Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2016

HỒI KÝ THÉP ĐEN - ĐẶNG CHÍ BÌNH - PHẦN 13


11.  CŨNG  MỘT  KIẾP  NGƯỜI

Sau mấy ngày, tôi đã biết phân trại A này có khoảng 7, 8 trăm tù, hầu hết là hình sự: tham ô, trộm cắp, giết người. Chỉ có một toán tù chính trị địa phương, duy nhất hơn 4 chục người, làm mộc và làm nhà do tên cán bộ Tý phụ trách, anh Ngô Đạo làm toán trưởng.
Lán mộc cũng là tre nứa, gỗ trống trếnh 4 gian ở ngay cạnh đường cái. Gọi là đường cái chứ cũng là đất, đôi khi có một vài chiếc xe cổ lỗ hoặc là xe bò của trại đi qua.
Hàng ngày toán tù chính trị chúng tôi xuất trại ra khỏi cổng, rẽ tay phải theo đường cái chừng 200m, là đến lán mộc thủ công. Ở lán mộc tôi được phân công trong tổ làm cửa và một vài ngày lại đóng quan tài, gọi là quan tài cho nó sang, vì bên hình sự này chết hơi nhiều (chết đói và kiết lỵ). Chúng tôi được lệnh chỉ cần rọc 4 tấm ván thô (không bào), rồi đóng đinh là xong.
Từ lán mộc, sáng, trưa, chiều, tôi vẫn nhìn thấy những toán hình sự rách rưới, gầy yếu, ghẻ lở đi qua lại. Có hôm anh Ngô Đạo toán trưởng, nhìn những đoàn tù hình sự đi qua nói chuyện với tôi. Anh chỉ tay xa xa, phía trước mặt :
- Anh Bình có biết không? Chúng nó đói quá, trên đường đi lao động về mấy cái nhà tư của cán bộ có mấy giậu dâm bụt và thài lài phía sát đường. Họ vặt sạch, đút ngay vào miệng nhai ngấu nghiến, về sau trên đường đi về, hai bên đường, bất cứ cành cây rừng nào chĩa ra, họ cũng vặt lá đút vào mồm, dù bị công an võ trang dùng báng súng thúc, đánh, đá tơi bời.
Nghe anh Đạo nói chuyện, lòng tôi vặn vò như xát muối. Tôi thầm nhủ trong lòng, nỗi thương đau này của họ, có một phần do tôi gây ra!
Một sự việc buổi chiều hôm qua, vẫn còn chèn ứ chật cứng lòng tôi: Tôi đang làm việc với tổ mộc làm cửa ở lán, một số người láo nháo, rầm rì chỗ căn nhà con của cán bộ Tý, mé sau của lán mộc. Căn nhà con này trên một khu đất cao. Tò mò, tôi lách lên nhìn vào chiếc sân con, trước mặt căn nhà: à, anh Lộc Mù, đang nằm xấp dưới đất, tay chân đều xuôi thẳng! Tên cán bộ Tý đang trợn mắt nhìn anh Tuấn Nguyệt, cầm một chiếc roi tre, quát :
- Đánh mạnh vào, đúng 10 roi! Cho chừa tội ăn cắp sắn!
Trước 7, 8 người trong tổ làm nhà, anh Lộc Mù, mọi người gọi anh như thế. Mắt anh bị bệnh mắt đỏ, nên không mở to được. Anh Lộc chừng 45 tuổi, người Hà Nội cùng quen biết với ban nhạc vàng của Toán Xồm. Sau 10 roi, anh Lộc lồm cồm bò dậy. Đến lượt anh Tuấn Nguyệt, lại nằm xuống và anh Lộc lại cầm roi. Tên Tý mắt gườm gườm, gằn giọng :
- Trước mặt tôi, các anh không đánh thật, đánh mạnh, tôi sẽ ngồi đây, bắt các anh thay nhau đánh tới khi trại về.
Tôi bàng hoàng, ngẩn người ra! Tôi nhẹ nhàng lủi xuống chỗ làm. Tôi ngồi nhắm mắt lại cho hồn lẩn trốn vào mây đen, của cuộc đời. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cảnh này trong tù! Phải rồi, trước đây còn miền Nam, còn một nửa nước nữa VC chưa chiếm được, chúng còn che giấu để bịp bợm tuyên truyền. Bây giờ, chúng đã nuốt xong miền Nam rồi, không cần phải che đậy nữa.
Tên Tý chừng 30 tuổi, anh Lộc 45 tuổi, anh Tuấn Nguyệt khoảng 40 tuổi đều là dân ăn chơi, của đất ngàn năm văn vật. Tôi đã quen biết các anh hơn một năm trước trong trại B, ở những buổi nhạc vàng bỏ túi, lén lút cuối tuần. Tuy đánh không đau lắm, vì có quần áo, nhưng mà nhục. Có lẽ tên cán bộ Tý mục đích, cũng chỉ muốn làm nhục là chính. Tất nhiên tôi hiểu, phải có chủ trương từ trên, thì tên Tý mới dám làm như vậy.
Ít ngày sau, một buổi tối cán bộ trực trại vừa vào điểm xong ra khóa cửa buồng, lại thấy mở khóa nữa. Tên trực trại, tên Tý cán bộ toán nói gì với anh Đạo toán trưởng. Anh Đạo quay lên sàn trên nói to :
- Anh Bình và anh Tuấn Nguyệt khẩn trương theo cán bộ ra lán, đóng 2 chiếc quan tài có bồi dưỡng 1 kí sắn luộc, cho 2 anh.
Tôi và anh Tuấn Nguyệt đều vội vàng leo xuống, theo một tên công an võ trang ra lán thủ công. Trời đã tối đen, chỉ có một ngọn điện 40 Watts treo giữa lán. Ít khi nào tù làm đêm, vì thế bóng đêm phủ căn lán gần hết. Trên đường vào lán mộc, trong bóng tối mập mờ, tôi thấy một chiếc xe ba gác trên có 2 xác người, với 4 anh tù hình sự đang ngồi gục đầu ở mé đường. Một tên công an võ trang đeo súng, miệng lập lòe điếu thuốc đứng bên cạnh, với tên Thông y tá hình sự của trại. Như vậy gồm có mười người: Hai tên công an võ trang, tên cán bộ trực trại, Tuấn Nguyệt và tôi, y tá với 4 anh hình sự, không kể 2 cái xác.
Trong bóng đêm rừng, ngọn điện chỉ khoét ra một lỗ sáng méo mó, còn đều đen ngòm. Phần vì gió lộng thêm, sương núi lại tỏa ra nhiều như mưa phùn, nên cả 4 anh hình sự và 3 tên cán bộ, đều vào trong chỗ chúng tôi làm. Tiếng rọc cưa xoèn xoẹt rù rì, vài tiếng cú rừng the thé vọng về, càng khoét sâu lòng mọi người, ai cũng câm nín. Bỗng tên trực trại ghé về phía anh y tá hình sự, giọng thắc mắc :
- Làm sao, chúng chết nhanh như thế?
Dưới ánh đèn, hai con mắt tên y tá trắng dã như mắt cú mèo, lấm lét nhìn mấy tên áo vàng, rồi lắc đầu chậm chạp :
- Thưa cán bộ, cháu cũng không biết, khi khênh ra khỏi buồng, thì chúng đã chết rồi!
Tên trực trại, thái độ có vẻ ấm ức, tò mò. Y dõng dạc ra lệnh cho 4 tên hình sự, đang ngồi như 4 con gà rù, ở mé cầu bào bên kia :
- Bốn anh ra mang một cái, vào đây cho tôi!
Nói xong, y quay lại tên y tá hình sự, nhưng nói với tôi :
- Anh hãy cho anh y tá mượn cái chàng, hay cái bướm một tí!
Tôi và Tuấn Nguyệt cũng muốn biết ra sao, nên đã đưa một cái chàng, tôi mới mài.
Tên Thông y tá đã chỉ một cái cầu bào trống bên cạnh, cho 4 tên hình sự đặt cái xác lên. Dưới ánh đèn mập mờ, tôi thấy cái xác chừng 20 tuổi quần áo rách tả tơi. Cái mặt xám đen, đặc biệt là cái bụng phình to tướng. Tên Thông cầm cái chàng, rạch mạnh cái bụng to ấy, nó phì ra thành tiếng, như chiếc lốp xe đạp bị xì hơi. Tên trực trại ra hiệu tay, cho tên Thông :
- Rạch nữa, cho rộng ra! Rạch cả cái bọc dạ dầy kia kìa!
Tôi chạy sang liếc nhìn, chỉ có một tí máu đen bên ngoài, trong dạ dầy, chỉ có vỏ sắn và lá cây, thành một màu xam xám xanh xanh.
Tôi và Tuấn Nguyệt nhìn nhau, rồi đều quay về chỗ đóng đanh ghép cho xong 2 chiếc quan tài. Vừa mệt vừa đói, tôi và Tuấn Nguyệt cũng đều không ăn được kí sắn luộc, cuộn trong chiếc lá đu đủ để đấy. Được sự đồng ý của Tuấn Nguyệt tôi mang cả gói sắn luộc, đưa cho 4 cậu hình sự, vì họ cứ liếc nhìn trộm, gói sắn từ sớm tới giờ. Chúng tôi cũng là tù đói, vậy mà thấy vậy chẳng muốn ăn. Chỉ trong một phút, cả 1 kí sắn 4 cậu chia nhau, ngốn hết chả, còn tí sơ nào!
Tôi hỏi ra, các cậu đi chôn, mỗi người chỉ có 2 lạng sắn bồi dưỡng, đã ăn ngay hơn một giờ trước rồi. Tôi và Tuấn Nguyệt vội vàng thu dọn dụng cụ, để tên vũ trang dong về trại. Trên đường vào trại tăm tối gập ghềng, tôi liên tưởng cảnh vừa qua. Tôi nhớ đến một ý thơ :
Không kèn, không trống, không ai tiễn
Chẳng khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu.
Chỉ có bạn tù, khiêng lặng lẽ,
Vùi nông một lỗ, kiếp người ơi!
Chừng hơn 2 tháng sau, được lệnh của tên cán bộ Tý, anh Đạo chuyển tôi sang tổ làm nhà. Tôi ở tổ này khoảng hơn 3 tháng. Tôi nhớ vào đầu 1977, một hôm tên Thành, cán bộ giáo dục của phân trại A, gọi tôi. Gần một năm ra trại này y mới gọi. Y gợi ý và bơm cho tôi như sau: Sớm muộn Đảng và nhà nước sẽ tha cho tôi, về một công nông trường nào đấy. Nhưng có điều, nếu cho tôi ra nông trường, công trường, thì không còn thợ làm nhà, ở trong trại giam. Vì thế tôi phải có ý thức đào tạo, dạy cho các cậu bên khu hình sự án dài, biết làm nhà để thay thế các anh, các bác bên chính trị, chết hoặc được tha v.v…
Tôi hiểu, chẳng qua đây cũng chỉ là một cách khích lệ, dụ tôi dậy hết nghề, cho đám trẻ hình sự mà thôi. Hiểu như vậy, nhưng là tù, thì cứ tà tà mà làm, rồi đến đâu hay đến đó.
Ba ngày sau tên Tý dẫn đến 3 cậu chừng 19 – 20 tuổi. Ngay nơi sân sau của lán mộc, tôi đang chuẩn bị để làm một căn nhà 3 gian. Tôi chỉ biết, chịu trách nhiệm làm theo kích thước đã vẽ sẵn, còn họ dựng ở đâu thì tôi không biết. Ba cậu đều là dân ở khu Hoàn Kiếm Hà Nội. Lúc đầu các cậu tỏ ra thái độ ngang tàng, bất cần đời, nhưng sau những thăm hỏi, trao đổi tâm tình, các cậu lại tỏ ra sốt sắng, ân cần ngoan ngoãn và vui vẻ làm theo, những lời tôi chỉ dậy.
Hơn 10 năm xưa tôi đã có một số kinh nghiệm sống với biết bao nhiêu các cậu “cháu ngoan của bác Hồ” ở Hỏa Lò. Thậm chí, cả những loại là giới anh chị của các cậu nữa, nên điều hành 3 cậu này, chẳng khó khăn gì.
Cậu Nguyễn Đắc Dũng 20 tuổi, cậu Phan Hà 19 tuổi cùng một vụ ở Ngõ Huyện Hà Nội, đầu năm 1976. Cậu thứ 3 là Hoàng Văn Nô ở một vụ khác, các cậu đều mới lên trại được 5 tháng. Về vụ việc của cậu Dũng và Hà, tôi xin sơ lược như sau: Vào cái dịp Tết (âm lịch) của năm 1975 đầu 76. Có lẽ vừa cướp được miền Nam béo bở, VC hơi lơ là vấn đề quản lý xã hội ở miền Bắc nói chung, và Hà Nội nói riêng. Nhóm Ngõ Huyện gồm 5 cậu Dũng, Xuân, Hà, Kỷ, và Thái. Các cậu lêu lổng không chịu học hành, và cũng không theo một cái khuôn khổ của Đảng, là gia nhập đoàn thiếu nhi, hay đoàn thanh niên cộng sản.
Một đêm 2 cậu Dũng và Thái, đi chơi la cà ra khu bờ sông gần nhà Bác Cổ. Trong bóng đêm 2 cậu thoáng thấy một cô gái đang ngồi ủ rủ ở một bậc hè, của một ngôi nhà trên đường phố. Nháy nhau 2 cậu đều quay xe đạp trở lại, vì đoán là “bò lạc” các cậu vẫn thỉnh thoảng vớ được. Được biết cô này tên là Hồng, 16 tuổi lên Hà Nội để chăm sóc bố bị bệnh lao xương, nằm ở Việt Đức.
Thấy Hà Nội phố phường có nhiều cửa hàng, cửa hiệu, cô cứ đi, rồi bị lạc không biết đường về, nhà thương. Cô đã đi mỏi cả chân, lại còn bị đói từ sáng, chưa ăn uống gì.
Hai cậu dụ Hồng đi ăn phở, cô Hồng lên xe cho Dũng đèo đi. Hai cậu đưa Hồng ra phía sau, đầu nhà thờ lớn rồi đè Hồng ra làm bậy, vừa đói, vừa không chăn chiếu, ở ngay sàn gạch. Sau khi 2 cậu làm xong, bỏ mặc Hồng nằm đó khóc, các cậu về nhà vì đã 11 giờ đêm rồi.
Nhưng nằm không yên, nghĩ đến mấy thằng bạn ở Hàng Trống và Hàng Gai, các cậu đã xách xe đến tìm. Cậu này gọi cậu kia thay nhau tất cả 5 cậu. Riêng cậu Dũng và Thái, gần sáng còn trở lại làm thêm lần nữa. Tuy các cậu đã dặn kỹ Hồng, không được nói với ai, nhưng có lẽ phần vì đói, phần vì đau, nhục, nên cô đã bò về phía Hàng Trống, rồi đến được đồn cảnh sát thì bị ngất.
Lần lượt các cậu đều bị bắt, sáu tháng sau đem các cậu ra tòa xử: 3 cậu Dũng, Hà, Thái, mỗi cậu 20 năm; hai cậu Kỷ và Xuân mỗi cậu 18 năm vì các cậu đã từ chối không muốn đi, nhưng Hà, Thái, Dũng cứ lôi kéo. Cái điều đáng trách nhất của các cậu, là cô Hồng đã đói từ sáng, mà không cậu nào kiếm cái gì, cho cô đó ăn. Tôi có hỏi thì Dũng, Hà đều nói trong niềm xúc cảm, đau đớn ra mặt :
- Khi ấy chúng em cũng đói, mà không đứa nào có tiền cả!
Gần một thế kỷ tù, trong một vụ án vẩn vơ không tên tuổi. Năm cuộc đời hay cả sáu cuộc đời sẽ đi vào khổ đau, tàn lụi. Nghe chuyện các cậu tôi hiểu, cái chính là các cậu gặp lúc không may nữa. Chính trị cũng như hình sự, cộng sản hay lấy một sự việc trị đến nơi đến chốn, trị nặng gấp đôi gấp ba. Vì chúng muốn trị người chưa, vi phạm hoặc mới vi phạm, không dám vi phạm nữa. Có thể đám anh chị Ngõ Huyện (khu nhà thờ lớn Hà Nội) làm nhiều chuyện đã từ lâu, nhưng CA không tìm bắt được. Bây giờ vớ được một vố chúng xử làm gương, cho giới bụi đời, anh chị Hà Nội?
Làm nhà với các cậu còn trẻ, cái khó nhất là chữ Nho: Tiền hậu, thượng, hạ v.v… Tôi thay vào bằng chữ in và số La Mã. Các cậu đều học lớp 7, lớp 8 (hệ 10 năm) nên tôi áp dụng công thức, của tam giác vuông góc Pythagore, cho các cậu tìm đường chéo v.v… Có thể do sự thông minh của các cậu, hoặc do sự pha trộn nhuần nhuyễn giữa: nghề nghiệp, kiến thức, lý tình của người hướng dẫn. Chỉ ba tháng sau, các cậu không những đã xàm được các xà thượng, hạ, đúng qui cách kỹ thuật, mà còn có thể đứng làm vì trưởng. Như vậy có thể tạm gọi là một thợ làm nhà, được rồi.
Một buổi chiều tôi theo toán đi làm về; ra khỏi lán mộc, toán rẽ trái để về trại. Từ xa (200 m) trước cửa căn nhà trực trại, đối diện với cổng trại. Có 6 – 7 cán bộ áo vàng lố nhố, tôi thoáng thấy một bóng người cao cao, đúng là hung thần Hoàng Thanh.
Tôi hơi choáng khi bất chợt nhìn thấy y, nhưng lòng cũng một chút vui vui, gặp lại một người quen biết đã lâu không gặp. Dù sao 7, 8 năm xưa, một lần tôi và y đã có một buổi ở phân trại E phố Lu, đàm đạo về một số loài hoa của quê hương. Có thể y đã quên tôi rồi, một người tù trong hàng chục ngàn người tù khác. Tôi nhìn đi nơi khác, khi toán đi qua mặt y. Nhưng y đã tiến ra sát mé đường, gần hàng toán mộc đang đi. Tôi quay lại nhìn y, và hơi gật đầu miệng nói nho nhỏ: “Chào ông!” Cổ áo y thường không đeo lon, mắt y sáng lên rồi vồn vã :
- Anh có khỏe không? Cắt tóc và cạo cái râu đi! Trông yếm thế quá!
Anh em trong toán và cả tên Tý cán bộ toán, cũng hơi ngạc nhiên. Có thể là một thứ giác quan đặc biệt của một người với một người? Về trại anh em nói Hoàng Thanh hiện nay là cán bộ cao cấp trên bộ nội vụ; ông Thích tổng giám thị vẫn phải nem nép nể vì.
Bốn ngày sau, buổi sáng cán bộ trực trại, đọc tên tôi ở lại trại để gặp cán bộ. Khi trại đã đi lao động hết, tên trực trại sai trật tự vào gọi tôi. Tên trực trại dẫn tôi đến một căn nhà nhỏ, ở trên một khoảnh đồi con, phía trái của trại.
Đến cửa, tiếng nói phía trong rất mềm dịu nhã nhặn :
- Anh mở cửa vào đi!
Một cán bộ lạ cũng không đeo lon, chừng 40 tuổi. Sau khi tôi lễ phép chào theo thủ tục, y chỉ chiếc ghế đối diện :” Anh ngồi đi! Tôi là cán bộ của bộ, hôm nay tôi muốn hỏi lại anh một số sự việc”- trong khi tay y đặt một cái tách trên bàn rồi rót trà. Điều tôi chú ý nhìn là bao thuốc lá Điện Biên giấy bạc thò ra hai, ba, điếu ở góc bàn. Có lẽ y cũng nhìn thấy thái độ của tôi, nên y cầm bao thuốc, rút thò ra một điếu thuốc, rồi giơ về phía tôi :
- Anh có hút thuốc lá không? Mời anh!
Tôi đường hoàng rút một điếu, y còn lịch sự bật quẹt ga cho tôi hút! Tôi vừa cám ơn y, vừa nhìn mấy sợi khói nho nhỏ của tách trà. Chúng đang uốn éo cong queo bỗng duỗi thẳng ra, rồi cùng chui vào đám khói thuốc lá, tôi vừa thở ra. Hồn tôi cũng đê mê, đờ đẫn vì lâu ngày mới được dầm mình, vào cái không khí thuốc thơm, trà ngon.
Hơn một tiếng đồng hồ, y hỏi lại một vài sự việc mà tôi đã khai báo trước đây ở Hỏa Lò. Tôi thận trọng trả lời những câu hỏi của y, lòng cũng hơi lo lắng, vì bây giờ chúng đã chiếm được miền Nam rồi. Có thể một số hồ sơ riêng về vụ án của tôi, chúng phát hiện được, những điều khác thường?
Nhưng qua nghe ngóng từng lời nói, từng hiện tượng, tôi yên lòng, vì y chỉ hỏi lại những điều cũ, trước đây mà thôi. Tuy thế, tôi cũng phải kính nể, cho sự dè dặt thận trọng của chúng. Vụ án của tôi, đã có gần 6 năm khai thác. Đã đem ra tòa xử gần 10 năm xưa, thế mà bây giờ chúng còn hỏi lại sự việc.
Tên cán bộ đột nhiên cúi xuống mở chiếc cặp ở dưới chân, lấy ra một bao thuốc lá lạ, đã bóc dở. Nhìn thoáng bao thuốc, tim tôi như ngừng hẳn lại hai, ba, giây. Nhìn lá cờ vàng 3 sọc đỏ, người tôi đờ ra. Cảm giác như nhìn thấy một cái gì cao quý thiêng liêng, của đời tôi. Thoảng mấy giây, tưởng như nhìn thấy người yêu lý tưởng 15 năm mới gặp lại. Từ đầu 1962 bây giờ là giữa năm 1977. Tôi ngẩn ngơ đến nỗi, tên cán bộ nói gì đó, tôi phải hỏi lại. Y mới nhắc lại :
- Anh còn nhớ loại thuốc này không?
Tôi hổn hển ngắt quãng, ngập ngừng :
- Thưa ông…. thuốc của quân đội miền Nam, Quân Tiếp Vụ, đã lâu lắm rồi ạ!
Có thể y cũng thấy cái lúng túng, khác thường của tôi. Y chỉ bao thuốc, miệng cười nhã nhặn: “Anh có muốn hút thử lại không?”
Như vồ lấy bao thuốc, có lá cờ vàng 3 sọc đỏ, miệng tôi lắp bắp :
- Thưa ông có ạ!
Trong bao thuốc còn 2 điếu, tôi rút 1, mới thoáng ngửi mùi thuốc Quân Tiếp Vụ. Một mùi hương thoang thoảng nhè nhẹ, ngọt lịm như cam thảo, như đường phèn, cái mùi của gần gũi thân thương! Tôi không thể chịu được nữa, tôi đưa đại bao thuốc lên mũi. Hà hít cho đã niềm thương, nỗi nhớ của 15 năm dài đằng đẵng, y nhìn thái độ lính quýnh của tôi, vẫy tay :
- Còn 2 điếu, anh 1 tôi cũng muốn hút lại một hơi. Ba tháng trước tôi vào Sài Gòn công tác, tôi mua thử một bao. Về Hà Nội tôi cũng cho mấy người quen, và mấy đồng chí hút thử. Nó cũng có mùi thơm lạ, khác với Điện Biên và Tam Đảo. Hôm tôi được lệnh lên gặp anh, tôi nghĩ nếu anh hút thuốc, chắc trước đây đã hút thuốc này. Tôi lục lại, thấy bao chỉ còn 2 điếu, tôi mang đi.
Tôi mừng vui quá, nên bộc phát thành lời :
- Xin cảm ơn và nhớ ông nhiều lắm! Tôi tìm lại được một dư vị cũ, ngày xưa!
Xem ra, y cũng chẳng để ý những gì tôi nói, tôi đánh bạo :
- Ông cho tôi cái bao này, để nhớ ngày tôi được gặp ông?
Y cười rất tự nhiên :
- Anh lấy thì lấy, không thì vất đi chứ làm cái gì!
Cái điều tôi phải ngổ ngáo, thô lỗ chỉ vì “lá cờ vàng 3 sọc đỏ” như một thứ cao quý, linh thiêng của đời tôi. Tôi muốn ôm ấp lá cờ thiêng liêng ấy, ép vào trái tim thương yêu, nhưng đã lâu ngày bầm tím của tôi.
Tôi vẫn để bao thuốc lá Quân Tiếp Vụ, cố gấp nhỏ giấu đút vào một chỗ kín và quý nhất, trong những vật dụng của tôi. Tôi chủ trương là, sẽ giữ mãi bao thuốc lá cao quý này, cho tới khi tôi mang theo về lòng đất. Nhưng… lại chữ “nhưng” quái ác, chữ “nhưng” độc địa….. Tôi đã bị…. không thể thực hiện được chủ trương, dù nhỏ nhặt của tôi…. Vì sao? Xin sẽ trình bày ở những chương tới.
Hơn một tháng sau, ngày 7/8/1977, một buổi sáng, trước toàn phân trại A, có mấy tên cán bộ lạ. Có cả tên thiếu tá Thích tổng giám thị. Tên cán bộ giáo dục đọc một bản tuyên bố, nội dung: Do sự tích cực lao đông cải tạo của trại viên, và do lòng nhân đạo của Đảng và Nhà nước, nay tuyên bố tha cho các anh có tên sau đây về công trường Hồng Thắng, phố Lu Lào Cai. Vẫn dưới sự quản lý, của bộ nội vụ (bộ công an trước đây).
Đọc 12 – 13 tên, đặc biệt trong đó có tên ĐCB là tù chính trị duy nhất, còn lại hầu hết là hình sự. Có thể trong toán tù chính trị địa phương, ai cũng có gia đình, quê quán, thân nhân, nên nếu được tha, đều được về nhà. Chỉ có mình tôi, là loại “tứ cố vô thân” ở miền Bắc.
Tất cả 13 người được tha, về trại công nhân Hồng Thắng này, đều được phát một bộ đồ nâu. Chiều hôm đó tập họp lại ở hội trường, cán bộ vào tuyên bố nội dung: Tuy được ra công nhân, nhưng vẫn dưới sự quản lý của Bộ nội vụ, cho nên các anh phải tuyệt đối chấp hành nội quy của công trường.
Đặng Chí Bình


12. RA CHIẾC LỒNG TO

Tôi hiểu đấy cũng chỉ là một sự chuyển đổi, xả hơi cái nồi “súp ze”. Chẳng có thể giết sạch những người tù này! Nếu giết mà êm thấm, thì chúng tôi chẳng còn ai! Chẳng lẽ cứ giam tù mãi, lại còn phải bắt nữa, dài theo năm tháng, như thế sẽ có rất nhiều trở ngại.
Vậy thì đây cũng như một chỗ tạm thời mở nút. Vả lại, ai cũng đã hiểu dưới chế độ VC, nếu có phải tha một người tù, cũng như mở cửa cái lồng nhỏ, cho tù ra một cái lồng lớn mà thôi khi anh đã có cái gốc là đã đi tù, trong chế độ.
Sáng hôm sau, một chiếc xe Camion thời Tây chở cả 13 chúng tôi đi. Gần chiều xe đưa tôi trở về phố Lu, nhưng ở một khu vực khác; vẫn hàng rào nứa cũng như trại tù. Trong khu này có 3 cái lán dài, cũng có cổng nhưng không có công an võ trang gác. Khi xe chúng tôi vào cổng, trong một cái lán cũng râm ran tiếng người. Chúng tôi được dẫn vào một căn lán cạnh đấy, bên trong đã có 3 – 4 chục cậu, cũng toàn là hình sự ở các trại khác về.
Sáng sớm ngày hôm sau, trời hãy còn tối đất, tôi đã nghe thấy tiếng xe Camion rình rình chạy vào trại. Tiếng xe Camion rọt rẹt như tiếng than thở của một ông già ốm yếu, phải làm việc nặng nhọc cả cuộc đời. Tôi và mấy cậu, chạy vội ra ngó ngấp, thấp thoáng bóng người đang trèo xuống trên 2 chiếc Camion thời Tây, một niềm hưng phấn ùa vào lòng tôi.
Rõ ràng chiếc bóng cao lớn của Lê Văn Kinh Người Nhái, vụ sông Gianh đã hơn 5 năm, bây giờ gặp lại. Tôi chạy bổ ra, lại thấy La Văn Thịnh trong toán Biệt Kích của Nông Quốc Hải, cũng hơn 5 năm gặp lại.
Nhìn gần 4 chục anh đều là Biệt Kích. Lòng tôi lúc này lại vừa vui nhưng lại vừa buồn. Niềm vui như những cánh bèo bập bềnh trôi nổi trên mặt nước; được gặp lại một số anh em quen cũ ngày xưa; và anh em Biệt Kích cũng không được trao trả theo hiệp nghị Paris như mình. Nỗi buồn như cả một làn nước ao tù, suốt ngày và suốt đời hẩm hiu quanh quẩn với bùn lầy hôi thối. Thương mình, lại thương anh em. Ai cũng tự hiểu đều là những kẻ khốn cùng, hãy yêu thương nhau, đùm bọc nhau mà sống.
Vài ngày sau lại có hơn một chục anh em Biệt Kích ở trại trung ương số I phố Lu đến, trong đó có Lý Giòng Lau (Người Nhái) Vòng A Cầu, Lê Trung Tín v.v… Trước sau đã có hơn 6 chục anh em Biệt Kích đến trại công nhân Hồng Thắng, với hơn 100 là hình sự do một tên trung úy Tô Bá Oanh làm gíam đốc. Một đêm lại có mười mấy anh em Biệt Kích, ở trại Tân Lập Vĩnh Phú, cũng đến Hồng Thắng.
Cuối tuần có một buổi tập trung “công nhân” anh em từ Biệt Kích đến hình sự đều gọi như thế. Gần 200 người được chia làm 3 đội: Đội mộc, xẻ; Đội làm đồi: Trồng dứa và sắn khoai. Đội linh tinh: Làm nhà, lấy gỗ, đan lát v.v… Mỗi đội có một anh đội trưởng, do Ban Gíam Đốc chỉ định và một cán bộ áo vàng phụ trách (cũng giống như của tù). Tôi thuộc về đội mộc, hàng ngày đóng gường, bàn, tủ, ghế v.v… Do tên cán bộ trung sĩ Nguyễn Ngọc Thành phụ trách. Công nhân làm theo mức khoán sản phẩm, và công việc chỉ định.
Trong buổi tập họp toàn công trường, có 3 – 4 tên cán bộ áo vàng phụ trách các đội lăng xăng chạy ra, chạy vào chỉ cho các đội kê bàn, kê ghế! Mãi khoảng gần 10 giờ, tên trung úy Gíam Đốc Tô Bá Oanh đến. Mặt y cố tươi roi rói, miệng luôn nở nụ cười tuyên huấn, mầu mè. Y khoa tay như tập thể dục buổi sáng, y hồ hởi cao giọng, nội dung:
Y hân hoan chào mừng toàn thể các anh em công nhân, y được Đảng và nhà nước, giao cho trách nhiệm giúp và tạo điều kiện cho các công nhân, nhìn rõ tương lai mở rộng của mỗi người. Y đề nghị các anh em công nhân, cùng với y quyết tâm trong 2 năm, tức là tới năm 1979 sẽ biến nơi này, thành một thị trấn trù phú, của miền núi! Sẽ có một ngày Hồng Thắng muốn ăn kem thì mua kem ăn, muốn ăn bánh mì thì mua bánh mì ăn. Y đang vẽ ra những chiếc bánh tưởng tượng, đó là phương cách chung của cộng sản, ở đâu và bao giờ cũng thế. Thôi kệ chúng!
Tôi chỉ chú ý nghe, những điều kiện sinh hoạt ra sao. Nội dung y nhấn mạnh: Tuy là công nhân, nhưng là tạm thời bước đầu, vì thế mọi công nhân phải chấp hành, một nội quy nghiêm ngặt.
- Dù làm gì hay đi đâu, đến 9 giờ tối, phải có mặt ở công trường như một hình thức tự gíac, ở trong trại tù trước đây. Có hơn những tự giác ở trong tù, những mặt sau:
. Nếu lao động tốt, có năng suất, giữ gìn nội quy đúng, cuối năm sẽ được đi phép, về thăm gia đình.
. Mức ăn đồng đều 15 đồng (tù có 12 đồng), Ban Gíám Đốc công trường đã nghiên cứu thí điểm, nên sát nút: Nếu công nhân nào chịu khó lao động, đều có thừa thãi 5 – 7 đồng, trong một tháng, để tiêu xài cá nhân như trà, thuốc.
Cuối cùng Tô Bá Oanh rành mạch kết luận do những quy định như trên, các anh nên nhớ rõ: có thể một giờ trước các anh là công nhân, nhưng một giờ sau các anh đã là tù rồi.
Mặc cho y nói, mấy điều chính tôi đã nắm được. Tâm tư của tôi mấy ngày nay, đang tập trung tâm tình trao đổi, thăm dò với các anh em Biệt Kích ở các nơi về, để biết rõ những diễn tiến. Tôi có một chút khái niệm, hiểu biết tình trạng thê thảm, bất hạnh của những đứa con, bị bố mẹ bỏ rơi. Mà lại bỏ rơi trong tay kẻ địch, kẻ thù của mình.
Qua nhiều nguồn tin từ các anh em tôi được biết: gần thời gian cộng sản chủ động ký hiệp định Paris, tất cả Biệt Kích gían điệp trong mặt trận tình báo giữa Bắc và Nam gần 20 năm, đã bị cộng sản bắt, chúng tập trung thành 3 nơi để bồi dưỡng, học tập chuẩn bị nếu có phải trao trả, như tôi đã trình bày ở trên.
1) Ở trại Hoành Bồ thuộc tỉnh Quảng Ninh, hơn một trăm Biệt Kích gían điệp.
2) Trại Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú, hơn một trăm Biệt Kích gían điệp.
3) Trại trung ương số I phố Lu thuộc tỉnh Lào Cai, khoảng 160 – 170 Biệt Kích gían điệp.
Có lẽ phố Lu, cộng sản tập trung Biệt Kích nhiều nhất. Trước đây trong hội nghị Genève 20/7/1954 cộng sản chỉ có kinh nghiệm với Pháp thôi. Mà Pháp thì chúng đã qua mặt, được rất nhiều sự việc nghiêm trọng. Ngay trong việc trao trả tù binh, hiện nay (1977) còn hàng trăm Maroc, Algérie, thậm chí cả người Pháp, vẫn còn sống ở mạn Ba-Vì, những người tù ở miền Bắc vẫn gặp.
Nhưng bây giờ là Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa. Vì cũng là người Việt Nam, nên chúng ta cũng biết những cái quái qủy, lọc lừa của cộng sản, vì vậy chúng ta cứ phải chuẩn bị, phòng hờ trước. Còn cộng sản, chúng muốn chủ động, thì phải chuẩn bị; càng chuẩn bị kỹ, tính chủ động càng cao (tôi đã trình bày ở những chương trên). cộng sản đã chuẩn bị cho Biệt Kích gían điệp gần một năm, trước khi cộng sản ký hiệp định.
Tôi đã trình bày rồi, cộng sản như một con nọ không hề muốn trả nợ. Người đòi nợ như ông Trần Văn Lắm, ông Kissinger, là những người lịch sự nhã nhặn nên hỏi, đòi con nơ cũng lịch sự, nhã nhặn như ngoại giao, phòng khách. Nếu hiểu con nợ như trên thì phải nghiêm túc sống sượng đập bàn, đập ghế:”Anh có trả cho tôi không? Khám túi, khám ví, đến nhà bắt đồ đạc, bắt vợ, đợ con để trừ nợ. Khi ấy con nợ nào cũng phải trả, chỉ trừ con nợ thực sự không có tí tiền nào cả. Cho nên chúng (cộng sản) nghe ngóng dọ dẫm thấy Mỹ chỉ là anh chàng “hổ giấy”. Còn VNCH thì chỉ nặng về tham nhũng, ăn chơi, mua quan, bán chức chứ họ có còn quan tâm gì đến những tên BK gián điệp này đâu. Bởi vậy cộng sản đã ra mặt ngừng không cần bồi dưỡng bồi dung gì nữa, cho đám của nợ này làm gì. Thậm chí các anh ở Hoành Bồ cho biết: Khoảng tháng 10-1973, chính tên Hoàng Thanh đại diện bộ CA (sau nầy là nội vụ), mặt Hoàng Thanh rầu rầu, nói trong nỗi niềm buồn bực, tức tối trước tất cả anh em BK ở Hoành Bồ:
- Tôi suy nghĩ thấy thương các anh lắm! Cùng là người Việt, là đồng bào ruột thịt của mình! Do trước đây chưa hiểu rõ Cách Mạng nên đã nghe theo lời lường gạt dụ dỗ của Mỹ-Ngụy ra Bắc phá hoại nhân dân, phá hoại CM, nhưng trước sức mạnh của chính nghĩa, của toàn dân, trăm tai nghìn mắt của cách mạng, các anh đã bị bắt và đã bị trừng phạt. Ngày nay Mỹ đã bỏ dã tâm biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới, phải ký vào hiệp nghị hoà bình Paris ngày 27-1-1973.
Như thế các anh phải được về với gia đình, bố mẹ, vợ con. Nhưng khi chúng tôi đưa vấn đề này ra thì Mỹ và Sàigon đã chối và nói không hề biết các anh là ai cả! Chúng tôi còn căm giận cho dã tâm của chúng, đối xử với những người đã làm việc cho chúng!
Nói chung cộng sản đã lợi dụng kẽ hở nầy để làm cho BK gián điệp đau lòng thêm.
Tôi cũng được anh em cho biết: do sự dùng dằng trở mặt của cộng sản, không chịu nghiêm chỉnh thi hành hiệp nghị hoà bình Paris, nên anh em BK gián điệp ở phố Lu, cũng như ở Tân Lập đều tuyệt thực tập thể, đấu tranh đòi cộng sản thực thi những điều khoản của Hội Nghị Paris. cộng sản đã khôn khéo lắt léo dàn xếp, rồi chúng từ từ phân tán mỏng BK gián điệp, đưa đi trừng trị những BK nào đã tự đóng dấu mình, trong những đợt đấu tranh trước đây. Kết quả có nhiều BK gián điệp chết hoặc bị thương tật, trong dịp cộng sản trả thù này.
Tôi cũng biết trại Hoành Bồ, không có đấu tranh nghiêm trọng như phố Lu và Tân Lập. Đặc biệt nhiều anh em BK nói: Ngay cán bố cộng sản cũng rất ngạc nhiên vì sao mà đợt đấu tranh tuyệt thực tập thể giữa trại Tân Lập và Phố Lu lại cùng xẩy ra trong một ngày, dù không hề có điều kiện nào liên lạc với nhau?
Nghe nhiều anh em nói, tôi xin tường thuật lại chứ tôi cũng thấy khó có cơ sở, có chăng là một sự trùng hợp kỳ diệu thì tôi không rõ.
Sau mươi ngày, tạm thời ổn định chỗ ăn, chỗ làm, tôi và Lê Văn Kinh định cuối tuần làm một cú xuất hành, đầu tiên ra chợ Bắc Ngầm. Một ngôi chợ Huyện của miền Núi (một tháng mới họp một lần). Cả Kinh và tôi ở những đường hướng khác nhau, nhưng có nhiều những cái chung, nên đồng cảm nhiều vấn đề.
Cách nhau vài tháng, nhưng Kinh và tôi đều bị bắt vào giữa năm 1962. Và bây giờ cùng ở một cái trại công nhân “đểu” này. Hai người đều có cái cảm gíac: đã 15 năm tù, cùng không vợ con, vậy sẽ đi hưởng tự do một chuyến, xem nó ra làm sao?
Cái ngày thứ Bẩy năm xưa ấy, vẫn hằn nét trong lòng tôi. Tôi chắc chắn Lê Văn Kinh (hiện ở Florida), cũng không thể phai mờ trong tâm tưởng hình ảnh ngày thứ Bẩy, của buổi ban đầu, sau 15 năm bị buộc kín trong chuồng.
Vào một sáng thứ Bẩy của tháng 10/1977, tôi không thể nhớ ngày. Trời Lào Cai, từ mấy ngày trước đã có những con nhạn trắng, dài mỏ ra réo gọi mùa Thu về. Hôm nay tôi mới lục dưới đáy chiếc hòm con (rương), cái quần Tergal mầu vàng, chiếc áo sơ-mi ca-rô xám mà các cậu Tiến Ga, Thọ Lột đã trang bị cho tôi từ dưới Hỏa Lò ra mặc, chỉ có đôi giầy “ba-ta” mầu xanh là mới. Từ hôm đến trại Hồng Thắng, tôi đã quen với một cậu hình sự tội tham ô, tên là Nguyễn Trọng Phú. Tuổi chừng 30, người Sơn Tây, trắng trẻo, thư sinh, học hết lớp 10 hệ 10 năm. Phú tỏ ra rất mến tôi, thấy tôi chỉ đi một đôi dép râu hoài, cậu lục va li lôi ra đôi “ba-ta” và niềm nở :
- Em tặng anh đôi “ba-ta” này, mẹ em năm ngoái mới đưa lên tiếp tế cho em!
Thật bất ngờ, tôi xúc động ra mặt! Ở miền Bắc không còn cái kiểu chơi “ân tình” như thế này. Tôi đã ôm lấy Phú như một sự chấp nhận, không nói thành lời.
Lính quýnh trong bộ đồ, tâm trạng như đứa trẻ “mặc manh áo mới ngày Tết”. Anh em nhìn tôi với những đôi mắt, đượm mầu xanh chia xẻ!
La Văn Thịnh đã thốt lên :
- Ông anh còn phong độ lắm!
Tôi quay lại nhìn Thịnh, dịu dàng: “Em lại cho anh đi “trực thăng giấy” rồi!” Trong bụng của tôi lại lẩm bẩm: Có “quê một cục” thì có!
Tôi và Kinh mới bước xuống sân, ngước nhìn lên trời tôi đã gặp cụ Nguyễn Khuyến: Trời xanh cao ngất mấy tầng cao…
Hình như hôm nay, cảnh và vật phố Lu có vẻ hưng phấn hẳn lên, cứ như chào đón chúng tôi. Từ những ngọn núi xa xa mầu xanh thẩm, đến những cánh rừng bạt ngàn xanh lam chung quanh, như đang mỉm cười với chúng tôi. Nhìn những cành thông gió đẩy đưa, nhấc lên, nhấc xuống ở bên đường, tôi còn có cảm tưởng như những bàn tay của núi rừng, đang vẫy chào chúng tôi. Trên một đoạn đường rừng gần 5 cây số dẫn đến chợ Bắc Ngầm, chúng tôi sóng bước đi bên nhau, đã nhiều lần ngoảnh lại phía sau rồi cùng nhìn nhau mỉm cười, với đôi mắt nhấp nháy như cùng hiểu: Chả thấy một tên công an võ trang nào đeo súng, đi “hầu” phía sau như mọi khi!
Phải rồi đã 15 năm, chưa bao giờ chúng tôi đi mà lại không có một vài tên công an võ trang cắp súng theo sau. Hôm nay mới thực sự là “tự do” trong cái lồng to!
Đã 40 tuổi rồi, đi trên đường chân tôi cứ thỉnh thoảng nhẩy “cẫng” lên như một cậu bé 14 – 15 tuổi. Không biết do đôi “ba-ta” mới xỏ, hay trong lòng tôi? Chẳng biết được! Cứ cho là cả hai đi, có ảnh hưởng sai lầm gì đâu? Nhìn cheo chéo trên một hẻm đồi cao, trong đám rừng cây rậm xì, có một giòng suối con đang róc rách chảy đều đều, tôi chợt liên tưởng đến bài “Suối Mơ” ngày xưa:
Suối ơi!… Bên rừng Thu vắng….
Giòng nước trôi lững lờ ngoài nắng!
Tôi không thể kìm hãm lòng mình được nữa! Tôi đã rủ Lê Văn Kinh đến tận bên con suối, để ngắm nhìn cho đã! Biết đâu lại chả có những cô Thiên Nga, đùa giỡn đang tắm phía sau đồi! Một ngày quá đặc biệt, tôi đã thả lỏng hồn tôi tự do lang thang đây đó! Tôi còn định kéo tay rủ Kinh vào gặp cụ Văn Cao trong Thiên Thai nữa chứ! Nếu Lê Văn Kinh không phản đối tôi kịch liệt…
- Thôi! Tôi không vào trong ấy đâu! Tại sao Bình lại cứ ngẩn ngơ, với những vật vô tri ấy như vậy?
Tôi đành dịu dàng năn nỉ :
- Kinh ơi! Một chiếc cầu ao, mái nhà tranh, một ngọn cỏ, một lũy tre làng, một ánh trăng, một giòng suối, một cây rừng v.v… Đúng là những vật vô tri theo bạn. Nếu bạn biết “xuất hồn “cảm nhận, thì những vật vô tri ấy đều có “hồn” cả. Chúng cũng biết giận hờn hay mừng vui chào đón bạn, chia xẻ với bạn nhiều lãnh vực, khi bạn vui cũng như lúc bạn buồn.
Tôi đã tha thiết vận dụng, cái óc nhiều “bã đậu”của tôi để nói nhiều. Nhưng nhìn đôi mắt mầu nhờn nhợt nâu nâu, của Lê Văn Kinh, tôi cũng đành ngừng lại. Kinh chẳng chiều, chẳng thông cảm cho tôi, thì tôi phải chiều Kinh
vậy. Tôi kéo Kinh ra đường, tiếp tục đi, và chỉ nói những chuyện về chấp hành nội quy của Hồng Thắng. Đóng giường, tủ ghế, sao cho nhanh và đẹp. Chốc nữa đến chợ, mua được cái gì tươi để cải thiện cái dạ dầy v.v…
Từ xa, kia rồi, tôi đã thấy một đám đông người trên ngang lưng một ngọn đồi, cạnh đường đi. Những chiếc lều trống trải, một vài con bò, con trâu gầy, không phải để bán mà là những vật dụng, chuyên chở trên đường rừng. Trong đám đông hàng trăm người ấy, chỉ có dăm, mười người là Kinh, hầu hết là bán hàng, còn hầu như toàn là người dân tộc thiểu số. Tôi chẳng biết họ thuộc những sắc tộc gì; nhưng chắc chắn họ đều là người VN. Nhìn từ xa, ngôi chợ chỉ là một mầu nâu, hay xám. Bước vào chợ, có một cái mùi ngai ngái của phân trâu, phân bò, lẫn mùi cây rừng và đá núi, thành một cái mùi giản dị, mộc mạc thô kệch mà chất phác, của quê hương.
Cũng có vài tấm phản, trên có vài mảnh thịt của những con thú rừng như nai, hoẵng, gà Gô. Đa số là thịt khô đã treo trong bếp, ám mồ hóng lâu ngày. Tuyệt đối không có thịt trâu, bò, lợn, gà, vịt, gạo, đậu v.v… Những thứ này nhà nước đã quản lý chặt, phải đến cửa hàng Quốc Doanh, mua theo tem phiếu cố định, ở những thị trấn, thị xã.
Cảnh chợ hầu như người ta chỉ bán bằng thúng và mẹt, chỗ này một ông dân tộc, để trên cái mẹt vài cái nhạc ngựa bằng đồng, vài cái vòng tay, vòng cổ, hay giây chuyền của phụ nữ bằng bạc đã cáu ghét, đen xỉn lại. Chỗ kia mấy bà bày mấy quả cây rừng, vài cái lược, cặp tóc v.v… Đồ dùng của phụ nữ, miền sơn cước.
Có 2 – 3 anh mặc quần áo xám bộ đội, tay đeo chiếc băng đỏ. Một hình thức như cảnh sát, giữ trật tự ở dưới xuôi. Một anh chừng 25 tuổi, nhìn tôi và Kinh bằng đôi mắt màu thiên lý thiện cảm, rồi cười. Chúng tôi cũng cười đáp lại và tôi đã làm quen. Anh tưởng chúng tôi là nhà báo, hay cán bộ miền xuôi, của nhà nước. Tôi đã nói thẳng, thật, chúng tôi là tù đã gần 2 chục năm rồi, bây giờ là công nhân ở Hồng Thắng. Có lẽ vì tôi tỏ ra thành thật chân thành, nên anh càng có thiện cảm hơn. Anh là dân tộc Thổ, tiểu đội trưởng du kích ở Bắc Ngầm. Anh chỉ tay về phía cuối đường, chừng nửa cây số, có mấy căn nhà lá con :
- Nhà tôi nớ!
Chiều tan chợ, tôi định ghé thăm nhà anh, tên anh là Sín Lồ hay Sín Lò tôi không còn nhớ rõ. Tôi và Kinh mua được mấy bắp ngô luộc, ăn thay bữa trưa. Mới khoảng hơn 2 giờ chiều, chợ đã vãn người, có lẽ miền núi họ phải về bản làng xa chăng? Nhìn ngôi chợ miền Núi về chiều, tôi chợt nhớ đến Bà Huyện Thanh Quan “Qua Đèo Ngang”. Rồi lại nghĩ đến Hoàng Thanh trong “Bát Cảnh Danh Họa” đời Đường: “Sơn Thị Tình Lam” ở phân trại E. ngày nào! Tôi và Kinh còn mải mê ngắm nhìn con trâu gầy ở góc chợ, đang nhai cỏ, thì chính Sín Lồ đến. Anh muốn rủ chúng tôi trên đường về Hồng Thắng, ghé vào chỗ anh.
Khoảng 3 giờ, tôi và Kinh lang thang, thảnh thơi trên đường trở về Hồng Thắng. Đặc biệt là chúng tôi mua được 10 bắp ngô sống, định mang về công trường, ngày mai luộc ăn thêm.
Khi đi qua xóm nhỏ của Sín Lồ, chính anh lại ra đường vẫy chúng tôi vào, tôi kéo tay Kinh cùng đi vào! Thoáng bên trong có một cái chõng tre đã lên mầu thời gian; có hai thanh niên nữa. Sau khi chuyện trò được biết cả 3 anh đều là bạn và cũng là du kích của Bắc Ngầm, chúng tôi cũng chuyện trò xã giao. Tôi không thể quên được một sự việc trong lúc ngồi hút thuốc lá Hoa mai, uống trà chuyện trò, tôi nhìn lên vách thấy tấm hình của HCM bị lệch. Để tỏ cái “mắt thợ” của mình, và cũng để nghe xem sao, lòng của người dân Bắc Ngầm. Tôi chỉ tấm hình, nói như nhắc nhở :
- Tấm hình của bác Hồ, bị lệch kìa!
Cả 3 anh quay lại nhìn tôi, nửa như ngạc nhiên, nửa như thăm dò; Sín Lồ chậm rãi :
- Lệch đã lâu rồi! Có rơi cũng không sao?
Tôi nhìn Kinh rồi ngừng lại đấy, và chuyển đề tài :
- Các anh có hay ra thị xã Cốc Lếu chơi không? Và cách đây bao xa?
Sín Lồ lại vồn vã trả lời :
- Một, hai tháng mới ra một lần! Xa lắm! Đi xe đạp cũng hơn 2 tiếng, mới tới!
Thấy hôm nay, buổi đầu; như vậy là tạm đủ. Hơn nữa thái độ mấy cậu có vẻ bồn chồn, như sắp phải đi đâu, hay làm gì. Tôi nhìn Kinh như ra ý rồi quay lại từ giã ra về, hẹn một ngày thuận tiện sẽ gặp lại. Cả 3 cậu đều niềm nở tiễn đưa, chúng tôi ra đầu ngõ.
Vừa bắt tay với Sín Lồ, quay ra, tôi bàng hoàng giật mình, như có một gáo nước lạnh bất ngờ dội vào người. Một nàng tiên của núi rừng; phải nói là một sơn nữ, từ ngoài đường đang đi vào. Da cô trắng mát, ngược lại với mái tóc đen huyền, thò ra trong chiếc khăn vuông mầu xanh xanh đo đỏ. Lưng đeo một chiếc gù mây, chẳng biết đựng gì chỉ thấy một bông hoa rừng trắng toát lắc lư, nhô cao hơn miệng gù. Một bàn tay như thỏi sáp, hờ hững cầm vào một chiếc quai gù phía trên ngực, làm cho ngực của cô càng giồ lên. Đôi mắt của cô cũng đang mở to nhìn chúng tôi, như của một con nai tơ mới trong rừng sâu đi ra, bất chợt gặp bóng người.
Tôi ngây người ra đờ đẫn, chân không thể nhắc lên để bước đi. Mặt cô đỏ lên, rồi nhìn vào phía trong khu nhà, một giọng oanh vàng ré lên, như cầu cứu :
- Sín Lồ Cố!
Lê Văn Kinh đã kéo tay tôi đi, mà đầu tôi còn ngoảnh lại, cô sơn nữ cũng ngoảnh lại nhìn chúng tôi. Tôi ngoảnh lại vì tôi đang lục lại, và so sánh nàng sơn nữ đã từ lâu; qua văn, thơ vẫn êm đềm, nằm trong trí, hình dung tưởng tượng của tôi: Sơn Nữ ơi!…. Hoàng hôn xuống dần…. chờ đợi ai? Làm chi…. cho đớn đau lòng… Trong một thời gian rồi thương…. rồi nhớ… Sơn nữ ơi! Với cô sơn nữ tôi vừa gặp, khác nhau như thế nào!
Còn cô ngoảnh lại, tôi chắc cô ta cũng băn khoăn, không hiểu tại sao lại có một anh chàng, mặt lại đần ra như ngỗng ị thế? Trên đường về Hồng Thắng, Kinh nói những chuyện gì tôi chẳng hiểu và cũng chẳng còn nhớ gì hết.
Hôm sau chủ nhật, tôi nhớ đến anh chàng y tá Vũ Mạnh Tâm, khu tập thể công nhân xã hội (công nhân này không phải là tù như chúng tôi). Có khoảng hơn 100 người cả nam lẫn nữ, hầu hết từ thanh niên xung phong tuyển vào. Họ ở cách chúng tôi hơn 2 cây số, đang xây dựng mấy căn nhà “kiến thiết cơ bản” bên cạnh con đường ra phố Lu.
Tuần trước, tôi lang thang tò mò đã vào khu của họ và đã quen anh y tá tên là Tâm, chịu trách nhiệm y tế của khu. Anh ta khoảng hơn 4 chục tuổi có vợ con ở Bắc Ninh, tôi và anh đã hẹn nhau chủ nhật này để chuyện trò, quen biết bạn bè. Tôi cũng đã nói thẳng, vả lại đám công nhân này cũng biết Hồng Thắng có một trại công nhân “rởm”.
Tôi tính lại rủ thêm Lê Văn Kinh, cùng là Biệt Kích Gián Điệp (Biệt Kích GĐ) ở Sài Gòn, đi chơi thuận tiện hơn.
Tôi lại đóng bộ quần áo hôm qua đi Bắc Ngầm, đó cũng là bộ đồ duy nhất để diện. Ngoài một bộ đồ nâu và mấy bộ sọc (của tù) tôi vẫn thay đổi để đi lao động. Những ngày cuối tuần, trên đường đi rải rác đây đó, đã có những bóng dáng những anh chàng công nhân “rởm” của Hồng Thắng.
Tôi và Kinh đi đến một đoạn vòng cung của một ngọn đồi, thoáng thấy một bóng áo vàng đi ngược chiều. Đến gần ra là chính Tô Bá Oanh, như thế anh chàng này cũng thích trầm tư lang thang một mình. Mới chỉ một vài lần trao đổi tiếp xúc, khi ông ta vào lán mộc như quan sát, nhìn, xem xét của một ông gíam đốc công trường. Nhưng tôi đã thấy Tô Bá Oanh, tuy mang cái lon trung úy và chừng khoảng gần 4 chục tuổi như tôi, nhưng tôi cảm thấy tay này cũng khôn, quái và nhiều tham vọng lắm!
Chúng tôi đều cúi đầu chào theo thủ tục, mắt y lại sáng lên, tiến sang hẳn bên này đường, phía chúng tôi, tươi mặt vồn vã :
- Trông xa tôi lại tưởng là khách lạ, ở dưới xuôi lên!
Y nói, nhưng mắt chằm chằm nhìn quần áo của Kinh và tôi. Nhìn sang Kinh cũng bộ quần áo bộ đội hôm qua đi chợ, Kinh vẫn đi đôi dép râu “Bình Trị Thiên” như nhiều công nhân của Hồng Thắng. Chỉ có tôi mang đôi “ba-ta” mới, nên hơi khác một chút, ở nơi núi rừng. Tôi cười và nói cho qua chuyện :
- Thưa ông! Bộ quần áo này tôi mua rẻ lại của các cậu bên hình sự!
Nói rồi chúng tôi chào, và rút lui ngay.
Vào khu công nhân xã hội, tìm đến buồng y tá của anh Tâm. Nhìn chung một vài nét, tuy ở nhà xây (cơ bản) những ngôi nhà, chính họ đã xây, tạm thời họ ở, để xây những cái tiếp. Hai khu Nam, Nữ ở hai nhà khác nhau.
Thoáng một số nét sinh hoạt, họ cũng nghèo nàn lạc hậu, chả hơn gì chúng tôi bao nhiêu, đặc biệt là tinh thần, họ rất lười. Với cái năng suất lao động như vậy còn kém chúng tôi hàng nửa, thời gian cả về mặt kỹ thuật. Họ lơ là, đàn đúm chơi đùa là nhiều.
Anh Tâm ở một mình, trong một căn phòng con chật hẹp của y tế. Bốn chục tuổi mà có vẻ trầm lắng, không giao thiệp nhiều với những công nhân khác. Quan điểm của tôi lúc nào cũng thể hiện chân thành trước, tôi cũng đã nói thẳng, nói thật chúng tôi là loại Biệt Kích GĐ từ trong Nam ra Bắc v.v… Anh Tâm vui ra mặt, anh lăng xăng hoạt bát hẳn lên.
Tôi có cảm tưởng cuộc sống của anh bị buộc kín theo xã hội. Ở “bầu thì tròn ở ống thì dài” hôm nay anh gặp được mấy người thể hiện “tình người là chính” nên anh đã hưng phấn như thế?
Tôi đã được nghe nhiều sự thật, của cái hệ thống công nhân này. Như làm ít báo cáo nhiều, làm xanh lại báo cáo đỏ. Anh ở trong Đảng Ủy của công trường, anh đã lập gia đình 5 năm rồi. Vợ anh cũng là đảng viên, trong một xí nghiệp may ở Bắc Ninh. Vợ chồng anh có một đứa con trai 4 tuổi.
Tôi luôn mang một ý niệm: Mình có thật sự, như vậy đường mình đi là chính thống, vậy chỉ cần khéo léo trong hành xử, chắc chắn mình có tính hơn hẳn. Vậy thì bất kể với ai, dù chung quanh toàn là kẻ thù, nham hiểm là người của đối phương, ta vẫn mở cửa. Không phải chỉ có máy nhìn, mà có cả máy ngửi. Dù anh có bọc bao nhiêu lần vỏ, pha trộn bao nhiêu màu, ta tin tưởng sẽ nhìn vào cái nhân, vào bản chất của con người và sự việc. Rồi tùy theo, sẽ giải quyết theo chiều hướng ta muốn.
Có một chuyện vui mà tôi chưa quên: Sau khi Tâm biết chúng tôi là tù nhân 15 – 16 năm rồi, một loại tù phải chịu những hình thức khai thác ngặt nghèo, khác thường. Nghèo thôi, nhưng chân thành, chỉ có đậu phụng rang và ổi xanh với rượu trắng, mỗi người góp một đồng là có một bữa say, đầy nghĩa tình người.
Trong lúc bên trong là say, bên ngoài là tỉnh, rồi lẫn lộn: Tâm rất băn khoăn thắc mắc: Tại sao tôi và Kinh đã trên dưới 40 tuổi, Tâm mới 35 tuổi lại già hơn, cằn cỗi hơn? Trong khi Kinh và tôi phải ở trong tù, khổ đau như vậy?
Chính Lê Văn Kinh cũng không thể giải lý rõ vì sao, mà chỉ quy cho là có người trẻ hơn tuổi; có người già trước tuổi là do trời, do máu, do giòng họ của mỗi một người.
Tôi đồng ý, chúng ta không thể phủ nhận được yếu tố đặc biệt này, nhưng nếu ta xét, ta nhìn cái chung: Một chục người cùng tuổi ấy, điều kiện ấy mà ở trong tù cách biệt kiên giam. Và một chục người cùng tuổi ấy, điều kiện ấy ở ngoài đời có vợ, có con thì sẽ thấy yếu tố trên, không còn đúng hoàn toàn nữa.
Tuy đầu tôi nghĩ thế, nhưng tôi vẫn ngồi im lặng; mãi cho tới khi cả Kinh và Tâm bắt tôi phát biểu ý kiến. Cũng đã gặp cụ Lưu Linh rồi, nên tôi mạnh bạo trình bày, dù tự biết đầu óc của mình có nhiều “sạn, sỏi”. Nhưng phải cởi mở lòng mình, phải chân thành như lòng mình đã, nên tôi đã mạnh dạn phát biểu :
- Tôi suy nghĩ thế này: Phật và Chúa nói theo từng tôn giáo, nói chung là đấng tạo hóa sinh ra con người. Ngài ban cho mỗi người kể cả đàn ông, lẫn đàn bà, một bọc, một cục sống. Nói một cách giản dị là tạo hóa ban cho mỗi người 1000 đồng chẳng hạn. Bằng nhau, ai cũng như ai. Nếu anh phung phí tiêu nhiều, về cuối anh còn ít. Ngược lại thì anh còn nhiều, đó là hình dung theo toán.
Bây giờ ta hình dung có vẻ theo kiểu văn chương: Tạo hóa ban cho loài người đồng đều, mỗi người một sợi tơ đồng, để hưởng một thời hoa mộng.
Nói chung, từ khoảng 20 tuổi đến 40 tuổi, cái dây tơ hồng đó, có quý vị gẩy nhiều, người gẩy ít tùy theo. Bình thường trong 20 năm gẩy, thì sợi tơ đồng đó đã dão ra rồi, nên khi gẩy thì tiếng kêu của nó đã rè, đã đục. Các quý vị cứ nhìn các ông Cha, ông Sư. Các ông ấy thường trẻ hơn, với những người cùng tuổi ở ngoài đời, đấy là cái chung.
Chứ tôi hiểu cá biệt có những ông Cha, những ông Sư (nhất là ở Việt Nam hiện nay) các ông ấy không những vẫn gẩy đàn, mà còn gẩy hơi nhiều, gẩy hơn một người bình thường nữa. Như vậy thì ai cũng đã thấy, nếu đem cái dây tơ đồng của một ông 40 tuổi ra gẩy, nếu nó không rè rè thì nó cũng kêu bùng bục. Ngược lại, Lê Văn Kinh và tôi không gẩy và chưa hề dùng đến cái dây tơ đồng ấy. Nếu bây giờ đem gẩy thì nó vẫn thánh thót, du dương như thưở ban đầu vậy.
Tâm và cả Kinh đều cười ngặt nghẽo, cười bò ra, tay ôm bụng. Nỗi hưng phấn của Vũ Mạnh Tâm, càng được đẩy cao; anh chạy đến chiếc tủ con, mở lấy ra một chiếc máy ảnh nhỏ, quay lại nói rổn rang :
- Đây là chiếc máy ảnh của ông anh trung tá sư phó, mới mua ở Sài Gòn tháng trước, cho tôi mượn một tuần. Hôm nay anh em ta ghi một tấm hình, để kỷ niệm.
Truyện trên trời rơi xuống! Chụp ảnh ngoài xã hội lúc này còn khó, huống chi lại ở trong tù. Tôi nhoài người đến cầm chiếc máy, ngắm nghía. Máy ảnh của Nhật, TENKA II có automatic nữa. Ra ngay ngoài hè, Tâm chụp mấy tấm, trong đó có riêng một tấm Kinh và tôi. Có lẽ đó là một tấm hình đặc biệt duy nhất, của Kinh và tôi, chụp để kỷ niệm trong giai đoạn ở tù.
Buổi chiều trở về, mới bước chân vào đến cổng của Hồng Thắng, tôi mừng quá! Lý Cà Sa to lớn tiến lại bắt tay tôi, có một số công nhân mới chuyển đến, có thêm mấy anh Biệt Kích nữa trong đó có cả Nguyễn Cao Sơn (một chuẩn uý của Thủ Đức).
Trên đường vào chỗ của mình, đầu tôi suy tư: Lý Cà Sa mà được ra công trường HT, cũng là một sự khác thường. Tôi xách gầu và quần áo ra sau giếng tắm một cái, sau 2 ngày ngược xuôi quanh vùng.
Trong hàng chục người chung quanh giếng, có một cậu hình sự chừng 20 tuổi cứ liếc nhìn tôi, thái độ khác thường. Xong xuôi, tôi vừa rẽ về đến ngôi nhà số 2, thì cái cậu liếc nhìn tôi khi nãy, đã đón đường. Thái độ cậu ta hơi ngập ngừng, hai tay xoa xoa vào nhau; rồi giọng như được tăng số:
- Em hỏi thực anh, có phải anh là một điệp viên cừ khôi được đào tạo công phu ở Nhật, về Hà Nội hoạt động phải không?
Tôi còn ngạc nhiên, đắn đo quan sát thái độ của cậu, cậu ta lại nhấn mạnh :
- Anh cứ nói thật với em đi!
Một chút băn khoăn, tôi khẽ để một tay lên vai cậu :
- Trước khi anh trả lời, hãy cho anh biết do đâu em lại hỏi anh như thế?
Cậu này tỏ ra hơi bộp chộp, nên trả lời ngay :
- Nhiều bạn bè em chỉ anh, nói với em như vậy!
Tôi vẫn đặt tay lên vai cậu, dịu dàng nói với cậu :
- Cám ơn em đã hỏi anh như vậy, anh xin nói ngay là những lời đồn đó, là không đúng sự thật. Tên em là gì?
Cậu trả lời tên là “Công” còn gặn lại :
- Hãy tin em! Nếu thật em sẽ xong ngay!
Tôi thấy không giải quyết cái gì, cũng chả cần hiểu “xong ngay” là “xong”gì? Tôi đập vào vai cậu, như đẩy đi :
- Thôi chào em Công nhé!
Quay vào buồng tôi nghĩ: tiếng đồn thì thường hay phóng đại!
Đã có một số cậu hình sự xin đi phép, cả một vài Biệt Kích cũng đã xin đi phép vào miền Nam 2 tuần, 1 tháng. Để nghe ngóng, để thử, tôi cũng dần đánh tiếng qua tên cán bộ trực của công trường là Đỗ Nhận. Nghe đồn tên này là trung sĩ cán bộ trên trại Quyết Tiến (Cổng Trời) về đây.
Ra vào qua ánh mắt; tôi thấy y có chút thiện cảm cá nhân với tôi, nên một buổi thuận tiện gặp y, trên một quãng đường từ cơ quan vào Hồng Thắng. Nghĩ đến Hà Nội, còn mấy người em ở Hàng Bột con bà dì, em ruột của mẹ tôi. Tôi còn một bà dì họ ở Lương Ngọc Quyến. Thì cứ thử xin 2 tuần, xem họ có cho đi không đã. Nhưng tên Nhận đã nhìn tôi, rồi nói rõ ràng :
- Anh Bình cứ thử làm đơn lên Ban Gíám Đốc! Theo tôi đã có 2 người (Biệt Kích) đi phép vào Nam, nếu họ không trở lại thì không phải là dễ.


13. THỦY CHUNG – CHÍNH CHUYÊN

Thực sự ra, anh em Biệt Kích ai cũng sẽ như tôi, cũng ray rứt khắc khoải nhớ thương bố mẹ, vợ con, anh chị em, và miền Nam trong tim, trong máu. Nhưng tôi phải thử xem sao. ”Dục tốc bất đạt” ông bà đã dậy mình.
Mấy ngày trước, có vợ của anh Đoàn Phượng (cưới được một tuần, trước khi anh ra Bắc) ra mãi Hồng Thắng để thăm chồng sau 15 năm xa cách. Thoáng nghe mà lòng tôi đã háo hức muốn gặp, muốn nhìn thấy chị Phượng, một người con gái Việt Nam đã cho tôi được hưởng nét tự hào của dân tộc tôi. Anh Đoàn Phượng là một Biệt Kích ra Bắc từ mồng 7 tháng 6 năm 1963. Toán của anh là Tellus, gồm 4 người. Anh là truyền tin trưởng của toán. (Chương trước tôi đã trình bầy)
Khi một toán Biệt Kích hay đi lẻ như tôi, nếu theo những quy định thời gian đưa và đón, mà không về thì thường được kết luận là mất tích. Cái từ “Mất tích” bao hàm rộng: có thể chết, bị bắt, trốn chạy v.v… Coi như không có ngày về, thế mới thấy rõ tấm lòng của chị Phượng. Tôi chưa hề thấy mặt, nhưng lòng tôi đã dạt dào ngưỡng mộ. Tôi đã sang buồng của anh Đoàn Phượng gặp anh, tôi đề nghị :
- Đây là một sự cao đẹp của tình người, đề nghị anh Đoàn Phượng, một buổi để chị vào hẳn công trường, gặp luôn một số Biệt Kích của chúng ta, và cũng để anh em Biệt Kích được nghe, được nhìn tận mắt sự sắt son của một phụ nữ Việt Nam. Cũng để cho cán bộ cộng sản, nhìn thấy cái truyền thống, của tình tự dân tộc thiêng liêng, cho lòng người nở hoa như thế nào.
Ngày hôm sau, anh Phượng cho biết được cán bộ trực, cho phép sáng thứ Bẩy, chị Phượng và bà mẹ sẽ vào công trường. Anh em Biệt Kích ai cũng nức lòng, chúng tôi tạo mọi điều kiện có thể, cho buổi trùng phùng cảm động này.
Giản dị mộc mạc như cuộc đời của chúng tôi, một gian nhà trống không có đủ bàn, chỉ có mấy cái ghế dài kê chung quanh sát vách. Một cái bàn mộc con ở giữa, với một tích trà (mượn được của ông cán bộ trực), hai bao thuốc lá Trường Sơn.
Hơn 2 chục anh em Biệt Kích quần áo nâu sồng, ngồi kín những chiếc ghế dài. Gần 10 giờ, anh Phượng dẫn chị ấy và bà cụ trên 60 tuổi chậm chạp đi vào. Chúng tôi không ai bảo ai nhưng đều đứng hết cả dậy, mặt hớn hở, mắt long lanh, tay vỗ đôm đốp, như hoan hô, chào đón.
Căn buồng tuy bé nhỏ, nhưng đã tràn ắp tình người, làm cho anh Đoàn Phượng, bà cụ và chị ấy cũng lúng túng. Tôi và mấy anh đã Sấn đến, đỡ bà cụ vào ngồi một chiếc ghế độc nhất, dành cho bà cụ. Nhiều anh em, râm ran ríu rít thăm hỏi bà cụ và chị Phượng. Lưng bà cụ hơi còng một chút, tóc đã “muối nhiều hơn tiêu” nhưng tinh thần của cụ còn tỏ ra rất nồng nhiệt. Không nồng nhiệt mà thân già, còn lẽo đẽo theo con gái lên mãi miền sơn cước này, để thăm một “chàng” con rể tù có cái dấu “không có ngày về“.
Chị Phượng chừng hơn ba chục, rất ít nói, không hiểu sao tôi nhìn đôi mắt của chị, nó ánh lên cái mầu của lá bưởi non. Cái màu của thủy chung, của nghĩa tình.
Chẳng được anh em chỉ định, nhưng có lẽ từ hôm qua, anh em thấy tôi lăng xăng nhiều, trong việc đón rước chị Phượng và người mẹ yêu quý của chị. Vả lại, nhìn toàn bộ anh em, không thấy ai tỏ vẻ muốn phát biểu một vài lời, với cụ và chị Phượng. Thôi thì từ lòng ngưỡng mộ của mình, tôi nhìn anh Phượng rồi đứng ra nói đại, dù đã biết mình không có khả năng ăn nói. Lâu ngày tôi không còn nhớ được nguyên văn nhưng nội dung như sau :
- Thưa cụ và chị Phượng, cháu chỉ là một trong những anh em Biệt Kích như anh Phượng, do lòng ngưỡng mộ cụ và chị Phượng, nên cháu nói vài ý kiến. Đêm qua, cháu cứ khắc khoải mãi mà không ngủ được, nếu cháu không nhìn thấy, nghe thấy bằng tai, bằng mắt thì cháu không thể tin, trong cuộc đời ngày nay, còn những tình nghĩa sâu nặng như thế này. Cụ và chị đã làm cho cháu yêu thương cuộc đời này nhiều hơn, vì nó vẫn còn nhiều tình sâu nghĩa nặng mà cháu chưa, hoặc không hiểu được!
Tôi quay hẳn về phía chị Phượng :
- Thưa chị, trước đây các bậc cha, anh đã viết, đã nói nhiều về sự thủy chung, của người phụ nữ Việt Nam. Xin chị cho tôi hỏi chị một câu, cứ sự thật nghĩ sao chị trả lời vậy…
Thấy chị Phượng gật đầu, tôi hỏi ngay điều tôi muốn :
- Biết bao nhiêu Biệt Kích đã chết rồi, nếu anh Đoàn Phượng đã chết, thì chả lẽ chị chờ mãi ư?
Chị quay lại nhìn anh Phượng rồi nhìn tôi, chị nói bình thản :
- Tôi không có chờ anh Phượng!… Mà tôi đã xác định “Nếu anh Phượng sống trở về thì tôi có đôi, nếu anh chết thì tôi ở một mình”.
Một hơi lạnh chạy lên gáy của tôi! Tôi quay về chỗ ngồi, hút hết hơi thuốc Trường Sơn, khi nãy còn bỏ dở. Anh em tiến đến thăm hỏi cụ và chị Phượng được biết thêm, khi nhận được thư anh Phượng gửi về, chị Phượng muốn ra Bắc ngay, nhưng vì thân gái một mình, chưa hề biết gì về miền Bắc cả. Để rồi bà cụ thương cảnh hẩm hiu, của con gái và người con rể. Anh đã chẳng vì hạnh phúc của mình, mà dấn thân vào chỗ chết! Ra đi không hẹn ngày trở lại! Nên dù tuổi già sức yếu, cũng quyết một lòng dẫn con gái đến một miền, mà chính cụ cũng chưa hề biết.
“Các quý vị chính trị của đảng cộng sảnVN có nghe thấy không?
Một phụ nữ vô danh, trong hàng triệu những phụ nữ tầm thường vô danh khác, đã thể hiện, đã nói lên cái từ tự hào thiêng liêng truyền thống của dân tộc, là thủy chung, chính chuyên. Sự kiện này đã diễn ra ngay trong lòng bàn tay của quý vị.
Tôi cũng là một người Việt Nam tầm thường vô danh, tâm thành thưa với quý vị: Ngày nay, quý vị đã có tất cả, những điều của một con người mong có. Quý vị còn hiểu quán triệt hơn tôi: Muốn được hạnh phúc thanh nhàn miên viễn, thì phải biết tự chế.
Hẳng các vị cũng đã tự thấy: Thủy chung, chính chuyên là một khái niệm trong xã hội Việt Nam hiện nay; nếu không nói là không còn nữa, thì cũng đã bị chuyển đổi nội dung. Với riêng cá nhân tôi, đã qua, hiện nay và sau này, quý vị chủ trương ngược xuôi thế nào là quyền của quý vị, nhưng quý vị không thể phủ nhận được: Quý vị và tôi cũng là người Việt Nam.
Kính chào quý vị”
Xin phép quý vị độc giả (Để giải lao vài chục phút)
Cũng trong một lúc giải lao tình cờ khi ngồi viết, tôi rút một cuốn sách trong tủ sách. Mở đọc một trang. Tôi đọc, càng đọc, một sự ngờ vực đã cuộn lên trong lòng, chỉ cần thay đổi một vài tên nhân vật, cơ quan thì rõ ràng đây là của Thiệu + Kỳ, của một chính quyền mà các “ông” VC vẫn gọi à Ngụy quân, ngụy quyền tay sai bán nước v.v…
Tôi xin phép ông Bùi Tín, trích nguyên văn một đoạn tang 78-79 của Hoa Xuyên Tuyết:
“Bộ Chính Trị được họ xí những nhà sang trọng nhất ở TP HCM, Đà Lạt, Vũng Tàu, Nha Trang ….họ dành những biệt thự loại A1 cho Bộ Chính Trị, thường là cho từng ủy viên Bộ Chính Trị. Đó là nhà của anh Ba, anh Năm, anh Sáu… thường là đóng im ỉm, có người quét dọn, trông coi quanh năm, những “ông chủ” chỉ dạo qua vài ngày trong cả năm!
Ở khu vực Quảng Bá bên Hồ Tây, nhà họp con Rùa (mái nhà hình mai rùa) với hơn một chục biệt thự vây quanh là một khu cấm, canh ác cẩn mật. Nhà họp Con Rùa ấy trên công văn của văn phòng Trung ương mang tên nhà họp của Bộ Chính Trị. Mỗi biệt thự đều mang những tên ông chủ của nó: 12 hay 14 ủy viên BCT đương chức. Từ năm 1988, nó đã được chuyển thành cơ sở kinh doanh du lịch của Công Ty Hồ Tây do Ban quản trị Tài chính trung ương Đảng quản trị để kiếm lời.
Phía Bắc thành phố HCM, vùng Tân Uyên thuộc tỉnh Sông Bé có một khu rừng cao su rộng xen với những bãi đào lộn hột. Đây là khu săn bắn rất được ưa thích của các quan chức cơ quan thành ủy TP HCM. Mỗi khi có khách trung ương vào hay ở thành phố lên là cả vùng nhộn nhịp hẳn lên . Giám đốc nông trường cao su phải huy động từ hai đến bốn đội sản xuất bỏ công việc của mình đi lùa thú rừng vào “bẫy” cho các cụ bắn. Các quan chức cấp cao ngồi trong những ngôi nhà nhỏ lợp tranh chống nắng, giương súng giữa những quay rượu quý và những làn khói thuốc lá thơm để hạ thú: lợn rừng, nai, chồn, cầy hương, kỳ đà…Quanh những ngôi nhà ấy là suối tự nhiên. Chiếc cầu gỗ nối liền căn nhà được kéo lên để bảo đảm an toàn khi các nhà “thiện xạ” đã yên chỗ. Một kiểu đi săn quý tộc. Quý vị đâu có cần biết anh chị em công nhân nông trường vất vả ra sao, nông trường bị lỗ lãi thêm như thế nào do phải phục vụ những “đầy tớ của nhân dân” theo kiểu như thế, giữa sự đói nghèo đến cùng cực của đồng chí, đồng bào. Lại có kiểu đặc quyền đặc lợi do dưới thực hiện với trên đã thành nếp. Trước khi đoàn của Tổng Bí Thư và gia đình rời Đà Lạt, tỉnh ủy Lâm Đồng tặc cho tất cả các thành viên của đoàn hơn 30 người, mỗi người một gói quà khá lớn, có chè Bảo Lộc, cà-phê Buôn Mê Thuột, rượu bổ cùng mấy gói cao ác-ti-sô. Phu nhân, con trai, con gái cho đến cháu nội, cháu ngoại … mới 3,4 tuổi của lãnh đạo đều có phần của mình như nhau. Các cậu ấm, cô chiêu vừa ngỏ ý muốn nếm thịt rừng là ngay đêmấy Văn Phòng Tỉnh Ủy cử ngay một số đi săn, băng rừng lợi suối cố lôi về một con hoãng.”
(xin trở lại Thép Đen)
Trong hơn 2 chục anh em Biệt Kích cùng tiếp đón bà cụ và chị Đoàn Phượng, có một cậu mặt còn non choẹt “búng ra sữa”. Thấy hơi khác thường tôi đã gọi em ra riêng, lúc buổi gặp chị Phượng đã vãn. Em đã ngập ngừng, ngượng nghịu đỏ mặt, trong khi truyện trò, ân cần thăm hỏi của tôi. Em tên là Lê Trung Tín, khi gia nhập và được huấn luyện trở thành một Biệt Kích nhẩy Bắc em mới có 17 tuổi, hiện nay em đã 27 tuổi rồi. Sau buổi tâm tình với em, tôi biết sơ lược toán của em là Red Dragon gồm 7 người:
1. Phạm Ngọc Anh, được tha về, đã chết ở Sài Gòn.
2. Phạm Xuân Kỳ. Toán phó truyền tin. Hiện nay ở tiểu bang Texas.
3. Nguyễn Thái Kiên. Hiện nay ở Atlanta.
4. Phạm Ngọc Khánh. Hiện nay ở Boston MA.
5. Vũ Sử. Hiện nay ở Washington.
6. Nguyễn Hữu Tấn. Hiện nay ở California.
7. Lê Trung Tín. Mới nhất hiện nay (2004) nghe nói đã đến Colorado.
Ra Bắc ngày 21-9-1967. Địa bàn hoạt động tại Hà Giang. Dù toán của em ra Bắc muộn, nhưng cũng đã ở tù hơn 10 năm rồi. Em rất thân với Vòng A Cầu.
Sau nhiều ngày suy nghĩ, cân nhắc, hơn nửa tháng trước tôi đã làm một lá đơn xin đi phép 2 tuần về Hà Nội thăm bà Dì và mấy người em. Tôi đã nộp đơn lên Ban Gíam Đốc của công trường, cũng đã hơn nửa tháng mà đơn vẫn chưa được trả lời, là được chấp nhận hay không? Qua nghe ngóng Gíam Đốc T.B. Oanh đã công tác về Hà Nội.
Tôi nghe một vài nguồn tin của người dân Bắc Ngầm: trong Nam cộng sản đã đuổi và cho người Hoa trở về Trung Quốc. Rồi khoảng đầu tháng 2-1978, chính cậu Lê Trung Tín và Vòng A Cầu đã đi đâu, 9 giờ tối cũng không có mặt, theo nội quy của công trường. Một buổi chiều, sau giờ lao động ở lán mệt nhọc, tôi trở về công trường, vừa tắm rửa xong. Một em hình sư, đến bên tôi nói nhỏ :
- Bẩy giờ tối nay, anh ra chỗ gốc cây Sồi ở ngã ba, có người muốn gặp anh.
Phần vì vừa tắm đang vội về, để ra chỗ anh Tâm y tá công trường xã hội (CTXH) đã hẹn từ hôm qua. Phần khác trời đã hơi cập quạng, nên tôi đã không nhìn rõ cậu em hình sự đã nói với tôi. Tôi thấy dù sao cũng không thể ra gặp Tâm (chuyện trò bình thường). Hôm nay phải ra xem ai cần gặp tôi lúc 7 giờ tối nay? Nhiều băn khoăn cũng không thể dự đoán được, vậy chỉ còn cứ đi sẽ biết. Cũng chẳng xác định được hướng lành dữ ra sao! Nhưng bản tính, dù ngược hay xuôi thì chỉ thêm cho sự kích thích, của lòng tôi hơn.
Trời tối, tôi đánh bộ đồ nâu sồng công nhân, mò ra chỗ hẹn. Chủ trương của tôi là ra sớm, ra trước giờ hẹn, rồi tìm vị trí thích hợp kín đáo ngồi chờ, chủ động quan sát để biết người muốn gặp mình là ai?
Không có đồng hồ, nên chỉ dự đoán theo giờ của cái đồng hồ ở công trường, có thể sẽ sai, đúng 5-10 phút. Tôi ngồi đã ê cả chân trong một bụi cây con, xa chỗ gốc cây Sồi đến gần 100 mét. Trong ánh sáng cập quạng của núi rừng tối muộn, tôi vẫn còn nhìn thấy gốc cây Sồi sơn mầu trắng, theo quy cách của thời Pháp thuộc. Chừng mươi phút sau, có bóng một người đi xe đạp từ phía Bắc Ngầm đi tới. Cũng may, từ công trường ra, tôi đã đi qua cây Sồi mới ngồi chờ, tôi cố nhìn theo bóng người đi xe mà tôi đã hơi ngờ ngợ. Đúng như rằng, người đó dựng xe đạp vào gốc cây rồi bước ra giữa đường. Tôi hơi giật mình, vì bóng đó ra giữa đường nên tôi thoáng qua dáng dấp quen quen. Ồ…. Sín Lồ! Sao lại kỳ lạ như thế! Sín Lồ là tiểu đội trưởng du kích của Bắc Ngầm, tuy có hiện tượng là câu chuyện tấm hình của HCM bị lệch. Nhưng có gì đến nỗi hôm nay đến hẹn gặp tôi như thế này? Đã quan sát rồi, chỉ có một mình Sín Lồ.
Tôi chờ anh ta quay mặt về phía công trường, tôi lách vội ra đường, như một người đang đi trên đường. Coi như không để ý đến người đứng ở một gốc cây, mặt tôi nhìn chéo với gốc cây 45 độ, theo dõi thái độ của Sín Lồ. Cậu ta đã nhìn thấy tôi, và tiến ra, vậy thì tôi tiến vào, và vồn vã :
- Sao lạ thế! Có cái gì mà phải hẹn ra đây? Cậu chỉ cần nhắn là tôi sẽ ra tận…
Cậu ta đã ngắt lời tôi, ra hiệu tay nói nhỏ! Rồi cậu ghé gần tôi vẻ thân mật :
- Anh có đi TQ không? Sẽ đi với một người nữa cũng ở công trường.
Tôi đã chợt thấy có vấn đề, tôi định hỏi với một người nữa là ai ở công trường? Thì Sín Lồ đã nói vẻ vội vàng :
- Nếu anh đồng ý đi, từ 9:30 đến 10 giờ tối mai, anh ra đây sẽ có người đưa đi!
Nói rồi, Sín Lồ đập nhẹ vào vai tôi như từ giã. Cậu ta nhẩy xe đạp đi ngược, về phía Bắc Ngầm.
Tôi bần thần cả người trên đường đi về công trường. Không biết người kia là ai, để từ đấy phần nào thấy về hướng nào? Là chính trị hay hình sự? Nếu chính trị thì Biệt Kích hay chính trị địa phương? Và điều quan trọng nhất: Sự việc này thật hay giả? Có bàn tay đen nào nằm trong vụ này không?
Đêm hôm ấy và ngày hôm sau, trong lòng tôi như có một trận bóng đá Quốc Tế, với những cú lách, lừa nhè nhẹ, nhưng có những cú “sút” sấm sét như “căng chỉ” làm bàn. Bao nhiêu phán đoán, bao nhiêu giằng co, bao nhiêu rụt rè e sợ, nhưng cũng bao nhiêu liều lĩnh coi trời “bằng vung”.
Có những lúc tôi đi thơ thẩn, lang thang ở cả hai căn nhà. Nhìn người này, rồi nhìn người kia để từ đấy có cảm nhận một hiện tượng gì làm cơ sở. Tôi đã nhìn thấy cả cái cậu tên Công, đã có lần hỏi tôi, nếu tôi nhận thì cậu sẽ “xong ngay”
Nhưng quan sát hàng chục bộ mặt đã thấy không phải đối tượng, mà tôi đang cần tìm. Tôi cũng muốn tìm lại cái cậu hình sự đã hẹn cho tôi gặp Sín Lồ. Nhưng như tôi đã nói rồi, chiều hôm qua tôi thật vô tâm, không còn nhớ được dáng dấp và hình hài bộ mặt chút nào.
Để rồi thật buồn cười như câu chuyện “mất búa” trong “Đắc Nhân Tâm” của Dale Carnegie. Xin phép quý vị, (tôi đọc trước khi tôi bị tù), khi ấy tôi 19 hay 20 đã đọc rồi. Tôi xin sơ lược lại cho những vị chưa đọc. Nội dung như thế này:
“Có một ông chăm chỉ làm ăn, một hôm có một cậu bé hàng xóm sang chơi đùa với con ông. Nhưng ngày hôm sau, ông có cái búa con, ông vẫn thường dung hàng ngày để đóng đinh, bây giò không tìm đâu ra cho thấy. Suy nghĩ hết mọi lẽ, chỉ thấy có cậu bé hàng xóm hôm qua sang chơi, là đáng nghi ngờ hơn cả. Ông đã tìm, đã hỏi tất cả người nhà của ông rồi.
Ông cũng thấy cậu bé hàng xóm đó lanh lẹn và đôi mắt sáng lắm! Hôm nay cậu bé lại sang chơi! Đã có chủ trương rồi nên ông để ý mọi vấn đề. Từ nét mặt, từ dáng đi, từng cử chỉ chạy ra chạy vào trong nhà ông, nét nào của cậu bé cũng là nét của thằng ăn cắp. Nhất là đôi mắt, sao mà gian xảo thế, liếc nhìn ông nhanh như cắt. Ông càng khẳng định hơn, chờ dịp ông bắt quả tang mà thôi. Ngày hôm sau, ông có dịp với tay lên nóc tủ áo của ông để lấy một đồ vật, ông đã sờ thấy cái búa mà ông đã tưởng cậu bé hàng xóm lấy mất.
Trở lại buổi hẹn với Sín Lồ, cho đến chiều ngày hôm sau (cái buổi chiều có cái hẹn tối 9:30 đến 10 giờ). Tôi đã xác định như sau: Với cái tuổi của mình thì việc gì cũng còn dài, sự việc nào không rõ ràng, nhiều mơ hồ thì đừng có vội vàng hấp tấp, và tôi đã bỏ buổi hẹn. Cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa quên buổi hẹn ngày ấy.

 
14. VÀO LỒNG NHỎ

Sáng ngày hôm sau, thì thấy mất Lý Cà Sa. Và ngay chiều ngày hôm ấy; gần giờ tan tầm, tên cán bộ Thành phụ trách đội mộc của công trường đến ngồi nói chuyện với tôi. Y nhìn tôi đang thao tác lắp cái giường đôi, cho vợ chồng một tên cán bộ khác, ở bên trại tù. Chuyện trò cười nói rôm rả, đến chỗ cắt 5 cái thang giường, để 2 cái vỉ giường, cho giải chiếu. Công việc cắt cái đầu thang giường này không phải thợ học nghề, mà ai cũng có thể cắt được. Nhưng, có thể do đầu óc tôi quá nhiều sự việc căng thẳng từ hôm qua, hoặc có thể mải vui câu chuyện với tên cán bộ của đội mộc. Tôi cắt hụt chừng 3 phân một cái thang giường, tên Thành đứng dậy gào to:
- À anh Bình, muốn phá hoại tài sản công trường, của nhà nước à?
Tôi ngửng lên nhìn y, tôi còn tưởng y nói đùa; nhưng nét mặt của y đã trả lời là nói thật. Thấy thế, tôi cười nói như diễu cợt :
- Cắt cái thang giường mà ông cho là phá hoại, nó chỉ…..
Y đã đứng dậy ra phía ngoài cửa, một tên công an võ trang đeo súng theo y tiến vào.
Tên cán bộ nói líu nhíu :
- Anh bị bắt sang trại tù! Anh theo vũ trang về trại.
Như thế là họ đã chuẩn bị sẵn từ trước, chỉ có tôi mới “tồ” nên bất ngờ mà thôi! Tôi theo tên công an vũ trang ra cổng lán mộc, trước những con mắt mở to của các anh em Biệt Kích khác. Đúng như lời dậy của cổ nhân: Chỉ có chữ “bất ngờ” cho tới già vẫn chưa ai học hết được!
Đã rõ như ban ngày là họ có chủ trương bắt tôi trở lại tù, dù tôi chẳng có vi phạm điều khoản nội quy nào của công trường, mà chính họ đã đặt ra, như Hiến Pháp của họ, cho đất nước. Tên công an võ trang dẫn tôi về công trường lấy chăn màn, quần áo để sang trại tù. Khi bước vào cổng trại tù, đã thấy tên cán bộ trực trại chờ sẵn ở căn buồng con, cạnh cổng vẫy tay. Tôi ôm chăn màn và chiếc hòm con đi theo, y bắt tôi mở hòm ra, lục tung khám xét mọi thứ. Tất cả thư từ, hình ảnh của cá nhân, hay bất cứ giấy tờ gì, y giữ lại hết, tôi phản đối :
- Thưa ông, thư từ hình ảnh là của thân nhân tôi, ở các trại tù khác, các cán bộ đã duyệt xét rồi!
Qua một vài nét tôi hiểu: đây không phải do y, mà y chỉ thừa lệnh; vì thế y chỉ cộc lốc :
- Không được! Phải duyệt xét lại!
Y ra hiệu tay, tôi ôm vật dụng theo y vào một căn lán trại tù. Y chỉ tay lên một chỗ ở sàn trên :
- Chỗ anh nằm đó!
Đây là khu hình sự, trại chưa đi lao động về; chỉ lèo tèo vài người ốm bệnh ở nhà. Tôi còn đang sắp xếp lại quần áo của tôi, sau khi đã bị lục tung, thì trại ầm ầm huyên náo. Tù đã đi lao động về.
Cái đêm hôm ấy trời lại mưa to tầm tã, sấm chớp ầm ầm. Nằm nghe sấm sét, gió mưa gào thét ngoài núi rừng, hình như cũng có một trận gió mưa tầm tã khác, đang diễn ra trong lòng tôi. Rũ rượi rồi tôi lịm dần vào giấc ngủ muộn, đầy khắc khoải. Gần sáng, giòng tư tưởng của tôi chợt ghé đến cụ: Tam Nguyên Trần Bích San với tư tưởng khích lệ, trác tuyệt của cụ:
Địa vô Sơn Thủy, phi kỳ khí.
Nhân bất phong sương, vị lão tài.
Xin phép tạm chuyển dịch: (Đất mà không có núi, có sông thì đâu có lạ kỳ, đâu có đẹp. Con người mà không từng trải thăng trầm gió, mưa thì làm sao có chí lớn, tài cao?) Có lẽ vì trong lòng tôi đã nhão nhoẹt nhiều quá, nên tôi tìm đại câu trác tuyệt của ông cha làm “cứu cánh” để tự an ủi mình, trong lúc buồn nản này. Tuy thế, tôi cũng tâm thành cảm tạ cụ Tam Nguyên Trần Bích San.
(Đến đây tôi xin phép quý vị độc giả năm, mười phút để nói về cụ Tam Nguyên Trần Bích San. Cũng là thể hiện sự tôn trọng các quý vị)
Từ một tâm niệm học hỏi, những kiến thức hữu ích, của nhân loại, tôi đọc bất kỳ một tư tưởng, một phát kiến uyên bác ở sách nào, báo nào, tôi đều thường ghi nhận. Tôi là thế hệ con cháu được thừa kế, ứng dụng, trong cuộc sống. Cái câu thâm thúy:“Địa vô Sơn Thủy, phi kỳ khí. Nhân bất phong sương, vị lão tài.” tôi đọc được trong một tờ báo, khi tôi còn ở trong tù. Tờ báo đó ghi tác giả là Tam Nguyên Trần Bích Lan. Câu nầy thật là thần kỳ, đã an ủi, thúc đẩy tôi khi lòng tôi nhão nhẹt, ủ rũ, vì VC bắt tôi vào tù trở lại.
Ngày nay tôi viết hồi ký TĐ, tôi chợt nhớ thầy Trần Bích Lan (nhà thơ Nguyên Sa) đã dạy tôi nhiều giờ Việt văn ở năm Đệ Nhị chuyên khoa 1958, trường trung học Nguyễn Bá Tòng Sàigòn, như vậy phải chăng có hai ông Trần Bích Lan? Tôi không có điều kiện tra cứu ở các thư viện, tôi phải thăm hỏi những bạn già trên 70 tuổi ở nhiều nơi, cả ở Pháp và Úc. Tất nhiên những bạn ấy, đều ít nhiều có Hán học chứ không phải mấy anh Tiến sĩ Tây học hay Mỹ học. Các anh đều lơ mơ nhưng đều xác quyết như tôi, là dứt khoát không phải của ông Trần Bích Lan (Nguyên Sa). Bởi vì từ khi Pháp đô hộ, thì còn làm gì có thi Hương, thi Hội, thi Đình để có cái Tam Nguyên như của cụ Tam Nguyên Yên Đổ?
Tôi đã định sửa lại chung chung là :”một câu trác tuyệt của người xưa”, nhưng tình cờ nói chuyện với một anh bạn già nữa là anh Nguyễn Văn Vĩnh, cùng khoá 11 Thủ Đức ở TX (anh cũng là một cây Nho xanh rờn). Anh hứa sẽ hỏi ông anh ruột (cụ Đào Nguyên Nguyễn Văn Nguyện) có quen với ông Trần Bích Lan (Nguyên Sa) và tôi đã được chi tiết rõ ràng:
Cụ Tam Nguyên Trần Bích San biệt hiệu Mai Nham, danh sĩ triều Nguyễn (1839-1977) là con của cụ Phó Bảng Trần Doãn Đạt. Cụ người làng Vị Xuyên (cùng làng với cụ Trần Tế Xương), Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cụ đỗ dầu khoa thi Hội ở Huế 1865. Vua Tự Đức rất thương mến ban cho biệt hiệu là Trần Hy Tăng (Vương Tăng, Trung Quốc). Về sau cụ được thăng tri phủ Thăng Bình năm Tự Đức 20. Năm 1870 cụ đi sứ Trung Hoa, rồi được cử đi sứ nước Pháp. Khi cụ trở về được thăng tuần phủ Hà Nội. Cụ cũng để lại cho đời tập Mai Nham Thi Khảo (Xin các quý vị có tư liệu về cụ Tam Nguyên Trần Bích… chỉ giáo. Xin cảm ơn quý vị và trở lại Thép Đen)
Tinh thần của tôi như vừa được uống một liều thuốc tăng lực, để tỉnh táo xét suy: Chắc chắn họ không để tôi ở khu hình sự này lâu. Có lẽ vì họ được lệnh bất chợt, sợ đưa tôi vào khu Biệt Kích (khu Biệt Kích chỉ cách một hàng rào nứa) sẽ làm hoang mang, ảnh hưởng đến tinh thần của họ? Hay vì lý do khác, làm sao tôi biết được?
Đêm qua nằm nhẩm tính, tôi ra khu công nhân Hồng Thắng, chừng hơn 5 tháng đã lại bị bắt vào trại tù rồi. Đúng một tuần sau, tên trực trại vào gọi tôi ôm chăn chiếu sang khu Biệt Kích bên cạnh. Y chỉ cho tôi một chỗ cũng ở sàn trên và cũng câu nói của tuần trước, y đã nói với tôi bên khu hình sự :
- Chỗ anh nằm đó!
Tôi đã suy đoán không sai, lại được về tù chung với anh em Biệt Kích, như hơn 6 năm xưa.
Buổi trưa, trại về anh em chạy đến thăm hỏi tíu tít. Toán trưởng vẫn là Trương Bá Ngữ, toán phó là Nguyễn Xuân Sang. Quách Rạng đã ghé tai tôi nói nhỏ :
- Chúng tôi đã biết anh sẽ về đây, 2 ngày rồi!
Tôi còn đang ngạc nhiên, chưa kịp hỏi: Sao mà biết? Thì Rạng đã nói như trả lời :
- Lê Văn Kinh cũng đã bị bắt vào 2 ngày trước! Cả Nguyễn Cao Sơn cũng mới vào hôm qua. Cả hai còn nằm rũ ra kia kìa!
Có Kinh và Sơn cũng bị bắt vào, tôi hơi suy đoán ra: Đây là 3 tên (theo cái nhìn của cộng sản) nguy hiểm hơn, so với một số anh em Biệt Kích ở công trường. Tình hình, có biến chuyển thế nào cứ “vồ” 3 tên này trước đã.
Vụ việc của Lê Văn Kinh Người Nhái phá tàu ở sông Gianh 1962 tôi đã tường thuật rồi, còn toán Biệt Kích của Nguyễn Cao Sơn. Tôi nhớ trước đây có tìm hiểu về toán này, tôi chỉ biết sơ lược, bởi vì toán Biệt Kích này có một vài sự việc không bình thường, cho nên anh em trong toán đó không muốn nhắc lại, vì thế nên ít người biết chi tiết.
Tên toán là STRATA 120. Toán Biệt Kích của Nguyễn Cao Sơn tên là STRATA 120. Ra Bắc ngày 14- 5-1968, toán gồm 6 người.
1. Nguyễn Đình Lánh một chuẩn úy là toán trưởng (đã chết).
2. Trần Quốc Quang, toán viên.
3. Trương Nàm Tráng toán viên (người Việt gốc Tàu).
4. Nguyễn Ngọc Anh,
5. Nguyễn Như Ánh hiện nay ở Chicago.
6. Nguyễn Cao Sơn cũng là một chuẩn úy của trường Thủ Đức.
Chính vì một toán Biệt Kích lại có 2 chuẩn úy nên mới xẩy ra nhiều chuyện đáng tiếc sau này, khi vào vùng hoạt động mà đã bị lộ. Hiện nay, Nguyễn cao Sơn đã tới Mỹ, nhưng tôi không rõ tiểu bang nào.
Mấy ngày nói chuyện với Quách Rạng tôi cũng có hỏi sơ sơ được biết: Toán của Quách Rạng là GRECO ra Bắc ngày 14-11-1964. Toán gồm có 7 người:
1. Đinh Công Bích, Toán trưởng. Dân tộc Mường. Bích là Trung úy (xuất thân trường Võ Khoa Đà Lạt, rớt ra chuẩn úy). Chết năm 1979 tại trại Tân Lập (vợ có được lĩnh tiền của bộ quốc phòng ở Mỹ).
2. Bùi văn Cởi (chết trận).
3. Quách Hinh, truyền tin phó, hiện ở Atlanta, Hoa Kỳ.
4. Đinh thế Hùng, Truyền tin (chết ở trại Vĩnh Quang 1968).
5. Đinh công Ngọc, Truyền tin trưởng. Hiện ở Chicago.
6. Quách Rạng hay Quách Thái Bằng, phụ tá toán trưởng. Hiện ở Atlanta.
7. Quách Công Tiếng (Hạ), toán phó phá hoại. Hiện ở Atlanta.
Gần một tháng sau, những tin rỉ ra từ hướng này, hướng kia tôi biết là Vòng A Cầu ở toán Biệt Kích CANCER đã rủ Lê Trung Tín của toán RED DRAGON chạy sang Trung Quốc. Rồi sau đó kéo thêm Lý Cà Sa nữa.
Sau này nghe dư luận Lý Cà Sa có cầm quân Trung Quốc đánh sang tỉnh Lào Cai, trong đợt Trung Quốc vượt biên giới tấn công VN để dậy cho cộng sảnVN một bài học 17/2/79. Còn Vòng A Cầu, nghe đâu vẫn còn ở bên Trung Quốc thuộc tỉnh Quảng Đông? Riêng Lê Trung Tín hiện nay đã ở Mỹ nhưng tôi cũng chưa rõ ở tiểu bang nào? Mới đây, 12/2004 tôi nghe nói loáng thoáng: Tín đã từ Trung Quốc vượt trở về Việt Nam, rồi đi HO. sang Mỹ. Ở Colorado.
Bản thân tôi cũng đã nhiều đêm ngày tâm tư bị bóp nặn, giằng co: Nếu buổi hẹn 9:30-10:00 tối hôm ấy ở ngã ba cây Sồi, tôi thực thi lời hẹn thì sao? Thì có muôn ngàn tình huống tôi không thể biết. Nhưng có một tình huống tôi biết chắc: Tôi không được cái vinh dự, ngồi viết những dòng tường thuật này, để các quý vị độc giả nhìn lại một vài góc cạnh của một cuộc chiến “nồi da, nấu thịt”. Và một góc đen tối, ở phía Bắc quê hương thương đau của chúng ta.
Tôi bị bắt trở lại chừng gần 2 tháng. Một buổi sáng sớm khoảng 4 giờ, trật tự và cán bộ đã mở cửa vào buồng. Tuyên bố tất cả mọi người chuẩn bị công tư trang để chuyển trại. Mười lăm phút sau tất cả tù đều phải ra ngoài. Như một đàn gà được chuyển chuồng, rầm rập chạy lên, chạy xuống, chạy ngược, chạy xuôi, đôn đáo ai cũng tự lo cho mình. Cán bộ lại mở cửa, lần lượt hàng đôi ôm đồm chăn chiếu tiến ra sân.
Trời còn tối đen, ở sân đã có 2 chiếc xe chở khách đã tã, mầu sơn long lở. Cán bộ nhà bếp, trật tự và một anh bếp hình sự gánh đến một gánh bột mì luộc, lần lượt phát theo hàng mỗi anh một miếng mì luộc, chừng gần 2 lạng trong miếng lá chuối. Hơn 8 chục Biệt Kích chèn nhét lên hai chiếc xe thời cà cộ.
Chẳng một ai biết là sẽ chuyển đến trại tù nào? Riêng tôi cứ băn khoăn ngẩn ngơ. Như thế là tất cả: hình ảnh, thư từ, giấy tờ đã bị họ tịch thu khi bị bắt vào, bây giờ chuyển trại là coi như mất tiêu hết.
Tiếc nhất mấy tấm hình anh Tâm y tá chụp cho. (Sau này không ngờ Lê Văn Kinh, lại không bị tịch thu, Kinh còn giữ được, ở Florida, Kinh đã gửi cho tôi). Chả cần tường thuật lại cái cảnh 2 người một khóa của cuộc chuyển tù, biết bao khó khăn, khổ cực trong những sinh hoạt cá nhân. Tâm trạng người nào cũng ngơ ngác như đi giữa sa mạc, chẳng biết một hướng nào và về đâu?
Tôi cố căng mắt nhìn cảnh vật, vận dụng cái trí óc của người rừng dân tộc để suy đoán. Quá trưa, chúng tôi đã xác định xe ngắc ngư bò về miền xuôi. Tôi cũng thấy hơi lạ, đã từ hàng chục năm xưa tù chỉ có chuyển về miền ngược, miền núi rừng, giờ đây lại chuyển tù xuôi về đồng bằng. Do đều không biết nên anh em suy đoán linh tinh, tỉnh nọ, tỉnh kia, trại nọ, trại này v.v…
Gần chiều muộn hai xe ngừng lại trên một con lộ ở giữa cánh đồng lúa. Nhìn xa xa chung quanh là những xóm giềng của những nhà tranh và những lũy tre làng. Mươi phút sau, hai xe lại bắt đầu chuyển bánh. Đến một ngã ba, có một con đường đất rẽ vào làng, xe tiến vào. Đã có nhiều kinh nghiệm ở những nhà tù miền Bắc. Miền xuôi, thì phải có tường xây cao kiên cố, như Hỏa Lò chẳng hạn. Vì thế khi được lệnh của các cán bộ, có súng có ống bảo, tất cả xuống xe. Chúng tôi hầu hết đều ngỡ ngàng e ngại, chẳng lẽ họ cho chúng tôi đi ngủ, ở giữa cánh đồng này?
Tay bị khóa, và ôm vác trong cánh đồng chiều, theo các ông súng ống. Đi hàng đôi, chừng 5 – 600 mét, chúng tôi đã nhìn thấy những bức tường xây ẩn trong những lũy tre cao. Càng gần đến, càng thấy cái bề thế, của một trại tù lớn trong lũy tre, lại ở giữa một cánh đồng lúa đã chín vàng. Văng vẳng tiếng ễnh ương, tiếng côn trùng nỉ non, của đồng nội quê nghèo.
Vào đến trong trại, khi đã được mở còng tay, mới càng thấy qui mô của cái trại. Rất nhiều khu nhà xây, tường xây cao với những mảnh chai, dây điện chăng, cắm phía trên. Chúng tôi được dẫn vào một khu phía trái, trong một căn nhà xây, cũng sàn trên, sàn dưới bằng gỗ như của một trại tù miền ngược.
Điều đặc biệt vui là gặp lại mấy chục anh em Biệt Kích, ở trại I Lào Cai từ đầu 1972, chuyển đi trại Hoành Bồ Quảng Ninh. Anh chàng Nguyễn Huy Lân “mều” và Hoàng Mạnh Hùng cứ nắn, bóp tay tôi ríu rít. Lân Mều mở to mắt đập tay vào vai tôi :
- Sao chúng mày lại về đây?
Chẳng ai trả lời! Vả lại làm sao biết mà trả lời. Chỉ một lúc sau, chúng tôi đã biết: Đây là trại T 52 Hà Sơn Bình. Có rất nhiều quân cán của chính quyền VNCH bị giam giữ tại đây. Hàng chục năm mới gặp lại nhau, với bao nhiêu diễn biến của quê hương: Hội nghị Paris, Sài Gòn bị “đứt phim”, rồi mỗi cảnh đời tù của mỗi phía để trao đổi, hàn huyên. Xin xếp lại đấy, hãy nói những điều hiện tại và phía trước đi tới.
Tôi, Kinh và mấy anh em nữa được phân về đội mộc của anh chàng Lân “Mều”. Kể cũng lạ, hàng chục năm, ngay từ đầu 1968 đến giờ 5 lần, 7 lượt chạy nhiều hướng tù, mỗi người mỗi lối, cuối cùng vẫn anh chàng “Mều” này làm đội trưởng.
Trước đây gọi là toán, bây giờ đổi là đội. Chuyện lớn đổi thay, chuyện nhỏ cũng thay đổi. Đổi thay luôn luôn, tên nước, tên Đảng, tên cơ quan, tên tổ chức, kể cả hiến pháp. Từ đấy, bây giờ họ đặt là thành phố HCM, rồi đây ai cũng thấy một ngày nào đó, sẽ đổi thành một cái tên khác.
Cho nên ví tượng trưng chế độ cộng sản = con Bồ Nhông thì cũng không sai. Con Bồ Nhông luôn luôn thay đổi mầu, theo thời tiết và ánh sáng. Sáng, trưa, chiều, tối, nắng, mưa v.v…
Vì sao và mục đích nó phải thay đổi mầu, để làm gì? Hỏi để mà hỏi, chứ ai cũng trả lời được, vì ai đã ở nhà quê hay miền rừng núi, cũng ít nhiều thấy nó rồi.
Con bồ nhông phải thay đổi mầu của nó, chỉ vì muốn làm mờ mắt:
1/ Đối thủ: Thằn lằn, tắc kè, bọ cạp, rắn mối v.v… (Những nước nào? Những đối tượng nào? Tự suy).
2/ Kẻ đại thù, kẻ muốn xơi thịt nó: Diều hâu, cú mèo, quạ đen, hải âu v.v… (Nước nào, người nào. Tự thấy).
3/ Con mồi: Cào cào, dế, bọ xít, bọ ngựa v.v… (Nước nào, đối tượng nào. Tự suy ngẫm).
Không những làm mờ mắt các đối thủ, kẻ đại thù mà còn làm mờ mắt các con mồi của nó. Con nào nó đang ăn và sẽ ăn, chính con mồi cũng không hề hay biết. Cho nên, xin đừng coi thường, để rồi quên đi: dù nó có thay đổi như thế nào, nó vẫn là con bồ nhông mà thôi.
Tôi theo đội mộc của Nguyễn Huy Lân đi làm. Ra khỏi cổng trại rẽ về phía trái chừng 250 mét là tới lán mộc. Lán mộc ở đây cũng lợp ngói kiểu nhà “kiến thiết cơ bản” nhưng vách, tường không có. Toàn bộ lán chừng 2 chục cái cầu bào, cho những người thợ chính.
Cán bộ đội mộc, tôi đã thấy từ khi y vào khu Biệt Kích trong trại. Da y trắng trẻo, tôi cứ có cảm tưởng y là loại “tạch tạch sè” (tiểu tư sản) vậy mà y lại có cái tên là Hồng Thắng Tài. Ngay cái tên y cũng đã thấy khái niệm. Không biết do bố mẹ y đặt, hay y tự chọn lấy sau này? Đầy nịnh bợ và cũng tràn ắp lòng tin vào “chiếc bánh vẽ” của cộng sản. Một lòng theo Đảng, thì còn hơn là người có tài. Lân đã biết khả năng nghề nghiệp của tôi, và đã trình bày với tên Tài. Tên Tài đã phân công cho tôi, đóng một chiếc ghế lệch kiểu Đức.
Ngay buổi chiều hôm ấy, đội mộc ra khỏi lán trở về phía trước cổng trại. Một cảnh tượng đã hằn vào lòng tôi, đã cuốn chặt vào hồn tôi cho tới bây giờ, vẫn chưa lơi lỏng. Cả một cái sân lớn phía trước cổng trại, ngồi kín những binh lính của VNCH, quần áo rằn ri hoặc xám, chỉ có khác là không có súng ống. Lẫn vào đây đó có những tên áo vàng (cán bộ) và mầu xanh đeo súng là những tên công an võ trang. Nhìn chéo ra những cánh đồng lúa, trên những con đường đất dẫn về cổng trại, thỉnh thoảng một đoàn quân đội VNCH xếp hàng đôi tiến về cổng trại, theo sau có một tên công an võ trang “oắt tì” đeo súng áp tải.
Bây giờ đọc đoạn này, có còn ai thấy lòng dạ thế nào không? Chứ khi ấy, giai đoạn ấy ruột gan của tôi như vặn vò, rướm máu. Nhất là lại là buổi ban đầu sau 16 năm, nằm trong ngục tù. Hôm nay tôi mới nhìn thấy, những chiến hữu ruột thịt nhớ thương, khao khát của mình.
Hơn một tuần sau, tôi đã có một chút khái niệm về cái trại giam đặc biệt, Hà Sơn Bình này. Khoảng trên dưới 900 tù nhân, hầu hết là quân cán của chính quyền miền Nam. Đặc biệt là có 2 đội, VC gọi là “bò lục” chừng hơn 9 chục, toàn là đại tá của VNCH. Cứ sau khi toàn trại đi lao động, hai đội này mới được ra quét dọn, nhặt cỏ, những công việc vặt vãnh không cần chuyên môn.
Anh em cho biết đã có lần, 2 ông đại tá trong những ngày nghỉ, đã trèo vào khu Biệt Kích lén lút chuyện trò, có Biệt Kích “ghếch” áo vàng. Đặc biệt hơn nữa, cũng anh em cho biết: trong một khu đối diện phía bên kia, kiên giam toàn là tướng và hàng bộ trưởng, không có ra làm việc bên ngoài. Lòng tò mò tìm hiểu của tôi được khích lệ, lòng tự nhủ lòng: Được! Tôi còn ở đây rồi sẽ biết!
Cũng nguồn tin từ các ông “bò lục”, khi VC chiếm được miền Nam, nhiều kho vũ khí, và quân nhu còn lại, ta chưa kịp phá hủy. Bây giờ chúng lấy những bộ đồ đó, đành rằng chúng có thể đổi chác với các nước chung quanh, dân chúng của VC còn thiếu quần áo mặc, nhưng bao giờ chúng vẫn dành ưu tiên cho tuyên truyền. Bắt những tù VNCH mặc quần áo mới đó, cộng sản có những điều lợi: Càng khoét sâu, làm thối ruỗng ý chí của những người tù, mà đàng nào cũng phải cung cấp quần áo tù lao động, cho họ (nhất cữ lưỡng tiện). Những cán bộ, những người dân qua lại, chứng kiến càng nức lòng hồ hởi tung hô tài ba vô địch của chủ nghĩa cộng sản chuyên chính, (nhất cử, tam, tứ tiện). Tại sao chúng không làm?
Từ khi còn mồ ma HCM, VC luôn luôn kêu gọi đồng bào miền Bắc thắt lưng, buộc bụng để chi viện cho đồng bào miền Nam đang bị đói khổ, lầm than trong tay đế quốc và tay sai. Nhưng sau khi chúng cưỡng chiếm được miền Nam, không những nhân dân miền Bắc đã bật ngửa ra, mà ngay cán bộ của cộng sản cũng không thể ngờ. Cụ thể tên bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (giai đoạn ấy) đã thốt lên: “Không ngờ, đời sống của miền Nam trù phú thật”. Tôi đã đọc được câu nói của y trong một bài báo “Đảng ta thắng lớn” trên tờ QĐND cuối năm 1975.

15. GẶP LẠI NGƯỜI XƯA

Được hơn một tháng, qua một vài hiện tượng, một vài nét chúng tôi đều nhìn anh em bên Z. (Giai đoạn ấy VC gọi những người tù của VNCH sau 1975 là Z), các anh có vẻ quá lịch sự, trở thành lễ phép khác thường, với tụi cán bộ áo vàng. Những ngày nghỉ các anh bách bộ, hay chuyện trò với nhau, trong sân trại. Bất ngờ có một tên áo vàng đi vào, dù các anh đang tụm 5, tụm 3 nói chuyện, các anh đều quay lại, hai tay đan ngón lại, đầu hơi cúi:
- Xin chào cán bộ ạ!
Tôi hiểu VC đã nghiên cứu ra những nguyên tắc tinh vi như: 4 tiêu chuẩn cải tạo, 8 điều nếp sống văn hóa mới v.v… Chúng nhấn mạnh nhất là vấn đề lễ phép: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Chúng cố ý mập mờ cho những quân cán VNCH bị tù, tự thấy: Được tha về sớm hay muộn, ở trên xét để các anh được về với gia đình vợ con, làm lại cuộc đời. Yếu tố đầu là hạnh kiểm: Ngoan ngoãn và lễ phép.
Các anh em Z không đáng trách một chút nào, các anh mới bị bắt 1-2 năm. Trong khi ngay những Biệt Kích chúng tôi đã tù 16 – 18 năm rồi, cá biệt có những anh còn nghĩ: Phải lễ phép với cán bộ thì mới sớm được về!
Một sự việc cũng hơi buồn cười: Hai, ba đội trong khu Biệt Kích xuất, nhập trại thường báo cáo như hàng chục năm trước, ở các trại tù khác. Nhưng không hiểu sao buổi chiều hôm ấy, Nguyễn Huy Lân dẫn đội mộc, về tới cổng trại. Như mọi khi Lân điểm sơ lại số tù của đội, rồi tiến lên trước cổng đứng nghiêm :
- Báo cáo cán bộ, đội mộc xuất 43, nhập 43 đủ!
Tên cán bộ trực trại cầm sổ đứng một bên, tên thiếu úy vũ trang cầm sổ đứng một bên vẫn đứng yên, không bảo hay ra hiệu tay cho toán vào. Đội mộc cứ đứng giữa cổng, cán bộ cũng không nói năng gì. Hai bên đứng yên thi gan đến 2- 3 phút, trong khi các đội bên Z đang túa từ các ngả về cổng trại. Tôi đã thò một ngón tay, kết hợp với mắt ra hiệu với Lân: Dứt khoát, thà chết “cứ đường cũ mà đi”.
Rất nhiều đội Z chứng kiến, vì họ cũng đang chờ đến lượt, báo cáo vào trại. Cuối cùng tên trực trại và tên vũ trang đưa tay ra làm hiệu, gạt đội mộc dẹp vào mé tường xây bên cạnh. Tên Tài cán bộ của đội, và tên vũ trang đều vào cổng. Chúng bàn luận với nhau thế nào không rõ, chúng tôi 43 người đều ngồi xuống. Từ nãy, Lân đã giải thích cho anh em :
- Tất cả các đội Z, sau khi đội trưởng báo cáo xong số tù, phải nói một câu: “Xin cán bộ cho vào!”
Mấy đội Biệt Kích thì không chịu nói, 5 cái từ đó, mà từ trước chẳng trại nào có.
Tâm trạng của mọi người tù, đi lao động cả buổi về, vừa đói vừa mệt nhọc, ai cũng muốn về sớm để tranh thủ lo chuyện cá nhân của mình. Ngay trong đội đã có một vài anh muốn tỏ ý: Thôi hãy chịu thua đi! Hãy vào, biết phép đứng nghiêm nói: Xin cán bộ cho vào! Nhưng hầu hết anh em quyết tâm, dù có phải ngủ ngay chân tường của trại, cũng sẵn sàng.
Bao nhiêu đội Z, cả những đội về muộn họ đều nhìn đám Biệt Kích này. Kẻ đứng người ngồi như những đám tù “đoàn tù lê thê cất bước đi trên đường”.
Trời thẫm dần, đã nghe những tiếng rên rỉ của đám côn trùng từ đồng ruộng vọng về. Những hơi rơm nồng và rạ ẩm luồn vào trong gió, từ ngoài đồng lách vào mũi của những anh tù Biệt Kích. Tôi ngồi dựa vào vai anh Quách Thức, mắt hết nhìn những đám mây vừa đen vừa xám đang vần vũ trên trời, lại nhìn 3 tên vũ trang uể oải, thỉnh thoảng lại dậm chân, khua tay cho đỡ mỏi người, vì không được ngồi như chúng tôi. Ba tên này là thiệt nhất, vì cứ phải đứng và phải coi đám tù “mất dậy” này. Trong khi gần 2 chục tên áo vàng, đủ loại bàn tán trong cổng trại.
Chúng tôi nắm được cái thế: Chúng tôi đã làm đúng như các trại tù khác! Đồng thời chúng tôi hiểu rằng: Có cho thêm vàng, những tên loe ngoe ở cổng trại, cũng không dám để chúng tôi ở ngoài. Bậc thầy của chúng, cũng chả dám để loại tù này, ở ngoài trại suốt đêm.
Đúng như nhận định của chúng tôi. Hơn một giờ sau, tên trực trại được lệnh trực tiếp của Tổng gíam thị, phải để tụi tù Biệt Kích vào trại, không phải nói: Xin cán bộ cho vào!
Vào tù mà lại phải xin vào là thế nào?
Trời đã cập quạng, gà đã lên chuồng, đoàn tù Biệt Kích chúng tôi qua cổng vào trại, trước những con mắt màu nâu xám của đám cán bộ ở cổng. Chắc chúng đã họp hành, trao đổi với nhau. Từ hôm ấy tụi cán bộ áo vàng, áo xanh nhìn chúng tôi với những con mắt, con ngươi mầu đỏ quạch, khác thường.
Chẳng bao lâu, lại xẩy ra một chuyện nhỏ khác nữa. Hơn một tuần sau, tôi được lệnh của cán bộ đội mộc, về cổng trại để đo chính xác cái bàn của trực trại (thay cái bàn khác). Trên con đường trở về lán mộc (hơn 200 mét), từ xa thấy một tên trung úy áo vàng đi ngược chiều. Để tránh khỏi phải chào thưa lôi thôi, tôi vờ nhìn cái chòi gác của công an võ trang trên tường của trại giam, phía trái. Khi tôi đi qua tên trung úy, gọi giật lại vẻ hách dịch :
- Anh kia, anh tên gì, ở đội nào?
Tôi quay lại, như bây giờ mới thấy y. Tôi tỏ thái độ nhã nhặn :
- Cán bộ hỏi gì, tôi chưa nghe rõ ạ?
Hằn học, y cộc lốc :
- Đội nào, tên gì?
Tay trái đang cầm cái thước gỗ, tôi chuyển sang tay phải. Thái độ của tôi cố như tỏ ra, muốn quật cho y một cái, làm cho y hơi như lùi lại thủ thế, nhưng mặt tôi lại tỏ ra thản nhiên lễ phép :
-Thưa là ĐCB, đội mộc ạ!
Y rút cái bút và một cuốn sổ nhỏ ở túi áo ngực ra ghi vào, rồi y đi luôn vào cổng trại, không nói thêm một lời.
Tôi biết sẽ có vấn đề, nhưng tôi chấp nhận.
Về lán mộc, tôi đã nói cho Lân nghe sự việc, tôi yêu cầu ủng hộ. Từ lâu, tôi và Lân vẫn có hiểu ngầm nhau đặc biệt. Tôi cũng định nói trước toán, nhưng tôi hiểu có những đường giây riêng với cán bộ, nên tôi chỉ nói nhỏ với Hoàng Mạnh Hùng, và Lê Văn Kinh.
Cả buổi trưa, cho tới khi đội đi làm, cũng không thấy gì. Chiều hôm ấy, sau khi khu Biệt Kích cơm nước xong, có 3 tên cán bộ đi vào, đi đầu là Hồng Thắng Tài, cán bộ đội mộc, rồi đến tên trung úy tôi đã gặp buổi sáng, và tên thiếu úy trực trại.
Tên trực trại (sau tôi biết là Toàn) gọi cả 3 toán trưởng Biệt Kích là Nguyễn Huy Lân (Mộc), Trương Bá Ngữ (may) và Nguyễn Xuân Sang (đan lát, rèn). Tên Toàn cho lệnh tập họp toàn khu Biệt Kích.
Giữa cái sân con của khu, có một cái bàn với 3 cái ghế để tụi cán bộ ngồi, sau khi tù đã ra đầy đủ gồm hơn 130 Biệt Kích, xếp hàng thành 3 đội. Hầu hết toàn khu Biệt Kích không ai hiểu vì sao lại tập họp như thế, chỉ có vài người chúng tôi biết nguyên nhân. Phần tôi đã chấp nhận, dù có phải bị cùm, kỷ luật.
Tên Tài giọng lẫn đờm gọi to :
- Anh ĐCB!
Tôi giơ tay và ra khỏi hàng, đứng phía cuối. Y vẫy tay, giọng khàn, tiếp tục :
- Anh lên trên này!
Khi tôi đến gần, y chỉ tên trung úy hỏi :
- Anh có biết ông cán bộ này, là ai không?
- Thưa, tôi không biết ạ!
Tên Toàn trực trại, gằn giọng hách dịch :
- Đây là ông trưởng ban giáo dục của trại này, thế mà sáng nay anh gặp ông, anh lại quay đi không chào phải không?
Đã suy nghĩ và đã có chuẩn bị, tôi nhìn thẳng tên trưởng ban giáo dục, rồi nhìn tên trực trại :
- Đúng, tôi không có chào, thưa ông, nhưng ông có cho phép tôi nói lý do tại sao không ạ?
Cả 3 tên đều nhìn tôi chằm chằm, với thái độ trấn áp ra mặt :
- Được! Cho anh nói!
Lối nào thì cũng dẫn đến một kết quả, tôi đường hoàng, dõng dạc :
- Trước hết tôi xin cảm ơn các cán bộ, đã cho tôi được nói hôm nay. Tôi đã được chuyển về trại này gần 2 tháng, đã từ lâu quan điểm của tôi là: Bất cứ ai, cuộc sống của mỗi người đều có những khó khăn riêng. Vì thế, nếu gặp nhau nên hòa nhã cởi mở, để cho phần nào vơi đi những nỗi niềm trong lòng. Tuân theo lời ông bà dậy: “Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Vì mang quan điểm ấy, nên bất cứ ai tôi gặp, nhất là cán bộ của trại, những người trực tiếp giáo dục, dậy bảo mình nữa. Tôi gặp, tôi thường nhã nhặn chào, nhưng cũng nhiều lần, tôi về buồng, bực tức và buồn vời vợi. Cán bộ không nói thì ít ra cũng gật đầu, để tôi biết là ông ấy đã nghe thấy tôi chào. Ở đây, hầu hết đều yên phăng phắc, không tỏ một thái độ gì, để rồi tôi vừa đi, vừa mang một nỗi buồn và tiếc.
Tôi buồn: Vì mình là tù nên các cán bộ không thèm trả lời mình, tiếc là mình đã mất công chào vô ích.
Nỗi buồn tiếc ấy thường theo tôi về đến buồng tù. Đã có lần tôi cũng đã thổ lộ với anh Lê Văn Kinh, có khi cậu Hoàng Mạnh Hùng. Cũng đã có lần tôi ca thán cả với anh Nguyễn Huy Lân là đội trưởng như: Buồn quá anh Lân ơi! Hôm nay mình gặp một ông cán bộ, mình lễ phép chào mà ông ấy chẳng nói năng hay gật đầu! Lần khác và lần khác nữa, để rồi một lần tôi tự nhủ: Thôi, từ nay hãy biết thân phận là tù, đừng có với cao nữa, và từ đấy, mỗi khi bất ngờ gặp cán bộ, tôi tránh hoặc nhìn đi nơi khác.
Tôi nhìn cả 3 tên, nói cao giọng hơn :
- Bất ngờ nhất, ngay bây giờ các cán bộ gọi những anh tôi vừa nhắc tên, cán bộ sẽ biết rõ.
Tôi vừa nói tới đó, thì có mấy tiếng nói to ở dưới hàng, đội đứng :
- Thưa cán bộ, anh Bình đã nói đúng ạ!
- Thưa cán bộ, tôi cũng bị như anh Bình, nhiều lần như thế ạ!
Mặt cả 3 tên cán bộ như bị hụt hẫng; không còn cái khí thế hừng hừng, như lúc mới vào. Tên trung úy Trưởng ban gíáo dục (sau này tôi mới biết tên là Thông), khoát tay nhìn tôi :
- Cho anh về chỗ!
Rồi y tiến dần đến các đội, hai tay y giơ cao, giọng ôn tồn :
- Đây là một sự hiểu lầm đáng tiếc! Tôi cũng vui thấy các anh có ý thức hòa nhã giữa người với người. Các anh cũng phải luôn xác định: Chúng tôi là những cán bộ của nhà nước, đang thực thi trách nhiệm giáo dục, uốn nắn những sai trái trước đây của các anh. Phần chúng tôi, sẽ nhắc nhở cán bộ nâng cao ý thức về thái độ, vai trò của mỗi người. – Miệng y nở một nụ cười hài lòng, hai tay y lại hất lên – Cho các anh giải tán!
Anh em quay lại nhìn tôi, đa số đều cười bằng mắt!
Qua sự việc này đã củng cố cho tôi thêm 2 điều, tôi đã học:
1) Phương pháp quan trọng hơn nội dung.
2) Hãy đứng thẳng và đứng vững, bằng chính đôi chân của mình.
Đội mộc kỳ này lại nhận một kế hoạch hơi đặc biệt. Đóng 200 chiếc hộp, theo quy cách độc đáo từ trước đến giờ. Bằng những miếng gỗ rời, dầy 2, 5 phân, dài 1m60, rộng 0m15. Không cần bào, đóng thành những chiếc hộp 1m60 x 1m20 x 1m00, đóng bằng đinh 5 phân, đóng những miếng gỗ hở cách nhau một phân. Điều khác thường là, sau khi làm xong, tất cả đều sơn, quét hắc ín.
Để thực thi kế hoạch này, cho kịp thời gian 10 ngày cả đội mộc đều ngưng công việc đang làm, để cùng làm 200 chiếc hộp này. Không một ai suy đoán ra đóng hộp như vậy để làm gì? Dù chính trị địa phương (miền Bắc) hay Biệt Kích đã tù lâu. Ai cũng tự hiểu, những việc như thế này, để khỏi lo âu hậu họa, tốt nhất là đậy cho kỹ cái miệng mình lại. Tôi cũng hiểu vì có những đường giây ngầm, nên cán bộ chuyên trách, sẽ biết tù bàn tán, suy đoán ra sao?
Đóng những chiếc hộp được khoảng 5 ngày. Một buổi tối, sau khi sinh hoạt đội xong, tôi đến chỗ Lân Mều, ngoài những câu chuyện thông thường, tôi nhẹ giọng hỏi Lân :
- Lân có biết họ đóng hộp này, để làm gì không?
Tôi và Lân đã có nhiều chuyện không thể nói với nhiều người, Lân liếc nhìn một anh nằm cạnh rồi nói khẽ :
- Tao cũng lạ! Suy đoán mãi mà chưa ra! Có lẽ mày đã đoán ra rồi phải không?
Tôi cười nhẹ và cũng nói nhỏ :
- Cứ làm như tôi có “bửu bối” không bằng! Tôi cũng đã suy luận mấy ngày rồi! Rõ ràng là hộp này di chuyển trong đêm tối. Tôi đã nghĩ tới vũ khí, nhưng miền Nam đã xong rồi, chả lẽ Miên, Lào, hay Thái Lan? Để giữ an ninh cho mình, có thể họ sẽ chơi Miên. Từ ít lâu nay biên giới Miên, miền Nam nhiều lộn xộn những vụ “Cáp Zuồn”. Đài và báo chí đã nhiều lần phản đối. Bí mật chuyển vũ khí, đạn dược, làm hộp này không có đâu kín được bằng trong trại tù, có tên nào được ra ngoài đâu!
Mười ngày sau, chúng tôi đã làm đúng theo chỉ tiêu. Chúng tôi cũng phải khuân xếp ra đường đi phía trước lán. Tay chân anh nào cũng đen nhẻm, xà phòng rửa cũng không đi. Cán bộ phải cho người về trại xin được nửa lít dầu hỏa, mới giải quyết được. Nửa đêm chúng tôi nghe nhiều tiếng xe cam nhông, chạy rầm rì. Sáng chúng tôi ra lán, thì những chiếc hộp đã được chuyển đi hết rồi.
Có những sự việc đã nhiều lần tôi không muốn tường thuật lại. Đó là sự tiếp tế quá dồi dào của các gia đình Z ở miền Nam. Có lẽ vì mình chả bao giờ có tiếp tế, nhưng phải nói, cái chính là tôi có một chút lòng tự trọng lẩn quẩn trong đấy. Mãi hôm qua, khi đội đi làm trưa, về qua cổng trại tôi thấy hai chiếc xe ba gác đầy đồ tiếp tế, ì – ạch hai người đẩy. Mỗi xe một người kéo, một người đẩy, mì gói, lạp xưởng, bánh kẹo, thịt quay v.v… Không những đã làm phiền mắt và phiền lòng chúng tôi, mà còn khiến mọi người bàn tán nhiều, dai dẳng đến cả tuần. Huống chi lũ cán bộ, cả đời chưa bao giờ nhìn thấy, nên trố mắt thô lố ra nhìn theo.
Giai đoạn này, khu Biệt Kích được lệnh ra hẳn ngoài sân trại chung, để xuất trại đi lao động. Ba đội Biệt Kích được xếp hàng ngay trước cổng của khu, cái sân trại quá rộng lớn, thế mà đầy là tù Z. Từ chỗ Biệt Kích ngồi xếp hàng đến chỗ các đội Z khoảng cách đến 40 – 60 mét, nhưng cũng nhìn tương đối rõ mặt. Chứng cớ thỉnh thoảng có anh Biệt Kích hoặc một anh Z, đã giơ tay vời chào nhau, vì gặp lại. Do đấy sáng, trưa khi xếp hàng đi làm, bên khu Biệt Kích cũng như bên khu Z đa số đều dõi mắt về phía nhau.
Có thể vừa tò mò, vừa muốn tìm người quen. Riêng với tôi và một vài anh nữa đã bị nằm ấp từ 1961- 1962 đến nay, đã 16 – 17 năm rồi. Ngay ngoài đời gặp nhau cũng khó ai nhận ra ai, huống chi ở trong tù. Chẳng có một dịp ngồi với nhau, rồi cùng nói về một chuyện, từ đấy mới có thể nhận ra. Đa số các anh Biệt Kích ra sau từ 1964- 1968, nhiều cậu Biệt Kích kể lại, đã nhìn thấy ông Thiếu tá A, ông Đại úy B v.v… ngày xưa đã chỉ huy cậu ta, hoặc có quen biết.
Một hôm ở ngoài lán mộc thủ công, sau khi chúng tôi lao động được một lúc. Bỗng thấy có 2 toán Z từ cổng khu thủ công đi vào. Vì thấy có nhiều cái đầu muối tiêu hoặc, muối nhiều hơn tiêu nên tôi xin gọi là các anh, các bác. Vì đã ở cùng trại mấy tháng, nên hẳn đã đều nghe nói về nhau. Như thế, hẳn các anh, các bác cũng biết chúng tôi đã tù hơn chục năm rồi, cá biệt có anh 16- 17 năm đã trôi qua cửa sổ. Hai bên nhìn nhau đều có thiện cảm đặc biệt. Chúng tôi quý mến các anh, như tôi đã có lần trình bầy rồi. Các anh, các bác nhìn chúng tôi có chút thương cảm, mình mới tù đây mà đã thấy khổ, họ (Biệt Kích) đã tù từ lâu. Khi miền Nam hãy còn phây phây, thì họ đã tù rồi. Hơn nữa, cái tù của họ, phải bị hành hạ nhiều hơn.
Các anh, các bác rải rác nhặt cỏ ngoài sân của khu thủ công. Tuy có cán bộ và công an võ trang coi mỗi đội, nhưng phần vì trời nắng, phần khác chả lẽ đứng giữa sân mãi sao, nên các bác vào những gốc cây, hoặc mái hiên hút thuốc. Chúng tôi cắm cúi bào, đục, cưa, thỉnh thoảng nhìn ra các anh, các bác, hai bên đều cười với nhau.
Tay tôi vẫn thao tác theo nghề nghiệp, nhưng giòng tư tưởng của tôi cứ chảy ra lênh láng, nhiều sự việc. Lòng tôi đã lạnh mấy tháng rồi, giờ nhìn những mái đầu đều bạc, cặm cụi ngoài sân mà vẫn còn xót xa thương các anh, các bác. Tôi hiểu, hai đội của các bác, các anh đều là Đại Tá mà tôi đã nghe, đã nhìn từ những ngày đầu đến trại này. Chợt nghĩ đến tuổi thanh xuân của tôi, hoa mộng của một đời người, đã tan theo mây chiều mất hút. Một luồng hơi nóng, từ trong trái tim đang rỉ máu, bốc lên đầu.
Tôi không kìm được nữa, liếc nhìn mấy tên áo vàng đang cười nói, ở một mái hiên phía bên kia. Tôi làm như đi tiểu, chỗ quây tấm cót dành cho đội thủ công, không cao hơn đầu người. Tôi đi qua giữa sân để qua, gần sát các bác, các anh. Đi ngang, mấy bác đều ngửng lên cười như chào, tôi cũng cúi đầu như chào các bác, các anh. Tôi nhẹ nói nhưng rất rõ ràng :
- Tôi thương các anh, các bác lắm! Nhưng các bác, các anh giờ đây có tư cách như thế này cũng xứng đáng lắm!
Nói rồi tôi bước lẹ vào chỗ tấm cót. Tôi còn xúc động chưa đi tiểu được, thì có 2 anh đầu cũng đã muối tiêu cũng đi vào đi tiểu, một anh để một tay lên vai tôi rồi dịu dàng :
- Anh thông cảm, tụi Mỹ nó đã bỏ mình!
Một luồng hơi nóng khác, lại xộc lên từ trái tim cằn của tôi. Tôi đã cầm lấy tay của bác đó, nhưng mắt tôi không còn dịu hiền :
- Tại vì mình đã không đứng bằng đôi chân của mình!
Liếc nhìn mấy tên áo vàng, từ xa đang nhìn chúng tôi. Tôi phải vào trước, vì ra đã lâu. Đấy là 2 câu đối đáp duy nhất trong những năm tháng thương đau của tôi, với những chiến hữu cùng phụng sự, một lá cờ vàng 3 sọc đỏ.
Cho tới bây giờ tôi đang ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn chưa được biết hai anh đó là ai? Một chút khao khát trong lòng! Ước gì bây giờ ở trên xứ người này, tôi được ngồi với 2 anh để uống một ly nước, như uống ly nước mắt của quê hương, chẳng biết hai anh còn trên dương thế? Vì tôi cũng đã về chiều rồi.
Dù cho các anh ở cảnh ngộ nào, mà không đến tôi được, nếu tôi có địa chỉ của các anh, dù bất cứ ở đâu (trừ ở Việt Nam), tôi sẽ tìm cách mò mẫm đến, để thỏa lòng khao khát của tôi, và cho tình người, tình đồng bào thêm hoa, thêm trái.
Chiều hôm qua có anh Cao Văn Gion bị ngất ở trong buồng. Anh em một mặt ra cổng gào, báo cáo với trực trại, một mặt lo lấy dầu nóng tíu tít xoa bóp, làm hồi sinh cấp cứu cho anh. Thật là may! Cho tới khi bà y tá trung sĩ đến. Theo sau có một ông cao cao, đầu đã bạc bưng khay thuốc, thì anh đã tỉnh lại. Thấy một ông đầu đã có nhiều sương trắng, lại đi theo một trung sĩ y tá. Anh em cho biết: Cái ông đầu có nhiều sương trắng ấy là bộ trưởng y tế của chính quyền VNCH khi đứt phim. Được làm vua, thua làm tay sai! Đời là thế!…. Ngày xưa…. Một cô y tá, làm sao đến gần được, một ông bộ trưởng?
Tối hôm đó tôi đã đến thăm hỏi để chia xẻ với anh Cao Văn Gion. Tôi được biết sơ lược: Anh trong một toán Biệt Kích, đa số là người Lào. Tên toán là EASY gồm 7 người nhẩy ở dẫy Fan- si – Pan (Hoàng Liên Sơn), ngày 9 – 8- 1963:
1. Vàng Cha,
2. Vàng Giơ,
3. Vàng Vàng (ba người Lào, của tướng Vàng Pao)
4. Cao Văn Gion đã chết cuối 1978 trong tù
5. Lầu Chí Lù hiện nay không rõ
6. Đèo Văn Luyện Truyền tin (Mất tích)
7. Đèo Văn Tuyển Toán trưởng (Hiện nay ở Atlanta).
Toán này cũng bị phản gián (sau đây, những chương tới, tôi sẽ trình bày về các toán BK bị phản gián).
Anh Luyện là truyền tin, bị áp lực đầu súng dí vào lưng. VC bắt anh gọi vào Nam, báo là toán đã bình yên, xin tiếp tế và gửi tiếp các toán khác ra tăng cường v.v… Lợi dụng một lúc mấy tên VC sơ hở, anh Đèo văn Luyện, đã cướp súng rồi chạy vào rừng, chúng bắn theo và truy nã gắt gao. Buổi chiều, chúng tuyên bố là anh Luyện, đã “đền tội”.
Một ngày cuối tuần, gần cuối tháng đó, buổi chiều muộn, cô Văn Thư Trung Sĩ ôm hai cuốn sổ rất dầy, đi vào khu Biệt Kích. Chúng tôi hơi lạ, biết đấy là cô văn thư của trại. Mọi khi chúng tôi là những người từ trong hiệp nghị Paris (Chắc là Mỹ thỏa thuận, có quỹ đài thọ) mỗi Biệt Kích được lĩnh 3 đồng một tháng. Chúng tôi vẫn cứ lần lượt ký vào cuốn sổ, do cô văn thư chỉ từng chỗ, và ngồi chứng kiến. Sau khi ký xong; một vài ngày sau anh đội trưởng lấy tiền âm phủ (tiền trại) về, theo danh sách phát cho mỗi người.
Sau này, tôi được biết cô văn thư có cái tên rất là mộng, tên cô là Mơ. Cô Mơ vào nói gì với đội trưởng Nguyễn Huy Lân, cô đưa một cuốn sổ dầy cho Lân, rồi tất tả đi ra.
Được Lân giải thích: Cô Mơ đi phép về trễ 2 ngày nên không kịp, cô đưa sổ cho anh em ký, sáng sớm mai cô sẽ đến lấy. Anh em vây lấy Lân Mều, tranh nhau ký. Mãi gần cuối, tôi mới đến ký. Tôi lật cuốn sổ cả mấy trăm trang, nhiều những tên ký nhận nhập, xuất tiền tiếp tế, tiền gửi v.v… Hầu hết là của bên các anh Z. Đặc biệt tôi giở đến một chỗ, thoáng thấy cũng ký nhận 3 đồng như chúng tôi. Thì ra toàn của các ông bộ trưởng, tướng tá, ở trong khu kiên giam, mãi phía bên kia sân trại. Không hiểu sao, các ông này cũng được lĩnh 3 đồng như chúng tôi? Tôi và Lân nhìn những chữ ký của các ông:
Trần Trung Dung, Lý Trung Dung, Nguyễn Hữu Có, Lê Minh Đảo, Nguyễn Vĩnh Nghi, Lam Sơn Phạm Phú Thứ, Lý Tòng Bá, Lê Trung Tường v.v…
Tôi chợt có một ý nghĩ, tôi ghé vào tai Lân :
- Tao cần ghi toàn bộ 42 vị này. Đêm nay khi anh em ngủ, mày canh cho tao ghi nhé!
Lân khẽ gật đầu. Tôi lợi dụng ngay bút mực của cô Mơ, nhưng còn giấy? Tôi đã định tìm cách xé một tờ trong cuốn sổ, nhưng đều đã có chữ, hơn nữa đã đánh số từng trang. Tôi vắt óc suy tính, nghĩ đến mấy cái riềm, của tờ báo Nhân Dân và Quân đội Nhân Dân. Khéo léo, tôi đã có những miếng giấy dài mà nhỏ để ghi tên, tôi nháy mắt với Lân là đi ngủ sớm để đêm dậy. Tôi hiểu đây là một việc làm nguy hiểm, ghi những bộ trưởng, tướng tá, mà VC đang giấu để làm gì? Đầu 1978 không ai biết, các vị lãnh đạo của chính quyền VNCH, Việt Cộng giam giữ bí mật ở đâu? Tôi không nghĩ gì cả! Điều kiện đến thì tôi cứ làm, biết đâu ngày mai? Điều này thì không thể một ai biết được! Những người trong Nam ra tiếp tế v.v…
Cái danh sách bí mật này, Nguyễn Huy Lân là người canh gác, chứ cũng chưa đọc đến. Mãi đầu năm 1980, do một dịp cùng nghỉ bịnh, tôi đã “ghếch” cho một người duy nhất, đọc cái danh sách này ở trại Thanh Phong, Thanh Hóa. Đó là anh Nguyễn Hữu Luyện, hiện nay anh cùng ở Boston với tôi.
Tôi còn đang cắm cúi thẳm một cái vai của một cái bàn gỗ “gụ” thì Lân Mều, từ buồng ông cán bộ Tài chạy đến. Mắt Lân lóe lên long lanh, vẻ hớn hở :
- Chiều nay đội mình được cải thiện bồi dưỡng!
Mấy cầu bào bên cạnh cũng bu lại, với những bộ mặt phởn phơ như mẹ sắp cho kẹo, ngày xưa. Từ cái ngày đội mộc nỗ lực làm đạt thành tích, 200 chiếc hộp. Ban giám thị trại đặc cách, thưởng cho đội mộc, 4 kg ngô đã xay. Nếu đem bung hay hấp, chia cho 43 người thì chả được bao nhiêu. Chủ trương của cán bộ Tài, đã bàn với Huy Lân, trại kỳ này thiếu rau, thường chỉ ăn với muối rang, ai cũng khao khát thèm rau. Ông Tài đã ngoại giao với cán bộ đội rau từ lâu, hôm nay đội rau thu hoạch rau muống, cho cán bộ và công an võ trang của trại. Cán bộ đội rau đã đồng ý tặng đội mộc, một sào gốc rau muống trại vừa thu hoạch rau xong, trước đây là phần của khu chăn nuôi, cơ quan (cho lợn, gà, vịt).
Cả đội rầm rầm vỗ tay ngay ở lán mộc, làm cho tên Tài cũng phải thò cái mặt hưng phấn lây, ra ngó. Ngay khi đó chỉ định 2 anh, theo cán bộ ra đội rau, là anh Hứa Viết Khìm và anh Vương Văn Can. Gần trưa các anh về cho biết cái công đào gốc rau muống thì nhanh, nhưng cái công xuống suối rửa cát đất ở gốc rau, thì không thể mau được. Phải để buổi chiều ra sẽ tiếp tục, rau còn đang ngâm ở suối cho đất cát rời ra, dễ rửa.
Do đói, và quá thèm khát chất rau, nên chỉ là gốc của rau muống, cũng làm cho anh em đội mộc tinh thần hưng phấn hẳn lên. Thế mà cũng ngót nghét 2 gánh rau muống, sau khi đã luộc rồi, với một sọt con ngô xay bung, để ở góc lán. Từ đám gốc rau luộc này, khói hương bay nghi ngút, anh em cả đội mộc tâm trí buổi chiều ấy, bị 4 sọt rau muống luộc hút hết vào. Chúng cũng kéo mắt của các anh phải luôn luôn ngắm nhìn chúng. Chúng cũng phì hơi thơm ra, như khao khát, được vinh hạnh chui vào lòng, của những người thương. Tên Tài ra đứng ngoài cửa gian buồng con của y, nét mặt y đăm chiêu nhìn, niềm hưng phấn của đội mộc, trong đầu óc của y nghĩ gì thì làm sao tôi biết. Hẳn có lúc y phải nghĩ: Niềm vui hân hoan của 43 tên tù này, có bàn tay ban phát của y.
Đội có 3 anh bịnh ở nhà, 40 người đi lao động, nhưng anh em nhất trí sẽ chia đều cho cả 3 anh bịnh. Nhìn mấy sọt gốc rau muống, nếu chia đều mỗi anh cũng được ngót nghét 2 lạng chứ không ít đâu. Còn sọt ngô xay bung, phải mỗi người cũng gần một lạng. Điều chắc chắn chiều nay đội mộc sẽ “bành” hả hê rồi.
Gần lúc đội về lại có ý kiến: Đây là một đặc ân của trời ban cho, nên hãy chia đều cho cả khu Biệt Kích gồm 132 người. Nghe như vậy, hầu hết đội mộc đều sôi nổi đồng ý, làm cho tên cán bộ Tài mở to mắt. Y không tin được, trong lúc thiếu đói của đôi mộc, mà y là chứng nhân? Vì y không tin! Cho nên, tới khi đội mộc vào trại, y rủ theo một tên thiếu úy vũ trang, vào trong khu Biệt Kích. Chúng muốn chứng kiến cảnh chia rau, chia ngô cho đều 132 suất, mỗi suất chỉ còn hơn 1 lạng cả gốc rau lẫn ngô xay. Trước khi tên Tài và tên thiếu úy quay ra cổng, tên Tài nhìn khắp lượt, lắc đầu nói :
- Tôi không hiểu nổi các anh!
Đặc biệt, một sự việc hãy còn hằn vào lòng tôi, vẫn chưa phai. Ngoài sân, trong đội còn đang ồn ào với ngô xay, với gốc rau muống luộc, thì anh Hứa Viết Khìm đã mang suất của anh lại chỗ tôi, nói giọng nồng nàn :
- Anh Bình hãy ăn thêm suất này! Tôi, hôm nay khó chịu không muốn ăn!
Tôi ngạc nhiên, anh và tôi đã nói chuyện với nhau một vài lần, nhưng chưa thân lắm, tôi nhìn anh dịu dàng :
- Cảm ơn anh Khìm! Anh cũng đói như tôi vậy!
Anh quay lại tôi, giọng khẳng khái:
- Nói thực với anh, ở ngoài đồng, do vô ý chúng tôi làm đổ mấy lọn rau xuống đất. Cán bộ không cho đưa vào sọt rau, ông ấy bảo “hai anh xuống suối rửa cát đi mà ăn”. Tôi và anh Can đã ăn mỗi người, hơn một bát.
Thấy anh nhiệt tình, và không để anh nói nhiều, tôi cầm bát rau nhưng dứt khoát không nhận bát con ngô xay. Buổi tối, tôi đến chuyện trò và cảm ơn anh Khìm, tôi được biết sơ lược về toán biệt kích, của anh ra Bắc:
Toán của anh là EAGLE ra Bắc ngày 28-6-1964, nhảy ở Lạng Sơn. Toán anh gồm 6 người:
1. Hứa Viết Khìm toán trưởng, kiêm truyền tin trưởng, 1982 anh đã được tha về Sài Gòn. Anh bị bịnh chết năm 1992.
2. Bế Viết Quang đã chết ở Sài Gòn năm 1995.
3. Lã Văn Hoàng hiện ở Hoa Kỳ.
4. Đàm văn Phình chết ở trong tù năm 1967.
5. Lý A Phổ 79 tuổi (2004) hiện đang ở Malden, tiểu bang MA. Anh vẫn thường đến tôi chơi.
6. Nguyễn Viết Dũng toán phó hiện ở TX.
Một chuyện cũng hơi riêng biệt của anh Hứa Viết Khìm. Trần Văn Mạo tức Mạc trong toán KERN ra Bắc 4-3-1966. Khi được tha về Sài Gòn ở nhà anh Khìm, rồi nên duyên chồng vợ với người con gái lớn của anh Hứa Viết Khìm. Hiện nay hai vợ chồng Mạc đã ở Hoa Kỳ (April 2004).
Chiều nay lại có một nguồn tin mới, tối mai thứ Bẩy, trại có buổi văn nghệ đặc biệt do anh em bên Z trình diễn. Chúng tôi cũng khao khát và háo hức lắm! Muốn thưởng thức phần nào cái hơi hướng của VNCH đã lâu ngày, đã chôn sâu vào cái hố quên lãng. Tâm trạng của chúng tôi khác hẳn với những buổi văn nghệ trước đây, chúng tôi phải đi tham dự như một sự bắt buộc. Nếu không đi sẽ bị quy vào tội tư tưởng, không muốn tham dự vào mạch sống cách mạng, của một xã hội mới của Đảng.
Đặc biệt buổi văn nghệ này, lại có dân chúng và những cơ quan địa phương, cũng được mời vào tham dự. Nơi trình diễn lại ở một bãi rộng, cách xa cổng trại giam gần một cây số.

 
16. YÊU LẦM, CHỘT MỘT ĐỜI

Khi chúng tôi từ khu biệt kích ra tới cổng trại; xa xa trong đám tối của những mái nhà tranh, của những lũy tre làng, có một khoảng sáng bật lên. Từ chỗ vùng ánh sáng đó, tiếng trống, tiếng kèn, đã văng vẳng nhào qua những cánh đồng, mời gọi khách lãm du, hãy rảo bước. Lòng chúng tôi cũng dấy lên một chút xốn xang. Dù đã tối, tôi vẫn thấy cái mênh mông, của đất trời rộng mở. Từng làn gió nhẹ, khe khẽ đưa cái hơi nồng của ruộng đồng, đến từng mũi mọi người.
Công An Vũ Trang với súng ống kè kè sau lưng, hôm nay cũng được tăng cường thật dầy. Tù nhân được lệnh tuyệt đối không được di chuyển, phải ngồi tại chỗ trong đội của mình theo nơi đã được quy định. Chỗ đi tiểu tiện, đã được quây cót, ở ngay phía sau mỗi khu.
Sau những thủ tục khai mạc của một trại tù như trước đây, đến phần trình diễn văn nghệ. Tôi đã hiểu đó là điều tất yếu của một trại tù trong chế độ VC. Chính tù, được xem anh em trình diễn, vừa được nghỉ ngơi mà vẫn còn, thấy ngán ngẩm. Hết ca ngợi quê hương 5 tấn, lại thúc giục xây dựng nhà máy, công nông trường.
Mãi gần về cuối, có một tiết mục hơi lạ. Hợp ca của khoảng 6 – 7 chục người. Các anh Z khéo chọn lựa, có đến 5 – 6 bè rõ rệt. Bè thì ồ ồ như tiếng xe cam – nhông đang chạy, bè thì nghe róc rách như nước suối chảy lưng đèo, bè nghe như tiếng chim non kêu gọi mẹ, vì đói ăn. Có bè réo rắt như Tiếng Sáo Thiên Thai của Văn Cao thời tiền chiến. Không những làm cho chúng tôi say mê đờ đẫn, mà còn làm cho lũ cán bộ và những người dân quanh vùng, mắt thao láo, mồm há hốc ra, như miệng của những con ếch đang gọi mưa.
Cả một đám đông hàng ngàn người, mà tôi còn nghe được tiếng quang quác, của những đàn ngỗng trời bay ngang. Một sự việc cũng quá đặc biệt, trước đây tôi chưa từng thấy. Theo lời người điều khiển chương trình, là ông phó chủ tịch Huyện, muốn có vài lời với mọi người.
Một ông chừng 50 tuổi, người bé nhỏ, nhưng nước da như người Ấn Độ, ông nói rất từ tốn và rõ ràng:
- Thưa các đồng chí! Do một sự may mắn, tôi được thay đ/c chủ tịch Huyện đi công tác. Tôi được dự một buổi văn nghệ ngoài trời, của trại viên trại T52 này. Phải nói tôi chưa bao giờ được thưởng thức, một ban hợp ca đầy sáng tạo nghệ thuật mới lạ như hôm nay, tôi xin cám ơn các anh trại viên.
Những tiếng vỗ tay râm ran, dai dẳng làm cho lòng tôi cũng cuộn lên một chút tự hào, về cái miền Nam thân yêu đã mất của mình. Những ngày sau, tôi đã tìm mọi cách chuyện trò với tên cán bộ Hồng Thắng Tài để biết tên, hoặc một chút gì về cái ông Phó chủ tịch huyện, tối văn nghệ hôm ấy. Nhưng đành thất vọng, cho tới ngày biệt kích, rời khỏi trại T 52 Hà Sơn Bình này, vào mùa Đông 1978.
Vào khoảng gần cuối tháng 11 năm 1978. Tất cả 132 biệt kích lại được chuyển về xuôi phía Nam nữa. Hai chiếc xe tải dài ọp ẹp, chắc từ thời tôi còn chưa được mặc quần, khò khè nặng nề nhét chặt 132 anh chàng biệt kích chỉ còn da bọc xương, vào lòng mình. Chúng mò mẫm bò về phía Nam. Nhiều lúc, chắc vì nặng quá, vì phải đèo thêm hơn chục tên áo vàng và công an võ trang, chúng xịt cả khói đen ra đầy đường. Mấy bác nông dân gồng gánh đi đường, cũng phải bịt mũi, quắc mắt nhìn theo hai chiếc xe chết tiệt. Tay của tôi nối chặt với Quách Nhung, bởi một cái còng số 8. Xế trưa, quá mỏi và đau tay, tôi ra hiệu kéo Nhung ra sát cửa sổ nhìn xuống đường, thoáng thấy một cột cây số sơn trắng, đầu đỏ đề: Thanh Hóa 59 cây số. Như thế đây là Quốc Lộ I. Từ thời Tây, ở miền Bắc các cột cây số trên đường lộ, đều sơn trắng. Đầu đỏ là Quốc Lộ; đầu xanh là Tỉnh Lộ.
Xe bắt đầu rẽ vào Tỉnh Lộ, bóng chiều đã ngã muộn, gà bắt đầu lên chuồng. Xe leo qua một cái dốc dài rồi ngừng lại, ngay giữa rừng già Thanh Hóa. Nhìn theo một con đường nhỏ dài hơn 2 chục mét, chỉ có 3 mái nhà tranh dài, rào vây quanh cũng là tre với nứa. Rõ ràng là một trại giam mới chưa làm xong, còn 2 – 3 cái nhà nữa, mới chỉ có cái khung. Điều này đã nói lên, VC đã phải vội vàng đưa, những đám biệt kích này đến, không có dự trù trước. Đúng như vậy, vài ngày sau chúng tôi đã biết: Đây là trại Thanh Phong, tên một huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa, chỉ là một trại giam nhỏ của Huyện, với hơn 100 tù hình sự.
Những ngày sau, tất cả chúng tôi đều phải làm thêm và làm tiếp những căn nhà lán tù, chưa làm xong. Lúc đầu trại chỉ có một cái giếng nhỏ đủ nước cho bếp nấu ăn. Tắm rửa, mỗi buổi chiều công an võ trang phải dẫn từng toán tù (đến đây lại gọi là toán) xuống hết một cái dốc đồi, dài hơn một cây số. Ở đấy có một giòng suối rộng có chỗ đến hơn 10 mét, với những tảng đá lớn lổm ngổm, ở giữa giòng. Tôi chưa biết giòng suối này tên là gì, nhưng ở các trại giam trên miền ngược, chưa bao giờ tôi được nhìn thấy một cái suối nào, to và đẹp như vậy.
Nhìn cheo chéo phía bên kia suối, có một cái guồng to tròn, như một cái bánh xe khổng lồ bằng gỗ. Hỏi những tên công an võ trang coi toán, tôi được biết đó là những cái guồng nước ở miền núi. Người ta dùng để lấy nước, từ dưới suối lên dẫn nước đi xa, có khi cho cả một xóm dùng.
Thời tiết đang ở giữa mùa Đông, nên trời còn lạnh ngóm. Tuy trong trại không có nước, nhưng rất nhiều anh, cả các anh dân tộc vẫn còn sợ nước. Các anh chỉ ở cạnh bờ suối, thò những miếng giẻ rách to, nhỏ nhúng nước thay cho khăn mặt, rồi lách vào trong áo, trong quần để lau người.
Ngược lại, Lê Văn Kinh, Quách Nhung, tôi và gần chục anh em nữa thì như “cờ gặp gió, cá gặp nước”. Giữa trời, mây với cây rừng đá núi, chúng tôi đều trở lại thời tiền sử của loài người. Cả một lũ tồng ngồng, nhẩy xuống nước nhào lộn, vẫy vùng. Không những làm cho mấy tên công an võ trang (3 toán thì 3 tên) cũng lác cả con ngươi.
Tôi cũng thấy lạnh tê cả đầu, và cứng cả người, nhưng có lẽ quá thèm khát nước lâu ngày. Cái từ bơi lội suốt 16 năm, coi như chúng tôi không còn hề nhắc đến. Ngay cái anh chàng Kinh là người Nhái mà cũng lạnh thun “gân” lại còn bé tí tị. Lên bờ rồi, nhìn người nhau còn bốc khói! Tôi cũng lấy làm lạ, tuy lạnh nhưng có lạnh quá như trên Lào Cai, Yên Bái đâu? Có lẽ cái chính là vì quá đói, cơ thể không có và không còn nhiệt để chống đỡ, với cái lạnh ở bên ngoài.
Những ngày sau, chúng tôi phải làm một căn lán thủ công 5 gian, cạnh con đường chính ra suối. Lán thủ công cách trại khoảng 300 mét. Tối hôm qua lại có 2 xe chở biệt kích đến Thanh Phong. Thật vui, gặp lại hầu hết anh em trước đây, ở các trại trên miền ngược.
Trại Thanh Phong bây giờ, riêng biệt kích cũng trên dưới 250 người. Lán mộc hoàn thành, toán mộc hàng ngang, cũng được thành lập. Toán mộc kỳ này tương đối là đông gồm 44 người, do tên Lê Xuân Hoàn, trung sĩ phụ trách. Tên này người miền Bắc, cái mặt xám xịt, tỏ ra rất nghiêm khắc. Toán trưởng toán mộc lần này lại là một anh chính trị địa phương. Anh là Trần Bá Đôn, một tu xuất, đã có vợ con. Anh đã từng là tổ trưởng mộc, của một cơ sở sản xuất, huyện Kim Anh.
Toán mộc lại tiếp tục những giường, bàn, tủ, ghế gọi là hàng ngang, khác với mộc làm nhà cửa. Tôi vẫn phụ trách tổ kỹ thuật, chuyên đóng hàng kỹ cho các cán bộ của trại. Tổ kỹ thuật chỉ có 3 người: Lầu Chí Chăn, Vũ Viết Tinh (Tinh Còi) và tôi.
Vì là một trại mới trở thành quy mô, khi bất ngờ là nơi Cục Lao Cải chọn để quy tụ biệt kích gián điệp của VNCH cũ. Rất nhiều vấn đề thiếu thốn ở nơi giữa rừng già, cái thiếu bình thường nhưng lại trở thành nguy hiểm, là rau xanh. Với một số tù nhân đủ loại, trên dưới 500 như thế, mà lại không có rau xanh. Ngay tụi cán bộ, chừng gần 4 chục tên và khoảng hai đại đội công an võ trang, cũng còn thiếu rau xanh nữa là tù. Bởi thế nếu có chuyến xe con rau nào, tụi cán bộ phải bí mật lén lút, giấu để dùng dần. Còn mặc kệ tụi tù, làm sao quan trọng bằng cán bộ?
Chính vì lý do này mà trại tù Thanh Phong, đã nổi bật hơn các trại tù khác, ở một sự việc độc đáo: Hàng tháng không hề có rau, mà chỉ có toàn muối rang, hết pha thành nước, lại rang. Chung quanh không hề có những loại rau dại, như ở miền xuôi, hay nơi đã có giai đoạn, có người ở hay qua lại. Cho dù là người dân tộc, ở đây hoàn toàn giữa rừng già. Nhiều lúc tôi suy ngẫm, do luật bù trừ huyền bí của tạo hóa, thiên nhiên, nếu không có con suối trên tôi đã nói, thì rồi không biết sẽ ra sao, khi tù phải sống ở cái vùng khắc nghiệt, khác thường này?
Đầu tiên là đám tù hình sự, do còn trẻ, bản tính bất cần đời nên không có ý chí chế ngự, chịu đựng, ăn bậy bạ nhiều. Do những mánh lới chuyên nghiệp (lưu manh) đã kiếm được lá sắn, đôi khi kiếm được củ, thì xơi cả ruột lẫn vỏ. Một sự không may, có thể do những vườn sắn mới trồng, đất chưa thuần, còn hơi hướng, gốc rễ của những cỏ gianh (Tôi đã có kinh nghiệm hàng chục năm, ăn sắn). Cây sắn nào mà củ chui vào rễ cỏ gianh, ăn vào là say, nhức đầu nôn mửa, hay té re, tháo tỏng, nặng có khi là tử.
Một loạt các cậu tù hình sự bị nhức đầu, nôn mửa (hầu hết các em còn trẻ 18 đến 20 – 25). Tên cán bộ y tế của trại, lại chưa có kinh nghiệm, với loại say sắn! Y thấy hàng mấy chục người nôn mửa và nhức đầu. Y quýnh quá, lấy Aspirin cho mỗi cậu 2 viên uống, để rồi sáng hôm sau chết một lúc 13 – 14 người. Chắc là cán bộ đảng ủy của trại thấy trầm trọng, vội ưu tiên lập 3 đội, phá bỏ những loại cây trồng khác, chỉ chuyên đề trồng rau xanh. Ý muốn thì nhanh, nhưng hiện thực phải qua nhiều khâu. Phải cho cán bộ về thành phố kiếm tìm hạt giống, chuẩn bị đất để trồng v.v… Cho tới khi có rau ăn, cũng phải mất hàng nửa năm.
Riêng với khu biệt kích, dù sao đã là những người lớn, và tương đối có ý chí tự tồn, trong những điều kiện ngặt nghèo. Một đoạn đường rừng hơn một cây số, từ trại tù ra tới con suối (khi mới đến chúng tôi chưa biết tên, bây giờ chúng tôi biết đó là con sông Tràng. Con sông sau này đã gây ra nạn lụt 1981, trôi cả lán trại, trâu bò). Dù đã biết đó là con sông Tràng, nhưng chúng tôi vẫn gọi đó là con suối Tiên. Vì nó đã góp phần duy trì sự sống, sự tồn tại của anh em biệt kích. Đoạn đường này, hai bên đường là những cây rừng, hàng ngày các toán chúng tôi đều qua lại để ra suối, rửa ráy, tắm rửa sau một ngày lao động cực nhọc.
Qua mùa Đông 1978 để vào mùa Xuân 1979, những cây rừng cũng nẩy lộc, đâm chồi. Cũng giai đoạn này, qua những tin đồn người tiếp tế ở trong Nam, VN đã đánh chiếm Campuchia, tôi chợt nhớ đến 200 chiếc hộp hắc ín, ở trại T52.
Những chồi lộc của những loại cây rừng, mỗi ngày mơn mởn mỗi lớn, mỗi xanh tươi. Không biết là do ai? Trong anh em biệt kích, có thể là những biệt kích người dân tộc. Có lẽ các anh, cũng cùng tâm trạng như mọi người, nhưng do sáng kiến (Cùng thì phải tắc, tắc thì phải thông). Một anh đã hái một ít đọt lá non, của một cây rừng.
Hôm sau ra nơi lao động anh cho vào bô tôn, thùng thiếc, đổ nước, luộc rừ rồi ăn thử. Lúc đầu là thử nếm rồi nghe ngóng cơ thể, thấy không sao. Thế là cái loại cây đó được phổ biến cho bạn thân, mà đã ra người thứ hai, thì cả biệt kích đều biết, và ai cũng thấy. Các loại lá cây ấy, trên con đường từ trại ra “Suối Tiên” hết dần, và càng gần cuối thì tốc độ hết, càng nhanh. Để rồi ra cái chồi hay lá non nào, đều bị vặt hết, vặt cả ngọn.
Hết loại cây ấy, con người lại phải thực nghiệm sang một loại cây khác. Cuối cùng chỉ gần 3 tháng, từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 3 năm 1979, cả 2 bên triền rừng, từ đường lấn sâu vào rừng chừng 15- 20 mét, đa số lá cây rừng sạch trơn, như có thỏ hay hươu cao cổ, ăn lá cây vậy.
Từ cán bộ hay công an võ trang nào cũng thấy chính mình, mà còn không có rau. Vả lại, tụi nó nằn nì (cả toán ai cũng nằn nì) chỉ tranh thủ vặt những lá cây rừng. Cán bộ chỉ mất 5- 10 phút, đã ban cho những thằng tù một đặc ân, mà chúng chả có mất cái gì cả. Chúng được những tên tù khẩn khoản, nhìn với những con mắt ân huệ, biết ơn.
Không những là khu biệt kích rồi lan dần ra khu hình sự, cụ thể là khu biệt kích gần 300 người, nếu có người chết là rất cá biệt. Nếu không nói là không một ai bị chết, vì thiếu chất rau xanh, ở giai đoạn ấy. Cả một mùa Xuân, của cây rừng 2 bên đoạn đường ấy, không còn khoe hương, khoe sắc với chúa Xuân như mọi năm. Nhưng, chúng đã làm được một việc thiết thực hơn nghệ thuật. Chúng đã cưu mang, giúp đỡ bọn biệt kích sống còn. Chúng đã phục vụ, nhân sinh.
Có lần chân tôi bước theo hàng đôi của toán trên con đường “huyết mạch” đó, óc của tôi miên man chạy ngược về những năm tháng trước đây. Khi ấy CIA và Cục Trung Ương tình báo của VNCH, dạy tôi trong giai đoạn thực tập “mưu sinh” sống trong rừng, mà không có lương thực. Ngoài những chuyện bẫy, bắt cá và thú rừng, củ, rễ cây rừng v.v… Từ trong trí óc đã đẩy ra miệng tôi thành cười mỉm: Có thể rồi đây, các cơ quan tình báo nổi tiếng, Quốc Tế như CIA, Hắc Long của Nhật, I S của Anh, Gestapo (Đức), KGB, RU, Liên Xô v.v… cần phải nghiên cứu bổ sung, trong bài học “mưu sinh”.
Tối hôm qua về trại, tôi nghe loáng thoáng Trung Quốc lại đem quân vượt biên giới, đánh VN. Tôi bí mật tìm hiểu, nguồn tin là do anh Hoàng Tồn được ra tự giác, từ mấy tháng trước. Anh có một chiếc xe ba gác, thường chở những đồ tiếp tế cho gia đình của các anh em biệt kích, từ trong Nam ra tiếp tế. Tôi đã đến anh Tồn để biết sơ qua, có tính cách khái niệm. Một vấn đề tương đối lớn, tương đối sâu trong nội bộ của Đảng cộng sản Quốc Tế.
Việt Nam đánh Cam-pu-chia (7/1/79), rồi bây giờ Trung Cộng lại đánh Việt Nam (17/2/79). Có thể đây là những tiền đề, cho những bước kế tiếp của các Đảng cộng sản. Cũng có những dư luận về Lý Cà Sa. Từ nhiều nguồn tin, Lcộng sản có cầm quân trở lại Lầu Cai, là đúng! Cầm bao nhiêu quân, đánh ở đâu, mức độ? v.v… Ta không bàn ở đây, các chi tiết ấy dành cho các nhà chuyên môn.
Chỉ vì tôi có một chút xíu dây dưa liên quan với Cà Sa về không gian, và thời gian mà thôi! Sáng hôm nay khi toán chúng tôi ra tới lán thủ công, anh Đôn toán trưởng đã đến tổ kỹ thuật gọi tôi:
- Bình ơi! Ông Hoàn kêu anh vào ông ấy gặp!
Ít khi cán bộ toán gọi, nên tôi vội vàng đi về phòng cán bộ toán. Thấy tôi vào, y chỉ tay vào chiếc ghế trước bàn:
- Anh ngồi đi!
Tuy y chỉ nói như thế! Nhưng thái độ và cách nói tỏ ra rất thân tình. Thấy thân tình, tôi lại phải cảnh giác, nên tôi vẫn ngồi yên chờ.
May quá! Y đã vào đề ngay, y nói:
- Ông Giám thị đại úy Hà Văn Nho, muốn đóng một cái tủ lệch, kiểu Đức bằng gỗ lát!
Đến đây tôi đã hiểu, chỉ là vấn đề nghề nghiệp, thì có gì cần nói đâu. Tôi xuống tổ cũng nói sơ qua cho Chăn và Tinh, để sắp xếp những công việc đang làm, v.v… Đóng đồ cho ông Giám thị trại, cũng chẳng có cái gì hơn. Nhưng, tâm lý ai cũng vậy, nhất là ở một cái xã hội bao cấp, thì càng phải quan tâm nhiều đến những cái, riêng tư. Nghĩa là nếu muốn cái tủ gỗ tốt, đóng cẩn thận thì ít nhiều phải làm cho người thợ đó vui lòng, dù không phải nói ra bằng lời, khi y ở một cương vị là thủ trưởng, của cái khu vực đó.
Tổ kỹ thuật lại ở ngay đầu lán thủ công, từ đây nhìn ra đường chỉ 2 chục mét, vì thế đã nhiều ngày Lầu Chí Chăn và Vũ Viết Tinh đã đổ xô ra, khi có một đoàn người trong Nam ra tiếp tế. Tâm trạng của Chăn và Tinh như vậy cũng là đương nhiên, vì hai người đã nhận được quà của gia đình, từ trong Nam gửi ra. Chỉ có tôi, tôi có một chút ý nghĩ hơi lẩm cẩm, nên tôi chả mong ngóng? Dù rằng:
Biết đâu… trong đám người đi ấy! Lại chẳng có người của… chính tôi?
Đúng như tôi đã suy ngẫm, từ những ngày đầu vào trong nhà tù VC. Bản tính tạo nên cuộc đời, nói khác đi chính bản tính của mình đã tạo ra cuộc sống của mình. Bản tính lại không thay đổi được. Giang sơn thì dễ chuyển, nhưng bản tính thì khó dời.
Tôi đã mang một quan điểm: Cái gì đẹp, tốt, hay, hãy mang đến cho bố mẹ, họ hàng, người thân của mình cùng hưởng. Ngược lại những sự đau thương bất hạnh, thì hãy kiên trì chịu đựng, đừng bắt người thân chịu lây với mình. Chính vì những ý nghĩ lẩn thẩn ấy, từ khi miền Nam bị mất, tôi nhất quyết không viết thư về Nam dù cho nhiều cán bộ giáo dục đã khích lệ cổ vũ anh em biệt kích, hãy viết thư thăm hỏi và báo tin cho thân nhân ở miền Nam, biết về mình. Tôi hiểu trước đây Biệt Kích GĐ (biệt kích gián điệp) khai báo với chúng, chúng chưa có dịp xác minh. Bây giờ là lúc chúng đến từng địa phương, từng gia đình để kiểm tra lại sự việc. Vì thế về một mặt, không những chúng khích lệ, mà còn tạo điều kiện cho Biệt Kích GĐ viết thư, về cho gia đình thân nhân. Mãi chúng cũng không thấy tôi viết một lá thư nào về miền Nam. Chúng đã hỏi thẳng tôi, tại sao? Tôi cũng đã thẳng thắn trả lời chúng:
- Thưa các ông, 17-18 năm xưa tôi đã bất ngờ ra đi bố mẹ anh em không hề biết. Chắc rằng bố mẹ, anh em tôi đã đau đớn, khóc thương nhiều. Do thời gian nỗi niềm thương đau ấy, chìm dần vào quên lãng, như một đống tro đã tàn. Bây giờ báo tin cho bố mẹ biết, là lại bới cái đống tro tàn đau thương đó ra. Bắt người thân lại khóc lóc nhớ thương, thậm chí phải chạy vạy tiền nong, mò mẫm ra thăm chồng, con vẫn còn ở trong tù ở ngoài Bắc, chẳng có ngày về. Như vậy là càng làm cho gia đình, thân nhân buồn khổ thêm. Cho nên, trừ phi khi tôi được tha, tôi mới báo cho bố mẹ, thân nhân tôi biết mà thôi.
Thậm chí tôi đã viết thư hộ, cho những anh em người dân tộc và có khi còn được hưởng những quà cáp của gia đình một số anh BK, từ trong Nam gửi hay trực tiếp ra Bắc. Nhưng tôi vẫn một lòng đè niềm thương, nỗi nhớ vào sâu kín trong lòng. Tuy niềm khắc khoải giằng xé lòng tôi, tưởng như nhiều khi không thể kìm chế được: Bố mẹ, các em, họ hàng, bạn bè trong bao nhiêu năm? Bao nhiêu những biến thiên, chìm nổi trong khói lửa, của quê hương. Ai còn, ai mất, ai sẽ như thế nào?
Nhìn lên bầu trời của Thanh Phong hôm nay, tôi cứ đê mê ngắm mãi, cái màu xanh hy vọng của da trời. Những lọn, những cục bông gòn trắng nõn nà, ai để vương vãi lung tung rải rác khắp trên miếng thảm, màu xanh thương yêu? Những miếng bông gòn vương vãi ấy, từ chân trời phía Tây đang từ từ chậm chạp tiến về Đông.
Vài tiếng quang quác thanh thanh của một đàn cốc bay ngang, như nhắc nhở tôi đã bắt đầu vào Hè. Mấy cô nàng én của mùa Xuân, đã vội vàng gọi những chàng cốc, đến thay phiên trực, mà tôi đâu có hay. Chỉ vì kỳ này tâm hồn tôi, đã nhờ gió đưa về miền Nam thương yêu của tôi, hơi nhiều.
Thoáng bóng ông cán bộ toán, đang lững thững tiến về chỗ tổ kỹ thuật của chúng tôi. Đây là ông Lê Hoài Lĩnh (trung sĩ) mới thay tên cán bộ Hoàn, 2 ngày hôm trước. Những tên cán bộ khác, tôi đều gọi là ” y ” hoặc ” tên “. Nhưng với ông Lĩnh, tôi đã phân biệt đối xử, chỉ vì, mới qua lại vài câu nói và cách hành sử tôi đã thấy ông cán bộ Lĩnh có cái ” máu lính và bụi đời ” nên tôi khoái mà thôi!.
Ông Lĩnh đã bước vào, chúng tôi chưa kịp chào, thì ông ta đã niềm nở vừa như hỏi, vừa như chào chúng tôi trước:
- Các anh có thèm rau lắm không? Buổi họp hôm qua ban giám thị đã quyết định, chiều nay sẽ có một bữa rau cải đầu mùa của trại, cho các anh!
Nói rồi ông ta lại tất tả tiến sang phía nhà kho của trại. Nguồn tin ” bữa rau cải đầu mùa ” từ tổ kỹ thuật phát ra, đã nhanh chóng lan tràn khắp cả toán. Mặt chúng tôi người nào cũng phơi phới, cứ như mới nhận được tin người yêu của người mình “ghét” đi lấy chồng!
Nếu biết rằng tôi đi lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy (kẻ thù của người yêu) có cười không?
Hoan hô anh em các toán rau! Vì chủ nghĩa xã hội đã nỗ lực thi đua phục vụ anh em tù, trại Thanh Phong có “bữa rau cải đầu mùa”. Hai toán rau: Quý Chổi, toán rau xanh, chung cho cán bộ và trại Hoàng Ngọc Chính, toán rau cải thiện riêng cho tù. Không biết toán nào thực sự được niềm vinh dự, nhận những tiếng hoan hô, của tù Thanh Phong chúng tôi?.
Cũng qua ông cán bộ Lĩnh ”máu lính” này, những ngày sau đó tôi biết được một số tin, mà bình thường tôi không thể biết:
- Kỳ này cán bộ các trại giam chuyển vào trong Nam rất nhiều, ông Lĩnh cũng muốn lắm, nhưng không được bình bấu hay chỉ định.
- Trung Quốc đánh sang 6 tỉnh phía Bắc của ta. Chúng đã rút về nước 5/3/79. Điều đáng nói là, khi chúng kéo quân về nước, chúng đã cho di chuyển các cột mốc biên giới vào trong đất của ta hàng 4, 5 chục cây số.
- Tên chánh giám thị Nguyễn Huy Thùy (thiếu tá) đi Liên Xô dự lớp học đặc biệt, về quản lý trại giam. Tên Đại úy Hà văn Nho, mới lên làm quyền Giám thị. Chúng tôi (tổ kỹ thuật) đang đóng cái tủ gỗ lát (tủ lệch kiểu Đông Đức) cho tên Nho này.
Thấy y rất săn đón cái tủ của y, tôi càng bầy ra nhiều kiểu bàn ghế về gỗ lát. Tôi biết gỗ lát là loại gỗ quý, loại quốc cấm của XHCN. Loại gỗ này rất quý ở trong rừng Thanh Hóa, các nơi khác rất hiếm. Đã có lệnh cấm từ trung ương là không được khai thác. Nhưng tôi nghĩ đối với công an, nhất là CA quản lý trại giam, còn ai là người kiểm soát? Vì vậy tôi càng đưa những “miếng mỡ ” ra trước miệng “con mèo” xem nó ra làm sao?
Tôi đã ra chỗ Quách Nhung, mới được làm toán trường toán xẻ. Được Quách Nhung cho biết, toán xẻ được lệnh của giám thị, dành riêng ra hai cặp xẻ, chuyên xẻ gỗ lát cho tên Nho. Toán lâm sản do Nguyễn Huy Lân, cũng được chỉ định 4 người, hàng ngày vào rừng sục xạo, lên núi xuống vực tìm cây gỗ lát, để hạ v v .
Tối hôm qua đã khuya muộn, kẻng cấm 9 giờ tối đã lâu lắm rồi, một giọng miền Nam khàn khàn ểu ợt, gần như hết hơi:
- Theo tên “Bịp” tập kết ra Bắc! Nay nó đã chết xanh mồ rồi! Miền Nam cũng được ”giải phóng” rồi, mà còn không cho tao về ……..
Đêm rừng khuya, nghe tiếng chửi bới thều thào, gần như không còn hơi thở, đã làm não ruột lòng tôi, và chắc cũng làm “héo úa ” nhiều người tù khác.
Tiếng chửi bới, tiếng nỉ non như không còn sinh khí, nhưng phát ra ngay ở bệnh xá, phía bên kia sân trại (15m). Tôi đã biết đó là của bác Đặng Minh Chánh. Tôi làm sao quên được bác! Ngay từ đầu năm 1968, khi tôi mới bắt đầu từ Hỏa Lò lên trại trung ương số I vào phân trại E, tôi đã gặp bác, một cán bộ huyện ở Bến Tre (quê hương đồng khởi) tập kết ra Bắc năm 1954.
Ba năm sau (1957) đã bị bắt vào với cái tội: Không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách, của Đảng. Người bác thật cao ráo, bộ mặt quắc thước với hai cái tai thật to. Nếu gặp thời, thì cũng đôn hậu ”cha già dân tộc” như ai. Nhưng đã không gặp thời, lại bất hạnh nữa, nên bác đã phải chuyển đổi bao nhiêu trại tù. Bây giờ 1978 tôi vẫn gặp bác ở đây, bác đã tù 21 năm rồi.
Sáng hôm sau, tôi gặp anh Mai Nhuệ Anh BK, làm y tá trưởng (phụ tá là Lê Ngung cũng là BK) của trại. Tôi được anh Anh cho biết bác Chánh đã tuyệt thực 2 ngày rồi, bác nhất định không ăn uống gì cả. Ngày đêm, khi nào tỉnh ra là chửi cộng sản không tiếc lời. Tôi dự định trưa nay không ngủ trưa, sẽ sang thăm bác.
Sau khi cơm nước xong, tôi lỉnh sang bệnh xá. Gọi là bệnh xá mà chỉ có 4 cái gường cá nhân. Mai Nhuệ Anh rất từ tốn và có nhiều tình người, tỏ ra một người có lòng tự trọng cao. Anh chỉ vào trong góc, một cái mùng rách vàng khè, càng làm cho chỗ góc đó tối hơn:
- Bác Chánh nằm kia!
Nhấc cánh màn, tôi đờ người, tim tôi như bị bóp nhẹ ! Bác Chánh đây ư? Một người da xám ngoét, cái mặt bé choắt, chỉ còn 2 cái tai to, tôi mới nhận ra bác Chánh. Tôi cầm nhẹ tay bác, đôi mắt của bác lờ đờ nhìn tôi, như chợt nhận ra tôi, mắt bác như có một luồng sinh khí mới, miệng bác mấp máy phều phào, rời rạc:
- Bình… hả? Cố… gắng… cho… quê… hương…!
Bác nấc lên, rồi bác nằm yên! Mai nhuệ Anh đã nhè nhẹ nghẹn ngào:
- Bác đi rồi!
Tôi chả hiểu bác bảo tôi cố gắng cho quê hương, điều gì? Trong khi… tôi vẫn trong tù..! Rồi đây tôi cũng sẽ như bác mà thôi?
Chạnh nỗi niềm riêng của mình, lòng tôi lại càng thương bác. Mắt tôi đã mờ đi, trong niềm xúc động dâng lên đầy lòng! Dù gì tôi cũng phải tôn trọng một người, đã cả một đời không những đã khổ đau về vật chất, mà còn khổ đau về tinh thần. Cái khổ đau giằng xé, nội tâm bác cho tới lúc lìa đời, chỉ vì đã lầm. Bác đã lầm tin theo một con Chằn Tinh, đóng vai là một Quan Thế Âm Bồ Tát. Bác đã phải trả một cái giá cho sự lầm lỡ, dại khờ của bác là một cuộc đời.
Tin bác Chánh ra đi, Lê Ngung và một số người chạy bổ vào. Cũng là lúc kẻng đi làm chiều rống lên, tôi ghé vào tai Ngung:
- Ngung đặc biệt lo cho bác Chánh nhé! Tôi sẽ tình nguyện đóng cho bác một cỗ quan tài, hết điều kiện của tôi.
Ngay chiều hôm ấy, khi ra lán, tôi đã khẩn khoản nói với ông Lĩnh cán bộ toán: Tôi và Chăn tình nguyện làm thêm giờ, đóng quan tài cho bác già Đặng Minh Chánh. Ông Lĩnh hơi ngần ngừ, vì sợ chúng tôi làm chậm cái tủ cho giám thị, Chăn và tôi đã dõng dạc:
- Thưa cán bộ, cỗ quan tài chúng tôi chỉ làm trong 2 giờ, vì thế sau giờ giải lao, chúng tôi mới bắt đầu làm quan tài?
Ông Lĩnh không nói gì, nhưng nhìn qua ánh mất, tôi đã biết là chúng tôi đã được sự chấp nhận.
Chúng tôi đã lựa loại gỗ tốt, chịu nước, lâu mục. Chúng tôi bảo nhau thẳm khít, bào kỹ. Chúng tôi làm cỗ quan tài với tâm trạng: Làm đẹp, làm tốt như một nén hương lòng, của những người Việt lầm than. Chào mừng một người cộng sản (ở phân trại E phố Lu, bác Chánh đã nói với tôi, bác có 5 tuổi Đảng) đã sớm quay về với dân tộc, trước khi chết.
Đúng lúc kẻng tan tầm chiều, chúng tôi đã làm xong cỗ quan tài. Chúng tôi còn định lấy vẹc-ni quét một lượt, nhưng anh Trần Bá Đôn, toán trưởng nói không nên. Vì chưa có quan tài tù nào, được sơn quét cái gì.
Khi toán vào tới trại, được biết: Lệnh của cán bộ trực trại, không một ai được vào bệnh xá, nếu không được phép của cán bộ. Y là chuẩn úy tên Hòa Ba Tai, y được tù gọi là “ba tai”. Tai phải của y rách thành hai mảnh, vì y hắc búa và ác ôn, nên tù mới gọi y như vậy.
Điểm xong, tù vào chuồng. Bấy giờ mới có 4 cậu hình sự tự giác khênh bác Chánh ra nghĩa địa tù. Chẳng biết bác có họ hàng, con cháu gì ở trong Nam không? Có khi họ còn trách bác, đi theo bác Hồ từ ngày ấy, chắc bây giờ làm to lắm nên đã quên cả bà con, bạn bè?
Cả cái đêm hôm đó, tôi cứ quằn quại trằn trọc mãi, cũng không chớp mắt được. Câu chuyện của đời bác Đặng Minh Chánh, cứ quấn mãi vào lòng tôi. Ngày hôm sau, buổi đi làm trưa về, tôi lại lén ra buồng y tá, để nói chuyện với Mai Nhuệ Anh và Lê Ngung, biết thêm được vài chi tiết về bác Chánh. Cũng qua dịp này tôi có điều kiện chuyện trò, với Ngung và Anh một chút về quá trình: Lê Ngung bị bắt từ 1967 trong một toán BK tên HADLEY, tôi biết thêm cậu Vũ Viết Tinh trong tổ kỹ thuật của tôi, cũng cùng toán với Ngung.
Toán HADLEY gồm 11 người. Ra Bắc ngày 26- 1- 1967. Nhẩy ở vùng Hà Tỉnh.
1. Toán trưởng là Lê Văn Ngung, hiện ở Baltimore, Maryland.
2. Vũ Hình chết ở Missouri 2001, do ung thư phổi.
3. Nguyễn Thế Khoa, truyền tin trưởng. Tha 1982, hiện ở VN.
4. Nguyễn Huy Khoan, vì trốn trại nên là người duy nhất của toán, mãi tới 28-12- 1984 mới được tha từ trại Tân Kỳ, Nghệ An trong khi hầu hết toán Hadley được tha năm 1982.
5. Lê Văn Lào, hiện ở Chicago.
6. Phạm Ngọc Ninh, hiện ở CA.
7. Phạm Viết Phúc, Truyền tin phụ, đã chết ở Sài gòn.
8. Trần Văn Quy, Toán phó, hiện ở Minnesota.
9. Lương Trọng Thương, chết 1970 tại trại tù Phong Quang.
10. Vũ Viết Tinh, hiện ở Indiana.
11. Vũ Như Tùng, hiện ở Chicago.
Còn Mai Nhuệ Anh lại ra Bắc trước Ngưng gần một năm. Toán của Anh là HECTOR BRAVO B. Ra Bắc ngày 13-9-1966, gồm 12 người. Địa bàn hoạt động tại tỉnh Quảng Bình, gần đường mòn HCM. Do một Thiếu úy: Đặng Đình Thúy của trường Sĩ Quan trừ Bị Thủ Đức, làm cố vấn hiện ở San Jose.
1. Mai Nhuệ Anh ,Toán trưởng, hiện ở Wa. State
2. Vũ Văn Chí ,Toán phó, hiện ở Louisiana
3. Nguyễn Văn Đình, Truyền tin trưởng, hiện nay ở Cali
4. Nguyễn Văn Độ, hiện ở Cali.
5. Hà Trung Huấn, truyền tin phụ, chết trận ngày 13-9-66.
6. Hoàng Đình Khả, cũng chết khi chiến đấu 13- 9- 1966
7. Lê Ngọc Kiên, hiện ở Cali
8. Trần Trọng Nghĩa, hiện ở Cali
9. Âu Dương Quy , hiện ở Cali
10. Tống Văn Thái, Truyền tin phó, hiện ở Cali
11. Nguyễn Văn Dũng, hiện ở Cali
Sáng hôm nay, tôi đang cắm cúi lắp cái ngăn kéo cho cái tủ gỗ lát của Hà văn Nho, nghe ồn ào léo nhéo ở phía nhà kho. À thì ra toán nông nghiệp của Phạm Ngọc Ninh (Ninh côi) đang ôm, vác vận chuyển những bao tải lạc củ (đậu phụng) vào kho . Tôi, Chăn và Tinh liếc nhau, nhưng như cùng hiểu; “làm sao kiếm được một ít lạc bây giờ, thì đúng là chúng ta được vào Thiên Thai”.
Tên cán bộ toán nông nghiệp trông rất còn trẻ, chỉ 27- 28 là cùng. Y nhìn qua lán mộc, chân y tiến bước sang, tiến vào ngay tổ kỹ thuật của tôi. Hơi gật đầu chào y theo xã giao và theo thủ tục. Y cũng hơi gật đầu, đáp lễ lại chúng tôi. Y sờ tay, quan sát cái tủ tôi đang làm, rồi ra vẻ trầm trồ:
- Cái tủ đẹp và gỗ cũng đẹp!
Thời cơ đến! Mặc cho y ngắm nghía cái tủ, tôi quan sát loáng một cái, hiện trường. Tôi khẽ bảo nhỏ, Chăn và Tinh:
- Tôi sẽ nói chuyện với tên cán bộ này! Các cậu tính sao để kiếm tí chút!
Tôi liếc nhanh tên CAVT, đang cầm khẩu AK đứng gần nhà kho. Tinh kiếm cớ ra hỏi chuyện tên đó cái gì, để che mắt. Chăn làm hiệu sao với toán trưởng Ninh (côi) (Phạm Ngọc Ninh) mở sẵn một bao lạc ra. Chăn chỉ việc vào xúc, chừng 1 kg là được rồi .Làm lẹ !
Tuy tôi quay lại tán chuyện, với tên cán bộ nông nghiệp về chiếc tủ v.v… nhưng mắt tôi không bỏ qua một hiện tượng nào, của hiện trường. Tôi đã thấy Chăn, Tinh, và Ninh Côi đã nhịp nhàng, tiến hành từng động tác. Tới chỗ Tinh tiến đến tên CAVT, Chăn lỉnh vào nhà kho. Tôi choáng cả hồn, làm câu chuyện tôi đang nói với tên cán bộ, bị ngắt quãng. Nếu y tinh ý, y sẽ thấy bất thường. Lầu Chí Chăn ôm luôn cả một bao tải lạc, lủi ra phía sau toán mộc, khuất chỗ 6 -7 cái giường đóng rồi, đang để chồng lên nhau. Anh chàng Người Nhái này liều thật! Tôi cứ tưởng kiếm được một vài kg lạc, là đạt yêu cầu rồi !
Chính Ninh Côi và cả toán nông nghiệp, những cậu nhìn thấy cũng hết cả hồn. Sau này tôi được biết Ninh Côi đã mở sẵn một bao tải lạc, cho Chăn lẹ vào xúc. Thế mà Chăn lại ôm ngay một bao tải khác, nặng hàng 40 kg.
Một kỷ niệm không quên. Bây giờ ở Mỹ (2004) Chăn chạy xe tải, Ninh Côi chạy Taxi ở Cali và tôi. Qua điện thoại, đôi khi còn nhắc lại cái buổi ” chôm ” bao tải đậu phụng ngày ấy, ở trại Thanh Phong.
Chiều hôm ấy, ông Lĩnh và tên CAVT cho toán mộc ra Suối Tiên (hay sông Tràng) tắm giặt như mọi khi, mỗi tuần. Tâm hồn tôi như bay lượn, với khung trời suối Tiên. Cũng 2 cái guồng nước, chéo 2 phía, ở bên kia giống suối như mọi khi. Hôm nay dưới ánh nắng chiều xiên khoai, nửa sáng, nửa tối. Tôi cổ cảm tưởng hai guồng nước, như 2 con mắt của một ông thần khổng lồ, đang nhìn chúng tôi tắm rửa ở dưới dòng suối. Ở một cành cây rừng cạnh bờ suối, một con chim cánh chả xanh biếc, lao vụt xuống suối để bắt cá, như chiếc ” Thần Sấm ” từ trên trời lao xuống Hà Nội rắc bom năm xưa, từ cửa sổ xà-lim I Hoả Lò, tôi đã chứng kiến.


17. TỰ THẮNG GIẢ HÙNG

Nhìn anh em toán mộc, kỳ cọ đùa vui với dòng Suối Tiên, tôi chợt nghĩ, biết đâu ở ngay phía đầu nguồn bên kia, lại chả có vài nàng sơn nữ cũng đang tắm rửa, kỳ cọ như chúng tôi trong buổi chiều tàn của núi rừng? Nghĩ như vậy, tôi lấy hơi, lặn sâu xuống đáy suối, và ngâm ở dưới ấy một hơi dài, cho lòng đê mê, cho võng đời đong đưa.
Tôi trèo lên chỗ Khánh Lèo (Phạm Ngọc Khánh) đang ngồi trên một hòn đá to, trồi lên giữa suối. Dựa lưng vào Khánh, tôi đưa mắt nhìn khắp núi đồi, của vùng Suối Tiên. Tai nghe tiếng chim rừng líu lo, hòa với tiếng réo roàn roạt của dòng nước, xoáy quanh mấy hòn đá nằm giữa dòng, thành một điệu nhạc nghê thường của Thiên Thai. Phải rồi! Suối Tiên thì phải ở cõi tiên! Mình cứ hình dung tưởng tượng đây là cảnh tiên, cảnh của Thiên Thai mà cụ Văn Cao thời tiền chiến, đã khảm (phổ) nhạc vào:
Thiên Thai…. chốn đây… Hoa Xuân … chưa gặp bướm … trần gian…. Có một mùa đào…dòng ngày tháng… chưa.. tàn qua … một lần… Thiên Thai … chúng em xin dâng.. cho chàng … hai trái… Đào thơm… Ái ân thiên tiên.. em không ngờ phút mê cuồng… có một lần… Ánh trăng … tan thành suối… trần gian….
Anh chàng Khánh thật là bất lịch sự, cậu ta dịch mạnh chiếc lưng ra, làm cho tôi ngã “tỏm” xuống nước. Tan biến một giấc mơ tiên của tôi, chỉ có… một lần !
Trên đường theo toán về trại, tôi cứ luẩn quẩn suy nghĩ mãi: Nguồn vui nào đã đẩy tôi vào một giấc mơ tiên vừa qua? Đúng rồi! Chính do bao tải lạc 40 kg, của buổi sáng hôm nay. Cơm nước chiều vừa ăn xong, là tôi chuẩn bị hưởng thụ mấy phút hạnh phúc, một ngày của tôi.
Tôi mà không trình bày lại sự việc, để cho nhiều người cùng biết thì “mấy phút hạnh phúc” của tôi sẽ giảm “sướng” đi rõ rệt.
Xin thưa sự việc như sau:
Hơn 20 ngày trước, do một sự may mắn, tôi và Quách Nhung đã “móc ngoặc” mua được hai bao thuốc lá Điện Biên. Sau những thảo luận cân nhắc, ý kiến của tôi đưa ra đã được Quách Nhung đồng ý “ngoắc” ngón tay út.
- Khổ đau, nặng nhọc làm càng nhanh, để rút ngắn thời gian khổ cực lại
- Hạnh phúc, nhàn hạ phải biết kìm hãm, chế ngự để kéo càng dài, không thể kéo được nữa, mới chịu thôi.
Do điều kiện khó khăn ở trong tù, chúng ta có hai bao thuốc. Mỗi một ngày, sau khi cơm nước buổi chiều, mỗi người chỉ kéo một hơi thôi, như thế chỉ hết nửa điếu thuốc. Kiên trì, cương quyết chỉ một hơi! Vừa không hại sức khỏe, không tốn tiền, vừa ngon, say sưa vì 24 giờ mới hút có một lần. Dù ngày vui, hay ngày buồn cũng không thay đổi. Điều này duy trì được, cũng nói lên bản lĩnh chế ngự của một người. Chúng tôi học theo một ý tưởng trác tuyệt, đã trở thành danh ngôn của cụ Dương Hùng, đời Hán:
Tự tri giả anh… tự thắng giả hùng.
(Tự kìm chế, tự biết được chính mình, đã là giỏi, là anh hùng rồi).
Rất buồn cười, Quách Nhung cũng như tôi, mỗi lần hút đều phải cố thở hơi ra hết, để lấy sức kéo vào. Hút xong, mặt anh nào cũng đê mê, đờ đẫn, mắt lờ đờ. Mặt đực ra, như mặt ngựa mót đi cầu. Như thế một điếu thuốc lá Điện Biên, chúng tôi chỉ kéo được bốn hơi là hết.
Ngày hôm qua (May 5- 04), gọi điện thoại sang Atlanta. Quách Nhung đã nói nguyên văn: “ở Mỹ bao nhiêu thuốc ngon mà em vẫn thèm, một hơi thuốc lá Điện Biên ngày ấy!”
Quách Nhung đã xấp xỉ lục tuần, được ra tù 1983. Lập gia đình, đã có bốn con, ba gái một trai. Đứa gái lớn đã vào Đại học và đứa con trai, nhỏ 15 tuổi. Hiện nay Quách Nhung sống, hạnh phúc với gia đình ở Atlanta.
Toán BK của Quách Nhung hơi đặc biệt (toán gồm 5 người), nhưng hiện nay (12/2004). Chỉ duy nhất Quách Nhung còn sống. (những người khác chết, nhưng không phải là chết trận).
Tên toán là Horse, ra Bắc ngày 10/5/1965. Địa bàn hoạt động thuộc tỉnh Sơn La.
1. Đinh Thế Chân, toán trưởng, bị cùm chết ở trại Phong Quang, Yên Bái.
2. Quách Nhung, toán phó, hiện ở Atlanta Mỹ.
3. Bùi Văn Ơn, nghe miền Nam mất. Anh buồn, không chịu ăn uống, rồi mang bệnh chết 3/1976 tại trại Hoành Bồ, Quảng Ninh.
4. Đinh Công Sửu, bị ung thư chết 6/1980 tại trại Thanh Phong, Thanh Hoá .
5. Nguyễn Quốc Thắng, chết vì sốt rét 3/1986 tại tỉnh Đồng Nai, VN.
Tôi nhớ lại một buổi, hôm đó là sáng Chủ nhật, sau khi làm vài động tác thể dục như mọi lần, tôi quay vào nhà. Thoáng thấy bóng bác Chấp đang đứng trầm ngâm một mình, ở một góc sân. Đã từ lâu, tôi muốn dành một buổi thăm hỏi bác về toán Castor của bác.
Hàng chục năm nay, từ ngày gặp bác. Qua các anh em BK, tôi đã hiểu toán của bác là toán BK đầu tiên, nhảy ra Bắc bằng máy bay. Và cũng là toán khởi đầu bị phản gián, giống như một chuyện đã xẩy ra giữa 2 cơ quan tình báo IS (Intelligence Service) của Anh và Gestapo của Đức trong thế chiến II. Sau này đã đóng thành phim “Đây Luân Đôn gọi Bắc cực” (Londre appel pole Nord), tôi đã được xem. Hôm nay có dịp, tôi đã kéo, mời bác vào một chiếc ghế vắng, trong hội trường.
Bác rất vui và niềm nở, nhưng khi tôi đề cập tới toán Castor, thì bác tỏ ra uể oải, lờ đờ như không muốn nhắc lại. Gặp nhau từ hàng chục năm, qua nhiều các trại tù, tôi rất quý mến bác, và tôi cũng được lòng mến thương của bác. Lúc đầu, tôi chưa hiểu nên rất ngạc nhiên, sau tôi hiểu dần tâm trạng của một người cảm thấy một chút sượng sùng, vì công việc của mình đã làm. Cho nên, buổi nói chuyện ấy, tôi chỉ biết sơ lược về toán Castor.
Toán Castor nhẩy ra Bắc ngày 27/5/1961. Địa bàn hoạt động thuộc Mộc Châu, Sơn La (Bắc Thái). Toán có 4 người:
1. Hà Văn Chấp, toán trưởng, hiện ở CA. (2/05).
2. Lò Văn Piếng, truyền tin, hiện ở VN, do lằng nhằng ghép người, phái đoàn Mỹ từ chối, nên không thể đi H.O.
3. Quách Thức, toán viên. 1982 được tha về lấy vợ, vết thương cứ loét dần, 1987 đã chết ở VN.
4. Đinh Văn Anh, toán phó, hiện ở CA. (2/05)
do Nguyễn cao Kỳ lái máy bay thả toán, lại thả vào một bản làng. Quách Thức đã bị thương do đạn du kích, ngay khi toán đổ bộ. Kiện hàng rơi mãi cuối làng.
Tôi vẫn gặp cả 4 anh ở trong tù. Rồi dòng đời đẩy xô, xê dịch, chìm nổi của mỗi người, với hoàn cảnh nghiệt ngã của quê hương, để rồi tôi đã gặp lại bác Chấp và Đinh Anh mấy lần, mỗi khi tôi có dịp ghé đến CA. Dù chuyện trò, ăn uống khi gặp lại, nhưng chẳng ai hỏi lại nhau những chuyện thuộc quá trình. Hơn nữa bác Chấp đã 84- 85 tuổi rồi, tâm trí của bác đã bị thời gian hút hết mầu mỡ, chỉ còn lờ mờ xộc xệch trong quãng đời cập quạng, để chờ đi về cõi vĩnh hằng.
Giai đoạn này, do tôi cần một số dữ kiện cho tập cuối cùng của TĐ. Mới hôm qua (25-2-05) tôi đã gọi nói chuyện với anh Đinh Văn Anh gần 2 giờ liền, để biết thêm những chi tiết ngộ nghĩnh của toán Castor, tưởng như nếu phải viết một bài báo mấy kỳ mới tạm đủ. Những chi tiết tưởng như không thể tin được nhưng tôi đối chứng với Phan Thanh Vân (vừa tròn thất thập) hiện ở Washington DC, Đinh Văn Anh 74 tuổi ở CA và với những BK khác, tôi phải tin:
- Nguyễn cao Kỳ phải lái máy bay ra Bắc lần thứ 3, mới thả được toán Castor.
- Từ sự quan hệ thân mật giữa ông Trần Khắc Kính và Nguyễn Cao Kỳ, đã chuyển đổi được cuộc đời Nguyễn Cao Kỳ.
- Phan Thanh Vân phải lái chuyến bay định mệnh 2-7-1962, để rồi bị tên lửa tầm nhiệt của cộng sản chờ săn hạ ở xã Tô Hiệu, Cồn Thoi, giữa ranh giới Thanh Hóa và Ninh Bình.
- Đinh Văn Anh, VC không khai thác được khóa an toàn (security), chúng phao tin ĐA xuống dù vào cây, đã chết.
- Điều trùng hợp lạ lùng là lại có 3 anh chàng Lò Văn Piếng. Cùng là người Thái trong, lại cùng gia nhập biệt kích, nhẩy ra Bắc ở 3 toán khác nhau, nhưng chỉ có LVP của toán Castor làm truyền tin. Để rồi chính Việt Cộng cũng bị lầm, chúng chủ trương tha một người, lại tha một người khác.
Cái người đối với chúng có công, là Lò Văn Piếng (Bẩy Tá) cùng với Hà Văn Chấp gọi báo về cho tình báo miền Nam, sắp xếp cho chuyến bay tiếp tế của Nguyễn Cao Kỳ, vẫn còn trong tù. Chúng lại gọi tha cho Lò Văn Piếng (Bằng) mới bị bắt sau này ra công trường. Còn một Lò Văn Piếng (Duy) nữa, những tiếng ” lóng ” ghép theo, chỉ những BK người Thái mới phân biệt v.v.
Vì không phải chủ trương của người viết, nên xin không trình bầy tiếp.
Sáng hôm nay, một tin bất ngờ làm rúng động anh em BK, cũng làm rúng động cả trại tù Thanh Phong luôn. Một sự việc từ trước, chưa bao giờ xẩy ra với Biệt Kích, Gián Điệp. Bộ Nội Vụ (bộ CA) đã gọi tên, tha cho về với gia đình ở miền Nam 3 BK:
- Đèo Văn Bạch là trường truyền tin của toán Dauphine, án tù 18 năm. Như vậy anh Bạch chỉ ở tù 16 năm.
- Thân Văn Kính án chung thân, toán trưởng của toán PEGASUS bị bắt 20-2-1963. Như vậy anh Kính cũng chỉ tù hơn 16 năm.
- Anh Đinh Văn Lâm án chung thân,toán trưởng của ATILLA, ra bắc ngày 25-4 -1964. Như vậy anh Lâm chỉ ở tù 15 năm.
Toán DAUPHINE và toán PEGASUS tôi đã nêu ở trên rồi. Dưới đây là toán BK ATILLA ra Bắc 25-4 -1964. Toán gồm 6 người, do anh Đinh Văn Lâm làm toán trưởng, nhảy ở vùng Thanh Chương, Nghệ An.
1. Đinh Văn Lâm toán trưởng, hiện ở NJ (Mỹ) án phạt chung thân.
2. Nguyễn Văn Sửu án phạt 20 năm, hiện ở Atlanta (Mỹ)
3. Nguyễn Văn Hình án phạt 16 năm, truyền tin trưởng, hiện ở Australia.
4. Nguyễn Văn Thi án phạt 18 năm toán phó. Đã chết 27-8-1964 trong trại tù số 3, ở Nghĩa Đàn, Nghệ An.
5. Nguyễn Văn Kế án phạt 8 năm, hiện ở Cali (Mỹ)
6. Nguyễn Văn Hữu án phạt 6 năm, truyền tin phụ, hiện ở NY (Mỹ). Một điều hơi khác thường, với Nguyễn Văn Hữu.
Án phạt của Nguyễn Văn Hữu chỉ có 6 năm, nhưng mãi tới 7-1982 mới được tha. Như vậy, Hữu đã ở tù 18 năm. án nhẹ nhất, lại ở lâu nhất, của toán ATILLA. Toán nhẩy xuống, trong vòng một tháng sau là bị bắt.
Ba anh BK có án được tha, lại là loại có án nặng. Điều này làm xôn xao, cho toàn thể anh em Biệt Kích Gián Điệp. Mỗi người đều suy đoán, theo sự chủ quan của mình, cuối cùng chẳng có một cơ sở nào, để kết luận.
Đến cuối tháng 1-1980 gần Tết âm lịch lại gọi tên tha cho 2 anh nữa là :
- Hoàng Văn Vân, án chung thân thuộc toán Pégasus (tôi đã tường thuật). Như thế anh Vân cũng chỉ ở tù gần 17 năm. Hiện nay, anh Vân đang ở Atlanta.
- Đặng Công Trình án phạt chung thân. Anh Trình ở trong toán SCORPION (tôi đã tường thuật), nhẩy ra vùng Yên Bái ngày 17-6-1964, như thế anh Trình chỉ ở tù 16 năm rưỡi.
Qua 2 lần tha biệt kích, gián điệp của miền Nam trước hội nghị Paris. Mỗi lần tha như vậy, đều có 5- 7 anh tù hình sự cũng được tha. Nhìn vào từng cơ sở, hiện tượng, so sánh, cọ sát, tình hình trong cũng như ngoài nước. Rồi những dư luận của những thân nhân gia đình, của anh em BK ra thăm trong dịp tết âm lịch, tôi cũng nhận định suy đoán, theo sự hiểu biết chủ quan của tôi:
Có những điểm chung:
- Thành phần, hầu hết các anh được tha đều có án, và cùng chưa hết án.
- Không kể cái gọi là ” cải tạo ” tốt hay xấu.
- Phải còn khỏe mạnh, tỉnh táo.
- Những người có án nhưng đã ở quá án, lại không được tha.
- Những người không phải ra tòa xử, chỉ có cái án “cao su ” là tập trung cải tạo, thì hãy còn nằm yên đấy.
- Thời gian tù đầy hầu hết 15 – 18 năm, tuổi đã lớn, già, biết bao nhiêu bệnh tật, hiểm nghèo của những anh tù Biệt kích gián điệp Thậm chí có những toán BK được xử công khai có báo chí nội, ngoại tham dự. Tòa đã xử trắng án như toán Boone của Nguyễn Huy Lân. Tất cả các anh cũng tù 15- 16 năm rồi, bây giờ cũng cứ nằm đấy.
Như thế rõ ràng ai cũng thấy:
Việt Cộng tha những anh BK này là vì chính trị, là vì họ chứ không phải vì cá nhân, những biệt kích này. Qua tin đồn của những người ra tiếp tế, tổng hợp rồi suy ra:
- Những người di tản (30 – 4 -1975). Những người vượt biên của miền Nam họ có những thân nhân, chồng, cha, anh em phải vào cái gọi là ” trại cải tạo ” của Việt Cộng đặt ra.
Đầu tiên, nhà nước cách mạng ra thông báo:
Các hạ sĩ quan, binh lính đem cơm gạo, thực phẩm sinh hoạt trong 3 ngày. Gọi là đi học tập 3 ngày, mà như đi liên hoan. Mỗi ngày vài giờ lên lớp giải thích về hòa hợp dân tộc, về trách nhiệm của mỗi người dân với tổ quốc, quê hương. Còn thì chỉ ca, hát vui cười, để hưởng cái không khí mới của cách mạng.
Đúng 3 ngày, dự một bữa tiệc liên hoan, rồi ra về. Mặt ai cũng hồ hởi, vui tươi để rồi làm cái loa tuyên truyền. cộng sản không phải trả tiền, không phải chỉ dẫn, mà chúng không thể làm được.
Chừng một tuần sau, để cho sự tuyên truyền đó đã đủ ngấm, mới có lệnh mời các vị sĩ quan cấp úy, cấp tá v.v. . . đi học tập để thấm nhuần đường lối của Nhà nước Cách mạng. Nhà nước CM nghèo, các anh hãy mang cơm gạo, thực phẩm, quần áo sinh hoạt trong 10 ngày (rất biện chứng và hợp tình, lý).
Các vị sĩ quan cứ rầm rập, hớn hở mà đi, dặn vợ con, bạn bè những công việc trong 10 ngày nữa. Thậm chí, có rất nhiều chuyện, hiện nay nghĩ lại còn phải buồn cười. Có vị đã đặt tiệc ở nhà hàng, đến ngày đó mang đến số nhà ấy v.v… Để rồi các vị đi luôn, bây giờ đã 5 năm rồi, mà cứ đi… đi… … … mãi không chịu về .
Ở ngoại quốc, ở Mỹ có hội ân xá Quốc Tế sờ sờ ra đấy. Đa số thân nhân của các vị sĩ quan đó, đã làm đơn đến cơ quan ân Xá Quốc Tế, của Liên Hiệp Quốc để khiếu nại, để complain. Cơ quan ân Xá Quốc Tế của LHQ (VC đã là thành viên) chắc cũng đã nhiều lần bực bội phản kháng VC.
Chúng ta đã không lạ: VC lắt léo giải thích lằng nhằng, để kéo dài… … Nhưng những Biệt Kích, Gián Điệp này cũng có những thân nhân, vượt biên. Bây giờ họ đã biết chồng, cha, anh, em của họ đã đi tù, từ những năm 1960 – 1964-1965 cho tới nay 1980. Họ đã ở trước cả hội nghị Paris 27- 1- 1973 không những đã không được trao trả, mà còn giam giữ ở các trại tù miền Bắc, cho đến ngày nay v.v…
Hội Ân Xá, hay LHQ không thể tin được! Nhưng đơn từ, tên, tuổi, người thật, việc thật, không muốn tin, cũng phải tin. Họ ngạc nhiên hỏi VC, không còn thái độ lịch sự ngoại giao nữa. Tụi VC cũng không còn cái lý cù nhầy, lắt léo nào cho ổn. Cho nên, chúng đành vội vàng tìm những tên BK (như trên) tha về, (cho ra cái lồng lớn). Để những tên này, chống đỡ với dư luận, trong và ngoài nước, dùm cho chúng. Việt Cộng rất biết: Đành rằng mỗi một tên BK về miền Nam được bồi dưỡng hàng tuần, phải ký cam đoan một điều kiện: Khi về với gia đình ở miền Nam, tuyệt đối không được nói bất cứ một chuyện gì, về tù đày cùm kẹp ở các trại tù v.v… Nếu không giữ đúng thì anh sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Năm cái từ “hoàn toàn chịu trách nhiệm ” này. Bất cứ ai còn ở trong tay của VC (ở trong nước, cũng là trong tay VC) thì phải khiếp sợ 5 cái từ này: VC có thể bắt, giết bất cứ lúc nào, không cần phải có lý do.
Chúng ta cứ hình dung: Một anh BK như trên, về miền Nam gặp gia đình: Anh tương đối khỏe mạnh, tỉnh táo. Bố mẹ, hay vợ con hỏi:
- Án của anh bao nhiêu?
- Chung thân.
- Anh ở tù bao lâu?
- 16, 18 , 15 năm!
Như thế, ai cũng thấy nhà nước VC nhân đạo quá!
VC thừa hiểu dù bắt anh viết cam đoan, nhưng chúng biết chắc, sớm muộn anh sẽ nói rõ với bố mẹ, vợ con, bạn bè của anh. Nào VC cùm kẹp, bắt ăn ngô, khoai, sắn, đói khổ lắm v.v…
Bấy giờ ngay vợ con anh, bố mẹ anh nghe anh nói, nghe anh kể, những nỗi đói khát cùm kẹp, của anh sẽ bằng một ánh mắt: Anh tả oán như vậy để cho bố thương, vợ thương, chứ đâu mà Việt Cộng lại như vậy? Cụ thể nhất, là anh vẫn khỏe, hoạt bát, chưa hết án, đã được về! Không những chính người thân của anh, mà còn không tin anh, mà còn tự nguyện sẽ làm một cái loa tuyên truyền rất hữu hiệu, mà VC tuyên truyền thì không hữu hiệu được như thế!
Thực tế có biết đâu, Việt Cộng đã tuyển chọn hàng trăm Biệt Kích tù đày, gầy ốm yếu, bò lê, bò càng, ho hen què quặt. Những anh tốt đẹp nhất do phấn đấu riêng, hay trời cho cơ thể người đó v.v…
Sáng hôm nay xếp hàng theo toán ra lán thủ công như mọi ngày, cảnh vật chung quanh làm tôi hơi băn khoăn. Bây giờ đã giữa tháng tư, tôi đã nghe thấy những tiếng cuốc của cụ Nguyễn Khuyến, gào gọi mùa Hè về từ hơn một tháng rồi. Sao hôm nay còn có sương mù? Nhìn chiếc lán thủ công, nhà máy phát điện con con của trại ở cạnh chiếc đồi trọc, phía bên kia con đường dẫn ra Suối Tiên, mờ mờ trong sương đục. Làm tôi lại nhớ đến bác Hàn Mạc Tử:
Ở đây sương khói… …mờ nhân ảnh….
Ai biết tình ai……có……đậm đà?
Tôi và Lầu Chí Chăn đang thao tác kỹ thuật đặc biệt, cho cái bàn kiểu, gỗ lát, cũng cho ông giám thị Nho, thì có bóng tên Thượng úy Hoàng Duyên vào cửa lán thủ công. Y lại tiến đến tổ kỹ thuật, chúng tôi chào lấy lệ, rồi lại cắm cúi vào chiếc bàn. Y tiến sát gần, thấy thái độ của y ngập ngừng, tôi lên tiếng trước:
- Cán bộ có muốn đóng một cái bàn, thế này không ạ?
Mặt y tươi hẳn lên, rồi vồn vã:
- Tôi sợ anh không còn thời gian, để đóng bàn cho tôi!
Tôi và tên Duyên này cũng đã đôi lần chuyện trò quan hệ, giữa một người với một người, chứ cũng chưa hề có thân tình. Vả lại kỳ này có thể nói, là giai đoạn thoải mái nhất từ khi tôi ở tù.
Rất nhiều cán bộ, hoặc bộ đội (CAVT) Thiếu uý, trung sĩ, đã móc ngoặc với tổ kỹ thuật chúng tôi, để làm lén lút đồ tư. Cái hòm gỗ mỡ (2 cân gạo), cái bàn con uống trà (3 kg gạo) v.v… Chúng tôi hiểu nếu họ cứ xin cơ quan để làm đồ tư, giá cao hơn đến 8-10 lần, lại còn phải xét, duyệt, bình bầu lôi thôi. ở đây chỉ mất một phần 8 hay I phần 10 mà lại còn được gỗ tốt, làm kỹ. Hai bên cùng có lợi. Thỏa thuận 2 bên những quy định, chúng tôi làm xong, giấu ở đống vỏ bào nào, ở lán. Họ để gạo ở chỗ nào v.v…
Vì thế khi nghe tên Duyên nói: “Tôi không còn thời gian để đóng bàn cho y”. Tôi lại hiểu là: “Tôi làm đồ tư nhiều quá, còn thời gian đâu?” Thấy tôi như chưa nắm được câu nói, y đã nói rõ hơn:
- Anh đã có lệnh tha rồi !
Tôi cười, nhớ lại ngày Tết âm lịch vừa qua, đúng sáng mồng một Tết, một số chúng tôi ra ngoài sân trại gặp nhau chúc Tết, chuyện trò tâm tình của một ngày đầu Xuân ở trong tù. Có những anh trầm tư, cúi đầu một mình lê những bước chân chậm chạp, trong những góc vắng vẻ của cái sân. Thả lỏng cho dòng tư tưởng, đi theo những tuyến đường riêng của nó. Bỗng tên Hoàng Duyên, đeo chiếc hàm thượng úy đỏ chói, hớn hở đi vào cổng trại.
Một vài anh em, đã xô đến để chúc mừng buổi đầu Xuân. Tên Duyên cũng vồn vã chúc Xuân, với mọi người tù. Trong các buồng anh em càng kéo ra đông, nhiều anh em ca hát, thậm chí Toán Xồm còn mang cả chiếc đàn guitar chế biến đặc biệt ở trong tù, ra gẩy. Không khỉ ngày Xuân như được hâm nóng dần, tên Duyên quay lại mặt như hoa nở, cũng nhún nhẩy theo điệu đàn của bản nhạc vàng:
Xuân này con không về
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
Khi thấy mai đào nở vàng bên nương…
Mẹ thương con xin đợi ngày mai…
(Hình như của Trịnh Lâm Ngân.)
Tên Duyên còn vẫy tay, thúc giục một số anh, vẫn còn dè dặt đứng nhìn:
- Các anh hãy nhẩy và hát lên đi, cho vui ngày Xuân!
Tôi, Quách Nhung, Quách Rạng cũng nhún nhẩy với cô nàng Xuân, của khung trời Thanh Phong. Tôi biết tên thượng úy Hoàng Duyên này, hiện là chỉ huy của CAVT (gồm 2 đại đội), của trại tù Thanh Phong. Hôm nay y ra lán mộc, lại nói đùa với tôi , tôi cũng đùa lại chứ có ngán gì. Nghĩ thế, tôi cười nói:
- Bây giờ chỉ có một người nói tôi “được tha” tôi mới tin!
Mấy anh em chung quanh, đều quay lại mở to mắt nhìn tôi. Tên Duyên, cũng hấp him đôi mắt tò mò, ngước lên nhìn chằm chằm vào tôi:
- Ông Trung tá chánh giám thị, Nguyễn huy Thùy hả?
Tôi cứ nói thẳng, cái đùa bỡn trong lòng:
- Bây giờ chỉ có ông Trần Quốc Hoàn, (bộ trường bộ nội vụ) xuống cầu bào này nói: “ĐCB! Hôm nay ta tha cho ngươi!”
Làm gì có cái chuyện, ông Trần Quốc Hoàn xuống cầu bào, nói như thế? Nhưng qua buổi đùa bỡn này, tôi biết tên Thùy đi học Liên Xô về, đã lên Trung tá.


18. CHIM VỀ TỔ

Chuyện khó tin, mà lại có thật! Chỉ hai ngày hôm sau, một buổi trưa toàn trại đang ngồi xếp hàng chờ, để đi lao động như mọi khi, có mấy cán bộ lạ đã đọc tên tha 7, 8 người. Sáu, bảy người là tù hình sự, hai người tù chính trị là:
- Phan Thắng Toán (Toán Xồm)
- Đặng Chí Bình
Không những anh em bàng hoàng, mà chính tôi cũng bàng hoàng, đờ đẫn. Tám người vừa được đọc tên ở lại trại, không đi làm. Với bao nhiêu cặp mắt ngoái nhìn lại nhau, như muốn nói ngàn câu, tâm tư nhiều ngả. Đã có kinh nghiệm, trời đã chiều, còn phải làm nhiều thủ tục v.v. . . Chắc đêm nay chúng tôi còn phải ngủ lại trại, được tha hồ hàn huyên với các anh em. Đúng như thế! Chúng tôi được phát mỗi người một bộ đồ nâu mới, và được gọi ra hội trường để được lên lớp, giáo dục, làm giấy cam đoan v.v. . . Cái đêm hôm ấy:
Thâu đêm, suốt sáng xầm xì
Ngàn xưa, xin để chút gì ngàn sau.
Tôi đã mang nhiều những cánh thư, chứa đựng nhiều những nhắn nhủ nhớ thương, về cho một số gia đình anh em BK, ở phương trời phía Nam. Sáng hôm sau, một chiếc xe cam-nhông ọp ẹp chắp vá, từ cái thời (Bảo Đại mới lên ngôi) chờ ở ngoài cổng trại. Vì tôi về Sài Gòn nên được phát cho 48 đồng (tiền xe lửa) và một tuần, tem phiếu lương thực.
Cùng đi trên chiếc xe ra ngã ba Chòm Chuối, rồi ra ga tàu, có hai tên CA cũng đi phép. Chiếc xe bắt đầu từ giã trại Thanh Phong, cuốn bụi đường đất, tiến về phía Chòm Chuối. Nó lắc lư, nghiêng ngả, như vừa được nhắp mấy chén rượu nồng. Trên xe tôi ngước mắt nhìn trời xanh, với những đám mây vàng ửng hồng phía sau. Một đàn vạc hình cánh cung, đang sải cánh bay theo chiếc xe, miệng chúng kêu quang quác, như hoan hô chào mừng, tôi nghe như:
“Hôm nay, các anh mới thực sự được ra chiếc lồng to! “
Những nét trầm tư, những cử chỉ lúng túng, xốn xang của những tên tù mới được tha, đã bị niềm phởn phơ hưng phấn quấn quít, làm cho hai tên CA cũng vui lây. Đến ngã ba Chòm Chuối, tôi đã có chủ trương từ đêm qua, thay vì lấy vé tàu xuôi về Nam, tôi lại trở ngược ra Hà Nội. Tôi đã có ý nghĩ rằng, phải về thăm Hà Nội sau 18 năm ở trong tù, vừa thực hiện được ý định, khi còn là công nhân “đểu‟, hơn hai năm trước. Vả lại, tôi có linh cảm, nếu không nhân cơ hội này, tôi khó có ngày trở lại đất Văn Vật mến yêu.
Toán Xồm và 5 cậu hình sự, không thích mặc bộ quần áo nâu. Các cậu tuy có những quần áo tư, nhưng đều đã đóng dấu của trại Riêng tôi, từ trong trại tôi vẫn mặc chiếc áo sọc tù có chữ “cải tạo” to tướng, ở trước ngực và sau lưng. Không những tôi không ngượng ngùng như các cậu hình sự, mà tôi vẫn thấy phảng phất niềm tự hào, của con đường tôi đi. Tôi đã bán ngay bộ đồ nâu cùng với các cậu, lấy 7 đồng. Thế là chỉ có mình tôi duy nhất vẫn mặc quần áo tù. Tôi đường hoàng, mặc bộ quần áo này về lại thủ đô Hà Nội.
Ở Chòm Chuối hai tên công an, 5 cậu hình sự, Toán Xồm và tôi cùng ngồi uống nước ở một căn lều bán cơm. Hai tên CA về mãi Phú Thọ, chỉ có hai cậu hình sự về Phủ Lý. Vì tôi cũng về Hà Nội, nên tất cả định đưa tiền cho hai tên CA, cùng lấy vé luôn. Mười hai đồng một người về Hà Nội, 9 đồng vé về Phủ Lý. Qua vài câu chuyện thấy hai tên CA chừng 26, 27 tuổi có vẻ “cả đẫn một cục “. Tôi hỏi:
- Các ông cũng phải lấy vé à ? Có được giảm giá không?
Hai tên là Thái và Diệu đều lắc đầu!
- Nếu đi công tác, thì không phải mua vé!
Thấy hai tên trả lời như thế, chợt óc tôi lóe ra một mưu kế. Tôi quay ra hỏi Toán Xồm, và cả mấy cậu hình sự:
- Chúng ta 9 người đều về Hà Nội, lại có 2 anh CA (bây giờ gọi là anh), tôi có một cách để không phải mua vé. Các anh có đồng ý không ?
Mắt ai cũng sáng lên, đồng ý (nhưng không tin tưởng lắm). Tôi phải nói sơ: Bẩy chúng ta cứ lên tàu, tìm một hàng ghế, rồi cùng ngồi tụm lại. Khi người soát vé đến, hai anh CA mặc quần áo vàng và đeo huy hiệu, mặt nghiêm đứng hai đầu ghế. Bẩy chúng ta không nói chuyện đùa bỡn, coi như chúng ta vẫn là tù, có CA dong tù v.v. . .
Cuối cùng cả bẩy người, đều về Hà Nội không mất tiền, hai cậu hình sự xuống ga Phủ Lý cũng thế. Tên CA Thái cũng đóng đạt vai trò. Ở nhà ga Nam Định, tên soát vé đi đến, tên Thái hất hàm chỉ bẩy chúng tôi mặc áo tù:
- Tôi đưa đám phạm này về Hỏa Lò.
Cái uy lực của “áo vàng”, người dân vẫn nem nép. Đến ga Hàng Cỏ thì chia tay, mỗi người mỗi ngả đời. Chẳng hiểu những người muôn năm cũ ấy, có còn một chút nào mờ nhạt, nhớ đến chuyến tàu năm xưa? Họ ở đâu bây giờ?
Mười tám năm tròn, hôm nay tôi lại được vinh dự nhìn lại bộ mặt của mảnh đất “Ngàn năm văn vật”.
Từ ga Hàng Cỏ, tôi vẫn mặc bộ quần áo tù, vai đeo một cái tay nải mầu xám đã cũ mèm, với đôi dép Bình Trị Thiên. Tôi lang thang về phía Hàng Bột, tìm về nhà người em gái họ: Nguyễn thị Quy, con gái của bà dì ruột. Năm 1978 tôi ở trại T 52 Hà Sơn Bình, đã nhận được lá thư duy nhất trong 18 năm tù, của vợ chồng em Quy. Đây, chính là nửa lý do, để tôi quyết định trở lại Hà Nội, trước khi về Sài Gòn.
Ngay từ lúc con tàu gần đến bến xe Kim Liên, lòng tôi đã bồi hồi xúc động, như tôi đã thoảng thấy cả hơi thở, của Hà Thành dấu yêu. Cái mùi pha trộn giữa hoa Sen, hoa Ngâu và hoa Đào đã nồng nàn, luồn trong gió.
Hà…Nội ơi……..Hướng về thành phố xa xôi……
Ánh đèn giăng mắc…….muôn nơi. ….
Tôi xa Hà Nội năm tôi 18 khi vừa …….
biết nhớ………biết ….yêu ….một..mình……
Ga Hàng Cỏ đây rồi, vẫn chiếc đồng hồ năm xưa, vẫn những mái dài, mái cong ẻo lả. Ngày xưa thì dòng người đầy mầu sắc sinh động, xôn xao chen chúc qua lại. Còn nay, nhìn ga Hàng Cỏ, tôi có cảm tướng chiếc áo ngày xưa, thời mới lớn đã bị sờn vai, rách cổ, chằng đụp nhiều chỗ vá, do cảnh sống bần hàn tất tả ngược xuôi, cũng chẳng khác gì chính bản thân tôi. Mắt tôi đờ đẫn nhìn những cảnh chen chúc, gánh gồng của phố ga, để rồi mọi người đã bắt tay tôi từ giã, mà hồn tôi vẫn còn lảng vảng bên ngoài. Toán Xồm cũng đã chào tôi, đi từ lúc nào.
Như đã có chủ định từ trước, tôi sẽ tìm về Hàng Bột, về nhà người em gái bé tị, ngày xưa ấy. Chân cứ bước, dòng tư tường đi riêng từng ngóc này, nẻo kia, của “ngày xưa thân ái”, để rồi dưới ánh nắng chiều, tôi đã thấy bóng Tháp Rùa từ xa. Lạ thật, tôi có định ra thăm hồ Hoàn Kiếm, hôm nay đâu? Dự trù là ngày mai, nhưng chân bước đã ra tới đây, thì làm sao tôi còn quay gót được?
Trời xanh thẳm, không một gợn gió, mặt hồ im lặng như một tấm gương, đăm đăm nhìn trời. Hồ Gươm thiên nhiên đẹp lộng lẫy . Hà Nội có hồ Gươm như một mỹ nữ đeo chiếc vòng ngọc quý.
Ngược dòng lịch sử, đầu thế kỷ 15, nhà Tiền Lê đại thắng quân Minh. Trong một buổi bơi thuyền, rùa thần đã nổi lên. Vua Lê đã trả kiếm lại cho thần Kim Quy, và từ đấy hồ được mang tên: Hồ Hoàn Kiếm.
Hồ có tháp rùa (từ hố sâu thẳm của ký ức). Trước đây, thỉnh thoảng những con rùa ngàn năm lên phơi nắng trên miếng đất dưới chân tháp. Đền Ngọc Sơn được xây trên một nền đất, như một hòn ngọc nổi trên mặt hồ. Đền thờ nhiều vị thần linh, chánh thần là Văn Vương, coi về văn học. Sau này thờ thêm một vị tướng “Trần Triều Hiển Thánh” là Hưng Đạo Đại Vương.
Cổng chính quay về hướng Đông, một chiếc cầu cong sơn đỏ, bắc vào đền gọi là cầu Thê Húc (nơi tụ ánh sáng ban mai). Tôi đã thấy rõ nhà bưu điện, tháp bút với 3 chữ lớn lồ lộ: Tả Thanh Thiên”.
Đền Ngọc Sơn, Trấn Ba Đình và cả ngôi nhà Thủy Tạ trắng toát, ánh nắng phản chiếu đều lộn ngược đầu xuống hồ. Thậm chí tôi còn nhìn rõ, những tàng Phượng vĩ đỏ chót, cùng với 2 toa của chiếc xe điện thời Tây, ở dưới đáy hồ.
Chân tôi đã tiến đến 2 hòn đá tảng, nơi tôi đã ngồi câu tôm hàng giờ với thằng Long Ngõ Huyện, thời trước 1954. Hai hòn đá như có hồn, như chúng muốn nói với tôi: “Chào anh Chúng tôi vẫn còn đây, mời anh ngồi đí!”. Một không khí ấm áp tình cố tri quen thuộc, như len lén vào lòng.
Cũng nơi đây 18 năm xưa, thân phận tôi như một con mồi. Năm, sáu người thợ săn, của phản gián Hà nội, chĩa những con mắt cú vọ nhắm vào tôi (xin đọc Thép Đen I). Dòng tư tưởng đó đến, đã bắt tôi phải ngoái đầu lại, xem có cái đuôi nào bám theo mình? Như một phản ứng, tự nhiên. Nó cũng làm tan biến cái khung trời, đầy mầu sắc trước mặt, và trong hồn tôi
Ánh nắng đã xiên khoai, tôi phải tìm về Hàng Bột đã. Nhìn căn hẻm tồi tàn, đã nói lên cảnh sống của các chủ nhân. Một người phụ nữ chừng ba chục tuổi, ra mở cửa. Bốn mắt nhìn nhau đến ngỡ ngàng vài giây. Tôi phải lên tiếng trước:
- Xin lỗi, đây có phải nhà của Nguyễn Thị Quy?
Người phụ nữ càng mở to mắt, rồi ngập ngừng:
- Thưa …..ông là …….
Tôi nói luôn :
- Đặng Chí Bình!
Cô ấy ôm chầm lấy tôi. Vai cô run lên! Phía trong nhà có hai đứa con trai nhỏ chừng ba và sáu tuổi, đứa ngồi trên chiếc ghế con, đứa đang nằm bò ra nền gạch. Tôi xúc động không nói lên lời. Câu đầu tiên cô em nói, trong nước mắt đoanh tròng:
- Anh gầy quá!
Tôi hỏi:
- Chú ấy đâu?
Cô em chậm rãi:
- Nhà em đạp xích – lô, có khi tới khuya mới về.
Sau những hàn huyên nghẹn ngào, xúc động, tôi được biết sơ lược: Quy năm nay 28 tuổi, lập gia đình lúc 21. Như thế 1954 cô ấy mới 2 tuổi. Thế mà nghĩa tình của cô em, thắm đậm như anh em ruột thịt. Tôi xin cảm ơn và xin ghi nhận, nghĩa tình của cô. Hiện nay cô có hai con nhỏ ba và bẩy tuổi, chú ấy trước đây là công nhân ở khu “Cao Xà Lá ” (Cao su, xà phòng, thuốc lá). Thất nghiệp hơn 3 năm nay rồi, bây giờ chú phải đạp xích-lô để nuôi vợ con.
Khi quyết định trở ra Hà Nội, tôi định nếu thuận tiện, sẽ ở lại 2, 3 ngày, rồi mới vào Nam. Nhưng tình cảnh nghèo nàn này, tôi chỉ muốn gặp chú ấy nữa thôi, tên chú là Tỉnh. Những người nghèo mà có lòng! Tôi không có gì để giúp đỡ cô chú ấy. Thật là may! Không biết do linh tính hay cô ấy đã nhắn bạn đạp xích lô ngay 8 giờ tối hôm ấy chú đã về nhà. Con người của chú Tỉnh, khi gặp và tiếp xúc tôi lại càng thương mến hơn. Cô chú ấy cứ nằng nặc mời tôi, ở chơi Hà Nội vài ngày. Như tôi đã trình bày, nhìn hai đứa cháu nhỏ, nhìn cảnh sống của cô chú ấy, ruột tôi xót xa và hận cho tôi bất tài, không có khả năng nào để giúp đỡ người thân. Thì còn vui gì mà ở lại!
Có một điều trùng hợp trong buổi gặp cô chú Tỉnh, cả hai phía, tôi lẫn cô em đều muốn biết tin tức về bố mẹ tôi ở Sài Gòn. Những năm, 1956 – 1957 còn gửi thiệp Bắc Nam, nhưng đến 1958-1959 và sau này, thì thiệp thư Bắc Nam đều đã ngừng. Thế là cả hai bên mong ngóng, nhưng cả hai đều không biết gì.
Một bữa cơm gia đình sum họp, dù chỉ có rau, dưa và mấy quả trứng vịt tráng, nhưng đầy nghĩa tình không thể quên. Buổi tối, tôi dứt khoát xin nhờ chú ấy, 5 giờ sáng mai đưa tôi ra ga Hàng Cỏ về Nam. Nước mắt của cô Quy đã chảy nhiều, nhưng tôi vẫn duy trì ý định.
Đêm hôm ấy, cô chú và cả tôi cứ trằn trọc thấp thỏm, ngủ không yên. Mới 4 giờ sáng cô em đã dậy lục đục nấu cơm, rồi nắm cho tôi một nắm cơm với muối vừng. Từ chối thì cô chú ấy sẽ buồn, tôi đành nhận nắm cơm, nhưng tôi dứt khoát không ăn sáng, lấy lý do bụng hãy còn no và không quen ăn sáng sớm. Tôi muốn dành lại cho hai cháu nhỏ.
Hai đứa nhỏ còn ngủ, cô ấy cứ nằng nặc đòi đi theo tôi ra ga để tiễn chân. Tôi hiểu đêm qua, cả cô chú ấy đều thiếu ngủ, chú ấy còn phải đạp xích lô cả ngày kiếm ăn, vì thế tôi giao hẹn, cô chú chỉ đưa tôi đến ga rồi phải về ngay, nếu không đồng ý, tôi sẽ đi bộ ra ga một mình.
4:30 đã ra tới ga Hàng Cỏ, cô ấy ôm lấy tôi, nước mắt lại đầy vơi còn giúi vào tay tôi 20 đồng. Tôi có là người mất trí, mới nhận 20 đồng này. Cô chú ấy đã làm cho chính tôi, nước mắt cũng vòng quanh.
Một mình tôi khoác chiếc tay nải, lủi thủi bước vào trong ga, thất thểu, ngơ ngác nhìn cuộc đời, nhìn dòng người lạ lẫm. Một lúc sau, nhìn sang phía góc trái, một hàng dài đến 4 – 5 chục người xếp hàng, đợi mua vé. Tôi hỏi và được biết, đúng là chỗ mua vé tàu đi vào Nam.
Đứng xếp hàng một lúc, nhìn thấy hàng còn dài quá. Tôi nghĩ, cứ như thế này, phải 2- 3 giờ nữa mới đến lượt mình. Tôi cũng thấy hơi là lạ, là ai cũng chăm chú nhìn tôi. Đứng một lúc, tôi chợt hiểu, họ nhìn chỉ vì bộ quần áo tù của tôi và cái dáng dấp gầy xanh, như người có bệnh lâu ngày. Tôi nghĩ, cứ lên thẳng chỗ cô mặc bộ đồ vàng, đang bán vé hỏi xem, may ra được chiếu cố vì mới ở trong tù ra. Nghĩ như thế, tôi lấy tờ giấy tha ra tù, đi lên chỗ cô bán vé. Tay cầm giấy, tiến dần đến chỗ cửa sổ bán vé, cả giòng người xếp hàng đều bàn tán nhìn theo tôi. Mặc, tôi đến trước quầy vé:
- Thưa cô, tôi vừa ở tù ra, tôi muốn mua vé đi Nam, cô có thể thông cảm bán ưu tiên cho tôi không?
Cô ta ngẩng mặt nhìn tôi, cả mấy người xếp hàng đều quay lại nhìn tôi. Cô ta giọng hách dịch:
- Cho tôi xem giấy của anh!
Cô cầm tờ giấy ra trại, cắm cúi xem, quay ra nhìn tôi, rồi nói to với những người, đang xếp hàng:
- Đây là một anh đã ở trong tù 18 năm, anh mới từ trại giam ra ngày hôm qua, đồng bào có đồng ý bán vé cho anh ta trước không?
Ồn ào nhiều tiếng nói:
- Đồng ý, bán vé cho anh ấy trước!
- Hãy bán vé cho anh ta đi !
- Chúng tôi hoàn toàn đồng ý ! Cô hãy bán vé cho anh ta trước!
Mặt cô bán vé tươi hẳn ra, và tôi cũng xúc động không ngờ. Cô bán vé ngước lên hỏi tôi giọng dịu đàng, khác hẳn khi nãy:
- Anh muốn đi ngày nào?
Niềm hưng phấn của tôi, hãy còn đầy ắp:
- Tôi đi ngay hôm nay ạ !
Mọi người đều ồ.. ồ lên. Cô bán vé mở to mắt nhìn tôi, rồi từ tốn:
- Mọi người xếp hàng ở đây, mua vé cho thứ Hai tuần sau mới đi !
Có một bà đứng gần đấy, nói rõ ràng rành mạch:
- Anh ở trại lâu nên không biết! Bây giờ xếp hàng mua vé phải hàng tuần lễ nữa mới đi, làm gì có kiểu mua vé đi ngay?
Như trên trời rơi xuống, tôi buồn và ngơ ngác, tay cầm tờ giấy ra trại (do cô bán vé đưa lại), tay xách chiếc tay nải tiến ra giữa sân ga, lòng chưa biết tính sao? Tiền đâu để ăn cả tuần lễ? Lại về làm phiền cô chú em ư?
Trời sáng dần, nhiều người vây quanh lấy tôi, bỗng có một bà cụ chừng ngoài 60, tay cụ như cầm cái gì đút vào túi áo tù của tôi. Tôi đang thò tay vào để xem cái gì, lại một ông dáng nông dân đút vào túi kia. Bà cụ đút vào túi tôi năm đồng, ông nông dân cho ba đồng. Tôi còn đang lúng túng thì một cô chừng 20 tuổi tóc ngắn đưa cho tôi hai ổ bánh mì có nhân. Đồng bào vây chung quanh tôi đến hàng chục người. Tôi bàng hoàng bất ngờ, ai cũng nhìn tôi bằng những đôi mắt thương cảm, ái ngại.
Mười tám năm xưa, khi tôi ra Bắc, rồi bị bắt, người ta đã xô đến ném đá, chửi bới tôi là biệt kích, gián điệp, ăn gan, uống máu nhân dân ra phá hoại miền Bắc, như ở Hà Tĩnh. Mười tám năm sau, tôi ra tù thì đồng bào đã đối xử với tôi như thế này. Đồng bào đã thể hiện tình thương yêu chân chính, của những người cùng một nước. Như thế đường tôi đi, đường tôi chọn là đúng, con đường thực sự mang lại dân chủ, tự do, cơm no, áo ấm cho mọi người. Tôi cảm thấy thật gần gũi, trong tình đồng bào.
Trời càng sáng dần, khi tôi còn đang đứng trong vòng vây của nhiều người tò mò, thì có một ông chừng 44, 45 cao lớn, mặc quần áo bộ đội, không đeo quân hiệu, quân hàm nhưng đeo khẩu súng ngắn, trễ bên hông. Ông ta rẽ đám đông đến bên tôi, ôn tồn:
- Anh cho tôi xem, giấy tờ của anh?
Giấy ra tù tôi đang cầm ở tay, tôi đưa luôn, mình thực thì có gì phải ngại ngần. Ông ta đọc xong, nhìn tôi rồi dõng dạc:
- Tôi cùng gia đình đi chuyến tàu vào thành phố HCM lúc 7:30, gia đình tôi có một người em bị bệnh không đi được, anh có muốn đi thay, thì đi theo tôi.
Đúng là nắng hạn lại gặp mưa rào! Tôi mừng quá. Có mấy người cũng thúc hối. Một bà chừng hơn bốn chục, nét mặt rất đôn hậu đẩy vai tôi:
- Anh đi theo ông ấy đi, may quá… Tôi cũng yên lòng!
Tôi chào mọi người, rồi vội vàng theo cái ông đeo súng! Tôi tưởng như mình đang từ giã những người ruột thịt. Ông ta trả lại giấy cho tôi, rồi căn dặn:
- Anh đứng đây chờ tôi một chút nhé !
Đi chừng hai chục phút, quay lại, ông vồn vã kéo tay tôi lên một toa tàu. Đến một khoang ông mở cửa, bên trong có 2 cái giường sắt to và nhỏ. Cái to có một chị chừng 30- 35 tuổi với một đứa nhỏ 2, 3 tuổi. Ông đeo súng quay lại tôi, nói với người phụ nữ đang ngồi ôm con trên giường:
- Đây là anh Bình, anh đã nói với em. Còn đây là nhà tôi!
Tôi hơi cúi đầu ngập ngừng:
- Xin chào chị ạ !
Ông đeo súng chỉ tay vào chiếc giường con, sốt sắng:
- Đấy, anh sử dụng chiếc giường đó, thay chú em tôi.
Tay tôi đang ôm 2 ổ bánh mì, 2 cái bánh bao, và 2 cái bánh giò của đồng bào cho. Tôi nhìn em bé nhưng nói với chị phụ nữ:
- Anh chị giúp tôi, cho cháu ăn hộ bớt, tôi làm sao ăn hết!
Nói rồi, tôi chỉ cầm một ổ bánh mì, còn đặt hết xuống chiếc giường to. Đúng là tác phong quân sự, anh cười, bảo:
- Cứ để đấy.
Thực là một sự may mắn kỳ diệu. Chuyến tàu xuôi Sài Gòn 7:30 chuyển bánh. Anh chị Thanh, (tên anh đeo súng là Thanh) chuyển công tác vào Nam mang theo cả gia đình. Anh Thanh vội vàng ra sân ga mua ít bánh trái để ăn dọc đường. Anh đã đọc giấy ra trại của tôi, đã biết tôi là gián điệp của VNCH, nhưng thái độ của anh tỏ ra “không thành vấn đề” giúp người không may là chính. Tôi hiểu, thời gian còn dài, từ từ tôi sẽ tâm tình chuyện trò.
Ánh nắng ban mai như dát lụa, ẻo lả luồn qua cửa sổ trải dài một mảnh vuông lung linh, giữa khoang tàu. Tàu bắt đầu chuyển bánh, bất chợt anh Thanh chạy bổ ra phía cửa sổ, đầu và hai tay anh cúi ra phía ngoài, người anh cứ như cái máy, cứ kéo lên, giật xuống liên hồi. Quá bất ngờ tôi và cả chị Thanh chưa kịp có phản ứng, thì hai tay anh kéo lên một cái túi lưới nylon xanh, có hai ba con tôm càng khô. Anh Thanh đỏ mặt, tía tai, hổn hển quát:
- ĐM! Tao mà rút được súng ra, tao bắn vỡ đầu chúng mày!
Tàu bắt đầu chạy nhanh! Tôi đã hiểu: Nắng sớm, anh Thanh có 2 kg tôm he khô (tôm biển), hơi bị ẩm, anh sợ bị mốc, anh định treo phơi ngoài cửa sổ. Không ngờ tụi lưu manh chờ tàu chạy, chúng giật. Tôm đó là quà của anh mang vào Nam tặng bạn bè .
Qua việc này, tôi đã hiểu cảnh sống của XHCN hiện thực hơn. Người tôi rung rinh theo con tàu đang chạy xuôi Nam. Lòng tôi phơi phới mở rộng thênh thang, mắt tôi lững lờ nhìn qua cửa sổ những hàng cây trên đồi núi chạy vùn vụt về phía sau. Con tàu ré lên một hồi tu hu . . . . . . tu hu . . . . . . rồi hồng hộc chui vào một vùng ngát đẫm mùi hoa soan, chính chị Thanh cũng đập vai anh Thanh hỏi thương yêu:
- Cái mùi gì mà thơm thế hở mình?
Anh Thanh miệng thì ừ. . . .ừ. . . .nhưng đầu lại lắc lắc:
- Anh cũng chả biết mùi gì mà thơm thực!
Để dự phần vào cái hạnh phúc gia đình của anh chị Thanh, tôi quay lại:
- Mùi hoa soan của quê hương đấy! Tôi cũng hơi lạ, bây giờ mới giữa Hè mà sao lại có mùi hoa soan?
Nói rồi, tôi tiến ra sát cửa sổ con tàu, mặt trời đã lên cao đến hai con sào. Cả một vùng thiên nhiên mầu trắng sậm lẫn với mầu xanh của lá non đầu mùa. Hoa soan trắng, nhị và yếm mầu tím, hoà thành một mầu trắng sậm. Tôi cứ hóng cái mũi ra để hít, để nuốt vào cái mùi đậm đà chất phác, mộc mạc của quê hương tôi. Đột nhiên anh Thanh thốt lên:
- Tàu đã đến Phủ Lý rồi!
Tôi hiểu anh Thanh và tôi ở hai chiến tuyến đối đầu. Do những đẩy xô của hoàn cảnh, của dòng đời gặp nhau ở một tình huống: kẻ được người thua, nhưng cả hai phía đều đã thể hiện là những người có hồn “tình tự quê hương, người cùng một nước”. Phần tôi, phần của kẻ “chiến bại” tôi luôn luôn, kè kè đeo trên vai một cái “túi to lòng tự trọng”. Chỉ cần anh Thanh biểu lộ một vài hành xử, một vài lời nói, thở ra cái hơi của người “chiến thắng” thì ai cũng hiểu là tôi sẽ phải làm gì rồi.
Anh chị Thanh cũng hỏi han nhiều sự việc, để biết chính xác về tôi. Từ quan điểm chân thành, tôi nói lên lòng tự trọng và liêm sỉ của một người. Hơn nữa sự thật thì trường tồn, dài lâu nên tôi cứ thành thật tiếp chuyện anh chị. Tôi cũng hiểu sự thật nhiều khi thô lỗ, gồ ghề nhưng cuối cùng người nghe vẫn thích hơn là đánh bóng, hay sơn phết.
Tôi đã xác định, nhìn và hiểu thấu con đường tôi đang đi, dù có lúc bị ngăn sông, cách núi, có khi phải chui vào hầm tối lầy lội, nên tôi đã nói cho anh chị Thanh rõ vì sao tôi nhận một nhiệm vụ ra ngoài Bắc, và một vài nét chính trong tù mà tôi đã nhìn, đã nghe, đã trải qua. Anh chị Thanh tỏ ra quý mến tôi hơn, mà lúc đầu anh chị chỉ muốn giúp đỡ một người bất hạnh, không may đang gặp khó khăn, thế thôi. Tôi nói thế vì chứng cớ là anh chị cũng cho tôi biết những nét chính, của cuộc đời anh chị.
Chị Thanh là giáo viên cấp hai ở Hà Đông. Anh Thanh quê ở nông trường vải (quả vải) gần chùa Trầm, Hà Đông. Anh là cháu gọi tướng Lê Trọng Tấn bằng cậu. Anh đã công tác bốn năm trong ngành hoa tiêu, ở sân bay Nội Bài. Anh vừa được đi học hai năm ở Liên Xô. Hiện nay anh là Thượng úy chuyển công tác vào Nam, ở Đài kiểm soát không lưu trường bay Tân Sơn Nhất. Anh chị Thanh chưa hề vào Sài Gòn hay miền Nam bao giờ. Phần tôi chỉ biết Sài Gòn, hay miền Nam của gần hai chục năm trước.
Tôi kéo anh chị Thanh trở lại túi tôm bị giật lúc sáng, cứ nói những ý nghĩ trong lòng, tôi thành thực:
- Anh chị đã biết, gần hai chục năm ở một chỗ sâu nhất của một nhà tù, tôi không hề biết một chút gì về cảnh sống xã hội của miền Nam, cũng như miền Bắc.Tôi rất ngạc nhiên với việc sáng nay. Qua dư luận, hình như ở khắp nơi, cả ở miền Nam nữa có quá nhiều cảnh cắp, trộm, trấn lột, cướp giật v.v. . . Chả lẽ ngành cảnh sát, công an không giải quyết được
Nghe tôi nói và hỏi như thế, cả hai anh chị tỏ ra đăm chiêu mấy giây. Anh Thanh nhìn tôi, nói như giải nghĩa, giáo dục:
- Tiếc rằng bác Hồ mất sớm quá! Vả lại, anh tính, kẻ thù, đế quốc nó bao vây kinh tế như thế, nên nước ta mới nghèo túng !
Tôi biết không phải anh chị Thanh, mà hầu như đa số, nếu không nói là hầu hết nhân dân miền Bắc, đều sẽ trả lời như vậy, hoặc từa tựa như thế! Cũng có một số người hiểu rõ cái nguyên nhân, cái sự thật, thì đa số đã phải vào trong cái ”lồng nhỏ” rồi. Người nào còn ở ngoài là do khéo đậy miệng, hoặc mũ ni che tai, hay quần quật đêm ngày lo kiếm miếng cơm cho mình và gia đình, thời gian nào đâu mà đi chuyện trò.
Anh chị Thanh mãi không thấy tôi nói gì, nhưng chắc nhìn nét mặt, anh Thanh đã đoán ra là tôi không thỏa, khi nghe anh trả lời. Tôi nghĩ đây đâu có phải là một buổi tranh luận, hơn nữa anh chị ấy cũng như mọi người dân khác mà trung ương đảng cộng sản, đã đội cho cái “mũ ngựa” che tai, che mắt chỉ còn được nhìn về phía trước mà thôi.
Tôi chỉ hỏi nhẹ một câu như thế, để rồi tự anh chị sẽ suy nghĩ. Tuy vậy, cũng bằng những câu hỏi, tôi quay sang sốt sắng:
- Anh Thanh đã được sang Trung Quốc bao giờ chưa?
Cả hai anh chị đều trả lời với nét mặt tự hào, dù tôi chỉ hỏi anh Thanh:
- Năm 1976 chúng tôi còn là “nghiên cứu sinh ” đều được tham quan Bắc Kinh một tuần.
Tôi hỏi tiếp với vẻ trầm trồ ca ngợi:
- Thế anh chị có được đi Bắc Hàn chưa?
Cả hai anh chị đều lắc đầu, tôi lại hỏi:
- Thế còn Cu Ba và các nước Đông Âu?
Anh Thanh nhanh nhẩu:
- Kỳ hè năm đầu tôi đi Rumanie, kỳ hè năm ngoái tôi đi Albanie một tuần.
Tôi ôn tồn, từ tốn như muốn để anh chị Thanh cùng chia sẻ :
- Anh chị đã biết, cả cái tuổi trẻ của tôi nằm im một chỗ, ngay Hà Nội và Sài Gòn tôi còn không biết gì! Nhưng vì lòng quý mến anh chị, anh chị cho tôi hỏi một sự thật, có nghĩa là chính anh chị nhìn bằng mắt của mình, và suy nghĩ bằng óc của mình, chứ không phải vì theo suy nghĩ của người khác. Tôi không cần phải đến Bắc Kinh, Moscova, Albanie, Rumanie, dù là một tuần hay ở Liên Xô gần hai năm như anh. Anh có nhìn thấy từ cán bộ đến người dân ở các nơi ấy, đều làm ăn ngược xuôi vất vả? Xã hội không thiếu những cảnh cấp trộm, lừa lọc, giả dối. Nói không đúng sự thật, là chuyện thường xuyên, phải không anh?
Mặt anh Thanh đực ra suy nghĩ, đầu anh gật gật, rồi mở to mắt nhìn tôi:
- Sao anh biết rõ thế?
Anh hỏi tôi, nhưng cũng là câu trả lời rồi! Tôi nhìn anh chị nói tiếp:
- Không nói những nước anh đã đến, mà tất cả các nước cộng sản hay XHCN cũng sẽ đều như thế, và sẽ như thế mãi mãi. Những nước ấy chả có bác Hồ. Và như Liên Xô, Trung Quốc thì đừng hòng Đế quốc nào bao vây kinh tế, nếu không nói là chính những nước ấy đang đe dọa, o- ép nhiều nước khác. Những lúc thanh vắng, ngồi một mình, anh chị hãy chịu khó suy nghĩ mọi sự việc, bằng chính bộ óc độc lập của mình. Tôi tin anh chị sẽ nhìn rõ nhiều vấn đề, của thời đại chúng ta.
Khi thì trò chuyện, khi thì gửi hồn vào những chuyện không đâu để rồi con tàu Thống Nhất đã đi mấy ngày đêm, tôi cũng không hay, cho tới khi tàu ngừng ở ga Bình Triệu. Khi đó đã 11 giờ đêm, tôi và anh chị Thanh vội vàng lấy địa chỉ của nhau.
Lúc này mới đẻ ra một trở ngại: Phía tôi, địa chỉ của bố mẹ không biết có còn như xưa không? Phía anh chị Thanh, mới vào, chưa nhận công tác. Tôi đành đưa cho anh chị Thanh hai địa chỉ ngày xưa, của bố mẹ tôi và của vợ chồng người em gái, nếu có duyên thì sẽ tìm gặp lại nhau.
Tôi và anh chị Thanh cũng không biết tại sao xe hỏa cuối năm 1980 chỉ ngừng ở Bình Triệu, mà không vào thành phố HCM? Anh chị Thanh, cháu nhỏ và tôi đã chia tay nhau ở ga Bình Triệu. Phần tôi, vai vẫn khoác cái tay nải cũ, dép râu và bộ quần áo tù mầu xám. Tôi có hai bộ quần áo tù, một sọc, một xám. Bộ xám thì có dấu hắc ín, chữ “Cải Tạo” to tướng trước và sau lưng.
Trên tàu bước xuống đường nhựa, đèn điện đêm sáng trưng. Tôi ngơ ngác nhìn xa lộ rộng thênh thang. Tôi không xác định được phương hướng, phía trái hay phía phải về Sài Gòn? Một chàng trai Hà Nội, một chàng trai Sài Gòn và còn là một điệp viên nữa, thế mà lại “ngố rừng” như vậy, thật là chuyện cười đáng buồn. Tôi định hỏi thăm, nhưng lòng cũng hơi ngượng ngùng, nên miệng khó mở ra. Giữa hàng chục phút “ngắc ngư con tàu đi”, có một cậu xích lô còn trẻ, chừng 16 -17 tuổi quành xe lại hỏi:
- Chú đi bộ à, chú có đi xe không?
Tôi đã có chủ trương là sẽ dùng đôi chân lang thang, đi những bước đầu tiên trên Thành Đô xưa cũ của tôi, nhưng thái độ ngộ nghĩnh của cậu xích lô, làm tôi đổi ý. Tiền bạc không có bao nhiêu trong túi, nên tôi phải hỏi:
- Từ đây về đường Bắc Hải, khu ông Tạ thì cậu lấy bao nhiêu?
Đã không trả lời trực tiếp, cậu ta còn ríu rít hỏi lại:
- Chú mới ở trại cải tạo ra ư ? Hơn một năm trước, ba cháu cũng được tha ra !
Tôi biết cậu đã nhìn rõ cái áo tù của tôi. Mặc thái độ đon đả của cậu này, tôi vịn tay vào thành xe, dịu dàng nhắc lại câu tôi đã hỏi. Cậu ta nhẩy xuống xe, vừa kéo ngay lại chiếc đệm xe, tay đập đập như phủi bụi, vừa như thúc giục:
- Chú cứ lên xe ngồi đi, rồi chú cháu mình nói chuyện.
Đường khuya, phố vắng, cái phút ban đầu gặp lại Thành Đô yêu dấu, thương nhớ đã êm ái, ấp ủ trong lòng tôi gần hai chục năm, hôm nay mới nhìn thấy mặt.
Sài Gòn ơi! Người là viên ngọc quý trong lòng tôi?!
Giọng cậu xích – lô đã làm ngắt quãng dòng tư tưởng của tôi:
- Ba cháu bị cải tạo hai năm, còn chú chắc phải ba năm, nên bây giờ mới được tha ra?
Cái giọng nhè nhẹ reng rẻng của miền Nam; chất phác ngọt ngào như trái dừa nước của Bến Tre, Định Tường. Một nguồn hứng cảm đã bừng dậy trong lòng, tôi khoắng tay, ý muốn ngừng xe lại:
- Chú cháu mình hãy hút một điếu thuốc, cho hồn mình lang thang đã !
Nhanh nhẩu, tôi lấy bao thuốc Trường Sơn đập điếu thuốc cho ló khỏi bao, đưa lại phía cậu. Cậu bé tên Dân, nhẩy xuống rút điếu thuốc rồi bật diêm cho cả cậu và tôi. Cậu bé ngửa cổ thở khói rồi hỏi ngay.
- Thuốc gì mà cái ” gu” lạ thế?
Tôi không ngờ khi ấy cộng sản chưa đưa thuốc này vào miền Nam, nên tôi ôn tồn giải thích:
- Thuốc Trường Sơn là loại phổ biến ở Hà Nội, cũng như ở cả miền Bắc lâu rồi!
Dân mở to mắt hỏi ngay:
- Vậy chú ở ngoài Bắc vào ư?
Tôi đành phải nói sơ sơ vài nét để cậu bé này đỡ băn khoăn, tò mò. Xe đang đạp ngon trớn, chuyện trò rôm rả, từ xa có mấy người quần áo xam xám đeo băng đỏ, dựng hai khẩu CKC ngồi, nằm chắn ngang ngay mặt đường. Gần đến nơi, cậu Dân đã phải ngừng xe lại.
Bốn, năm cậu đồng phục xanh xám, băng đỏ tiến lại, sau một lúc trao đổi, và nhất là sau khi các cậu băng đỏ xem giấy ra tù của tôi, một cậu là tổ trưởng cái tổ Thanh Niên Xung Phong đó, đã vồn vã :
- Trời ơi ? Sao chú ở tù lâu thế? 12 giờ tất cả thành phố đều giới nghiêm, chúng cháu có để cho chú đi, vào tới trong kia chú cũng không đi được. Chú hãy đến chỗ chúng cháu uống nước, hút thuốc, nói chuyện cho chúng cháu nghe, rồi 3 giờ cháu sẽ để chú đi sớm nhất !
Nhìn lên, đây là đường Hồng Thập Tự, tôi quay ra nói với cậu Dân, và hỏi hết bao nhiêu tiền, vì cậu còn phải trả tiền mướn xe để chạy. Cậu nhất định không lấy tiền, và nói một câu vẫn còn hằn trong lòng tôi, từ buổi đầu hôm ấy:
- Dù cháu có đưa chú tới nhà, cháu cũng không lấy tiền, huống chi đang giữa đường. Cháu đạp xe cho chú, cũng như đạp xe cho ba cháu!
Tôi không thốt ra lời, vì xúc động. Tôi lấy một bao Trường Sơn mới (tôi có một “tút “, mua theo anh chị Thanh ở Vinh để làm quà) rồi ôm lấy cháu Dân:
- Rồi đây, dù chú cháu mình không gặp lại, nhưng chú sẽ ghi hình ảnh buổi hôm nay, chú cháu mình gặp nhau!
Ngồi vây quanh lấy tôi, bốn năm cậu thanh niên xung phong say xưa tò mò nghe bao nhiêu chuyện, mà trước đây chưa bao giờ nghe. Thuốc lào, thuốc lá, thậm chí cả bánh kẹo các cậu ấy nồng hậu mời mọc, để cuối cùng chớm 3 giờ sáng với những cái bắt tay, những cái ôm chân thành lưu luyến, chúng tôi từ giã nhau.
Một mình tôi sải bước về phía Hòa Hưng. Vừa đi, đầu óc tôi lảng vảng về các cậu thanh niên xung phong, vừa qua. Ngay ở miền Bắc, những thanh niên đã được thâm ý dầy công trồng người của lão “cáo” mà tôi tiếp xúc còn thiện mến, huống chi ở miền Nam. Tôi vẫn tin tưởng: Mình có sự thật là chân lý, biết ứng dụng nhuần nhuyễn với kinh nghiệm bản thân, thì thường hơn hẳn.
Nhìn đường phố trong ánh đèn đêm, tuy là “đường xưa, lối cũ” nhưng tôi vẫn cảm thấy một cái gì là lạ trong lòng. Nó không còn trọn vẹn cái thân thương, gần gũi tôi vẫn ấp ủ trong tâm tường bấy lâu. Gần 4 giờ, tôi đã đi qua nghĩa địa Đô Thành, với cái định vị trong đầu thì đây phải là đường Bắc Hải, nhưng sao đã thay đổi hết rồi.
Tôi nhớ ngày xưa, hầu hết các nhà trên con đường này đều lợp tôn, nhà gỗ. Hồi ấy một bên là tường xây của nghĩa địa, một bên là những ngôi nhà sàn, phía nửa sau nhà trên nước, nhưng bây giờ thì cả hai dẫy phố, nhà cửa hai ba tầng lầu. Chân cứ bước dần vào phía Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa và xứ Nam Hòa, mà lòng ngẩn ngơ như đi vào xứ lạ . Không còn một hình ảnh nào, để tôi nhận ra ” cảnh cũ người xưa.”
Tôi đã nhìn thấy ngôi nhà thờ Nam Hòa, xưa làm bằng gỗ, lợp tôn, nhưng bây giờ là một nhà thờ tân kỳ, kiểu mới. Tuy không có đồng hồ, nhưng qua dáng trời và ước định thời gian, tôi đoán có thể khoảng 4:15 hay 4:30 sáng. Tiếng chuông sớm của nhà thờ ngoáy thánh thót vào khung trời đêm Nam Hoà, cũng làm rung rinh hổn hển lòng tôi sắp gặp lại đấng sinh thành. Chợ Nam Hòa, xưa là những căn lều bốn cọc trống trải, giờ đây là những gian hàng xây ngăn nắp. Tôi còn đương ngơ ngác, ngỡ ngàng, thì thoáng có tiếng người nói chuyện từ một hẻm, rồi bóng dáng của ba người mặc áo dài trắng đi ra, đoán là những người đi lễ sớm, tôi tiến ra đón đường lễ phép:
- Xin vui lòng chỉ nhà của cụ Phúc (bố mẹ tôi) ở phía nào dùm?
Cả ba người phụ nữ đều kéo nhau chạy về phía nhà thờ! Tôi bàng hoàng, không hiểu vì sao. Hay cụ Phúc không còn, hay không có ở đây? Xác định vị trí các ngõ, đường ngày xưa, tôi quyết định vào một đường hẻm. Trong tâm tưởng của tôi, ngôi nhà của bố mẹ tôi tường xây, lợp tôn. Trước nhà có một cây trứng cá, mà thỉnh thoảng tôi còn hái quả chín ăn và cho em Lý và em Thu ngày ấy.
Tất cả nhà cửa, phố, đường đều đã đổi thay. Nhưng với óc định vị của nghề nghiệp, tôi xác định được một ngôi nhà. Đó là ngôi nhà hai tầng lầu. Cái ngõ ngày xưa đất cát đỏ, giờ đây là ciment bê tông, xe tắc – xi đi vào được. Tôi lần bước tiến đến ngôi nhà cửa đóng, nhòm vào tối sáng lờ mờ, không thể nhìn rõ vật dụng. Thoáng thấy căn nhà ba lầu trước cửa, trong bóng “cửa chớp”, có bóng người tóc quăn vì ánh đèn mới bật, chiếu ra, tôi tiến sang, nhã nhặn:
- Thưa, cho tôi hỏi thăm một chút ạ !
Bóng tóc xoăn biến mất tiêu!
Đành trở lại ngôi nhà, tôi xác đoán là ngôi nhà của bố mẹ. Trời sáng dần, nhìn vào một lần nữa. Một chiếc ghế bành trong bộ ghế ngày xưa đã phòi bông gòn ra ngoài, chiếc giường gỗ của bố ngày ấy, bỏ màn nhưng không có người. Đúng rồi, ngay cái mùi quen thuộc thương yêu ruột thịt của bố mẹ, đã tràn cả ra ngoài cửa sổ. Tôi đoán, có thể là các người đi lễ sớm! Tôi quay lại, thoáng thấy những bóng người trên ban công ở các nhà đối diện chạy vào trong nhà, rồi những bóng người thập thò trong các cửa sổ những nhà phía trước cửa. Trời càng sáng rõ. Trầm ngâm, tôi nhìn xuống đôi dép râu, rồi chiếc quần, tôi chợt hiểu. Chính vì cái dáng dấp và quần áo, không giống ai của tôi (trong giai đoạn cuối năm 1980), đã làm người ta tránh xa. Bây giờ thì mấy ban công đối diện, họ bảo nhau bước ra nhìn xuống tôi, thì thào bàn tán.
Cũng đúng khi ấy, thì lễ sớm nhà thờ tan. Từ xa, phía nhà thờ, có một cụ già tóc bạc phơ, với dáng gầy gầy, cao cao, đôi mắt lờ đờ, đang chống gậy lần bước tiến về. Mắt tôi tự nhiên mờ đi, niềm xúc động ứ lên làm run rẩy cả người, tôi tiến đến cầm vào tay người, miệng tôi thều thào:
- Thầy?.. .. …. ..
Thầy tôi ngơ ngác.
Tôi nghẹn ngào nói lại:
- Thầy ơi ! con đây !
Tay thầy tôi run run để lên vai tôi, giọng hổn hển:
- Con là . . . . . người, hay . . . . . . là ma?
Nước mắt tôi đã chảy xuống má, cả hai tay tôi cầm nhẹ vào tay chống gậy của thầy. Trong niềm xúc động ứ tràn, miệng tôi nói ngập ngọng trong cái mằn mặn của nước mắt:
- Con là người đây . . . . . .Thầy ạ !
Miệng thầy tôi nói thều thào không thành tiếng. Thầy tôi rời tay khỏi vai tôi, run run móc trong túi, rút ra một chiếc chìa khóa đen và dài. Tay tôi đỡ chiếc chìa khóa, nhưng mắt tôi nhìn những bóng người phía sau thầy tôi, đang túa ra từ phía nhà thờ:
- Mẹ đâu …………..hở thầy?
Tôi đỡ tay, dẫn người đến cửa. Thầy tôi hơi ngoái đầu lại phía nhà thờ, giọng hãy còn thều thào, hổn hển:
- Mẹ mày…………..về ……sau …….?
Tôi đút chiếc chìa vào lỗ, tay run hay vì nước mắt mà mãi không được. Một ông đã đỡ chiếc chìa khóa mở hộ. Lúc này hàng chục người vây chung quanh, cả những người hàng xóm thập thò trên ban công từ sớm cũng kéo xuống, vào đầy nhà từ trong đến ngoài. Tôi vội vàng vắt chiếc màn lên rồi đỡ thầy tôi ngồi xuống giường. Thầy tôi cứ lảm nhảm điều gì tôi không nghe rõ, dần dần tôi đã nghe ra:
- Nhà ………hết …………gạo ………..rồi…………!
Nước mắt của tôi càng trào ra, vì tôi biết thầy tôi đã lẩn thẩn rồi! Để thầy tôi ngồi đấy, tôi chen ra phía ngoài để ngóng mẹ tôi. Vừa ra khỏi cửa, giữa đám đông người, tôi đã nhìn thấy một cô gái chừng 15 – 16 mặc áo dài trắng, đang dẫn một bà cụ lòa cả hai mắt, lần từng bước. Mẹ của tôi đấy ư! Một tiếng kêu rên trong đáy lòng ? Tôi chạy bổ đến, hai tay ôm lấy mẹ ! Tôi không nói thành lời :
- Mẹ ơi !
Một tay người cầm nhẹ cánh tay tôi, một tay xoa xoa lên đầu tôi, hai giòng nước mắt từ đôi mắt lòa chảy xuống má. Trong lúc tôi dẫn đưa người vào trong nhà, người hỏi tôi rõ ràng:
- Có phải thằng Bình thật không?
Tôi chợt hiểu, chắc rằng trước đây trong những lúc kêu gào khóc thương tôi, đã có nhiều người đến nhận là tôi, để giúp mẹ, tôi một cụ già mù lòa quay quắt thương nhớ người con. Mẹ tôi đã bị lừa nhiều lần rồi!
Tôi đã ôm chặt lấy mẹ tôi rên rỉ nói trong nước mắt:
- Con là Bình đây . . . . . . . . . mẹ ơi !
Mẹ tôi rời cả hai tay sờ cổ, sờ mặt tôi, rồi khuỵu xuống!
Tôi bế vội, nhấc bổng mẹ tôi, mọi người tránh ra để tôi đưa người vào chiếc giường phía gian trong, có những tiếng hối hả :
- Ai có dầu nóng không? Bà cụ ngất rồi ! . . . . . . . .
Người đầy nhà, nhưng tôi chả còn nhìn thấy ai. Tôi đặt mẹ tôi ngay ngắn, đắp nhẹ chiếc chăn ngang bụng người. Một bà giúp tôi xoa bóp và gọi tên người. Hai, ba, người nữa đưa dầu nóng, giữa những tiếng gọi tên người và tên thánh:
- Cụ An na Nguyễn thị X!
Một giọng hách dịch dồ lên:
- Anh nào là Đặng Chí Bình?
Tôi đang ngồi gục đầu ủ rũ trên giường, bên cạnh mẹ tôi, ngửng lên là một tên công an áo vàng, đeo súng ngắn chừng 27-28 tuổi. Tôi đứng hẳn lên, giọng còn xúc động trả lời ” tôi đây”, Tên CA quắc mắt gằn giọng:
- Anh cho tôi xem giấy tờ?
Mọi người trong nhà đều nhớn nhác nhìn tôi lo sợ. Tôi mở cái ví con rách của một cậu hình sự, đã cho ở trại tù T 52 Hà Sơn Bình ba năm trước, rút tờ giấy ra trại đưa cho y. Khệnh khạng y cầm tờ giấy ra trại do Bộ Nội Vụ cấp, mở ra đọc, trước sự lấm lét lo lắng của hàng chục người trong nhà. Thầy tôi lúc ấy ở gian ngoài lại chống gậy lần bước vào, giọng đã khàn khàn:
- Nhà hết gạo ………..rồi!
Tôi hiểu, thấy tôi về mà không có gạo để nấu cơm cho tôi ăn! Tôi cố ngăn mà nước mắt của tôi cứ trào ra ! Hình như mấy chục năm khổ đau, cùm kẹp, nước mắt tôi không hề chảy, tích tụ lại cho ngày hôm nay. Chính tôi cũng ngạc nhiên, sao mà tôi nhiều nước mắt như thế!
Nét mặt của tên CA đọc giấy, tỏ ra không hiểu đầy đủ, y khoát tay, nói như ra lệnh:
- Anh theo tôi ra phường!
Nhìn mẹ còn đang nằm ngất, không biết ra sao, nhìn mọi người âu lo cho hoàn cảnh gia đình tôi, tôi thấy một luồng hơi nóng ran truyền lên đầu tôi! Một vài giây ngập ngừng, tôi bước xuống đất. Mấy người cũng hẩy tay tôi ra phía cửa, bảo tôi:
- Anh cứ đi đi !
Nhìn mọi người rồi nhìn mẹ tôi còn nằm yên trên giường, tôi nói tha thiết:
- Xin bà con giúp đỡ.
Đi qua, tôi đặt tay vào cánh tay thầy tôi, cố nói to cho mọi người và tên CA cùng nghe:
- Thầy ở nhà, con về ngay?
Đi qua những con đường ngoắt ngoéo ra phường, liếc tên CA phía sau, lòng tôi nghĩ: “Lại có một tên đeo súng đi theo hầu “. Chừng 400 mét ra tới phường, nhìn tấm biển đỏ treo trước cửa, thì ra là Phường 6 thuộc quận Tân Bình.
Bước qua mấy bàn giấy, đến một chiếc bàn có một tên Trung úy chừng 35- 40 đang hách dịch ngồi, tên CA theo tôi đưa trình miếng giấy ra trại của tôi. Tên Trung úy cắm cúi đọc rồi ngẩng lên, chỉ tay một chiếc ghế trước bàn, ra oai:
- Anh ngồi đó !
Lưỡng lự một hai giây, tôi ngồi nhìn thắng y. Để “bắt mạch” món hàng buổi đầu, y nghiêm giọng:
- Từ Thanh Hóa về đây chỉ 3- 4 ngày, hôm nay đã 7 ngày, vậy còn 3 ngày nữa anh đi đâu?
Tôi hơi nhếch mép. Y phải nhìn thấy cái nhếch mép của tôi.. Đến những bậc thầy của y tại phòng phản gián, và chấp pháp của Hà Nội, tôi còn đối ứng được, huống chi là một tên công an phường. Điều quan trọng là phải quán thấu tình trạng, điều kiện cái quyền có thể của mình. Trong hoàn cảnh tàu, xe Bắc Nam hiện nay, những chuyện trục trặc, trở ngại là chuyện thường xuyên, không ai định trước được, vả lại có điều khoản nào trong giấy tờ ấn định ngày, giờ phải có mặt tại nhà đâu? Nghĩ như thế, tôi nhìn thẳng vào mắt y, thủng thẳng, ôn tồn nói:
- Tôi bị trở ngại tàu dọc đường!
Tên này cũng rất nhạy cảm, tuy tôi chỉ nhã nhặn nói như vậy, nhưng y đã thấy tôi không phải là loại trộ nạt được. Sơn ăn từng mặt! Mềm nắn, rắn buông! Y dịu giọng:
- Anh được Đảng và nhà Nước tha cho về địa phương, anh phải chấp hành mọi đường lối, chính sách của địa phương. Hơn nữa, anh còn đang ở dạng quản chế!.
Lại gặp những “con vẹt ” và “loài nhai” lại, tôi đứng thẳng lên, nhưng vẫn rất lễ độ, ôn tồn:
- Hôm nay buổi đầu được gặp các ông, chắc rằng tôi còn được gặp ông nhiều lần nữa. Hiện giờ mẹ tôi đang bị ngất ở nhà, xin phép ông tôi về xem mẹ tôi sống, chết ra sao!
Nói rồi, tôi hơi nghiêng người như chuẩn bị trở về. Tên Trung úy, sau này tôi biết y là Mậu, trường CA Phường 6, cũng đứng lên dõng dạc:
- Sáng thứ Hai, anh lên đây nhận chỉ thị!
Hôm nay là thứ Sáu. Tôi quay lại tỏ ra đường hoàng, nhưng rất nhã nhặn:
- Xin cảm ơn. Tôi sẽ lên gặp ông sáng thứ Hai!
Tôi trở ra ngay, trước sáu, bảy tên CA đứng phía trong nhìn theo. Tôi rảo bước nhanh chân, gần về tới nhà thì có một cô gái tóc dợn sóng chừng ba chục tuổi, đang hối hả đi ngược chiều tôi. Cô ta đi qua, còn ngoái lại. Tôi cũng vậy. Cô đó hơi ngượng ngùng quay lại nhìn tôi ngập ngừng:
- Xin lỗi có phải anh là………….
Niềm xúc động của tôi lại cuộn lên, tôi chộp lấy tay cô và kêu lên:
- Thu à ?
Nước mắt của em túa ra, miệng méo xệch. Đè nỗi thổn thức vào lòng, tôi hỏi ngay:
- Mẹ sao rồi?
Em Thu đã cầm cả hai tay tôi kéo về phía nhà, miệng còn hổn hển vì xúc động:
- Mẹ tỉnh rồi, không sao cả anh ạ ! Mẹ và bà con bảo em ra phường xem anh ra sao?
Hơi yên lòng, tôi dắt tay Thu, và nhìn em. Khi tôi rời xa, em là một cô bé 13 tuổi, thế mà bây giờ… . Mới nghĩ tới đấy, tôi và em đã bước vào nhà, vẫn còn bốn, năm bà và một ông trong nhà. Thầy mẹ tôi đang ngồi cạnh nhau, trên chiếc giường của mẹ tôi phía trong. Thấy tiếng tôi về, mẹ tôi quay ra, nhưng… … mẹ ơi ! Mẹ đâu có nhìn thấy con ? Tôi chợt nghĩ đến đứa em trai tên là Công Lý, khi tôi rời xa, em Lý 17 tuổi đang học Đệ Tam trường Hồ Ngọc Cẩn. Từ sáng tôi về chỉ thấy hai ông bà già, đã làm rối loạn lòng tôi, nên chẳng còn tâm trí nghĩ về em Xuân, em Lý và em Thu. Tôi quay lại hỏi thầy mẹ tôi, nhưng trong nhà ai cũng nghe:
- Thầy mẹ ơi! Em Lý ở đâu?
Mẹ tôi lại gục xuống gào lên:
- Nó chết rồi . . . . . con ơi !
Như một hơi ép nén ngược lại, làm cho tôi không thở được, tôi phải để tay lên ngực và một bà đỡ cho tôi ngồi vào một chiếc ghế. Trong khi thầy tôi cứ nấc lên rồi lại kêu rồ… rồ như vướng cái gì trong cổ họng, còn em Thu đứng dựa, gục đầu vào tường vai run lên không nói ra lời. Tay tôi vẫn đè ở ngực, một nỗi đau như xé tim tôi, mà không hề chảy một giọt nước mắt. Thầy bố mẹ và em Thu thì nước mắt chảy ra không kịp lau, nghe tin em trai duy nhất chết lại chỉ có đau mà không có nước mắt. Có thể hạch nước mắt của tôi đã hết nước, hay nỗi đau đã dồn vào tim, vào óc? Tâm tư của tôi lại chảy ngược về em Xuân, cô em lớn sát tôi, em đã có hai con trước ngày tôi ra Bắc. Tôi đã góp phần giới thiệu để chú ấy làm công nhân, ở Công Binh Xưởng Hải Quân Ba Son.
Tôi quay lại, hỏi nhỏ em Thu:
- Vợ chồng chú Tuất, cô Xuân thế nào?
Có lẽ vì còn đông các bà, nên em Thu chỉ vắn tất:
- Anh chị ấy vẫn ở bên Lăng Cha Cả!
Thấy hai giòng nước mắt vẫn chảy ra từ hai con mắt loà nhắm nghiền của mẹ, tôi lại trèo lên giường ngồi bên mẹ, thì thào vào tai mẹ, nũng nịu như ngày còn bé:
- Sao mẹ còn khóc nữa hở mẹ?
Mẹ tôi nấc lên liên hồi, vừa nói, vừa khóc:
- Mẹ thương …… thằng Lý ……quá!


19. TRỞ VỀ THÀNH ĐÔ

Chúa ơi! Con nhìn chỗ nào gia đình con cũng thương đau cả! Nhìn đôi mắt loà của mẹ, lòng tôi như mềm nhão ra. Tôi muốn biết nguyên nhân vì sao mẹ tôi bị loà, và loà từ bao giờ, nhưng mẹ tôi đã bẻ quay hồn tôi về phía em Lý. Tôi định cất tiếng hỏi vì sao Lý, em trai độc nhất thương yêu của tôi chết? Và từ bao giờ? Một số các bà kiếu từ, để cho chúng tôi trao đổi chuyện riêng tư gia đình. Họ đồng loạt chào bố mẹ tôi. Tôi đến từng bà, với đôi mắt còn ướt sũng thương đau:
- Những ngày tới cháu sẽ đến kính chào và thăm hỏi gia đình. Hôm nay cả gia đình cháu đã đón nhận lòng nhân hậu đùm bọc người hoạn nạn của quý bà.
Tôi quay vào thì em Thu đang ngồi bóp vai cho mẹ. Thầy tôi sau khi hút điếu thuốc lào đã bỏ vào mùng nằm yên rồi. Tôi sà đến bên mẹ, cầm lấy bàn tay nhăn nheo của mẹ, và khẽ hỏi em Thu vì sao mẹ bị loà?
Từ khi tôi lớn lên biết cuộc đời, tôi đã thấy mẹ bán vải tấm từ ngoài Bắc. Trước hội nghị Genève 1954 người cũng chỉ bán vải. Người đã tần tảo ngược xuôi để nuôi bốn anh em chúng tôi, và tạo lập một gia đình. Như tôi đã trình bày trước đây, bố tôi là một võ sư về môn quyền thuật phái Thiếu Lâm, đến nay bố đã 76 tuổi rồi. Tôi đâu có ngờ một người võ sư quắc thước của 18 năm xưa, bây giờ là một cụ già chống gậy, tâm thần đã lẫn lộn. Khi tôi nhận một nhiệm vụ nhỏ bé vào đất thù, bố mẹ tôi không hề biết như tôi đã trình bày chi tiết ở Thép Đen I.
Mẹ tôi vẫn bán vải ở chợ Nam Hòa, tôi là con trai cả, đột nhiên đi đâu mất tiêu, mẹ tôi đã chảy nhiều nước mắt trong bao đêm ngày, cho đứa con hẩm hiu xấu số để rồi mấy tháng sau, mắt của người sưng lên. Theo em Thu nói, có lần mắt mẹ chảy máu, đã chạy chữa nhiều thuốc, nhiều thầy nhưng không khỏi. Ngồi nghe em Thu thuật lại nỗi niềm, tôi cầm tay mẹ và nhìn mắt mẹ.
Dòng suy tư của tôi cuồn cuộn, cái nguyên nhân đã có phần của tôi, do người khóc nhiều, mắt người sưng lên, rồi có vi trùng xâm nhập, nếu chữa thuốc và ngừng khóc thương thì sẽ khỏi như nhiều người. Nhưng nỗi nhớ thương người con trôi nổi nơi đâu, còn hay đã chết, đã cuộn chặt trong lòng người, để rồi nước mắt của người vẫn chảy và chảy nữa. Kết quả là hai năm sau, đôi mắt của người đã lòa. Lúc ấy là năm 1964.
Như thế tôi đi tù 18 năm, mẹ tôi cũng không nhìn thấy cuộc đời 16 năm mà tôi đâu có biết. Cũng qua em Thu, tôi được biết về em Công Lý. Lý có vợ từ năm 1964, do ở trong quân đội VNCH nên đã di chuyển cùng vợ xuống miền Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cho tới khi miền Nam sụp đổ, em tôi đã có sáu đứa con nên không di tản. Rồi do oán thù cá nhân, đã bị một tên Trung đội trướng du kích bắn chết khi em tôi đang ngủ. Bắn một người đang ngủ không những là hèn, mà còn khiếp sợ người mình bắn. Riêng phần em Hoài Thu, cô em út của tôi, bây giờ đã có ba đứa con. Người chồng vì trốn học tập nên hiện nay, đang ở trong trại giam Chí Hòa.
Tôi nhìn cô em gái út, khi tôi rời xa còn là cô bé tí 13 tuổi, đúng là :
Anh đi em mới mười ba.
Anh về em đã thành bà, ba… Con
Tôi đang ngồi dựa vai mẹ, nghe em Thu kể những chuyện trong 18 năm xa nhà của tôi, bỗng nghe tiếng khóc nỉ non phía phòng ngoài:
- Anh ơi!… Anh… đâu rồi!
Tôi bước vội xuống đất, một bà… à em Xuân của tôi, nước mất dầm dề, mặt mày méo xẹo ôm chầm lấy tôi, rên rỉ:
- Anh ơi!…!
Phía sau em Xuân, một người cao lớn, chú Tuất (chồng Xuân), tuy mặt chú đã nhiều vết nhăn, tôi vẫn nhận ra, hai anh em ôm lấy nhau. Câu nói đầu tiên của chú:
- Anh gầ… … ốm quá!
Xuân sà đến chỗ mẹ, anh em tôi hàn huyên những ngày xa cách. Tôi hơi ngạc nhiên, quay hỏi cô Xuân:
- Làm sao vợ chồng em biết là anh về?
Em Xuân đã nói trong nét mặt thiểu não:
- Do bà Chức, tôi chả hiểu bà Chức là ai – đi xe đạp sang nhà em sáng nay, báo anh đã về. Em bận coi năm, sáu đứa nhỏ, phải đợi chiều nhà em đi làm về, cho nên bây giờ vợ chồng em mới đi được
Chú Tuất nhìn xuống bếp, rồi nhìn tôi, nói vội:
- Để em chào thầy đã !
Nói rồi chú cúi đầu vào sát màn:
- Con chào thầy ạ ? Thầy khó ở hay sao mà đi nằm sớm thế ạ ?
Chỉ nghe tiếng ậm ừ của thầy tôi, vẻ mệt nhọc, tôi ra hiệu tay, nói khẽ:
- Hãy để cho thầy nghỉ, từ sáng thầy đã mệt!
Anh em tôi xuống chỗ cái sân con nhà bếp nói chuyện. Nhìn chiếc sân bé tí chỉ 3, 4 mét một bề. Thoáng nhìn vào trong bếp, hai chiếc kiềng sắt đã lâu ngày, tro than lạnh ngắt, nói lên sự heo hút trong cảnh sống của bố mẹ tôi.
Sau bao nhiêu những câu chuyện ngược xuôi, chú Tuất cứ nằng nặc mời tôi ra một quán ăn, khu Lăng Cha Cả gần nhà chú. Ý của chú muốn tôi được thường thức cái “gu”của Sài Gòn, sau nhiều ngày xa cách.
Chú Tuất đi một chiếc xe mobylette, đèo cô ấy sang đây, cô ấy lại cần về vì mấy đứa nhỏ, cô không yên lòng. Giản đơn và thuận tiện nhất, tôi bảo hãy đèo cô ấy về trước. Tôi sẽ thủng thẳng đi bộ ra Ngã Ba Ông Tạ, theo đường tôi rẽ sang phía Lăng Cha Cả. Chú Tuất sẽ quay xe lại đón tôi. Tôi cũng muốn nhìn thấy khu vực Ông Tạ giờ đây ra sao.
Loay hoay, lợi dụng chú Tuất xuống bếp, Xuân đã đút vào túi tôi 20 đ. Tôi không thể quên được, điều này đã nói lên nhiều khía cạnh của người em gái, lo lắng cho người anh trai.
Một mình lang thang ra phố phường, đường xưa… lối cũ, nhưng cảnh cũ… người xưa hầu như không còn. Trời đã cập quạng, phố xá đã lên đèn. Tôi ngắm nhìn cảnh sinh hoạt của phố phường, dòng xe cộ và con người ngược xuôi đi lại. Tôi hiểu, sau khi chiếm được miền Nam, một vùng giầu sang, mầu mỡ, để quản lý con người và an ninh xã hội, cộng sản sẽ tìm mọi cách, “biến” Sài Gòn nói riêng, miền Nam nói chung giống như Hà Nội và miền Bắc. Hiện nay do một số yếu tố khách quan, chúng đang bị trở ngại.
Chúng đang và sẽ nỗ lực tìm mọi “mưu ma chước qủy” để đạt được mục tiêu tối hậu, nói trên. Có như vậy, chỗ ngồi của chúng mới ổn, mới duy trì được “muôn năm trường trị “.
Khi tất cả miền Nam đều đổi thay vũng thành đồi, mình không thể bàn tính những chuyện cao xa. Trước hết hãy đi từng bước đầu, tôi tự nhủ. Tôi phải làm sao tìm mua được một chiếc xe đạp phương tiện không thể thiếu trong cảnh sống của tôi lúc này. Cho nên khi gặp chú Tuất trở lại đón, tôi đã nói, trong khả năng và điều kiện của chú, xin chú tìm mua cho tôi một chiếc xe đạp cũ càng sớm càng tốt. Chỉ ngày hôm sau, tôi đã mua được chiếc xe đầm “cà là cộ”, có một thắng trước thôi, nhưng thật vừa ý, với giá 90 đ.
Vào quán, chú Tuất gọi cho tôi một bát bún bò giò heo đặc biệt, thật to! Tôi hiểu, thấy tôi gầy ốm, chú Tuất muốn bồi dưỡng đặc biệt cho tôi. Nhưng khi người phục vụ mang bún ra, tôi đã ngập ngừng không muốn ăn. Tôi chợt nhớ đến thầy mẹ tôi đang ngồi âm thầm trong căn nhà vắng! Thâm ý của tôi, sẽ tự mua thêm một suất nữa, rồi mang về nhà cùng ăn với bố mẹ cho nó trọn cả ngon, cả nồng. Có thể chú Tuất đã đoán ra phần nào nỗi niềm trong lòng tôi, nên chú đã sốt sắng:
- Em đã mua thêm hai suất, chút nữa mang về cho thầy mẹ !
Trong bụng như mở cờ, tôi nói thẳng ý nghĩ trong lòng:
- Chú có đồng ý là không có gì vui thỏa cho bằng, mình làm được cái mình muốn? Vậy, nếu chú muốn cho tôi vui sướng nhất bây giờ, chú hãy đèo tôi trở về, để tôi ăn bún bò với thầy mẹ ngay tối nay. Hôm khác anh em mình sẽ nói chuyện?
Chú Tuất cũng nồng nhiệt:
- Em sẽ theo ý của anh. Em cũng đã mua thêm ba suất, đem về cho nhà em và các cháu, không kể hai suất của thầy mẹ.
Sự việc này tôi không thể quên, buổi ăn đầu ở Thành Đô, khi tôi trở lại. Bữa bún bò ấy thầy mẹ tôi cũng không ngờ, các người vui và cảm xúc ra mặt. Các người không nghĩ rằng tôi đã không ăn ở hiệu, mà lại về ăn chung với các người. Khi chào thầy mẹ và tôi chú Tuất còn nhắc lại:
- Anh nhớ nhé ! 6 giờ sáng Chủ Nhật, em sẽ sang đón anh!
Tôi gật đầu. Nhớ lại, khi còn ngồi ở quán bún bò bên Lăng Cha Cả, chú Tuất có cho biết, cơ quan của Ba Son sẽ tổ chức cho công nhân, ra Cấp chơi và tắm biển ngày Chủ Nhật này. Thường sáu tháng, mới tổ chức một lần. Đúng dịp tôi về, chú ấy muốn mời tôi cùng đi.
Tôi cũng hơi đắn đo ngại ngần, vì mình mới ở tù ra, cái gì cũng xa lạ. Tôi phải hỏi kỹ chú Tuất để phòng hờ những trở ngại như: Tôi đi có thuận tiện không? Những buổi thế này trước đây, người nhà của công nhân có đi không, có đòi hỏi giấy tờ gì không? v.v. . . Chú Tuất cho biết, mỗi công nhân có thể mang một người nhà. Hơn nữa chú Tuất là công nhân lưu dụng của chế độ cũ, chú ấy đã làm việc gần hai chục năm rồi, hiện là tổ trưởng của một dây chuyền sản xuất, nên chú ấy cũng có chút uy thế. Chú nhấn mạnh:
- Anh yên trí, em quen biết ở trong ấy nhiều.
Cũng vì phần bản tính vẫn còn thích những chuyện bất ngờ, mới lạ, nên tôi đã đồng ý.
Để chuẩn bị cho tôi, thầy tôi mở mấy cái vali cũ, người còn nhiều quần áo thời xưa người chưa, hay ít khi mặc. Thậm chí, trong góc cái tủ cũ, tôi còn thấy một chiếc sơ mi ngày trước của tôi. Chỉ vì tính các cụ thường hay giữ những cái xưa để kỷ niệm, vả lại các cụ chẳng có thời gian nom dòm đến.
Giữ đúng lời hẹn, sáng Chủ Nhật ấy, tôi và chú Tuất đã đèo nhau đến Công Binh Xưởng Hải Quân Ba Son. Sau khi ăn sáng, ở phía bên ngoài cổng tuy có một tên lính gác, tôi cứ đường hoàng theo chú Tuất đi vào. Mãi trong giữa những khu nhà nhiều máy móc, trên một chiếc xe buýt riêng của công nhân Hải Quân mầu xanh, đã có một số người ngồi. Dõi nhìn vào phía trong, tôi thấy một vài khẩu cao xạ, chắc để trình diễn vì không có người ở đó.
Tôi để chú Tuất chuyện trò vì họ là công nhân quen biết nhau. Có một anh, chừng 35 – 36 đeo lon trung úy Hải Quân đến. Qua một lúc, tôi biết tên Trung úy này là trướng đoàn của chuyến đi.
Đã ăn ý trước, chú Tuất giới thiệu tôi là ông anh họ, mới ở Bắc vào Sài Gòn thăm họ hàng, với tên Trung úy là Quỳnh người Long Xuyên. Tên Trung úy nhìn tôi với một thái độ tôn trọng nhã nhặn. Đoàn đi hơn ba chục người. Xe chạy hướng sang Gia Định rồi lên Thủ Đức. Cảnh vật đường xá đã thay đổi thật nhiều, nếu không chịu khó nhận xét thì nhìn không ra. Tên Quỳnh từ ghế trên quay xuống lịch thiệp:
- Thưa… anh công tác ngành gì?
Tôi không nghĩ là y lại hỏi chuyện tôi. Ngước lên nhìn y, tôi thấy y có bộ mặt cũng sáng sủa, và đôi mắt thật sáng. Để khỏi lôi thôi trong chuyến đi, tôi trả lời một cách bất đắc dĩ
- À, tôi công tác… làng nhàng, trong ngành báo chí ?
Tôi nói như thế, phần vì biết giọng tiếng Bắc của tôi rất đậm, và ngành báo chí thì ít lề thói, chuyên môn. Hơn nữa, tôi cũng hiểu biết một chút về ngành này ở miền Bắc. Không ngờ tên Quỳnh lại càng tỏ ra săn đón. Y rót trà, thuốc lá đầu lọc mời tôi một cách trang trọng. Chắc y suy đoán, một người nói tiếng Bắc ”rặt” tương đối đứng đắn thì cũng phải có cỡ, nhất là dưới chế độ cộng sản, như người cỡ của Đảng không chừng. Phần tôi, tôi chẳng có gì và cũng chẳng có một chủ trương gì, tôi chỉ cần chuyến đi này, đừng ai đụng chạm đến tôi là vui rồi. Mới về miền Nam ngày thứ ba đã ra Cấp chơi, không phải là một chuyện thú vị sao?
Xe đi qua chợ Thủ Đức, nhà cửa san sát khác hẳn ngày xưa, vẫn cái mùi nem chua của Thủ Đức phảng phất giàn trải trong không gian. Một vài cụm mây trắng nằm xếp lớp, trải dài phía trời Đông. Ánh dương lấp ló trong màn mây dầy, đôi khi quắc mắt thò mặt ra như giận dữ, nhìn chiếc xe mầu xanh sậm đang bò trên quốc lộ I .
Xa xa nhìn sang phía phải, ngọn Châu Thới xưa, vẫn đội trên đầu ngôi chùa cũ năm ấy, như nhắc nhở tôi một quãng đời niên thiếu đã qua rồi. Những ngọn dừa ngả dài, ngúc ngắc, như muốn dụi đầu thầm thì chuyện lứa đôi với “sóng nước Đồng Nai “, ưỡn ẹo nằm dài cạnh thành phố Biên Hòa. Hai con cuốc đen nhánh, dài cổ ra, cánh khỏa vội vàng từ dưới lòng sông, như cố đuổi theo chiếc xe của chúng tôi, đã rẽ ra phía Vũng Tàu. Một câu nói không thốt thành lời, êm ả vấn vít trong đầu tôi: “Quê hương tôi, nơi nào cũng đẹp!”
Cái mùi nhằng nhặng mằn mặn của khí trời, làm mọi người đều ngoái cổ nhìn ra. Kia rồi Trời cao lồng lộng , biển rộng mênh mông, sóng réo rì rào. Xe đỗ dưới một lùm cây, hồng hộc lên rồi khò khè . . .tắt thở. Một bãi cát trắng phau nằm tênh hênh dưới ánh mặt trời đúng Ngọ. Bên ngoài từng đợt sóng, trắng đầu đang lần lượt rủ nhau từ ngoài khơi chạy vào bờ. Trông xa xa như muôn ngàn bàn tay đang vẫy gọi, mời đoàn người trong xe, hãy mau mau xuống đây tâm tình, chuyện trò, chúng tôi đã chờ các ngài lâu rồi!
Tiếng nhí nhéo, rồi một giọng cười ré lên như chiếc mobylette rồ ga, phía cuối xe. Có hai cô tóc dài và một bà tóc quăn cũng đi theo, chẳng hiểu là công nhân hay là thân nhân của đoàn? Đúng là phiên phiến cho qua, chúng ta chủ nghĩa xã hội, mỗi người tự xoay xở, thay quần áo ngay trên xe, rồi đều túa ra mép nước.
Đã lâu ngày nhớ nước… nhớ biển, tôi chỉ đánh cái quần cộc theo đoàn người nhào xuống nước. Có thể lâu ngày, dư âm sót lại của một thời “vang bóng”, và cũng do “ca lo ri”bồi dưỡng hàng tuần nay, tôi xông ra, vẫy vùng với lớp sóng bạc đầu, “sải “ra ngoài khơi. Cuối cùng có ba bốn người theo nhau ra khơi, trong đó có tên Quỳnh (Trung úy Hải quân) trưởng đoàn.
Bơi biển khác với bơi sông hay bơi hồ. Bơi sông, bơi hồ, khi mệt thì cố sang bờ bên kia ! Biển phải biết dự trù trước, để bơi trở vào, nếu không có kinh nghiệm, nhiều khi có chuyện buồn xảy ra.
Về cuối chỉ còn lại ba người, ra khơi chừng khoảng năm, sáu trăm mét rồi đều quay vào vì sóng hơi lớn. Nhiều người nằm dài, phơi mình trên bãi cát. Tôi đang nằm ngửa, dõi mắt theo một cánh chim trời, lạc lõng chống với gió ngược, lướt mình ra phía ngoài khơi xa thẳm. Phải rồi, phía chân trời bên ấy, bên kia đại dương, mới thực sự là khung trời của tự do! Một tia ước mơ như một sợi chỉ đang luồn lách trong tâm tư, thì bóng của anh chàng Quỳnh tiến đến. Y nói còn trong hơi thở chưa, được bình thường:
- Trông anh ốm nhom, mà anh bơi khoẻ he!
Ngồi dậy, hơi thở vẫn chưa đều, tôi cười vả lả:
- Tôi sinh ra nơi đồng chua, nước mặn, quen rồi!
Tất cả đều lần lượt trở ra xe, theo quy định l: 30 chiều sẽ có một bữa cơm ở quán “Mười Lãnh ” phía Bãi Sau, do quỹ của cơ quan đài thọ.
Một chiếc quán bình thường ở Bãi Sau, nhưng rất rộng rãi, ngay sát gần biển. Tôi và chú Tuất tìm một chiếc bàn con khuất nẻo, cạnh một chậu cảnh hoa nhài, để gửi hồn về Thăng Long xa xôi. Tâm hồn của con người nghĩ cũng lạ, khi ở ngoài Bắc thì ngày đêm cứ hướng lòng mình về Thành Đô của phương Nam. Về Sài Gòn với cha mẹ anh em rồi, lại thấy nhớ nhung xứ “ngàn năm văn vật “. Tuy có mấy món ăn đặc biệt, nhưng cũng chỉ có bia hơi, hạn chế mỗi người chỉ một ly.
Vừa lúc chú Tuất chạy sang bàn bên, anh chàng Quỳnh từ một bàn phía trong, cầm một ly bia tiến đến chỗ tôi ngồi, y vồn vã:
- Anh cụng với em một hơi!
Thấy tên này có vẻ mến tôi, có hơi men, tôi nổi hứng lên cơn, cụng ly, uống một hơi. Tôi nghiêm giọng, bất ngờ:
- Mấy tuổi Đảng rồi?
Y nhìn tôi, ngập ngừng vài giây, rồi trang trọng nói nhè nhẹ:
- Em mới được vinh hạnh tuyên thệ tháng 6/1978 .
Y nói rồi ngồi yên, hơi cúi đầu, cái làn “vi ba ” giác quan thứ sáu của hai người gặp nhau cũng kỳ diệu. Y xưng em ngọt sớt, tôi cứ lên “cương” vô thưởng, vô phạt:
- Hãy nhớ một điều của tôi: Luôn luôn coi Đảng như một tôn giáo, là thần, là thánh. Mọi Đảng viên bắt buộc phải tin ở những nguyên lý và những tín điều, không được phép hoài nghi.
Vẫn còn nhìn xuống ly bia cầm tay, y khe khẽ:
- Thưa anh, em sẽ nhớ !
Chú Tuất trở về thì tên Quỳnh hơi cúi đầu chào tôi, chậm chạp trở về bàn. Thái độ của tên Quỳnh làm cho nhiều người cũng có vẻ nể tôi. Riêng chú Tuất cũng ngạc nhiên, ghé gần tôi nói nhỏ :
- Anh làm gì, ông Quỳnh có vẻ trọng, thích anh thế?
Vì chỉ muốn giải quyết buổi đi chơi hôm nay “bình yên “, tôi căn dặn chú Tuất:
- Chú nhớ, chú còn gặp Quỳnh nhiều, đã giới thiệu tôi là anh họ từ Bắc vào. Nếu Quỳnh có hỏi thì nói anh ấy đã về Bắc và luôn nói là không rõ, không nói thêm một cái gì khác về tôi.

20. 5 NĂM, MẤT QUYỀN CÔNG DÂN

Sáng thứ Hai, tôi lên Phường 6 theo lời của tên Mậu. Y yêu cầu tôi phải lên Thành Phố trình diện ngay buổi sáng nay. Sau khi hỏi kỹ về nơi chốn, và cách thức, tôi đạp xe đến đường Trần Hưng Đạo.
Nhìn từ xa, trong một góc sân của CA Thành, tôi thấy hơn một chục người, người mái tóc còn xanh, nhiều người đã muối tiêu hoặc tiêu nhiều hơn muối. Qua dáng dấp đứng ngồi, nét mặt, tôi đã thấy cũng là dạng như tôi hôm nay. Thấy tôi đạp xe vào sân, còn đang ngơ ngác, một anh nhanh nhẩu, có lòng giúp người:
- Vào nộp giấy ở trong trước, rồi chờ!
Hơi cúi đầu, cười tỏ ra cám ơn, tôi tiến vào trong. Trên một chiếc bàn giấy có hơn một chục tờ giấy, tôi đoán là cũng giống của tôi “giấy ra trại“. Sau khi tôi xếp giấy lên bàn, liếc qua một khung cửa rộng, tôi thấy một gian lớn, với nhiều hàng ghế dài, đã có sáu bảy người ngồi. Để tâm hồn được lắng đọng suy tư, tôi xuống phía cuối, ngồi một mình. Gần 9 giờ, các anh ngoài sân cũng lần lượt kéo vào các hàng ghế, ngồi chờ. Trên dưới ba chục người, những người ngồi gần nhau, châu đầu thì thầm chuyện trò.
9 giờ, một tên đeo lon thượng úy từ phía trong tiến đến chiếc bàn có chồng “Giấy ra trại” lật xem từng tờ một lúc. Y ngẩng lên nhìn khắp lượt, cao giọng:
- Anh nào là Đặng Chí Bình?
Hơi bất ngờ, tôi đứng dậy, nhiều anh em cũng thấy lạ, quay lại nhìn tôi. Tên thượng úy vẫy tay:
- Anh lên đây tôi gặp!
Lách ghế, tôi tiến lên gần bàn y, đứng lại. Mặt y tươi lên làm tôi ngạc nhiên. Y nói tiếng Bắc “sệt “:
- Không ngờ, tôi lại gặp anh!
Hơi choáng hồn, tôi nghiêm trang chờ đợi. Y niềm nở, cứ như quen biết cũ :
- Anh không nhớ, và biết tôi đâu vì vụ án của anh ngày ấy, tôi chỉ là một hạ sĩ chạy giấy tờ.
Tôi tươi hẳn mặt, nhìn y. Lúc đầu y gọi tên tôi, giọng Bắc, tôi đã không ưa, vì mang một định kiến, những tên “ăn cướp” nắm hết những cơ quan chủ chốt, còn người miền Nam chỉ là tượng trưng làm “vỏ bọc” tuyên truyền. Bây giờ, tôi có phần nào thiện cảm, vì y tỏ ra chân thành.
Tôi là người y làm việc đầu tiên, mà không một ai thắc mắc. Ở giai đoạn ấy, chế độ ấy cũng chả một ai dám thắc mắc, kể cả tôi. Nội dung buổi đó là:
- Ngay chiều hôm ấy, tôi phải về trình diện “Phòng Quản Lý Những Người Học Tập Được Về ” của quận Tân Bình.
- Đầu mỗi tháng phải lên trình diện CA thành. Đầu mỗi tuần phải ra trình diện CA phường.
- Phải có một cuốn vở, ghi rõ hàng ngày: Sáng làm gì, gặp những ai; chiều cũng thế. 7:OO chiều phải đưa cho CA khu vực ký tên mỗi ngày (Vợ tôi sang Mỹ sau, đã mang theo hai cuốn vở này).
Tôi được một đặc ân: Sau khi tên Thượng Úy đọc kỹ giấy hộ khẩu của bố mẹ tôi. Mắt y đăm chiêu nhìn tôi, như một sự cảm thông chia sẻ:
- Xét hoàn cảnh, bố anh 76 tuổi, đã lẩn thẩn. Mẹ anh 73 tuổi, đã bị loà cả hai mắt 16 năm rồi. Đảng và nhà nước chiếu cố cho anh, được tạm trú ở nhà bố mẹ 3 tháng. Cứ ba tháng, anh phải đem tờ hộ khẩu này đến “PQLNNHTĐV” xin gia hạn.
Thật cũng lạ đời! Tôi là con trai cả, cũng là người con trai duy nhất của bố mẹ tôi. Mà lại được phép tạm trú nhà bố mẹ của mình chỉ ba tháng? Tôi định thắc mắc hỏi cho rõ, nhưng tôi chợt nhớ, 18 năm ròng rã tù đầy, đã hiểu, người dân của chế độ này, sống trong một cái khuôn, chỉ biết cúi đầu nghe đảng: Đảng đã phán, đã bảo, thì không bao giờ sai cả. Mọi người phải coi như một tín điều của một tôn giáo. Đạo Phật thì có Niết Bàn, đạo Công Giáo thì có Thiên Đàng. Không được băn khoăn thắc mắc, hoài nghi. Nên tôi cố nuốt những niềm u-uất xuống tận đáy lòng.
Nhưng có lẽ y nhìn nét mặt trầm buồn của tôi. Y đã chỉ vào giấy tha của tôi: án phạt 18 năm, mất quyền công dân trong năm năm. Về một phía tôi thấy mình còn bị o-ép, thắt buộc chặt hơn ngày ở trong tù.
Như thế bản án của tôi không phải 18 năm, mà là 23 năm. Tôi sẽ không tiếc công sức, đem tâm trí, khả năng của mình để quyết tâm chuyển đổi. Tôi cầm tờ giấy tha tù, chậm chạp đi ra. Có mấy anh hất đầu, vẫy tay làm hiệu, các anh muốn hỏi tôi điều gì tôi chỉ cười, gật đầu như chào, rồi ra chỗ chiếc xe đạp.
Gò lưng, tôi đạp về đường “Cách Mạng Tháng Tám”. Cảnh phố phường ngang, dọc của Sài gòn là đây! Nhìn Thành Đô kính yêu và thương nhớ của tôi, nhưng, giờ đây tôi thấy xa lạ. Cái gì cũng xa lạ, như ở một nước khác, tôi đang đi nhờ trên đường. Cũng chợ Bến Thành, cũng đường Lê Văn Duyệt của Sài gòn, của miền Nam trước đây:
Tình miền Nam như… Hoa lan đầy hương…
Nhạc dịu êm vang… Dư âm ngàn hướng…
Đây đó… Vui ca…Tiếng hát… Chan hòa …
Dựng một mùa hoa…
Nhưng giờ đây, tôi thương tôi… Thương Sài gòn… Thương miền Nam và thương cả… Đất nước tôi.
Có đau cũng không dám khóc… Có vui cũng không dám cười ! Tư tưởng của tôi chợt loáng về hai ý thơ trào phúng của cụ Uy Viễn tướng công, thời quân chủ phong kiến:
Khi vui… muốn khóc…
Buồn tênh… lại cười…
Nếu cụ sống lại thời nay… chắc chắn cụ ở trong nhà tù cộng sản.
Cái tâm trạng của tôi xa lạ, như 18 năm xưa ở Hà nội, khi ấy tôi ở nhà trọ khu Ngã Tư Sở. Ở Sài gòn hôm nay cũng thế! Nhìn những con chim sẻ đậu trên mái nhà, những hàng me ngoài đường phố, tôi có cảm tưởng như chúng cũng đã bị tiêm nhiễm cái chất độc cộng sản. Chúng cũng ngày đêm, rình rập soi mói, nhòm ngó lẫn nhau. Cuộc sống của chúng cũng không còn có thể yên lành.
Tôi có một người bạn thân là Nguyễn Hữu Lợi: Đầu 1955, tôi chạy khỏi Bình Xuyên lên khu định cư Hố Nai Biên Hòa, tôi và Lợi biết và quen nhau từ đấy (xin xem Thép Đen I). Do những sự kiện và thời gian, chúng tôi càng ngày càng thương mến nhau. Để rồi, Lợi trở thành người bạn thân thương nhất của đời tôi. Khi tôi nhận một nhiệm vụ ra Bắc, không nói với bố mẹ, nhưng tôi đã nói sơ qua cho Lợi. Vì thế Lợi là người bạn duy nhất, biết tôi ra Bắc.
Những tháng năm quằn quại trong nhà tù cộng sản, tôi đã nhớ đến người bạn này nhiều lần. Bây giờ trở về, ngoài những chuyện bắt buộc tôi phải làm trước, tôi phải tìm mọi cách để biết về Lợi. Giữa bao nhiêu biến thiên của miền Nam, Lợi còn hay mất, hay như thế nào? Tôi hiểu Lợi là một người có ý chí, lập trường, chống ai thì có phần hơi quá khích. Khi tôi ra đi, nó đang là Tỉnh Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa, tỉnh Phước Thành (chiến khu D của cộng sản).
Bố mẹ của Lợi còn lại Hà Nội, Lợi di cư vào Nam cùng với gia đình một bà bác. Do liên đới, tôi đã quen và thân với Nguyễn Vĩnh Lý, là con bà bác ấy và cũng là anh họ của Lợi. Lý và tôi cùng vào lớp tình báo ở số 2 Jean Jacques Rousseau (Thép Đen I). Vì cùng ở Sài Gòn đi học, nên Lý và tôi vẫn thường xuyên gặp nhau ở nhà Lý, tại khu Đa Kao, Phú Nhuận- Sài Gòn. Do đấy, tôi phải đến nhà Lý mới biết tin về Nguyễn Hữu Lợi được.
Sáng ngày hôm sau, lọc cọc đạp xe đến vùng Tân Định, tâm trạng của tôi cũng bồi hồi xúc động không ít. Tất cả mọi tình huống không thể đoán trước được. Cứ theo định vị trong đầu, ngoằn ngoèo vài ngõ hẻm. Vùng này chẳng khác xưa bao nhiêu, không như những vùng khác.
Tôi đã đến một ngôi nhà, có lưới thép chống ruồi, muỗi. Một bà cụ già đang chậm chạp đu đưa, trên một chiếc võng. Tôi hồi hộp ngó nghiêng để định hình. Rõ ràng bộ mặt hiền, đôn hậu mẹ của Lý. Tôi mở móc cửa, bước vào đến bên bà cụ. Thấy động bà cụ ngồi lên, nhìn tôi đăm đăm. Tôi biết bà cụ chưa nhận ra tôi, phần vì gầy ốm, phần vì đã không còn là một cậu thanh niên tươi trẻ ngày xưa. Không thể kìm hãm được lòng mình, tôi ngồi xuống đặt nhẹ một tay vào tay bà cụ, nghẹn ngào:
- Cụ còn nhớ con không?
Bà cụ lại mở càng to mắt hơn, rồi như chợt nhận ra, vì nước mắt cụ đã chạy vòng, cụ nói thều thào:
- Anh Bình?
Rồi nước mất của cụ đã tràn xuống má, cụ bóp nhẹ tay tôi. Tôi hỏi trong nỗi lắng lo:
- Thằng Lý bây giờ ở đâu, cụ?
Nước mắt bà cụ lại dàn ra nữa, cụ không nói ra lời, cái miệng của cụ méo xẹo đi, tay của cụ chỉ xuống nền nhà. Người tôi như đang đu võng, tôi hỏi dồn dập:
- Thằng Lý làm sao hả cụ?
Bà cụ nấc lên, rồi cố gắng nói trong cuống họng:
- Nó chết 6 năm rồi!
Tôi định hỏi, nó chết vì sao thì tiếng chân người trên gác đi xuống. Qua tấm màn “sáo” tôi đã nhìn ra chị Thọ. Mắt của chị sững lại nhìn tôi chằm chằm, giọng của chị vẫn còn trong suốt như xưa.
- Cậu Bình hãy còn sống ư?
Rồi chị rút khăn ra lau mắt, còn tôi cũng không thốt ra lời!
Sau những phút hàn huyên của những tháng năm dài xa cách, tôi được biết sơ lược: Bà cụ Lý có sáu người con, ba người con trai và ba người con gái, chị Thọ là cả.
Nguyễn Vĩnh Lý, đã chết từ 1974.
Nguyễn Đức Lập, đã vào trường Sĩ quan Thủ Đức và đã chết trận, để lại vợ và hai con.
Nguyễn Thành Phong, người em út cũng đã chết do vượt biên đường bộ sang Căm – Pu – Chia, (cuối 1976).
Tôi bàng hoàng, bao nhiêu người đã chết, cả cậu em trai của tôi. Còn tôi, tôi đã đi vào chỗ “thập tử nhất sinh” lại sống trở về đúng là lẽ đời thật huyền diệu!
Tôi đã vội hỏi đến Nguyễn Hữu Lợi. Được biết Lợi hiện nay khá giả, đã có bốn con, đang ở phía bên Cầu Kinh, Gia Định. Tôi và chị Thọ hẹn nhau, sáng mai chị sẽ dẫn tôi sang nhà Lợi. Trên đường đạp chiếc xe “cà cộ” về nhà, chân tôi nhiều lúc như rời ra, không muốn đẩy vào bàn đạp nữa, chỉ vì dòng tư tưởng của tôi nhiều lúc như xoắn lại, co kéo nhẩy ra nhiều lần, về thân phận của con người trong một đất nước gặp phải ”Vấn Nạn “. Bất cứ nước nào gặp phải cái ”vấn nạn” này, dân chúng cũng đều điêu linh cả. Gặp ít thì dân khổ ít, gặp nhiều thì dân khổ nhiều, khổ lâu.
Ban đêm, bố mẹ tôi ngủ ở dưới nhà, bố một giường ở gian ngoài, mẹ một giường ở gian trong. Một mình tôi thênh thang trên gác, sàn gỗ, không có giườơng, bàn, tủ, ghế. Tôi trải một chiếc chiếu, với một cái màn cạnh chiếc cửa sổ, tôi nằm giạng chân, giang tay, tưởng như trên trái đất này có mỗi một mình tôi. Để bù lại những ngày tháng trong tù, nằm nêm, ép chật chội. Tôi tưởng sẽ đánh một giấc Nam Kha ngon lành, sáng mai theo lời hẹn với chị Thọ, dẫn đến nhà thằng Lợi.
Một mình mà cứ lăn lộn, trở mình hoài, không ngủ được. Quá nửa đêm, một âm thanh rất lạ, rù… rì… vi… vu, tôi tưởng là tiếng “gáy gỗ” của thầy tôi ở dưới nhà vẳng lên, có lúc nghe như bên hàng xóm nhà ai đang đẩy, kéo giường hay tủ trên sàn gỗ. Bây giờ thì nghe rõ là tiếng sấm ở xa xa, nghe như tiếng xay lúa của một cụ già trong làng quê rời rạc, hổn hển đẩy cái cần của chiếc cối xay ọc ạch, cũng như tuổi đời của cụ.
Bỗng nhiên gầm, rú lên như có nhiều chiếc cối xay của những chàng thanh niên lực lưỡng, thi nhau đẩy cần. Tiếng sấm của Thành Đô nghe thật lạ, có thể do khí quyển miền nhiệt đới, hay lý do nào khác tôi không rõ. Tôi nghe tiếng sấm của Sài Gòn, khác hẳn tiếng sấm của miền Bắc.
Đã có những hạt mưa long tong, lách tách. Lúc đầu, tôi tưởng là tiếng chuột, đang gặm gỗ làm tổ ở trong vách nhà. Rồi như một đàn chuột chạy đùa, đuổi nhau trên mái tôn. Một tiếng nổ to tôi giật mình, làm cả căn nhà như rung lên, một làn chớp xanh lè nháng lên làm sáng cả căn gác. Thế rồi, như nước ở trên trời đổ xuống.
Mưa của Sài Gòn cũng khiếp thật, khác với mưa Hà Nội, nó nhè nhẹ lả lơi như hơi thở của một thiếu nữ thanh tân, nồng giấc trưa hè. Nằm mãi nghe âm thanh của một đêm mưa, những giọt tong tong của một chiếc máng, rơi vào bể nước phía sau nhà. Dòng nước xối xả, chảy từ mái nhà bà Cần xuống hè đường, phía đối diện.
Tiếng rọc rạch, rổn rảng của chiếc máng nhà cụ Thanh bên cạnh, nghe như một đàn cua rốc chạy trên một cái mâm đồng.. Tiêng gió lắt lay, lồng lộn đập vào tấm phên trước cửa nhà ông già Tấn. Tất cả, như một buổi hòa âm của một tụ điểm nhạc thính phòng, đã khắc ghi vào lòng tôi một đêm Sài Gòn mưa rơi. Rồi tôi đi vào giấc ngủ muộn đêm hè lúc nào không hay.
1     2     3         5     6     7     8     9     10     11     12     13     14  

   15     16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét