Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

HỒI KÝ TRẠI TẬP TRUNG CẢI TẠO CỦA DUYÊN ANH - KỲ 3



1      2      3      4     5     6


CHƯƠNG 10

Vụ ngô thu hoạch bết bát nên chúng tôi bị thổi “ác-mô-ni-ca” có hai mươi ngày.ngô, trưa ngô, chiều ngô. Răng đã hư vì mày của bo-bo, bao tử đã loét vì mày của bo-bo, bây giờ đến mày ngô vàng, tức là bắp đá. Ngô già luộc cả đêm, cạp muốn rụng răng, nhai muốn lệch quai hàm. Hùng nhí cầm “kèn”, không dám “thổi”. Nó đi xin mì vụn sống cầm hơi đợi thu hoạch vụ khoai. Và vụ khoai trúng lớn. Chúng tôi ăn khoai ròng rã ba tháng. Khoai ăn nóng ruột. Nhưng nhuận tràng. Tù nhân đăng ký… đi cầu tối và sáng sớm. Suốt đêm, đạn tiểu liên chơi ra-phan. Nhuận tràng quen thói hoá tiêu chẩy. Tiêu chẩy biến chứng rất nhanh sang kiết lỵ. Y tế của Sa Ác B chỉ có …Xuyên tâm liên 1. Xuyên tâm liên vô hiệu quả thì bác sĩ Thạch phát thứ thuốc tiêu chẩn uống cầm ngay nhưng táo bón và kiết lỵ thì thuốc chích Emitine lạc hậu đã đầu hàng. Khoai ăn liên miên, tù nhân kiết lỵ hơi nhiều, anh em cứ nhè các đội nông nghiệp mà chửi.


Bác sĩ Thạch kê cái bàn giữa sân trước giờ kẻng báo tập họp lao động. Tù nhân hình sự khai bệnh nằm nhà rất đông. Thời gian này. Sa Ác B có thêm một cán bộ trực trại. Ông thầy này tên Nguyễn Tấn Độ. Thầy Độ da ngăm ngăm đen, mắt trắng dã, rất ưa đinh tù hình sự. Nét độc đáo của thầy Độ là thầy “phản động” nói ngọng. Toàn thể các đồng chí của thầy Lhóa N. Riêng thầy N hóa L. Đám tù hình sự khai bệnh nằm nhà phải ngồi dưới gốc cây gần “phòng mạch” của bác sĩ Thạch, đợi thầy tới khám bệnh lại. Thầy xăn tay áo, gỡ đồng hồ. Thầy bắt từng tù nhân hình sự đứng dậy. Chỉ cần bác sĩ Thạch lắc đầu là thầy đinh tù tại chỗ về tội khai bệnh láo. Nhưng bác sĩ Thạch gật đầu lia. Bác sĩ đã cho nghỉ rồi mà. Tù chính trị thoát cảnh tái khám. Ròng rã 15 tháng ở Sa Ác B, tôi chưa hề thấy cai tù đánh đập tù nhân sĩ quan cải tạo, công chức cải tạo và phản động, trong trại và ngoài bãi. Một vài tù nhân phản động bị đánh thì đều thuộc thành phần phản động cà chớn, phản động vượt biên. Vượt biên là tù chính trị. Trung gian vượt biên lại là tù hình sự. Tôi có cảm tưởng cộng sản đã lố bịch hóa cái nghĩa tù chính trị. Cho nên, thế giới đã lắc đầu vì con số 1 triệu tù nhân chính trị sau 1975.

Phải thành thật nói điều này: Cai tù ở trại lao cải không hề chửi bới tù nhân một cách tục tĩu. không hề dùng roi vọt quất tù nhân, bắt tù nhân lao động. Vệ binh ghét tù nhân nào thì gọi tới giáo dục Nội quy.

- Anh cải tạo mấy năm rồi?

- Ba, cán bộ.

- Thuộc Nội quy chưa?

- Thuộc.

- Đọc điều bốn.

-”Trại viên phải triệt để tuân hành mệnh lệnh và chỉ thị của cán bộ”…

-Tốt.

Nó có thuộc nội quy đâu. Mọi điều nó bắt mình đọc, cứ đọc điều một là nó sướng phổng mũi. Đứng đực hay nói không thuộc, sẽ bị nó giáo dục lung tung, giáo dục mỏi chân. Đi lao cải phải thông minh, mồm mép đỡ… học tập. Đi lao cải mà ngu thì vất vả. Thật thà thì lại càng vất vả.

- Anh bảo tuân hành mệnh lệnh cán bộ sao anh không tuân hành mệnh lệnh tôi?

- Cán bộ ra lệnh gì?

- Tôi gọi anh.

-Tôi điếc, cán bộ ơi!

- Thế hả? Thôi thông cảm. Có điếu thuốc lá nào không?

Còn quản giáo có quyền tập họp cả đội mà “lên lớp”:

- Các anh vô lương tâm, thiếu tình cảm gia đình, không chịu cải tạo tiến bộ, ngồi chờ vợ con thăm nuôi.

Đó là về lao động lề mề. Đánh nhau, chửi nhau thì nó “lên lớp”:

- Các anh không thương nhau, ai thương các anh?

Một tù nhân ăn cắp củ khoai, bắp ngô, trái mướp, nó lên lớp:

- Tưởng các anh sĩ quan, trí thức miền Nam là ghê lắm. Các anh cũng ăn cắp. Ăn cắp là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.

Sa Ác B không có ai “ăn vụng thịt dưới nhà bếp, ăn tranh phần khoai và cháy của heo” nên tôi không hiểu cai tù sẽ “lên lớp” nhục nhã chừng nào.

Tuyệt nhiên, cai tù cộng sản không “đù cha, đéo mẹ” tù nhân lao cải, không “mày tao” và không xử dụng ngôn ngữ mất dậy để mắng mỏ tù nhân.

Thầy trực trại Nguyễn Tấn Độ mềm dẻo với tù chính trị bao nhiêu thì cứng rắn với tù hình sự bấy nhiêu. Nhưng thầy không thể cứng rắn với đồng chí Amibe vĩ đại “sống mãi trong sự nghiệp” kiết lỵ. Chính thầy đã bị đánh dội ra khi thầy vào nhà kiểm soát nếp sống văn hóa mới. Mùi phân kiết lỵ tanh tưởi. Nhiều tù nhân “con bà phước” kiệt sức không thể lết vào cầu, leo lên bục. Nên hoặc chơi tại chỗ, hoặc chơi dưới sàn nhà. Ruồi nhặng vo ve. Thêm nạn chuột ngày ngao du máng cầu, đêm phiêu lưu chỗ tù nhân ngủ kiếm chác quà thăm nuôi. Chuột đem phân kiết lỵ lên quần áo người ! Chúng tôi đã ăn, uống, hít, thở, ngủ bằng dưỡng khí nặng mùi phân kiết lỵ. Không ai chết cả. Thế mới là phép lạ. Con người bị tiêu hao, xoáy mòn thì trông rõ. Sức đề kháng của con người Việt Nam thật kỳ ảo. Bọn Mỹ nằm nhà tù lao cải thì chỉ có chết.

Tuy nhiên, khoai cũng làm khởi sắc nhiều tù nhân hợp khoai. Đám hình sự xì ke, trộm cắp mập mạp trông rõ. Vào thời kỳ “lao động là vinh quang” khoai, tôi nhận được thuốc men, quà cáp của nhóm Amnesty International ở Lannion miền Bretagne, Pháp gửi về địa chỉ gia đình tôi. Con tôi thăm tôi cho biết AI đang ráo riết can thiệp cho tôi được trả tự do. Tôi bình tĩnh chờ đợi ngày cộng sản phải thả tôi ra. Cũng vào thời kỳ này, Sa Ác B xuất hiện một “nhân vật” cai tù quan trọng: thầy giáo dục Mai Sơn. Công tác đầu tiên của Mai Sơn là thử tài vẽ của Đằng Giao và Nguyễn văn Thương, giáo sư trường Mỹ thuật. Đằng Giao bị chê vẽ thiếu phẩm chất. Anh ta cố tình bôi bác để khỏi bị vẽ. Nguyễn văn Thương được chấm. Tác phẩm của Nguyễn văn Thương cảm hứng từ khẩu hiệu thi đua: vượt cờ xanh. giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng. thắng cờ vàng được thể hiện trên cái paneau to tướng dựng trước mặt tù nhân khi ngồi tập họp lao động. Nó như vầy: Xe cải tiến biểu tượng của cờ xanh, xe vận tải biểu tượng của cờ đỏ, máy bay phản lực biểu tượng của cờ trắng, hỏa tiễn biểu tượng của cờ vàng. Tôi hiểu sự xỏ lá kềnh của Nguyễn văn Thương. Cờ đỏ cộng sản mới chỉ là xe vận tải. Cờ vàng quốc gia mới là hỏa tiễn. Anh Thương đưa ý kiến, Mai Sơn “nhất trí”. Và tù nhân khoái chí.

Công tác thứ hai của Mai Sơn là thực hiện một ngày lao động xã hội chủ nghĩa liên khu ABC mở con đường từ cầu sông Ray ra Long Khánh. Ngày lao động xã hội chủ nghĩa là ngày chủ nhật. Mai Sơn phát động thi đua giữa ba khu ngày đó. Vậy cần tin tức nóng hổi để phát thanh tại chỗ gây khí thế lao động. Nó lập ban văn nghệ khẩn trương, rồi nó gọi Phạm Long và tôi “làm việc” với nó:

- Anh nào là Phạm Long?

- Tôi.

- Anh đã cộng tác với đài phát thanh nào?

- VOF.

- Đài địch hả?

- Đài Tiếng Nói Tự Do.

-Tự do mẹ gì, phản động nặng! Anh làm cái gì?

- Tôi viết tin và đọc.

- Anh nói cách đọc tin của anh cho tôi nghe?

Phạm Long mỉm cười:

- Thì nói như tôi đang nói.

Mai Sơn bĩu môi:

- Thế mà địch nó cũng thuê anh?

Nó quay sang tôi:

- Anh chắc là Duyên Anh rồi?

Tôi đáp:

- Phải.

- Bao nhiêu năm tay nghề báo?

- 15 năm.

- Báo lá cải hả?

- Lá cải.

-Bao nhiêu năm tay nghề tiều thuyết.

- 15 năm.

- Tiểu thuyết ba xu chớ mẹ gì! Anh biết làm thơ không?

- Biết.

- Anh có biết mắt của thơ không?

- Không.

- Mỗi bài thơ đều có mắt đấy.

Tôi không đủ can đảm để hỏi ông thầy giáo dục Mai Sơn, đại diện của Tố Hữu, ngoài mắt, thơ có mũi, miệng, tai, rốn và hậu môn?

- Anh biết viết tin không?

- Biết.

- Tin ngắn và tin dài khác nhau thế nào?

Tôi chợt nhớ Thanh Tâm Tuyền nói về truyện ngắn, truyện dài. Bèn trả lời:

- Thưa cán bộ, tin ngắn là tin không phải tin dài và tin dài không phải là tin ngắn.

Nó quác mắt:

- Anh dở trò phản động cộng lưu manh hả?

Rồi nó đuổi Phạm Long và tôi về. Nó nhún vai rất ngạo mạn:

- Sài gòn không có tài năng!

Thầy tu Phạm Long khoác tay lên vai tôi:

- Đ.m. cộng sản con hỗn hơn cộng sản ông nội. Nó dạy sư tổ nó cách viết tin cắc ké và đọc tin bằng Ô-pạc-lơ xách tay! Anh buồn không?

Tôi cầm tay Phạm Long:

- Cậu sẽ kể kỷ niệm này cho Phạm Hậu, Phạm Huấn nghe. Chúng nó sẽ cười vỡ nước Mỹ.

Mai Sơn khoái trò bầy hương án sáng chủ nhật. Nó nói về kinh tế, xã hội, chính trị miền Nam. Thằng này mang quân hàm thượng sĩ. Hễ mở miệng nói về văn hóa. Nó không quên tôi: “Văn hóa miền Nam toàn bọn nhà văn lá cải, thí dụ tiểu thuyết ba xu của Duyên Anh”. Một hôm nó nói về phòng Hạnh Phúc 2 nằm trong nhà thăm gặp. Nó bảo tù nhân nào xuất sắc đoạt giải thi đua lao động sẽ được ngủ với vợ suốt một đêm và miễn lao động hai ngày. Nó đem vợ tù nhân ra treo giải thưởng và ban ân bố đức. Nó thi hành chính sách đốn mạt của Đảng nó.

Phòng Hạnh Phúc, cái phòng khốn kiếp này, chỉ dành cho tù nhân phụ trách thăm nuôi, y tế trật tự, văn hóa. Mà Sa Ác B có một tù nhân chính trị duy nhất được làm y tế: bác sĩ Thạch. Mai Sơn nham nhở như Amibe. Nó thao túng Sa Ác B nhờ có thầy đỡ đầu ở Bộ nội vụ. Nó qua mặt giám thị Hiểu. Mai Sơn còn khoái trò tổng vệ sinh chủ nhật. Nó huy động vệ binh, quản giáo bắt tù nhân đem hết chổi cùn dế rách ra sân, lục tung hành lý kiểm tra tỉ mỉ. Lúc ấy, sân trại là chợ trời.

Nhưng mà “tác phẩm” đáng kể của nó là xây một cái hồ chứa nước mưa bằng đá. Bốn đội bị động viên xuống sông Ray vác đá tảng lên bờ. Có đội của tôi. Tháng 11 đã lạnh lắm. Buổi sáng đầy sương mù. Ra bãi lao động, chúng tôi thường sưởi ấm ở những gốc cây đốt còn hồng rực than. Thế mà chúng tôi phải trần truồng lặn xuống sông Ray móc đá trôi tới tự kiếp nào bê lên xếp đống trên bờ. Cho cai tù có nước mưa trong mùa nước lũ. Tôi sẵn bệnh bao tử, thêm bệnh dị ứng da. Hễ dầm mưa một lát, y rằng mu bàn tay đỏ ửng, ngón tay ngứa ran rồi mông, đùi ngứa ran. Tôi đã lặn dưới nước những sáng mùa đông. Bệnh dị ứng da của tôi sợ… tự kiểm, hết dở chứng! Tưởng đã sưng phổi. Tôi chả hiểu tại sao chúng tôi không có ai bị sưng phổi. Lạnh nó bắt đói. Đói nó làm lạnh gia tăng. Vài cục đường chẳng đủ chống lạnh. Tôi mới thấy hình phạt của thù hận gớm ghiếc quá. Một tháng lặn sông mò đá thì cũng như tổ tiên mình đã “xuống biển mò ngọc trai”. Có lẽ, đau xót hơn tổ tiên, vì chúng tôi bị mò đá giữa kỷ nguyên “độc lập, tự do, hạnh phúc”, kỷ nguyên “không còn người bóc lột người”, kỷ nguyên “tôn trọng con người”, kỷ nguyên của “chủ nghĩa ưu việt, , của “hòa giải dân tộc”, kỷ nguyên của người Việt Nam đối xử với người Việt Nam tàn tệ và tồi tệ hơn cả thực dân, phát xít, đế quốc. Nghĩ đến thù hận, tôi cảm hứng viết bài thơ tù:

Thư tù

Gửi cho anh đôi mắt
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết nhìn sự trơ trẽn ngục tù
và nó thấy nó bọ hung lầm lũi

Gửi cho anh cái mũi
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ngửi mùi tanh tưởi cachot
và nó thấy nó côn trùng câm nín

Gửi cho anh cái miệng
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ăn thực phẩm trâu bò
và nó thấy nó nghìn năm rác rưởi

Gửi cho anh cái lưỡi
để anh ráp vô họng hận thù
Nó sẽ biết tập tành nói chuyện thương yêu, lãng mạn, mộng mơ
và nó thấy nó xụt xùi muốn khóc

Gửi cho anh bộ óc
Gửi cho anh trái tim
Gửi cho anh ái tình
Gửi cho anh cuộc đời dạt dào cảm xúc
Gửi cho anh con người hào hoa đích thực
Gửi cho anh
gửi tặng hận thù

Tôi cũng nghĩ cả đến lòng trắc ẩn của những kẻ làm chúng tôi đau khổ, nhìn chúng tôi đau khổ, tưởng tượng chúng tôi đau khổ và đã quên chúng tôi vẫn đau khổ. Than ôi, “mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công nghĩa cùng kẻ bất nghĩa” thì lòng trắc ẩn ở chỗ nào nhỉ? Tôi làm tiếp bài thơ tù:

Lòng trắc ẩn

Con chuột đã chui vào
ăn hết phần cơm anh để dành khuya đói
chẳng cho anh ngủ yên khi anh đã rã rượi
nó cắn chân anh bắt anh thức với niềm đau

Con dán đã chui vào
bơi đùa trong ca nước
Làm sao anh uống được
cổ anh khô mà cánh nó ướt nhầu

Con thạch thùng đã chui vào
thở than sám hối
nó muốn linh hồn anh chới với
sáng hôm sau tự khai vỡ máu trong đầu

Con muỗi đã chui vào
đốt anh sưng vù mặt
nó thích anh mở to đôi mắt
nhìn đêm đen chua chát nỗi đời

Nhưng một hôm
anh tha thiết yêu người
Con dán thương anh ngậm đầy oan khổ
con thạch thùng nhìn anh tư lự
con muỗi cong lưng chích còng xích ngục tù
con chuột gặm cửa sắt cachot

Em yêu dấu
thấy chưa
lòng trắc ẩn

Ở thời đại tôi và với đồng bào của tôi, lòng trắc ẩn, hình như , đã tê liệt. Và tôi đành nhận lòng trắc ẩn của con dán, con thạch thùng, con muỗi, con chuột, nhân danh tất cả những gì tôi biết về thống khổ, về thù hận, về hình phạt của thù hận.

Cực hình lặn sống mò đá kéo dài đến cuối tháng 12-1979. Tôi lại về với gốc cây, xe cây và gò mối.
° ° °

Chuẩn bị đón Tết, TH6 tuyển lựa các nhân tài cho văn nghệ, thể thao. Mỗi khu sẽ có một hội tuyển bóng đá, một hội tuyển bóng chuyền. Trước đó, mỗi Nhà có một hội bóng chuyền giao đấu đề chọn cầu thủ vào hội tuyển. Văn nghệ duy nhất một đội cho liên khu gồm nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ tân cổ. Ông cựu giám đốc Viện âm nhạc và kịch nghệ Huế làm chánh chủ khảo chấm điểm nghệ thuật… tù. Một bạn tù Long Thành kể rằng kiến trúc sư Ngô Viết Thụ 3, giải nguyên khôi La Mã, người vẽ họa đồ tái thiết dinh Độc Lập, đã từng được giao nhiệm vụ vẽ họa đồ xây cất cái điểm canh ở trại Long Thành. Thì ông giám đốc Viện âm nhạc và kịch nghệ quốc gia có sắm vai chánh chủ khảo thi đánh đàn, thi hát ở trại tù là chuyện thường. Chấp kinh phải tùng quyền. Một số tù nhân sĩ quan từ Phước Long về đã lao động làm lược, làm mâm bằng nhôm cho quản giáo đề tránh mưa nắng, cũng là chuyện thường. Nhưng với nhiều anh khó tính – thường là chẳng có chút tài mọn nào – hay bầy tỏ “chí khí” và lòng bất khuất” lãng nhách. Các anh này công kích nhạc sĩ, ca sĩ, cầu thủ và thợ kim hoàn nhà tù. Thanh Tâm Tuyền, hồi mới ở Vĩnh Phú về cuối năm 1981 , thuật chuyện “ca sĩ” Phan Lạc Phúc khiến tôi ngậm ngùi, thương Ký giả Lô Răng vô cùng. Có ai mời nổi Phan Lạc Phúc hát những buổi thân hữu gặp gỡ ăn nhậu, văn nghệ? Anh ta hát hay lắm. Hôm khai trương Đêm Mầu hồng, Sài gòn, Thanh Tâm Tuyền lên hát, Phan Lạc Phúc nhất định “em chả, em chả”. Thế mà vì đổi đời, anh ta đã đứng giữa sân trại lao cải Vĩnh Phú hát vài bài ca cách mạng lấy khí thế cho tù nhân lên đường khổ sai lao động. Mỗi sáng ca vài bài, cả ngày nằm nhà. Đề tồn tại. Đổi 5000 tù nhân vớ vẩn chết lấy một Thanh Tâm Tuyền sống, một Doãn Quốc Sĩ sống, một Lê văn Tiền sống, một Phan Nhật Nam sống, một Nguyễn Hải Chí sống…tôi cũng chịu. Cái sống của những tài năng là cái để lại khi họ chết. Họ cần thiết sống để làm thăng hoa sự để lại. Mà có bao nhiêu tài năng văn nghệ đúng nghĩa, ở miền Nam? Tôi đã bị nguyền rủa thê thảm vì cái ý nghĩ này. Bọn tướng lãnh, nghị sĩ, bộ trưởng nằm tù nên chết hết, nhưng đừng bao giờ chết Phan Nhật Nam. Tôi không phê bình những người nhờ tài mọn mà tránh lao động vất vả, kể cả vẽ chân dung Hồ Chí Minh. Song, những người này đừng giả vờ sắm vai “uy vũ bất năng khuất” khi thoát nạn và đừng gang họng, lột lưỡi công kích thiên hạ để “sáng danh” cái đức bẩn và hèn của mình. Nếu tôi biết hát, tôi sẽ “thi” vào đội văn nghệ; nếu tôi biết đá bóng, tôi sẽ xin vào đội thể thao. Tù đánh đàn, tù hát cho tù nghe. Tù đá bóng, tù đánh bóng cho tù coi. Văn nghệ, thể thao béo bở gì, miễn lao động thì tập dượt tối ngày. Trình diễn xong được bồi dưỡng cơm cháy! Đá bóng chân đất trên sân rừng, vấp gốc cây là đi chơi cái móng. Giao hữu với cai tù, nó đi giầy vải, nó “cộp” sưng vù giò. Mỗi cái vinh đều có cái nhục. Máu văn nghệ tài tử và máu thể thao tài tử nó kỳ lắm, cứ tìm cái nhục mà lao vào. Để được đàn ca, chạy nhẩy. Dân chuyên nghiệp thì lại chán phèo. Bởi thế, những tay đàn cự phách của Sa Ác B không thi vào đội văn nghệ.


Những ca sĩ, nhạc sĩ tù trúng tuyển được chuyển sang khu A. Khu A dễ chịu hơn khu B nhưng lại có cái hầm đá nhốt tù nhân bị kỷ luật. Nghe nói khu A đã một nửa chức sắc tù là hình sự, nửa là chính trị. Khu B và khu C hình sự là cánh tay, là con mắt của cai tù.
° ° °

Ngày 30 tháng Chạp, tù nhân nghỉ lao động. Ban giám thị sợ cuối năm, tù nhân nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con sẽ có thể gây ra những bất lợi cho trại nên bầy trò tổng vệ sinh ăn Tết. Nghĩa là tù nhân phải mang toàn bộ hành lý của mình ra triển lãm từng món trên manh chiếu, trên tấm ni lông lớn để vệ binh và quản giáo kiểm tra. Tháo tung hành lý rồi thu dọn hành lý mất nửa buổi. Trực trại loan báo Ban giám thị cho phép hát nhạc vàng ba ngày Tết. Những bài ca chỉnh huấn vẫn bị nghiêm cấm. Trại bãi bỏ giới nghiêm đêm giao thừa. Tù nhân tự do liên hoan văn nghệ trong phòng khóa cửa!


Người bạn tù Phước Long về Sa Ác B kể tôi nghe một kỷ niệm Tết tù của anh ở một trại lao cải Tây Ninh những năm bộ đội còn quản lý. 29 tháng Chạp, cuốc trúng mìn. Vài người chết. Nhiều người bị thương nặng. 30 tháng Chạp khám xét hành lý. Mồng 1 Tết, Ban Giám thị bắt tù nhân tập họp ở sân trại để nghe họ chúc Tết, họ gửi lời chúc Tết gia đình tù nhân và tổng kết thành quả lao động năm cũ, đề ra kế hoạch lao động năm mới. Họ yêu cầu tù nhân hồ hởi phấn khởi chào mừng năm mới, không nhớ gia đình, phải cười vui bầy tỏ thiện chí lao động. Tù nhân cả trại không thể cười nổi. Vì các bạn tù, người chết, người chờ chết, người rên rỉ vết thương ở bệnh xá. Vệ binh dí súng vào ót các tù nhân cưỡng bức họ cười, vỗ tay và hát bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tù nhân bèn cười đủ kiểu, đủ lối. Nhiều người phát khùng vì cười có người vừa cười vừa chửi Hồ Chí Minh. Bị bắn chết. Tôi vội vàng viết bài thơ:

Chào mừng năm mới

Tù nhân tập trung giữa sân trại
nghe giám thị chúc tết mừng thêm một tuổi tù
Hôm qua một đội cuốc đụng mìn
người chết chưa kịp chôn
người mang thương tích còn đang rên xiết
Tù nhân thương bạn
nỗi đớn đau khó nói ra
Giám thị ban lệnh không được nhớ nhà
nhớ vợ nhớ con nhớ cha nhớ mẹ
Chào mừng năm mới
lao động thi đua là đáng kể
Những khẩu AK dí sát gáy mọi người
Cười
Cười
Cười
Cười
không cười chưa tiến bộ
Tù nhân òa lên cười khốn khổ
cười rơi nước mắt cười lệch cả đời
cười lạc giọng cười hụt hơi

Nhưng thế giới chẳng ai biết
ít ngày sau có tù nhân cười hóa điên bị bắn chết

Thế giới chẳng ai biết đã đành, đồng bào của tôi định cư khắp nơi trên trái đất cũng chẳng ai biết. Và cai thầu nỗi khổ đại diện tù nhân càng chẳng biết. Như năm ngoái, ở đây, ngay chiều 30, tù nhân đã được ăn cơm trắng với thịt kho và canh bắp cải nấu xương heo. Tiêu chuẩn thịt khiêm tốn: Mỗi bữa một cục nhỏ hơn nửa nắm tay. Tù nhân hưởng 6 bữa cơm trắng với thịt. Ba ngày Tết thả sức nấu nướng. Từ chập tối, không khí giao thừa đã sôi nổi. Đây là dịp may của mấy ông ái quốc biểu diễn miệng. Nổi đình đám nhất ở Nhà tôi vẫn là ông Phạm Thái Ất. Ông Thái Ất nhất định không cho ai ngủ. Ông ta đơn ca bài “Dậy mà đi”! ông vỗ tay rất nổ. Một tù nhân khó chịu.

- Tôi chưa ngủ. Tôi thức trắng đêm nay. Nhưng cửa khóa chặt. Dậy đi đâu, anh Ất?

Tù nhân khác lên tiếng:

- Vào cầu tiêu đi đái, đi ỉa! Đi cái mồm. Những thằng to mồm không được tích sự gì cả.

Ông Phạm Thái Ất im lặng. Vì người lên tiếng là sĩ quan Võ Bị quốc gia Đà-lạt. Khi ông Ất hết nổ, văn nghệ thuần túy bắt đầu. Càng về khuya càng buồn. Một tù nhân tay đàn guitare miệng hát “Xuân này con không về chắc mẹ buồn lắm…” khiến cả Nhà sụt sùi. Vệ binh gác Nhà ngồi nghe. Chú nhỏ gọi tôi:

- Anh Nong, anh Nong…

Qua chấn song gỗ của tường vách khoang dưới, chú vệ binh và tôi trò chuyện đón giao thừa.

- Bài anh gì vừa hát nà bài gì đấy?

- Tôi không biết tên.

- Anh thuộc không?

- Không.

- Anh nhờ chép hộ tôi bài ấy nhé?

- Cán bộ thích nhạc vàng à?

-Vàng, xanh, đen, đỏ mẹ gì đâu, bài ấy nàm tôi nhớ mẹ tôi, tôi chẩy nước mắt.

- Cán bộ cũng nhớ nhà, nhớ mẹ?

- Ai không nhớ mẹ.

- Tôi tưởng chỉ tù mới nhớ nhà thôi.

- Các anh tù trong, chúng tôi tù ngoài.

- Cán bộ nói sao?

- Các anh tù trong, chúng tôi tù ngoài. Bảo chúng tôi vào Sài gòn, chúng tôi ham quá. Ai ngờ ném vào rừng già canh gác tù. Anh tính xem, tiền cơm, áo, xà phòng, ninh tinh trừ hết, mỗi tháng còn mấy đồng. Để dành bao nhiêu năm mới mua nổi vé tầu về Bắc. Thế nên hai năm một nần phép, vẫn hủy phép. Chắc nâu nắm mới về thăm mẹ được

- Tôi bốn năm tù rồi.

- Tôi hơn anh hai năm. Anh tù trong còn được gặp mặt vợ con, còn được tiếp tế đủ thứ. Tôi tù ngoài ai thăm, ai cho cái gì?

Chú vệ binh móc gói thuốc thơm mời tôi:

- Hút một điếu Sông Cầu, anh Nong. Tôi mời anh. Tiêu chuẩn thuốc Tết đấy.

Tôi rút điếu Sông Cầu. Chú vệ binh quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.

- Anh đáng tuổi cha chú tôi. Ở trong này, anh thông cảm nhé!

Tôi nói:

- Nhằm nhò gì.

-Các anh thù chúng tôi nắm hả?

- Thù hận chi, cán bộ.

-Này, nói thật, cũng có thằng náo nếu, hống hách nhưng nệnh cả. Nệnh bắt chúng nó náo nếu rồi chúng nó quen thói. Tôi mong các anh về sum họp gia đình hết. Cứ hết trại cải tạo nà tôi có cơ hội về Bắc.

Chú vệ binh hỏi:

- Thuốc thơm ra phết hả?

Tôi đáp:

- Thơm lắm.

Chú vệ binh dặn tôi:

- Nhớ nhờ chép hộ tôi bài ấy nhé!

Rồi bỏ đi. Tôi có nhiều kỷ niệm với vệ binh, toàn kỷ niệm buồn cười. Có chú cứ đến phiên gác đội tôi là ngày vài lần mời thuốc lá.

- Anh Nong.

- Gì, cán bộ?

- Nại bảo.

-Chi?

- Có thuốc ná cho xin một điếu.

Rút điếu thuốc cống thầy, thầy sai:

- Nại bếp nấy giùm tí nửa.

Có chú xin thuốc nhưng sợ bị “đồng chí” biết, bảo tôi vất một chỗ rồi ra lượm. Có chú bắt tôi cầm con rắn giơ cao, đứng giữa nắng thật lâu vì tôi “đang nao động mà đánh rắn nại còn cãi cán bộ”. Hôm đó, tôi đập chết con rắn bò gần chỗ tôi, chủ ý tặng anh em nướng chia nhau mỗi người một miếng. Vì hết thuốc cống thầy, bị thầy xử ức. Tôi chưa bao giờ gây thù hận mấy chú nhãi chăn trâu cắt cỏ cả. Nói tôi thương hại mấy chú ẩy thì có vẻ giả đạo đức. Nhưng đêm giao thừa 1980, nghe tâm sự chú vệ binh, tôi thương hại thật sự. Chú vệ binh không hiểu câu trả lời thuốc lá “thơm lắm” của tôi. Ở bất cứ không gian và thời gian nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, tình người vẫn thơm lắm . Anh sẽ tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ cộng sản hay tiêu diệt luôn những con người sống trong chế độ cộng sản như chú vệ binh “ai không nhớ mẹ”?

Chú vệ binh cỏn nguyên vẹn cảm xúc “tôi nhớ mẹ tôi, tôi chẩy nước mắt” đi tuần một lúc thì trở lại.

- Anh nào vừa hát bài “Xuân này con không về chắc mẹ buồn nắm ” đấy?

- Tôi.

- Nàm ơn hát nại nần nữa cho tôi nghe. Hay nắm, buồn nắm…

Người tù trong cảm động hát lại. Người tù ngoài cảm động nghe. Giao thừa 1980, với tôi, đầy ý nghĩa. Ý nghĩa ấy soi sáng đường hướng sáng tác và chiến đấu của tôi, dẫu tôi có vì cái ý nghĩa ấy mà bị chụp bủa bằng những ngộ nhận, những hệ lụy chập chùng. Không cần. Điều cần thiết là nhà văn phải sống thật với lòng mình.

…Ô dẫu sao tối vẫn thấy họ rất người
Vẫn thấy họ níu tay đời tha thiết
Một nỗi gì xa xôi cách biệt
Có phải con người hay tại chủ nghĩa phi nhân
Con người sinh ra đã muôn thuở cô đơn
nhưng khao khát gần nhau và thèm gần nhận thêm nữa
Ở chín tầng oan khiên nhục nhã
bỗng tự nhiên tôi yêu quý con người
thiếu con người sẽ thiếu hẳn đất trời
Tôi sống với ai
thơ tôi còn chi để viết
° ° °

Mồng một Tết, như năm ngoái, Ban giám thị bày bàn hương án và bắt tù nhân tập họp đề nghe chúc Tết và động viên tinh thần lao động tích cực. Trước khi Ban giám thị xuất hiện, thầy giáo dục Mạo yêu cầu tù nhân văn nghệ lấy khí thế mừng xuân. Tù nhân nhao nhao “Hùng nhí, Hùng nhí”! Tên tù nhóc anh dũng đứng dậy, tiến lên bàn hương án. Nó nhe “hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay” cười khì. Tù nhân vỗ tay hoan hô. Hùng nhí cầm mi-cô của cái máy phát thanh chạy pin, hắng giọng hát không đàn đệm:


… Ta thắp lửa bên con cua đồng
Ta thắp lửa bên lũy tre xanh
Quê hương ta từ ngày làm tương lai
bằng AK bằng lựu đạn 4

Thầy giáo dục Mạo vội vàng chụp mi-cô và đuổi Hùng nhí về chỗ. Văn nghệ lấy khí thế chấm dứt ngay. Tù nhân bầu Hùng nhí là: “người của năm 1980″. Ban Giám thị chúc Tết xong đến lượt các thầy quản giáo xông nhà thăm các đội của mình. Các thầy mang theo mứt Hà nội và thuốc lá Hoa Mai. Lại văn nghệ trong Nhà. Cái đinh văn nghệ của Nhà tôi là Tạ Dung thuộc đội của Đằng Giao. Tự nhiên, anh tù nhân Vovinam đầy mình “đờ mi tốc đờ mi phu” này xuất chúng một màn tự biên tự diễn. Tạ Dung, cháu chín đời Kim Mao sư vương Tạ Tốn, mào đầu:

- Thưa quý cán bộ, thưa các bác, các chú, các anh. Nhân dịp xuân về, Tạ Dung xin cống hiến quý cán bộ và cả Nhà ta màn văn nghệ đặc biệt. Tạ Dung đóng vai người đi từ Bắc vô Nam. Trước hết, anh ta ở Hà nội.

Tạ Dung hát cò lả, trống quân. Đến Huế, anh ta chơi hò mái đẩy. Vô Sài gòn, anh ta hò lơ.

- Bây giờ, người này trở về Bắc.

Tạ Dung đã đi đến cửa cầu tiêu, anh ta trở lại, hát nhạc Phạm Duy. Tạ Dung nhắm mắt giả vờ mù và bước khập khiễng giả vờ què.

- Ngày trở về, anh bước lê, trên quãng đường quê đến bên lũy tre….

Quý cán bộ chán quá, vất mứt Hà-nội và thuốc lá Hoa Mai cáo từ vội vã. Tù nhân vỗ tay sôi nổi. Tạ Dung số một. Tạ Dung đâu có khùng. Anh ta tiên tri ngày tháo lui của cộng sản. Trong ba ngày Tết, đội múa lân khu A vào biểu diễn. Rồi bóng chuyền khu A và C vô đấu vòng loại với khu B. Vân vân. Những tiết mục giải trí nghèo nàn này không hấp dẫn tôi. Nó chỉ làm tăng cái vẻ thê lương của đời tù lao cải. Đằng Giao và tôi có dịp bách bộ quanh trại, gần hàng rào kẽm gai, tâm sự vẩn vơ . Tôi chú ý hàng rào. Hồi tôi mới đến Sa Ác B, hàng rào thấp và thưa, cột bằng cây rừng. Bây giờ, hàng rào cao, dầy, cột sắt và bốn góc là bốn chòi canh bố trí súng trung liên.

- Ông thầy, ở bên Mỹ người ta đang làm gì?

- Chuẩn bị ra báo số Tân Niên.

-Tôi muốn, sau này, ông thầy viết một tiểu thuyết mộng và thực lồng vào nhau như Tiêu Sơn tráng sĩ. Nhân vật của ông thầy là một thôi, không phải hai Phạm Thái và Quang Ngọc, Quỳnh Như và Nhị Nương. Nhân vật ấy đang ở nhà tù, ở trại lao cải thì thoát ra nhập vào đời sống Mỹ. Nghĩa là, vừa mới vục phân dưới hầm, anh ta đã đi nhẩy đầm tíu tít. Rồi một chút suy nghĩ dưới hầm phân và trong phòng trà.

- Ý kiến hay.

- Một định nghĩa về đau khổ và hạnh phúc.

- Ông đã nghĩ chuyện sang Mỹ chưa?

- Không bao giờ..

- Tại sao?

- Tử vi vẽ sẵn con đường xuất ngoại của tôi: Mã lộ cùng đồ, ông thầy đi chứ?

- Phải đi thôi.

- Rồi ông thầy cũng sẽ cô đơn.

- Con người sinh ra đã cô đơn, lầm lỗi trên sinh đạo. Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền đã thét nỗi thét cô đơn đó.

Đằng Giao chỉ lên cây cổ thụ ngoài cổng trại:

- Ông thầy, lạ quá.

Tôi hỏi:

- Gì?

- Cây cổ thụ cũng trổ hoa. Ngắm đi, ông thầy. Đóa hoa tuyệt đẹp. Chỉ tiếc mình không hít được hương vị của nó.

Tôi ngước mắc nhìn đóa hoa duy nhất trên cây cổ thụ của nhà tù Sa Ác. Tôi chưa hề thấy cổ thụ trổ hoa. Mà cổ thụ đã trổ hoa. Lại trổ hoa ở nơi chốn buồn thảm của đời sống.

-Tôi sẽ viết một bài thơ ngắn.

- Nhan đề?

- Đóa hoa.

Và bài thơ ấy như sau:

Cây cổ thụ bỗng trổ một đóa hoa
Anh nghe giây kẽm gai thổn thức
Tự nhiên kẻng tù hết gầm gừ
âm thanh thoảng gió đàn rạo rực

Và đó là mùa xuân
anh vừa thấy sau nhục nhằn phát vãng
Gã cai tù xem chừng lãng mạn
Cây cổ thụ đã trổ hoa
Lòng suối độc xôn xao tình đá
Những thứ còng ở biệt giam
râm ran cảm giác lạ
thèm đôi tay ôm gọn cuộc đời

Họng súng sát nhân mệt mỏi rồi
Thù hận cúi đầu xấu hổ
Bản tình ca
dấy lên tự đất khổ
Cây cổ thụ cũng trổ hoa
tình yêu và hạnh phúc không già

Anh bẻ gai viết nhanh trên lá
những vần thơ ái ân
bồng bế
Rồi con người sẽ yêu nhau
ở khắp nơi trên mặt địa cầu

Tôi đã manh nha một cuộc chiến đấu của con người chế ngự thù hận và hình phạt của thù hận. Trước hết, con người cần phải là nạn nhân khốn khổ của thù hận và hình phạt của thù hận.
--------------------------------
1
Thứ thuốc trị bách bệnh của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2
Khi tôi rời Sa Ác B, phòng Hạnh Phúc mới mở cửa. Và một số tù nhân được ngủ với vợ.
3
Đã cộng tác với cộng sản. Được cho ra Bắc du ngoại. Được cho sang Liên Xô tham quan, về gáy cộng sản điếc tai cả nước.
4
Tôi không biết tên bài hát này và nhớ mấy câu trên có thể sai vài chữ.

CHƯƠNG 11


Ba ngày Tết trôi qua rất nhanh. Cái không khí “hòa giải dân tộc” lại bị ngột ngạt bởi màn tự kiểm tập thể, tự kiểm công khai giữa sân tập họp lao động trước khi tiến công hai mặt trận Lao động tích cực, Tư tưởng tiến bộ. Hùng nhí và Tạ Dung bị làm tự kiểm cá nhân, bị hạch hỏi cả tuần lễ. Tù nhân Sa Ác B thì chỉ bị phê bình. . . quá đà nhạc vàng. Nhân vật Phạm Thái Ất nổi bật.


- Anh Ất đâu?

- Anh hò hét to lắm hả?

- Thưa cán bộ, tôi chỉ…vỗ tay!

- Anh thành khẩn chứ?

- Dạ.

- Tốt. Nhưng đừng quên chúng tôi đã không bám sát sinh hoạt của các anh đêm giao thừa.

Tôi vốn không ưa những kẻ anh dũng trong bóng tối và hèn mọn ngoài ánh sáng. Phạm Thái Ất là biểu tượng của hạng người kể trên, nhan nhản trong nhà tù ngoài cuộc đời. Ngạo nghễ phải ra mặt ngạo nghễ. Muốn chứng tỏ mình phủ nhận chính sách cải tạo và pháp lý nhà tù thì hiên ngang khước từ lao động, hiên ngang chối bỏ nội quy, hiên ngang chống đối cai tù. Bằng không dám, nên nhẫn nhục. Biết nhẫn nhục những việc bình thường, biết nhịn nhục những kẻ tầm thường mới gọi là biết sống. Và còn gọi là can đảm. Khi vẫn cam đành ra bãi cầm cuốc, vẫn cam đành tôn trọng Nội quy, vẫn đứng nghiêm trước mặt cai tù thì không nên chửi bới sau lưng chế độ và cai ngục. Sự chửi bới sau lưng không giải quyết được gì. Nó chỉ chứng tỏ sự hèn nhát khi bị cật vấn và bắt buộc gian dối chạy tội. Lúc ấy lôi anh em ra khỏa lấp nỗi bẽ bàng của mình cái tội “ăng ten”. Chống chính sách cải tạo cần khước từ thăm gặp vợ con, gánh nặng quà cáp về trại. Nghe tên mình đọc thăm nuôi, nhẩy cỡn mắt sáng rực, miệng cười toe mà cứ thích chửi cộng sản thầm thì tôi thấy nó kỳ lắm. Nó gian dối lộ liễu. Và xứng đáng bị cộng sản khinh bỉ. Cũng như một ông nhà văn tôi đã gặp ở Paris. Ông này chửi bới Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Hoàng Cơ Minh hết cả ngôn ngữ chửi bới. Tội ác của Hoàng Cơ Minh, ông ta nêu ra cả một đống. Nhưng ông ta không dám lên tiếng trên sách báo ông ta viện dẫn lý do rất hợp lý. Ông nhà văn này thuộc thành phần anh dũng trong bóng tối và hèn mọn ngoài ánh sáng. Cái dũng biểu lộ với cai tù chăn trâu cắt cỏ là cái dũng của kẻ thất phu, bất trí. Đám này chỉ bị hành hạ và chết sảng. Cái dũng biểu lộ sau lưng cai tù chăn câu cắt cỏ và co rúm trực mặt chúng là cái dũng của kẻ vô lại, đê tiện. Người ta đã có một định nghĩa cho sự im lặng, cho tất cả những con người chịu đựng nghịch cảnh một cách nhẫn nhục và can đảm.

Thủ đoạn cộng sản là bung ra rồi thu lại, là nới lỏng rồi xiết chặt, là cho phép rồi kết tội. Sau Tết 1980, sự kiên trì của Sa Ác B biến thành trấn áp. Không còn cảnh Đậu Phi Lục vung cuốc cao rồi buông lưỡi cuốc từ từ nhẹ nhàng rơi xuống, chẳng cần ngập đất. Không còn cảnh Bùi Hoàng Thư chém cả ngày không đứt một cái rễ cây. Không còn cảnh vừa ra hiện trường lao động là báo cáo đi ỉa. Quản giáo đã kiểm tra chỗ tù nhân ngồi ỉa. Chấm dứt màn giải lao… tụt quần trốn lao động. Lệnh của Ban giám thị: Giới hạn sự đi ỉa ngoài bãi đến mức tối đa. Cái thú thứ hai của người Việt Nam không còn, cái thú được ví với tước vị quận công, ngang cơ Ủy viên bộ chính trị trung ương Đảng: “Thứ nhất Quận công, thứ nhì ỉa đồng”. Số tù nhân khai bệnh nằm nhà giảm gần hết. Bi cảnh lao động diễn ra: Người khỏe cõng người ốm đi lao động; người trẻ dìu người già đi lao động, người què chống gậy đi lao động… Vì lao động là vinh quang, lao động là thước đo giá trị con người. Chủ nghĩa cộng sản tôn trọng con người, đánh giá cao con người, với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Con người biến sỏi đá thành cơm nhưng con người khiêm tốn, chỉ ăn bo-bo, cạp bắp đá, nuốt khoai sùng!

Đội 28 nông nghiệp của tôi đã phát quang xong diện tích canh tác. Vì ông già Hoán bị trật khớp xương không thể gánh nước và nấu nước cho đội ngoài bãi, tôi được chỉ định thay thế nhờ “tuổi tù” cao hơn mọi tù nhân trong đội. Công tác nấu nước quá nhàn. Tôi gánh nước ở cái giếng đào cách bếp lộ thiên 200 thước. Máng khúc cây lên móc hai cái xô, chất củi nấu nước. Nước sôi, đi lượm ca cóng của anh em múc đổ đầy để giải lao anh em có nước uống. Đó là phần anh em. Còn phần của thầy quản giáo và hai thầy vệ binh thì nấu ấm riêng, có rễ tranh. Rút kinh nghiệm Đội rau xanh Long Thành, tôi bỏ hai tán đường vào ấm nước rễ tranh, khi đội vô lao, tôi xách ấm nước cầm theo ba cái ly “chế” bằng vỏ chai xá xị và ba điếu thuốc thơm Capstan rỏm cho các thầy thưởng thức. Các thầy ngồi uống nước, đấu láo. Đội muốn làm, muốn nghỉ tại chỗ tùy ý. Đội trưởng Trần Ngọc Lân rỉ tai quyên đường, quyên thuốc lá anh em. Anh em chỉ thích lao động đơn sơ chứ không thích đóng góp. Khi đường và thuốc của cá nhân tôi vừa hết, buổi sáng tập họp xuất trại đầu tháng 3-1980, cán bộ hồ sơ xuất hiện tại điếm canh. Trực trại nói lớn:

- Anh Hồ Hữu Tường, anh Vũ Mộng Long ở nhà.

Tất cả tù nhân đều tưởng ông Hồ Hữu Tường và tôi được tha. Bởi vì hễ anh cán bộ hồ sơ bảo ai ở nhà, người ấy sẽ về sum họp gia đình. Tôi giao xô và đòn gánh cho bạn tù khác, trở lại Nhà. Đào Minh Lượng đang quét sân (ông thẩm phán gầy ốm, lao phổi của tôi được làm vệ sinh Nhà từ lâu) chạy tới chia mừng với tôi. Ngô Đình Hoa chúc tôi về Sài gòn vui vẻ. Đợi các đội xuất trại hết, trực trại Nguyễn Tấn Độ tìm tôi:

- Anh Long đâu.

- Có

- Anh được tha rồi đấy.

Thầy Độ nói nhỏ:

- Những gì quý, anh để lại cho tôi.

Tôi cười:

- Yên chí, cán bộ.

Tôi vất lại tất cả đồ đạc cho Đằng Giao, Dương Đức Dũng, chỉ dồn mấy món “quý” như hộp thuốc, bình thủy, chăn, màn, quần áo,…vào cái túi phân bón tặng thầy Nguyễn Tấn Độ. Tôi mặc bộ quần áo bà ba đen đi đôi guốc do du đãng già Mậu, hỗn danh Già Móng đẽo tặng, theo thầy Độ, cùng ông Hồ Hữu Tường ra văn phòng trực trại. Ở đây, ông Tường và tôi, mỗi người được yêu cầu viết một trang nhận xét về Sa Ác B. Dĩ nhiên, nhận xét của tôi là tốt từ A tới Z. Trực trại Hưng nói:

- Được về sớm, sướng nhé!

Nhưng trực trại đã tưởng lầm. Cán bộ hồ sơ đến. Hắn đeo súng ngắn, ôm hồ sơ của ông Tường và tôi:

- Các anh chuyển trại. Cơ hội thuận lợi của các anh ở trại mới. Các anh sẽ được tha ở đó.

Người buồn nhất là trực trại Nguyễn Tấn Độ. Tôi đành xách túi đồ định cho hắn lên chiếc Van nhãn hiệu Ford. Ông Tường và tôi ngồi băng dưới cùng. Người ta khóa tay phải của tôi vào tay trái ông Tường, chân cũng thế, bằng hai chiếc còng số 8 made in USA. Xe rời trại. Nó chạy qua chiếc cầu do đội của Dương Đức Dũng bắc ngang sông Ray. Nó chạy trên con đường tù nhân Sa Ác đã mở những ngày lao động xã hội chủ nghĩa.

Giã từ Sa Ác. Giã từ một nơi chốn đã làm vàng ửng nỗi ngậm ngùi của tôi. Giã từ con dốc dài thoai thoải gánh nước leo lên thót bụng, oằn vai. Giã từ hầm phân nhung nhúc hàng tỉ con ròi. Giã từ gốc cây. Giã từ gò mối. Giã từ tất cả những tị hiềm nhỏ mọn, những gian dối đê tiện, những phán xét ngu xuẩn của xã hội vây quanh hàng rào kẽm gai. Giã từ, giã từ. Giã từ và cám ơn con gọng vó suốt đời phấn đấu ngược dòng nghịch lũ, suốt đời khước từ thân phận bèo rác, cây mục cuốn xuôi dòng. Giã từ và cám ơn đóa hoa đã nở trên cây cổ thụ. Tôi lại ra đi. Và chưa biết đi về đâu?

Duyên Anh
25-7-1987

PHẦN THỨ HAI
THƠM NỒNG TRÁI ĐẮNG(Rừng Lá Z30 D)
(Rừng Lá Z30 D)
CHƯƠNG 12


Đi về đâu? Tôi không biết. Và tôi cũng chẳng cần biết làm gì. Tôi đã đi từ nhà tôi đến Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã đi từ Sở công an đến đề lao Gia Định. Tôi đã đi từ đề lao Gia Định đến khám lớn Chí Hòa. Tôi đã đi từ cái tĩnh này vào cái tĩnh khác. Rồi tôi đi từ khám lớn Chí Hòa đến Sa Ác, tôi đi từ cái tĩnh ra cái động. Tôi có kinh nghiệm này: Cái tĩnh là sự đầy đọa linh hồn, cái động là sự đầy đọa thể xác. Cả hai cộng lại thành một hình phạt của thù hận mà người cộng sản đã tự hào tuyết hận tôi, tuyết hận một nhà văn chống đối họ bằng tư tưởng và chữ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bất lương Mỹ đã phó thác cái sứ mạng trả thù nhà văn nhân bản cho chủ nghĩa cộng sản bất nhân Nga. Không có nhà văn nào tự nhận mình còn lương tri mà không phẫn nộ thái độ xấc xược, vênh váo, chơi cha của bọn Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở khắp nơi trên thế giới. Bọn Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đại diện cho những chính sách, những chủ thuyết hèn mọn của những chính phủ những lãnh tụ tối cao của Nhà Trắng, của Ngũ Giác Đài, của Quốc Hội. Dân tộc Hoa Kỳ đã trở nên kiêu căng, ngạo mạn do cái chính sách ngu muội của “lập pháp” và “hành pháp” của họ với các nước nhỏ, nhất là các nước lệ thuộc vào đồng đô la viện trợ. Nước Mỹ không biết cứu giúp ai. Nước Mỹ không có lòng trắc ẩn. Nước Mỹ chích vào mạch máu tiểu nhược quốc một chai sérum thì sẽ rút ra một lít máu. Nước Mỹ rồi sẽ là Babylone. Hồi chuông báo động một đại hồng thủy mới đã điểm. Con tầu của ông Noé sẽ khước từ cứu vớt dân tộc Mỹ. Hoặc là, dân tộc ấy sẽ chịu lời nguyền như dân tộc Do Thái đã chịu. Dân tộc ấy cần biết đau khổ. Và cộng sản sẽ dạy họ thế nào là đau khổ. Lúc đó, họ sẽ hiểu còng made in USA không phải để cộng sản còng tay những người công chính chống cộng sản, mà còn để cộng sản còng tay người Mỹ tống vào các trại tập trung khổ sai lao động. Lúc đó, người Mỹ sẽ đói, sẽ ăn bọ cạp, thằn lằn, chuột cống cào cào, châu chấu, rắn rết rau rừng, cỏ dại.. . Lúc đó, người Mỹ sẽ khiêng bom chưa nổ, sẽ lấp hố bom, sẽ xuống hầm phân. Và, lúc đó họ sẽ thấy họ là con người đích thực, con người nguyên vẹn không giả vờ chẻ đôi, một nửa cứ sát hại nhân loại bằng bom đạn dã man, một nửa cứ nghêu ngao phản chiến rẻ tiền.


Tôi nói thẳng: Tôi chống đối chính sách của Mỹ đối xử với các nước nhỏ nhiệt tình như tôi chống đối chủ nghĩa cộng sản. Tư bản là cộng sản giầu. Mỹ và Liên Xô cùng bản chất gian manh khốn nạn. Hai đứa đang ghét nhau chuyện giầu nghèo. Thề thôi. Chẳng còn ý thức hệ gì cả. Muốn thoát đại hồng thủy, dân tộc Mỹ phải làm cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để cùng các dân tộc khác, thành tâm và lương thiện xóa bỏ nốt chủ nghĩa cộng sản. Khi hai chủ nghĩa khốn kiếp này bị hủy diệt, tham vọng đê tiện của chúng bị hủy diệt luôn. Loài người sẽ sống hòa bình, hữu nghị, hạnh phúc mà không cần bất cứ một chủ nghĩa nào. Khách quan mà nhận xét mà phê phán hai chủ nghĩa này đã bất lực trong mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Chúng còn tồn tại ngày nào nhân loại còn phải chới với trong chiến tranh ngục tù và thù hận Vậy nên hủy diệt chúng. Dân tộc Mỹ sẽ lãnh đạo cuộc chiến của Thiên Thần chổng ác quỷ, của con người chống quái vật 1.> Những nhà văn trước khi trở thành nạn nhân của cộng sản đều đã là nạn nhân của tư bản Mỹ. Diễn nghĩa rộng hơn, nhiều dân tộc bị tư bản Mỹ làm mồi dâng cộng sản. Cuba, Việt Nam, Angola, Nicaragua. Sẽ thêm nữa. Bởi vì, ở đâu chính sách Mỹ can thiệp trực tiếp ở đó chính nghĩa cộng sản rực rỡ và sức mạnh cộng sản đuổi Mỹ cuốn cờ chạy dài. Nước Mỹ thay vì xây Đài Chiến Thắng… giả vờ, nên tạc tượng Đại sứ John Dean ôm cờ sao sọc, mặt mày tái mét “nhanh bước chân nhi đồng”. Đừng quên khắc câu nói bất hủ của hoàng thân Sim Matak giữa trái tim John Dean: “Cái chết đối với tôi không quan trọng. Điều quan trọng là tôi đã trót tin người Mỹ”. Tượng John Dean nên dựng ở thủ phủ mỗi tiểu bang Hiệp Chủng Quốc. Để nhắc nhở cái dân tộc ngạo mạn, xấc xược ấy sự thua trận nhục nhã và sự phản bội có chứng cớ. Tất cả những danh từ, động từ, tĩnh từ liên quan tới chung thủy, thành thật, đồng minh, gắn bó, hữu nghị trong tự điền Hoa kỳ cần xóa bỏ. Muốn để lại, cần ghi chú: Chỉ áp dụng cho kẻ thù, không áp dụng cho bạn và đầy tớ.

Tôi là nhà văn, từ biết cầm bút bầy tỏ chính kiến, đã không tha thứ cho cái chính sách ngược ngạo của Hoa kỳ ở nước tôi. Chính sách ấy tạo ra bè lũ tay sai nắm quyền thống trị. Bọn thống trị cầy cáo này ngu dốt, tham nhũng. Chúng nó chỉ có tài ngoan ngoãn vâng lời chủ đàn áp, bóc lột dân tộc tôi. Người Mỹ tuyên bố khai phóng dân chủ, tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc tôi. Nhưng người Mỹ đã chỉ thị đầy tớ đâm lưỡi lê chảy máu dân chủ và thắt cổ tự do. Người Mỹ ở Việt Nam khích lệ đầy tớ tham nhũng và ăn chia tiền tham nhũng. Rốt cuộc, dân Việt Nam phải chống cộng sản, chống đầy tớ Mỹ, chống cả Mỹ. Sự mỉa mai nhất của chiến tranh Việt Nam là lính Mỹ, con em của dân tộc Mỹ đã chết nhục như những tên đánh mướn hèn hạ. Họ bị chính sách Mỹ lừa bịp. Họ đâu có được vinh dự hy sinh vì tổ quốc, vì lý tưởng bảo vệ tự do – dân chủ. Họ đã chết thảm trong “cuộc chiến mà họ không được phép chiến thắng” cho bọn tay sai của chính sách Mỹ ăn cắp, phè phỡn. Những cựu chiến binh thất thểu trên quê hương của họ có ai biết Cao văn Viên gửi ngân hàng ngoại quốc bao nhiêu triệu đô la? Có biết Nguyễn văn Thiệu đang giữ bao nhiêu triệu đô la? Như bất cứ một người Việt Nam liêm sỉ nào, tôi đã chống cộng sản, chống chính sách Mỹ và đầy tớ Mỹ. Và tôi bị đầy tớ Mỹ cấm viết, cấm luôn cả bút hiệu viết báo theo lệnh của chủ Mỹ của chúng. Tôi nghĩ, đến hôm nay, chỉ còn những thằng nhà văn vô liêm sỉ mới tiếp tục ngửa tay nhận tiền Mỹ làm công tác “văn hóa”. Những thằng nhà văn vô liêm sỉ ấy vẫn viết lách ăn lương khoán của Mỹ và vẫn được cộng sản ca ngợi công khai trên báo chí của chúng. Chỉ những nhà văn liêm sỉ là thất thế và bị vây hãm giữa ba thế lực cộng sản, phản chiến Mỹ và chính phủ Mỹ. Và đôi khi còn bị vây hãm bởi chính đồng nghiệp chống cộng của họ. Chưa kể họ còn bị vây hãm bởi các công ty kháng chiến, các hợp tác xã giải phóng, các tổ hợp phục quốc, các hãng thầu ái quốc và đám văn nghệ sa đích đố kỵ dơ dáy. Nhưng tín hiệu mới của chữ nghĩa dấn thân lúc nào cũng sẵn sàng phóng ra. Hôm qua. Hôm nay. Trong nước. Ngoài nước. Là người, không ai biết cúi mặt. Sự ngẩng mặt có thể dẫn vào tù, dẫn ra trại tập trung, dẫn xuống hầm phân, dẫn đếnn nơi chốn nào khác mình chưa biết, dẫn bằng ngõ hẹp, đường hẹp, dẫn qua cửa hẹp, dẫn đến sự sống. Khi đã đến đích của sự sống, cái chết vô nghĩa, cái tồn tại mới đáng kể. Bởi vì, cái tồn tại là cái gì để lại sau lần chui qua cửa hẹp.

Tôi đang đi trên con đường hẹp. Con đường hẹp dẫn tôi vào Rừng Lá. Là đây, trại lao cải Z30 D. Bên kia dẫy núi Mây Tào là TH6 Đồng Nai, bên này là Z30 D Thuận Hải, một tỉnh gồm Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân. Bí số của các trại tập trung khổ sai lao động tỉnh Thuận Hải là Z . Z30 D là một trong những Z30 từ A, B, C. D đến H, I, K, L, M. . . Từ quốc lộ số 1 , cây số nào tôi không nhớ, rẽ bên phải, đi khoảng hơn nghìn thước là tới Z30 D, K1. Khu vực này, trước 1975 là Rừng Lá hãi hùng. Du kích Việt cộng ẩn núp nơi đây, thường chặn xe đò tuyên truyền và xin “ủng hộ” tiền bạc. Đáng lẽ phải gọi là rừng Buông vì đa số cây rừng là cây Buông, thứ cây chỉ dùng được đọt lá. Cây Buông thích hợp đất cát. Rễ của nó giống hệt chùm râu ăn không sâu nhưng tóe ra khoảng đất rộng. Thân nó như thân cây dừa nước. Hai mươi năm Buông mới trổ hoa, kết trái. Và chết. Tuổi thọ của nó vỏn vẹn hai mươi năm. Trái cây Buông có chất độc. Người ta sử dụng để thuốc cá suối cạn. Rang khô, tán nhỏ ném xuống suối, cá sẽ nổi lên ngáp ngáp. Đọt lá của nó để đan quạt, đan giỏ… Lá già để lợp nhà, làm tiếp. Thân nó vô tích sự. Nó nằm mục đợi nấm mọc mùa mưa. Có hai thứ nấm ngon nhất và quý nhất. Là nấm mối và nấm Buông. Nấm mối nở trên gò mối. Nấm Buông nở trên thân Buông. Sau 1975, cộng sản dùng sức người của tù nhân phát quang khu rừng lá Buông, xây dựng một trại tập trung mang bí số Z30 D. Trại này di chuyền từ Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh ra nên vẫn giữ tên cũ Thủ Đức Z30 D . Con đường đất lớn ngoài quốc lộ dẫn vào trại là do tù nhân phạt rừng, hạ cây đào đất mà đắp.

Z30 D có ba K, cũng như ba khu. K là K2 và K3 . K tôi đến là K1 . Thủ tục nhận tù mới nhập trại ở Z30 D rất đơn giản. Có lẽ tù mới chỉ có hai tên. Người ta mở còng cho chúng tôi trên xe. Chúng tôi xách hành lý bước xuống. Tôi ngơ ngác nhìn một…dinh thự! Phải tôi đang đứng giữa sân trải đá răm xen lẫn sỏi của một dinh thự, chắc chắn, lớn hơn bất cứ một Bộ nào của nước Việt Nam cộng hòa ở Sài gòn. Sân có nhiều mảng vườn trồng hoa. Cỏ bên lối đi trải đá răm xanh um, tỉa xén và chăm sóc công phu. Những dẫy nhà nền cao, mái ngói đỏ au. Tôi không thấy cái vẻ “lao cải” ở đây. Ai dám bảo đây là nơi của chúa ngục, là nơi nhận chỉ thị đầy đọa tù nhân?

Người ta làm thủ tục nhập trại cho chúng tôi rất nhanh trong một căn phòng sàn lót gạch hoa cửa sổ thoáng mát. Anh cán bộ hồ sơ của TH6 từ giã chúng tôi. Anh ta nói:

- Ở đây, trại sẽ tạo mọi cơ hội thuận lợi cho các anh về sum họp gia đình. Tôi bảo đảm với các anh , trại nầy là trại cuối cùng của các anh. Các anh sẽ được tha ngày rất gần.

Chúng tôi được dẫn sang trại đối diện cái dinh thự gọi là cơ quan. Cơ quan vắn tắt. Trật tự của trại khám xét hành lý của chúng tôi, khám xét thân thể chúng tôi dưới sự giám sát của cai tù. Cộng sản đã lên án chính sách chiến tranh hóa Việt Nam của Mỹ. Nghĩa là họ chửi Mỹ dùng Việt Nam tàn sát Việt Nam. Cũng thế cộng sản dùng tù nhân khám xét tù nhân hạch hỏi tù nhân, làm khó dễ tù nhân. Sau màn kiểm tra người và vật, chúng tôi được dẫn vô một căn nhà. Tôi lại ngạc nhiên căn nhà tù tường gạch cửa sổ gỗ chấn song sắt, mái lợp fibro ciment. Căn nhà có kho, có kệ chứa thực phẩm của tư nhân và nồi niêu, ca cóng; có cầu tiêu bàn xối nước, có hồ nước lớn. Hồ nước xây bên trong nhà cầu tiêu có ba phòng, có sàn tắm. Căn nhà hai tầng kiều TH6 nhưng gỗ bào nhẵn làm sàn gác có kệ để hành lý. Tầng dưới lót gạch hoa, có hầm để hành lý cá nhân đậy nấp gỗ ngay đầu mình. Có hàng chục căn nhà và mỗi căn thuộc quyền xử dụng của một đội dưới 50 tù nhân.

Z30 D, K1 có hai khu. A và B. Khu A là khu kiểu mẫu của cả ba K và của một trại cải tạo kiểu mẫu của toàn bộ nhà tù nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Thư viện khang trang rất nhiều sách báo cộng sản. Có thể đọc Lê nín toàn tập, Xít ta lin toàn tập, Thời niên thiếu của Mác…. tại đây. Cũng có thể đọc Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo và Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck hay Cuộc đời Leonard de Vinci… Còn có thể đọc Temps moderne của Liên Xô, ấn bản Pháp ngữ. Thư viện đủ các thứ tự điển. Quản thủ thư viện là tù nhân trong Tổ thông tin văn hóa. Bệnh xá có hai bác sĩ, một tù, một cách mạng. Bác sĩ cách mạng tên Hoàng Cầm, dân Nam bộ tập kết. Bác sĩ tù nhân tên Nguyễn Vân Hạc, nghị sĩ, người đã cống Ban giám thị Z30 D chiếc Peugeot 404 để được làm bác sĩ của tù nhân. Như vậy, tránh lao động vất vả. Khi tôi đến bác sĩ Vân Hạc đã về, bác sĩ Nguyễn Hữu Nhơn của binh chủng Thủy quân lục chiến được gọi thay thế, thêm nha sĩ Phạm Huy Hoàn giã từ cuốc xẻng. Bệnh xá Z30 D có hai y tá, nhiều thuốc và nhiều giường. Còn có bếp riêng cấp dưỡng bệnh nhân theo tiêu chuẩn bồi dưỡng. Sân trại có vườn hoa và ba hồ nước lớn. Nước dẫn từ suối bằng ống lớn, máy bơm. Z30 D có máy điện chạy 24 trên 24, có cả château d’eau…hiện đại. Nói tóm lại khu A của K1 là khu kiểu mẫu và lý tưởng mọi mặt. Rõ ràng, nó là trại học tập cải tạo.

Cách một hàng rào tre và cái cổng qua nhà bếp của trại tù, khu B y hệt Sa Ác A TH6. Tệ hơn nữa, mái lợp lá Buông và tường phên lá Buông bọc ngoài tường cây cắm dầy khít. Chế độ đại tiện là…đổ thùng! Thiên đường khu A và địa ngục khu B. Vì là trại kiểu mẫu nên kỷ luật cũng kiểu mẫu. Dẫy cachot gồm 5 phòng sát khít hội trường. Giây kẽm gai không được xử dụng ở Z30 D. Vây quanh trại là hàng rào cây cao chôn sâu và sát khít. Lại thêm cây nhỏ làm nẹp ngang siết kỹ bằng giây thép. Cứ một thước rào có một cột trụ cây thật lớn. Hàng rào cây…đúp. Ở giữa là lối đi. Ngoài hàng rào, người ta trồng tre. Khi xe lên cao xanh um, trại sẽ là cái làng. . . êm ấm. Z30 D có đài phát thanh, phát thanh mỗi tối từ 8 giờ đến 9 giờ. Phụ trách chương trình là tù nhân Bùi Hoàng Cầm cảnh sát đặc biệt kiêm cựu ký giả của nhật báo Đồng Nai của chủ nhiệm Huỳnh Thành Vị. Ông Vị và danh ca Duy Trác đã nằm tại khu B Z30 D, K1 . Họ bị chuyển ra trại trừng gjới Phủ Khánh trước ngày tôi tới Z30 D. Đài phát thanh là “kẻ thù” của tù nhân. Bởi rằng, chương trình của họ là đọc tên những tù nhân khai bệnh nằm nhà. Nhiều tù nhân bị phê bình ốm giả vờ. Nhiệm vụ của Bùi Hoàng Cầm là, sáng sáng, qua bệnh xá ghi chép tên tù nhân khai bệnh, kiểm điểm xem trong tháng tù nhân khai bệnh nằm nhà mấy lần, bao nhiêu ngày. Anh ta làm việc theo chỉ thị thôi. Nhưng anh ta bị tù nhân lên án nặng nề và chụp mũ “ăng ten” tổ bố. Z30 D tổ chức khác hẳn TH6. Tù nhân hình sự, chính trị lẫn lộn một đội. Tù nhân chính trị được làm trật tự, thăm nuôi và lâm sản.

Ông Hồ Hữu Tường và tôi được tạm đẩy vào căn nhà của Đội văn nghệ, thể thao. Đội này đàn sáo, ca múa, ảo thuật, vẽ panneau, viết khẩu hiệu và đá bóng. Vậy nó phân làm hai tổ. Tổ văn nghệ lại chia đôi: Ban tân nhạc và ban cổ nhạc. Dụng cụ âm nhạc do tù chế tạo. Tù nhân chế tạo đàn guitare, đàn violon, đàn nguyệt, đàn tranh , đàn gáo, đàn cò. .. Tân nhạc thì khá hơn, dụng cụ do trại mua làm cảnh. Có cả giàn trống, guitare điện. Đội văn nghệ, thể thao nhàn hạ, nhiều đặc ân đặc lợi nên bị ghét. Ở đâu có lợi, ở đấy có ganh ghét. Hễ hôm nay Tổ văn nghệ ở nhà tưới cây thì Tổ thể thao đi phát quang thật xa ngoài quốc lộ, ngày mai Tổ thể thao ở nhà, Tổ văn nghệ ra đi. Ra khỏi trại. có tiền tha hồ ăn hủ tíu, miến gà, mua chuối, mua trứng đem về. Bạn thân ở đội khác có thể gởi tiền nhờ mua chuối, mua rau….  Bạn không thân bị từ chối. Đó là nguyên nhân của chụp mũ. Lúc tôi vào căn nhà, người đón tiếp tôi là Lê Ngọc Biên.

- Tôi là anh em cột chèo với anh Trương Đình Huân, em của chị Thanh Khánh, anh nhớ chưa?

- Nhớ rồi.

Anh Biên làm mì gói chiêu đãi ông Tường và tôi. Chúng tôi chưa kịp tắm thì vệ binh tới dẫn chúng tôi ra suối tắm. Và sau đó, chúng tôi được dẫn lên văn phòng của Phó giám thị, ủy viên chính trị của Z30 D, thiếu tá Phan Hữu Phúc. Ông Tường vào trước, tôi ngồi ngoài hành lang. Phó giám thị Phúc làm việc riêng từng người. Đến lượt tôi, ông Tường về trại thay vì ngồi đợi tôi cùng về. Tôi không biết nội dung cuộc mạn đàm ngắn ngủi giữa Phó giám thị Phúc và ông Tường. Riêng tôi Phó giám thị Phúc rất ân cần. Ông ta pha ấm trà mới, rót nước mời tôi. Tự tay ông ta bóc gói thuốc Phù Đổng đưa tôi rút và quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.

- Anh đi đường có mệt không? – Ông ta hỏi tôi.

- Bình thường, thưa ông Phó giám thị. -Tôi đáp.

- Cứ gọi tôi là cán bộ.

- Vâng.

- Anh sẽ về nhưng anh nhớ rằng anh được tha là do ở sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối không một thế lực ngoại quốc nào có thể can thiệp cho anh ra khỏi trại cả.

- Tôi nghĩ thế.

- Những ngày còn ở trại, nhất là ở đây, anh không nói cho bất cứ ai anh đã ở các trại nào và từ trại nào vừa đến.

- Vâng.

- Tôi sẽ gặp anh sau.

- Vâng.

~ Anh cần gì, cứ báo cáo cán bộ quản giáo hay cán bộ trực trại xin gặp tôi, tôi sẽ giải quyết ngay.

- Cám ơn cán bộ.

Sau đó, ông ta hỏi thăm chuyện gia đình tôi và dự định cho tương lai khi tôi trở lại đời sống. Tôi về trại một lát thì các đội tan lao.
° ° °

Qua sự thông tin của trật tự, một số anh em đến tìm tôi. Tôi giữ lời hứa với Phó giám thị Phúc, không nói về các nhà tù tôi đã bị nhốt và trại lao cải tôi vừa rời Số anh em này thất vọng tôi ngay. Họ thấy tôi không phải là nhân vật hào hùng của tiểu thuyết của tôi. Và họ cho rằng họ đã hiểu tại sao tôi được ân huệ biên chế ngay vào Đội văn nghệ, thể thao. Rồi Bùi Hoàng Cầm, nhà báo, nhân vật bị tù nhân nguyền rủa từ khu B sang thăm tôi. Rồi những tù nhân bị đánh dấu “ăng ten” như hoạ sĩ Có, sĩ quan cảnh sát, nhà ảo thuật Hưởng, hạ sĩ quan an ninh quân đội, săn sóc tôi rất chu đáo buổi đầu khiến số anh em có kết luận dễ dàng: Tất cả những thằng nhà văn, nhà báo ở các trại đều làm công việc như thằng nhà báo Bùi Hoàng Cầm! Một tuần lễ sau người ta bảo tôi là Bùi Hoàng Cầm của TH6 B, Xuyên Mộc, Đồng Nai. Tôi tin chắc ông Hồ Hữu Tường đã được Phó giám thị Phúc yêu cầu như đã yêu cầu tôi “không nói cho bất cứ một ai anh đã ở các trại nào và từ trại nào vừa đến”. Không hề có phát thanh… học tập, phát thanh mỗi tối ở Sa Ác B. Cách nhau dẫy Mây Tào, sự thật bên kia và bên đây đã chẳng giống nhau rồi. Bấy giờ, tôi không cần tìm hiểu. Sau này tôi mới tìm hiểu và tôi ghê tởm cái thủ đoạn cộng sản. Họ triệt hạ tôi, họ làm tôi mất hết tư cách rồi mới thả tôi về. Để tôi hoàn toàn tê liệt. Họ bảo tôi đừng nói rồi họ rỉ tai trật tự, họ tung tin Hồ Hữu Tường và tôi từ đâu tới, đã làm những gì thật dơ dáy ở các trại cũ. Điều bấy giờ tôi suy nghĩ chỉ là câu nói hé lộ một xác nhận Amnesty International sắp cứu tôi ra. “Anh sẽ về nhưng anh nhớ rằng anh được tha là do ở sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối không một thế lực ngoại quốc nào có thể can thiệp cho anh ra khỏi trại cả”.


Tôi nằm ở Đội văn nghệ và thể thao hai ngày nghỉ mệt. Anh Lê Ngọc Biên kể cho tôi nghe nhiều chuyện thú vị. Anh đã ở Suối Máu, đã đáp chuyến tầu HQ 503 đi Phú Quốc, đã ở Phước Long. Mấy tháng trước có phái đoàn Amnesty lnternational thăm Z30 D, K 1 . Tù nhân cò mồi của Đội văn nghệ và thể thao sắm vai trại viên trại học tập cải tạo. Mỗi diễn viên được phát một bộ quần áo mới không đóng dấu tù. Đầu tóc cắt gọn. Râu ria cạo nhẵn. Các Nhà quét dọn sạch sẽ, sắp xếp ngăn nắp. Các hồ nước bơm đầy. Bệnh xá tươm tất. Thư viện gọn gàng. Giàn nhạc đầy đủ dụng cụ. Phái đoàn tới, được Ban giám thị hướng dẫn thăm khu A và chỉ khu A thôi. Hai thông dịch viên Pháp-Việt, Việt-Pháp và Anh-Việt, Việt-Anh là Lê Ngọc Biên, Nguyễn văn Dụ, tù nhân. Amnesty International thăm Nhà, thấy Nhà khang trang thoáng mát, đầy đủ…tiện nghi; thăm thư viện, thấy thư viện đầy sách. Cò mồi chăm chú học tập tư tưởng Mác Lê, cò mồi đang đàn sáo, lại chơi Le Beau Danube bleu, Only you, Smoke gets in your eyes…; thăm bệnh xá thấy bệnh nhân tù nhân “hồ hởi phấn khởi”; thăm sân, thấy hoa phô sắc, cỏ thắm tươi. Thì bằng lòng lắm. Lại phỏng vấn tù nhân được lệnh phiên dịch : “Cám ơn chính sách học tập cải tạo khoan hồng và nhân đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi không phải là tù nhân mà là trại viên trại học tập cải tạo. Chúng tôi học tư tưởng làm người cao quý và tập lao động cho bớt lười biếng. Chúng tôi ăn ba bữa, đầy đủ dinh dưỡng, tinh thần và thể xác thoải mái, không hề bị đánh đập tra tấn thể xác hay tinh thần . .”

Phái đoàn thấy tù nhân đâu có nhiều. Bởi vì, hàng ngàn tù nhân đã bị lùa vào tận chân núi từ sáng sớm. Đề phòng, bất thình lình, phái đoàn trở lại, tối mịt tù nhân mới được lùa về. Chẳng hiểu phái đoàn AI đánh giá Z30 D ra sao. Có điều, chắc chắn, phái đoàn không bao giờ nhìn rõ sự thật ở nón mũ, giầy giép, quân áo, ca cóng của tù nhân xuất trại lao động.

Lê Ngọc Biên nói, chuyến thăm của AI, tù nhân cò mồi và thông dịch viên đều bị tù nhân nguyền rủa, lên án nặng nề. Càng bị nguyền rủa hơn, sau chuyến viếng thăm của Al, Biên và Dụ được biên chế sang Đội văn nghệ và thể thao. Sự thiếu may mắn của tôi là về Z30 D, tôi bị vào Đội văn nghệ và thể thao. Giá tôi vào cachot, có thể tôi lừng danh anh hùng tù ngục!

Ngày thứ tư, đột xuất có một phái đoàn ngoại quốc thăm trại Z30 D kiểu mẫu. Tôi đã theo đội đi lao động từ hôm qua. Hôm nay cả đội của tôi ở nhà làm… cò mồi. Tù nhân toàn trại đi lao động từ sớm tinh mơ. Riêng ông Hồ Hữu Tường và tôi được đưa sang “dấu” ở phòng trật tự khu B. Người ta phát giấy cho chúng tôi khai lý lịch. Cảnh tượng tiếp phái đoàn này y hệt cảnh tượng tiếp phái đoàn AI. Lê Ngọc Biên và Nguyễn văn Dụ không được chỉ định thông dịch. Đã có thông dịch viên của Bộ nội vụ. Vì phái đoàn là phái đoàn Liên-tôn thế giới, thân cộng sản Việt Nam. Thế giới cũng có một số thằng vô danh tiểu tốt buôn công danh bằng cách họp thành một phái đoàn sang thăm nhà tù kiều mẫu Z30 D dàn cảnh công phu, đầy xảo thuật của đạo diễn Đảng để về tuyên bố ngược lại tất cả những gì các phái đoàn khác đã công kích chế độ nhà tù cộng sản. Thế là chúng nổi tiếng. Báo chí cộng sản thế giới, báo chí thân cộng sản Tây phương và Mỹ đã đánh bóng chúng nó, đã coi chúng nó như người của sự thật. Thế giới tự do, thế giới của lương tri, của lẽ phải, của tôn trọng sự thật đã có một bọn khốn kiếp gọi là Liên-tôn lò dò đến trại Z30 D phả thêm mùi tanh ươn vào thứ nhân quyền bị thắt cổ lè lưỡi bởi cộng sản. Tôi không biết cộng sản Việt Nam đã trả bọn này bao nhiêu tiền? Với cộng sản Việt Nam còn phải lột lưỡi để ca ngợi chế độ lao tù của họ.

Từ kinh nghiệm Liên-tôn viếng nhà tù kiểu mẫu Z30 D, tôi thấy không thể tin tưởng vào bất cứ một hội đoàn nhân đạo nào của thế giới tự do, trừ Amnesty International. Rất tiếc, AI không lên tiếng về sự vi phạm nhân quyền. AI trung lập với tất cả các chế độ chính trị. AI can thiệp cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở bất cứ quốc gia nào có tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng.

AI đã can thiệp cho Vũ Hạnh dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. AI lại can thiệp cho Cao Dao dưới chế độ Lê Duẩn. Cho nên sự thật về ngục tù và tù nhân trong chế độ cộng sản đã chỉ được thế giới mường tượng hay căn cứ vào những báo cáo bán rẻ lương tâm cho cộng sản của những hạng người tương tự Liên-tôn, của lũ phản chiến thân cộng sản, của đám báo chi Mỹ đã ngồi xổm lên nghĩa vụ luận. Lương tri của nhân loại cần phải được đánh thức, cần phải được lay động bằng tiếng nói đích thực và trung thực của những người thoát lên từ vực thẳm. Nhưng, buồn thay, những người thoát lên từ vực thẳm đã im lặng, hoàn toàn im lặng. Thỉnh thoảng, có một vài lên tiếng với đồng bào của mình. Thì đã bị khoả lấp bởi tiếng rao bán xổ số kháng chiến, tiếng mõ quảng cáo lạc quyên phục quốc. Chưa thấy ai đặt vấn đề với bọn nhà báo Mỹ – đã mô tả chuồng cọp Côn Sơn, đã đòi cải thiện chế độ lao tù miền Nam trước 1975- mô tả các trại tập trung khổ sai lao động của đàn bà con nít, thương phế binh ở Long Thành – ở quần đảo Phước Long sau 1975. Chưa thấy ai lạc quyên tiền đăng nguyên hai trang trên các nhật báo lừng danh xuất bản tại Nữu ước, Hoa Thịnh Đốn, Ba Lê, Đông kinh, Luân đôn…để nói về tù nhân và ngục tù cộng sản. Chưa thấy ai lạc quyên tiền để dịch thuật và xuất bản một cuốn sách viết về ngục tù cộng sản Việt Nam trích từ những cuốn hồi ký của những người thoát lên và thoát ra từ vực thẳm. Chưa thấy gì cả. Chỉ thấy rõ ràng người ta đã hoan hỉ bỏ đô la vào túi áo ông Mặt trận, vào thùng sương, vào những cuộc liên hoan ăn uống có nhẩy đầm. Rất nhiều tinh hoa của dân tộc đang quằn quại trong nhà tù cộng sản mà đồng bào của họ ở hải ngoại đã lãng quên không nghĩ chuyện cứu họ, thản nhiên để họ chết mòn. Rất nhiều những thằng chó đẻ sống phè phỡn bằng tiền lạc quyên cho mục đích bịp bợm. Rốt cuộc, nỗi thống khổ của tù nhân được cai thầu chiêm bao và báo cáo chiêm bao ấy với người ngoại quốc. Cai thầu hưởng danh lợi. Tù nhân được…hứa hẹn sẽ can thiệp. Bao giờ? Mai. Mai rồi mốt. Mốt rồi mút. Mút rồi mít. Mít rồi mịt. Rồi mù mịt.. . Thế giới tự do yêu sự hợp lý đến ngây thơ và ngu xuẩn. Tiếng nói của người đã nhìn sự thật là hợp lý. Phái đoàn Liên-tôn kia, chẳng hạn. Tiếng nói của người chưa nhìn sự thật chỉ nói theo báo cáo là tiếng nói vu vơ, không hợp lý. Tiếng nói của những người thoát lên từ vực thẳm là hợp lý, chính xác là tiếng nói của sự thật.

Song, buồn bao nhiêu, tiếng nói của sự thật là tiếng nói Việt Nam viết bằng chữ Việt Nam . Thế giới không biết nghe tiếng Việt Nam, không biết đọc chữ Việt Nam. Mà chúng ta thì không ai thích đóng góp tiền để chuyển dịch tiếng nói của sự thật vàng mười sang Anh ngữ, Pháp ngữ, Y pha nho ngữ, Đức ngữ, Ý ngữ. Người Pháp và người Mỹ sẽ chỉ thấy ngục tù Việt Nam qua cuốn Goulang vietnamien, Vietnamese Gulag của gã tù nhân de luxe 11 tháng ở đề lao Gia Định. Nhà tù được viết kiến nghị, được tự do đi xin chữ ký, cả trăm tù nhân ký vào kiến nghị thì nhà tù cộng sản là. . . thiên đường, cần gì phải đòi nhân quyền và tự do cho tù nhân!

Cái phái đoàn Liên tôn…thiếc kia viếng trại lao cải kiểu mẫu Z30 D đúng 15 phút. Giàn nhạc chỉ chơi có một bài Love is blue! Không sợ, đột xuất, họ trở lại nhìn sự thật trần truồng – bồ tèo mà – Ban giám thị cho tù nhân núp dưới chân núi về sớm. Tù nhân được cơ hội suy diễn : Ông Hồ Hữu Tường và tôi được đem về đây làm cò mồi. Cò mồi gì nhỉ? Tôi bỗng thấy chua xót cái câu mà cai tù nào cũng thích nói với tù nhân: “Các anh không thương các anh thì ai thương các anh”.Quả thật, một số tù nhân đã tỏ ra tàn nhẫn với tù nhân. Bạn tù, mấy kỳ liền không có thăm nuôi, thay vì an ủi bạn, chia sẻ cho bạn dúm tôm khô, vài vắt mì, người ta nỡ phát ngôn: “Vợ bỏ rồi hả? Chắc vợ đi theo bộ đội bỏ rơi anh rồi”?

Người ta sẽ buồn cười điều “Cấm mua bán, đổi chác” trong Nội quy . Tôi không buồn cười. Vì tôi biết chuyện một tù nhân không nghiện thuốc lào, thuốc rê mà có cả mấy bánh thuốc lá, mấy bịch thuốc rê. Thuốc lào của anh ta thuộc loại xiện,sáng sớm kéo một điếu là phê. Có tù nhân đã đổi cái quần treillis lấy 2 hộp quẹt thuốc lào xiện. Tù nhân này không thăm nuôi, dĩ nhiên. Ở Sa Ác B, có thuốc lào xiện là có tất cả. Thuốc lào có thể đổi rau muống non, củ cải, rau mồng tơi, mướp, củ mài… Nhiều tù nhân đã lấy râu ngô phơi khô tẩm nước điếu rồi lại phơi khô để hút. Giá trị của thuốc lào vô kề. Hễ có thuốc lào xiện, điếu cầy xiện sẽ thêm bạn bớt thù và sẽ chỉ còn bạn. Ở Sa Ác B cho tù nhận thuốc mà cấm tù nhận diêm, đá lửa, bật lửa. Nhưng tù nhân xoay đâu ra bật lửa, đá lửa, xăng thì tự do dùng. Bèn có ba câu Anh ngữ lao cải:

- Đông vui hao lao
Đông vui thì tốn thuốc lào.

-Đông phen hao rê
Đông bạn thì tốn thuốc rê

-Tham nuoi no dzim
Thăm nuôi không có diêm

Với tù nhân nghiện thuốc lào, đa số tuyệt đối, thì thiếu thuốc lào còn hại cho cơ thể hơn là thiếu chất protéine, chất mỡ, chất đường… Đầy rẫy những kẻ hám lợi trong tù. Và đầy rẫy những kẻ thích làm khổ người khác. Vô cớ và vô lý. Tôi mang thêm tội cò mồi. Đã có kinh nghiệm ra cái động ở Sa Ác, tôi tiết kiệm tối đa ngôn ngữ ở Z30D. Với những kẻ không đáng nói, nửa lời không nói.
--------------------------------
1
Tác giả có tham vọng viết cuốn sách nhan đề Sấm Ký cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tiên tri cuộc cách mạng tiểu tư sản hào hoa cứu vớt dân tộc Mỹ thoát nạn đại hồng thủy.

CHƯƠNG 13


Ở Đội văn nghệ và thể thao, mọi người đều quý tôi. Đội này không có tù hình sự. Đa số là sĩ quan và hạ sĩ quan cảnh sát. Phần còn lại là sĩ quan quân đội. Những người này đã trải qua nhiều trại lao cải. Tôi nằm phía trên, giữa Biên và Hưởng. Một hôm, Biên tâm sự:


- Chúng nó bảo thằng Có, thằng Hưỏng và thằng Ánh là “ăng-ten” gây ra vụ một số anh em đi Phú Khánh.

- Tôi không cần biết.

- Ông nên biết.

- Biết để làm chi. Toàn chuyện tầm phào.

- Biết để hiểu trắng và đen, đen và trắng trong tù.

- Vậy ông kể đi.

- Thằng Ánh đã sang làm Đội trưởng Đội trừng giới, chúng nó càng tin nó làm “ăng-ten”. Tết vừa rồi, thằng Ánh sáng tác khẩu hiệu, thơ vè; thằng Có vẽ và viết tay trái; thằng Hưởng dán. Thằng Có vẽ ở phòng hội hoạ, ai dám nghi nó. Thằng Hưởng ảo thuật dán nhanh như làm trò. Cả trại khoan khoái đọc thơ, vè, khẩu hiệu, khen nhặng những thằng dám chơi là ái quốc là can đảm.

- Rồi sao lại thành”ăng-ten”.

- Vì chúng nó chửi những thằng viết, vẽ dán khẩu hiệu, chửi loạn cả lên.

- Tại sao có vụ đi Phú Khánh?

- Chuyện cũ tích lại. Ông Huỳnh Thành Vị nhà tôi cứ ngứa miệng cãi chuyện Paris với thằng chưa đến Paris rồi chửi nó ngu ngọng. Cán bộ nghe thấy nó bèn chụp mũ ông Vị chửi nó ngọng. Ông Duy Trác thì chủ nhật nào cũng vác đàn đi hát nhạc vàng… ôi, đủ thứ. Xẩy ra vụ dán khẩu hiệu chửi cộng sản, nó không bắt được ai bèn giận cá chém thớt đưa những anh bị nó ghim ra Phú Khánh dằn mặt anh em.

- Hưởng, Ánh và Có im lặng?

- Chứ cái gì nữa! Chúng nó không buồn vì còn một vài người biết chuyện. Đấy, trắng hóa đen là vậy. Tôi bị chúng nó chửi cò mồi, nay đến ông bị cất một chỗ cũng cứ rằng đã gặp phái đoàn Liên-tôn làm cò mồi. Cái trại này táp nham, ông sống lâu sẽ rõ. Ông sẽ khổ tâm lắm đấy. Cộng sản nó theo dõi ông, tù nhân theo dõi ông từng hành động. Ai bảo ông nổi tiếng? Vào tù vô danh tiểu tốt là yên thân.

- Ông nhận xét đúng.

- Ở tù cộng sản có những nỗi oan không dám thanh minh. Như tôi. Tôi cò mồi mẹ gì đâu. Anh Trương Đình Huân phục vụ ở UNESCO nhờ Amnesty International can thiệp cho tôi vì gốc tôi là giáo sư biệt phái về Trung tâm học liệu. AI ghi tên tôi và trại tôi đang cải tạo. Thằng Dụ cũng thế. AI đòi gặp hai đứa tôi. Chúng tôi thông dịch theo đúng lời nói của tù nhân được phỏng vấn. Có thông dịch viên của họ giám sát vớ vẩn ốm đòn à? Nó đâu tin mình. AI hứa can thiệp cho tôi về sớm. Tôi phải làm kiểm điểm mờ người, phải hứa không tiết lộ chuyện AI can thiệp cho tôi. Rồi chúng tôi bị biên chế qua Đội văn nghệ. Tôi văn nghệ mẹ gì. Nó đề phòng tôi ngứa miệng bên khu B. Ngu sao. Tôi ngậm họng mặc chúng nó chửi lèm bèm.

Lê Ngọc Biên triết lý:

- Người Việt Nam đếch có kinh nghiệm gì cả, kể luôn kinh nghiệm ở tù cộng sản. Chỉ a dua, phán xét bậy.

Biên nói đúng. Đã không có kinh nghiệm cộng sản đến nỗi bị nó bắt bỏ tù rồi vẫn không chịu học tập kinh nghiệm cộng sản trong tù. Hình như, cái…truyền thống bạn đáng diệt hơn kẻ thù có từ 20 năm miền Nam chống cộng. Kẻ thù xa, đối lập gần. Đối lập có thể đảo chính mình, kẻ thù thôn tính cả nước. “Đất nước mất, mất tất cả”. Cả nước rơi vào tay kẻ thù, ô kê. Quyền bính của mình rơi vào tay đối lập, nô ô kê. Truyền thống này đưa sang Mỹ, sang Tây. Mày đối lập ông, mày nguy hiểm hơn cộng sản. Nghĩ cũng bẽ bàng khi phải đứng chung chiến tuyến với bọn vô lại. Bọn vô lại kháng chiến, phục quốc chỉ muốn những người chống chúng nó gian manh, bịp bợm bỏ rơi chuyện chống cộng hoặc đầu hàng cộng sản. Để chúng nó tự do kháng chiến bịp, phục quốc lừa. Có một thằng vô lại vén môi lên tồ tồ rẳng: Giải phóng Việt Nam không phải  là ước mơ mà còn là nhiệm vụ, bổn phận. Tôi tìm cách giành lại quê hương bằng cách làm cho cộng sản kiệt quệ về quân sự, kinh tế, chính trị! Rõ khẩu khí một thằng vô lại. Nó đã viết sách nhận nó ngu dốt chính trị, thầy nó không chịu dạy nó. Nay nó đòi “giành lại quê hương đòi làm cho cộng sản kiệt quệ chính trị”. Lại còn kinh tế nữa, trời ạ! Độc Ngữ viết hai câu thơ khá độc:

Đó cái gọi là tướng
Lũ sán kim ngọ nguậy ngứa hậu môn

Thằng này câm đi thì dần dần hết vô lại. Nó càng đao to búa lớn, càng vô lại hết thuốc chữa. Quê hương Việt Nam không cần vô lại nữa. Thời của vô lại cai trị dân tộc đã cáo chung. Thầy Gerald Ford dạy: “Lịch sử đã sang trang”. Hiểu chưa? Đã sang trang mới cho tuổi trẻ Việt Nam làm chính quyền. Sẽ không còn phỉ quyền gian ác và ngụy quyền vô lại trên quê hương Việt Nam tương lai.

- Ông ạ, tôi linh cảm tôi sắp về. Biên nói.

- Ông tin AI cứu nổi ông?

- Tin lắm.

- Tốt thôi.

- Tôi hiểu chỉ ông mới viết được truyện về những đứa trẻ con ở trại Phú Văn.

- Truyện thế nào?

Biên kể ngọn đồi mà tù nhân cải tạo đặt tên là Đồi Fanta (La Colline de Fanta, Les Éditions Belfond). Ngọn đồi này đã làm tôi quên mọi ưu phiền Z30 D. Ít ra, cái trại lao cải hắc ám cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, đã cho tôi một toan tính ngày mai. Tôi ghim vào đầu óc ngọn đồi ô nhục và hy vọng sớm được tha để viết cuốn sách về nó.

Những ngày ở Đội văn nghệ và thể thao, tôi có dịp đi lao động ngoài quốc lộ. Quản giáo đội này tên Hào, ham chơi hơn giáo dục tù nhân. Chúng tôi thường cuốc bộ theo hướng ra Phan Thiết. Chừng hai cây số cách trại, có một cái chợ nhỏ của một xã nằm sát quốc lộ. Tên chợ tôi quên rồi. Chợ có vài quán cà phê, hủ tíu, bún bò xào. Mỗi sáng, đội của chúng tôi dừng chân nơi đây ăn điểm tâm uống cà phê rồi mới vào rừng. Quản giáo và vệ binh ở lại đá banh bàn, thụt bi da và ngủ. Đội muốn đi đâu muốn làm gì tùy ý, miễn là trở lại tập họp tại chợ đúng 14 giờ. Đội lao động rất lè phè và “tự do” mua bán, ăn uống. Đó là lý do phải chấp nhận sự ghét bỏ của các đội khác.

Tôi lấy làm lạ điều này: Không hề thấy tù nhân hình sự hay chính trị ở các đội lâm sản trốn trại. Những người này muốn trốn, sẽ trốn dễ đàng. Họ vào rừng từ 7 giờ sáng, 16 giờ mới về. Các đội lâm sản không cần vệ binh. Làm sao đủ vệ binh canh giữ? Vậy tù nhân tự giác. Và hiếm họa lắm mới có một tù nhân ở đội lâm sản ra đi không về… trại. Dẫu có tù nhân ra đi, các tù nhân còn lại vẫn tự do vào rừng và, nếu thích, cứ việc sắp xếp chương trình về sum họp gia đình không cần Giấy ra trại. Điều lạ ấy chính là nghệ thuật quản lý tù nhân của cộng sản. Đâu cần Phạm Hùng hay Cao Đăng Chiếm chọn tù nhân biên chế vào đội lâm sản. Chỉ là Ban Giám Thị và đám công an chăn trâu cắt cỏ, ngọng níu lưỡi tuyển chọn. Tù nhân tiến bộ đến mức không thèm trốn trại. Các đội lâm sản không chấp nhận sĩ quan tác chiến, quân báo, nhẩy dù, thủy quân lục chiến. Phản động cũng bị chê. Đa số là cảnh sát và sĩ quan văn phòng. Nếu tôi còn ở Đội văn nghệ và thể thao, thể nào cũng có ngày tôi trốn trại. Tôi đã phác họa kế hoạch ngon lành. Rất tiếc, chưa kịp trốn thì tôi bi biên chế sang Đội 27 nông nghiệp. Có lẽ, người ta đã đoán được âm mưu của tôi.

Đội 27 nông nghiệp của K Z30 D, khi tôi sang, vừa thay đổi quản giáo mới. Quản giáo tên Hà, dân Hà Tĩnh. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết điều này: Hễ tên cai tù ở miền nào bị Mỹ dội bom nhiều nhất, tên ấy khe khắt nhất. Quản giáo Hà là tên cai tù ấy. Hắn mang quân hàm trung sĩ. Đội của tôi nhan nhản đại úy, trung úy phi công, hải quân. Và cũng nhan nhản hình sự vô lại. Tôi được sống lại không khí xô bồ như ở các phòng giam đề lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa. Bấy giờ, Đội trưởng lành Vũ Tiến Đạt, một người đầy đủ tư cách. Hiện trường lao động của chúng tôi nằm sát con đường ra vào cổng chính của trại, đối diện nhà thăm gặp. Chúng tôi có nhà lô. Sa Ác B không có nhà lô. Đội 27 đã canh tác nhiều vụ khoai, ngô và đậu xanh. Đội chia nhiều Tổ và các tổ lao động giống nhau, không chuyên biệt như đội rau xanh. Công việc của tôi là cuốc đất, lên luống, rắc phân hoá học, đặt phân xanh, bỏ hạt bắp, giây khoai, làm cỏbắp, vén giây khoai… Chờ đợi thu hoạch chúng tôi chặt cây điên điển đào hầm chôn để làm phân xanh cho vụ mới.

Mùa thu hoạch thì lao động cả chủ nhật. Hết bắp lại ngô. So với Sa Ác lao động ở Rừng Lá không đáng kể. Tôi bằng lòng thái độ lao động của tù nhân Sa Ác hơn. Ở đội của tôi tại Z30D, người ta chấp nhận nghe quản giáo “giáo dục”. Người ta thản nhiên ”Nghe chúng nó chửi quen rồi”! Và người ta không xấu hổ ăn cắp mướp, ăn cắp bắp non, ăn cắp khoai… Một số tù nhân tự dẫm lên phẩm cách của mình đã bắt cả đội phải xếp hàng, đứng nghiêm, nghe quản giáo phê bình bằng giọng điệu xấc xược, trịch thượng.

Quản giáo không bao giờ giáo dục một tù nhân. Chỉ cần một tù nhân ăn cắp trái mướp trên giàn mướp của hắn, hắn sẽ tập họp đội, miệt thị “các anh toàn bọn ăn cắp, thế mà cứ tưởng mình sĩ quan, trí thức” và đem vợ con tù nhân vào cuộc học tập “các anh là bọn mất tính người, không còn tình người, cố kéo dài thời gian cải tạo để bắt vợ con nhịn ăn mặc thăm nuôi các anh!” Tôi thấy số người tự xóa bỏ nhân cách của mình vẫn bình thản, vẫn nhe răng cười. Tôi thì tôi lấy làm đau đớn lắm. Thà nhịn ăn mướp, thà cuốc đúng chỉ tiêu chứ không chịu nghe cai tù giáo huấn. Nhưng vô ích, tất cả tù nhân tự trọng, những tù nhân bằng lòng để cộng sản thù ghét, không bằng lòng để cộng sản khinh bỉ, đều bị đồng hóa bởi số tù nhân vô lại .Anh Vũ Tiến Đạt hiểu tâm sự tôi . Anh chuyện riêng với tôi:

- Sự khốn nạn của chúng ta là chúng ta đã không được phép chọn người sống chung một đội.

- Cộng sản nó muốn vậy.

- Đồng ý, song anh đã rõ, trong đám vô lại có cả vài ông sĩ quan của chúng tôi. Bọn này to mồm nhất, yêu nước nhất, căm hờn cộng sản nhất và sẵn sàng chụp cứt lên đầu kẻ đồng cảnh ngộ tàn bạo nhất. Anh mới về đội, chưa hiểu hết sự tình não nề. Chia rẽ, kèn cựa, chụp mũ, chửi bới, đánh lộn chẳng còn ra tù…chính trị gì cả. Riết rồi tù hình sự trộm cắp nó khinh thường. Cờ bạc sát phạt nhau tới…tán đường cuối cùng! Tôi cứ giả mù, giả điếc, giả câm. Đánh đấm nhau, chửi bới nhau rồi đưa nhau vào biên bản cuối tuần. Năm năm cải tạo rồi, ấu trĩ gì! Làm Đội trưởng khổ hơn chó.

Đội 27 nông nghiệp, chỉ có vài tên vô lại quậy phá. Chúng nó trêu chọc cả đàn bà, con gái đi thăm nuôi chồng, cha, anh. Chúng nó nói năng nham nhở, mất dậy. Chúng nó đã làm phiền cả đội. Những người đứng tuổi im lặng, cầu an. Đa số phẫn nộ nhưng không tỏ thái độ. Có một tù nhân tên Thành, Trưởng ty cảnh sát thời Ngô Đình Diệm, con bà phước từ khi trình diện học tập cải tạo bị đám vô lại đặt hỗn danh Thành chạp và bị chúng nó ghét ra mặt. Chỉ vì ông Thành đói, ai cho gì cũng nhận và vớ được cái gì cũng ăn. Chúng nó, dĩ nhiên, không cho ông Thành một miếng sắn lát song, ai cho ông Thành nắm mì, dúm tôm khô, chúng nó ngăn cản. Tôi đã thường xuyên tặng hủ tíu, tặng mì vụn, tặng phần bo bo nguyên ngày chủ nhật cho ông Thành. Tôi bị chúng nó ghét. Nhờ tôi có thuốc lào xiện, lại chủ trương “đông phen no lo hao lao”, tôi đã chế ngự chúng nó. Gô thuốc lào mở nắp, tha hồ các “phen” hít và phê. Thuốc lào xiện là thước đo giá trị con người!

- Anh ơi anh đừng ăn cơm chung với thằng Thịnh.

- Tại sao?

-Nó là thằng đi rêu rao anh làm cò mồi. Anh cứ thử hỏi các bố sĩ quan của Sư đoàn 18 là biết nó. Quân báo đấy. Nó bô bô khoe thành tích đã ăn cắp cái máy bơm nước của một nông dân rồi cho lính bán lại cho nông dân này.

- Chuyện nhảm.

- Nhảm gì, cháu của nông dân này lại là sĩ quan cùng Sư đoàn 18 và cùng ở đội mình.

- Cậu thích thì ăn chung với tôi luôn.

-Em mến anh nhưng em ghét thằng Thịnh.

- Cậu muốn sao?

- Anh đuổi ngay thằng Thịnh đi, em xin về ăn chung, phục dịch anh.

Thuốc lào ngon và túi thăm nuôi nặng và thường xuyên của tôi đã “đổi thù thành bạn”. Hợp với thành ngữ Bạn tù tình nhà thổ. Tôi sống yên thân ở Đội 27 nông nghiệp. Rồi tôi trở thành một máy ghi âm chuyên ghi tin miệng của đám vô lại tố cáo nhau.

- Anh này.

- Mấy tháng trước anh đã gặp phái đoàn Liên tôn hả?

- Ai nói vậy?

- Cán bộ giáo dục.

- Nói với cậu à?

- Với bạn em bên khu B, bạn em nói lại với tụi em.

- Cậu tin chứ?

- Hồi đó chúng em tin, chúng em rao rêu hại anh.

- Bây giờ cậu tin cán bộ hay tin tôi?

- Em tin anh.

- Thế thì tôi không gặp phái đoàn nào cả.

-Tại sao cán bộ bịa đặt nhỉ?

- Tôi không hiểu.

Nếu bạn đọc Lê nin toàn tập, bạn sẽ gặp câu này: “Dùng bọn côn đồ mạt hạng để chúng diệt những phần tử lương thiện đối nghịch cách mạng. Khi những phần tử lương thiện bị triệt hạ, sẽ diệt bọn côn đồ mạt hạng”. Cộng sản áp dụng đúng sách vở của sư tổ vào nhà tù. Cho nên bọn tù nhân vô lại, bọn ăn cắp khoai mì, ăn vụng thịt dưới bếp, ăn tranh phần khoai và cơm cháy của heo, vân vân… đã được xử dụng để triệt hạ những tù nhân cố gắng giữ phẩm cách làm người trong bất cứ nghịch cảnh nào.
° ° °

Tổ chức của Z30 D hơi khác TH6 một chút. Ở đây không quân sự hóa nếp sống nên thiếu hoạt cảnh báo cáo xuất trại. Các đội cứ ngồi tại sân tập họp, Đội trưởng tới gần điếm canh báo cáo quân số với cán bộ trực trại. Cán bộ ghi vào sổ trực. Thế là đội đứng dậy xuất trại. Qua cổng, tất cả phải dở nón, mũ. Điều này đã ghi rõ trong Nội quy. Ở đây an ninh gọi là chấp pháp. Công an đặc trách an ninh gọi là cán bộ chấp pháp. Chấp pháp của trại chỉ điều tra những việc xẩy ra ở trại. Tù nhân bị chấp pháp gọi lên “làm việc” có nghĩa là chuẩn bị vào cachot. Chấp pháp bao trùm quyền uy. Chỉ dưới Ban Giám Thị. Ở đâycó một đội chuyên gài mìn phá núi và một tổ thiết kế. Ở đây có hồ rộng nuôi cá. Nói tóm lại, nội dung của Z30 D hiểm độc gấp bội TH6, hình thức của nó là… kiểu mẫu. Các phái đoàn ngoại quốc thân cộng sản và không chống cộng sản đều chỉ được dẫn tới Z30 D, K1 , khu A và cơ quan. Dĩ nhiên, họ chỉ thấy hình thức. Cộng sản nặng phần trình diễn hơn quốc gia. Nghệ thuật trình diễn của họ cộng thêm nghệ thuật chơi chữ của họ đã khiến thế giới tự do mê sảng. Ở đây, trật tự đa số là tù nhân chính trị. Công an cộng sản hiểu rõ cảnh sát quốc gia. Do đó, trật tự được tuyển lựa từ thành phần cảnh sát đặc biệt , an ninh quân đội.


Trật tự khu A gồm 4 người tạo thành một giai cấp đặc quyền, đặc lợi và trở thành đối tượng thù hận của tù nhân. Người thứ nhất là ông già Tới, can tội hình sự, mẫn cán với cai tù nhưng vô tội vạ với tù nhân, nóng tính mà tâm địa tốt. Người thứ hai là ông già Phú, giảng sư Đại học Vạn Hạnh, can tội vượt biên, thông thạo Anh, Pháp ngữ, kiến thức rộng, giỏi toán học, được chỉ định làm trật tự để dạy một ông chấp pháp học toán và Anh văn. Người thứ ba, tôi quên tên, một ông già cảnh sát hiền lành, cả khu yêu mến. (Ông này được tha hồi tháng 4 1980, người thay thế là một viên chức của VTX, tôi không nhớ tên). Người thứ tư là Trần Trọng Thanh trung uý cảnh sát đặc biệt, chuyên thẩm vấn Việt cộng ở Biên Hoà. Trần Trọng Thanh dân Quảng Ngải, một loại ngụy quân tử trong tù. Hắn xúi ông già Tới gây khó dễ cho tù nhân. Còn hằn, hắn đóng vai thiện. Khuôn mặt Trần Trọng Thanh xám xịt, vui buồn khó đoán. Hắn là cáo già của phòng trật tự.

Ở Z30 D, mỗi nhà có một phòng ăn, cửa sổ thoáng mát bàn ghế sạch sẽ. Có bếp lợp mái tôn cho tù nhân ca cóng những ngày được phép ca cóng. Trật tự nấu nướng bằng bếp riêng ở ngay phòng. Họ lấy than hồng của bếp trại mà cải thiện bữa ăn. Họ ăn sang hơn cả cai tù. Cai tù mua thịt cá giùm họ. Rau, mướp, bầu, bí thì họ xin các đội rau xanh. Những ngày lễ lớn hay những hôm đột xuất có thịt heo, trật tự được chia phần thịt tươi gấp 10 tiêu chuẩn tù nhân. Cơm của trật tự luôn luôn thừa thãi. Phòng của trật tự có chiếc máy vô tuyến truyền hình. Máy này, thỉnh thoảng, đem ra sân cho tù nhân giải trí kịch nhạc cách mạng. Trật tự chỉ thị công tác lao động cho vệ sinh và sai phái vệ sinh. Mỗi lần vợ thăm nuôi, trật tự được ngủ với vợ một đêm ở nhà thăm gặp. Cái đặc quyền, đặc lợi do hưởng đầy đặc ân đã khiến một vài anh trật tự quên mất bản thân mình là tù nhân. Ở khu A, Trần Trọng Thanh thâu tóm hết đặc quyền, đặc lợi. Ông già Phú “con bà phước”, ông già Tới vợ đã chết. Trần Trọng Thanh vợ buôn bán khá, mấy đứa con trai lại vượt biên thoát, thăm nuôi ê hề tiền bạc thừa thãi cung phụng chấp pháp và trực trại.

Z30 D, K1 là trại kiểu mẫu, kỷ luật gay gắt nhưng ca cóng tự do ngoài bãi. Ở đây, người ta chỉ đòi hỏi tuyệt đối “an tâm cải tạo” nghĩa là đừng có tư tưởng trốn trại và chống đối Nội quy. Nội quy trại tù là pháp lệnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thu hẹp. Chống Nội quy tội nặng hơn các tội cũ và mới. Người ta lý luận rằng, ở tù mà chống Nội quy ra đời sẽ chống Chế độ. Bởi vậy trên tấm Giấy ra trại, phần “Nhận xét quá trình cải tạo”, đa số tuyệt đối tù nhân được tha đều ghi câu tương tự danh ngôn bất hủ “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của nhân vật Số đỏ: “Trong thời gian học tập đã có nhiều tiến bộ, lao động và học tập tốt, chấp hành nội quy của trại nghiêm”. Một số nhỏ bị “nhận xét” thế này: “Trong thời gian tập có tiến bộ nhưng vẫn thiếu thiện chí cải tạo, chưa chấp hành nội quy tốt”. Bèn thêm câu: “Đương sự cần được chính quyền địa phương giáo dục thêm” thì kể như số vất vả. Sẽ bị công an phường bắt “đi học” dài dài. Sẽ có cuốn vở chép nhật ký để công an phường theo dõi mọi sinh hoạt.

Giấy ra trại là một lối chơi chữ của cộng sản. Anh ra trại thôi, có thể, anh lại bị vào trại. Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy đã vào trại sau khi ra trại. Giấy ra trại, với tù nhân mang án phạt “tập trung cải tạo, TTCT” là thứ giấy thủ thân đến khi nhắm mắt. Tiêu đề của nó là Giấy ra trại nhưng văn từ thì lại “Thi hành án văn, quyết đinh tha số… ngày… tháng… năm… của Bộ Nội Vụ. Nay có giấy tha cho anh, chị có tên sau đây…” Trên Giấy ra trại của tôi, ghi rõ “Can tội Nhà Văn Phản Động. Bị bắt ngày 8-04-1976, án phạt TTCT. Theo quyết định, án văn số không có, ngày tháng không có. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cứ… tự do bắt tưới hạt sen, chẳng thèm quyết định, án văn . Thế giới có thể nhìn rõ sự bắt người.,sự giam nhốt người – sự hành hạ người và sự tha người của chủ nghĩa cộng sản trên mộtGiấy ra trại của bất cứ một tù nhân nào. Nếu mắt thế giới không thông manh và óc thế giới không đặc khịt, họ sẽ tìm ra một định nghĩa về nhân quyền ở Việt Nam hôm nay. Trong phần “Nhận xét quá trình cải tạo” còn hai câu ác độc:

1- Nơi cư trú do chính quyền địa phương quy định.

2- Đương sự không được cư trú tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú trước khi bị bắt.

Nếu tù nhân đã cư ngụ ở nhà của mình do mình đứng tên trên bằng khoán, mình sống chung với vợ con mình trước ngày mình bị bắt, Sài gòn chẳng hạn, nay được tha, chính quyền địa phương nó “quy định” cá nhân mình về Long Xuyên hay lên Ban Mê Thuột mình phải…l ưu vong ngay trên quê hương của mình. Vợ mình nó không làm giấy bảo đảm cho mình tạm trú tại nhà mình thì dẫu chính quyền địa phương quy định” nơi cư trú cho mình là nhà mình”, mình vẫn đành lưu vong. Bị ghi câu số 1 đã lận đận. Bị ghi câu số 2 thì khốn nạn, thì kể như biệt xứ bất thành án văn, khỏi cần vượt biên tha phương cầu thực. Giấy ra trại của tôi ghi câu số 1. May mắn, tôi không bị “quản chế” nên “được hưởng quyền công dân”. Tù nhân bị quản chế một thời gian nào đó, phải trình diện công an địa phương hàng ngày, hàng tuần và chờ đợi sự khoan hồng của nhân dân khu phố mình cư ngụ trong cuộc họp quyết định “trả lại quyền công dân”. Tù nhân dưới chế độ cộng sản, vào tù đã khổ, đã nhục ; ra tù còn khổ, còn nhục hơn 1.

Nội quy nhà tù và trại lao cải quan trọng thế đấy. Anh bị tống vào cachot để “thành khẩn suy nghĩ” mà viết tự khai trong thời gian anh bị thẩm vấn thì không sao cả. Anh bị tống vào cachot vì tội trốn trại, tội chống đối Nội quy, Giấy ra trại của anh nhất định bị ghi nhữngcâu nhận xét độc ác. Và đó là bản chất nhân đạo của chủ nghĩa, của chế độ. Ở trại kiểu mau Z30 D, K1, lao động có thể lề mề nhưng tư tưởng bị kiểm soát gắt gao. Bởi nó là son phấn của chính sách học tập cải tạo, là nơi Tú Bà cộng sản dễ lửa bịp khách làng chơi thế giới tự do bằng “nước vỏ lựu, hoa mào gà” Mác-xít-lê-ni-nít!

Đầu tháng 5-1980, Z30 D thả một số đông tù nhân sĩ quan quân đội, cảnh sát và hạ sĩ quan an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt. Lê Ngọc Biên trúng số kỳ này. Những người trúng số K2 và K3 ra hết K1 . Họ tập trung ở hội trường, ăn ngủ ở đó thêm 10 ngày để chờ làm thủ tục. Thủ tục là gì? Lãnh đồng hồ, bút máy nhẫn vàng, giây chuyềnvàng đã đăng ký. Lãnh giấy ra trại, tiền đi đường…. Chỉ cần làm việc một ngày là xong mọi thủ tục. Nhưng Ban Giám Thị muốn “thầu” nhân lực 10 ngày của tù nhân. Họ sắp về nên lao động hăng lắm. Tù nhân vào rừng chặt đọt buông và bắt cắc kè để Ban Giám Thịbán cho Hợp tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh. Tiền vào túi Ban Giám Thị. Không có bảo đảm về tính mạng cho tù nhân đã được tha nếu họ chết trong lao động “làm giày cho Ban giám thị”. Những người được tha mòn mỏi thêm 10 ngày. Họ rất sợ Bộ Nội Vụ ra quyết định mới giữ họ lạivài năm nữa. 10 ngày lâu bằng suốt quá trình lao cải. Chỉ khi xách túi hành lý nhỏ, cầm giấy ra trại, lĩnh vài đồng bạc tiền đường và bước nhanh ra quốc lộ, người được tha mới thở phào. Ân huệ của cộng sản thật đòi đoạn. Ban Giám Thị Z30D đã bóc lột tù nhân đến giọt giọt mồ hôi lao cải cuối cùng.

Giám thị Z30 D tên Nguyễn văn Mạnh, mang quân hàm Đại tá công an, già nua, có cô vợ trẻ. Vợ hắn bắt tù canh tác riêng một vườn ngô, vườn khoai. Tù nhân phải ăn thêm ngô, khoai của vợ Giám thị Mạnh. Mụ này bán ngô, khoai cho trại. Mụ cũng nuôi đàn vịt, bán trứng cho tù nhân qua trung gian tù nhân Đội chăn nuôi, giá cắt cổ. Ở Z30 D, chúng tôi phải ăn sắn lát. Bạn biết sắn lát chứ? Nông dân hai bên quốc lộ số 1 thuộc phạm vi huyện Hàm Tân trồng khoai mì, thái từng lát mỏng, phơi nắng đầy đường cho khô cứng rồi đóng bao bố nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Nhà nước bán rẻ cho nhà tù. Nhà tù hầm sắn lát cho tù nhân ăn. Sắn lát ăn với nước muối. Tiêu chuẩn như vầy:

- Sáng, điểm tâm một chén sắn lát đầy có ngọn. Lao động 4 giờ.

- Trưa, một chén sắn lát, một chén cơm. Lao động 4 giờ.

-Chiều, một chén sắn lát, một chén cơm. Ngủ 8 giờ.

Ăn sắn lát thảm hơn ăn bo bo, ăn bắp đá. Với khoai, bắp, sắn, bo bo là thực phẩm lý tưởng. Răng rụng và bao tử loét vì bắp đá, bo bo, sắn lát.

Thỉnh thoảng, tù nhân bị ăn cá biển ươn cả tuần. Chả là công an kinh tế ngoài quốc lộ bắt trúng cá Phan Thiết chở vào Sài gòn bán lậu. Bèn phạt. Dân buôn chạy tiền phạt thời gian hạn định không nổi. Đành để công an kinh tế tịch thu. Công an kinh tế bán rẻ rề cho Ban Giám Thị Z30 D. Tù ăn cá thối 7 ngày thì 7 ngày sau ăn toàn sắn lát. Gạo trừ cá. Ban Giám Thị bán gạo cho dân ngoài quốc lộ. Thỉnh thoảng, tù nhân được phát muồng xanh chua lòm. Ăn muồng xanh cũng bị trừ phần cơm. Ban Giám Thị rất giỏi kế hoạch kinh tế…nhà tù. Mỗi tháng, một tù nhân bị ăn cắp một ký gạo nhai sắn lát thay cơm, 3000 tù nhân đã đóng góp vào túi Ban Giám Thị số tiền lớn, năm này qua năm khác. Chưa kể đọt buông, cắc kè của hàng ngàn tù nhân được tha “lao động tự giác 10 ngày”. Z30D, bí số của đốn mạt! Nó là thứ kiểu mẫu của gian lận, bịp bợm.

Z30 D có hai nhân vật tù nhân. Ông Paul Nur, Tổng trưởng Bộ sắc tộc triều đại Nguyễn văn Thiệu và cụ Trân (hay Trản), thân phụ của cố thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ông Paul Nur, “con bà phước”, nấu bếp ở Đội cấp dưỡng. Tổng trưởng Paul Nur thường được cán bộ ưu ái cho giết bò những ngày lễ lớn. Đền công ông, cán bộ tặng ông da bò! Ông đem về treo sàn bếp. Một ngày xấu trời của năm 1982, Tổng trưởng Paul Nur ăn khá nhiều da bò hầm. Ông bị sình bụng. Bác sĩ Nhơn đã về. Bác sĩ Hoàng Cầm mãi đi chơi xa. Y tá không biết trị bệnh. Thế là Tổng trưởng Paul Nur về…sum họp với tổ tiên. Cụ Trản thuộc loại lão thành phản động. Cụ bất chấp kỷ luật của Z30 D. Hình tưởng một cụ già ngoài 70 tuổi mà còn bị đày đoạ ở Đội trừng giới, sẽ hiểu tinh thần bất khuất của cụ.

Thời gian tôi ở Z30 D, hầu như tháng nào cũng được kết quả xổ số. Tháng 7-1980, khá đông sĩ quan cải tạo ở Thanh Nghệ Tĩnht về Z30 D. Có ông thiếu tá nhẩy dù Phạm Đình Cung, hỗn danh Cung củ đậu. Tù nhân cải tạo ở miền Nam vẫn tưởng tù nhân cải tạo ở miền Bắc ngoan cường lắm. Z30 D đã thất vọng nhóm tù nhân về từ Thanh Nghệ Tỉnh. Họ ở khu B. Nhiều lúc tôi muốn văng tục với loài người. Con người không dám phản kháng chỉ mong con người khác phản kháng. Và khi con người mình kỳ vọng bất động, mình thất vọng, mình coi thường! Tôi đã bị nghe những lời bình phẩm nặng nề tù nhân Thanh Nghệ Tỉnh của những ông tù nhân Z30 D thuộc loại “bầy tỏ chí khí trong bóng tối “. Tù nhân Thanh Nghệ Tỉnh về không bị biên chế sang các đội cũ của Z30 D. Họ được ở chung với nhau. Và đó là những đội của sĩ quan quân đội trình diện học tập cải tạo. Tháng 9-1980, Đội 27 của tôi gặp sự rắc rối. Bấy giờ Vũ Tiến Đạt đã bị “cất chức” Đội trưởng. Đội trưởng mới Nguyễn văn Thành, sĩ quan cảnh sát tốt nghiệp Viện cảnh sát quốc gia, tác giả vụ bắt sòng bài tổ chức tại nhà ca sĩ Thanh Thúy, đường Cao thắng và vụ đột nhập sòng thuốc phiện Tư Cao. Nguyên nhân sự rắc rối như vầy: Tôi nằm giữa Nguyễn văn Hải, trung úy quân đội và Bùi Đình Mừng, phản động hiện hành. Ngô của đội tôi đã ra bắp. Quản giáo chọn người đi canh ruộng bắp. Thư ký đội (tôi quên tên), trung úy không-ảnh, được giao phó công tác canh ngô. Chủ nhật, anh ta về muộn, lúc trại đã điểm danh chiều và tù nhân đã vào “chuồng”, cửa đã khóa. Anh ta đứng ngoài đợi trực trại mở cửa. Nguyễn văn Hải ngứa miệng:

- Sao không trốn luôn đi? Chăm lắm. Trước đây mà chăm một góc thôi, đâu đến nỗi mất nước.

Bùi Đình Mừng vồ được câu “đại phản động” này. Nó vốn thù ghét Nguyễn văn Hải “con bà phước”, vì Hải ưa nói móc nó. Mừng to họng nhất đội, thích đấm đá và thích chụp mũ “ăng ten” lên đầu người khác. Nó hỏi tôi:

- Anh có nghe gì không?

- Nghe gì?

- Anh Hải vừa nói.

- Không.

- Tại sao anh không nghe?

- Tôi bận hút thuốc lào và rồi tôi phê…

Họp đội, Bùi Đình Mừng đưa Nguyễn văn Hải vào mục phê bình. Nó nhắc nguyên văn câu của Hải. Nó bắt tôi làm chứng. Tôi nói:

- Tôi không nghe thấy gì cả. Vì tôi phê thuốc lào. Dẫu tôi nghe thấy, làm chứng hay không là do tôi thích hay không, anh Mừng không có quyền bắt tôi làm chứng. Chứng nhân là ân nhân của pháp luật, không là nạn nhân của pháp luật, anh Mừng hiểu chưa?

Đội trưởng Thành không ghi chuyện này vào biên bản. Bùi Đình Mừng báo cáo quản giáo. Họp đội tại nhà lô. Mừng quyết liệt tố cáo Hải. Tôi vẫn “không nghe gì cả,vì phê thuốc lào”. Phiên họp giải tán. Quản giáo gọi tôi, hỏi riêng:

- Anh Hải có khả năng nói thế không?

- Tôi không nghe gì cả.

- Có khả năng nói thôi?

- Tôi biết anh Mừng ghét anh Hải. Khi người ta ghét nhau thì nhẹ là nặng, ít là nhiều.

Quản giáo bỏ qua vụ này. Tôi thêm hỗn danh Long phê sau khi đã là Long ếch mù. Bùi Đình Mừng không dám sinh sự với tôi. Từ đó, nó hết bảo người này “ăng ten” người kia “ăng ten”. Và “cơ” của tôi bắt đầu lên!
--------------------------------
1
Xin đón đọc Chiến Bại, tiểu thuyết của Duyên Anh viết về những tù nhân trở về đời sống cũ.

1      2      3      4     5     6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét