Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

HỒI KÝ TÙ BINH VÀ HÒA BÌNH CỦA PHÂN NHẬT NAM - KỲ 3



Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Hòa Bình Việt Nam, cùng lúc đó tại một hóc hẻm của Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang.

Trận đánh Tống Lệ Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngày. Không ai trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi, bỏ qua tai nạn cục bộ của một Việt Nam rắm rối. Hòa Bình: thứ rượu nhạt mà thế giới hằng lâu không được uống. Tống Lệ Chân: trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị vây đúng 17 tháng hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm này. Chúng ta cũng là những kẻ có tội.

Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Bataan 66 ngày, quân lực Anh và khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk 241 ngày và ở Việt Nam, "địa đàng" của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không giới hạn, chúng ta cũng đã có những nơi chốn với tên gọi để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây tới số lượng 57 ngày. Gần gũi và còn được nhớ là những trận đại chiến khởi đi trong mùa hè 1972, những trận đánh vượt qua hẳn chiến sử thế giới với các địa danh: Kontum, An Lộc, Quảng Trị. Nhưng Delta, Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo trong vài ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến ngày 25-7-1972 đã được giải tỏa phần lớn. Thế nên, Tống Lệ Chân với 510 ngày bị vây hãm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh nhân loại.

Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10-5-1972 đã bị mờ khuất sau làn khói dậy lên từ An Lộc, Quảng Trị, Kontum - và đến nay - sáu tháng sau ngày hòa bình độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng sản. Chúng ta phải nhỏ xuống giọt nước mắt để cầu nguyện cho một nhóm người trong 510 ngày đã phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: Tội ác đã đồng nghĩa cùng người Cộng sản. Tống Lệ Chân, giọt nước mắt tinh tuyền từ sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam.

Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao năm mươi thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những nhánh nguồn đầu tiên của sông Sài Gòn, dầy đặc khắp miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc mười lăm cây số về phía đông-bắc và ở phía nam biên giới Việt-Miên khoảng mười ba cây số. Điểm nhọn của chiếc Mõ Vẹt, đại bản doanh của Cục R, Trung Ương Cục Miền Nam chỉa thẳng vào căn cứ.

Tống Lệ Chân trước kia là một trong những trại Dân sự Chiến đấu thuộc Lực lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ Quân Khu III dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lệ Chân, Lộc Ninh, Quản Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào song song với biên giới hệ thống tiền đồn ngăn chặn, báo động lần xâm nhập, điều động của quân đội Cộng sản từ bên kia biên giới, nơi có những địa danh đã một lần vang dội như Lưỡi Câu, Mõ Vẹt. Hệ thống trại còn là nơi phát xuất những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng.

Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc: Chiến khu C, và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền Tổng Thống Diệm đã thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ý của Tổng Thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bây giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đã quay phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa bình. Các trại kia chỉ còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành đoạn.

Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ còn là những cơn sốt vỡ da cho "Hòa Bình" nguy hiểm. Tống Lệ Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẵng. Dưới chân đồi căn cứ về phía bắc còn có đường 246 nối Tây Ninh và Bình Long, xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để Mặt Trận nối liền hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lệ Chân cũng là yết hầu chặn ngang đường dây Bắc-Nam nối bản doanh cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống Bình Dương - Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lệ Chân không còn là mục tiêu quân sự thông thường, căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết. Kiểm soát được bốn hướng Tây-Đông, Bắc-Nam của toàn hệ thống giao liên quan trọng trong lòng căn cứ địa đối phương. Từ ngày thành lập, Tống Lệ Chân chưa hề có một ngày thanh bình.

Tên địa phương là Tonlé Chombé, vị chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu Tá Đặng Hưng Long, gọi trại thành Tống Lê Chân, binh sĩ nói thành Tống Lệ... Những người ngoài binh chủng lực lượng đặc biệt phần đông gọi theo danh từ hàm súc này. Tống Lệ Chân - tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngã. Năm 1970, trong chương trình cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại phần đông là dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stiêng tình nguyện ở lại cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Tháng 4-72 song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đã có ý định "ủi láng" hết dãy căn cứ biên phòng trên để rộng đường điều quân, cùng chuyển vận quân nhu, quân cụ. Tình hình khẩn trương của thời gian ấy đã khiến bộ chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu III quyết định rút hết lực lượng thuộc bốn căn cứ: Thiện Ngôn, Katum, Tống Lệ Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống Lệ Chân đã có câu trả lời sau khi nhận được lệnh:

- Xin ở lại để chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá, Biệt Động Quân mà di tản yếu quá...

-Tình hình có giữ nổi không?

-Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng!

Định mệnh đã điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng trở nên những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ sức chiến đấu bền bĩ của người cho Hòa bình. Hòa Bình Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của một dân tộc được tưới thêm máu nóng của những người lính vô danh Tiểu Đoàn 92 trong một hóc của núi rừng miền đông Nam bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên hòa bình vất vả này. Toàn thể nhân loại có biết thế không?

Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cạnh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lệ Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu Cục R đã được xác định là một mục tiêu cần phải "dứt điểm". Ngày 10-5-72 Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công đã xâm nhập được vào vòng đai phòng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững được như lời nguyền, người chỉ huy của trại mang tên Lê Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhượng, 25 tuổi, đã giữ được lời thề. Ngôn thuộc khóa 21 Đà Lạt ra trường năm 1966, bây giờ - tháng 9-73, Ngôn mang cấp bậc Trung Tá. Một thời gian kỷ lục nhưng không ai tị hiềm. Không thể tị hiềm được vì hình như quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn còn đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu Đoàn 92 của anh là một biệt lệ, hiện thực ý niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời hiện thực. Những người lính khắp nơi của thế giới đã nhiều lần chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của mình trên đảo Saipan, nơi buồng lái của những chiếc máy bay Zéro, trong những phi vụ trên vùng trời Âu Châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn phòng không suốt đệ nhị thế chiến. Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971 và suốt năm 1972, nhiều đơn vị, nhiều người lính đã chứng tỏ phẩm chất vĩ đại cao cả của mình. Trên tất cả mọi cao điểm đó, Tống Lệ Chân rực rỡ với ánh sáng của riêng mình. Ngày 8-6-72, An Lộc được chính thức giải tỏa sau khi Tiểu Đoàn 6 Dù "bắt tay" được với Tiểu Đoàn 8 Dù, lực lượng cực nam của cửa ngỏ vào An Lộc, Cộng sản thu quân về phía tây để bồi dưỡng và chuẩn bị đánh lớn. Dãy căn cứ bạn đã di tản, Tống Lệ Chân còn lại mỗi mình, Công Trường 9 Việt Cộng dùng lực lượng cơ hữu thay phiên nhau nhồi Tống Lệ Chân trong suốt một năm dài. Ngày 27-1-73 Hiệp Định Ba Lê được ký kết để tái lập Hòa Bình tại Việt Nam. Ngày 25-1-73 cũng là ngày N (1) của cuộc tấn công cường tập vào Tống Lệ Chân, Cộng quân muốn "ủi láng" căn cứ để hoàn toàn kiểm soát vòng đai biên giới từ Tây Ninh qua Lộc Ninh, cuộc tấn công không thành và bây giờ - tháng 9-1973 - tám tháng sau ngày "ngưng bắn", theo thống kê chính xác của người lính ngồi dưới hầm trốn pháo, theo bài tính cộng của viên sĩ quan hành quân tiểu đoàn: Căn cứ bị pháo kích 233 lần, 20 lần bị tấn công biển người, 7 lần đánh đặc công và chiếc đồn trơ trọi trên đỉnh cao 50 thước đó đã nhận 14.500 trái đạn đủ loại nổ liên tục trong tám tháng hay 220 ngày được gọi là "Hòa Bình" trên đất nước Việt Nam!!

Cuộc bao vây đã diễn ra trong 510 ngày dài, binh sĩ bị thương và chết lên đến gần con số 100, phần lớn bị thương không di tản được. Bất chấp luật lệ quốc tế, bất chấp cả lòng nhân đạo giữa những sinh vật gọi là người, và rất trái ngược với "tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc" mà từ tên lính gác ở bờ bắc sông Thạch Hãn đến gã Thượng tá tóc bạc ngồi ở bàn hội nghị luôn luôn mồm nói lên với vẻ trang nghiêm cẩn mật. Máy bay trực thăng tải thương là mục tiêu thực tập cho các đơn vị phòng không Cộng sản dựng dầy đặc quanh căn cứ. Ngày 10-8-73 phi vụ tản thương chót không thực hiện được, chiếc UH.1 của Phi Đoàn 233 bị đốn ngã, phi hành đoàn phải ở lại căn cứ và những người này chỉ có thể trở ra khi những người bạn cùng phi đoàn đã thực hiện được một chuyến bay không giống bất cứ một phi vụ trực thăng nào của cuộc chiến mười năm. Phi vụ bắt đầu lúc mười hai giờ đêm từ phi trường Biên Hòa và mục tiêu là Tống Lệ Chân. Phi vụ này còn có nhiệm vụ mang số tiền thưởng của quân dân Vùng III tặng Tiểu Đoàn 92 và cặp lon Trung Tá cho Ngôn. Phi tuần trưởng của chuyến bay này là Thiếu Tá Bảo bạn cùng khóa với Ngôn. Nhưng tình trạng bi tráng này đã nẩy nở ra một khía cạnh khác, trong sổ bảy mươi lăm người bị thương, con số xin ở lại lên đến bốn mươi. Đến một lúc nào đó, trong một hoàn cảnh thích hợp, sự can trường trở nên như một tính chất tổng quát và chung của cộng đồng. Bệnh sốt rét và phù thủng đã khống chế toàn trại nguyên do bởi thiếu dinh dưỡng và cuộc sống chật chội quá lâu dưới hầm đất. Trong tháng 7-73 các cuộc tiếp tế thả dù tưởng chừng như không thể thực hiện được. Chiếc móc nối kiện hàng và bộ phận phối hợp trên máy bay không còn nữa. Cuộc họp của các giới chức cao cấp nhất về tiếp vận và không trợ đã diễn ra dồn dập để giải quyết vấn đề "cái móc", mà một bộ phận chính là đoạn dây cable dài chừng một tấc. Đoạn dây cable này có nhiệm vụ giữ palette (tấm sắt làm đế của kiện hàng thả dù) với hệ thống phối hợp; khi máy bay đến địa điểm thả dù, bộ phận cắt sẽ được bấm nút để chặt xuống đoạn dây này, palette mang kiện hàng sẽ lăn ra cửa máy bay trên hệ thống bánh xe. Từ trước đến nay, các cơ quan thả dù không quân chẳng ai để ý đến đoạn dây ngắn ngủi này vì quá thừa thải. Khi Tống Lệ Chân bị vây liên tục, đồ tiếp liệu, tiếp tế phải thả dù, nên đến một lúc người ta khám phá đoạn giây cần thiết này bị thiếu!! Muốn gởi mua ở Mỹ phải gởi đúng nơi sản xuất nó qua một hệ thống đặt hàng phức tạp, trước một thời gian dài, đoạn dây cũng phải được gọi bằng ám số lê thê, hãng chế tạo mới cung cấp đúng. Phe ta, vốn truyền thống "gì cũng được" nên đến lúc cần mới bật ngữa, không làm sao cấp thời giải quyết được. Nhưng cái khó không bó cái khôn, dây lớn đúng cỡ không có thì biến chế bằng hai sợi dây nhỏ kết vào nhau... Và kết quả, dù thả mười cái hết sáu cái rơi ra ngoài căn cứ!! Khoảng trống giữa hai sợi dây nhỏ kết lại đã làm thời gian cắt đoạn giây dài hơn vài giây. Vài giây của tốc độ hơn hai trăm dặm giờ khi phi cơ thả dù đã làm cho chiếc dù bay ra khỏi chiếc đồn nhỏ bé. Bi thảm hơn, có những ngày bị Cộng quân pháo kích và tấn công liên tục, toàn căn cứ phải nhịn đói hoặc bắt gián ở các hầm cầu để nướng ăn thay cơm!! Nhưng dù thiếu thức ăn và sống dưới hầm lâu trong 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao, theo cường độ tấn công và pháo kích của giặc. Tống Lệ Chân bắt chúng ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng nhảy dù lừng danh của Quân Đoàn viễn chinh Pháp đã nói cùng Cogny và Navarre: " Hãy móc tôi ra khỏi đấy (Điện Biên Phủ), tôi vừa sống sáu tháng ở "ổ chuột" Na Sản... Tôi quá sợ những điểm bưng bít như thế này!! " - sáu tháng ở cứ điểm Na Sản trong vị thế của một người chỉ huy cùng với phương tiện vật chất thừa thải cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải kinh khiếp - thế nhưng trên ngọn đồi năm mươi thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất Quân Lực Miền Nam, Lê Văn Ngôn đã sống đến ngày thứ 510 cùng tiểu đoàn Biệt động với quân số thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy. Đau đớn hơn tất cả, Ngôn chiến đấu trong hòa bình giả tạo và gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút. Những giờ phút Tiểu Đoàn 92 ẩn mình dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh mặt trời.

Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đã trình bày: Chúng ta phải làm gì cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chặn, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp tung quân tuần tiểu, tấn công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ý niệm hành quân đã đặt để cho căn cứ không còn nữa. Chúng ta chỉ còn lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lý để những người anh hùng âm thầm ngã xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ cách tàn ác, khiếp nhược của một hòa bình độc hại. Chúng ta sẽ là gì nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy trì tình trạng phi lý độc địa này. Phiên họp đặc biệt cấp Trưởng Đoàn ngày 17-3-73 do Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lệ Chân lên bàn hội nghị. Trưởng Đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp cấp bách:

-Cử ngay một Tổ LHQS/4B Trung Ương đi Tống Lệ Chân để điều tra vi phạm, sau khi có thỏa thuận tại hội nghị.

-Nếu hai phe Cộng sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gửi văn thư yêu cầu UBQT cử người đi điều tra.

- Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của mình chung quanh Tống Lệ Chân phải ở nguyên vị trí không được bắn lên phi cơ của UBQT khi đến điều tra.

Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía MTGP biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết; dù Trần Văn Trà mang quân hàm Trung tướng chăng nữa ông ta cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề gì, dù vấn đề đó chỉ thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đã vắng mặt để cho viên Đại Tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay. Trước ba đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng, bối rối né tránh với tố cáo: Việt Nam Cộng Hòa đã vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh, (Quảng Ngãi), Đức Cơ (Pleiku)... Và kết luận ung dung: Chính VNCH vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lệ Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù tán đồng, lập lại lời phát biểu của MTGP với thứ tự từ ngữ địa danh được nói khác đi một chút. Bài học đã được học từ nhà, các cậu học trò Cộng sản lập lại không sai một chữ bất chấp nội dung rõ rệt của ba đề nghị - Ý kiến - Yếu tố không bao giờ có trong đầu của cá nhân người Cộng sản khi chưa "hội ý"!!

Thấy hai phái đoàn Cộng sản không đá động gì đến ba đề nghị vừa trình bày. Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lập lại đề nghị lần thứ hai: Nếu Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên Trung Ương chưa thống nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: "Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế vì tình hình chưa rõ rệt, chưa có an ninh không tiện lợi cho Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra..." Phiên họp ngưng ở kết luận này. "Tinh thần nhất trí" của văn bản Hiệp Định. Tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị.!!

Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi, khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ yêu cầu đi điều tra Tống Lệ Chân: "UBQT không đồng ý đi điều ra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh!" Muốn chắc hơn, hai phái đoàn quốc tế Cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn MTGP cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ tất nhiên điều kiện không được thực hiện, vì MTGP chắc chắn không bao giờ đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.

Một tuần trôi qua, kể từ phiên họp 17-3-1973, tất cả nỗ lực về Tống Lệ Chân đều bị chắn lối bởi hai ngón đòn "Tình hình Tống Lệ Chân chưa rõ rệt. Phái đoàn MTGP chờ chỉ thị của thượng cấp" và đòn "Vì MTGP không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra..." Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi quả bóng vô liêm sĩ, né tránh hẳn vấn đề.

Ngày 23-3-1973, chỉ còn bốn ngày nữa là hết thời hạn sáu mươi ngày làm việc của Ban Liên Hợp Quân Sự bốn bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nã Đại (Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với MTGP để sớm điều ra sự kiện Tống Lệ Chân, MTGP trốn không nổi, đành đưa Đại Tá Võ Đông Giang, Phó Trưởng đoàn ra gặp Đại Tá Lomis (Gia Nã Đại), thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lệ Chân vào ngày 24-3-1973. Nhưng rốt cuộc cũng chỉ là trò đánh tráo, theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lệ Chân tiếp xúc với lực lượng Cộng sản ở đây, xong trở về Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự, tức là vùng III của VNCH) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lệ Chân. Gã sĩ quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên thay vì từ Tống Lệ Chân, y trở về hẳn Tân Sơn Nhất, Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24-3-1973. Cuộc điều tra Tống Lệ Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được: Không bao giờ.

Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17-3-1973, Việt Nam Cộng Hòa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cử sĩ quan liên lạc đến Tống Lệ Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23-3-1973, thay vì xuống Tống Lệ Chân như đã dự liệu, viên sĩ quan Mặt Trận xuống Sóc Con Trăn cách Tống Lệ Chân muời cây số về hướng Tây, viên sĩ quan này lấy cớ phải liên lạc với "địa phương" y trước, sau một hồi tìm kiếm trong rừng, y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và VNCH đã đánh đứt đường dây, y không tìm ra ai!! Chiếc trực thăng trở về Sài Gòn, không một thương binh được di chuyển. Phái đoàn VHCH vẫn kiên trì yêu cầu MTGP phải thuận để Việt Nam Cộng Hòa tản thương ở Tống Lệ Chân, Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24-3-1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cũng là cuối cùng được di tản. MTGP "hòa hợp, hòa giải, dân tộc" với giá máu này một lần độc nhất. Tống Lệ Chân đóng của vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó.

Cấp Trưởng Phái Đoàn, cấp Trưởng Tiểu Ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lệ Chân. Nhưng sự thật là một việc và cách nhìn của người Cộng sản lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội Cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của ta biến thành "... Một cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn lấn chiếm Tống Lệ Chân, nơi nằm sâu từ lâu trong vùng giải phóng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời!!" Kèm thêm luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kiềm chế vì phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn "nống lấn" ra ngoài khu vực của Chính Phủ Lâm Thời (Một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào vòng vây của một sư đoàn?!!) Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng "Đạo lý Hiệp Định" cho binh sĩ trong đồn biết: Đạo lý về Hòa Hợp, Hòa giải Dân Tộc!! Ý nghĩ đích thực của ngôn từ đã biến mất trên lưỡi của người Cộng sản. Nhưng điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát thanh Việt Cộng ào ào tố cáo, Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thơ tố giác, các thành viên Hung Gia Lợi, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thơ. Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thơ gian dối đó. Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tờ báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó Ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lệ Chân đang mong ngày mau đến. Đau đớn hơn hết khi tại Sài Gòn, nơi chỉ cách Tống Lệ Chân trăm cây số đường chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những người lính Việt Nam đang ở trong chiếc đồn bị vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại nhìn vấn đề ngược lại: Như đám Ngọc Lan, Chân Tín, thứ chính khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh... (Những Nghị sĩ, Dân biểu được MTGP nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố cáo chính quyền VNCH) Những người này là gì trong khi đồng lõa với tội ác ngập máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lệ Chân, hai mươi ngày sau ngày Hòa Bình 28-1-1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị thương. Những người này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể trên, những kẻ nhân danh Hòa Bình...

Quả tình chúng ta ở trong một trạng thái hòa bình sau hơn hai mươi năm nghe súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe quen tiếng nổ đại bác, hỏa tiển, chúng ta cũng dần quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng từ An Lộc, Quảng Trị, nên hình như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của những ngày hôm nay, chúng ta đã quá vội vã muốn xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những hình ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước. Và từ, với hạnh phúc tội nghiệp nầy, giữa lòng cơn lốc túng đói, chúng ta đã không có khả năng để nhớ đến, để nghĩ đến hình ảnh một căn cứ: một căn cứ lẻ loi cố gắng để khỏi bị hủy diệt, thể hiện ý muốn "sống trong tự do và hòa bình", nỗi mơ ước của toàn dân tộc... Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải làm gì được cho Tống Lệ Chân?

Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lệ Chân vào tháng 6-1973, thời gian quân đội Cộng sản đang chuẩn bị trận dứt điểm vào căn cứ trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 73, chiếc đồn nhỏ bé này đã đứng vững được trước hàng chục lần tấn công và bị pháo hơn vạn quả đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh đã gắn chặt tên anh cùng chiếc đồn bé nhỏ đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đã được giữ trọn như tên anh đã định trước: Ngôn Một lòng sắc son giữ mãi một lời nói. Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả đã hiện thực hình ảnh linh diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hổ thẹn trước nỗi can trường này. Những phiên họp của tháng 3, tháng 4, 74 tại Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên Trung Ương, phía Việt Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo động Công Trường 9 nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng trung đoàn 271 quyết ủi láng trại... Trung Đoàn 271 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và một lữ đoàn chiến xa, không kể thành phần trừ bị và chận viện. Một năm trời thử lửa, một, hai tháng thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi đi từ 5-4-1974 đến 01:00 giờ ngày 11-1-1974 đoạt được đồn!! Ngôn làm gì được với quân số 259 người với năm mươi người bị thương từ trước, hai chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?!! Tiểu Đoàn 92 đã chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh con người, Ngôn hơn hẳn những người anh hùng của chiến trận nhân loại, Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh thế giới đã dựng nên gương sáng can trường về bổn phận cao cả của người lính, Ngôn và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân dựng chắc tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quý hơn tất cả, Ngôn và 259 Biệt Động Quân của Tống Lệ Chân là những chiến sĩ chiến đấu cho hòa bình: Hòa Bình của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố bình yên có nghĩ gì khi hay tin Tống Lệ chân đã bị đoạt mất, Tiểu Đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ còn giọt nước mắt. Phải, chỉ còn một dòng nước mắt ngập bi hùng.


Tháng 11-1974

MỘT NGƯỜI TÙ VỪA ĐƯỢC THẢ  MỘT TIỀN ĐỒN BỊ TRÀN NGẬP.
Cuối cùng, bà Ngô Bá Thành đã được thả, tuy tình trạng chỉ là tại ngoại hầu tra, nhưng từ vị thế của một người sắp sửa để trao trả cho Mặt Trận Giải Phóng trong hạ tuần tháng 7-73 đến tình trạng hiện tại, quả tình đã có một thay đổi rất lớn. Sự thay đổi có nhiều nguyên do, gây nên từ nhiều sức ép; cũng như hành động rùm beng tô vẽ của nhiều đoàn thể, cá nhân chung quanh người đàn bà này làm người viết phải suy nghĩ... Bà Thành! Bà là ai? Sau lưng bà là tôn giáo cực tả, cộng sản hay người Mỹ?!! Ý nghĩ dấy lên đau đớn. Bao nhiêu năm tháng tù tội của một đời rốt cuộc cũng chỉ là con bài mặt của những dự mưu thâm hiểm hay sao? Và mục tiêu của phong trào Đòi Quyền Sống, trong đó vắng bóng dáng tội nghiệp và niềm ao ước nhỏ nhoi của người lính cùng tập thể gia đình họ, những người có thẩm quyền nhất để được đòi quyền sống yên lành. Bà Thành, người đàn bà trí thức với năm mươi bảy tháng tù trong cô quạnh cùng lời tuyên bố kiêu hãnh "Tôi là thành phần thứ ba..." Thành phần thứ ba, thành phần bề mặt tối cần thiết để hoàn thành bước chót của Hiệp Định Ba Lê. Và ước mơ của dân tộc có được gói đủ trong những dòng chữ rất nhiều nghĩa của tấm Hiệp Định quái gở này chăng? Trại Tống Lệ Chân với 293 người lính Biệt động quân, đám thân nhân gia đình binh sĩ chạy nhốn nháo giữa rừng già trong tiếng nổ dồn dập của bộc phá. Tiểu đoàn K2 đặc công quyết làm đầu cầu để lực lượng sư đoàn 320 chính qui Bắc Việt dứt điểm trại. Không ai nói đến 293 người lính này, không ai nghĩ đến hình ảnh người đàn bà vợ một binh nhất tay bế con nương theo chồng dưới lằn đạn của những người Cách Mạng Việt Nam: Cuộc cách mạng kết tập bởi giai cấp công-nông gồm nhân dân giác ngộ. Người lính, người vợ, đứa trẻ nhỏ, chắc hẳn đã là những trở ngại của bước tiến cách mạng vô sản Việt Nam đó. Những người này có quyền đòi quyền sống không? Bà Thành có kể thêm họ vào mục tiêu tranh đấu...?

Phong trào Đòi Quyền Sống của bà Thành có ý niệm nào về những người đau khổ này? Và một tờ báo mang nhản hiệu đối lập đấu tranh cho "nhân dân yêu nước" có chăng hình tượng chiếc trại bốc cháy giữa rừng xanh, rộ tiếng reo hò đẫm máu của lực lượng quân đội Hà Nội?! Trong hỗn loạn với những hình ảnh chập chờn nhức nhối này - Bà Thành được trả tự do.

Không ai phủ nhận giá trị cá nhân người đàn bà nổi tiếng với bốn mươi mốt tuổi, tiến sĩ Công pháp quốc tế, năm mươi bảy tháng tù tội liên tục trong bảy năm... Không thể là những tiêu chuẩn bình thường mà mọi người đều có thể thực hiện. Văn bằng đó đã có nhiều người khác đạt được, nhưng quả tình rất hiếm hoi nơi đất nước ta, ở vùng Đông Nam Á, cũng có thể nói toàn cõi Á - Phi, ngay trên khắp thế giới. Tiến sĩ Công pháp quốc tế, một bằng cấp bảo đảm nhiều khả năng và giá trị; năm mươi bảy tháng tù trong hiu quạnh cùng lúc niềm tin, ý tất thắng vượt qua nghịch cảnh trong trạng huống khó khăn để hoàn tất bước chót hoài bão lại là một tiêu chuẩn khác rất khó đạt. Dù đã có nhiều người ở tù lâu hơn, đã có nhiều cảnh tù cực khổ đau đớn hơn, nhưng một người đàn bà từ chối an lành để đem đời xuống đường phố, vào lao tù, đối diện bức tường lạnh trong thời gian đằng đẵng năm mươi bảy tháng quả tình không thể là sự kiện bình thường... Chắc chắn phải được thôi thúc từ một dự tính cao cả mang vóc dáng to lớn theo kích thước của quê hương. Phải thán phục, người đàn bà đã từ chối sự bình yên thụ động, dấn thân vào nơi bão lửa chấp nhận những thiệt thòi đau đớn cụ thể.

Nhưng những kính phục trên khía cạnh cá nhân không thể ngăn nổi hoài nghi cùng câu hỏi: Bà Thành đã thực hiện cuộc đấu tranh với mục đích gì? Không thể nghĩ một cách giản dị, đây là cuộc đấu tranh đơn độc của người đàn bà trí thức vùng dậy chống đối một chế độ nhiều sơ hở. Không thể nghĩ nông cạn và giản lược toàn bộ một cuộc đấu tranh rất có hệ thống và đa diện vào một mục tiêu đơn độc như thế.

Vậy, nhìn lại những năm trước với những hành động của phong trào: Đấu tranh yểm trợ phong trào Thương Phế binh, đòi hủy bỏ chính sách quân sự học đường, tham dự vào cuộc tranh chấp của hai phe nhà chùa về một bất động sản... Những mục tiêu hạn hẹp, đoản kỳ, hụt hơi không thể nào là mục tiêu chiến thuật của phong trào mang vóc dáng to lớn với tiêu đề hàm súc: Đòi Quyền Sống?!! Ngoài ra phong trào đã bỏ qua, đã với không tới biết bao nhiêu mục tiêu rất đáng được để giành ưu tiên quyền được sống: Người lính chiến đấu cùng hệ thống gia đình lầm than của họ...

Những mục tiêu lúng túng, ngắn hạn, thụ động và vô ích càng ngày tỏ rõ thực chất của phong trào. Một đoàn thể hỗn tạp với bề mặt sôi nổi hiếu động, thiếu quan niệm chiến lược chỉ đạo để rút cuộc hiện nguyên hình là một bộ phận xách động vô tổ chức, cố thực hiện cho bằng được một vài mục tiêu bề mặt. Hình trạng của phong trào trong những năm 69, 70 làm ta nghĩ đến mũi giáo tiền phong thay mặt hợp pháp cho Cộng sản ở đường phố Sài Gòn. Tôi e ngại khi nghĩ như trên vì sợ rằng đã hạ thấp phẩm giá người cầm đầu phong trào, một phụ nữ hằng chứng tỏ khả năng dẻo dai, sung sức với căn bản trí thức vững chãi, một người có đủ lực ngăn chặn mình không lầm lẫn khi thực hiện những mục tiêu hạn chế trong đường phố Sàigòn, những "mục tiêu tập dượt" chỉ đáng dành riêng cho đám sinh viên đàn em. Hơn nữa, nếu quan niệm bà Thành là một cán bộ trung cấp nội thành của Mặt Trận thì quả tình không nghiêm chỉnh. Sự trùng hợp về tính chất của mục tiêu phong trào và ý đồ của Mặt Trận chỉ có thể là một chuyện ngẫu nhiên có dự tính!!

Vậy, mục tiêu to lớn trong kích thước Dân Tộc không có, cán bộ trung cấp của Mặt Trận không phải... Thì Bà Thành là ai?!! Cần mở một dấu ngoặc ở đây, nếu Bà thành là "cán bộ gộc" thì Mặt Trận không đời nào chịu hao tổn lực lượng bằng cách dàn ra trống trải đám cán bộ cỡ "quốc tế" như bà ta ra đường phố với sư, cha, sinh viên con nít... Nhưng nếu tất cả không phải là hai vế trên, thì Bà Thành chỉ còn lại là một chiếc "phông" để hiển hiện lên đó toàn bộ bản chất và chủ đích của người Mỹ. Phải, chỉ có thể là như vậy.

Ý nghĩa trên đã được thành hình với toàn thể tính chất não nề, cay đắng. Một cá nhân xuất sắc, một căn bản trí thức vững chãi, chuỗi ngày dài tranh đấu với năm mươi bảy tháng tù câm nín với một tiêu đề to lớn rốt cuộc chỉ là lá bài tẩy cho lực lượng lót đường hình thành bản Hiệp Định tái lập Hòa Bình Việt Nam. Bản Hiệp Định phản ảnh rất dễ bị xuyên tạc, rất nguy hiểm, ngụy trang sâu sau ước vọng của toàn dân tộc nhưng đã được nhận định: "Đó là một thắng lợi to lớn, chứng tỏ chính nghĩa nhất định thắng"... Nhận định của Bà Thành, nhận định này có những từ ngữ của người Cộng sản, nhận định cũng bao gồm sự diễn giải Điều 1 Hiệp Định theo quan điểm của Hà Nội, của Mặt Trận. "Chính nghĩa nhất định thắng". Thành ngữ đãi lọc đã được phổ quát do Hồ Chủ tịch. Nhưng điểm quan trọng không phải ở vài từ ngữ mang hơi hướng Cộng sản này; cũng không phải lời chào đặc sệt mùi vị vô sản "gởi lời chào đồng bào cả nước" của bà Thành làm chúng ta chú ý. Chúng ta nói đến vẻ kiêu hãnh của lời tuyên bố "Tôi là thành phần thứ ba...". Thành phần thứ ba, quả tình tất cả sinh hoạt chính trị trong và ngoài nước đang chủ tâm, đang hướng toàn bộ khả năng định giá vào những người rải rác khắp nơi trên Âu, Á... Bảo Đại, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Chánh Thi, Nghị Sĩ Mẫu, Đại Tướng Minh... Những khuôn mặt cũ kỹ đã bị thời cuộc bào nhẵn nay được nhuộm lại màu sắc để chuẩn bị cho thế đấu tranh mới. Thế đấu tranh dứt điểm tình trạng Việt Nam theo sách lược của người Mỹ hay là của Kissinger - ông Ngoại Trưởng thượng hảo hạng của Hiệp Chủng Quốc. Trong đám người được tô vẽ có hệ thống tội nghiệp yếu kém kia có bà Thành với sự góp mặt kiêu hãnh thảm thương " Tôi là thành phần thứ ba!!". Thành phần không có chân trong cộng đồng dân tộc, thành phần sinh sau đẻ muộn từ một cõi ngoài Việt Nam, sản phẩm tối cần thiết cho tác phẩm Kissinger.

Nhìn bản Hiệp Định dưới nhãn quan tàn nhẫn đích thực kia, thấy toàn thể rã rời ốm yếu của thành phần thứ ba ấy, xét được nỗi vô ích của năm mươi bảy tháng tù, mảnh bằng tiến sĩ Công pháp, sự quảng cáo lố bịch ồn ào các tờ báo Sài Gòn chung quanh bà Thành, tự nhiên lòng sôi niềm công phẫn. Đã quá nhiều người nhân danh Tổ Quốc và Nhân Dân, đã quá nhiều người hân hoan bạo ngược trên bầu rượu máu Việt Nam, trại Tống Lệ Chân với 293 người lính cùng đám thân nhân góp phần đời sống vào bữa tiệc đau đớn này. Thành phần thứ ba - Người dự tiệc mới mẻ! Hãy giới hạn nỗi hân hoan tàn nhẫn của các người.

Thật nguy hiểm khi nhận định: Sự kiện Lệ Chân là một thử thách cho nền hòa bình của Hiệp Định (Hòa Bình của Hiệp Định không là Hòa Bình của Việt Nam). Phải bỏ qua sự kiện, xem như là tai nạn cục bộ, địa phương để xúc tiến và hoàn tất việc kết tập thành phần thứ ba, đi bước chót của Hiệp Định. Hoặc phải đặt vấn đề máu để lương tâm và phẩm tính con người chuộng công lý, chuộng liêm sỉ chọn lựa. Chúng ta đang bị vây bởi vòng đai lửa hiểm độc, mọi lối thoát đều bị kiểm soát và phê phán khắc nghiệt cùng lúc tiếng reo hò man rợ của kẻ thù bốn phía dấy lên. Hình ảnh, bài báo phỏng vấn bà Thành cùng một lần câu chuyện chiếc đồn bốc cháy được nêu lên trên trang nhất các tờ báo hằng ngày chính là bằng cớ về một chọn lựa giữa lương tâm và luân lý; nước mắt đau đớn phẫn nộ hay một đồng lõa tồi tệ thụ động buông xuôi theo hoàn cảnh vượt khỏi tầm tay.


Tháng 11-1973

ĐẤU

Những phiên họp của Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên được thành hình khẩn cấp, vội vã. Phía Cộng sản dù được chuẩn bị và ở vào hoàn cảnh hoạt động thuần nhất, với những chuyên viên hội nghị từ Paris về vốn quen thuộc với sinh hoạt thương nghị, biết phát biểu những lời nói dài lê thê gồm nhiều tỉnh từ mềm mỏng nối kết đúng "tinh thần và lời văn của Hiệp Định"... Nhưng sự lúng túng đôi khi vẫn không thể tránh được vì những người này phần lớn không nắm vững tình hình miền Nam. Các sĩ quan của hai phái đoàn Cộng sản đến Sài Gòn để giải quyết vấn đề miền Nam trên nguyên tắc, nhưng đa số là người Bắc hoặc người hoạt động ở vùng Trung Bộ, ở các quân khu miền Trung, như mặt trận B3 (Chiến trường Tam Biên), B2 (chiến trường Trị-Thiên), vùng Nam-Tín-Ngãi... Nên họ không thể nắm vững được các yếu tố địa giới, đặc dị của miền Nam dù học tập, hội ý là công việc thường xuyên liên tục của các phái đoàn Cộng sản. Họp xong, trở về trại Davis hội thảo, phê bình, rút ưu khuyết điểm, bổ sung ý kiến để tiếp tục lại ở phiên họp tới. Về phần phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, bước đầu hội nghị quả đã là một khởi sự rối rắm, các sĩ quan trưởng ban, ba vị tướng trưởng phái đoàn như Tướng Dzu - Trưởng đoàn VNCH trong Ban Liên Hợp 4B, (Tháng đầu tiên, 2-73) Tướng Hiệp - Phó Trưởng đoàn... Phần lớn là những tư lệnh, chỉ huy trưởng các đơn vị tác chiến hoặc các ngành chuyên môn không liên quan hoặc kinh nghiệm về thương thảo với đối phương tại bàn hội nghị; các vị này cũng không hề có được một chuẩn bị tối thiểu để đảm nhận công tác (Điển hình là trường hợp Tướng Đống - Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, một ông tướng chuyên việc đánh giặc). Thế nên, trong những ngày của tháng hai, tháng ba 1973 các phiên họp đã diễn theo một chiều hướng kỳ lạ, các sĩ quan nghị hội chỉ nói những điều mình nắm vững, đã được chuẩn bị, không cần phải trả lời những câu hỏi, những vấn đề đặt ra bởi đối phương. Điển hình như vòng đối thoại sau đây của phiên họp ngày 12-2-73, Tiểu Ban Tù Binh:

Đại Tá Đắt (VNCH):

- Chúng tôi thông báo đến quí vị số lượng tù binh mà phía VNCH dự trù trao trả ngày mai, 13-2-73... Ngày mai, chúng tôi sẽ đưa hai trăm tù từ Biên Hòa đến trao trả ở địa điểm bắc sông Thạch Hãn, hai trăm tù này sẽ được không vận từ Biên Hòa đến Phú Bài, xong từ Phú Bài sẽ đi ra Quảng Trị bằng xe GMC... Ngày mai, chúng tôi cũng sẽ trả tại Lộc Ninh cho quí vị sáu trăm nhân viên quân sự. Sáu trăm người này sẽ được không tải từ Biên Hòa đến Lộc Ninh...

Đại Tá Russell (Hoa Kỳ):

- Chúng tôi phản đối phái đoàn Chính Phủ Lâm Thời đã không trả tù binh Hoa Kỳ ở Lộc Ninh đúng 8 giờ 30 ngày hôm nay như đã hứa. Phái đoàn Hoa Kỳ sẽ gởi kháng thư tố cáo đến Trưởng đoàn CPLT và Trưởng đoàn của Ủy Ban Quốc Tế... Yêu cầu phái đoàn MTGP cho biết ý kiến về vấn đề này.

Đại Tá Lê Trực (MTGP):

-Về vấn đề danh sách tù binh quân sự, chúng tôi chỉ giao cho VNCH trước khi trao trả và tại địa điểm trao trả... Chúng tôi cũng nói trước là chỉ trả tù binh cho VNCH tại hai địa điểm Pleiku và Lộc Ninh. Về danh sách tù dân sự VNCH, phái đoàn chúng tôi chỉ có một danh sách 140 chứ không có danh sách hàng ngàn người như phái đoàn VNCH yêu cầu. Nghĩ rằng vấn đề thiện chí tức là trao danh sách, có bao nhiêu trao bấy nhiêu chớ không phải đợi đến con số tương xứng mới trao đổi. (Đại ý Trực muốn yêu cầu phía VCH trao danh sách 5081 Nhân viên dân sự Cộng sản cho họ vì đã có sẵn, chứ không phải đợi lúc họ bổ sung danh sách 140 này lên đến một con số khả thể chấp thuận nào đó thì VNCH mới trao danh sách 5081...)

Trung Tá Trần Tấn (Bắc Việt):

- Việc 100 Nhân viên Dân sự của Chính phủ Lâm Thời ở Biên Hòa không chịu lên máy bay đi Phú Bài sáng hôm nay (12-2-1973) có một khía cạnh chính trị: Những tù binh thuần túy là của Chính Phủ Lâm Thời chứ không phải của chúng tôi, vì Hiệp Định Ba Lê đã có thỏa thuận về vấn đề quân đội các bên ở miền Nam (Đại diện Bắc Việt muốn nói đến Điều 2 của NĐT về tù binh: Tại miền Nam Việt Nam chỉ có tù binh của hai bên miền Nam mà thôi). Chúng tôi cũng tiếc rằng sáng hôm nay không có đại diện Việt Nam Cộng Hòa đi Hà Nội để chứng kiến cuộc trao trả đầu tiên tù binh Hoa Kỳ tại Gia Lâm...

Bốn lần phát biểu của bốn phái đoàn đã đặt lên bốn vấn đề, bốn sự kiện hoàn toàn khác hẳn nhau nhưng các sĩ quan đại diện vẫn nghiêm trọng nhắc lại khi đến lượt mình phát biểu. Mỗi phái đoàn vốn dĩ lại có một tính chất rất khác biệt. Phái đoàn Mỹ, do bản chất cụ thể, do tư thế giản dị của một công tác thuần túy quân sự, hơn nữa nhiệm vụ của người Mỹ do hiệp định đặt ra cũng vô cùng đơn giản: Nhận tù, gỡ mìn bẫy ở miền Bắc và rút quân. Đại diện phía Hoa Kỳ là những người quân nhân đánh giá công việc với một nhãn quan rất dung dị và đúng luận lý nên vấn dề đặt ra dứt khoát rành rẽ. Phái đoàn MTGP như trên đã nói, phần lớn là cán bộ Bắc hoặc Trung, thiếu hẳn thông hiểu sâu xa về tình hình miền Nam. lại không có quyền để trả lời bất cứ vấn đề gì dù chỉ là một đề nghị về kỹ thuật và thủ tục, họ chỉ được phát biểu những ý kiến đã được ban tham mưu hoạch định trước qua một số từ ngữ được phân tích chọn lựa không sơ hở để đối phương có thể lợi dụng, khai thác. Thế nên, khi vào đến hoàn cảnh không thể tránh né được các vấn đề do VNCH và Hoa Kỳ nêu ra thì họ đón nhận ý kiến, đề nghị của đối phương bằng cách "ghi nhận để nghiên cứu" và câu trả lời sẽ không bao giờ có. Trong chiều hướng khắc khe chặt chẽ này, đại diện Bắc Việt cũng không có quyền rộng rãi hơn để phát biểu hoàn toàn ý kiến của mình về bất cứ vấn đề gì, vì vị thế của Bắc Việt trong bàn hội nghị cũng như Hoa Kỳ chỉ bao gồm vài nhiệm vụ đơn giản và cụ thể nên thường thường những đại diện Bắc Việt chỉ việc lập lại ý kiến của đại diện MTGP với thay đổi chút về từ ngữ, thứ tự vấn đề để nâng đỡ, che chở đàn em.

Phái đoàn VNCH trái lại, ở vào một thế lưỡng đầu thọ địch, kèm bên cạnh người bạn vô tình quá thực tế đôi khi đến tàn nhẫn. Chúng ta lại có nhiều công việc phải làm, nhiều vấn đề phải giải quyết, cũng như nhiều yêu cầu cần phải được thanh thỏa nhưng vấp phải thái độ cứng rắn của đối phương, cách thúc đẩy gần như ép buộc của đồng minh, và sự hạn chế bởi thời lượng do hiệp định đề ra, kèm thêm nỗi rối rắm vì công việc đa đoan, thiếu chuẩn bị nên hội nghị đôi lúc đã đi vào những thảo luận đối nghịch quái dị như trên, thảo luận cũng tràn theo những chiều hướng vô lý mà nguyên do cũng không ra ngoài các điểm vừa nêu rõ. Trở lại câu chuyện MTGP qua lời phát biểu, chỉ trả cho VNCH những quân nhân tại địa điểm Lộc Ninh và Pleiku, đã chứng tỏ họ không nắm vững cách phối trí và chế độ giam giữ của các trại giam cộng sản... Ở chiến trường Tam Biên tù binh VNCH được phân phối theo ba nơi, một số được để lại tại chỗ sau này trao trả tại Võ Định (Kontum), Đức Nghiệp (Pleiku), số khác chuyển ra Bắc sau này trao trả tại bắc sông Thạch Hãn, hoặc chuyển xuống vùng Quân Khu V cũ tức Mặt trận B5, gồm Nam Ngãi - Bình Phú của Tướng Chu Huy Mân để sau này trao trả tại Quảng Ngãi, Bình Định... Nhưng sở dĩ Lê Trực (Đại diện MTGP) chỉ nói đến hai địa điểm đó vì Đức Nghiệp (Đức Cơ - Pleiku) là một vị trí mẫu mà Cộng Sản Bắc Việt dự định xây dựng một thủ đô, hay một trung tâm kỹ nghệ cho chính phủ, Lộc Ninh thì đương nhiên coi như phía Nam. Sau này phía Cộng sản phân tán tù binh ra khắp mười một địa điểm từ Quảng Trị đến Cà Mâu trong âm mưu nhờ các cuộc trao trả chứng nhận luôn với Ủy Ban Quốc Tế là họ có đất miền Nam. Điều nầy cũng có thể giải thích rằng: Khoảng thời gian tháng 2-1973 Lê Trực chưa biết được âm mưu này hay vì Trực mới từ Pháp về không nắm vững tình hình nên phát biểu ý kiến như trên. Vì thiếu thông hiểu tình thế đôi khi đại diện MTGP còn đưa ra những đề nghị như: Nhận nhân viên quân sự của họ tại sân bay Hớn Quản tức là sân bay An Lộc. (Trong phần kiểm soát của VNCH!!) Cũng có thể giải thích cho ý kiến này là MTGP muốn lợi dụng lúc đi nhận tù binh trong vùng VNCH để ấn định một tiền lệ về hành lang di chuyển, tuyến giáp hai vùng của hai bên, một vấn đề rất gay go mà Tiểu Ban Quân Sự suốt hơn một năm thảo luận đã không có một tiến bộ. Cũng trong tình thế nghị hội quái gở này, đôi khi những đề nghị vô lý như "Xử dụng sân bay Ái Tử để trao trả". (Lúc địa điểm bắc sông Thạch Hãn chưa được đề cập) đã được bốn bên đưa ra thảo luận nghiêm trọng để rút được quyết định chung: Thám sát phi trường Ái Tử để xem C130 đáp được không?!! Tất cả đại diện của bốn phái đoàn đã không biết (Hoặc làm như không biết) căn cứ Ái Tử đã bị hư hại rất nặng trong tháng 4-1972, lúc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ binh rút về thị xã Quảng Trị, phi đạo của phi trường này bị bóc hẳn lớp PSP (sắt lót phi đạo) bởi đạn trọng pháo và bom cỡ lớn. Thế nhưng cuộc thám sát cũng đã thành hình nghiêm chỉnh và tích cực vào ngày 11-2-1973.

Nhưng dù loạt choạc, xộc xệch, các phiên họp liên miên của thời gian hai tháng đầu tiên cũng hoàn tất và đạt được một tiến triển - Tù quân sự của mỗi bên (Theo danh sách phổ biến tại Ba Lê) được trao trả hết. Các phiên họp này tuy có những sơ hở trầm trọng trên thủ tục và cách điều hành nhưng quả tình đã hiện thực được một phần hiệp định.

Sau ngày 27 tháng 3 năm 1973, Ban Liên Hợp 4B rút lại còn 2B, Tướng Phạm Quốc Thuần về thay Tướng Dư Quốc Đống. Tướng Thuần nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, sư đoàn cứng nhất của vùng III chiến thuật, cũng là sư đoàn chịu mặt trận nặng nề liên tục nhất của chiến tranh Đông Dương; chiến khu C, D, mật khu Hố Bò, Bời Lời, khu Tam Giác Sắt, Bộ Chỉ Huy Ba Cục hay R, bản doanh bộ chỉ huy tối cao Mặt Trận đều đóng trên vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5. Tướng Thuần trong khoảng thời gian dài lãnh nhiệm vụ ở vùng đất khẩn trương trọng yếu này, nơi đã có những trận chiến "quy ước" đầu tiên của thập niên 60 lúc du kích quân Cộng sản chuyển qua thế tấn công. Tuy là tướng lãnh của chiến trường, nhưng ông Thuần được mọi người nhìn nhận như là một người thích hợp với bàn hội nghị, với khả năng sắc bén, ý thức chính trị cao Tướng Thuần nhập trận vào lúc tình hình nghị hội chuyển hướng, mọi người chờ đợi những thay đổi quan trọng. Nhưng nghị hội không tiến triển theo chiều hướng hòa bình mà hiệp định vạch ra, Tướng Trần Văn Trà nhân cơ hội đi Hà Nội cùng phái đoàn Bắc Việt đã ở lại luôn tại đây, sau đó không hiểu về mật khu miền Nam hay đi Pháp để phối họp cùng đám cán bộ mặt trận tại Ba Lê. Lý do Tướng Trà rời khỏi chức vụ không được soi rõ, những giả thuyết được đặt ra để giải thích như, vì Tướng Trà có thái độ mềm mỏng, cởi mở không đúng với chủ trương nhất quyết xử dụng lực lượng quân sự để tiếp tục xâm lăng miền Nam của Hà Nội... Nhưng tất cả cũng chỉ là giả thuyết, phải đến lúc hội nghị đi vào giai đoạn thảo luận gay gắt đối nghịch nhau đến cùng cực, sự ra đi bất thường của Tướng Trà mới có thể giải thích đứng đắn được - Tướng Trà sinh năm 1918 tại Quảng Nam, tham gia vào phong trào Việt Minh từ những ngày đầu tiên, Quảng Nam cũng như Nghệ, Tĩnh và gần gũi như Quảng Ngãi là đất của đấu tranh liên tục và quyết liệt, địa bàn xung đột của những đảng phái đối nghịch và cao độ hận thù. Những người Cộng sản thuần thành tích cực nhất đã phát xuất từ những nơi chốn này, nhưng đấy cũng là những nơi rèn luyện, un đúc lên những cán bộ Quốc Gia nhiệt thành mạnh mẽ nhất. Tướng Trà là một trong những người Cộng sản đầu tiên của xứ Quảng, nơi đã phát động phong trào chống sưu thuế, chống mộ phu của chính quyền thuộc địa; ông cũng là người cầm dầu lực lượng võ trang thực hiện những vụ tàn sát thảm khốc ở Thăng Bình, Đại Lộc trong thời gian trước và sau 1945. Từ 1945, trước khi tập kết ra Bắc theo Hiệp Định Genève, Tướng Trà được chuyển vào Nam xây dựng "sự nghiệp" cách mạng trên đầu mũi súng, chức vụ lớn nhất trong giai đoạn này là Tư Lệnh Trung Đoàn Quyết Thắng - Đồng Nai. Ra Bắc, Trà được phong quân hàm Thiếu Tướng, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 330, một trong hai sư đoàn chủ lực của miền Nam tập kết, sư đoàn kia là Sư Đoàn 338 do Đồng Văn Cống người Bến Tre làm tư lệnh. Năm 1960 Trà hồi kết với bí danh Trần Nam Trung trở về chiến khu Đ, giữ chức vụ tư lệnh quân khu miền đông Nam bộ, kiêm Quân Ủy Miền (Ủy viên chính trị quân đội Cộng sản miền Nam). Tháng 6-1969, chính phủ Mặt Trận được thành lập để đáp ứng với tình hình chính trị, Tướng Trà được đề cử làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Với một quá trình hoạt động tích cực liên tục, cùng với những chức vụ quân sự chính trị quan trọng như thế, ông không thể để sử dụng trong giai đoạn hội nghị thụ động vì với khả năng và quyền hạn sẵn có Tướng Trà chắc sẽ có những quyết định vượt xa chủ trương gây bế tắc của phe Cộng sản. (Lẽ tất nhiên, cán bộ Cộng sản, dù cán bộ cao cấp cũng không bao giờ được phát biểu những ý kiến của riêng mình, ý kiến khi nói ra là của tập thể với những từ ngữ được chọn lọc kỹ càng). Nhưng, vì với quân hàm cũng như tư thế chính trị - quân sự quan trọng, Tướng Trà đã có những ý kiến rộng rãi (phát xuất từ một quyền hành thực tế) như khi trả lời về vấn đề các tù binh VNCH còn bị giam giữ tại Bắc Việt, Tướng Trà đã có ý kiến:

- Sẽ làm hết sức mình để giúp đỡ VNCH, được tới đâu thông báo tới đó.

Đây là ý kiến rộng rãi nhất, tích cực, khích lệ nhất mà phái đoàn Mặt Trận đã phát biểu chính thức. Thời gian sau khi nhắc lại vấn đề này, Hoàng Anh Tuấn (người thay Tướng Trà) hoặc Võ Đông Giang (Phó Trưởng Đoàn MTGP) chỉ trả lời lẫn tránh:

- Những người bị bắt ở ngoài lãnh thổ miền Nam như Lào hoặc Kampuchia thuộc về quyền quản lý của lực lượng Pathet Lào và Khmer Đỏ yêu nước, còn theo lời quý vị: Nếu có sự kiện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) có quản lý những người của VNCH thì chúng tôi cũng không biết đến vì chẳng bao giờ được thông báo sự kiện này!!

Giữa hai câu trả lời, lời của Tướng Trà quả tình phản ảnh được thái độ cởi mở, hợp lý nhất. Thái độ này hoàn toàn biến mất sau ngày 27-3-1973. Vậy Tướng Trà và quyền hạn của ông không thể đóng vai trò một búp bê gỗ được, nhiệm vụ này được trao tiếp cho Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn. Để có thể hiểu rõ sự biến thể và tính chất của nghị hội, cần nói rõ hơn về con người của Tuấn và Giang (Phó đoàn MTGP từ đầu lúc còn Tướng Trà và sau khi Tuấn tay thế Trà). Tuấn tên thật là Hồ Xuân Anh, người Huế khoảng thời gian trước, sau 1945 Tuấn làm tiểu đoàn trưởng ở phân khu Trị-Thiên, bị Pháp bắt xong sau này được đem trả lại cho Việt Minh, tập kết ra Bắc xong hồi kết khoảng năm 1960 được phong quân hàm đại tá và tham dự hội nghị với bí danh Hoàng Anh Tuấn với quân hàm "ngụy" Thiếu Tướng. Giọng nói của Tuấn là một thứ giọng Huế chân truyền, cổ điển, đầy âm thanh của những người vùng quê Thừa Thiên mạn Hương Điền, Vĩnh Lộc. Tướng Tuấn có những cách gằn giọng thoạt đầu tưởng mạnh mẽ, uy lực nhưng nghe quen, nghe rõ thì phát hiện được những tức giận thô thiển, của một tâm tình chất phác không thủ đoạn, không hiểm độc. Những từ ngữ như "chân thật, độc lập, nhân dân" khi Tướng Tuấn gằn giọng biến thành "chưng thực, đục lập, nhưng dưng..." đã mất hẳn ý nghĩa nguyên thủy cao quý, bộc lộ ra cách thụ động còm cõi của những chữ nghĩa "chết" được ghép vào nhau để một người học thuộc bài lập lại. Tướng Tuấn rất ít sáng kiến để nói lên những ý kiến với từ ngữ, cách thức xếp đặt thứ tự của riêng mình. Chỉ với một nội dung không đầy trang giấy của phiên họp ngày 10-5-73 lúc phản đối việc " Việt Nam Cộng Hòa hạn chế các quyền ưu đãi miễn trừ cho phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng yêu cầu VNCH phục hồi các quyền ưu đãi miễn trừ này để ban Liên Hợp Quân Sự 2B có thể hoạt động bình thường hữu hiệu được. Vì phái đoàn MTGP khi không có các quyền trên thì hoàn toàn bị tê liệt, không thể cùng VNCH tiến hành, thực hiện công việc của BLHQS...". Chỉ một nội dung ngắn ngủi như trên cùng với những từ ngữ quen thuộc, Tướng Tuấn cũng không nói theo cách riêng của mình, mà phải đọc từ một tờ giấy soạn sẵn. Không phải vì khả năng ăn nói kém nhưng Tướng Tuấn hình như không thích, không dám nói theo ý kiến riêng của mình. Tuấn hiện thực đứng đắn vai trò một Trưởng phái đoàn, thụ động trong giai đoạn hội nghị tắt nghẽn. Bên cạnh Tuấn, Võ Đông Giang thì có thái độ trái lại, Giang mang quân hàm đại tá nhưng là phát ngôn viên của phái đoàn kiêm chức vụ phó trưởng đoàn ngay từ ngày đầu tiên, tức là ủy viên chính trị của đoàn, Giang người gốc Quảng Ngãi, từ trước vốn nằm trong bộ tham mưu của Trà, đặc trách về sinh viên, học sinh, báo chí... Với phương vị hoạt động rộng rãi như thế Giang có đủ phong độ để vào bàn nghị hội với những thủ đoạn thần sầu nhất. Trái hẳn với Tuấn, Giang thường nói ra ngoài chủ điểm của vấn đề, bằng những lý luận móc nối, bổ túc cùng nhau với một giọng nói hòa hoãn, nhặt khoan rất sành sõi. Ưu điểm nổi bật nhất của Giang là không gây khích động cho người nghe nhưng lôi kéo người nghe vào câu chuyện, tạo điều kiện, tạo hoàn cảnh để đối phương phải theo lời phát biểu của mình, dù là lời đả kích, tấn công. Ví dụ khi VNCH tấn công sự im lặng của MTGP ở giai đoạn Trung Cộng tấn công quần đảo Hoàng Sa, thì Tuấn trả lời theo một lập luận quen thuộc với giọng nói gay gắt:

- Quân Đội cách mạng từ nhân dân đứng lên, vì nhân dân, vì tổ quốc mà chiến đấu, không thể đặt vấn đề quân đội cách mạng a tòng cùng quân xâm lược, quân cướp nước như quân đội VNCH đã theo chân quân đội thực dân Pháp trước kia và quân Hoa Kỳ sau này...

Trái lại Giang dùng một thế tránh đòn đặc biệt với một thái độ mềm mỏng, tính toán kỹ lưỡng. Giang mĩm cười trả lời:

- Về cái vụ Hoàng Sa, thì tôi xin kể ra đây một câu chuyện mà hôm qua nhân cuộc họp báo, một ký giả ngoại quốc đã hỏi rằng: "Ông nghĩ thế nào khi VNCH cố tình thổi phồng vụ Hoàng Sa thành một chuyện lớn..." Cái từ ngữ "cố thổi phồng" này là của ký giả ngoại quốc đó chứ không phải của tôi, nên nhân buổi họp hôm nay tôi xin kể lại nguyên văn để quí vị nghe và nghiên cứu... - Giang nói thủng thẳng, nhẹ nhàng né tránh đợt tấn công theo kiểu của Tuấn như ở trên, cách thức sẽ đem lại thất bại.

Tướng Trà đi, để lại hội nghị cho hai nhân vật trên (Có một đại tá khác, Đại Tá Sĩ là phó đoàn MTGP, nhưng nhân vật này phụ thuộc nên tôi không kể vào). Nhưng dù bản chất và khả năng của họ có trái ngược cùng nhau, chủ điểm kéo dài hội nghị, ép thảo luận theo những phạm vi nhất định vẫn được thực thi tối đa nghiêm chỉnh.

Từ những phiên họp đầu tiên của hai bên (27-3-73) cho đến khi rời khỏi chức vụ, Tướng Thuần chỉ đến họp những phiên quan trọng như phiên họp sau thông cáo chung 13-6-73 của Kissinger và Thọ, phiên họp để giải tỏa bế tắc về trao trả 23-7-73, v.v.... Phần lớn ông đã để Tướng Hiệp và Đại Tá Đóa bao sân. Sở dĩ Tướng Thuần không dự các phiên họp vì cấp bậc ông quá cách xa quân hàm của các ủy viên MT, cũng như vì biết rõ ý đồ làm trì trệ hội nghị qua vai trò những người đại diện thiếu quyền quyết định và giải quyết các vấn đề. Sự bế tắc vì quan điểm đối nghịch làm tất cả các buổi thảo luận trong giai đoạn này không đạt được một kết quả nhỏ nhoi nào, dù là một đồng ý về nguyên tắc và thủ tục.

Những vấn đề căn bản như ngưng bắn, khai triển các ban liên hợp cấp khu vực, tổ ở các địa phương, (Bảy khu vực chính là Quảng Trị, Đà Nẵng, Pleiku, Nha Trang, Phan Thiết, Biên Hòa, Cần Thơ từ các cơ sở khu vực này chia thêm nhiều tổ nhỏ, ví dụ như khu vực Biên Hòa có những tổ ở An Lộc, Vũng Tàu, v.v... Tổng cộng khắp miền Nam tất cả là ba mươi tổ). Vấn đề cửa khẩu, thay thế vũ khí, ưu đãi miễn trừ qua hàng chục phiên họp cấp trưởng đoàn cũng như cấp tiểu ban đều không đạt đến một thỏa thuận nhỏ bé nào. Điển hình như vấn đề ngưng bắn, phía VNCH đưa ra một đề nghị gồm bảy điểm như sau:

- Bốn phe ký kết hiệp định ra cấp tốc lời kêu gọi chung về ngưng bắn.

- Trong vòng 48 giờ sau khi lời kêu gọi chung được phổ biến các phe đều phải ngưng bắn, ở nguyên vị trí tạm thời.

- Vạch một lằn ranh kiểm soát của mỗi bên từ cấp trung đội trở lên, ở giữa các vùng đối diện có một vùng trắng hai bên không được vào để tránh xung đột.

- Lui về vị trí cũ trước ngày 28 tháng 1 năm 1973.

- Khai triển gấp các cấp trung ương, khu vực, tổ (để kiểm soát ngưng bắn) trên toàn lãnh thổ dựa theo các điều đã được Nghị Định Thư quy định.

- Áp dụng thủ tục điều tra vi phạm cho hai bên đang thảo luận có sự phối hợp giữa Ũy Ban Quốc Tế kiểm soát và giám sát.

- Sau khi thực hiện các điều khoản trên, thảo luận về cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau.

Phía MTGP đưa ra đề nghị gồm bốn điểm chính:

- Hai bên miền Nam Việt Nam cùng đưa ra lời kêu gọi chung, cùng chung một nội dung về ngưng bắn, xử dụng tất cả phương tiện sẵn có và hữu hiệu nhất để thông báo đến các lực lượng võ trang, bán võ trang, chính qui, địa phương của mỗi bên...

- Ngay sau khi lời kêu gọi chung được phổ biến, hai bên chấm dứt hẳn tiếng súng, chấm dứt mọi xử dụng hỏa lực phi pháo vòng cầu, ở nguyên tại vị trí.

- Tháo gỡ tất cả mọi chướng ngại vật, mìn bẫy, trên đường, trên sông để dân chúng hai miền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do kinh doanh, v.v.... Cấp cơ sở hai bên ở chiến trường gặp nhau trong tinh thần hòa giải và hòa hợp để đi đến chỗ chấm dứt hẳn tiến súng, ấn định vùng kiểm soát của mỗi bên.

- Khai triển các cấp trung ương, khu vực tổ tùy theo tình hình mỗi địa phương, theo phương thức hai trong, năm ngoài, v.v. (Hai trong vùng VNCH, năm ở vùng giáp ranh).

Mới thoạt nhìn thì đề nghị bảy điểm bên này hay bốn điểm bên kia cùng có chung một nội dung như kêu gọi ngưng bắn, đình chỉ xung đột, cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau, khai triển các khu vực, tổ để giám sát và kiểm soát ngưng bắn. Thật ra, đề nghị trên tuy có chung một vài từ ngữ chính yếu, cũng nhằm đạt tới "mục đích ngưng bắn" nhưng quả tình là những đề nghị của hai quan điểm hoàn toàn đối nghịch. Nhìn ngay đề nghị đầu tiên về lời kêu gọi chung; Phía VNCH quan niệm phải bốn phe ký kết hiệp định cùng phổ biến lời kêu gọi mới có hiệu quả và phản ảnh đúng thực tế quân Bắc Việt đã và đang tham chiến tại miền Nam. Lời kêu gọi chung cũng chỉ được phía VNCH quan niệm như là một bước đầu để tiến tới ngưng bắn chứ không cấu tạo nên ngưng bắn được mà phải đợi lúc khai triển đủ các cơ quan LHQS và UBQT đến các khu vực, tổ để giám sát, kiểm soát ngưng bắn tại mỗi địa phương, lúc ấy ngưng bắn mới có cơ thành hình được. Phía MTGP lại có quan niệm khác hẳn. Theo họ, lời kêu gọi chung chỉ cần do hai bên miền Nam phổ biến kịp thời đến tất cả mọi lực lượng vũ trang, bán vũ trang thì hình trạng ngưng bắn ắt được thực thi toàn diện.

Chỉ mới hai đề nghị cùng chung một thứ tự, một nội dung, nhưng ý hướng của hai bên đã xây dựng trên những cơ sở khác biệt, những quan niệm nghịch chiều toàn diện. Kế đến đề nghị "cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau (của VNCH)" và đề nghị cấp cơ sở ở chiến trường gặp nhau (của MTGP)" thì sự dị biệt đã đến điểm cao không thể nào hòa giải. Đề nghị của phía VNCH được giải thích rõ ràng và chính xác rằng: "Cấp chỉ huy chiến trường phải là cấp sư đoàn vì chỉ có giới chức ở cấp đó mới có đủ quyền hạn, khả năng, phương tiện để "ra lệnh" cho cấp dưới triệt để tuân lệnh ngưng bắn. Vị Tư lệnh sư đoàn mới có chức năng trách nhiệm về lãnh thổ, phối hợp với các Tỉnh trưởng về phân định vùng trú quân cho mỗi bên. Phía MTGP có quan niệm khác hẳn: "Đề nghị hai bên chiến trường gặp nhau ở cấp "cơ sở". Nghĩa là trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tổ trưởng, và cuối cùng là mỗi chiến sĩ!!" Đoạn đối thoại sau đây của Tướng Hiệp (VNCH) và Tướng tuấn (MTGP) là một "sen" điển hình của hai quan niệm đối nghịch...

Tướng Hiệp:

- Chúng tôi quan niệm rằng cấp sư đoàn trưởng là cấp chỉ huy có đủ thẩm quyền để điều động tại chiến trường cũng như để phối hợp với các binh chủng khác như pháo binh, không quân, tiếp vận. Do đó, chỉ có cấp đó mới có đủ thẩm quyền gặp gỡ cấp bậc tương đương phe bên kia để thực hiện việc ngưng bắn. Theo lập luận của quí vị, thì các cuộc gặp gỡ hai bên chiến trường có thể thực hiện theo cấp sư đoàn cùng cấp cơ sở, vậy yêu cầu quí vị giải thích "cấp cơ sở" là cấp nào?

Tướng Tuấn:

- Cơ sở đó là cấp sư trưởng (sư đoàn trưởng), trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng, trung đội trưởng...

Tướng Hiệp:

- Như vậy dưới trung đội là không còn cơ sở nữa? Chúng tôi muốn hiểu "cơ sở" của quý vị có dừng lại ở cấp trung đội không và dưới nó là tiểu đội trưởng, tổ trưởng không còn là cơ sở nữa; nói một cách cụ thể hơn, cấp trung đội trưởng là cấp cơ sở cuối cùng có quyền ra lệnh và ở dưới phải nghiêm chỉnh thi hành không được đánh phá... Chúng tôi hiểu nghĩa "cơ sở" của quí vị như thế, quí vị có đồng ý không?

Tướng tuấn:

- Cái chữ "cơ sở" có thể hiểu rộng thêm tí nữa, chúng tôi mới tạm ngừng ngang trung đội mà thôi, chứ cơ sở cũng có thế đi tới tiểu đội trưởng, tổ trưởng.

Tướng Hiệp:

- Như vậy tổ trưởng đã hết cấp cơ sở chưa?

Tướng Tuấn:

- Chưa, cái "cơ sở" mà chúng tôi muốn nói đến phải hiểu là "cấp chiến sĩ", vì mỗi chiến sĩ đều nhận một mệnh lệnh, một nhiệm vụ!!

Tướng Hiệp:

- Như vậy đã hoàn toàn hết nghĩa cơ sở chưa?

Tướng Tuấn:

- Như phần mà chúng tôi vừa trình bày, đó là ở phạm vi quân sự, còn về phần chính trị, các cấp cơ sở gặp nhau sẽ là tỉnh trưởng, phía quí vị gặp tỉnh đội trưởng của chúng tôi, quận trưởng gặp huyện đội trưởng và cứ như vậy đi dần xuống đến cấp xã trưởng, ấp trưởng...

Đoạn đối thoại ngắn trên đây đã thực hiện đủ tính chất đối kháng của hai đề nghị dù cùng mang chung một từ ngữ, cùng hướng đến một mục tiêu trên bề mặt, cách xếp đặt trước sau trong thứ tự của các đề nghị này cũng phản ảnh rõ thêm về tính đối nghịch của hai dự kiến. Phía VNCH hình dung ra một cuộc gặp gỡ giữa hai bên trên cấp sư đoàn theo một diễn tiến gọi là kế hoạch ba bước.

Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương ấn định vùng thí điểm, chọn ngày giờ để BLHQS các cấp hai bên ra lệnh cho các đơn vị (trong vùng trách nhiệm được chỉ định) ngưng hẳn tiếng súng, ở nguyên vị trí.

Ban LHQS/TƯ gởi tức khắc một tổ LHQS đến địa điểm được lựa chọn, các thành viên sẽ là sĩ quan cấp đại tá có nhiệm vụ làm trung gian cho vị Tư lệnh sư đoàn gặp nhau lần đầu và chứng kiến cuộc gặp gỡ đó.

Hai vị Tư lệnh sư đoàn của hai bên sẽ bàn bạc vào các buổi kế tiếp về chi tiết và các biện pháp thi hành ngưng bắn và gìn giữ lâu dài việc ngưng bắn trong vùng lãnh thổ trách nhiệm của mình...

Kế hoạch này chỉ được hình thành khi các tổ, các khu vực đã được phối trí đủ, UBQT cũng đã khai triển đủ bốn thành viên ở các địa điểm ấn định theo nghị định thư. Cuộc gặp gỡ chỉ được thực hiện ở cấp sư đoàn vì chỉ có vị Tư lệnh sư đoàn mới có đủ quyền hạn và khả năng thực thi, phối hợp cuộc ngưng bắn.

Phía MTGP thì lại hình dung cuộc gặp gỡ theo một diễn trình khác:

- Sau khi phổ biến lời kêu gọi chung, hai bên miền Nam đình chỉ tất cả các vụ nổ súng, ở nguyên vị trí, phá bỏ hệ thống phòng thủ mìn bẫy, cấp cơ sở hai bên gặp nhau từ cấp nhỏ đi lần lên cấp lớn để thực hiện ngưng bắn toàn diện, lâu dài.

Tuy cùng mang chung một số từ ngữ như ngưng bắn, đình chỉ xung đột, hai bên gặp nhau trong tinh thần hòa giải, hòa hợp, v.v... Nhưng qua phân tách sơ khởi, ta đã nhận được toàn bộ đối nghịch của hai đề nghị, thế nên phía VNCH đã có những vấn nạn sau đây về đề nghị của MTGP:

- Cấp cơ sở tức là binh nhì của VNCH gặp một du kích địa phương của MTGP, hai người này gặp nhau để làm gì, họ giải quyết được gì và thực hiện ngưng bắn theo phương thức nào?

- Một cuộc gặp gỡ hỗn loạn tràn khắp nơi, không có phương thức gặp gỡ với những người không được chỉ định trách nhiệm tiếp xúc, và quan trọng hơn hết khi không có các Tổ Liên Hợp Quân Sự, các Tổ Ủy Ban Quốc Tế chứng kiến, giám sát, thì ai sẽ là "trọng tài" cho cuộc gặp gỡ đó. Thế nên, VNCH mới đề nghị khai triển gấp với các Tổ, Khu vực/Liên Hợp Quân Sự (Điểm thứ 7 của đề nghị).

Phía MTGP lại có lập luận để giải thích vấn nạn nầy:

- Cấp cơ sở, mỗi chiến sĩ, mỗi cán bộ đều lãnh một nhiệm vụ, một trách nhiệm, họ là người đối mặt với nhau trên chiến trường nay phải để cho gặp nhau trước, tìm hiểu, thăm hỏi, nói với nhau nghe về "đạo lý" của hiệp định để thực hiện và củng cố ngưng bắn một cách cụ thể, xong được cơ sở này thì tiến dần lên cấp trên.

- Phái đoàn Mặt Trận cũng quan niệm VNCH phải áp dụng đủ mười một điều ưu đãi miễn trừ (Quyền tự do đi lại, hội họp, họp báo, treo cờ, v.v...) thì các thành viên MTGP mới có điều kiện để hoạt động. MTGP cũng luôn thể xác định: Chỉ khai triển các tổ theo phương thức "hai trong, năm ngoài" nghĩa là khai triển hai địa điểm khu vực ở trong vùng VNCH, năm địa điểm ở vùng giáp ranh.

Luận lý và lý luận đối nghịch, cả hai bên thật sự khi đưa ra đề nghị đã không có một hy vọng nào được bên kia đáp ứng. Làm sao MTGP có thể chấp thuận một cuộc gặp gỡ ở cấp sư đoàn khi toàn bộ các sư đoàn cộng sản Bắc Việt đều trấn đóng ở vùng biên giới, ba sư đoàn chủ lực của MTGP (Sư Đoàn CT 5, 7, 9) cũng chỉ bám được một số đất đai thuộc ba tỉnh Tây Ninh, Phước Long, Bình Long dọc theo vùng biên giới. Gặp gỡ ở cấp sư đoàn CSBV là vô hiệu hóa đám cán bộ du kích địa phương, những "cơ sở chính trị" đã cấy vào nông thôn Việt Nam Cộng Hòa nhân cơ hội lực lượng võ trang tổng tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa hè 1972. Cuộc gặp gỡ nếu có các Tổ Liên Hợp Quân Sự (Khai triển trong vùng VNCH theo như Nghị Định Thư) đến chứng kiến và giám sát thì làm sao người cộng sản làm nổi bật được cái " ranh giới giữa hai vùng ". Chủ điểm chính của tất cả mọi dự tính của phái đoàn Mặt Trận.

Trái lại, VNCH cũng không thể chấp thuận được đề nghị toàn bộ các cấp cơ sở gặp nhau khi chưa hoàn tất được hệ thống các Tổ, Khu vực LHQS. Vì gặp gỡ trên cấp cơ sở nghĩa là đâu đâu cũng tràn ngập du kích địa phương, cán bộ binh sĩ Cộng sản. Hơn ai hết, các sĩ quan ủy viên trong phái đoàn VNCH phải toàn phần bác bỏ cách thức gặp gỡ tràn ngập này vì họ biết binh sĩ Cộng sản đã được chuẩn bị và huấn luyện rất kỹ, thuần thục các công tác đấu tranh chính trị, xách động quần chúng, binh sĩ Cộng sản có thể tiến tới những vụ cướp chính quyền một vài cơ sở xã, thôn, quận lỵ xa xôi, nhân cơ hội lúc binh sĩ VNCH cả tin vào tinh thần "hòa giải, hòa hợp.."... Tràn ngập, xách động, cướp chính quyền, những diễn tiến tất nhiên trong vận động khuynh đảo của người Cộng sản.

Phía VNCH lẽ tất nhiên phải duy trì những điểm đề nghị của mình, vì khai triển trước các khu vực, tổ, tức là dựng được một hàng rào kiểm soát, giám sát được các cuộc tiếp xúc, điều tra vi phạm.

Mặt Trận Giải Phóng cũng thế; họ phải duy trì yêu cầu VNCH phải áp dụng đủ các quyền "Ưu đãi, miễn trừ để các đoàn đại biểu MTGP sẽ trương cờ trên xe đi từ vùng của MTGP sang đến vùng của VNCH và làm việc tại những vùng tiếp giáp...Nếu hình thành được tình huống này tức là hiện thực trước Ủy Ban Quốc tế, trước nhân dân, trước thế giới thực tế có hai vùng kiểm soát do hai quân đội, hai chính phủ điều khiển ". Quan điểm chiến lược mà MTGP nhất quyết phải thực hiện cho được, bằng tất cả mưu toan, chuẩn bị, lợi dụng mọi tình huống. Từ viên tướng ngồi bàn hội nghị đến gã lính gác cổng ở Lộc Ninh, mà toàn lời nói, luận lý, nỗ lực chỉ cố để làm sáng tỏ thực tế này. Thực tế hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính phủ ở miền Nam Việt Nam. Những vận động đưa Fidel Castro vào thăm viếng Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ của Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, những hình thức trình Ủy Nhiệm Thư ở cấp bậc đại sứ (Algérie, Đông Âu) cũng mục đích hiện thực thêm chứng cớ thực tế của " Chính Phủ " Mặt Trận Giải Phóng.

Lẽ tất nhiên, VNCH phải bác khước thực tế này, trên bàn hội nghị cấp trưởng đoàn hay các tiểu ban, các sĩ quan nghị hội VNCH đều xử dụng luận lý: Một chính phủ phải có những thực tế như đất đai, dân chúng, được quốc tế thừa nhận và hệ thống tiền tệ riêng. Mảnh đất đai rãi rác ở những núi đồi xa xôi của cái gọi là " Chính Phủ Lâm Thời CHMNVN " chỉ gồm một ít dân chúng với tỷ lệ 3% nhân dân miền Nam, xử dụng đồng bạc Việt Nam Cộng Hòa, chỉ được một vài nước ở khối không liên kết công nhận thì làm sao có thể gọi là một chính phủ của một Quốc Gia được. Hơn nữa, từ trang đầu đến trang cuối của Hiệp Định Ba Lê, văn kiện pháp lý quốc tế cũng chỉ gọi Mặt Trận Giải Phóng là một lực lượng đối nghịch cứ không hề công nhận đây là một chính phủ ngang hàng được... Có một từ ngữ nào của hiệp định nói về chính phủ này không? Bằng lập luận dựa trên thực tế, trên văn bản hiệp định, văn kiện pháp lý độc nhất của thế giới xác định vai trò của MTGP, các sĩ quan chuyên viên nghị hội VNCH xử dụng tất cả mọi khía cạnh ưu thế để vạch rõ "thực tế" chính phủ này...

Quan điểm căn bản đối nghịch dẫn dắt tất cả mọi tranh luận đến bế tắc. Từ ngày đầu tiên của giai đoạn hai bên 28-3-1973 qua 13-6-1973 lúc Thông Cáo Chung của Kissinger và Thọ cố kiếm một sức đẩy hai bên miền Nam thi hành hiệp định. Ngày 15-10, Bộ Tư Lệnh tối cao các lực lượng võ trang của MTGP ra mệnh lệnh đánh trả với phương án chỉ đạo:

- " Đánh có miếng đừng gây tiếng..." Mệnh lệnh ngày 15-10-1973 hiện thực cụ thể Nghị Quyết 12R của Trung ương Cục miền Nam, ngụy danh Nghị Quyết 21 của Trung Ương Đảng miền Bắc. Cuối tháng 10-1973 Tướng Hiệp chính thức thay thế Tướng Thuần, nghị hội đi qua một giai đoạn khác: Giai đoạn... Đấu võ mồm!

Sau mệnh lệnh "đánh trả" này 15-10-1973 của Trung Ương Cục miền Nam, tình hình chiến sự trở nên nghiêm trọng cực độ, 20-10-1973 một trung đoàn thuộc sư đoàn 320 cường tập tấn công bức rút trại Lệ Minh, một căn cứ của Biệt động quân ở tây-nam Pleiku. Ngày 4-11-1973 mặt trận Quảng Đức bùng nổ kéo dài trong vòng nửa tháng với quân số tham chiến cấp sư đoàn. Đây là những trận đánh có kích thước lớn nhất kể từ ngày 28-1-1973 hiện thực đúng chủ trương " đánh có miếng nhưng không gây tiếng " của mệnh lệnh 15-10-1973. Trong tháng 12-1973 nghị quyết 12-R, ngụy danh chỉ thị của trung ương Đảng, đúc kết toàn thể sách lược chỉ đạo tất cả mọi phạm vi hoạt động trong phương án: " Cuộc tấn công toàn diện ở miền Nam Việt Nam phải được thực hiện đồng loạt và tràn ngập, liên kết ba mũi, chủ động cả ba mặt, trên khắp ba vùng. Ba mũi là mũi tấn công quân sự, tấn công chính trị, tấn công binh vận; trên ba mặt chính là diện quân sự, diện chính trị, diện ngoại giao; tràn ngập đến khắp ba vùng: Vùng của MTGP, vùng tranh chấp (vùng xôi đậu), vùng VNCH. Đề án được phổ biến rộng rãi đến tận một binh sĩ, mỗi cán bộ để cán binh Cộng sản ra sức học tập, giải thích và hiện thực tối đa ".

Song song với tình hình chiến trường cùng các hoạt động vi phạm bộc phát nghiêm trọng như thế tại bàn hội nghị, MTGP áp dụng một sách lược tấn công mới, cách thức tấn công mà Đại tá Đóa, Phụ Tá Nghị Hội Trưởng Đoàn VNCH gọi là chính sách " nhai giây thun, phun nước miếng "... Hoàng Anh Tuấn, Võ Đông Giang đồng loạt mở màn chiến dịch đả kích phê phán chính sách của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa trên hai chủ đề ngưng bắn, thảo luận về trao trả. Tài liệu chính mà cấp trưởng phái đoàn MTGP thường xử dụng là bản tin chiến sự của đài phát thanh giải phóng với nội dung là thổi phồng, xuyên tạc các hoạt động của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ vùng I tới vùng IV... Bắt đầu MTGP tố cáo:

- Hoạt động nống lấn, cày ủi của quí vị có mục đích gom dân vào các "khu tập trung" để cướp thóc lúa, tiền của nhân dân; các lực lượng thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã đồng loạt thực hiện ở các xã tây, tây-nam Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn (Vùng đất cực tây và tây-nam của hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín). Xong đến tố cáo Sư Đoàn 2 Bộ Binh hành quân hủy diệt, dội bom đánh phá vùng giải phóng ở tây Sơn Tịnh, Mộ Đức, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Đặc biệt ở vùng này Hoàng Anh Tuấn cũng như Võ Đông Giang đều nêu rõ từng danh hiệu các tiểu đoàn bộ binh, địa phương quân, các chi đoàn thiết giáp, chiến xa hành quân, ở những xã thôn, ấp nào. Ví dụ: Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 4 Sư Đoàn 2 bộ binh cùng Tiểu Đoàn 102 Bảo An (Địa Phương quân) có chi đoàn xe bọc thép 1/4 yểm trợ hành quân cày ủi vùng hai xã Phổ Thông, Phổ Đức thuộc huyện Đức Phổ... Sở dĩ trưởng phái đoàn MTGP thường hay chú ý đến vùng đất này cùng các chi tiết rõ ràng vì họ biết Tướng Hiệp vốn là Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 2 Bộ binh, nguyên Tư Lệnh Thiết giáp, trấn đóng vùng Quảng Ngãi, Quảng Tín trong thời gian dài; Tướng Hiệp cũng từng là Tư Lệnh Biệt Khu Quảng Đà (Quảng Nam, Đà Nẵng) nên rất thông thuộc từng địa danh, từng đơn vị của vùng này. Trong một phiên họp, Tướng Tuấn quen thói đọc bản văn vi phạm của quân lực VNCH có nhắc tới một xã thuộc quận Hòa Vang (Quảng Nam) sát nách thị xã Đà Nẵng cho rằng VNCH đã xử dụng một lực lượng bộ binh quan trọng cùng phi pháo tấn công, hủy diệt xã này để lùa dân vào "khu tập trung"... Lập tức, Tướng Hiệp phản pháo:

- Toàn thể quận Hòa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam nằm sát với thành phố Đà Nẵng, tương tợ như vùng Gò Vấp, Tân Bình với Sài Gòn, từ trước tới nay không hề có một xã thôn nào bị Mặt Trận Giải Phóng kiểm soát được... Hoạt động cộng sản ở vùng này là vài anh du kích đi treo cờ, rải truyền đơn, đặt mìn, ném lựu đạn chớ không thể một đơn vị Cộng sản nào có một hoạt động quân sự khả dĩ để VNCH phải huy động những cuộc hành quân cấp tiểu đoàn... Hơn nữa dân chúng vùng Hòa Vang đa số là đảng viên Đại Việt, một đảng phái quốc gia kỳ cựu đã có những xung đột quyết tử với phe Cộng sản từ mấy mươi năm qua. Vậy, nếu muốn xuyên tạc và tố cáo, trưởng đoàn MTGP nên chọn một địa điểm khác hợp lý hơn với lời tố cáo.

Sau lần "hớ" nêu trên, phái đoàn Cộng sản dời các nơi "vi phạm" thuộc ba tỉnh Nam-Tín-Ngãi vào sâu trong vùng cận sơn cho chắc ăn!

Sau vùng đồng bằng Nam-Tín-Ngãi, MTGP chuyển vi phạm VNCH lên vùng Tây Nguyên; nơi nào họ có hoạt động quân sự, tập trung quân để cường tập, tấn công các căn cứ VNCH và phía bên này điều động lực lượng đến để giải tỏa, thì MTGP lại gọi đó là một hoạt động vi phạm lệnh ngưng bắn! Cấp trưởng phái đoàn MT thường có một phê phán rất hồ đồ ở vùng này:

- Phía quí vị đã tập trung hàng ba, bốn liên đoàn Biệt động quân, hai, ba trung đoàn bộ binh có xe bọc thép, phi cơ, đại pháo yểm trợ để tấn công, hủy diệt các vùng giải phóng "lâu đời" của chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam! Vùng giải phóng "lâu đời" tức là các căn cứ Lệ Minh, Plei Morong vừa bị họ bức rút chiếm cứ và Việt Nam Cộng Hòa tập trung quân phản công chiếm lại. Vi phạm chuyển về phía nam vùng Quảng Đức chung quanh căn cứ Đức Lập, Darksong. Đến vùng III, áp dụng chiến thuật xuyên tạc như cũ, nhưng để tránh khỏi nhàm chán MTGP úp mở tuyên bố: Lực lượng võ trang cách mạng cương quyết đánh trả để giữ vững vùng cách mạng ở đông bắc Trãng Bàng (Hậu Nghĩa) hoặc củng cố vùng cách mạng đánh bật các chốt phía bắc đường 13 mà lính quí vị trấn đóng trái phép. Lập luận này để che tội lấn chiếm ở những xã đông bắc Trãng Bàng, bắc An Lộc nơi mà cán binh CS vừa lập xong được các chốt sau khi lấn chiếm. Tố cáo chuyển dần xuống vùng IV, qua Long An, Định Tường và kết thúc ở vùng Thất Sơn, Châu Đốc. Xen kẽ trong những tố cáo về vi phạm quân sự, Trưởng Đoàn Mặt Trận Giải Phóng thường chen vào những tố cáo khác như tham nhũng, hiếp dâm, cướp bóc. Áp dụng đúng nguyên tắc vu khống. Một sự vu khống muốn được nghe và tin thì kèm thêm một, hai yếu tố thực tế cụ thể nào đó xong tán rộng ra và nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Điều vu khống kia sẽ đạt đến một cường độ khả thể thấm thấu và óc não của kẻ bị tuyên truyền. Thế nên, khi tố cáo về một đơn vị VNCH ở một vùng với hoạt động rõ ràng có chỉ danh chi tiết, phía MTGP kèm theo đó vài tội vu cáo, như đại đội 2 của tiểu đoàn trên ăn cướp năm mươi con gà của ông Lê Văn Sáu ở ấp 1, xã Phổ Phong, quận... Sau một thời gian, phía CS thấy các tố cáo về ăn cắp, ăn cướp không được ăn khách; họ tăng tội ác lên độ ăn cướp kèm theo giết người và hiếp dâm...

Chủ trương tố cáo trên sở dĩ có, vì phía VNCH trong khi tố cáo lại đối phương thường kết án hành động khủng bố, ám sát, giật mìn của đám cán bộ hạ tầng MT (Theo đúng đề án ba mũi, ba mặt, ba vùng...) bằng dẫn chứng là bản báo cáo các hoạt động khủng bố trong ngày, được Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đúc kết từ các Đô, Tỉnh, Thị trong toàn quốc lúc 7 giờ sáng mỗi ngày. Bản báo cáo đầy đủ các chi tiết như tên, họ, số lượng người bị bắt cóc tại ấp, xã, quận, tỉnh liên hệ. Những khủng bố quan trọng có hệ thống thường nhằm vào một khu vực, một thành phần đối tượng nào đó sẽ được phía VNCH nghiên cứu và lưu ý để xử dụng làm bằng cớ tố cáo ý định, dự mưu của phía cộng sản... Ví dụ như ở vùng Cai Lậy quả đạn cối 82 ly ngày 9-3-74 gây sát hại làm thương vong hàng gần trăm trẻ em, làm toàn thể nhân dân trong và ngoài nước sững sờ vì một tội ác vượt quá ý niệm, nhưng đối với những ủy viên nghị hội, những người có nhiệm vụ theo dõi, đo lường những vi phạm, khủng bố của Cộng sản thì tội ác trên chỉ là một diễn tiến "hợp lý", một tiến bộ "cụ thể" mà người Cộng sản chắc chắn sẽ thực hiện. Vì quả đạn 82 ly ngày 9-3 vào Trường Tiểu Học Cộng Đồng Cai Lậy là "hậu quả" của những "công tác" có hệ thống. Sau đây là một báo cáo điển hình kể từ ngày có thông cáo chung 13-6-73 giữa hai người được giải Nobel Hòa Bình, tại khu vực Cai Lậy. Ngày 20-7-1973 để kỷ niệm ngày ký kết Hiệp Định Genève, phe cộng sản bắn 20 trái 82 ly vào khu đông dân cư phía đông -nam chợ Cai Lậy làm năm đồng bào bị thương vong. Ngày 24-3-73 pháo kích một quả 103 vào xóm Búng, nam quận Cai Lậy "giải phóng" một linh hồn một em bé cùng bốn đồng bào lớn tuổi khác. Ngày 17-3-1973 đặt mìn phá chiếc cầu tại ba cây số bắc quận lỵ làm cầu hư 70%; ngày 18-9-1973 bắn hai quả B40 vào một chiếc xe be làm hai đồng bào "lao động" lấy củi tử thương tại chỗ. Ngày 8-10-1973 pháo hai hỏa tiển vào sát hàng rào quận tiêu diệt được một đồng bào, làm bị thương ba người khác. Ngày 18-11-1973 du kích Cộng sản tác xạ ba quả 60 ly vào xã Nhị Quí giải phóng cho sáu đồng bào. Ngày 5-2-1974 pháo năm quả 61 ly vào xã Mỹ Thạnh; ngày 6-2-1974 bắn xe lam trên liên tỉnh lộ 29 nối Cai Lậy (Định Tường) với Kiến Tường diệt gọn ba đồng bào; ngày 9-2-1974 bắn một B40 vào nhà một thường dân ở xã Mỹ Thạnh Trung làm ba em bé của "hàng ngũ Ngụy" bị thương. Ngày 27-2-1974 ném bê-ta vào nhà một thường dân làm hai người bị thương; ngày 4-3-1974 bắn một quả M79 vào đám nông dân ở 7 cây số đông-nam Cai Lậy làm bị thương hai người; ngày 9-3-1974 pháo kích một quả 60 ly vào địa điểm đông dân ba cây số bắc Cai Lậy làm năm thường dân bị thương.... Cùng ngày nầy, "thành công vượt bực" là quả đạn 82 ly rơi vào trường Tiểu Học Cộng Đồng Cai Lậy, song song với thành quả lẫy lừng này là một quả 82 ly khác rớt vào xóm Búng với kết quả "khiêm nhường", chỉ một đồng bào bị thương.

Các vi phạm được ghi nhận, lưu ý, đúc kết dần dần kế tập nên hiện thực tội ác của người Cộng sản. Phía VNCH đã dùng những chứng tích cụ thể này để xây nên luận cứ buộc tội. MTGP lẽ tất nhiên không thể chối bỏ rằng không có các tội vi phạm đó, nên họ lại bày ra một chiến pháp tố cáo khác để đánh lạc hướng, hóa giải lời buộc tội của VNCH... Ví dụ khi phía VNCH tố cáo MTGP vi phạm một vụ khủng bố bắt cóc một trưởng ấp thì họ sẽ dựng lên một vụ giết người quy mô có dự mưu, với mục đích cướp của hiếp dâm... Thường thường "tội ác" của quân đội VNCH phạm bao giờ cũng lớn hơn, nặng nề, nghiêm trọng hơn các vi phạm của du kích Cộng sản!! Nhưng có lẽ vì không liên lạc với các đơn vị địa phương, chẳng có báo cáo chính xác về các hành động phạm pháp của binh sĩ quân lực VNCH trong các cuộc hành quân ở khắp nơi (nếu có)... Phái đoàn MTGP dựng đứng bằng cách ghép các tội ác (tưởng tượng) trên vào với những đơn vị quân đội đang tham dự các cuộc hành quân mà MTGP ghi nhận được ( Yếu tố sau này thì trưởng phái đoàn MTGP có tài liệu rất kỹ càng, không những các cuộc hành quân lớn mà ngay các cuộc điều động cấp tiểu đoàn, đại đội ở các địa phương cũng được cán bộ cộng sản ở nơi đó báo cáo về phái đoàn MT ). Nhưng trưởng đoàn CS thường lại tỏ ra vụng về trong việc dựng tội ác; vì để tăng cường độ, gây khích động, họ thường "phịa" ra những tội rùng rợn, ghê tởm như binh sĩ VNCH hiếp dâm tập thể hai bà già sáu mươi tuổi xong bỏ vào bao bố đem ném vào lửa hoặc nồi nước sôi!! Tội ác tưởng chừng chỉ có trong các chuyện cổ tích, chuyện hoang đường về một địa ngục... Tướng Tuấn và Đại Tá Giang của MTGP lại thường hay có những cú "móc" xỏ lá (Khi Tướng Hiệp hướng dẫn đoàn nghị hội) với lập luận sau đây:

- Bản chất của chúng tôi là những người cách mạng(!), hy sinh gian khổ để chiến đấu dành độc lập, tự do cho tổ quốc và nhân dân, trái lại đi ngược lòng dân, giết dân là bản chất của quân đội quí vị. Chúng tôi không phải đến đây để phê phán cái bản chất đó nhưng vì quí vị đã nêu ra nên chúng tôi phải vạch rõ những hành động cướp bóc, hãm hiếp người xong vứt vào lửa để làm trò cười với nhau!! Cách đây ba mươi năm, những tên xâm lược Pháp đã làm gì đối với nhân dân Việt Nam, bây giờ lại được sĩ quan, binh sĩ quí vị tiếp nối...!! Người ta không lạ gì điều này vì quí vị là sản phẩm của quân đội xâm lược Pháp, là lính đánh thuê cho chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ!!...

Trưởng đoàn MTGP trong những tố cáo về "tội ác" của quân đội VNCH luôn luôn "ngoéo" cái "móc" xỏ lá này, vì ông Hiệp vốn có tác phong rất "Tây" với râu quai nón, mũi cao, mắt sâu, thoạt nhìn cứ tưởng đó là một "ông Tây" nói tiếng Việt! Nhưng thật sự không phải thế, người là một ông Việt Nam trăm phần trăm với võ nghiệp rất ngất ngư, phong phú mà lý do chính cũng vì dáng dấp ông Tây này đã làm anh em ông Diệm không tin dùng để kẹt ở lon đại úy trên mười năm cấp bậc thực thụ!!! Các anh tướng tá Cộng sản cũng vì tưởng lầm như trên nên lâu lâu cứ đem ông thực dân Tây ra "chọc quê" Trưởng Đoàn Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Hiệp không để ý đến điều xỏ xiên này, nhưng Đại Tá Đóa thì không bỏ qua cái tội "bô lô, ba la" cùng những xỏ lá trên, vì ông Đóa là một ông Bắc Kỳ thuộc loại người trời sinh để nói: Để lập ngôn. Nói nhiều, nói độc, nói dài hơn bất cứ đối thủ ăn nói nào. Ông thách đố:

- Nếu quí vị cứ phê phán thì chúng tôi sẽ đáp lễ, quí vị nói dài, chúng tôi sẽ nói dài hơn, nếu cần quí vị hãy đem ghế bố đến đây để nằm nghỉ đợi chúng tôi phát biểu!!

Đối với những tội ác như hiếp dâm bà già, ném người vào lửa, Đại Tá Đóa đã có đòn phản công như sau:

- Chúng tôi lấy làm lạ tại sao quí vị cứ đem chuyện hiếp dâm ra để nói tại bàn hội nghị, những câu chuyện dơ bẩn, hạ đẳng mà chúng tôi thiết tưởng những người có giáo dục bình thường, những người có một chút luân lý tối thiểu sẽ phải hỗ thẹn khi đọc lên, khi nhắc đến... Nhưng ở đây quí vị lại nhắc tới một cách say sưa, mê mãi, phải chăng quí vị bị ẩn ức, bị dồn nén, quí vị muốn hiện thực một tội ác lý tưởng, một hành động ám ảnh nhưng vì không thể làm, không có điều kiện làm nên đã chuyển giao qua cho người khác mà tâm lý học gọi là "transfert de cupabilité..." Và tại sao, và đến nỗi gì binh sĩ, sĩ quan chúng tôi phải làm hành động bỉ ổi dơ dáy đó, chúng tôi có gia đình ở bên cạnh, binh sĩ sau giai đoạn hành quân trở về hậu cứ, ở đó có trại gia binh, hoàn cảnh ép buộc nào để binh sĩ chúng tôi phải phạm đến tội lỗi trên?? Vậy có hiếp dâm hay không là ở phía quí vị, chính quí vị mới có hành động thô bạo dơ bẩn trên bằng những từ ngữ ngụy trang như " ủng hộ chiến sĩ, tham gia cách mạng, ghi ơn bộ đội...". Như phía quí vị đã ép buộc các thanh nữ, thiếu phụ vùng Tam Quan, Hoài Ân (Bình Định) hiến thân, gần gũi với cán binh lúc Cộng sản Bắc Việt tạm kiểm soát những vùng trên trong cuộc tổng công kích 1972, hành vi cưỡng ép này được quí vị ngụy danh thành một động tác " ghi ơn bộ đội!! " Và hơn ai hết, chính các quí vị ở đây mới là những người đã có hành động đó... (Đại Tá Võ Đông Giang đã từng hiếp dâm một nữ cán bộ lúc y nghỉ dưỡng bệnh sốt rét tại một bệnh xá. (Hồi ký Đường Đi Không Đến - Xuân Vũ). Và đám cán bộ cao cấp của tập đoàn Cộng sản mới là những kẻ không ít thì nhiều có liên quan đến các tội phạm, những bất toàn về tình dục. Tướng Võ Nguyên Giáp cưới con của Đặng Thái Mai, người vợ mà trước kia Giáp bế trên tay và gọi bằng cháu; Lê Duẫn nhờ áp lực Đảng để cưới người vợ trẻ, cô Thoa, một hoa khôi nổi tiếng miền Tây trong thời kháng chiến 1945; Nguyễn Khánh Toàn, đồng chí, đồng hành cùng Hồ Chí Minh đã được Đảng hợp tác cuộc hôn nhân thứ ba lúc Toàn bảy mươi tuổi cùng với một thiếu nữ mười bảy tuổi!!) Đấy, những sự kiện trên mới phản ảnh đúng chính sách, chỉ đạo của Đảng Cộng Sản cùng với ý thức đạo đức mới mẻ, mà trong đó chủ trương "cấy giống" được ngụy danh để thay thế những cuộc hiếp dâm tập thể!!

Bầy ra những tội hiếp dâm tập thể xong, phanh thây người chết ra, hoặc hiếp dâm bà già, ném con nít, ông già vào nước sôi (Vùng quê Việt Nam, trong một cuộc hành quân kiếm đâu ra cái chảo lớn đủ để "luộc" được người, hơn nữa trong một cuộc đi càn (ngôn ngữ Cộng sản) lấy đâu ra thì giờ nước, củi đủ nấu một chảo lớn để "luộc" người thật nhiêu khê rắc rối theo như tố cáo của phái đoàn CS!! ) Được ba, bốn lần không thấy khích động được đối phương, lại chỉ gây thêm trò cười vì các "tội ác" quá sách vở, quá Quốc văn giáo khoa thư... Và chắc sau khi hội ý kiểm thảo, phái đoàn MTGP cũng nhận thấy rằng tội ác khó "chấp hành" được, có vẻ là bối cảnh của chuyện Phạm Công - Cúc Hoa, Mục Liên - Thanh Đề nên đồng ý dẹp bỏ. Phía CS xoay theo một phương thức tấn công khác, nhưng " chủ đề hiếp dâm, giết người " vẫn triệt dể khai thác. Lại hiếp dâm, phải chăng cấp trưởng phái đoàn MT nhận được chỉ thị từ Lộc Ninh, phải khai thác cái " te " này trong một thời hạn nào đó, hoặc thấy chủ đề còn hấp dẫn, đầy tính chất sáng tạo?!! MTGP bèn khai thác các phóng sự về hiếp dâm, cướp của của báo chí Sài Gòn, lẽ tất nhiên, phe viết báo Sài gòn (Ngoại trừ cái tòa soạn báo Điện Tín, nơi mùi Cộng sản bốc lên không che dấu, có đăng thơ của Vẹm với những câu như "Ai về đất Quảng, Nhớ ngày Thái Phiên, Ai qua Châu Mộc, Hãy ghé Điện Biên..." Báo ngày 4-2-1974) không thể nghĩ đến lúc MTGP lấy bài viết của mình để đả kích lại chúng tôi với những lập luận như sau:

- Báo chí Sài Gòn, dù bị chính quyền quí vị dọa nạt bưng bít cũng không thể im lặng trước những tội ác mà binh sĩ quí vị " được lệnh " thực hiện trên đầu trên cổ người dân!!

Tội ác được lệnh thi hành theo lời MTGP là tội hiếp dâm hai thôn nữ ở Long Khánh mà một anh nghĩa quân đã phạm sau khi bị thần rượu ám. Những phóng sự của các thông tín viên địa phương thường lại hay thổi phồng hoặc tạo thêm gay cấn sự kiện, (Nghề của chàng, lâu lâu viết một bài, chàng viết cho sướng - Tất nhiên) được các ủy viên tham mưu của phái đoàn CS nghiên cứu, mổ xẻ thêm thắt để biến thành những trường hợp điển hình cho chiến dịch tội ác mà chính phủ VNCH chủ trương cho binh sĩ và cán bộ ở các địa phương thi hành!! Sau hiếp dâm, giết người, MTGP "chấp hành" tối đa các bài báo tố cáo tham nhũng, hối mại quyền thế, họ cũng móc nối các sự kiện này lại chung quanh chiếc trục " chủ trương của VNCH " để chứng minh rằng những hành vi phạm pháp trên phát xuất từ một xã hội, một chính sách bất nhân, mục nát mà phía VNCH cố tình duy trì, khai thác tính chất này trong âm mưu làm tay sai cho chính sách " thực dân mới " của Hoa Kỳ, nghĩa là chủ trương mở rộng vùng kiểm soát, xóa tan thục tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng giải phóng!! Tóm lại, là không thi hành đúng tinh thần và lời văn của Hiệp Định Ba Lê, không chủ trương " Hòa Bình, Hòa Giải Dân Tộc!! ". Với một xị rượu đế say sưa, hành động của một anh nghĩa quân làm bậy trong đêm tối dần dà nối kết với tham nhũng của một anh ủy viên hành chánh xã bê bối để cùng nhau phá hoại hiệp định, phá hoại thành quả hòa bình do hiệp định mang lại, hòa bình phe Cộng sản đã kiên cường tranh thủ sau khi đánh bại được nửa triệu quân Mỹ và các nước đánh thuê Nam Triều Tiên, Xiêm La, v.v... Người Cộng sản đã kết hợp những sự kiện này tài giỏi như bà tiên trong chuyện cổ tích.

Chiến dịch "đọc báo" của MTGP bị Đại Tá Đóa phản công:

- Quí vị đến đây để thương thảo hay để đọc báo? Thương thảo nghĩa là thương lượng, thảo luận các vấn đề do hiệp định quy định, để thực hiện ngưng bắn, thực hiện hòa bình... Chứ đâu phải đem một đống báo ra rồi đọc vanh vách từng bài một?! Báo ấy xuất bản ở Sài Gòn của chúng tôi, chúng tôi đã mua, đã đọc, đã biết, đâu cần quí vị đem tới đây đọc lại, nhưng quí vị còn đọc thiếu, đọc sai, đọc láo!! Sao quí vị không đọc các bài tường thuật vụ Trung Cộng xâm lăng quần đảo Hoàng Sa, sao quí vị không đọc phóng sự du kích quí vị ném lựu đạn tại Ba Xuyên, sao quí vị không đọc bản tin đài BBC nói về vụ thảm sát học sinh ở Cai Lậy?!! Các tội ác này mới là chủ trương sai trái, là âm mưu phá vỡ hiệp định, giết hại nhân dân. Quí vị lại còn xuyên tạc một cách thô bỉ khi thêm vào trong bài báo tố cáo vụ hiếp dâm ở Long Khánh những tình tiết, những sự kiện gây cấn ly kỳ làm như quí vị có mặt ở đó; bài báo chúng tôi cũng có đọc mà không thấy nói đến ác chi tiết như quí vị vừa nêu? Vậy là sao? Là quí vị " phịa ", quí vị viết ra cho mình đọc, và đọc để chưởi rủa, la lối kéo dài, đánh lạc hướng nghị hội...

Tướng Hiệp thì phản công theo một chiều hướng khác:

- Chúng tôi lấy làm buồn cười do những dẫn chứng mà quí vị vừa trình bày, tất cả những hành vi xấu mà báo chí VNCH nêu ra chỉ là hành vi riêng rẽ của một vài cá nhân phạm phải, chính phủ chúng tôi xét xử trừng phạt họ theo luật pháp. Những hành vi xấu này sở dĩ được trình bày cũng vì báo chí miền Nam có đủ quyền tự do trong công việc loan tin về những thực tế xã hội, nhân sinh, chứ không phải như thế giới Cộng sản chỉ đầy đặc một loại " thánh " không hề có nhược điểm trong một " thiên đàng " đỏ máu! Và báo chí Cộng sản thì có được gì, viết được gì, hay tất cả những điều trình bày chỉ là lệnh và theo chỉ thị của Đảng. Quí vị cũng rất thâm độc khi bắt đầu tố cáo thì xử dụng các bài báo có dẫn chứng, nêu rõ lên từng tên người phạm tội, tên các báo chí đăng tải, tiếp theo sau là tố cáo tiểu đoàn này, trung đoàn nọ giết hàng chục người trong những làng xã không nêu danh, trong những quận lỵ không hề được xác định!! Ý đồ thâm độc lộ liễu này chúng tôi đã biết rõ, quí vị đừng hòng lấp liếm, lợi dụng. Sự tàn sát lương dân đích thực, ghê tởm nhất mà dư luận ở Huế hiện đang xôn xao là cuộc tàn sát cả một gia đình gồm chủ nhà, người cha, người mẹ, người con dâu, những đứa trẻ, giết luôn cả người giúp việc cùng con của người giúp việc, giết cả con mèo, con chó, thậm chí con cá vàng trong chậu cũng bị ném ra sân!! Cuộc tàn sát được thực hiện thật tối đa để gọi là - thành quả tiêu diệt một đơn vị phản động!! "

Tình hình chiến sự mỗi ngày một căng thẳng, sau Lệ Minh, Đức Lập, Chí Linh, đến Đức Huệ, Tống Lệ Chân, Kontum, Hậu Nghĩa, Định Tường, bộ đội mặt trận nổ súng nhiều hơn, nống lấn (chữ của MTGP) nhiều hơn thì ở bàn hội nghị, trưởng đoàn CS lại đọc báo nhiều hơn và cuộc thảo luận về ngưng bắn chỉ là một tố cáo dằng dặc về giết người, cướp của, hối lộ tham nhũng. Phía MT có một lập luận rất logique trong các tố cáo này:

- Những việc làm xấu xa sai trái này phản ảnh tính chất bế tắc, nô lệ của chính sách Việt Nam Cộng Hòa. Sở dĩ có tình rạng bế tắc hư hại này là vì Mỹ muốn vậy, Mỹ muốn VNCH phải lệ thuộc vào Mỹ; Mỹ muốn VNCH lệ thuộc vào Mỹ để Mỹ sai khiến làm công cụ cho chính sách thực dân kiểu mới..

Bám quanh cái trụ " thực dân kiểu mới " này, phái đoàn MTGP quay hướng tất cả mọi tố cáo, tất cả mọi xuyên tạc về mục tiêu cuối cùng: Việt Nam Cộng Hòa phải công nhận thực tế hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính quyền, thực tế của Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam.

Năm 1973 chấm dứt, sắp đến Tết Giáp Dần, cũng là thời hạn một năm hiệp định được ký kết, phía Việt Nam Cộng Hòa tạo điều kiện để khai thông nghị hội qua cửa ngõ tù binh, một vấn đề mà cả hai bên từ trước tới nay đạt được một vài tiến triển. Và mong cuộc trao trả sớm hình thành để tù dân sự của hai bên đoàn tụ với gia đình trong dịp Tết. Tuy cùng đồng ý với ý niệm nhân đạo này nhưng đến khi thảo luận vào chi tiết của vấn đề thì hai bên lại có hai quan điểm đối nghịch. Phía VNCH muốn khai thông toàn thể vấn đề tù binh một cách tổng quát, nghĩa là giải quyết tình trạng của tù binh quân sự VNCH bị bắt ở các mặt trận ngoại biên như Kampuchia, Lào, người bị bắt trước năm 1972... (95% tù quân sự VNCH được thả là những quân nhân bị bắt trong năm 1972, năm cộng sản Bắc Việt tổng công kích tại Nam Việt Nam). Phía MTGP lại quan niệm khác: Vấn đề tù binh chỉ là phần sót lại của kế hoạch trao trả được hai bên thiết lập từ ngày 23-7-73, nghĩa là VNCH trả phần còn lại của 5081 nhân viên dân sự được công bố. MTGP trả số còn lại của danh sách 637 nhân viên dân sự VNCH và 410 nhân viên quân sự ở Đức Nghiệp. Kế hoạch tháng 7-73 này còn có nhiều lợi điểm cho họ, khi nhận được số còn lại của tổng số 5081 ( Nhân số cần thiết để bổ sung và quân bình hóa lực lượng hạ tầng bị Cộng sản miền Bắc khuynh loát, tràn ngập ). Nếu cuộc trao trả được tiến hành, những vùng đất ở địa điểm trao trả được gián tiếp công nhận thuộc quyền kiểm soát của họ. Những địa điểm trao trả tù quân sự trước kia như bắc sông Thạch Hãn, Lộc Ninh, Quảng Ngãi, nay được tăng cường thêm ở Đại Lộc (Quảng Nam), Kỳ Quế (Quảng Tín), Võ Định (Kontum), Đức Nghiệp (Pleiku); địa điểm ở vùng cận sơn tỉnh Khánh Hòa; ở bắc Xuyên Mộc (Phước Tuy), U Minh (Kiên Giang), Năm Căn (An Xuyên). MTGP có thâm ý phân tán số tù binh nhỏ nhoi 442 người còn lại (của tổng số loan báo 637, đã trả tại bắc Thạch Hãn 195 người vào tháng 5-1973) đến mười một địa điểm dọc khắp miền Nam để chứng tỏ sự hiện diện và quyền kiểm soát của họ trên nhiều vùng đất. Sự cố gắng này dễ nhận được khi họ thiết lập hai địa điểm ở hai tỉnh sát cạnh nhau như Võ Định (Kontum) và Đức Nghiệp (Pleiku); địa điểm Võ Định chỉ vỏn vẹn có tám người. Cuối cùng cuộc trao trả vẫn không thực hiện được, Tết Giáp Dần đi qua.

Sau Tết, vào đầu tháng 1-1974, vấn đề trao trả lại được khơi lại thêm một lần nữa, dư luận trong và ngoài nước hân hoan đón nhận diễn tiến tốt đẹp của cuộc trao trả, người ta hy vọng rằng cuộc trao trả sẽ gây nên những hệ quả đáng khích lệ khác như thành lập Hội Đồng Hòa giải, ngưng bắn và phân ranh vùng, tổng tuyển cử. Nhiều ước tính và đồn đãi về việc hữu hiệu hóa và hiện thực việc thảo luận ở Hội Nghị Paris vào những công tác khẩn thiết đang được toàn khối nhân dân miền Nam mong ước. Nhưng tất cả cũng chỉ là những hy vọng. Cuộc trao trả đã kết thúc trong thảm hại.

Trong số 410 quân nhân VNCH được dự định trao trả ở Đức Nghiệp, MT đã thiếu đến ba mươi mốt người. Phía Cộng sản giải thích có mười lăm người chết vì những bệnh (!) trước kia và mười sáu người đã lợi dụng sự tử tế của lính canh để bỏ trốn?! Ở những địa điểm trao trả khác phía CS đều có những thiếu hụt như ở Quảng Ngãi trả bảy mươi trên bảy mươi mốt, ở Khánh Hòa trả năm thay vì sáu người được loan báo,Võ Định (Kontum) thiếu hai người trong danh sách tám người... Tỷ lệ thiếu hụt tính chung 12% của mười một địa điểm. Nhưng trầm trọng hơn hết thảy, cán binh Cộng sản đóng tại các chốt dọc đường 13 từ Chơn Thành đến Lộc Ninh (đường bay được xử dụng thường xuyên để liên lạc giữa Sài Gòn và Lộc Ninh để trao trả tù qua nhiều đợt) được lệnh tác xạ vào trực thăng Việt Nam Cộng Hòa từ Lộc Ninh trở về. Cán binh Cộng sản bắn lần thứ nhất (riêng đợt trao trả này, từ 8-2 đến 7-3) vào ngày 26-2-74, lần thứ hai vào ngày 7-3-74 cũng là ngày VNCH đơn phương phóng thích 76 tù binh quân sự cộng sản. Lần tác xạ này đã gây tử thương cho một nhân viên phi hành đoàn trực thăng Chinook CH47. Và mặc dù phía VNCH vẫn kiên trì duy trì kế hoạch, binh sĩ CS vẫn bắn lại lần thứ hai trong ngày, vào lúc 15giờ 50. Họ vẫn bắn vì lệnh đã ban bố!! Để giải thích cho hành động phi lý bạo ngược này, Tướng Tuấn lại tố ngược rằng chính VNCH đã vi phạm đường bay, thủ tục bay; giải thích tuy ngang ngược nhưng phía CS vẫn không dám thú nhận đã bắn lên máy bay đi trao trả mà chứng cớ hiển nhiên là vết đạn còn ghi trên thân máy bay và xác thân còn nóng của viên Trung sĩ phi hành. Dưới đây là lời chạy tội của Tuấn:

- Trở lại câu chuyện mà quí vị đã dựng đứng lên trong kháng thư gởi ngày 8-7-74, quí vị đã bịa đặt lên một chuyện máy bay Chinook bị bắn trên đường trao trả về... Vì tưởng rằng những điều dựng đứng chung quanh sự việc này khỏa lấp đựợc những vi phạm sai trái từ trước đến nay, chúng tôi đã nhiều lần lên án việc quí vị lợi dụng đường bay, lợi dụng việc trao trả, lợi dụng ký hiệu của Ban Liên Hợp Quân Sự để xử dụng máy bay trong các công tác trinh sát, ném bom, bắn phá vùng kiểm soát của chính phủ cách mạng. Như trong cuộc trao trả vừa qua, bất chấp nhiều lần nhắc nhở của chúng tôi, quí vị đã cho một số máy bay theo sát hành lang của máy bay Ủy Ban Quốc Tế để ném bom vào phía tây đường 13 trong ngày 14-2-74. Ngày 19-2-74 trong một chuyến bay đi Lộc Ninh, quí vị đã có những hành động do thám, khiêu khích trên các chốt của chúng tôi đóng trên đường, sĩ quan liên lạc của chúng tôi trên chuyến bay đã chứng kiến sự kiện và nêu lời cảnh cáo. Ngày 22-2-74 trong cuộc trao trả tại Võ Định, quí vị cũng lợi dụng để cho máy bay trinh sát đánh phá phía tây đường 14, ngày 28-2-74 trong lúc máy bay của Ủy Ban Quốc Tế đi giám sát cuộc trao trả ở Lộc Ninh, quí vị xử dụng những máy bay chiến đấu bay kèm theo để khiêu khích lực lượng dưới đất của chúng tôi, sự kiện được Đại Sứ Iran chứng kiến.

Cuối cùng, Tuấn kết luận:

- Giả dụ nếu có việc máy bay bị bắn hạ, thậm chí không phải để bắn cảnh cáo mà bắn hạ thật thì cũng là một hành động chính đáng vì phía quí vị đã triển khai các hoạt động vũ trang đen tối, quí vị cũng không được phép than thở vì mình đã sai trái.

Nửa nhận, nửa không, Tuấn xử dụng một ngón đòn điển hình của Cộng sản: Không bao giờ xác định một tội ác mà phải ngụy danh dưới những danh từ rất hòa bình, rất hòa giải. Suốt một năm 1973 hàng ngàn phi vụ trực thăng đã được thực hiện dọc đường 13, hình ảnh những binh sĩ Cộng sản đứng dưới đất đưa tay vẫy chào khi máy bay bay qua các chốt của họ là hình ảnh thực tế và quen thuộc đối với các phi hành đoàn trực thăng, các nhân viên trong ban Liên Hợp Quân Sự 2 bên và Ủy Ban Quốc Tế. Rõ ràng hơn hết, đợt trao trả kể từ ngày 8-2-1974, các phi cơ trực thăng vẫn xử dụng đường bay với cao độ trên dưới năm mươi thước dọc trên đường 13. Vậy lệnh tác xạ cho binh sĩ MT trong những ngày 26-2 và 7-3 là những lệnh mới, những lệnh độc lập, đơn phương gây bạo động.

Tướng Tuấn lại càng vô lý hơn khi tố cáo L-19 vi phạm " vùng trời Đức Nghiệp Pleiku..." Trong cuộc trao trả tại Đức Nghiệp ngày 5-3-1974, tên thiếu tá mặt trận lập lại lời tố cáo này với cá nhân tôi... Chẳng e dè tôi đáp lễ:

- Thế nào là không phận, thế nào là vùng trời? Quí vị trả lời cho chúng tôi biết khoảng cách từ mặt đất trở lên bao nhiêu thì được kể là không phận của một nước? Của một quốc gia?... Quí vị có tính luôn thượng tầng khí quyển không? Quí vị là quốc gia hay sao mà có một không phận riêng? Và vùng trời Đức Nghiệp phải chăng là một đường thẳng góc từ khí quyển thẳng góc với mặt đất tại địa điểm trao trả này, một điểm vô hình đúng với tọa độ ZA4 Và ai xác nhận vùng Đức Nghiệp này là của quí vị? Nghị Định Thư về ngưng bắn có ấn định cấm Việt Nam Cộng Hòa thực hiện những phi vụ huấn luyện, kỹ thuật hay không?... Quí vị nói cho sướng miệng, được bảo sao là nói vậy...Hỏi khắp các cơ quan hàng không thế giới có ai xác định được không phận của một xã hay không?!

Ở địa điểm trao trả tôi chưởi theo kiểu ào ạt như thế, trong buổi sáng 10-3, Đại Tá Đóa lại có một bản văn với nội dung là từng hàng chữ phẫn nộ sắt đá. Bằng một giọng nói uyển chuyển, khắng khít đan từng chữ, chém từng câu, đánh bạt đối phương vào một nỗi ngẫn ngơ choáng váng:

- Trước khi vào chương trình nghị sự, chúng tôi dành ít phút để đề cập đến một sự việc quan trọng vừa xảy ra: Hôm kia (7-3-1974) lúc 12 giờ 20, trong chuyến trao trả thứ nhất, chiếc trực thăng Chinook không võ trang của chúng tôi sau khi đã đưa đến Lộc Ninh 40 nhân viên quân sự của quí vị để trả cho quí vị, trên đường về đã bị lực lượng dưới đất của quí vị bắn lên gây tử thương cho một nhân viên của phi hành đoàn, máy bay bị bắn thủng với dấu vết, tang chứng tồn tại.

- Trước sự quá lộ liễu trắng trợn của hành động thô bạo trên, chúng tôi sẽ làm một công việc vô ích nếu nhấn mạnh lại tính chất nhân đạo mà phi hành đoàn đang thực hiện: Trao trả về cho đối phương những tù binh quân sự bị bắt trên chiến trường. Chúng tôi cũng sẽ tốn công vô ích khi phân tích cho quí vị biết tính chất chuyên môn riêng biệt của phi xuất Chinook để bác bỏ vấn nạn ngụy tạo mà quí vị sẽ dựng đứng lên: phi hành đoàn đã bay khiêu khích, trinh sát trên các chốt.

- Cũng sẽ vô cùng vô ích, sẽ vô cùng uổng phí để trình bày cùng quí vị những điều hợp lý vì trí não của quí vị không đủ sức chứa những giải thích, vì trí não của quí vị đặc cứng một khối đá căm thù dậy men máu. Chúng tôi chỉ có thể xác định được như thế! Vì những kẻ cầm súng ở dưới đất, chắc chắn không phải vô cớ, không phải vì ngẩu hứng, cũng không phải vì bị khiêu khích nên đã có hành động tàn bạo trên. Kẻ đó phải được chỉ thị từ trước, phải được phối trí để chỉ bắn máy bay từ Lộc Ninh trở về, không bắn máy bay từ Biên Hòa bay đi. Tất cả vụ vi phạm từ trước đến nay chỉ được thực hiện với các máy bay trên đường từ Lộc Ninh về.

- Chúng tôi nhấn mạnh lại điểm này. Hơn thế nữa, quí vị còn biết rõ hơn ai hết, quí vị đã thành công trong công việc làm biến dạng một lớp binh sĩ trẻ tuổi, từ những khối não trong trắng chất phát trở thành những khối óc trống rổng thiếu trí phán xét, năng lực suy tư để chỉ có thể hành xử theo động tác có điều kiện như một con vật trong thí nghiệm của Pavlov - Binh sĩ của quí vị cũng mất hẳn năng lực phẫn nộ khi chưa được bấm nút! Vậy, phải hiểu rằng động tác của một kẻ nào đó ở dưới đất khi nâng khẩu súng hướng vào trực thăng như vừa kể là một động tác không thuộc về hắn, nhưng đã được hướng dẫn từ một chính sách, từ một đường lối. Chính sách và đường lối máu, đỏ như lá cờ hắn dựng lên trong những " chiến thắng " đẫm mùi thây người, những " chiến thắng " Mậu Thân Huế, Darksong; " chiến thắng " trên chín cây số thịt, da đồng loại của Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng trị!! Chúng tôi quan niệm như thế và chắc rằng đã nghĩ, đã suy diễn đúng từ những tội ác quá hiện thực của quí vị. Quí vị đừng từ chối chính sách đỏ máu đó, vì đó là chính sách cơ bản, là " diện " chiến lược bao phủ lên tất cả mọi đường lối, hành động của quí vị. Chính sách đỏ rực mầu máu đó cũng chính là mầu cờ mà quí vị ngước cao mặt để chào kính mỗi ngày với sự nhủ thầm: Hãy cố gắng để tô thắm thêm ánh đỏ dị kỳ, man rợ... Chính sách đó cũng đầy ắp trong khúc hát mà quí vị đã lập đi lập lại hàng chục ngàn lần trong đời, khúc hát tràn ứ những hình tượng quái đản, kinh khiếp: "Thề phanh thây uống máu quân thù... Đường vinh quang xây xác quân thù...". Quân thù nào trong những ngày tháng này, trên miền Nam này, trong lòng chiếc máy bay đi thực hiện công tác trao trả? Phải chăng quí vị thiếu đối tượng khích động, thiếu thứ thức ăn để dựng tiệc vinh quang nên quí vị đã bắn lên các phương tiện của hòa bình, bắn vào những người đi thực hiện những đạng thức cụ thể cho hòa bình.

- Phải chăng quí vị muốn kiếm một chút thây người kiếm một chút máu đỏ để tô lá cờ thêm thắm, để câu hát được hiện thực đầy đủ như từ ngữ réo gọi?!!

- Chính sách của quí vị, mầu cờ của quí vị, khúc hát của quí vị đang cố tâm đẩy mạnh thực hiện, biến quí vị trở thành những hình tượng siêu đẳng: Hình tượng của những kẻ sát nhân thấp kém, sa đọa nhất của lương tri con người.

- Chúng tôi chấm dứt nơi đây để quí vị trở về suy nghĩ lại, suy nghĩ trên hai chiều hướng, thứ nhất để giải thích tính chất vô lý phi nhân của sự việc, chiều hướng thứ hai để thú nhận sự man rợ quái đản của một chính sách xây dựng trên thây người và máu nóng. Trong đầu tuần tới, chúng tôi yêu cầu quí vị hãy xử dụng phương tiện chuyên chở của chúng tôi để liên lạc với Lộc Ninh và cho chúng tôi biết đơn vị nào, cá nhân nào đã nhúng tay vào việc sát nhân đó và hình phạt nào đã giành cho họ.

Cuộc trao trả đã kết thúc bằng máu đỏ và thây người làm hụt hẫng mất hết cả hy vọng tiến đến những giải tỏa đáng khích lệ để làm nền móng cho hòa bình. Hòa Bình, giấc mộng thê thảm của cả khối dân tộc chìm đắm miệt mài hủy hoại trong hung tai. Cuộc trao trả với kết thúc đau đớn chưa làm tan dư âm của nguồn dư luận vì thấy con đường đến hòa bình bị nghẽn lối, thì đến ngày 9 tháng 3 năm 1974, cán binh Cộng sản trong chiến dịch khủng bố và gây áp lực lên quận Cai Lậy làm đầu cầu cho các cuộc xâm nhập vào tỉnh Định Tường cũng như những trận đánh vào tháng 5 năm 1974 sau này đã bắn một quả đạn 82 ly vào trường tiểu học cộng đồng Cai Lậy gây thương vong cho bốn mươi ba em bé và làm bị thương bảy mươi ba em khác. Tội ác vang động như tia sét nổ bùng trong một ngày quang đãng, như đợt sóng thần vọt lên từ đáy đại dương trong nháy mắt cuốn trôi đi cả thành phố... 43 xác chết trẻ thơ cùng 70 thân thể nhỏ bé co quắp lăn lộn vương vãi trên biển máu đã khiến cho cả thế giới nhân loại ngơ ngẩn: Tội ác vượt quá ý niệm. Tội ác xảy ra ngày 9 tháng 3, mãi đến phiên họp trưởng đoàn ngày 15 tháng 3 phía MTGP mới phát biểu một hai ý kiến liên quan đến. Phải nói chân thật rằng, phái đoàn Cộng sản cũng không thể nghĩ đến một thành quả kinh khiếp như thế đã được cán binh họ thực hiện. Lẽ tất nhiên từ ngày 15-10-1973 khi mệnh lệnh đánh trả được ban bố và vùng Cai Lậy, Định Tường được xem như thí điểm để mở rộng vùng giải phóng ở Quân Khu IV Việt Nam Cộng Hòa ( Một quân khu vẫn từ lâu tỷ lệ an ninh rất cao ), thì vùng này đã bị 27 lần pháo kích kể đến gày 7-3-1974 mà mục tiêu là Chi Khu Cai Lậy, các đồn bót dọc theo quốc lộ 4, liên tỉnh 29. Nhưng vì kỹ thuật tác xạ của du kích Cộng sản vốn quá kém cỏi, các dàn phóng 10 ly, 122 ly phần nhiều là tạm thời làm bằng tre, bắn xong bỏ trốn nên các quả đạn 60, 82 ly, các hỏa tiễn 107, 122 ly hầu hết rớt ra ngoài khu đông dân cư. Tỷ dụ như xóm Búng, nam Cai Lậy bị đến hai lần pháo kích ( lần thứ nhất vào ngày 24-7-73 và lần hai cùng ngày 9-3-74 ). Tuy nhiên, thành quả giết người của hai mươi bảy lần pháo kích, khủng bố chỉ đạt được một kết quả khiêm nhường, cao nhất là kết quả ngày 18-11-73, một quả sáu mươi ly rơi vào xã Nhị Quí làm chết sáu người dân... Thế nên, bốn mươi ba xác chết cùng bảy mươi thân thể nhỏ bé bị thương của ngày 9-3-74 cũng làm luôn phía Cộng sản choáng váng. Phái đoàn MTGP im lặng cho đến ngày 15-3-74 mới phát biểu một tố cáo lật lọng:

- Sau khi các chiến dịch vu khống: " Cộng sản chuẩn bị tấn công mùa khô, Cộng sản giật mìn xe đò, bắn vào dân chúng " đã bị phá sản, không giật gân để khích động dư luận nên bây giờ quí vị (VNCH) lại "dựng đứng" lên cái gọi là " Cộng sản pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ". Vì hiện nay mười bảy tiểu đoàn thuộc các trung đoàn 10 và 11 đang hành quân lấn chiếm khu vực đông bắc lộ 4 (Bắc Cai Lậy), các căn cứ hành quân dã chiến đang tiếp tục điều động những lực lượng cơ hữu để đánh phá hủy diệt xóm làng, pháo kích bừa bãi vào nơi dân chúng. ( Luận cứ này không có được một chút hợp lý vì các trung đoàn 10 và 11 thuộc sư đoàn 7 bộ binh đã trấn giữ vùng này hơn mười năm qua, quả đạn rơi vào trường tiểu học Cai Lậy thuộc loại cối 82 ly của Trung Cộng, bộ binh Việt Nam Cộng Hòa chỉ có các loại cối 60, 81; quân đội Cộng sản dùng các loại cối lớn hơn một ly đường kính - 61, 82 - Trung Cộng - mục đích để có thể xử dụng luôn cả đạn 60, 81 ly. Luận cứ này sẽ vô nghĩa đối với những người có đôi chút kiến thức về phối trí các lực lượng quân sự, cách xử dụng hỏa lực của đôi bên.

Tướng Tuấn tiếp:

- Vụ pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy chỉ là một vu cáo để khỏa lấp các vi phạm do quí vị gây nên mà thôi, chúng tôi sẽ điều tra một cách kỹ lưỡng rộng rãi để tìm ra nguyên do đích thực của sự kiện. Quân đội cách mạng không phải mới sinh hôm qua, hôm nay, nhưng đã có hơn ba mươi năm qua, từ dân mà dấy lên, do dân mà chiến đấu nên phía quí vị đừng hòng " dựng đứng " lên tội ác này, tội ác nọ để tố cáo, xuyên tạc được!!

Đầu phiên họp, tướngTuấn đưa ra lập luận trên để chạy tội, cuối phiên họp, Tuấn có thêm một vài yếu tố khác nên đẩy lời chối tội đi xa hơn bằng cách quy trách nhiệm cho phía VNCH là kẻ chủ mưu của vụ Cai Lậy (?!!) Lời tố cáo ngang ngược lúc này có ý nghĩa khác lời chạy trốn trên, vì ở trên họ cho là Việt Nam Cộng Hòa dựng đứng tức là chuyện không có, chuyện ngụy tạo, không thật... Đến đây, thì Tuấn lại gián tiếp nhìn nhận có vụ thảm sát ở Cai Lậy, nhưng do chính phủ phía VCH chủ trương thực hiện(!!). Tướng tuấn cao giọng:

- Đừng tưởng rằng bằng những giọt nước mắt cá sấu qua sự việc gây thương vong cho " các cháu " (sic) ở Cai Lậy là chứng minh được chủ trương nhân đạo của phía quí vị, là thương trẻ con, vì dân, vì nước... Quí vị đừng tưởng như thế, chỉ là một tưởng tượng " quạ hóa thành công ". Nếu quả thật phía quí vị đau xót sôi sục thì tại sao không triệu tập phiên họp ngay từ ngày 10, 11 mà mãi đến hôm nay, 15-3 mới đưa ra chính thức ở bàn hội nghị. Quí vị đừng tưởng dùng xương máu trẻ em để cố lật ngược đổi trắng thay đen, nhưng bản chất của hai quân đội đã làm cho ai cũng thấy ngay được ai là thủ phạm của tội ác?! Bản chất của lực lượng cách mạng vũ trang giải phóng là chỗ nô lệ mà ra, từ chỗ áp bức đứng lên cầm súng đánh hết đế quốc này đến đế quốc khác... Chúng tôi là những ngưòi đứng lên đi đầu trong cuộc đồng khởi để chiến đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Khi bảo chúng tôi pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy thì tại sao khi một nhà báo ngoại quốc dù có giấy phếp của Trung Tướng Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị của quí vị vẫn không được vào quay phim chụp ảnh ở phạm trường? Phải chăng vì quí vị sợ nhà báo này khám phá ra những dấu vết chứng tích cuộc thảm sát là do phía quí vị đề ra. Lệnh cấm này do Tướng Nghi, Tướng chúa vùng IV đề ra!!

Khốn nạn thật, một tội ác sừng sững cao ngất uất hận như thế mà phía Cộng sản đã xóa sạch không ngượng tay, không run giọng, họ đã không những chỉ xóa sạch tội ác, còn chuyển tội ác đến người khác một cách điệu nghệ trong tỉnh táo ngang ngược đến phi nhân!!

Hành động quái đản ngược ngạo này sở dĩ được hiện thực là do bản chất uyển chuyển, tính thích nghi vào tất cả mọi hoàn cảnh của người Cộng sản, nhưng cũng góp phần bởi bản tính thụ động đến độ đáng phẫn nộ của phía chúng ta?! Lệnh cấm vào phạm trường do Tướng Nghi hay do Tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường, chúng tôi không rõ được, nhưng quả tình lệnh này đã tạo một lối thoát bằng vàng, đã bắt một chiếc cầu cho kẻ sát nhân chạy trốn. Lệnh cấm quái dị phi lý nầy đã như một tấm màn che kín vũng máu oan khiên của thân xác trẻ nhỏ. Người đứng ngoài, dư luận trong và ngoài nước trong giây phút xúc động đầu tiên, lòng chùng xuống ở trạng thái dễ bị khích động lôi cuốn nhất, nên bỏ qua rất dễ dàng sự trốn chạy ngang ngược lếu láo của kẻ sát nhân lại được một màn hỏa mù do phía chúng ta ném ra. Phải chăng Tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường muốn " che " luôn tội ác của địch để chứng tỏ địa phương an ninh, địa phương ta kiểm soát được 100% dân cư, đất đai, trong viễn tượng bắt thêm một sao kỳ thăng thưởng 1-4-74 sắp tới, cũng như muốn lấy lại một chút điểm với " Mặt Trời " (1) sau vụ bê bối hàng lậu phát xuất từ Định Tường bị bắt ở Long An?! Nhưng dù bởi lý do nào đi chăng nữa lệnh cấm thông tín viên ngoại quốc và trong nước vào phạm trường buổi chiều ngày 9-3 cũng như sáng ngày 10 đã tạo một đường thoát thân cho kẻ địch ở tình thế sinh tử!!

Sau này, anh tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường còn làm thêm một màn rất huê dạng nữa; tổ chức một cuộc biểu tình phản đối Ủy Ban Quốc Tế khi cơ quan này xuống điều tra vụ thảm sát!! Và vì không kiểm soát nổi các em học sinh, nên có một, hai em đã vô ý thức ném đá vào phái đoàn điều tra. Tên sĩ quan liên lạc của MTGP lấy cớ địa phương không bảo đảm an ninh xúi dục anh Ba Lan, Hung Gia Lợi chấm dứt cuộc điều tra. Đau khổ hơn hết thảy, thành viên Nam Dương kẻ chống Cộng tích cực nhất của ủy ban cũng là một nạn nhân của vụ ném đá?! Sự kiện làm ngã ngửa cả Ban Liên Hợp chúng tôi; yêu cầu được Ủy Ban Quốc Tế đi điều tra với đủ bốn thành viên là một " thành công " đặc biệt, thế mà khi cuộc điều ra đang tiến hành với những kết quả rất có lợi cho Việt Nam Cộng Hòa thì xảy ra vụ ném đá?! Anh Tỉnh trưởng này muốn gì? Tất cả mọi người đều lắc đầu ngao ngán, phải chăng Tỉnh Trưởng tỉnh Định Tường là một tay nằm vùng có nhiệm vụ vẽ đường cho giặc chạy? Phải chăng anh ta thiếu những lý trí tối thiểu để làm một người trưởng thành hay anh ta mắc bệnh " đần "?!! Tôi không nói quá lời, vì vụ ném đá đã khiến cho phái đoàn MTGP ở bàn hội nghị xoa tay hoan hỉ, họ mạnh dạn, hân hoan tố cáo:

- Quí vị đến bây giờ thì đã biết ai gây tội ác ở trường tiểu học Cai Lậy chưa? Nếu là chúng tôi sao ở đó lại tổ chức biểu tình ngăn cản, ném đá vào Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra, phải chăng họ " sợ " Ủy Ban tìm ra vết tích thủ phạm...

Căm hận quá, tôi ngồi ở phòng quan sát viên ghi lời Tuấn phát biểu, tay run rẩy không viết được thành dòng, căn phòng lạnh phút chốc như hầm kín, tưởng như ai đang siết chặt hơi thở, có ai đang đốt lên trong tôi ngọn lửa phẫn nộ đến nổ bùng!! Có lẽ đây là lý do để giải thích tại sao phe ta mạnh, lính ta can trường, chính nghĩa ta rực rỡ, nhân dân đã quá ê chề với Cộng sản thế mà ta vẫn phải thua cuộc với Cộng ?! Tại sao ta chưa thắng ? Phải, chỉ vì còn những người như tên Tỉnh Trưởng tỉnh Định Tường cùng cộng đồng của hắn ta!!

Nhưng, dù được phe ta tiếp tay, dù bản chất lưu manh tráo trở, lời chối tội của Trưởng đoàn MT cũng không gây được một tác động nhỏ nhoi nào ở bàn hội nghị vì tội ác quá lớn, tội ác đã vượt lên trên mọi bạo ngược, lột trần tất cả bản chất hung tàn bạo động của một chủ trương xây dựng lý thuyết trên thây người và máu nóng. Thân xác của các em học sinh như một khối sáng bão bùng rọi chiếu đến mọi hóc hẻm của địa ngục dựng nên bởi người cộng sản. Không những Tuấn, Giang mà chắc cả Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng cũng phải bó tay bất động trước tội ác thảm sát kinh khủng này... Để đối lại với lời chạy tội của Tướng Tuấn, Tướng Hiệp trong gần ba mươi phút tuyên đọc một văn bản hàm xúc kiểm điểm tất cả mọi tội ác của phía Cộng sản trong tuần lễ qua, từ những việc giết người ngang ngược như bắn lên máy bay đi trao trả, đến việc giết người không duyên cớ như ở chùa Tam Sóc (Ba Xuyên), và đỉnh cao của kỹ thuật giết người là trăm thân xác của đám trẻ nhỏ trường Cai Lậy. Tướng Hiệp phủ lên bàn hội nghị một không khí u uẩn khiến đối phương dù bản chất ngoan cường cứng cỏi cũng phải lặng người chịu đựng...

Tướng Hiệp nói:

- Trước khi đi vào đề mục ngưng bắn, vì Thiếu Tướng Tuấn đã dành một vài phút để nói lên những sự việc ngoài lề, chúng tôi nhận thấy không cần phải trả lời, nhưng vì quí vị đã nhắc đến sự kiện máy bay Chinook của chúng tôi bị bắn hạ trên đường trao trả trở về mà hậu quả đã làm cho một nhân viên phi hành đoàn tử thương... Chúng tôi suy diễn từ trình bày của quí vị theo hai chiều hướng: Chiều hướng thứ nhất là: Phải chăng quí vị đã thú nhận sự vi phạm của mình nên đặt vấn đề tại bàn hội nghị để hai bên thảo luận những biện pháp ngăn ngừa những sự kiện đáng tiếc tương tự xảy ra trong tương lai. Hoặc quí vị nêu sự kiện để tố cáo ngược lại hầu tìm cách chạy tội.

- Qua kinh nghiệm đã có của gần hai năm nghị hội, chúng tôi có thể khẳng định rằng quí vị không có, hoặc nếu có cũng không có quyền để sửa sai, thú nhận vì tầng lớp chỉ đạo của quí vị không cho phép. Thế nên, chúng tôi quan niệm rằng những lời của quí vị vừa trình bày chỉ là một luận cứ chạy tội không hơn không kém, và như thế chúng tôi không hề có ảnh hưởng, tác động bởi những chối bỏ hèn hạ này. Chúng tôi trả lại tất cả mọi luận cứ hèn mạt trên lại cho phía quí vị. Muộn mất rồi, toàn dân đã biết rõ, thế giới đã biết rõ, nhân dân đang lên án, thế giới cũng đã vô cùng xúc động và nguyền rủa quí vị trong những ngày qua. Quí vị đừng bày điều lấp liếm ở đây làm gì cho vô ích.

- Quí vị tự dành quyền phản đối, bày tỏ thái độ dùm cho Cộng sản Bắc Việt, bày trò tố ngược chúng tôi trong thảm cảnh Cai Lậy. Bởi vậy, chúng tôi không lẽ bỏ qua mà không đáp lễ, dù phải đáp lễ với những kẻ hèn không dám nhận lỗi, phải đáp lễ với những đại diện của phường lang thú, uống máu trẻ thơ vô tội. Chúng tôi muốn dạy cho loài dã thú biết rằng loài người có thể uốn nắn được loài thú dữ, ít nhất là uốn nắn nó để đem đi múa rối làm hề, diễn xiếc cho thiên hạ mua vui. Trong ý hướng muốn làm theo các nhà dạy thú dữ đó, tôi sẽ từ từ đưa ra một cách từ tốn các sự việc, việc nhỏ rồi việc lớn. Thiếu Tướng đừng hung hãn: Hung hãn sẽ bị trừng phạt bằng mọi biện pháp do chính nhân dân miền Nam áp dụng. Để bắt đầu, kiểm điểm lại một vài sự kiện đặc thù của tình hình chung như sau: Đối với nhân dân miền Nam, tuần lễ vừa qua là những ngày ngập tràn máu và nước mắt. Nhưng đối với những tên Cộng sản đầu sỏ điên rồ đang ngồi tại Hà Nội hay tại mật khu miền Nam thì trái lại đó là những ngày khoái chí hả dạ. Ai cũng đã biết, Cộng sản Bắc Việt đã dùng mọi thủ đoạn gian manh để đánh lừa thế giới tưởng rằng miền Nam Việt Nam này còn có một chính phủ của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng song song với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản Bắc Việt đã thậm thụt vận động hòng dắt díu cái tổ chức gọi là MTGP này vào bàn hội nghị quốc tế về Luật Nhân Đạo tại Genève. Nhưng rút cuộc, dù Cộng sản Bắc Việt có eo sèo dọa dẫm, các quốc gia trên thế giới đã dứt khoát gạt đại diện của quí vị ra ngoài phòng hội. Bị tổ chức nhân đạo của loài người gạt ra ngoài nên quí vị trả thù " nhân đạo " bằng việc bắn máy bay đi làm công tác nhân đạo, dù là làm việc nhân đạo cho chính mình. Rồi cũng trong ngày này, hành động ác độc trả thù lòng nhân đạo khác nữa cũng được quí vị thực hiện thêm một lần nữa. Đó là việc quân du kích phía quí vị nhẫn tâm tung lựu đạn vào Chùa Tam Sóc ở xã Thuận Hòa ( Ba Xuyên ), bắn xối xả vào đám dân thiểu số người Thượng đang đi làm rẫy tại Phú bổn, ám sát một nhân sĩ tại Mỹ Hòa (Bình Định)... Chỉ một ngày 7-3-74 đó thôi đã có năm hành động nhằm trực tiếp vào những thường dân vô tội mà lòng nhân đạo của loài người bảo vệ. Tại Chùa Tam Sóc ( Ba Xuyên ) cảnh tượng đã diễn ra vô cùng ghê rợn, chốn tôn nghiêm giảng truyền lòng nhân ái đã biến thành chốn sát sinh khủng khiếp với mười một tín đồ mộ đạo bị chết không toàn thây và ba mươi tín đồ khác bị thương tích trầm trọng. Họ là những tín đồ tin tưởng vào giá trị của lòng từ bi nhân ái và đã bị bọn người khát máu là Cộng sản phi nhân giết hại. Chưa hết, sự tàn ác phi nhân còn được Cộng sản Bắc Việt và quí vị đẩy cao đến tột đỉnh như sự điên loạn. Đó là việc xử dụng vũ khí tân tiến để sát hại đồng loạt các trẻ thơ, sự kiện đã xảy ra như tin tức truyền thông trong mấy ngày nay. Chẳng hạn một cơ quan thông tấn ngoại quốc, đài BBC Luân Đôn đã kể lại lúc 22 giờ 15 phút ngày 9-3-1974 như sau: " Tại Nam Việt Nam hai mươi ba trẻ em từ năm tới mười một tuổi đã bị tử thương và khoảng bốn mươi em khác bị thương khi một đạn bích kích pháo của Cộng sản rơi vào một ngôi trường tại Cai Lậy cách Sài Gòn sáu mươi lăm cây số về hướng tây-nam. Nhưng tin cuối cùng cho hay, con số tử thương có lẽ lên tới bốn mươi, có thêm một giáo chức và một người lớn khác bị thương. Đạn bích kích pháo nổ tung trong khi các em nhỏ xếp hàng vào lớp học... Các viên chức quân đội xác nhận mảnh đạn cho thấy đó là loại đạn do Trung Cộng chế tạo và do Bắc Việt nhận để xử dụng trong hiện tại cũng như ở quá khứ ". Bản tin chúng tôi trích đọc là tiếng nói khách quan của các hảng thông tấn ngoại quốc và chỉ là tin tức sơ khởi, nhưng tính cách trung trực khách quan cũng giúp quí vị hiểu rằng, hành động tàn ác của quân đội Cộng sản Bắc Việt xâm lược đã gây ra đang được nhân dân miền Nam và toàn thế giới đã ghi nhận để phỉ nhổ. Cộng sản Bắc Việt khác với những vụ pháo kích vi phạm ngưng bắn trước đây thường chỉ xảy ra vào đêm tối, lần này đã chọn ban ngày, đúng lúc các em học sinh trường tiểu học cộng đồng Cai Lậy đang có mặt trên sân trường để hành động. Với một sĩ số trên 4.600 học sinh, lúc 14 giớ 15 phút là thời gian đổi lớp học, các em một số đã mãn giờ bắt đầu ra về, lớp khác đang chơi đùa trên sân chờ giờ vào lớp, thì chỉ cần một quả 82 ly thôi đã có hiệu quả biến tiếng cười reo thơ dại phút chốc trở thành những tiếng rú khóc thê lương, những cái chết đột ngột. Những trẻ thơ đang hò reo, đùa giỡn bỗng nhiên từ từ quỵ xuống nằm sóng sượt trên vũng máu, thịt xương nát bấy không kịp nhắm mắt trước khi trút hơi thở cuối cùng, bỏ cuộc sống. Thật là một sự tính toán kỳ diệu trong nghệ thuật giết người của những kẻ đang ngồi ở Hà Nội, ở Lộc Ninh, ở Đông Hà và cũng chính là quí vị, những người đang đối diện với chúng tôi tại bàn hội nghị này. Quí vị hãy gục mặt xuống trước khung cảnh thê lương đó nếu còn có chút lương tri, một chút lương tri nhỏ trước tội ác không thể dung tha của những ngưòi mà quí vị đang đại diện. Nhưng thôi, hãy để cho những kẻ đang say máu trẻ thơ reo vui trên đau khổ của lương dân.

- Phần quí vị, những người ngồi đây một cách yên lành, nếu có được đôi mắt, đôi tai khá tự do để thấy và nghe tất cả sự thật, hãy gác ra ngoài những tính toán bỉ ổi của thủ đoạn, chủ trương, chính sách, để hãy cùng chúng tôi nhìn đến bốn mươi ba em bé đang đi vào lòng đất, nhìn đến hàng chục em bé khác đang quằn quại rên xiết đau thương trên giường bệnh trước sự chứng kiến đứt ruột của cha mẹ, anh chị chúng. Để chia sớt những khổ đau của gia đình lâm nạn này, để thương xót cho những tâm hồn thơ dại, mới hôm nào còn tung tăng đùa giỡn trên sân trường hôm nay đã trở thành người thiên cổ, chúng ta hãy ngưng lại đây năm, ba giây trong yên lặng để tưởng niệm các oan hồn trong trắng đó... ( Tướng Hiệp tạm ngừng lời phát biểu để toàn thể phòng hội tưởng niệm những oan hồn học sinh bé nhỏ đã chết do đạn pháo kích của Mặt Trận Giải Phóng... Sự im lặng chỉ mới được hai mươi lăm giây thì Trưởng Đoàn MTGP phá ngang bằng câu hỏi: " Chuẩn Tướng đã dứt lời chưa...? ". Chuẩn Tướng Hiệp yêu cầu Tướng Tuấn phải tôn trọng giây phút tưởng niệm thiêng liêng, bi thảm này...)

Chuẩn Tướng Hiệp tiếp:

- Những trẻ thơ đó, hàng trăm mái đầu xanh đó là con em của chúng ta, những người Việt Nam, chúng không có tội tình gì để gánh một hình phạt bằng những mảnh đạn ghim vào mình kết liễu sự sống ngắn ngủi!... Vậy phải chăng căn nhà ấm cúng bên cạnh ba má anh chị các em sinh sống, hay ngôi trường xinh xắn và khoáng đạt mà ngày ngày chúng lui tới học tập là những vùng " kiểm soát " của quí vị mà chúng lấn chiếm? Trí khôn thơ ngây, nụ cười tươi tắn của chúng phải chăng là " phản ảnh những âm mưu thâm hiểm " đáng cho quí vị phải tiêu diệt? Phải chăng tiếng ê a đánh vần của trẻ thơ là những tiếng nói đụng chạm đến uy danh của người cầm đầu phía Mặt Trận Giải Phóng, những bài học các em đọc lên ở trường học phải chăng quí vị cho đó là những lời nguyền rủa " trái với tinh thần hiệp định " mà quí vị là người đã phải ngồi vào ký kết, nên quí vị quay lại trả thù vì cho rằng chính các em nhỏ đang đọc bài đó đã " vi phạm tinh thần và lời văn hiệp định ". Nhân dân miền Nam đã không quan niệm như thế. Đó là quan niệm của những người điên cuồng mất trí. Bởi không quan niệm như thế, nên nhân dân miền Nam cũng như khắp nơi trên thế giới đang lần lượt bày tỏ thái độ lên án hành động giết hại trẻ thơ vô tội này. Quí vị sẽ nghĩ thế nào nếu như bất chợt có người đưa hung tin con cái do quí vị đẻ ra chết một cách bất ngờ lúc đang đi học. Quí vị có chút xúc động nào không nếu chứng kiến cảnh hàng chục trẻ thơ nằm sóng xoài la liệt, có đứa không toàn thây, chết thảm trên vũng máu tại sân trường sau những giây phút cười đùa với bạn bè vừa dứt. Hãy hồi tâm để cho lòng mình lắng xuống, nghĩ đến tình trạng khổ đau của hàng trăm gia đình có con em chết vì đạn pháo kích của người quí vị tại trường tiểu học Cai Lậy. Hãy lắng nghe tiếng nguyền rủa, phỉ nhổ và oán hận của nhân dân Cai Lậy trong ngày 9-3-74 vừa qua. Hãy từ bỏ những ngôn ngữ rỗng tuếch huênh hoang về thiện chí ngưng bắn, trong khi tiếp tục bào chữa khỏa lấp tội lỗi tầy trời của những tên Cộng sản khát máu dân lành để cố tình đồng lõa với tội ác.

Phải nói rõ thêm một chi tiết, những lời tuyên cáo này do Cao Xuân Hiệp - Đại Úy - viết theo chỉ thị, ý kiến của Tướng Hiệp. Chúng tôi gọi hai người là Hiệp lớn và Hiệp nhỏ. Hiệp " nhỏ " nhỏ người, tướng gầy ốm, tất cả năng lực và sức mạnh của Hiệp toát lên trên đôi mắt đen thẩm và sáng loáng, Hiệp người dân Nghệ An quê hương vùng Hồ Chí Minh, có thân nhân là những tay kiệt liệt. Với một " cơ sở " gia đình, quê hương như thế, ngày đi Hà Nội, Hiệp " vờn " cán bộ Cộng sản tại thủ đô miền Bắc dễ dàng như trò chơi, những huyền thoại về Hồ Chí Minh, những thêu dệt, bịa đặt chung quanh căn nhà tranh, nơi họ Hồ khai sinh được Hiệp bào láng từng chi tiết, từng sự kiện. Hiệp kể chuyện Nghệ An, chiếc nôi cách mạng Việt Nam, Hiệp trình bày diễn tiến, lý do và hậu quả Sô-Viết Nghệ An 1930, Hiệp cũng nhắc lại cuộc " Kháng chiến chống Tây ". Hiệp đi quá đủ nên biết quá nhiều, quá thừa, giữa lòng thủ đô miền Bắc, Hiệp với thân hình bé nhỏ đã có vóc dáng vĩ đại của một hiệp sĩ mang thân vào chốn hận thù để đốt lên ngọn lửa và niềm tin về tự do. Với một cơ sở vững chắc như thế, cộng với một thiện chí làm việc khốc liệt, Hiệp đã viết bản văn trên với ba mươi trang giấy lớn trong một đêm để sáng mai Tướng Hiệp đưa ra bàn hội nghị. Bản văn chấm dứt, phiên họp chấm dứt, đồng thời cũng chấm dứt tất cả huyền thoại dân tộc, dân chủ, của ngưòi Cộng sản, cũng tan vỡ luôn hy vọng hòa giải, hòa hợp với những kẻ giết người.

Vụ pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy như giọt nước làm tràn ly, tình hình trở nên ngột ngạt, căng thẳng và bế tắc trầm trọng. Liên tiếp các phiên họp ngày 8, 12 tháng 3 bị bỏ dỡ; phiên họp ngày 15-3, Trưởng Đoàn VNCH đọc tuyên cáo bản văn trên, không thảo luận vào đề mục của chương trình nghị sự là ngưng bắn. Gần cuối tháng Ba, vào ngày 22, phái đoàn MTGP tại La Celle Saint Cloud đưa ra một đề nghị sáu điểm có nội dung như sau:

1 - Chấm dứt tiếng súng, thực hiện ngưng bắn. Hai bên Bộ Tư Lệnh tối cao ở miền Nam cùng ra lời kêu gọi chung một nội dung, kêu gọi các cấp chính quyền, các đơn vị, lực lượng võ trang cảnh sát dưới quyền triệt để tôn trọng ngưng bắn.

2 - Trao trả hết số Nhân Viên Quân sự và Dân sự gồm 200.000 của phía MTGP và của lực lượng thứ ba, 15.000 NVQS/CS bị bắt trước 28-1-73.

3 - Bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.

4 - Nhanh chóng thành lập Hội Đồng Quốc Gia hòa hợp, hòa giải dân tộc, thừa nhận thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, ba lực lượng chính trị, chậm nhất là ba tháng sau lời kêu gọi chung.

5 - Tiến hành tổng tuyển cử trong tự do, dân chủ, chậm nhất là một năm sau khi hội đồng thành lập, thông qua tổng tuyển cử nhân dân bầu ra quốc hội, quốc hội lập ra hiến pháp, tiến tới thành lập chính phủ miền Nam Việt Nam.

6 - Giải quyết vấn đề các lực lượng võ trang, hai bên giảm quân số thích đáng, phục viên số quân này. Tiến tới việc thành lập một quân đội thống nhất.

Sáu điểm đề nghị này cũng như các điểm đề nghị trước chỉ là một cái bẫy giăng ra với phần chủ động phía người đề nghị. Phía đề nghị đã trình bày các vấn đề theo những từ ngữ và thứ tự thực hiện theo chủ đích: Quy trách hết trách nhiệm, phần sai trái về cho đối phương. Ví dụ như đề nghị 1, phái đoàn Mặt Trận trình bày đề nghị với nội dung: " Kêu gọi các lực lượng võ trang, cảnh sát dưới quyền..." Câu văn này nếu được thi hành thì chỉ nhằm vào phía VNCH, vì chỉ chúng ta mới có lực lượng cảnh sát, cũng như cố ý đặt ra ngoài kiểm soát của hai bên miền Nam ( Nếu thực hiện theo đề nghị ) hệ thống Đảng ủy rất tinh vi, hữu hiệu của phía Cộng sản. Các đề nghị sau cũng có nội dung chứa những ý tưởng tương tự, nhất là ở đề nghị 4 và 5 về việc thành lập hội đồng hòa giải và tổng tuyển cử. Phía MTGP quy trách hoàn toàn cho VNCH về những bế tắc của tình hình hiện tại: Chỉ vì VNCH không chấp nhận thực tế hai chính phủ, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị, cũng như hạn chế sự thực hiện các cơ cấu quan yếu ( Thành lập hội đồng, tổng tuyển cử...) để trì hoãn việc thực hiện hiệp định theo phương thức MTGP đề ra. Tại Ban Liên Hợp Quân Sự, đúng tác phong của những quân nhân, bằng một " cú " phản công dứt điểm. Đại Tá Đóa phê điểm đề nghị này thẳng thừng không thương tiếc:

- Trước khi vạch rõ tính chất man trá sáu điểm đề nghị của quí vị, chúng tôi cần nói trước rằng, những đề nghị này chỉ là một món hàng giả mạo, vì là một món hàng giả nên quí vị cố sức bán rao, quảng cáo; rồi đến khi không được đối phương chấp nhận lại lấy đó là cớ để tấn công phê phán. Hành động này tương tự như hình ảnh một mụ bán hàng đi bán một món hàng giả. Mụ ta thoạt tiên đi cùng khắp để rao hàng với những lời lẽ xảo trá: " Quí ông, quí bà hãy mua hàng tôi vì hàng tôi tốt, hàng tôi mới, hàng tôi đáp ứng với nhu cầu của quí ông, quí bà..". Nhưng đến khi không thấy ai chú ý đến lời rao của mình ( Do đã biết tính chất gian manh trí trá củ mụ là chuyên bán hàng giả ) thì mụ ta chột dạ, bỏ quăng gánh xuống xong, chống đòn gánh xuống đường lồng lộn tru tréo: " Tại sao các ông, các bà không mua hàng tôi, hàng tôi tốt như thế này đẹp như thế kia mà các ông các bà bảo là xấu, là giả!!! "... Phản ứng của quí vị khi bị chúng tôi vạch trần tính chất gian trá của đề nghị sáu điểm cũng lố bịch tương tự như mụ bán hàng giả kia..

Sáu điểm đề nghị này sau một vài ngày gây xôn xao đã bị tiếng súng của những trận đánh ở đông-bắc Kontum, Đức Huệ (Hậu Nghĩa), căn cứ Chí Linh (Trên quốc lộ 14 đông bắc Chơn Thành, Bình Long)... lấn át. Thoạt tiên, dư luận khắp nơi, những dư luận tốt đẹp và hy vọng, dư luận tội nghiệp mong ước hòa bình và sợ hãi chiến tranh nghĩ rằng những trận đánh trên chỉ là cơn sốt vỡ da báo hiệu cho hòa bình, dù là hòa bình què quặt, cuối mùa. Và hình như khắp cùng thế giới chẳng ai muốn có chiến tranh, không ai muốn nghe đến sự chết bởi đã cạn đáy tuyệt vọng. Cũng là thái độ bi thiết của những người khốn khổ luôn mong ước hòa bình. Hòa bình đến bằng máu, thây người và nước mắt. Trong tình trạng thê thảm của những ngày súng đạn ngang trái này, những người Việt càng không muốn vuột mất giấc mơ hòa bình, giấc mơ đau đớn kết tinh bởi thống khổ vô bờ nên mọi người phải nhìn các trận đánh như dấu hiệu của hòa bình. Lưỡi dao tàn nhẫn cấp thiết cắt đứt phần thân thể bị ung thư.

Nhưng tất cả vẫn chỉ là giấc mơ, tiếng súng Kontum, Đức Huệ, Chí Linh chưa dứt thì được " bồi dưỡng " thêm hơi khói của Tống Lệ Chân -Tống Lệ Chân - điểm nổ cao nhất của chiến tranh " hậu hòa bình ". Căn cứ bị vây từ mùa hè 1972 lúc An Lộc bắt đầu đỏ lửa đến nay vừa đúng hai năm. Hai năm bị vây hãm, tưởng như không có trong chiến sử hiện đại, thời đại của chiến tranh chớp nhoáng, chiến tranh kỹ thuật, chiến tranh khoa học và không gian. Một căn cứ chiều dài không quá trăm thước đứng vững trong hai năm hay hơn bảy trăm ngày bị vây khổn trong một tình thế cực kỳ quái dị, tình trạng của " chiến tranh trong hòa bình ". Bỏ đi thời gian từ tháng 4-72 đến 28-1-73, ngày hiệp định ký kết, suốt năm 73, Tống Lệ Chân như một quả bóng thăm dò của Hòa bình, như một nhiệt kế đo độ chiến tranh của tình trạng " hòa hợp hòa giải ". Tống Lệ Chân nút thoát hơi, ống thở, mạch máu chính của thành quả rất mong manh yếu ớt do hiệp định mang tới. Ngày 14-4-74 căn cứ Tống Lệ Chân bị tràn ngập... Quả bóng an toàn của hiệp định vỡ bùng, giấc mơ hòa bình phai nhòa như ảo giác!!

Hội nghị không còn là nơi thảo luận các điều khoản của hiệp định, không còn là nơi hai bên nói về hòa bình, hòa giải, hòa hợp. Chỉ còn lại không khí hận thù, những đối thoại căng thẳng và công phạt thù nghịch. Những phiên họp cấp trưởng phái đoàn của thời gian tháng 4-74 không còn việc phải thảo luận theo một chương trình nghị sự nữa, mặc dù rằng trong thời gian qua hai bên cũng chỉ dùng bàn hội nghị để đả kích nhau, nhưng cũng chỉ đả kích trong khuôn khổ của đề tài thảo luận ( Với hai đề tài chủ yếu là ngưng bắn và trao trả ), để từ đây đánh rộng ra chủ trương của mỗi bên. Nhưng đến giai đoạn này ( 4-74 ), sự thỏa thuận về một chương trình nghị sự cũng không thể đạt được, bàn hội nghị biến thành một đấu trường căng thẳng để hai bên tranh đấu cho lẽ tất thắng của phe phái mình. Những phiên họp kéo dài quá thời lượng ấn định để cấp trưởng đoàn "so cựa" nhau tối đa, sau đây là một "trận" điển hình:

Đại Tá Giang, phía MTGP nói:

- Tất cả những điều đổi trắng thay đen của quí vị không thay đổi được thực chất, âm mưu leo thang chiến tranh phá hoại hòa bình, phá hoại hiệp định của phía quí vị. Trắng trợn hơn nữa, Hoa Kỳ đưa thêm máy bay F-5E vào Nam Việt Nam và quí vị cố gắng bình thường hóa hành động nghiêm trọng này bằng cách bày trò đưa ra những lời giải thích, trong khi một số nhân vật Hoa Kỳ của Tòa Bạch Ốc và " Lầu 5 Góc " tuyên bố láo lếu, dọa dẫm sẽ can thiệp ồ ạt ở Nam Việt Nam nếu chúng tôi dám có hành động tấn công. Mỗi lần Mỹ đẩy mạnh chiến tranh tăng cường dính líu, " lầu 5 góc " tuông ra những lời lẽ hăm dọa, phía quí vị lại tham gia vào bản hòa tấu, vu cáo chúng tôi đẩy mạnh tội ác. Trước đây, Hoa Kỳ và quí vị tuyên bố: Cộng sản Bắc Việt mở rộng tấn công trước hoặc sau Tết, xây dựng phi trường, v.v... Sau đó là chiến dịch ném bom dã man vào vùng chúng tôi kiểm soát kể cả vùng đông dân! Khi sự việc không xảy ra, quí vị nói rằng: Cộng sản không dám tấn công! Và quí vị lại " bịa đặt " tiếp chuyện chúng tôi tấn công vào các tiền đồn đông-bắc Kontum, chuyện Cai Lậy, chuyện ấp Cây Dừa gì đó. Tất cả đều nằm trong âm mưu có hệ thống, không làm ai ngạc nhiên, vì âm mưu phát động chiến ranh của quí vị là theo lệnh của Hoa Kỳ.

Đại Tá Đóa, VNCH phản pháo:

- Tôi ngỏ lời khen ngợi Đại Tá Giang đã có giọng nói tốt, có một cách diễn tả lời nói với chiếc đầu gật gù rất nhiều nghệ thuật, Đại Tá Giang đã trợn mắt khi dùng lời tấn công, thò đầu ra, thụt cổ vào, nghiêng người qua trái, nghiêng người qua phải một cách rất điệu nghệ. Tôi cũng khen Cộng sản Bắc Việt đã đào tạo được một cán bộ diễn xuất rất cừ khôi trong các lời phát biểu, khi tấn công, khi dọa dẫm, khi nói xấu chính phủ đối phương... Nhưng tất cả luận điệu, điệu bộ này chỉ có công hiệu nếu Đại Tá Giang đang ở một lớp huấn luyện những người bị bắt đi học tập, đặc biệt nếu đang hướng dẫn các thiếu nhi, còn ở đây, yêu cầu Đại Tá Giang đừng khiêu khích, vì sẽ không đi đến đâu. Sau đây, chúng tôi trả lời từng điểm một mà Đại Tá Giang vừa nêu ra. Quí vị tố cáo chúng tôi tiếp nhận máy bay F-5E vậy thì quí vị phải trả lời câu hỏi: Từ khi ký hiệp định đến nay, quí vị và cộng sản Bắc Việt đã đem bao nhiêu hỏa tiễn SAM, bao nhiêu đại bác hỏa tiễn, pháo 130 ly, 85 ly, vết tích ghi nhận sau lần pháo kích căn cứ Lai Khê của Việt Nam Cộng Hòa vào miền Nam Việt Nam. Quí vị có can đảm xác nhận sự kiện và số lượng này không? Về luận cứ chạy tội bằng cách tố cáo Hoa Kỳ còn tiếp tục dính líu, tiếp tục cổ võ chiến tranh... Đây là một điểm thật đặc biệt. Đặc biệt là vì từ sau Tết, hơn một tháng rưỡi qua, hôm nay quí vị mới lập lại tố cáo " Hoa Kỳ xâm lăng". Một tháng rưỡi qua, quí vị hoàn toàn im lặng, đặc biệt không nhắc đến từ ngữ " đế quốc xâm lăng " nữa. Hơn ai hết quí vị biết rõ, Đại Tá Giang chắc cũng biết rõ: Phía quí vị " há miệng mắc quai "... Quí vị phải nhớ " cái quai " còn đó, " cái quai " sẽ siết chặt vào cổ quí vị. Đó là quai Hoàng Sa! Nếu Đại Tá Giang nhớ, thì sau Tết, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đã đề nghị: " Cả hai bên cùng ra thông cáo chống mọi đế quốc nào có tham vọng đất đai của Việt Nam và quí vị đã chạy trốn. Chạy trốn vì sợ: Sợ cái " quai Hoàng Sa " siết chặt vào cổ. Thế nhưng hôm nay đảo Hoàng Sa còn đó, quân xâm lăng còn đó, những bài của báo Sự Thật, báo Nga Sô ở Mạc Tư Khoa kết tội liên tiếp Trung Cộng chiếm đảo Hoàng Sa còn đó, và quí vị hoàn toàn im tiếng!! Quí vị phải biết, người Mỹ muốn vào lãnh thổ Việt Nam phải có chiếu khán, nhưng quân Trung Cộng thì thập thò ra vô ở những vùng bắc Quảng Trị chẳng cần chiếu khán. Phải chăng sự kiện Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa cũng là một cách thức nhập nội không cần chiếu khán theo lời mời của Mặt Trận Giải Phóng? Vì tình hữu nghị Trung-Việt đẹp đẽ này, chúng tôi hiểu lời Mao Trạch Đông cảm ơn Nguyễn Hữu Thọ " vì cuộc chiến đấu lâu dài của Mặt Trận Giải Phóng " là lời cám ơn đã để cho Trung Cộng có cơ hội xâm lăng miền Nam Việt Nam!! Đang ở trong thế kẹt nói cũng chết, không nói cũng chết vậy quí vị đừng nên nhắc lại từ ngữ " đế quốc " nếu có thì chỉ nên nói đến đế quốc Tàu đỏ mà thôi, đế quốc hàng bao thế kỷ đã gây tang tóc cho toàn dân Việt Nam. Quí vị hãy đọc lại lịch sử để tìm xem trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, có thế kỷ nào dân tộc Việt Nam không bị tấn công bởi giặc Tàu? Quí vị tấn công thái độ chúng tôi khi cầu viện kinh tế Hoa Kỳ nhưng sự thật chính phía quí vị, kẻ cầm đầu của quí vị tức Cộng sản Bắc Việt mới là kẻ " thèm đô-la Mỹ " nhất! Quí vị bảo chúng tôi bị bế tắc phá sản kinh tế, nhưng nền kinh tế Cộng sản Bắc Việt mới thật sự bi thảm nhất, thấp kém nhất vùng Đông Nam Á... Tại sao thế? Vì Cộng sản Bắc Việt cần tài lực, vật lực để nuôi dưỡng bộ máy chiến tranh tại miền Nam, để lực lượng võ trang của quí vị cũng như đám quân xâm lược Cộng sản Bắc Việt có cái ăn để tiếp tục đánh phá miền Nam... Cộng sản Bắc Việt kiệt quệ kinh tế đến nỗi phải buôn đến xác chết. Trong dịp chuyển giao 23 hài cốt lính Mỹ, Cộng sản Bắc Việt đã không quên nhắc nhở, nài nỉ Hoa Kỳ: Tôi giao xác chết cho ông, ông nhớ cho chúng tôi tiền!!

Đaị Tá Giang hứng chưởng của Đại Tá Đóa gật gù chiếc đầu tìm ý nghĩ từng chữ, từng câu, ghi ghi chép chép vào cuốn sổ tay, đợi Đại Tá Đóa nhường lời, Giang phóng tiếp cú hóa giải:

- Đại Tá nhắc lại vụ Hoàng Sa thì chúng tôi cũng có ý kiến, cho đây là một trò đánh lạc hướng về nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng: Đó là sự can thiệp của Hoa Kỳ vào tình hình miền Nam Việt Nam đe dọa Hiệp Định Ba Lê mà bốn bên đã ký kết. Quí vị làm ồn ào nhưng hãy liếc mắt qua báo chí Sài Gòn thì thấy sự cô lập của quí vị về việc này! Nhiều nhà báo hỏi tôi: " Các vị có biết họ làm ồn ào vụ Hoàng Sa để làm gì không ?" Sau khi tôi trả lời, họ đáp: " Tưởng đâu quí vị không thấy ". Bây giờ tôi giải thích tại sao Chủ Tịch Mao Trạch Đông cám ơn Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ? Đại Tá biết quá rõ nhưng vì tìm đường xuyên tạc nên tôi cần phải vạch rõ: " Toàn thế giới cám ơn nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của chúng tôi, vì nếu không có chúng tôi hy sinh đánh bại Mỹ thì Ông Ngô Đình Diệm đã biến Nam Việt Nam thành một căn cứ hoàn chỉnh lý tưởng của đế quốc Mỹ để tấn công miền Bắc. Ông Ngô Đình Diệm đã hô hào " Lấp sông Bến Hải, Bắc tiến " để phá hoại Hiệp Định Genève 1954, đặt toàn bộ Việt Nam dưới ách của chủ nghĩa thực dân mới của Hoa Kỳ. Nếu điều đó đã thực hiện được, điều gì sẽ xảy ra đối với nền hòa bình Đông Nam Á? Vậy không những Trung Quốc mà cả Liên Xô cũng cám ơn chúng tôi." Chúng tôi giải thích tiếp cho quí vị: " Tại sao có việc Hoa Kỳ thua sút Liên Xô về võ khí chiến lược (!) khiến cho Hoa Kỳ từ thời Johnson phải cố sức đẩy lên... Vì nếu không có chúng tôi buộc Hoa Kỳ phải chi tiêu hàng chục tỷ mỹ kim thì làm gì có việc Hoa Kỳ phải đổi ngân sách từ vũ khí chiến lược sang vũ khí thông thường để tiến hành chiến tranh ở Việt Nam? Nếu Hoa Kỳ dành được ưu thế này ( võ khí chiến lược ) điều gì sẽ xảy ra cho toàn thế giới? Ai lại không biết Hoa Kỳ qua bao nhiêu Tổng thống vẫn giữ chính sách căn bản là chuẩn bị thế chiến thứ 3 (!) Nếu họ đạt được ưu thế về vũ khí chiến lược, cái gì sẽ xảy ra đối với Liên Xô? Cái gì sẽ xảy ra đối với thế giới? Chúng tôi không chỉ nói tới thế giới Xã hội chủ nghĩa, chúng tôi đề cập luôn tới thế giới Tư bản và thế giới thứ ba cám ơn chúng tôi. Tại sao thế giới thứ ba cám ơn Mặt Trận Giải Phóng? Vì ngay khi Hoa Kỳ còn tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt ở Nam Việt Nam, họ đã tuyên bố không úp mở rằng: Họ dùng Nam Việt Nam làm thí điểm cho chiến lược chiến tranh đặc biệt của họ, mà họ cho rằng loại chiến tranh " nửa vời " này sẽ không dẫn tới thế chiến thứ 3 để làm kinh nghiệm dập tắt các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Tôi không nghĩ rằng Đại Tá không biết những điều đó nhưng chỉ vì Đại Tá cố tình xuyên tạc sự thật nên tôi cần phải nói đến. Vì thì giờ không cho phép, tôi nghĩ cũng không cần phải nhắc lại lời của từng người đại diện chân chính của các nước cám ơn chúng tôi. Khi Hoa Kỳ ồ ạt đưa quân vào Nam Việt Nam, những người này đã nghĩ rằng: Không có gì đọ nổi ( Điều này bản thân tôi đã thấy có dịp đi thăm các nước trên thế giới ). Nhưng sau đó người ta thấy, khi cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao ( Vì Hoa Kỳ đã huy động gần hết lực lượng tổng trừ bị ) và bị đánh bại, chính quyền Nixon phải chuyển qua chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, thì các lực lượng bạn của Mặt Trận Giải Phóng đã nói rằng: À, té ra Hoa Kỳ không phải là lực lượng không thể bị đánh bại!... Một dân tộc người không đông, đất không rộng nhưng không phải ai muốn làm gì thì làm nếu dân tộc đó có ý chí kiên trì đấu tranh! Kết luận có tính cách thời đại này không phải của tôi, mà của toàn thế giới. Nếu có thể tôi sẽ nêu từng danh người nói. Thậm chí đến Hoa Kỳ, một dân tộc quen thói rất bàng quang cũng thấy được rằng: Họ phải chịu ơn nhân dân Việt Nam, họ phải chịu ơn chúng tôi vì nhờ chúng tôi họ thấy được chính phủ của họ, gọi là một chính phủ dân chủ đã che dấu họ rất xấu xa! Vậy, Chủ tịch Mao Trạch Đông cám ơn Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ có gì là khó hiểu...

Những phiên họp căng cứng như khẩu súng đã lên đạn, không khí ngột ngạt chỉ chực vỡ tung, tình hình chiến trường càng ngày càng tàn tệ, quân đội Cộng sản ra mặt tấn công đều khắp bốn vùng chiến thuật. Những tiền đồn vùng cận sơn Quảng Nam, Quảng Ngãi, Chi Khu Dakpeck, pháo đài cực bắc của tỉnh Kontum, mục tiêu của mặt trận B3 từ mười năm qua, nơi lá cờ Vàng luôn luôn được bảo tồn để chứng minh một chính phủ, thực tế lâu dài ở miền Nam, phi trường Pleiku bị pháo kích lần thứ hai, ở vùng III những chốt cứng dọc đường 13 bắt đầu chuyển động... Sau khi bứng được căn cứ Chí Linh (đông-bắc Chơn Thành) quân Cộng sản chuẩn bị hai hướng tấn công để kẹp đầu các căn cứ: Chơn Thành, Lai Khê, Bến Cát của VNCH. Chiến trận nổ bùng như một sự kiện tất nhiên, chứng minh bế tắc toàn diện cách thức giải quyết hòa bình do bản hiệp định đưa lại, một văn bản " tào lao " được thực hiện do áp lực, do thâm ý của các cường lực hơn là nhằm tới ý hướng chính: Thực hiện một nền hòa bình thực sự cho miền Nam Việt Nam. VNCH phản công trên chiến trường đúng theo thành ngữ của Tổng Thống Thiệu... " Phải đánh trước, phải du côn hơn thằng du côn, phải không cho cộng sản ở yên "; đồng thời cũng đổi chiến pháp tại bàn hội nghị; không bàn cãi lang thang ở những đề tài rộng rãi nữa, mà chỉ thảo luận trên những đề tài cụ thể như: Khôi phục lại chức năng của UBQT. Nghĩa là hai bên cùng viết một lá thư cùng chung một nội dung mời UBQT đi điều tra vi phạm tại một địa điểm xác định.

Phái đoàn MTGP cũng xác định: Chỉ thảo luận về sự phục hồi các quyền ưu đãi miễn trừ cho họ, và chỉ khi nào VNCH thỏa thuận thực hiện đủ các quyền này thì họ mới thảo luận vấn đề khác. Quyền ưu đãi miễn trừ đã có 11 điều được BLHQS 4 Bên thỏa thuận trên nguyên tắc để các phái đoàn cộng sản có điều kiện hoạt động trong thời gian từ 28-1-73 đến 28-3-73. Sau ngày 28-3-73 qua giai đoạn hai bên, phía VNCH nại cớ: Vì tình hình thay đổi, mười một điểm này phải sửa đổi lại cho phù hợp thực tế. Phái đoàn MT đòi tiếp tục duy trì. Đồng thời phải thêm vào những quyền rộng rãi hơn tương đương như một phái đoàn ngoại giao. Trong suốt thời gian hai bên chưa thỏa thuận chính thức, VNCH tạm thời chấp thuận một số quyền ưu đãi cho phái đoàn MTGP như họp báo, liên lạc Lộc Ninh... v.v.... Sau ngày 7-3-74, máy bay Chinook bị bắn; 9-3-74 pháo kích trường tiểu học Cai Lậy và các vi phạm như tấn công căn cứ Biệt Động Quân Đức Huệ (Hậu Nghĩa), Chí Linh (Chơn Thành); 4-4-74 đông-bắc Kontum... Phái đoàn VNCH hạn chế tối đa các quyền ưu đãi này.

Hai mục tiêu thảo luận hiện đối nghịch tột độ, không thể hòa giải đưa hội nghị đến chỗ tan vỡ toàn diện. Vì cả hai bên không thể đồng ý về một đề tài cần thảo luận huống gì là thỏa thuận cùng nhau về một vài đề nghị trong một đề tài. Nghị hội không còn đúng theo danh xưng nhưng chỉ còn là nơi rình rập, tố khổ nhau qua chữ nghĩa và tiếng nói. Phiên họp ngày 30-4-74 đã diễn tiến theo dạng thức sau:

Việt Nam Cộng Hòa:

- Lưu ý quí vị nên thảo luận thẳng vào vấn đề, nếu không đồng ý về vấn đề mời Ủy Ban Quốc Tế như chúng tôi đưa ra trong chương trình nghị sự thì có thể đề nghị một vấn đề nào xét thấy ưu tiên để thương thảo...

Mặt Trận Giải Phóng:

- Ghi nhận lần thứ nhất, phía quí vị cắt lời...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Ghi nhận lần thứ nhất, quí vị đã chạy trốn để không thảo luận vấn đề ngưng bắn - Một vấn đề bức thiết hiện nay.

Mặt Trận Giải Phóng:

- Lần thứ hai, quí vị đã cắt lời...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Lần thứ hai, quí vị không chịu thảo luận về chương trình nghị sự.

Mặt Trận Giải Phóng:

- Lần thứ ba, quí vị cắt lời...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Lần thứ ba, quí vị chạy trốn không thảo luận vấn đề ngưng bắn.

Mặt Trận Giải Phóng:

- Yêu cầu quí vị không được lợi dụng sự bình tĩnh của chúng tôi để muốn phát biểu thế nào tùy ý.

Việt Nam Cộng Hòa:

- Chưa chắc! Quí vị không bình tĩnh đâu. Tay áo Đại Tá Giang đã xăng lên đó là triệu chứng sắp tấn công chứ không phải bình tĩnh...

Mặt Trận Giải Phóng:

- Lần thứ mấy quí vị cắt lời rồi?

Việt Nam Cộng Hòa:

- Lần thứ tư, nếu cần lần thứ mười, thứ một trăm, một ngàn... Chúng tôi kiên trì kêu gọi quí vị trở vào chương trình nghị sự để thảo luận vấn đề cụ thể là ngưng bắn.

Mặt Trận Giải Phóng:

- Ghi nhận quí vị cướp lời lần thứ sáu... Cần nói rõ, quí vị không được lợi dụng sự tôn trọng nghị hội của chúng tôi để muốn phát biểu thế nào cũng được. Khi đến lượt chúng tôi phát biểu quí vị lại cướp lời. Chúng tôi không cho phép làm như vậy.

Việt Nam Cộng Hòa:

- Lưu ý quí vị, đây là cảnh cáo chứ không phải cướp lời...

Mặt Trận Giải Phóng:

- Một lần nữa yêu cầu quí vị chấm dứt phá hoại bằng cướp lời và cắt lời đối phương...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Yêu cầu đưa vấn đề cụ thể nhất để thảo luận, không nên phê phán khi máu chiến sĩ hai bên đang đổ trên chiến trường vì mức độ vi phạm đang gia tăng trầm trọng. Chúng tôi quan niệm không thảo luận thực chất của vấn đề là chạy trốn.

Mặt Trận Giải Phóng:

- Quí vị đã cắt lời lần thứ mười...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Quí vị nhầm mới lần thứ tám!

Mặt Trận Giải Phóng:

- Cũng được, nghĩa là bớt đi hai lần...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Cũng có nghĩa là cảnh cáo lần thứ tám!

Mặt Trận Giải Phóng:

- Có nghĩa là quí vị làm việc cảnh cáo xong rồi?

Việt Nam Cộng Hòa:

- Tự hiểu, khỏi cần hỏi.

Mặt Trận Giải Phóng:

- Hỏi cho chắc...!

Việt Nam Cộng Hòa:

- Cứ quan sát thì biết, cần gì hỏi!

Mặt Trận Giải Phóng:

- Lần thứ mười ba quí vị cắt lời, chúng tôi buộc lòng phải tuyên bố phiên họp hôm nay không thể tiếp tục được...

Việt Nam Cộng Hòa:

- Đó là quyền của quí vị...

Những phiên họp tan vỡ nửa chừng, cuối cùng phái đoàn MTGP công khai tuyên bố: Hoãn tất cả các phiên họp cấp trưởng đoàn cũng như tiểu ban kể từ 10-5-1974. Hai ngày sau, Phái Đoàn MTGP ở La Celle Saint Cloud tiến xa hơn một bước lớn nữa, tuyên bố: Hủy bỏ vô hạn định hội nghị cấp cao này và sẵn sàng trở về Việt Nam...

Ngày 20-5-1974 mặt trận Bến Cát - Bình Dương nổ lớn, từ vùng Hố Bò, Bời Lời, quân Cộng sản ào vào An Điền vượt sông Thị Tính chiếm Bến Cát, cô lập Lai Khê xuôi theo đường 13 đánh xuống Bình Dương... Về phía đông, mặt trận Phú giáo ( ranh Bình Dương, Bình Long ) cũng phát nổ, hai mũi dùi tây-bắc, đông-bắc đều nhắm xuống Bình Dương, Biên Hòa, để từ đây tiến vào Gia Định, tức thủ đô Sài Gòn... Suốt mười năm chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, chiến xa Cộng sản đã đến gần Sài Gòn nhất, cách ba mươi cây số đường chim bay. Ba mươi cây số, bước chót của hành trình giải phóng miền Nam, mũi súng phe Cộng sản đã sẵn sàng bắn những quả đạn cuối mùa, viên đạn xé ngang trời hòa bình bi thiết của dân tộc... Hòa Bình, xem như là một giấc mơ. Tưởng như là một giấc mơ.

Cuối cùng, có một trường học trẻ con ở Vĩnh Long, gọi là Song Phú bị Cộng sản pháo kích chết mười bảy và bảy mươi trẻ nhỏ bị thương vào ngày 4-5-74. Không ai có can đảm để đọc rõ tin tức về vụ thảm sát. Tôi chấm dứt bút ký này, không còn đủ sức để viết thêm một chữ.


Tháng 5-1974

1      2      3      4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét