng Lê Ngọc Hiền, Tổng tham mưu phó đặc trách về kế hoạch tác chiến. Ông từng tầm sự với tôi, nếu ông Phạm Hùng Bí thư đảng bộ miền Nam và bản thân ông không quyết chí ra Hà nội để tham gia những cuộc thảo luận về Đông Xuân 1974- 1975 thì có thể tình hình không chuyển biến nhanh chóng, suôn sẻ như đã xảy ra. Trên hiểu dưới, dưới làm cho trên hiểu tình hình và góp ý kiến với trên, sự thông suốt trên dưới có ý nghĩa quyết địnl ở Bộ tham mưu, không thiếu gì những ông quan liêu (tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng đến đầu năm 1975 mới đặt chân đến miền Nam). Họ chỉ nắm tình hình chiến trường trên giấy, trong tưởng tượng, họ sống ở Hà nội, trong khung cảnh hòa bình, không sao có sự bức xúc của những người sống ở chiến trường ác liệt, lối nghĩ, lối sống, tinh cảm, lề lối làm việc rất khác nhau. Chỉ một việc làm vô trách nhiệm, tắc trách, đại khái, không nhiệt tình với chiến trường là gây ra biết bao tai hại, thậm chí dẫn đến thất bại và những hy sinh xương máu của chiến sĩ không đáng có.

Từng theo dõi tình hình các chiến trường, từng dự tổng kết các chiến dịch lớn, đặc biệt là chiến dịch xuân 1975, tôi có nhận thức rất sâu sắc rằng đã có lãnh đạo tập thể, đã có sự trùng hợp ý kiến trong đề xuất về kế hoạch của chiến dịch của nhiều người, nhưng giữa các vị tướng lĩnh thì ông Trà nổi lên là người có công lớn, có đóng góp nổi bật nhất. Ông là người bắt mạch được chuyển biến của tình hình. sớm và sâu sắc nhất, cũng là người gỡ được những vướng mắc và trở ngại có thể có, làm cho toàn chiến địch được thuận lợi. Tôi từng khuyến khích ông viết hồi ký, từng gửi cho ông những hồi ký của các nguyên soái và tướng lãnh Liên xô, về chiến tranh thế giới thứ hai để ông tham khảo. Tôi cũng nhận thấy sự ngăn cấm lưu hành cuốn sách của ông là vô lý, bất công. Thế nhưng cơ chế này không chấp nhận bất cứ ai có một cái nhìn riêng, có sự đánh giá cụ thể hơi khác với sự đánh giá của cơ chế.

Cơ chế vẫn là cỗ máy nghiền tai hại...

Hồi 1988, 1989 tướng Trà với nhận thức sắc sảo của mình đã tham gia Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ một cách tích cực. Trước đó, 1979 ông ra Hà nội nhận nhiệm vụ Phó tổng tham mưu trưởng, rồi Thứ trưởng quốc phòng, đặc trách về trang bị và công nghiệp quốc phòng, ông cảm thấy cơ chế quá cứng nhắc để có thể phát huy khả năng, nên lui về Sài gòn viết hồi ký và suy nghĩ. Ông đã có những phát biểu rất đáng chú ý ở một số phiên họp của Câu lạc bộ này, công khai đề xuất yêu cầu dân chủ hóa, lên án tệ quan liêu, nạn tham nhũng, vô trách nhiệm.

Lập tức ông Nguyễn Văn Linh và ông Võ Chí Công đến gặp ông. Khi ấy ông Linh là Tổng bí thư, ông Võ Chí Công là Chủ tịch Hội đồng nhà nước. Ông Công lại còn là thông gia với ông Trà; con trai ông Công lấy con gái ông Trà. Ông Linh và ông Công ra sức thuyết phục ông Trà là lúc này đang đang khó khăn, không nên để cho kẻ xấu như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng lôi kéo vào hoạt động mang tính chất chống đảng, gây khó khăn thêm cho đảng... Thế là ông trở về với cơ chế. Ông lại còn dùng uy tín của mình để thuyết phục những người khác vì thương đảng, vì có lương tâm với đảng, mà gác lại những yêu cầu về dân chủ, dân chủ trong đảng cũng như dân chủ trong xã hội. Thương dân hay thương đảng?

Cứu dân hay cứu đảng? Khi phải lựa chọn bên nào nặng hơn thì lương tâm thật của ông có lúc nặng về người dân lầm thảm cơ cực, không có tự do, nhưng lương tâm ấy đã bị người ta đánh tráo một cách khéo léo để trở thành sự thủ tiêu đấu tranh; một sự an phận đồng lõa với sai lầm, bảo thủ và giáo điều, nhưng vẫn được ve vuốt, an ủi dưới nhãn hiệu: trung thành với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ đảng, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh...

Tôi vẫn tin rằng một con người can trường, nhiều lúc sáng suốt quả đoán, có tư duy độc lập như thượng tướng Trần Văn Trà vẫn còn có khả năng nổi lên như một người đấu tranh cho lẽ phải và tiến bộ của đất nước, chống lại những thế lực độc đoán, bảo thủ đến mức cổ hủ lệ hại.

Một người như tướng Trà màcòn bị bịt mồm! Họ tìm mọi cách để bóp nghẹt mỏi tiếng gào thét đòi tự do một chút, đòi dân chủ một chút. Cứ như một em bé uất ức khóc nức nở nhưng bị người mẹ hung dữ bịt chặt lấy mồm! Và tiếng gào thét của em không sao cất thành tiếng. Một phản ứng tự nhiên, một đòi hỏi bình thường dể hiểu vẫn bị khước từ ở nước ta. Chúng ta vẫn còn như bắt phải sống ở một hành tinh khác, với những lối nghĩ cách sống hoàn toàn khác lạ...
ÔNG TƯỚNG NÔNG DÂN

Câu lạc bộ quân nhân ở Hà nội nằm trên đường Hoàng Diệu, ngay dưới chân cột cờ lớn của thành Thăng Long. Hồi trước tại đây có sân bóng đá Mãng Gianh của quân đội Pháp. Câu lạc bộ quân nhân là nơi tập luyện, giải trí của sĩ quan công tác tại Bộ quốc phòng. Các sĩ quan cao cấp từng chuyển ngành và về hưu cũng thường tới đây. ở đây có phòng đọc sách, báo, có bàn bi da, có nhiều bàn ping- pong, nơi tập võ thuật và đặc biệt mùa rét là có các phòng tắm nước nóng. Bạn bè cũ mới thường gặp nhau ở đây, ngồi bên cốc bia hơi, ăn lạc rang, nói chuyện đủ thứ. Từ nhắc lại kỷ niệm ở các chiến trường xưa, đến chuyện về cuộc sống hiện nay, về bè bạn, kẻ còn người mất, về tình hình xã hội.



Có lần tôi ghé chơi bóng bàn, tắm rồi ra ngồi uống nước với các bạn cũ. Họ đang vui chuyện, bàn tán đến các ông tướng. Về các tướng cũ và tướng mới, tướng trẻ và tướng già, tướng chiến trường, đơn vị và tướng cơ quan. Có người đùa chia các tướng ra thành: Hổ tướng (tướng dũng cảm), lỳ tướng (gan lỳ), thát tướng (dát ra trận), bút tướng (tướng văn phòng), hầu tướng (chuyên phục vụ cấp trên), lễ tướng (tướng thường xuất hiện trong các buổi lễ), gia tướng (tướng là gia nhân của các đại tướng), phục tướng (tướng chuyên quỳ gối, gọi dạ, bảo vâng), thọ tướng (tướng chuyên ở hậu phương)... Rồi có người nhắc đến đại tướng Nguyễn Chí Thanh, mất vào giữa năm 1967. Ông Nguyễn Chí Thanh là đảng viên cộng sản từ thời bí mật, là xứ ủy viên Trung kỳ. Ông quê ở Thừa Thiên, huyện Phong Điền, gần chợ Sịa, vốn là một cố nông lực lưỡng chuyên đi cày thuê. Là tá điền, đi hoạt động, bị bắt, ông học ở trong nhà tù. Năm 1945 sau cách mạng tháng Tám, ông là Chủ nhiệm Việt Minh Trung Bộ. Năm 1948 ông ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Tổng cục chính trị của quân đội nhân dân. Năm 1950 ông rất được chú ý khi viết bài trên báo Quân Đội Nhân Dân lên án mạnh mẽ việc vi phạm kỷ luật về chiến lợi phẩm trong Chiến dịch Biên giới. Sau đó một loạt cán bộ bị kỷ luật rất nặng về tội lấy cắp chiến lợi phẩm (áo quần, chăn màn, máy ảnh, thuốc lá, đồ đạc, thức ăn trong các kho của các đơn vị quân Pháp), tham ô tiền lương ăn bớt tiến ăn của các đơn vị. Tiêu biểu nhất là viên đại tá Cục trưởng Cục quân nhu Trần Dụ Châu bị án tử hình vì ăn cắp chiến lợi phẩm, chuyên gửi mua những đồ xa xỉ nhất từ Hà nội ra để dùng và ăn chơi trác táng. Tướng Nguyễn Chí Thanh là người trực tiếp đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt và y án xử tử hình Trần Dụ Châu để làm gương cho toàn quân.



Tuy xuất thân cố nông, văn hóa thấp, ông chịu khó học trong tù, chăm đọc sách, ham mê lìm hiểu tình hình mọi mặt của xã hội, ưa tranh luận về chính trị, quân sự, cả về văn học nghệ thuật... Ông rất năng động, hoạt bát. Người ta thường thấy ông mặc quần áo bà ba nâu, đạp xe bên anh lính hộ vệ, đi ra ngoại thành Hà nội, vào ngã tư Sở, xuống Cầu Giấy... để bắt mạch cuộc sống. Ông ghé vào hàng nước bên đường, uống nước chè, ăn kẹo lạc, hỏi chuyện bà hàng nước, nói chuyện với khách hàng khác. Ông thuộc Kiều, có khi lẩy vài ba câu. Ông thông minh, có trí nhớ khá tốt. Là Chủ nhiệm chính trị, ông lại rất ưa nghiên cứu, đọc sách về quân sự, về chiến lược và chiến thuật. Ông biết khá rõ về Tôn Tử, về Clausewitz, về Napoléon, về Lâm Bưu, về Joukov...


Là cán bộ xông xáo, năng động, có trình độ khá lích lũy do tự học, ông có uy tín trong quân đội và ngoài xã hội. Sau đại hội 3 của đảng cộng sản cuối năm 1960, ông là ủy viên Bộ chính trị được số phiếu bầu rất cao, ông phụ trách thêm về nông nghiệp, về xây dựng hợp tác xã, đặc biệt là trong việc bồi dưỡng các chủ nhiệm hợp tác xã... Khi cuộc chiến đấu ở miền Nam phát triển, ông trở lại hoạt động hoàn toàn về quần sự và đầu năm 1964 ông vào chiến trường miền Nam làm đặc phái viên của Bộ chính trị rồi trực tiếp phụ trách luôn việc chỉ đạo trực tiếp toàn chiến trường phía Nam. Chính ông là người tổng kết về lý luận các trận đánh quân Mỹ đầu tiên tại ấp Bắc gần Mỹ Tho, Plây me (Tây Nguyên), tại Ba Gia, Vạn Tường ở miền Trung rồi Bình Giã (Bà Rịa) ở miền Nam.

Những bài tổng kết lớn ấy được đãng trên báo Quân Đội Nhân Dân với bút danh Trường Sơn, có tác dụng rất lớn, xây dựng niềm tin có cơ sở rằng quân Mỹ được trang bị hiện đại, huấn luyện tốt nhưng có nhiều nhược điểm lớn. Đó là họ phải chiến đấu ở một chiến trường nhiệt đới xa lạ, trong một cuộc chiến tranh không tuyên bố vì không gắn chặt với quyền lợi sinh tử của nước Mỹ, trước một đối phương có cách đánh linh hoạt, kết hợp lối đánh du kích với lối đánh hợp đồng binh chủng của 3 thứ quân trên cả 3 vòng chiến lược: nông thôn , rừng núi và đô thị.

Những tổng kết nóng hổi của các trận ấp Bắc, Plây me, Ba gia, Vạn tường, Bình giã - mỗi trận có những nét riêng bổ xung cho nhau, của tướng Nguyễn Chí Thanh đã góp phần xây dựng nên một kiểu "binh thư đánh Mỹ", tác động rất lớn đến cuộc chiến đấu ở chiến trường. Các cán bộ quân huấn, tác chiến, quân báo, chính trị, hậu cần ở trường sĩ quan Lục quần, trường Cao cấp quân sự và Chính trị, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc đều nghiên cứu kỹ những bài tổng kết ấy. Những bài báo của Trường Sơn được đài Tiếng Nói Việt nam đọc đi đọc lại nhiều lần, lại còn được đọc chậm để các nơi ghi lại làm tài liệu và phổ biến. Khẩu hiệu "Nắm thắt lưng lính Mỹ mà đánh" là của ông Nguyễn Chí Thanh đưa ra, cổ vũ cách giấu quân thật kín, để cho quân Mỹ đến gần mới xông ra đánh bất thần và mãnh liệt, gây bất ngờ và luôn giữ quyền chủ động. Những bài tổng kết của ông về các trận phản công mùa khô trong các chiến dịch của quân Mỹ ở miền Đông Nam bộ Junction City và Cedar Fall cũng có giá trị quan trọng về xây dựng bài bản chiến đấu cho các lực lượng vũ trang ở miền Nam.

Ông là một nhân vật chủ yếu đề xuất việc mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Ông từ chiến khu R lên Nom Pênh để đi máy bay ra Hà nội (qua Hồng Ông). Khi mọi việc đã bàn xong, ông quyết định trở về R cũng theo con đường đã đi thì bị đột tử vào tháng 7- 1967. Một ngày trước khi lên đường, ông dự tiệc tiễn chân của Quân uỷ trung ương buổi sáng, rồi của Tổng cục Chính trị buổi chiều, tại đó ông uống hơi nhiều rượu, khi trở về nhà ở phố Lý Nam Đế, tắm xong thì bị cơn nhồi máu cơ tim. Việc cấp cứu tiến hành chậm. Ông vốn có bệnh yếu tim từ trước, cố gắng về thể lực thường hay khó thở. (Việc nói ông chết tại miền Nam trong một trận ném bom của B52 là hoàn toàn thất thiệt). Thế nhưng ở tướng Nguyễn Chí Thanh có một nét không thật bình thường. Ông có những suy nghĩ cực đoan. Ông từng viết hai bài luận văn lớn đăng kín cả 3 trang báo Quân Đội Nhân Dn. Bài thứ nhất hồi 1959 nhan đề "Chủ nghĩa cá nhắn là nguồn gốc của muôn nghìn tội ác", và năm sau là bài "Lại bàn về chủ nghĩa cá nhân." Hai bài này được coi như tài liệu chỉnh huấn, để cán bộ tất cả các cấp học tập, thảo luận, liên hệ và kiểm thảo. Tất cả những căn bệnh tư tưởng đều được mổ xẻ, phê phán rất nghiêm: địa vị, bảo mạng, công thần, kèn cựa, suy tính về hưởng thụ, về tiền đồ, về nặng gánh gia đình, lười biếng, tham ô, thiếu trách nhiệm, kém ý thức tổ chức và kỷ luật. Hai bài này đều viết theo cuộc nói chuyện của ông với cán bộ cao cấp của Bộ quốc phòng và các đơn vị đóng gần Hà nội trong hai ngày Chủ Nhật tại Trường chính trị trung cao cấp ở Quần Ngựa.

Điều cực đoan ở ông là nhấn mạnh quá đáng vào chủ nghĩa tập thể, ca ngợi một chiều đến mức tuyệt đối: cái gì tập thể cũng tốt, cá nhân cái gì cũng kém, và gần như coi hoàn toàn không có tác dụng những động cơ cá nhân! Tôi còn nhớ ông đã cảm thảy bí, không sao giải đáp nổi một thắc mắc đơn giản do một cán bộ quân sự cấp trung đoàn nêu lên: tại sao ở trung đoàn tôi, tuy giáo dục rất kỹ, 6 xe đạp của công của tập thể đều hư hỏng rất nhanh, còn xe của cá nhân thì đều sáng trưng, chạy rất tốt, ít hư hỏng. Vậy tập thể ưu việt ở đâu? Và tại sao nông dân sản xuất trên đất 5 phần trăm của riêng gia đinh mình thu nhập rất cao, có khi hơn cả thu nhập từ ruộng tập thể chiếm 95 phán tràm diện tích? Gần đây, tôi được biết thêm một nét "kín đáo" của ông tướng 4 sao này. Hồi hoạt động ở Thừa Thiên và Trung Bộ, một lần ông bị mật thám Pháp bắt cùng một đảng viên cộng sản khác, người này về sau hoạt động trong quân đội, ở Tổng Cục Chính Tri, sau này ra ủy ban khoa học xã hội. Ông này được nhiều gần xét để đưa vào Trung ương đảng. Thế nhưng ông bị kẹt vì cán bộ tổ chức biết rõ rằng trong vụ bị bắt ấy, trong hai người thì đã có một người khai báo không ít với mật thám, làm phong trào sau đó bị tổn thất. Tất nhiên không ai nghi đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị, một người chuyên lên gân giảng dạy về lập trường giai cấp, tinh thần kiên định, coi chủ nghĩa cá nhãn, tinh thần bảo mạng cầu an là tội ác! Ông cán bộ này bị nghi oan, tinh thần bị dằn vặt, đau khổ. Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông cán bộ này cố tìm cách tiếp cận những tài liệu an ninh còn lưu lại từ thời Pháp ở Huế và Sài Gòn. Hy vọng ấy được thoả mãn. Ông đã tìm thấy trong hồ sơ cũ từ hồi 1940, 1941 những biên bản hỏi cung của sở mật thám Huế. Thì ra người thật sự đã khai báo không phải là ông mà là vị đại tướng sau này! Sự khám phá của ông lập tức được lệnh giấu kín!

Những con người giống nhau thường tìm đến nhau. Các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu (có 3 ông cùng 1 quê ở Bình Trị Thiên) kết bạn rất thân, tạo nên một nhóm lãnh đạo trung kiên, trong hàng ngũ những người cách mạng chuyên nghiệp của đảng cộng sản Việt nam. Đó là những người rất cứng nhắc, nhiều tham vọng, làm mưu đồ, chi phối tình hình đất nước rất đậm, để lại đấu ấn thật sâu.

TẾT MẬU THÂN: CÁN NẾT GIẬN CỦA TỔNG BÍ THƯ

Hè 1984, những ngày nóng nực của tháng 7. Tổng bí thư Lê Duẩn tới nghỉ ở khu "Nhà nghỉ của Bộ chính trị" ở Quảng Bá, bên Hồ Tây. Sau khi ngủ trưa, ông Lê Duẩn đi bách bộ, lững thững lên đường đê dưới bóng mát của những cây xà cừ cổ thụ. Ông cùng người bảo vệ đi theo ghé vào một ngôi nhà xinh xắn bên đường đê: nhà sáng tác của Hội Nhà Văn. Đây là nét sống tự nhiên, vừa thân quen, giản dị, vừa có tính chất gia trưởng của các nhà lãnh đạo, muốn vào nhà ai thì vào chẳng cần báo trước chủ nhà gì hết. Lúc ấy chỉ có hai nhà văn tại đó: Xuân Thiều, đại tá quân đội, công tác ở Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội và Bùi Bình Thi công tác tại tạp chí Văn Học. Xuân Thiều quê ở Quảng Trị, hồi Tết Mậu Thân từng đi theo các đơn vị vào chiến trường Quảng Trị, Khe Sanh. Bùi Bình Thi quê ở Hà Tây vừa đi một chuyến ở Tây Nguyên về đều là những tay mồm mép linh hoạt, rất vui chuyện. Nhận thấy Tổng bí thư đi vào, hai nhà văn đang cởi trần quần đùi vội mặc áo quần, hý hửng được đón chào khách quý. Tổng bí thư hỏi chuyện hai nhà văn về ngôi nhà sáng tác, về công việc viết lách, về cơm nước tại đây. Thế rồi Xuân Thiều mạnh dạn hỏi một câu vốn day dứt anh hơn 15 năm dài: Thưa Bác, cháu định viết về Tết Mậu Thân, có một điều xin bác chỉ giáo cho, hồi đó ta hy sinh nhiều quá? Những hy sinh quá lớn ấy có tương xứng với kết quả không? Không phải chỉ hy sinh trong cuộc tiến công Tết Mậu Thân, cả thời gian dài sau đó hy sinh cũng quá nhiều...



Tống bí thư đang điềm đạm bỗng nổi giận. Ông đứng dậy, đi đi lại lại, lên lớp, dạy bảo cho hai nhà văn đang trố mắt nhìn ông. Theo Bùi Bình Thi kể lại cặn kẽ thì ông giảng giải rằng: Các anh không hiểu gì cả! Anh là cán bộ quân đội mà nói như vậy được à? Tết Mậu thân là chiến thắng to lớn, có ý nghĩa quyết định buộc Mỹ xuống thang. Hy sinh bao nhiêu cũng là xứng đáng, là cần thiết. Không có Mậu thân thắng như vậy thì không thể có toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 được. Làm chiến tranh phải chịu hy sinh. Sợ hy sinh thì mất nước! Viết văn mà không hiểu điều đó thì viết cái gì! Cầu an và bảo mạng thì không làm cách mạng được. Là sĩ quan, là đảng viên thì không được nghĩ sai lầm như thế? Không khí căng quá! Tổng bí thư "quở mắng" ghê quá. Xuân Thiều mong chờ một sự giải thích có lý lẽ thì bị mắng phủ đầu, xối xả, kiểu đạo lý. Bùi Bình Thi thấy không khí quá căng thẳng, nên có sáng kiến xoa dịu:



- Thưa bác, xin bác nguôi giận. Chúng cháu như con cháu trong nhà. Bác chỉ bảo thế thật là chí tình. Chúng cháu hiểu ra lẽ rồi ạ. Vâng, phải hiểu như thế. Bác dạy những điều thật là quý báu. Thật là may cho chúng cháu được bác chỉ bảo cho như thế ạ...


Tổng bí thư nguôi giận, lặng lẽ ra về. Hai nhà văn lè lưỡi nhìn nhau. Xuân Thiều tỉnh người. Thật không ngờ bị Tổng bí thư "mắng mỏ" đến thế! Ngay hôm sau, thứ hai, Bùi Bình Thi ghé qua báo Nhân Dân có việc, kể lại tỷ mỹ cho chúng tôi chuyện này, với những xúc động còn sâu sắc. Anh em có mặt bàn tán: "Cụ bị chạm tự ái, chạm nọc?"; "Cụ không muốn ai nói rằng hy sinh quá nhiều?"; "Chính cụ đã có lần kể và khoe rằng: Tôi gặp ông Mao, tôi nói thẳng rằng Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hy sinh thấp hơn; còn như Trung Quốc không chi viện, thì chúng tôi sẽ phải hy sinh thêm 1 đến 2 triệu người, chúng tôi không sợ, và cuối cùng chúng tôi vẫn thắng"... Đầu năm 1988, nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân, Bộ Quốc Phòng có tổ chức một cuộc họp có ý nghĩa tổng kết về cuộc tiến công Mậu Thân 1968. Có đại diện Bộ Ngoại Giao đến dự và phát biểu về tác động của thắng lợi ấy về mặt đấu tranh ngoại giao. Theo những con số được đưa ra thì quả thật, hy sinh thật là lớn. Hy sinh trong đợt đầu (tháng giêng- 1968) không nhiều, nhưng đến đợt hai (tháng 5- 1968) thì nhiều hơn và đợt 3 (tháng 9- 1968) lại nhiều hơn nữa. Thiệt hại còn kéo dài sang năm 1969 và đầu năm 1970, với những chiến dịch bình định, bình định cấp tốc rất ác liệt. Qua Mậu Thân, các lực lượng cơ sở, du kích, bộ đội địa phương xây dựng hàng chục năm bị lộ gần hết, bị đánh quét bật ra khỏi các địa bàn quan trọng. Từ giữa năm 1970 tình hình mới được khôi phục dần. Ai cũng thấy từ giữa 1968 đến đầu 1970 là thời kỳ chuyển vào thoái trào, phải bị động bảo toàn lực lượng để rồi khôi phục dần cơ sở, sức lực bị tổn chất là lớn nhất so với các thời kỳ khác của cuộc chiến tranh. Tôi đã nhiều dần đặt vấn đề hỏi các vị tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn... về cuộc tiến công Tết Mậu Thân. Có những ý kiến hơi khác nhau, nhưng nhìn chung có những điểm thống nhất. Tất cả đều cho rằng đây là một cuộc tiến công đặc sắc, táo bạo, lợi dụng được thái độ chủ quan, kiêu ngạo của lượng Westmoreland; yếu tố bí mật bật ngờ được giữ kín, gây choáng váng cho hậu phương nước Mỹ, được các phương tiện truyền tin (báo chí, vô tuyến truyền hình) khuếch đại kịp thời. Từ đó chính quyền Mỹ bị sức ép khá mạnh của dư luận phải xuống thang chiến tranh, phi Mỹ hóa rồi Việt nam hóa cuộc chiến; từ đó họ phải chấp nhận hòa đàm ở Paris, phải chấp nhận chính phủ cách mạng lâm thời là một bên tham dự hòa đàm...

Ngoài thắng lợi quân sự nổi bật là cùng một lúc tiến công vào 44 thành phố, thị trấn và hơn 100 quận lỵ, cứ điểm, chi khu quân sự, đặc biệt là vào sứ quán Mỹ thì thắng lợi chính trị và ngoại giao được coi là đặc biệt quan trọng. Nhược điểm và sai lầm trong chỉ đạo toàn bộ các chiến dịch trong năm 1968 là: Không xác định ngay từ đầu liều lượng các đợt tiến công, mức độ kết quả cho từng đợt; thiếu kế hoạch hóa cho cả năm, cho nên càng về sau càng mất quyền chủ động. Sau thắng lợi vang dội những ngày đầu, đáng lẽ ra phải chuyển sang bảo toàn lực lượng cho hoạt động lâu dài về sau thì lại chủ quan nghĩ rừng tình hình có thể ngả ngũ nên cứ lao vào tiếp khi đối phương đã có kế hoạch đối phó và yếu tố bất ngờ đã hết. Bị thiệt hại trong hai đợt sau (tháng 5 và tháng 9) là vì thế! "Cứ húc tiếp, húc tiếp thêm nữa" nên tổn thất nặng thêm. Tổn thất lớn của năm 1968, 1969 và đầu 1970 gây nên những khó khăn rất lớn, từ giữa năm 1970 trở mới khắc phục được, nên đến năm 1972 mới mở lại được các cuộc tiến công mới ở 3 địa bàn: Quảng Trị, Công tum- Plâycu và Lộc Ninh, sau chiến dịch Nam Lào năm 1971. ở chiến trường, có lúc đã có ý kiến đề xuất là thắng lợi đã đủ mức rồi, tác động trên dư luận và hậu phương Mỹ cũng đã đủ mức rồi, cần bảo toàn lực lượng, vừa đánh vừa rút về củng cố thế trận mới... Thế nhưng ở trên vẫn cứ thôi thúc: tiến công nữa, tiến công thêm nữa... Do chủ quan, chỉ nghĩ đến tiến công nên có nơi khi xuất phát tiến công là đốt phá hết mọi cơ sở ở căn cứ, quyết không trở lại nữa! Chỉ có tiến mà không có lùi, nên khi trở về căn cứ thì khó khăn , bỡ ngỡ, mọi việc phải làm lại từ đầu. Cái giá phải trả cho bệnh chủ quan là rất lớn.

ở Sài Gòn, địa bàn trọng yếu nhất, ngoài thắng lợi nổi bật nhất là đột nhập được vào sứ quán Mỹ gáy tiếng vang lôn thì mũi tiến công vào đài phát thanh Sài gòn và dinh Độc Lập không đạt kết quả. Cả hai mũi mang hai băng ghi âm để đưa lên đài phát thanh thì một mũi đi lạc đường, một mũi bị chặn đánh không đến được mục tiêu! Năm tờ áp- phích lớn định mang đến nhà in để in ra mấy ngàn bản thì do lệnh giới nghiêm đã không tới được nhà in! Thế tiến công không duy trì được lâu.

ở Huế cố duy trì và kéo dài cuộc chiến đấu trong gần một tháng, nhưng sau đó rất lúng túng trong việc rút lui khi các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ bước vào tham chiến. Cũng vẫn là tiến công có phần nào thuận hơn là cầm cự, và rút lui bao giờ cũng là một hành động khó khăn trong khoa học cũng như nghệ thuật quân sự, về chiến thuật cũng như về chiến lược. Tướng Trần Văn Quang cho tôi biết rằng khuyết điểm lớn nhất của Mặt trặn Huế là căn cứ rừng núi phía Tây giáp với Huế đã không làm được đường vận tải lớn để đưa xe kéo pháo và xe vận tải quân sự lớn xuống, cho nên ý định đưa đơn vị lớn xuống đành phải bỏ. Khuyết điểm lớn này về sau được bổ khuyết để năm 1975 đưa được các đơn vị lớn cùng pháo lớn và xe vận tải vào Huế.
VỤ TÀN SÁT Ở HUẾ

Trong cuộc tiến công Mậu Thân 1968, cuộc tàn sát ở Huế được dư luận thế giới hết sức chú ý. Cho đến nay vẫn còn nhiều câu hỏi xung quanh sự kiện này. Đây là một cuộc tàn sát có chủ đích? Vậy đích đó là gì? Quy mô của cuộc tàn sát này đến đâu? Vài ba ngàn hay 5,6 ngàn người? Ai chịu trách nhiệm? Đây có phải là cuộc tàn sát lớn nhất trong cuộc chiến tranh?



Hồi tháng 2 và tháng 3 năm 1973, trong trại Davis tôi đã nghe tướng Ngô Du rồi tướng Dư Quốc Đống nêu lên vụ tàn sát này. Tổ liên hợp quân sự 4 bên đóng tại Bãi Dâu gần Gia Hội, Huế, ở ngay bên một vùng chôn cất những người bị tàn sát. Một vùng khác là ở chân núi Ngự Bình. Và một vùng nữa là ở phía Tây, trên con đường từ Huế lên phía núi, căn cứ xuất phát của các đơn vị đánh chiếm Huế. Hồi làm cuốn phim dài Việt nam, Thiên Lịch Sử Truyền hình (Vietnam, the Televisions History), tác giả bộ phim là Stanley Kamow khi đến Hà nội cũng hỏi tôi về sự kiện này. Phim này được giáo sư Ngô Vĩnh Long ở truồng đại học Maine chuyển sang tiếng Việt. Khi gặp tôi ở Hà nội hồi 1986, ông Long cũng hỏi tôi về sự kiện này. Đầu năm 1990, Stanley Karnow lại sang Hà nội và đặt vấn đề là phía Mỹ dự định mời một số nhân vật quân sự Việt nam sang Mỹ, coi như một bước có ý nghĩa theo phương hướng hòa giải. Ông đề cập đến tướng Giáp, rồi tướng Trần Văn Trà, tướng Văn Tiến Dũng, nhưng phía Việt nam cứ viện cớ là các vị này "rất bận", chưa phải lúc có thể đến Hoa Kỳ. Một số người đưa ra tên trung tướng Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ quốc phòng. Theo yêu cầu của ông Stanley Karnow, tôi yêu cầu Vụ đối ngoại Bộ Quốc phòng tổ chức một buổi gặp giữa ông Stalley Karnow với tướng Quang tại nhà Khách Bộ quốc phòng ở 33 Phạm Ngũ Lão. Vụ trưởng Vụ đối ngoại thiếu tướng Nguyễn Văn Vinh và tôi cùng dự. Sau cuộc gặp, Stanley Karnow lắc đầu nói với tôi: gay rồi, ông Quang là tư lệnh mặt trận Huế, tại đó xảy ra các vụ tàn sát lớn. Sự có mặt của ông ta ở Hoa Kỳ có thể gây rác rối, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ rất phẫn uất đối với sự kiện nói trên. Cần tìm một khách mời khác...



Tôi đã nhiều lần trở lại Huế. Lần gần đây nhất là vào mùa quán 1986. Tôi đã hỏi chuyện nhiều sĩ quan chỉ huy hồi đó như anh bạn Minh chỉ huy trận đánh vào Huế phía tả ngạn sông Hương; một số cán bộ hậu cần, địch vận; một số gia đình có người bị sát hại ở trong thành nội, gần nhà tôi ở khi xưa (hồi từ 7 tuổi đến 18 tuổi). Có những ý kiến hơi khác nhau, nhưng đều giống nhau trên những nét lớn. Tôi nói lên nhận xét chủ quan của tôi, cố giữ một thái độ khách quan, không định kiến. Tôi nghĩ những tổn thất trong chiến tranh, nhất là trong một kiểu nội chiến, huynh đệ tương tàn thì của bên này hay bên kia, đều là nỗi đau của chính mình.


Tôi nghĩ con số 5000, 6000 người bị giết là con số cố tình thổi phồng lên quá đáng. Con số 3000 cũng là con số có thể cao hơn thực tế, nếu chỉ kể số thường dân bị giết. Sau này cần nắm cho chắc lại xem thực tế là bao nhiêu. Bởi vì khi ra thực địa, thấy 100 thi thể người chết đã là la liệt, kinh khủng rồi. Đào lên 50, 100 cho đến 200 bộ thi hài thì đã cảm thấy nhiều ghê gớm lắm, có cảm giác như là có đến 400, 500... ở một xóm mà phát tang ở 10 gia đình có người chết thì do người khóc than, do khăn tang tảng bít trên đầu người thân đi lại người ta có cảm giác như là nhiều gấp 3, 4 lần vậy. Hai nữa là có trường hợp xảy ra những trận ném bom rất lớn của máy bay Mỹ khi quân Mỹ phản công, bom Mỹ giết hại người của cả 2 bên (lính miền Bắc Việt nam cùng với những "tù binh" họ giải đi). Thi hài linh miền Bắc thì được chôn và đánh dấu, có khi được đưa về gần cán cứ, thi hài "tù binh" thì vùi nhanh.

Khi mở cuộc tiến công vào Huế, bộ đội miền Bắc đã cơ bản chiếm được thành phố vào đêm mồng 4 tháng 2; ngay lúc ấy đã có tới 5 ngàn sĩ quan, quân nhân đủ loại ra trình diện. Bộ đội cùng lực lượng tại chỗ mở những cuộc truy lùng những kẻ cộng tác với đối phương. Thường là họ vào từng nhà, ai nghi ngờ là bắt giữ, giải đi đã. Những người bị bắt đi gồm có: viên chức ở các cơ quan hành chánh, an ninh, cảnh sát, cán bộ bình định nông thôn, mật vụ, chỉ điểm do nhân dân tố cáo, rồi lực lượng quân đội, biệt động, lực lượng bảo an, dân vệ bị bắt tại trận hay trong gia đình... Có trường hợp bắt cả gia đình đi theo. Viên chức trong bộ máy hành chánh thì gồm cả cấp tỉnh, cấp quận, cấp xã... Các trung đoàn phải lập nên đơn vị đặc biệt để giữ tù binh. Có trung đoàn giữ 200, có trung đoàn giữ 300 tù binh, do 1,2 trung đội phụ trách việc giam giữ lưu động.

Khi quân Mỹ được huy động để giải vây Huế, với các lực lượng bộ binh, thủy quân lục chiến phối hợp với các sư đoàn 1 sư đoàn dù thuộc quân đoàn 1 quân đội Sài gòn, tình hình chuyển biến rất nhanh, đặc biệt là từ ngày 14 tháng 2. Mới đầu Tư Lệnh Thừa Thiên- Huế được chỉ lệnh của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu ở Hà nội: giữa vững thế trận, sẽ có lực lượng tiếp viện. Về sau có lệnh: chuẩn bị rút lui lên vùng rừng núi phía Tây, cố bảo toàn lực lượng, mang theo đủ vũ khí chưa sử dụng đến. Khi lệnh rút lui ban bố vào đêm 25 tháng 2, một không khí có phần hoảng loạn diễn ra. Máy bay Mỹ bắn phá ném bom ác liệt các đường rút lui. Máy bay Mỹ từ hạm đội 7, từ sân bay Đà Nẵng, Phú Bài cất cánh liên tục. Bom đạn rền vang dữ dội. Đối với hàng ngàn tù binh và người bị bắt giữ, giải quyết ra sao đây? Cho trở về thì nguy hiểm, sẽ lộ hết tình hình, địa điểm, vi trí. Dưới thỉnh thị lên trên, trên không trả lời rõ ràng, để cho dưới tùy cơ ứng biến. Còn biết bao việc khác khẩn cấp hơn.

Thêm nữa là hồi ấy trong không khí căng thẳng đột nhập thành phố, thấy dân không nổi dậy, lại còn bỏ chạy, rất ít người đón chào, phối hợp giúp đỡ bộ đội, nên bộ đội nhập thành phố liền có thành kiến với dân Huế.

Họ bảo nhau: đúng là dân "ngụy" rất nặng căn, dân kinh đô cũ của phong kiến, rất bảo hoàng, dân hoàng phái, dân các "mệ" theo Bảo Đại, theo Ngô Đình Diệm và nay là dân "chống cộng". Danh từ (ác ôn" hồi ấy dùng cũng tràn lan, tuỳ tiện! Sỹ quan, hạ sĩ quan, cho đến nhân viên cảnh sát thì đều là "ác ôn" hết Vì đó là bộ máy đàn áp! Đảng viên Đảng Dân Chủ thì cũng là "ác ôn" tuốt vì đó là đảng của giới cầm quyền; cán bộ bình định nông thôn cũng là "ác ôn" vì công việc bình định được biết là rất tàn bạo, có biết đâu nhiều người đi vào đó là để tránh đi lính; công chức hành chánh tỉnh, quận, xã cũng bị coi là ác ôn vì là trong hệ thống chuyên chính của địch; cho đến sĩ quan, hạ sĩ quan, lính thuộc sư đoàn biệt động nhiều khi cứng bị coi là "ác ôn" vì đó là những đơn vị thiện chiến nhất... Những người làm ăn khá giả, nhà cửa bề thế, có tủ chè, sập gụ, hoành phi, câu đối thì bị cho là gia đình phong kiến, quan lại, hoàng phái, ủng hộ chính quyền và từng tham gia chính quyền chỗ dựa tin cẩn của chính quyền Sài gòn nên một số cũng bị bắt đi... Khi kiểm tra lại thì không một ai, không cấp nào có ra lệnh thủ tiêu tù binh cả. Trong bản qui định về kỷ luật chiến trường còn có ghi: Không được đánh đập tù binh; chỉ các cán bộ chỉ huy và chuyên môn (là quân báo và địch vận) mới được hỏi cung tù binh... Thế nhưng khi ở mặt trận lại có lệnh từ các sư đoàn xuống: "Phải giải hết tù binh loại "ác ôn", loại nguy hiểm lên căn cứ"; phải "kiểm tra canh gác kỹ số này để không trốn được vì nếu để trốn, chúng sẽ làm lộ hết bí mật quân sự, sẽ hết sức nguy hiểm và tai hại." Cho nên những vụ tàn sát có tính chất tập thể có thể đã xảy ra ở các tiểu đoàn đang hành quân rút lui. Giữa cảnh hỗn loạn khi có lệnh rút. Quân đối phương có những mũi vu hồi chặn hậu. Phía sau, phía trước, ngay trong khu vực hành quân đều bị bom và hỏa lực pháo... Quân hai bên và tù binh chết và bị thương lẫn lộn. Một số đơn vị nảy ra hành động thủ tiêu tù binh để bảo đảm không lộ bí mật, không bị nguy hiểm, "nhẹ gánh", "khỏi vướng chân", "sẽ chết cả nút ... Cuối cùng cũng còn một số ít tù binh giải về căn cứ, được dùng để đào hầm hố, khuân vác... một số về sau được thả về.

Các vụ tàn sát này về sau đã được giải quyết ra sao? Có ai bị kỷ luật không? Theo tôi được biết, do dư luận miền Nam, đừ luận quốc tế xôn xao, xúc động mạnh nên Tổng cục chính trị, cơ quan thanh tra quân đội có chú ý vụ này. Việc có 5 bác sĩ Cộng hòa Liên bang Đức bị giết cũng làm cho vụ này vang động hơn. Tướng Trán Văn Quang có bị phê bình. Chính uỷ Lê Chưởng của Mặt trận Trị Thiên về sau chuyển ngành, ra Thứ trưởng Bộ giáo dục(!) ông chết trong một tai nạn ô tô ở Nghệ An. Đại tá Lê Minh chỉ huy cánh quân ở tả ngạn sông Hương cũng bị phê bình; ông chết bệnh sau đó. Cách giải quyết những sự việc lớn của chế độ hiện hành luôn che dấu, ém nhẹm, "xử lý nội bộ", úp úp mở mở, không công khai, rõ ràng. Việc giáo dục căm thù cần thiết trong chiến tranh đã bị đẩy tới mức cực đoan, qui định tràn lan là "ác ôn", kẻ thù tối nguy hiểm, không được để bỏ trốn... đã tạo nên những vụ tàn sát khốc liệt. Lẽ ra trong vụ này, công lý đã phải lên tiếng một cách công khai, rõ ràng vì liên quan đến mạng sống của hàng ngàn con người. Bất kể ai phạm tội đều phải bị xử trí đích đáng, để những sự kiện tương tự không thể tái diễn. Lẽ ra tất cả hệ thống chỉ huy Trị Thiên đều phải bị điều tra và xử lý về vụ này để qui rõ trách nhiệm từng người, để kết luận một cách công minh, để giảm bớt phần nào nỗi đau của những người trong cuộc và gia đình người thân của họ. Điều tệ hại là những người lãnh đạo đảng cộng sản có khuynh hướng coi những sai lầm "tả" khuynh là nhẹ. Như bắt người trong cải cách ruộng đất, thái độ hung hãn với các tôn giáo, qui định quá mức trong cải tạo tư sản... đều xử trí qua loa. Họ lập luận rất kỳ quặc là: hữu khuynh mới thật tai hại! Hữu khuynh là thiếu tinh thần cách mạng; còn tả khuynh là thừa tinh thần cách mạng. Cho nên ông Đồng Sỹ Nguyên hồi 1947, 1948 ở Quảng Bình phạm tội đốt phá, bắn giết một số làng công giáo, bị kết án cho yên lòng dân, sau đổi tên (tên thật hồi ấy là Nguyễn Sỹ Đồng) ra Hà nội làm Cục trưởng dân quân, rồi cứ lên mãi đến ủy viên Bộ chính trị, Phó thủ tướng... Ông Trường Chinh sau sai lầm cải cách ruộng đất, mất chức Tổng bí thư, chỉ ít lâu sau làm Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc Hội và vẫn là ủy viên bộ chính trị, rồi còn trở lại làm Tổng bí thư; ông Đỗ Mười là nhân vật chủ yếu đánh toàn bộ giai cấp tư sản, thủ tiêu cả nền công thương nghiệp tư doanh làm điêu đứng cả xã hội, nhất là nhân dân lao động thì lại lên làm Tổng bí thư? Các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Hà Phan, Đào Duy Tùng, Nguyễn đức Bình, Lê Phước Thọ... vừa được đưa lên đều là những nhân vật "tả khuynh cỡ nặng, những người đã lên án rất gắt gao ông Trần Xuân Bách ở Hội nghị Trung ương 7 và 8 hồi 1989 và 1990. Khuyến khích trên thực tế xu hướng "tả" khuynh, cực đoan, mù quáng là một nguyên nhân phạm sai lầm dai dẳng của đảng cộng sản.

CUỘC "CHIẾN TRANH NGẦM" GIỮA ÔNG "TỔNG" VÀ ÔNG "TƯỚNG"

Trong Hoa Xuyên Tuyết tôi đã nói qua đến thái độ không thiện cảm của Tổng bí thư Lê Duẩn đối với đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều này cả thủ đô Hà Nội, đặc biệt là giới trí thức và giới quân sự đều biết.



Nó có nhiều nguyên nhân. Trước hết, từ năm 1945, ông Lê Duẩn bị "quên" một thời gian ở Côn Đảo. Ông và một số bạn tù sang đến đầu tháng 9 mới có mặt ở Nam Bộ, sau khi Cách mạng Tháng Tám đã bùng nổ 2 tuần lễ. Thành ra các chức vụ đã có người đảm nhiệm cả. Tướng Nguyễn Bình và ông Trần Văn Giàu là 2 người có quyền lực lớn nhất sau Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn không biết ông Duẩn là ai cả nên giao cho ông chức vụ quá thấp: Trưởng phòng dân quân Nam Bộ, sau khi ông ngỏ ý muốn vào ngành quân sự. Với ý thức của người Cộng sản chuyên nghiệp, từng được vị nể ở Côn Đảo, từng thảo luận sôi nôi nổi về chủ nghĩa Mác, về cách mạng Việt Nam với Trần Quỳnh, ở cùng "banh" số 19, nhìn lên trên ông thấy Bộ trưởng Bộ Nội Vụ là Võ Nguyễn Giáp, rồi Chủ tịch Quân uỷ Hội là Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp là ai ? Ở Nam Bộ lúc ấy, người ta chỉ biết ông Giáp vốn là một trí thức, đậu cử nhân luật khoa ở trường Đại học luật Hà Nội, là giáo sư khoa sử trường tư thục Thăng Long. Dưới con mắt nhà cách mạng vô sản, ông Giáp chưa có bằng cấp "ở tù', chưa qua cửa ải Buôn Ma Thuộc hay Côn Đảo nhà tù Lao Bảo hay Sơn La cũng không, thì không thể ở cương vị lớn đến thế? Trưởng phòng dân quân Nam Bộ chỉ làm việc kiểm tra số lượng dân quân ở các tỉnh miền Đông và miền Tây, việc tổ chức tự vệ ở Sài Gòn và Chợ Lớn, thống kê các loại vũ khí, hướng dẫn việc huấn luyện cấp tốc cho dân quân, theo lời một đại tá lực lượng quân báo vốn ở phòng dân quân Nam Bộ đầu năm 1946 kể lại.



Chính ông Lê Đức Thọ, uỷ viên thường vụ trung ương (như là uỷ viên Bộ Chính Trị hiện nay) được cử vào Nam Bộ năm 1946 đã phát hiện ra điều "không hợp lý" ấy và đưa ông Lê Duần lên cương vị ngày càng cao. Tâm đầu ý hợp giữa 2 ông họ Lê ngày càng sâu đậm. Cùng một thái độ hoài nghi đối với trí thức có ít nhiều học vấn từ "trường của Tây" (ông Thọ có người anh cả tốt nghiệp trường thú y Hà Nội, nhưng ông luôn tự coi mình là tài giỏi, là cao hơn người anh của ông vì mình đã có bằng "Côn Đảo"), hai ông cùng có sự băn khoăn về sự tín nhiệm mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho ông Giáp. Khi cùng ở Nam Bộ, 2 vị lãnh đạo này cũng đã cùng một thời gian lấy thêm vợ! Tất nhiên việc này lúc đầu là kín đáo, không có cưới xin công khai. Và các vị - theo các bà kể lại - đã phải giấu chuyện đã có bà cả ở quê ngoài Bắc, một bà ở tỉnh Nam Hà, một bà ở Triệu Phong, Quảng Trị về sau được đưa ra vùng tự do Nghệ An. Tại Đại Hội đảng lần thứ 3 (cuối năm 1960), một số đại biểu ở các tổ chất vấn về chuyện này. Đây là các cán bộ tập kết từ miền Nam ra, rất muốn lấy vợ ở miền Bắc mà bị cấm, vì không liên lạc với gia đình ở miền Nam, do đó không có chứng cớ đầy đủ là vợ hoặc đã chết, hoặc đã lấy chồng khác. Nếu cứ làm bừa sẽ bị kết tội là vi phạm kỷ luật Đảng, đạo đức xấu, hủ hóa có hệ thống, rất có thể bị khai trừ ra khỏi Đảng. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh phải lên tiếng, thanh minh cho 2 vị rằng, "Chuyện các chú ấy có 2 bà là có thật, vợ cả, vợ hai đều là vợ cả, nhưng các chú ấy đã làm chuyện này trước khi có luật hôn nhân và gia đình, cho nên xí xóa. Từ nay có luật rồi mới cấm thật sự!" Nhiều đại biểu vẫn không thông, cho rằng có 2 thước đo về kỷ luật, về đạo đức, một cho trên một cho dưới ! Ông Lê Duẩn để 2 bà vợ ở 2 nơi, một bà ở Sài Gòn, một bà ở Hà Nội, còn ông Lê Đức Thọ thì cao tay hơn, có khi 2 bà ở chung một nhà trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Hà Nội, xưa là biệt thự của viên Hiệu trưởng trường Albert Sarraut, cùng ăn chung một bàn với đức ông chồng và con cái theo tinh thần Nam Bắc đề huề. Đúng là một nhà tổ chức đại tài!


Theo sự kể lại của viên đại tá Kinh Chi, một thời gian dài là Cục trưởng Cục bảo vệ của quân đội nhân dân (từ 1958 đến 1976) việc bắt một loạt cán bộ quân đội từ đại uý lên đến trung tá ở Bộ tổng tham mưu và ở báo Quân Đội Nhân Dân hồi 1964 đến 1966 trong cái gọi là "vụ xét lại trong quân đội" là theo lệnh của bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn, được ông Lê Đức Thọ phê chuẩn. Tất cả các vụ này đều chĩa vào đại tướng Võ Nguyên Giáp. Các đại tá Đỗ Đức Kiên cục trưởng tác chiến, Lê Trọng Nghĩa cục trưởng quân báo, Lê Minh Nghĩa chánh văn phòng Bộ Quốc phòng, Hoàng Thế Dũng vừa lên chức thay thượng tá Văn Doãn làm Tổng biên tập báo Quân đội Nhân Dân, Đại uý Đinh Chân biên tập viên ban Chính trị báo Quân đội Nhân Dân... sau khi bị bắt đều bị cật vấn như sau:

- Đã gặp ông Giáp (người ta gọi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư Lệnh một cách trống không như thế trong các cuộc hỏi cung) lúc nào, ngày nào, giờ nào, ở đâu, nói với nhau những gì ? Tất cả là bao nhiêu lần ?

- Các cuộc gặp ông Giáp ấy, có những ai có mặt ? Ông Giáp nói những gì trong các cuộc gặp ấy, nhất là nói gì về Liên Xô ? Về nghị quyết 20 ? Về cuộc tranh luận trong phong trào Cộng sản quốc tế ?

- Ông Giáp có nói gì về Khrushchev ? Có nói gì về cụ Mao ? Có nhắc gì đến Đại nguyên soái Staline không ? Đánh giá Đại nguyên soái ra sao ? Thái độ ông Giáp đối với tình hình Hungari ra sao ? Về việc Hồng quân Liên Xô vào thủ đô Budapest như thế nào ?

- Ông Giáp có nhận xét gì về đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Lê Đức Thọ không ?

- Ông Giáp có nhận xét hoặc nói gì về đại tá Lê Vinh Quốc và thượng tá Văn Doãn không? (Ông Quốc là phó chính uỷ quân khu Ba, ông Doãn là tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân ở lại Liên Xô từ năm 1963 sau khi học trường đảng ở Moscow)...

Chắc chắn được lệnh của ông Lê Đức Thọ thì đại tá Kinh Chi mới dám mở cuộc điều tra gián tiếp về đại tướng Võ Nguyên Giáp như vậy. (Năm 1977, đại tá Kinh Chi được lên cấp thiếu tướng, chuyển ngành làm thứ trưởng bộ thương binh, xã hội, rồi về hưu sau đó).

Một người vốn thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ nhiều lần nói với Bác Hồ chuyện ông Giáp từng nhận được một bức thư riêng của Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev qua sự chuyển giao tận tay của đại sứ Liên Xô Serbacov hồi 1957. Viên đại sứ này ai nấy đều biết là người của KGB (Cục tình báo trung ương Liên Xô): hai ông vịn cớ này để định kết tội đại tướng Giáp là có quan hệ vô nguyên tắc với người nước ngoài.

Thế nhưng chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng ra bênh vực ông Giáp, nói rõ rằng: "Chuyện chú Văn (bí danh thường dùng của ông Giáp) nhận bức thư là có thật. Chú Văn đã báo cáo với Bác và đưa bức thư ấy cho Bác. Chú Văn không có khuyết điểm gì trong chuyện này. Người ta viết thư cho chú ấy chứ có phải chú ấy viết cho người ta đâu?"

Ông Lê Đức Thọ vẫn bám riết việc công kích ông Giáp, vạch thêm, thế nhưng sao lại để đến 10 ngày mới nộp cho Bác? Cụ Hồ lại phải xếp chuyện này sang một bên rằng, sao lại cứ bắt bẻ như thế, chú ấy đã nộp cho Bác là được, chú ấy có giấu đi đâu !

Hai ông họ Lê cố tranh thủ ông Phạm Văn Đồng. Ông Đồng vốn không nhập vào phe phái nào, mũ ni che lai, cười khà khà: Chuyện này có gì đâu, có gì đâu? Không có gì là hệ trọng cả. Ông có vẻ có thiện cảm với ông Giáp hơn 2 vị kia. Một vị thiếu tướng làm việc ở Cục tác chiến bộ Tổng tham mưu, vốn cùng học với tôi ở trường Quốc Học Huế trước năm 1945, trên tôi 3 lớp, kể lại rằng năm 1972, ông ta được dự một số buổi họp của Bộ Chính Trị bàn về tác chiến ở miền Nam với nhiệm vụ ngồi ghi biên bản. Trong một phiên họp gần cuối năm 1972, ông Lê Duẩn khiêu khích ông Giáp: "Bộ tổng tư lệnh chỉ huy như vậy đó! Chọn hướng tiến công không rõ ngay từ đầu!" Ông Giáp liền cãi lại, bàn tay phải đập mạnh xuống bàn: "Nếu tôi có toàn quyền chỉ huy thì đâu có thế!" Dở lại biên bản ghi chép thì cuối năm 1971 cũng trong một phiên họp của Bộ Chính Trị, ông Lê Duẩn đề ra là hướng tấn công chính trong nam 1972 là Công Tum, Plây Cu, tướng Giáp chủ trương hướng chính là Quảng Trị và Thừa Thiên vì đưa quân miền Bắc vào thuận hơn, gần hơn, hướng Công Tum Plây Cu chỉ là hướng phụ. Về sau khi lâm trận do hướng chính tiến công ở Tây Nguyên gặp khó khăn mới chuyển hướng ra Quảng Trị, Thừa Thiên thì đã có phần chậm.

Hồi diễn ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ 5 tháng 8 năm 1964, giữa Tổng bí thư Lê Duẩn và Bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp cũng xảy ra sự chống chọi nhau. Khi tình hình rất căng thẳng, trong một phiên họp Bộ Chính Trị, Chủ Tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Cần chuẩn bị cho tết để đối phó với tình hình. Nhưng ta không đánh trước. Nó đánh trước thì ta đánh trả ngay. Không để bị bất ngờ."

Tàu Mỹ cứ quanh quẩn ra vào khu vực cách bờ 35 kilômét, chừng 20 hải lý. Tàu Madox ẩn hiện trong khu vực ấy. Vì tàu Mỹ chưa vượt hẳn qua đường quy định hải phận quốc gia nên tướng Giáp vẫn duy trì lệnh: "Chưa đánh! Chờ lệnh?" Cũng trong khi ấy, ông Lê Duẩn được báo cáo tình hình, liền ra lệnh thẳng cho Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng: "Đánh?" Được lệnh của Tổng bí thư, ông Dũng liền chuyển ngay lệnh ấy cho tư lệnh hải quân đô đốc Giáp Văn Cương. Và tàu ta nổ súng; trận ấy được báo cáo ngay về: ta bị chìm 2 chiếc tàu nhỏ, bị thương 1 tàu, phía địch bị thương 1 tàu. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ xảy ra như vậy. Sau đó ông Lê Duẩn thường trách cứ ông Giáp nhằm hạ uy tín của đại tướng: "Không dám tiến công địch, đánh giặc mà nhát như thỏ đế..."

Rồi đến chiến dịch mùa xuân 1975, sau khi chiếm được Đà Nẵng nơi có sở chỉ huy của vùng 1 chiến thuật vào ngày 29 tháng 3, Bộ chính trị hạ quyết tâm kết thúc chiến tranh bằng toàn thắng, huy động đến mức cao nhất lực lượng chính quy ở miền Bấc vào miền Nam. Trong kế hoạch cụ thể, tướng Giáp dự định để lại miền Bắc cả quân đoàn 1 đang đóng ở vùng Ninh Bình, Bắc Thanh Hóa, để đề phòng mọi bất trắc, ông cho rằng tiến công vùng Sài Gòn, Gia Định đã có 13 sư đoàn cùng với 4 trung đoàn đặc công và các đơn vị hỗ trợ khác là đủ. Về sau ông Duẩn đề ra yêu cầu đưa 2 sư đoàn của quân đoàn 1 hành quân gấp vào miền Nam, chỉ để lại 1 sư đoàn 308 ở lại miền Bắc, đưa tổng số sư đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lên thành 15 sư đoàn, gấp 3 cân đối phương. Hai sư đoàn này hành quân trong 11 ngày đã có mặt ở vùng Bắc Biên Hòa. Cuộc điều quân này ông Giáp cũng đồng ý. Thế nhưng ông Duần luôn dùng chuyện này để nói xấu Đại Tướng Võ Nguyên Giáp rằng, "Vừa đánh vừa run, thực tế là không chỉ huy", ngụ ý là Tổng bí thư cùng với Tổng tham mưu trưởng chỉ huy tất cả !

Theo tôi hiểu, việc để lại ở Cam Bốt một đội quân gần 20 vạn người trong mười năm do ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ chủ trương đã không được ông Võ Nguyên Giáp tán thành. Nhiều lần ông nói riêng với tôi rằng bộ đội đã bị sa lầy đất nước bị cô lập ? Tuy được mời, ông vẫn không sang Cam Bốt. Ông rất xúc động khi nghe tôi kể chuyện về anh em thương binh cụt chân do mìn Trung Quốc được máy bay Nga AN24 chở từ Cam Bốt về Sài Gòn. Lập trường của ông về việc dùng bộ đội Việt Nam ở Cam Bốt khác hẳn lập trường của ông Lê Đức Anh. Rõ ràng tư tưởng ông Giáp cao hơn hẵn ông Anh đến vài cái dầu.

Cuộc "chiến tranh ngầm" giữa Tổng bí thư và Tổng tư lệnh diễn ra dai dẳng. Các tướng lãnh ở Bộ quốc phòng và Bộ tổng tư lệnh tôi quen biết hầu hết đều không đồng tình với cách cư xử có phần thô bạo, thiếu công bằng của Tổng bí thư, họ vẫn quý trọng ông Giáp về thái độ đàng hoàng, không cay cú khi bị "chơi xấu", nhưng không ít người đã bắt đầu phàn nàn về thái độ do dự, có thể nói là nhu nhược của ông trong thời gian gần đây...

Ông đã bị họ điều khiển, bắt 2 lần đi sứ sang Tàu năm 1991 và năm 1993 để phục vụ chiến lược cầu thân của họ.
THỜI CỦA CÁC ÔNG TƯỚNG ĐỊA PHƯƠNG

Nhiều bạn bè và người nước ngoài hỏi: Việt nam hiện có nhiều tướng giỏi không? Xin được trả lời: có chứ! Tướng giỏi không ít. Nhưng họ bị "rơi rụng" hết? Như trên đã kể, vào những năm từ 1963 đến 1967, Cục bảo vệ quân đội theo lệnh của Bộ nội vụ và Trưởng ban tổ chức trưng ương Đảng bắt giữ hàng loạt cán bộ ở Bộ quốc phòng, Bộ tổng tham mưu, được coi là thân cận nhất của tướng Giáp. Tất cả số ấy đều xuất thân từ học sinh, sinh viên, gia đình tiểu tư sản thành thị. Không ai xuất thân từ bần cố nông cả. Đó là những sĩ quan xuất sắc. Đại tá Đỗ Đức Kiên nguyên là Kỹ sư canh nông, sang Liên xô học trường quân sự cấp cao được bằng đỏ, là cục trưởng tác chiến tài ba: Đại tá cục trưởng quân báo Lê Trọng Nghĩa vốn là sinh viên luật kloa, rất thông minh xuất sắc. Họ không đụng được đến đại tướng Võ Nguyên Giáp vì ông tỉnh táo, chặt chẽ, cẩn thận, giữ rất "kín võ", không để "hở sườn", lại được chủ tịch Hồ Chí Minh quý và tin cậy, thì họ cắt chân tay của ông. Từ sau 1975, đặc biệt là mấy năm gần đây, những cận thần thân tín của ông Giáp thưa thớt dần. Số đông về hưu, một số đã chết. Cái chết của hai ông Đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn làm ông đau buồn khôn xiết. Tôi đã được thấy khá nhiều lần sự tin yêu của ông Giáp với hai ông đại tướng này. Ông Hoàng Văn Thái ở gần ông Giáp từ dạo còn ở bên Trung Quốc, và sau đó ở căn cứ Việt Bắc từ cuối năm 1944. Về Hà nội, chính ông Giáp đã chọn ông Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Ông Thái ở Bộ Tổng tham mưu từ đó cho đến khi đột tử tháng 6 năm 1986! Trong 30 năm liền ở Bộ Tổng Tham mưu ông hàng ngày làm việc với ông Giáp với lòng quý mến nhau không suy suyển. Văn phòng Bộ quốc phòng ở ngay sát Bộ Tổng tham mưu, cùng chung một Sở chỉ huy tác chiến. Từ năm 1957 trở đi, tuy ông lui xuống làm Tổng tham mưu phó thứ nhất, "nhường" cho ông Văn Tiến Dũng làm Tổng tham mưu trưởng nhưng trên thực tế ông vẫn là linh hồn của Bộ tổng tham mưu, cán bộ tham mưu toàn quân được đào tạo lớp này đến lớp khác đều công nhận vai trò không thể thiếu được của ông trong sự trưởng thành của mình. Như đã biết, ông với ông Giáp còn thông gia với nhau. Ông là người bạn tri kỷ mà ông Giáp có thể thổ lộ tất cả tâm tình. Mỗi lần ông Thái đến, ông Giáp lại nói: Anh Thái đấy à, vào đây? Vào đây! Với tất cả sự thân yêu.



Đúng nửa năm sau, ông Giáp lại khóc một lần nữa sau cơn đột tử vẫn lại đột tử, chết bất thần, nguyên nhân không thật rõ, của đại tướng Lé Trọng Tấn, một cán bộ quân sự có đức có tài. Trong toàn quân, ông Tấn có uy tín cực lớn, ông là lão tướng xông xáo, có mặt ở mọi nơi nóng bỏng nhất. Là sư trưởng sư đoàn Công Pháo (Công binh - Pháp binh) ở chiến dịch Điện Biên Phủ, ông còn có mặt ở chiến trường Lào, ở chiến địch Sầm Nưa, rồi năm 1966 đến 1969 ở Trung ương Cục miền Nam, rồi tư lệnh cánh Duyên Hải tiến công từ Đà Nẵng qua Cam Ranh, Bà Rịa, Biên Hòa, để vào Dinh Độc Lập... mùa xuân 1975. Ông nhớ hết mọi diễn biến, đặc điểm của các trận đánh lớn, những kinh nghiệm xử trí của người chỉ huy. Có thể nói ông không có một ham mê nào, không uống rượu, không uống bia, luôn suy nghĩ về các trận đánh. Biết rằng ông vốn xuất thân từ một "anh đội tàu bay" ở sân bay Bạch Mai thời Pháp, lên đến Đại Tướng, sắp nhận chức Bộ Trưởng Quốc Phòng chỉ 10 ngày trước khi khai mạc Đại hội đảng lần thứ 5 (tháng 12- 1986), ta sẽ hiểu rằng ông đã phải phấn đấu ra sao. Ông Giáp và ông Tấn rất quý mến nhau vì rất hợp rơ (jeu) nhau trên các bản đồ quân sự. Ông Giáp đã có lần nói: ở trận nào mà anh Tấn có mặt để đốc chiến (đôn đốc tác chiến) là mình có thể yên tâm đến hơn 50 phần trăm rồi!



Tôi đã kể về Đại hội đảng toàn quân diễn ra 3 tháng trước đại hội đảng toàn quốc lần thứ 5, tại đó bất ngờ cực lớn đã diễn ra, làm cho các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Chu Huy Mân, Văn Tiến Dũng, Đặng Vũ Hiệp, Mai Chí Thọ... giật mình như bị điện giật! Bất chấp sự lãnh đạo trên cơ sở dân chủ tập trung, bất chất sự hướng dẫn của đoàn Chủ tịch đại hội, đông đảo đại biểu dù đã được tuyển lựa kỹ từ cơ sở đã dứt khoát không bầu các vị Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Đặng Vũ Hiệp, hai đại tướng và một trung tướng vào danh sách đại biểu chính thức đi dự đại hội đảng toàn quốc. Ông Giáp và ông Tấn được số phiếu cao nhất. Đại tướng Văn Tiến Dũng chỉ trúng là đại biểu dự khuyết; trước khi đại hội khai mạc đúng 10 ngày, ông Lê Trọng Tấn đột tử nên ông Dũng mới được bổ xung vào toàn đại biểu để vừa hân hoan vừa ngượng ngùng lọt vào hội trường Ba Đình? Mấy hôm sau đại hội toàn quân, tôi gặp các bạn cũ ở Câu lạc bộ Ba Đình, mấy viên tướng và đại tá hồ hởi: "Có thế chứ! Đổi mới cũng có khác chứ! Các đại biểu tinh đời thật? Không thể cứ cúi đầu vâng dạ như cũ được nữa!" Các sĩ quan cấp cao đã dám kể cho nhau nghe những bê bối của các quan lớn và các bà lớn, miệng nói không ngớt: vì dân, biết ơn các liệt sĩ chiến lợi phẩm là xương máu chiến sĩ, mà vợ chồng các ngài cứ chở kìn kìn về nhà, hết hòm này đến hòm khác, để dột từ nóc xuống. Chỉ khổ cho anh lính quèn. Đi xe lửa về phép, mang về chiếc quạt máy nhỏ, chiếc máy thu thanh cũ... cũng bị hạch sách, còn các ngài thì tha hồ chồng chất trong khoang máy bay và tàu biển... Mọi người hy vọng: đại hội đảng toàn quốc dân thứ 5 chắc sẽ còn cho thấy nhiều điều mới lạ hơn! Thế mới là đổi mới chứ! Đến Đại hội 5, mọi người chưng hững! Người la lắc đầu, ngao ngán.


Sau đó, ở Bộ quốc phòng, một loạt tướng ở địa phương được gọi về. Các tướng hiện công tác ở Bộ quốc phòng không được tin cậy nữa! Cuộc "mi- ni nổi loạn" ở đại hội toàn quân là từ các đoàn đại biểu ở các cơ quan của Bộ và các học viên, nhà trường trực thuộc bộ, đặc biệt là từ đoàn đại biểu của học viên quân sự cấp cao, nơi tập trung đông nhất những tướng và đại tá có tài, có trình độ, có nhiều kinh nghiệm nhất. Thế là từng đoàn các cán bộ của cục bảo vệ, của thanh tra quân đội, của ban kiểm tra quân uỷ trung ương ương tới tấp lao về Học viện quân sự cấp cao ở phía chợ Bưởi, ngoại ô thủ đô. Cả bộ máy an ninh, tổ chức, tuyên huấn được huy động để kiểm tra từng đoàn đại biểu, từng đại biểu khi cần, để hiện tượng "lỏng lẻo", "mất cảnh giác", "dân chủ quá trớn" ở Đại Hội Đảng toàn quán tuyệt đối không được lập lại.

Một cuộc chấn chỉnh lớn trong hàng ngũ sĩ quan cấp cao diễn ra sau đó. Bộ ba quan trọng nhất đều là các tướng từ địa phương rút về: tướng Lê Đức Anh, nguyên là từ quân khu 9 trong thời chiên tranh, nơi tận cùng phía Nam, địa bàn vốn được coi là yên tĩnh hơn cả, ít ác liệt hơn cả vì không có quân Mỹ ở đó, cũng không có các đơn vị thiện chiến nhất của Sài gòn hoạt động, từ 1981 ông là tư lệnh quân Việt nam ở Cam Bốt.

Người thứ hai là trung tướng Đoàn Khuê, quê ở Quảng Trị, nguyên là thượng tá chính uỷ lữ đoàn giới tuyến đóng ở huyện Vĩnh Linh từ năm 1955 đến 1962, giáp với giới tuyến quân sự tạm thời. Năm 1963 ông vào chiến trường Quân khu 5 làm Phó chính ủy Quân khu, lấy tên là Trình. Sau 1975 ông lên làm Tư lệnh Quân khu 5 với quân hàm thiếu tướng rồi trung tướng. Tôi đã ghé qua quê ông, làng Gia Đẳng ven biển huyện Triệu Phong, cha ông là chánh tổng, giàu nhất làng, có rất nhiều đồ đồng ở trong nhà cũng như chôn dấu dưới những đụn cát cao. Ông đi hoạt động sớm, mới học đến lớp hai trung học thời Pháp, rồi bị bắt, đi tù ở Quảng Trị và Ban Mê Thuộc. Cha ông từ ông vì sợ liên lụy. Em ruột ông là thiếu tướng Đoàn Chương, giám đốc nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân. Cán bộ cấp cao quân sự đều biết ông Đoàn Khuê là cán bộ chính trị, hiểu biết về quân sự và kinh nghiệm chỉ huy còn ít, không hề được đào tạo về chỉ huy. Ông nổi tiếng là phát biểu cứng rắn, cực đoan, theo công thức khô khan và máy móc, tiêu biểu cho một viên chính uỷ ít học nhưng lại luôn thuộc lòng các công thức, ăn nói "đúng" lập trường kiểu lên gân mà không hề ngượng. Người thứ ba là thượng tướng Nguyễn Quyết, nguyên là chính uỷ quân khu 3, đóng bản doanh ở Kiến An, gần Hải Phòng. Ông người nhỏ nhắn, mặt thư sinh, tham gia tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 ở Hà nội, vào chiến trường miền Nam một thời gian ngắn ngay sau đó. Ông vốn là cán bộ chính trị, là một chính uỷ thành nghề, đúng như hình ảnh được phác họa theo kiểu văn học dân gian hiện đại:

Ngang lưng thì thắt lập trường

Đầu đội chính sách vai quàng chủ trương

Mở miệng là nói huyên thuyên

Hết niệm cụ Mác lại truyền kinh Mao

Đời là kinh, tướng mãi cao.

Sau đại hội 6, ba ông tướng địa phương rút lên trung ương, đánh bạt tất cả hàng mấy chục tướng giỏi, tướng có văn hóa, có thực tài chỉ vì một đường lối chính trị cũ kỹ đến cổ hủ, run chân trước ý thức dân chủ vừa manh nha, ôm giữ quyền lực đến cùng vì lợi riêng. Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm tổng cục chính trị luôn là một bộ ba quyền lực lợi hại nhất nắm lực lượng quân đội. Đến Đại hội 7 (tháng 6- 1991), bộ ba có thay đổi chút ít để thành bộ bốn, theo hướng củng cố cho vững thêm hạt nhân cứng rắn: Bộ trưởng Lê Đức Anh lên nắm chức vụ chủ tịch nước; chắc chắn hàng trăm vị tướng vốn là cấp trên ông phải nhún vai lắc đầu! Năm 1964 ông mới là một cục phó loại trung bình trong cục tác chiến của Bộ tổng tham mưu với cấp trung tá. Thời đánh Pháp, ông còn là một cán bộ vô danh. Nay ông ôm cả một mảng lớn quốc phòng, an ninh, ngoại giao, nội trị. Tổng tham mưu trưởng Đoàn Khuê lên thế ông ở chân Bộ trưởng quốc phòng, cuối 1974 ông còn là một phó chính uỷ với cấp đại tá, lúc ấy ở Bộ quốc phòng đã có hơn 30 ông tướng! Tướng lài, tướng giỏi lên vượt cấp là chuyện bình thường, nhưng đây chỉ là tướng "thông suốt" với đường lối bảo thủ, thế thôi! Tổng tham mưu trưởng mới là trung tướng Đào Đình Luyện, lại mới lên thượng tướng cho tương xứng với chức vụ. Đây cũng là chuyện không bình thường, vì tướng Luyện là tướng không quân, mà thường tổng tham mưu hay tham mưu trưởng các quân đoàn, quân khu đều là tướng bộ binh, để chỉ huy hợp đồng binh chủng, lấy bộ binh làm chủ. Tướng Luyện là một trong những người lái máy bay quân sự đầu tiên của miền Bắc Việt nam, tốt nghiệp lái máy bay ở Trung Quốc hồi 1957, đến 1960 lại đi tu nghiệp thêm ở Liên xô. Ông chăm chỉ, cán thận, anh em cấp dưới mến, sống giản dị, người cao to, da ngăm đen, vốn quê vùng chiêm Thái Bình nhưng tính tình có nét khác lạ là "như con gái" trong quan hệ với bạn bè, gặp phụ nữ là đỏ mặt, và rất "sợ" cấp trên. Suốt trong cuộc chiến đấu chống không quân Hoa Kỳ ném bom bắn phá miền Bắc, ông là tư lệnh không quân. Có lẽ ông được chọn vào chức vụ mới tổng tham mưu trưởng là vì tính kỷ luật rất cao, trên bảo gì là "Rõ rõ!" ngay, một tinh thần viên chức cao lấn át hết tinh thần công dân. Bảo làm gì là làm nấy, như một cỗ máy hoàn hảo, không cần suy nghĩ băn khoăn làm như thế vì sao? Để làm gì? Khi quân đội rất có thể được dùng cho một mục tiêu chính trì chống lại phong trào dân chủ của quần chúng thì cần người chỉ huy như thế. Xin đọc những lời huấn thị của bộ trưởng Đoàn Khuê thì rõ: "Quân đội ta phải sẵn sàng bảo vệ chế độ, thẳng tay trừng trị những mưu đồ diễn biến hòa bình" được bọn đế quốc và phản động giật dây..." Tôi quen biết tướng Luyện khá rõ vì hồi chiến tranh thường lui tới sở chỉ huy không quân để theo dõi cuộc chiến đấu của anh em lái trẻ.

Người thay tướng Nguyễn Quyết ở cương vị chủ nhiệm Tổng Cục chính trị quân đội nhân dân là một bộ mặt mới, gần như không ai biết đến trước năm 1986. Đó là tướng Lê Khả Phiêu, mới ở cấp trung tá cuối năm 1974. Một cán bộ "trẻ", hơn 50 tuổi, lại mang bản chất thuần túy nông dân. Ông là chủ nhiệm chính trị quân đoàn, cũng từ địa phương, được điều về Bộ, nhảy cóc lên thiếu tướng năm 1979, lên trung tướng năm 1989, lên thượng tướng cuối năm 1992, sau khi được bổ xung vào ban bí thư trung ương đảng. Một viên tướng "vâng dạ địa phương về triều đình do yêu cầu chính trị mới. Trong khi ở Bộ Quốc Phòng, không thiếu các tướng tài hơn 4 vị nói trên khá nhiều. Như Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên là sư trưởng sư đoàn 304 từ khi mới thành lập năm 1951, thông minh, có học vấn, đọc được cả sách tây, tàu, mới đây là viện trưởng học viện quân sự cấp cao; ông rất quý đại tướng Giáp, và đầu năm 1989 bị một tai nạn xe hơi bất ngờ, may mà thoát chết? ở học viện này còn có tướng Hồng Sơn sinh viên năm 1945, em luật sư Nguyễn Thành Vinh, tên thật của ông là Nguyễn Thành Chính, là con rể nhà học giả Đặng Thai Mai, anh em cọc chèo với đại tướng Giáp; trung tướng Đỗ Trình phó viện trưởng, có trình độ nghiên cứu khá cao về lý luận và chiến lược quân sự; trung tướng Mai Trọng Tần có bằng toán học cao cấp năm 1945, rất xông xáo, lại có trình độ tổng kết...

Xuất sắc hơn cả có thể là Trung tướng Nguyễn Hữu An, hồi 1975 là tư lệnh quân đoàn 2, sau về làm Tổng Thanh tra quân đội, từ năm 1988 ông nhận chức giám đốc trường đào tạo cán bộ chỉ huy ở Đà lạt; Ông có đầy đủ các đức tính của một viên tướng, có trình độ văn hóa, sống giản dị, đàng hoàng, mực thước và chân thật, sức khỏe tốt, ông được đại tướng Giáp tin cậy giao cho nhiệm vụ đánh trận mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ chiếm căn cứ "Độc Lập" ở phía Bắc, khi còn là trung đoàn trưởng giỏi nhất của sư đoàn 312. Trình độ quân sự và đức độ của ông vượt xa cả tướng Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Đào Đình Luyện... tín nhiệm trong quân đội cũng vượt xa các ông tướng kể trên. Thế nhưng những người lãnh đạo hiện nay cần đến những viên tướng trình độ trung bình, kém cỏi nữa, miễn là họ thuận theo một đường lối chính trị giáo điều, bảo thủ, bảo vệ một chế độ độc đoán đã đánh rơi hết niềm tin của quần chúng, bị quần chúng coi thường, không còn sợ như trước, lại còn bị khinh thường nữa.

NHÀ QUÂN SỰ SÁNG TẠO VÀ KẺ A TÒNG


Tôi đã có dịp nói về chuyện ông Lê Duẩn kể lại những sự kiện lịch sử cận đại vào mùa hè 1983 tại nhà nghỉ của Bộ Chính Trị ở Quảng bá cạnh Hồ Tây Hà nội cho một số người nghe. Trong khi cao hứng ông tự nhận là sáng hơn, giỏi hơn chủ tịch Hồ Chí Minh. Về quân sự, trong cơn cao hứng, ông nhận định rằng học thuyết quân sự của đảng cộng sản Việt nam có tinh thần bao trùm là tiến công mà tuyệt nhiên không có phòng ngự (!). Phát triển ý ấy cao hơn nữa, ông phát biểu rằng học thuyết quân sự của giai cấp vô sản cũng chỉ có phương thức tiến công mà không có phương thức phòng ngự, bởi vì ngay cả khi dùng phương thức phòng ngự cũng phải mang bản chất tiến công.



Cùng ngồi nghe với nhà báo Thép Mới và tôi có đại tá Quang Cận, Tổng biên tập của tạp chí Quân Đội Nhân Dân, từ năm 1986 đổi tên tạp chí Quốc Phòng Toàn Dân. Chúng tôi cùng học với nhau ở Trường lý luận chính trị trung cao cấp của quân đội. Anh em thường gọi Nguyễn Quang Cận là "Cận mù vì bị cận thị nặng luôn mang kính. Tôi thấy Cận ghi chăm chú và liên tiếp mọi điều ông Duẩn kể, với thái độ kiên nhẫn và kính cẩn! Sau đó ông Duẩn lại nói chuyện với cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh, nhắc lại rằng học thuyết quân sự của đảng cộng sản luôn mang tinh thần tiến công nên không có phương thứ phòng ngự gây nên tranh cãi khá sôi nổi ở các cơ quan quân sự, nhất là ở Học viện quân sự cấp cao, viện nghiên cứu lịch sử quân đội, Bộ tổng tham mưu, Trường lý luận chính trị của quân đội (có 1 phần học về quân sự trong chương trình để cán bộ cho rằng không thể bác bỏ hai hình thức cơ bản trong hành động quân sự là: tiến công và phòng ngự. Sáng tạo gì thì sáng tạo, không thể loại bỏ phòng ngự đi được Cho dù khi phòng ngự vẫn phải có tinh thần tiến công thì phòng ngự vẫn là phòng ngự với những đặc điểm của nó, không thể thủ tiêu hình thức phòng ngự đi được! Liền đó, trên tạp chí Quân Đội Nhân Dân, một loạt bài phân tích lý luận ra đời, cho rằng giai cấp vô sản không có phương thức phòng ngự và "đảng ta" trong lý luận quân sự của mình, cũng chủ trương là chỉ có một hình thức tiến công là bao trùm, là duy nhất, cho dù khi buộc phải gọi là "phòng ngự" thì chỉ là phòng ngự về hình thức mà vẫn mang tinh thần tiến công, là phương thức tiến công! Tôi không còn nhớ kỹ lập luận kỳ quặc ấy, nhưng chỉ còn biết là một sự lẩm cẩm trong suy luận, nhân danh sự "sáng tạo của "đảng ta" và của người đứng đầu của đảng cộng sản Việt nam lúc ấy. Các bài luận văn ấy được ký tên: Quang Cận. ít lâu sau, tác giả được lên cấp thiếu tướng. Phải chăng đây là một sự ban thưởng cho một kẻ a tòng biết "hứng" khi lãnh tụ "tung" ra, như chuyện tiếu lâm dân gian, quan lớn "làm gì" cũng khen là "thưa thơm lắm ạ" vậy!

1      2      3      4     5     6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét