1. SÀI GÒN ƠI!
Sáng hôm nay, sau khi Ý, cán bộ trại vừa điểm buồng xong
quay đi, tôi là một trong những người đầu tiên ra sân. Như mọi buổi sáng, tôi
tranh thủ chạy ra sau nhà làm vài động tác tay chân, cố hít thở cái không khí
ban mai của một ngày trong hai, ba phút.
Mấy đêm trước giấc ngủ
của tôi không yên, tâm tư cứ khắc khoải vơi đầy, chỉ vì chiều hôm ấy cách đây
ba ngày, ở dưới phòng y tế của anh Thái, do một sự tình cờ, một em tù hình sự
vừa mới nhập trại, xuống xin thuốc hắc lào, đã nói đến cô y tá Hỏa Lò. Tôi đã vồ
vập hỏi, nhưng em không hề biết gì hơn về người Hưng Yên. Em chỉ xác định là
bốn tháng trước ở Hỏa Lò, em có xin thuốc hắc lào của cô Vân y tá, 1 lần.
Cô Vân ơi! Ngay đầu
1968, trong buổi giã từ não nuột dầm dề mưa rơi ấy ở Hoả Lò, đã hơn 3 năm rồi,
tôi vẫn lầm lũi quằn quại trong ngục tù tăm tối, nơi rừng núi biên cương. Tôi
không hề biết một tin tức gì về cô cả, để rồi chỉ nghe thoáng đến tên cô, lòng
tôi đã xáo trộn mấy đêm nay. Rất may đêm qua, tôi ngủ được một giấc đã đầy, bù
lại.
Phía Đông đỏ rừng rực,
rồi mặt trời mò lên; xa xa chéo phía Tây Nam, rặng Hoàng Liên Sơn (Fan-si-pan)
mây trắng che phủ ngọn, cũng vàng ửng lên rực rỡ. Một đàn vạc trắng hình cánh
cung, đang sải cánh bay về hướng Đông Bắc.
Nhìn mấy tảng mây trắng hồng từ hướng nam lững lờ bay đến,
tôi có cảm tưởng chúng đang mang theo những hơi hướng ngọt bùi, ruột thịt, tha
thiết của gia đình, bạn bè thân quen phương trời bên ấy. Tôi rướn người, kiễng
chân lên để hít lấy cái hơi thương nhớ, vời vợi của 9 năm dài đằng đẵng. Từ nơi
sâu thẳm của cõi hồn, một giọng hát nỉ non, tỉ tê nghe rõ mồn một : ” Hôm nay… Sàigòn… bao nhiêu tà
áo… khoe mầu phố vui… Riêng tôi một mình… tâm tư sầu lắng… đi trong bùi ngùi…
Sàigon ơi…”
Bỗng tiếng Lầu Chí Chăn
dội lên, từ cửa sổ phía sau nhà :
- Anh Bình không đặt
bát để lấy sắn à?
Như choàng tỉnh một cơn
mơ ngày, tôi vừa “ờ… ờ” vừa chạy ra sân trước. Nhìn các mâm đang ồn ào tíu tít
chia sắn sáng, tôi chợt nhớ tối qua sinh hoạt toán, Nguyễn Huy Lân đã rành mạch
tuyên bố:
Theo chỉ thị của ông
Miễn cán bộ toán 2, ngôi nhà cơ bản số 3, còn bảy cái cửa ra vào chưa lắp cánh
xong. Vì thế năm người, được phân công làm trong trại gồm :
Lê Văn Kinh, Bùi Tâm
Đồng, Lầu Chí Chăn, Nguyễn Thanh Đương và Đặng Chí Bình.
Tạm thời ĐCB làm tổ
trưởng, chịu trách nhiệm kỹ thuật. Vẫn xuất trại theo toán ra lán thủ công để
lấy dụng cụ . Sau khi lấy dụng cụ, cán bộ toán 2 sẽ dẫn cả tổ trở vào trại. Gần
cuối giờ, cán bộ toán lại vào trại đón tổ ra lán để cất dụng cụ, rồi cùng về trại
trả số tù”.
Cùng những ngày tổ mộc
lắp cửa, cũng có một tổ xây đang lợp ngói cho xong nóc nhà, mà đám công nhân xã
hội còn làm dở. Một buổi trưa, tôi đang hì hục cắm cúi làm, thì Chăn đi vệ sinh
về, ghé tai tôi nói nhỏ :
- Anh em lợp nhà ở trên
nóc, nhìn sang sân khu nhà số hai thấy có nhiều người tụm năm, tụm ba cởi áo
phơi nắng, bắt rận.
Gợi trí tò mò, xế trưa
tôi trèo lên chỗ anh em lợp nhà. Đúng như rằng, ngoài sân khu nhà cơ bản số hai
có chừng hơn hai chục người : người đứng, người ngồi, đi đi lại lại. Có nhiều
bác tóc đã muối tiêu, và cũng gầy xanh như chúng tôi. Vì từ xa, nhìn thẳng,
khoảng cách từ 60 đến 80 mét nên chỉ nhìn nhau. Thỉnh thoảng có anh giơ tay vẫy
vẫy chào, nhưng không thể biết một tí gì về nhau cả. Khó khăn đẻ ra sáng kiến,
tôi chợt nhớ tới cách liên lạc khi còn ở xà-lim I Hoả Lò. Tôi trèo xuống chỗ
làm, kiếm được tấm gỗ mỏng nhẹ để làm cửa, bề chừng 60, bề chừng 40 phân. Vì có
chủ ý, tôi xách miếng gỗ, lại trèo lên chỗ đám lợp nhà.
Mất dăm phút ra hiệu
tay, khua vẫy nhiều anh em ở sân bên ấy đổ xô đến, ngước mắt nhìn lên. Để an
toàn, tôi nhờ một anh toán xây, để ý cán bộ dưới sân bên ngoài. Tôi giơ miếng
gỗ quay lại, chậm chạp, dùng ngón tay trỏ, tôi viết từng chữ theo lối in, vào
tấm gỗ : “ANH NHÌN THẤY KHÔNG ?”
Lần đầu, họ đều tỏ ra
lơ mơ và lắc đầu. Tôi thong thả làm lần nữa. Nhiều người khua tay mừng rỡ, đầu
gật gật. Tôi bảo các anh, tìm cái gì viết lại cho tôi. Mấy người chạy vào nhà,
rồi một người cầm ra một miếng gì, như cái nia con mầu nâu xám, đường kính
khoảng 80-90 phân. Một anh cầm, một anh viết kiểu chữ in như tôi. Ở dưới sân
nhà số hai an toàn hơn, họ chỉ cần để ý phía cổng khu của họ. Ngược lại, chúng
tôi ở trên nóc nhà trống trải hơn, nhưng cũng có cái lợi, ở trên cao, quan sát
ngay từ cổng trại, cán bộ ra vào chúng tôi đều trông thấy. Còn công an vũ trang
ở các chòi gác thì quá xa, dù cho có nhìn cũng chả hiểu gì, chỉ coi như đám tù
đang lao động mà thôi.
Hơn một giờ liên lạc,
tôi vừa đoán vừa hiểu được : Bên ngoài mới có một cuộc đảo chính hụt giữa phe
thân Liên Sô và phe thân Trung Cộng, khoảng cuối năm 1967. (Cũng là giai đoạn,
cộng sản Hà-Nội đưa tôi ra tòa). Phe thân Trung Cộng do Lê Duẩn, Lê Đức Thọ,
Trường Chinh đứng đầu, có chính quyền trong tay nên đã thắng thế; bất ngờ bao
vây bắt nhiều người thuộc phe thân Liên Sô, do Võ Nguyên Giáp đứng đằng sau hậu
thuẫn, và bị ghép tội là bọn xét lại hiện đại. Trong những người thân Liên Sô
bị bắt có : Hoàng Minh Chính viện trưởng viện triết học, Vũ Đình Huỳnh trợ lý
của HCM và Đặng Kim Giang thiếu tướng, phó chủ nhiệm tổng cục hậu cần. Phe này
có nhiều người trong giới quân sự tham gia.
Phần tin tức về chúng
tôi, tôi cũng cho họ biết sơ lược. Trong trại I này chúng tôi có chừng hơn 2
chục Biệt Kích từ trong Nam ra Bắc hoạt động chống cộng sản, thường đã tù từ 9,
10 năm rồi.
Do cách liên lạc không
thuận tiện, nhưng phần chính là sợ trong đám tổ xây có antene, và cả khu nhà số
hai bên ấy nữa, chúng tôi đã biết thế nào đâu. Vả lại thấy đã tạm đủ nên tôi và
Chăn quyết định, không liên lạc tìm hiểu thêm nữa.
Chiều nay thứ Sáu,
không khí trong trại nhộn nhịp khác thường. Nguồn tin từ các cán bộ toán cho
biết khu A (chính trị) cũng như khu B (hình sự) sẽ lao động xã hội chủ nghĩa
Chủ Nhật này (Một Chủ Nhật nghỉ, một CN Lao Động XHCN đã trở thành thông lệ ở
các trại giam từ lâu). Chúng tôi sẽ móc bùn, vớt bèo, làm cỏ toàn bộ 3 chiếc ao
lớn thả cá trước khu của ban giám thị trại. Cái điều làm cho khí thế của trại
sôi nổi, là nguyên nhân có ban thi đua do cán bộ giáo dục Bùi Huy Tập làm
trưởng ban, trực tiếp chấm điểm giữa 3 khu tù nhân của trại. Khu A trách nhiệm
chiếc ao giữa, khu B trách nhiệm chiếc ao trước khu công an vũ trang, còn chiếc
ao thứ 3, phía trái của khu ban giám thị do K2 (trại nữ) đảm trách.
Đây là điểm mấu chốt
làm cho khu nào cũng xốn xang bàn tán, chuẩn bị. Điểm đặc biệt của lần LĐXHCN
kỳ này là, do sự trù liệu công việc, ban giám thị trại quyết định :
- Tù nhân sẽ làm Lao
động XHCN liên tục từ 8 giờ sáng đến 2 :30 chiều, chỉ trừ nghỉ 15 phút để tù
giải lao ăn sắn bồi dưỡng lúc 10 giờ sáng, và 30 phút ăn trưa lúc 12 giờ.
Thường LĐXHCN chỉ làm nửa ngày, tức 4 giờ.
Cứ nhìn khu A này, tôi
đã hình dung ra cái cảnh rạo rực chuẩn bị sửa soạn quần áo, đầu tóc của mỗi
người, nhất là những người còn trẻ, còn một chút nhựa xuân nào trong người ở 2
khu B và K2 kia.
Ngay từ trưa thứ Bảy,
toán nhà bếp, có các anh tự giác của mỗi toán xuống phụ giúp gồm hơn 2 chục anh
: Họ được lệnh gồng gánh, cuốc xẻng, xe ba gác để đi đào sắn. Tiêu chuẩn bình
quân đầu người LĐXHCN được hưởng 8 lạng sắn kể cả vỏ. Nhà bếp K1 phục vụ khu A
và B, bếp K2 phục vụ K2. Không biết phía đàn bà con gái bên K2 có mong ngóng
được nhìn thấy đàn ông, con trai bên K1 hay không, chứ bên K1 này thì từ rừng
sâu, trong lán thủ công đến ngoài nương khoai, đồi sắn, vườn rau; đâu đâu nơi
nào có tù lao động đều say sưa bàn tán rôm rả trong cái dịp ngàn năm một thuở
này.
Đúng thế, trừ trường
hợp cá biệt, còn thông thường, đàn ông, đàn bà chúng tôi hàng năm chả nhìn thấy
bóng dáng của nhau. Thậm chí anh Nguyễn Văn Thú (Biệt Kích), tối qua ở trong
buồng đã nói : Lâu ngày quá, anh đã quên cả đàn bà, con gái. Đến nỗi anh đã
ngẩn ngơ cả đêm , mà vẫn không thể hình dung ra thế nào cả. Anh chỉ thấy họ
tuyệt vời lắm! Họ là một thứ vưu vật, là lẽ sống của cuộc đời v.v…
Anh Thú cứ ông ổng ca
tụng người đàn bà, con gái mãi. Rất nhiều người tán đồng phụ họa; nhưng cũng
nhiều người phản đối. Anh Bùi Tâm Đồng đã đứng hẳn lên sàn dõng dạc :
- Vừa thôi, anh Thú ơi!
Anh cứ làm như, nếu trên cõi đời này không có đàn bà con, gái thì chúng ta
không sống được hay sao?
Hàng 4, 5 cái miệng đều
rống lên :
- Đúng ! Đúng ! Không
sống làm gì nữa !
Giọng một anh từ trong
nhà cầu đi ra, gào lên :
- Nếu biết chắc trên
đời này không có và không còn đàn bà, con gái, sáng sớm mai tôi sẽ cắn lưỡi,
xin từ giã tất cả các quý bạn để về với Chúa ngay.
À… anh chàng Gôm! Tôi
đã thấy hơi lạ, từ lúc trong buồng sôi nổi bàn chuyện đàn bà, con gái mà không
thấy anh chàng này tham gia. Đang ồn ào náo nhiệt sục sôi cả căn buồng thì bỗng
có tiếng báng súng đập vào vách nứa ầm ầm; giọng một tên công an vũ trang quát
:
- Buồng này làm cái gì,
ồn ào như cái chợ vậy?
Giọng khàn khàn của anh
Thành Xuân Yên từ tốn :
- Thưa cán bộ, họ đang
tranh luận, nếu trên đời này không có đàn bà, con gái thì họ sẽ tự tử hết!
Im lặng một lúc, rồi
giọng tên vũ trang đã hạ xuống :
- Bậy bạ! Thì nói nhỏ
vừa nghe thôi!
Thấy thế, trong buồng
lại râm ran trở lại. Anh Lân buồng trưởng đã phải ra đứng giữa buồng khoắng tay
:
- Toàn buồng trật tự
yên lặng! Các anh bàn chuyện đàn bà, con gái thì nói cả đời không hết! Đây là
chuyện thực của đời tôi. Từ ngày tôi bị bắt đã 8 năm rồi, có một điều tôi ân
hận nuối tiếc lớn nhất, vẫn ngày đêm dằn vặt lòng tôi.
Rồi anh im bặt. Có
nhiều tiếng hối thúc :
- Nói ra đi! Nói ra đi!
Cũng lại ầm cả lên. Tôi
cũng tò mò, đến bên Lân cao giọng :
- Các anh đừng làm ồn,
để anh Lân nói ra đã!
Rồi tôi quay lại anh
Lân như thúc giục :
- Anh nuối tiếc ân hận
điều gì thế, hãy cho chúng tôi biết đi!
Anh cười và tỏ vẻ thành
khẩn :
- Hiện nay, tôi đã có 4
mặt con : 2 trai và 2 gái, vậy mà tôi vẫn chưa nhìn thấy cái của vợ tôi nó như
thế nào cả. Tôi ân hận sao lại không nhìn rõ một lần cho đã, để bây giờ khỏi
hối tiếc!
Cả buồng réo lên :
- Không tin được ! Không
tin được !Vô lý !….
Cuối cùng, anh Lân đã
thong thả chậm chạp như tâm sự :
- Tôi xin thú thực với
các anh em. Bởi vì chúng tôi ở nhà quê, chỉ khi nào đêm khuya, tin chắc cả nhà
đều đã ngủ yên thì 2 vợ chồng mới… tò te mà thôi. Thường trời tối giơ bàn tay
không nhìn thấy, thì nhìn làm sao được cái kia?
Câu chuyện này, cho đến
bây giờ đôi khi tôi vẫn còn nhớ lại. Vừa đây, tháng 8-2003, tôi có dịp sang
tiểu bang Philadelphia, do một sự tình cờ, tôi gặp lại anh Nguyễn Huy Lân, anh
mới đi HO sang Mỹ 1994. Anh ở một town gần đấy, khi biết tôi sang, anh đã lái
xe đến thăm. 23 năm mới gặp lại nhau, trong một bữa cơm có mấy anh Biệt Kích
nữa, nhớ lại câu chuyện LĐXHCN ở trại Trung Ương Số I Phố Lu, Lào Cai, đầu năm
1972, tôi đã tươi mặt hỏi lại anh :
- Thế nào, Lân Mều! Từ
ngày được tha về với gia đình, anh đã nhìn rõ cái “miếng ngọc” của anh chưa?
Cả bàn tiệc cười ngặt
nghẽo như đê bị dò khi nước lụt.
Xin trở lại buổi
LĐXHCN. Đêm hôm đó, khi nằm chưa ngủ được, đầu óc tôi miên man nghĩ đến anh
chàng Lân Mều này. Tôi còn nhớ rõ 4 năm xưa (1968), khi ấy tôi từ dưới Hoả Lò
mới lên trại Trung Ương Số I, rồi được chuyển vào phân trại E do Hoàng Thanh
làm giám thị.
Tôi được phân bổ về
toán 2 làm mộc, cũng do Nguyễn Huy Lân làm toán trưởng. Khi biết tôi cũng từ
trong Nam ra Bắc, lại cùng ở trại định cư Nam Hà thuộc phường 6, quận Tân Bình,
anh và tôi rất quý mến và thân nhau từ đấy. Mùa Đông, tôi thường sang chỗ anh
nằm đắp chăn chung, chuyện trò tâm sự. Khi biết tôi còn thanh niên chưa vợ, có
lần anh hỏi tôi:
- Tao hỏi thực mày, mày
đã nhìn thấy cái “hến” của đàn bà chưa?
Sau khi Lân biết tôi
chỉ nhìn thấy của các bé gái còn nhỏ 4,5 tuổi. Một buổi tối, Lân trêu tôi. Anh
đứng ở giữa nhà nói to với cả buồng:
- Thằng Bình nó ngố
lắm! Nó cứ tưởng cái “hến” của con gái khi lớn lên vẫn vậy. Nó không biết là
khi đứa con gái bắt đầu 11-12 tuổi thì cái “hến” cứ xoay dần, để rồi đến 18
tuổi cho tới khi thành đàn bà thì nó nằm ngang hẳn ra.
Ngay khi ấy, tôi cũng
không tin và hiểu là Lân mều muốn trêu tôi mà thôi. Tuy vậy, một hôm tôi đã hỏi
Gôm. Gôm cười hềnh hệch và nói là cá biệt, có người nó còn ngược hẳn lên. Để
rồi mấy tháng sau, nhân một lúc vui, tôi hỏi thẳng bác Lẫm. Bác cười bằng mắt
bảo tôi:
- Yên tâm đi, sau này
sẽ biết.
Sáng hôm sau chủ nhật,
trời cũng chẳng chiều lòng người, sương mù kéo dầy đặc. Tới khi kẻng tập họp để
chuẩn bị xuất trạo đi lao động XHCN mà sương khói vẫn còn mịt mù, chỉ nhìn rõ
người và cảnh vật xa chừng ba chục mét. Xa hơn nữa, thì chỉ thấp thoáng bóng
người mơ hồ trong sương đục. Để phòng ngừa, Ban Giám Thị cho lệnh phải tăng
cường mỗi toán thêm một công an vũ trang nữa. Rặng Hoàng Liên Sơn hôm nay cũng
biến vào mây trời mất tiêu, chỉ còn lại một mầu rêu già xám xịt phía chân trời.
8 giờ, tiếng trống thùng… thùng … của hai tay trống nhà bếp
phía cổng trại làm rung rinh lòng mọi người. Hai chiếc biểu ngữ đỏ nẹt, chữ
trắng, đã nhìn rõ dần. Một cái của khu A viết :”Vì Miền Nam ruột thịt, một người làm việc bằng hai”. Một cái của khu B . Từng
toán, lần lượt ra khỏi cổng trại.
Khi toán 2 ra đến khu
vực đã được phân công, đảm trách ở chiếc ao giữa. Nguyễn Huy Lân lấy ra một tờ
giấy đã viết sẵn, anh cao giọng thong thả đọc từng tên. Một số người già yếu ở
trên bờ làm cỏ, chan đất, đắp bờ. Còn hầu hết trai trẻ, đều phải xuống nước vớt
bèo, móc bùn. Riêng tôi, vì có chút kỹ thuật, nên được ở trên bờ để san và đắp
bờ.
Trời đã về cuối Xuân,
nhưng nước vẫn còn lạnh căm căm. Cái chính là bụng đói, thì cật rét; cởi áo ra,
người anh nào cũng chỉ còn xương sườn với da, tay chân khẳng khiu, khòng khèo.
Mới sáng thứ Bẩy hôm qua, anh Lương Yên làm vệ sinh, cho biết bên khu B hình
sự, có hai cậu được khênh xuống bệnh xá đều chết vì ăn quá nhiều vỏ sắn, bụng
chương lên, không đi cầu được. Thế mà khí thế lao động vẫn hăng say. Tiếng
trống, tiếng loa hô hào vẫn oang oang, thình thình như một đám hội của đình
làng.
Khoảng gần 10 giờ, mặt
trời đã ló ra nhìn cảnh núi rừng âm u trong sương đặc, nhưng gió lộng hơn nên
vẫn lạnh. Trong toán 2, người ở dưới nước, người trên bờ, mặt anh nào cũng tái
ngoét, răng đánh vào nhau cặp cặp. Mọi người đề nghị cho đốt lửa hút thuốc và
cũng sắp đến giờ giải lao ăn sắn bồi dưỡng. Được lệnh của BGT, một số anh tự
giác đem xe ba gác vào khu thủ công toán xẻ và toán mộc, lấy phoi bào và những
đầu gỗ thừa. Chỉ nửa giờ sau mỗi ao đã có một đống lửa to, mọi người nhìn cho
ấm mắt, và cũng ấm lòng thôi, chứ chưa ai được đến gần đâu.
Từ sớm tới giờ, tôi vừa
làm vừa ngẩn ngơ suy nghĩ. Đói khổ, lầm than triền miên như vậy mà không khí
lao động vẫn sôi nổi, không ngưng nghỉ. Tại sao như vậy? Càng ngẫm nghĩ, càng
kính nể và bái phục cái tài khích lệ, phỉnh phờ, đe doạ ép buộc kết hợp với cái
dạ dày để chỉ huy con người của cộng sản. Phải hàng chục thứ liên kết, mỗi
cái một ít, từ ngoài xã hội đến trong gia đình, để có một sức ép tứ phía.
Rõ ràng mọi người không
muốn làm, mà rồi vẫn phải làm, làm với một thái độ hăng say, nồng nhiệt. Suy kỹ
đã thấy sáng tỏ: Nội dung không quan trọng bằng hình thức. Mà ngay từ xa xưa,
ông cha chúng ta đã thấy:”Cách ăn không bằng ý ở”. So với sự cho tiền, cho ăn,
cho vật dụng, cái cách đưa, cách cho, cách đối xử quan trọng hơn. Phương Tây
cũng có câu:”Của cho không bằng cách cho”. Cái cách thể hiện câu nói, quan
trọng hơn nội dung câu nói.
Ai cũng thấy, kể cả
người cộng sản cũng thấy họ làm nhiều điều sai, nhiều điều thiệt hại đến
người dân, với đất nước, nhưng họ chỉ cần nghiên cứu thấu đáo phương cách thực
hiện. Muốn quán triệt, họ cần phải có nhiều bộ óc, cùng nghiên cứu mọi mặt của
một vấn đề. Rõ ràng: bốn người trình độ như nhau, qủy quái tinh khôn như nhau;
nếu ba người hợp lại để chống một người thì hầu như cái tất thắng là ở phía ba
người.
Truyền thống từ nhiều
đời, Đông cũng như Tây, ông cha đều đã dạy:”Ba cái đầu hơn một cái đầu”. Đông
người mà cùng nhìn về một phía, cùng đem hết tâm hồn và trí lực để thực hiện
một mục tiêu thì thành công.
Chứ đông mà “Ông chẳng,
bà chuộc”, “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, người nầy kích bác, chống phá
người kia, kéo bè, kết cánh để gây mâu thuẫn, đả phá lẫn nhau, thì lại không
bằng một người. Tôi nhớ đến một câu danh ngôn của Napoléon :”Một vị tướng tồi,
còn hơn 2 vị tướng giỏi”. Việt Nam ta cũng có câu “Nhiều thầy, thối ma”.
Phương pháp của người
cộng sản là : Trên cao nhất có bộ chính trị, sau đó là có một ủy ban trung
ương, các cơ quan đoàn thể đều có đảng ủy: tỉnh, huyện, xã thôn đều có. Khâu
nào cũng có tập thể cùng bàn bạc thảo luận nghiên cứu thấu đáo từng sự việc
theo nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Từ đấy suy ra: Thế Giới
Tự Do của chúng ta đã phù hợp với lòng người; chúng ta không hề lừa lọc, bịp
bợm người dân, nên có chính nghĩa. Vậy chỉ cần nghiên cứu về phương pháp thực
hiện, đã thấy tính hơn hẳn của chúng ta đối với cộng sản rồi.
2. SAY ĐI EM!
Trời sáng dần, nhìn sang phía hai chiếc ao 1 và 3 đã thấy
những bóng người trong sương trắng. Đầu óc tôi vẫn còn chìm nghĩm vào những
dòng tư tưởng mênh mông; bỗng tiếng của anh chàng Gôm, trong đám vớt bèo ở dưới
ao ré lên:
- Đỉa …! Đỉa…!
Rồi y chạy bổ lên bờ.
Tiếp theo có nhiều tiếng gào giật đùng đùng:
- Đỉa ….! Đỉa ….! …
Nhiều đỉa quá!
Một số người nhào vào
bờ. Chàng Gôm mặt tái ngoét, hai tay thay nhau bấu, lôi một con đỉa hẹ như cái
sơ mít đang bám phía trên đầu gối, chân nhẩy giẫy đành đạch. Gôm lính quýnh mãi
không lấy được con đỉa ra, cứ dứt đầu này thì đầu kia nó lại bám vào da. Thương
hại, tôi chạy lại bên Gôm, nhổ một bãi nước bọt vào tay, rồi xát vào đùi Gôm, chỗ
con đỉa bám. Tôi lôi con đỉa ra một cách dễ ợt, rồi ném mạnh ra xa vào chỗ đống
bùn, trước những con mắt mở to của Lê Văn Kính và thầy tu Nguyễn Thanh Đương.
Kinh người miền Nam hỏi tôi một cách trầm trồ:
- Bình bạo thế! Làm sao
lại phải dùng nước bọt?
Tôi cười thản nhiên:
- Ồ, còn nhỏ, tôi mò
cua bắt ốc là thường. Còn nước bọt nó trơn, con đỉa không bám được vào da nữa.
Người ta nói: “Dai như đỉa đói” là như thế!
Miễn, cán bộ toán và
tên CAVT (công an vũ trang) cũng tươi mặt mỉm cười nhìn tôi. Phía cuối toán
cũng có vài anh nữa ở dưới ao, đang ném những con đỉa ra mãi tít xa ngoài giữa
ao. Một số anh nhanh nhẩu quát:
- Hãy ném đỉa lên bờ,
ném xuống ao, nó trở lại cắn nữa!
Cả cái vòng tròn của
cái ao to, nhiều toán cũng ném đỉa tứ tung. Xa xa hai chiếc ao hình sự và K2
cũng đang í-ới về đỉa. Bỗng có tiếng những cô gái hét lên, chạy xôn xao, nhưng
xa quá nên tôi chỉ thấy thấp thoáng trong sương mờ. Có mấy anh ở dưới ao, hướng
về tên CAVT cao giọng:
- Đề nghị cán bộ, cho
mấy chúng tôi tình nguyện sang bắt đỉa cho phía phụ nữ đó ạ!
Tên vũ trang đứng gần
phía đống lửa, mắt y long lanh nhìn sang phía K2, đầu lắc lắc, miệng y lại cười
cười. Tôi có cảm giác tưởng như y muốn nói:
- Nếu tự nguyện sang
bắt đỉa cho phụ nữ được thì tôi chả để đến phần các anh đâu!
Lẫn vào trong tiếng
trống, tiếng loa hò hét; bỗng một hồi kẻng lanh lảnh phía cổng trại như ngoáy
vào sương mù làm cho những tiếng loa, tiếng trống im bặt. Giờ hạnh phúc, giờ
giải lao, giờ ăn sắn bồi dưỡng đã đến rồi; một đoàn người gánh gồng từ trong cổng
trại đang tiến ra các bờ ao. Nguyễn Huy Lân và mấy anh tổ trưởng toán 2 đang
lúi húi trải một tấm nylon xanh cũ, nhiều chỗ đã đen nhẻm xuống đất gần chỗ
đống lửa, để cho anh nhà bếp đặt gánh sắn còn bốc hơi.
Mùi sắn thơm ngọ, phả
vào trong màn sương đặc, nhưng chợt có một mùi thơm khác, mùi thơm lạ, mùi của
mều, của protéin. Mùi thơm ngậy, luồn vào trong gió rồi lách vào mũi của mỗi
người, làm cho nước miếng của tôi đã rỉ ra trong miệng. Tôi nhớn nhác nhìn về
phía đống lửa: Bùi Tâm Đồng, Lê Văn Kinh, Nguyễn Văn Gôm và Lò Văn Lui, anh nào
mồm cũng đang nhóp nhép nhai. Mặc, đám đông đang ríu rít chia sắn bồi dưỡng,
tôi sà đến chỗ đống lửa . Miệng còn đang nhai, Lê Văn Kinh giơ cho tôi một
miếng đen đen cháy, bằng ½ ngón tay út vồn vã:
- Còn một con cá bống
cơm đây, phần Bình.
Nước bọt đã ứa ra
miệng, tôi cầm lấy với ánh mắt biết ơn. Của quý mà anh em dành cho; miệng nhai,
mũi ngửi nó vừa thơm vừa bùi lại ngầy ngậy, mắt sáng ra háo hức:
- Cá bống cơm ao bèo
bồng, sao mà ngon thế hở trời!
Tôi chợt thắc mắc:
- Sao cá bống mà lại
không có xương sống?
Cả 4 người đều cười như
nắc nẻ:
- Đỉa đấy ông bạn ơi!
Làm gì ra có cá bống!
Nghe thế, tôi cũng thấy
hơi nhờn nhợn, lợm giọng nhưng kệ nó, vì ngon quá! Hơn nữa, cả 4 người họ đang
đi lùng sục bới trong những đống bùn. Từ sớm tới giờ mọi người vất đỉa lung
tung, bây giờ lại đi tìm. Anh nào chưa nếm mùi “cá bống cơm” thì còn lửng lơ,
chỉ nhìn quan sát tò mò. Anh nào đã nếm mùi thì đều đôn đáo, tay cầm sắn, mồm
nhai, nhưng mắt vẫn nhớn nhác nhìn đây đó để tìm “cá bống cơm”. Thậm chí có mấy
người còn lội hẳn xuống ao, chân tay khua động nước, rồi đứng yên chờ cho đỉa
đến cắn, bắt đem lên nướng. Thành ra giờ đây lại đi tìm đỉa, chứ không còn sợ
đỉa nữa.
Câu chuyện “cá bống
cơm” này đã hơn 30 năm, bây giờ Lê Văn Kinh (người nhái) đang ở Florida đôi khi
trên phone tôi và Kinh vẫn còn nhắc lại để rồi hai ông già còn cười, cùng nhớ
lại “Đàn cá bống cơm ao bèo” của muôn năm cũ.
Gần nửa đêm hôm qua,
tôi giật mình thức giấc vì tiếng báo cáo đi cầu của anh Lồ Cao Diu ngay sàn
trên, đối diện với tôi. Tôi cứ nằm nghe tiến gió rừng rì rào lẫn với những
tiếng gáy cò cử của một số người trong buồng: bỗng hai tiếng sấm đoành… đoành ở
phía Tây, làm rung rinh cả căn buồng. Rồi nhu có một chiếc xe lửa nhiều toa gầm
ghì chạy ngang dọc trên bầu trời. Những lằn chớp nháy, có lúc xanh lè ngoài cửa
sổ, một trận mưa như đổ nước xuống từ trên trời.
Mưa rào rào xối xả vào
mái nứa, vào phên tre, gió càng mạnh thốc vào cửa sổ. Đã có nhiều người dậy hút
thuốc lào, đi vào nhà cầu, nên không ai còn phải báo cáo nữa. Thực ra cái khâu
tù đi ỉa, đi đái đêm phải báo cáo này, đã từ lâu không còn nghiêm ngặt áp dụng
nữa, như tôi đã trình bày 2 năm trước đây, ở phân trại E; cho nên giờ đây các
buồng đi cầu đêm, rất ít người báo cáo. Có chăng chỉ còn một số người, đa số là
dân tộc hãy còn do thói quen, tính mộc mạc ngoan ngoãn chấp hành.
Nằm mãi nghe sấm chớp,
gió mưa gào thét tôi chợt nhớ tới giọng ca rên rỉ khàn khàn, đùng đục, dài lòng
thòng của ca sĩ Thanh Thúy trong bài “Mưa Rừng” thủa nào:
Mưa rừng ơi… Mưa rừng.. Hạt mưa nhớ ai mưa
triền miên, phải chăng mưa buồn vì lòng người…. Mưa sầu vì tình đời … Lá vàng
rơi lìa cành … gợi ta nỗi niềm riêng….. Ôi! Ta mong ước xa xôi, nhưng đêm mãi
cô đơn. .. gửi tâm tư về đâu?… Mưa thương ai? Mưa nhớ ai?….Mưa rơi như nhắc nhở,
mưa rơi trong lòng tôi… Mưa rừng ơi! Mưa rừng…. Tìm đâu hỡi ơi… bóng ngày
xưa?……
Rồi tôi đi vào giấc ngủ
muộn lúc nào không hay.
Sáng hôm nay, trời
trong xanh không một vẩn mây, cảnh vật núi đồi như được lau chùi cọ rửa sạch sẽ
đêm qua. Ngồi xếp hàng đôi, bên cạnh Đinh Sơn BK, tổ trưởng tổ kỹ thuật, chờ
cán bộ Ý trực gọi đến toán 2 xuất trại như mọi khi, Sơn ghé sang tôi hỏi nhỏ:
- Bình có biết máy bay
của Lâm Bưu trên đường chạy trốn, bị tên lửa bắn rơi tan xác ở Tân Cương do
chính Mao trực tiếp ra lệnh không?
Tôi lắc đầu, ngạc nhiên
vồ vập:
- Tin ở đâu, có chắc
không?
Sơn càng nói nhỏ hơn
nữa:
- Do tự giác, ngoài dân
họ đồn ầm lên! Họ nói do đài BBC đưa tin.
Phần vì thấy sự việc
còn mãi ở bên Tàu xa xôi, không trực tiếp giải quyết gì đến cảnh đời của mình;
phần khác tâm trí tôi còn bao nhiêu thấp thỏm với ngôi nhà xây số 3. Đêm qua,
khoảng 2 giờ tôi nghe nhiều tiếng xon xao và tiếng chân của một số đông người,
đi từ cổng trại đi vào. Thấy bác Tiến đã dậy rồi, tôi ghé sang mùng bác nói
nhỏ:
- Bác ơi! Không biết tù
ở đâu đến, mà lại đến khuya thế?
Bác thì thào:
- Bác cũng không đoán
ra!
Rồi bác nhấc màn chui
ra, đi vào nhà cầu.
Mới sáng sớm, khi cán
bộ điểm xong, tôi phải phiên trực mâm lấy sắn sáng. Tôi chạy hộc tốc như các
mâm khác, xuống bếp để lĩnh soong sắn. Vì có giao tình riêng với anh Khuê toán
trưởng nhà bếp, tôi đã lủi vào buồng anh thăm hỏi, tù nào ở đâu chuyển đến đêm
qua? Do những liên hệ phục vụ cơm nước, nên anh đã cho biết: có 52 Biệt Kích
thuộc trại Phong Quang Yên Bái chuyển đến ngôi nhà số 3 đêm qua.
Lúc đầu, chắc chưa phân
bổ tổ, toán để lao động nên không thấy có ăn sáng. Hàng ngày, cứ khi nào xuất
trại xong 9, 10 giờ sáng, nhà bếp mới khênh cơm nước lên, đi thẳng vào trong
cổng khu nhà số 3.
Hầu hết anh em BK (Biệt
Kích) ở trại 1, đều băn khoăn nghe ngóng tìm hiểu xem có những ai quen biết,
thậm chí có cùng toán BK của mình chăng? Mới hơn một tuần, Gôm ở dưới buồng của
anh Thái y tá về cho biết: sáng nay có một anh BK từ ngôi nhà số 3, được khênh
xuống bệnh xá, hơn một giờ sau đã chết rồi. Nguyễn Văn Thú, Chăn và tôi định
kín đáo chiều nay đi làm về, sẽ ghé xuống xem BK đó là ai? Vì sao chết để cùng
chia sẻ gọi là một chút nghĩa tình của anh em. Nhưng cho tới lúc chúng tôi đi
làm về, thì anh Thái lén lúc cho biết: Đã đem đi chôn lúc 2 giờ trưa rồi. Anh
Thái ghé vào tai tôi như nói riêng:
- Do may mắn nên Thái
biết được tên người chết là Vũ Khắc Hải, chết do bệnh lao, suy nhược, vì không
có thuốc. (Mãi gần một năm sau, khi Hiệp Định Paris 27-1-1973 sắp ký, tôi mới
biết rõ anh VKH thuộc toán Roméo gồm 10 người, ra Bắc từ 19 tháng 11-1965)
Thật là bất ngờ, tối
hôm qua, sau khi cán bộ trực Ý vừa điểm buồng xong chừng 40 phút; anh em vừa
họp tổ sinh hoạt hàng tuần, lại có tiếng chìa khoá rủng rẻng ở cửa buồng, rồi
cửa mở. Cán bộ Ý bước vào buồng, bên ngoài còn lố nhố một số CAVT. Hắn đứng
giữa nhà dõng dạc:
- Những anh có tên sau
đây, chuẩn bị công, tư trang quần áo khi gọi đến tên trong vòng 10 phút, phải
ra khỏi buồng để chuyển trại.
Ai cũng mắt mở to, thao
láo nín thở lắng nghe; lần lượt 19 anh, hầu hết là BK của toán 2 và 3. Tôi tập
trung tinh thần lắng nghe, đợi gọi tên mình, óc lướt nhanh những gì còn mắc mứu
với những người trong buồng, cũng như buồng khác. Trong buồng của toán 2 (mộc)
và 3 (xẻ) gồm 97 người. Có chừng 20 BK gián điệp; còn lại là những người dân
tộc và chính trị địa phương. Tôi bàng hoàng không hiểu ra sao; có những toán
chia đôi, xẻ 3 không theo một cái khuôn thước nào, có toán đi hết:
Toán Strata:
Nguyễn Cao Sơn, Nguyễn
Như Ánh đi
Trần Quốc Quang, Trương
Nàm Tráng ở lai
Toán Người Nhái Cancer:
Lầu Chí Chăn, Lý Giòng
Slau ở lại.
Dương Long Sang,Voòng
Hợp Văn đi.
Ngay đêm ấy, nhà bếp đã
được lệnh bí mật chuẩn bị cơm nước đi đường. Cho đến sáng hôm sau, cả 3 Biệt
Kích ở toán rau cũng phải đi, bao gồm 22 người. Còn lại 6 người ở lại trại I
là:
- Lầu Chí Chăn
- Lý Giòng Slau
- Lê Văn Bưởi
- Đặng Chí Bình
- Trương Nàm Tráng
- Trần Quốc Quang.
Đặc biệt, trong những
người đi,có cậu Hoàng Mạnh Hùng. Ngay từ đầu năm 1968, tôi ở dưới Hoả Lò lên
vào phân trại E gặp cậu, tôi và cậu đã mến nhau coi như anh em. Tôi đã trèo lên
sàn trên để giúp Hùng, buộc gói chăn màn. Hùng là dân tộc Nùng, thuộc toàn
Samson BK, ra Bắc ngày 5-10-1966. Tôi xin sơ lược vài nét về toán Samson:
Toán gồm có 8 người.
Địa bàn hoạt động tại Điện Biên Lai Châu vùng ngã ba Trung Quốc, VN và Lào.
Ngày 5-10-1966 từ Long Thành đi trên hai chiếc trực thăng ghé qua Thái rồi qua
Lào đến địa bàn hoạt động.
1. Vương Văn Can, toán
trưởng bị chết trận (3-12-1966)
2. Nông Quốc Hải, toán
phó (đã chết ở trại Quyết Tiến)
3. Shè Khừu Sáng,
truyền tin (hiện ở Atlanta – Mỹ)
4. Hoàng Mạnh Hùng,
toán phó (hiện ở New York – Mỹ)
5. La Văn Thịnh, toán
viên
6. Nguyễn Văn Châu, năm
1977 được cho ra công nhân (đểu) Hồng Thắng rồi mất tích. Cho tới nay không
biết.
7. Lưu Văn Y, chết trận
ngày 3-12-1966
8. Văn Tế Xương, toán
viên. Vì một chiếc đồng hồ đeo tay, bị giết ở biên giới Miên Việt (1987)
Toán được tiếp tế lần
thứ nhất: 5 kiện hàng có 3 máy truyền tin (13-10-1966)
Lần thứ hai: 10 kiện
hàng (28-11-1966)
Rồi bị lộ, chiến đấu
chống trả. Toán bị 2 chết và 1 bị thương là Sáng, gãy một chân và lòi một mắt.
Toàn toán bị bắt ngày 3-12-1966. Một chuyện như giai thoại, theo Hoàng Mạnh
Hùng mới kể lại (2004):
Trước ngày đi công tác,
trong khi đo giầy cho Sáng, Sáng lấy một chiếc giầy vẽ một con mắt to tướng.
Khi ra Bắc chiến đấu, Sáng bị bắn lòi một con mắt, như vậy phải chăng là một
cái “điềm”?
Chúng tôi cũng nhiều dọ
dẫm, nhưng tù nhân không một ai biết số BK ở trại 1 đã chuyển đi đâu? Một sự
chuyển đổi có dụng ý: Đêm ngày hôm sau, đúng là ngày 3 tháng 2 (ngày thành lập
đảng Lao Động VN) thì 71 người BK từ trên trại Quyết Tiến, Cổng Trời, Hà Giang
chuyển về ngôi nhà xây số 1. Từ đấy liên hệ nhớ ngày BK ở trại 1 chuyển đi là
2-2-1972. Chúng tôi đoán tình hình bên ngoài có chuyển biến; ngày đầu tháng
2-1972 tù trại 1 chuyển đến, chuyển đi xoành xoạch làm xáo trộn toàn bộ trại,
tù nhân cũng như cán bộ. Tiếp theo lại có mấy đợt tha tù chính trị miền Bắc như
tu sĩ, phản tuyên truyền, phản cách mạng và tù dân tộc thiểu số nữa (Sau này,
chúng tôi mới hiểu cộng sản chuẩn bị để ký hiệp định Paris)
Riêng về toán 2 mộc,
sau khi cả Nguyễn Huy Lân (Toán trưởng) và Đinh Sơn (tổ trưởng tổ kỹ thuật)
chuyển đi; anh Nguyễn Trọng Tiềm tù chính trị miền Bắc lên làm toán trưởng. Tôi
là tổ trưởng tổ kỹ thuật (thay Đinh Sơn), chuyên đóng những hàng kỹ, gỗ quý,
thường làm cho các cán bộ đặt là chính.
Trước đây lực lượng
Biệt Kích hầu như đảm nhận những sản phẩm chính yếu của toán mộc. Giờ đây do
những anh em tù chính trị miền Bắc là nồng cốt. Khá tay nghề chỉ còn tôi và Lầu
Chí Chăn đều trở về tổ kỹ thuật, để làm hàng đặt của cán bộ các phân trại. Cán
bộ toán 2 vẫn do ông Lê Trí Miễn phụ trách, hàng ngày chúng tôi vẫn đi lao động
trong lán thủ công phía trái của trại. Do những xáo trộn như tôi đã trình bầy,
bây giờ ngay đầu lán mộc, cạnh tổ kỹ thuật của tôi lại có một tổ làm guốc (mặt
hàng mới) gồm 4- 5 người, do anh Phạm Phú Lục làm tổ trưởng.
Qua trao đổi tâm tình,
được biết anh Lục là người Bình Định, cán bộ huyện tập kết, Anh bị bắt vì có tư
tưởng chống đối đường lối lãnh đạo độc tài của đảng Lao Động, đã bị bắt 6 năm
rồi. Khi còn ngoài xã hội, anh đã từng phục vụ trong một cơ sở thủ công về dép,
guốc phụ nữ ở Hải Phòng. Sáng nay anh ghé sang tôi, đứng nhìn Chăn và tôi đang
thao tác một cái tủ lệch, kiểu Đức bằng gỗ lát cho ông Toán, chánh giám thị
trại. Lúc chỉ còn mình tôi Lục đến sát tôi nói nhỏ :
- Bình có biết
Kissinger sang Trung Quốc chuẩn bị cho Nixon sẽ sang gặp Mao đấy?
Tôi vừa lắp cái bản lề
cánh tủ, vừa hỏi lại Lục :
- Tin ở đâu mà đặc biệt
thế?
Lục nheo nheo cặp mắt,
miệng nói như vội vàng :
- Cứ biết thế, đừng
hỏi!
Rồi Lục bước vội sang
tổ guốc, cùng lúc ấy Chăn và Phùng Văn Tại lặc lè, khênh một tấm ván gỗ mỡ về.
Tại cùng tổ của tôi, anh là một chủng sinh, cũng cái tội không chịu bỏ tu để về
nhà lấy vợ; tôi cũng nói sơ qua sự việc đó với Chăn và Tại.
Mấy ngày nay, nhìn sang
toán xẻ, tôi thấy có nhiều tù lạ. Chăn đã cho biết, đó là những Biệt Kích ở
trại Quyết Tiến trong khu nhà xây số 1. Trong khi thao tác, tôi nhìn sang, thấy
dáng dấp mấy anh em quen quen. Lợi dụng sự đi lại trong giờ giải lao, tôi lỉnh
sang. Đúng như rằng, tôi vừa ghé sang đến toán 3, thì một anh còn trẻ từ một
góc trong chạy vội ra mừng rỡ, vồ vập :
- Anh Bình! Anh lại ở
đây à?
Tôi cũng vui ra mặt, ôm
chầm lấy, đó là Lưu Nghĩa Lương. Từ ngày ở xà- lim 1 Hoả Lò tôi ra trại chung
(cuối 1967) 5 năm bất ngờ gặp lại. Mừng rỡ như chị gặp em, tíu tít bao nhiêu
chuyện, Lương ríu rít :
- Nguyễn Phương, Hoàng
Cung, Trịnh văn Truyện, Hoàng Trọng cũng có ở đây anh ạ!
Tôi choáng người, vừa
nhìn dáo dác vừa hỏi ngay :
- Đâu? Đâu?…
Lương đã dẫn tôi ra sân
sau, của toán 3. Tôi choáng vì mấy người đó là thủy thủ trên con thuyền định
mệnh, đã đưa tôi ra Bắc 10 năm xưa. Tôi mới bước chân tới sân sau, một việc tuy
nhỏ bé, nhưng đã khắc ghi vào lòng tôi cho đến bây giờ. Vì nó nói lên sự thủy
chung, tư cách ứng xử truyền thống nho phong của một con người. Tôi bước vào,
có 5- 6 anh đang cởi trần trùng trục, mồ hôi nhễ nhại, chắc vừa cưa xẻ, ngồi
nghỉ mệt : Anh Nguyễn Phương (chuyến đi của tôi anh là Tarzan thợ máy dễ mến),
các anh Cung, Truyện thoáng thấy tôi, vội vàng với tay lấy cái áo đang treo ở
cột khoác vào, rồi đều quay lại, hơi thấp đầu nói nhỏ :
- Chào ông!
Tôi quá cảm động cũng
không nói lên lời, thành ra lí nhí :
- Cám ơn các anh!
Có thể trong một phút
bất ngờ, phản xạ tự nhiên? Các anh quên mất các anh là tù và tôi cũng là tù.
Tuần trước, tôi và Lầu
Chí Chăn lên gian vernie, do Quý cụt làm tổ trưởng. Ngồi nói chuyện với Quý,
tôi và Chăn đều ngửi thấy mùi “cồn” nồng nặc. Chỉ ngửi mùi cồn, mà người cũng
thấy lâng lâng, hồn muốn bay la đà nhấp nhổm. Thế là Chăn và tôi đã lén lút thì
thầm :
Nếu vernie này, lọc qua
một cục bông gòn thì có thể uống được.
Đời bây giờ tăm tối mịt
mù, hãy thử cho say một bữa, cho lòng đê mê, cho hồn bay bổng lên cuộc đời một
lần, cho sướng. Bàn tính, chuẩn bị, theo dõi mọi tình huống.
Quý cụt được cán bộ
toán tin cẩn, giao chìa khoá kho, nhưng chúng tôi đã dạm thử nhiều lần, thấy
không kết quả. Còn Phạm Phú Lục tổ guốc là phụ tá cho Quý (Quý cụt tay không
thể mang vác), thường xuyên ra vào kho. Sau khi tôi dạm ý, anh ta đã đồng ý ở
mức độ : coi như không hề biết dù có trông thấy.
Đành phải trù liệu một
kế hoạch nhỏ. Bắt buộc phải cho bác Lương Yên người Lào, gốc Việt, làm vệ sinh
của toán tham gia. Bác có điều kiện gác tên công an võ trang ở chòi gác, cách
lán chừng 5 chục mét và coi cán bộ, bất chợt đi ra thì làm hiệu tay.
Tôi sẽ nói chuyện với
Quý cụt, để giữ nó mươi phút. Chăn ở một cái ngách, luồn trèo lên mái nhà kho.
Khéo léo cắt, tháo lạt buộc những tấm phên nứa trên mái, rồi chui xuống; đã
chuẩn bị một ống nứa chứa chừng một lít. Sau khi xong, trèo lên, buộc lại trong
vòng 10 phút. Sau những chuẩn bị táo bạo, kết quả : Lầu Chí Chăn đã dũng cảm
thi hành công tác, một cách mỹ mãn : chiều hôm đó đã có một ống nứa đầy vernie,
nút kín, dung tích gần một lít, giấu trong cầu bào của tôi.
Cái khâu lọc vernie
không thể thực hiện được, vì cái mùi cồn nồng nặc. Đã từ những tháng trước, tôi
có giao tình “hẩu” với anh trật tự mới của trại là Shi-ha Nam (người
Campuchia). Tên Việt anh ta là Nam, nhưng chúng tôi gọi đùa là Shi-ha-Nam
(Campuchia khi đó có ông vua Shihanouk) rồi thành tên, cả trại đều gọi. Nghe
nói anh ta mang tội buôn lậu thuốc phiện, tù bên phía hình sự. Cho nên tôi chịu
trách nhiệm đưa vernie vào trại. Tôi đã chuẩn bị, nếu bị lộ tẩy thì nói là đem
vernie về đánh lại mấy cái hòm (rương) đã quá cũ v.v… của chúng tôi.
Với nhiều những ứng
biến khéo léo, buổi chiều thu quân hôm ấy, tôi đã đưa lọt vernie vào buồng giấu
kỹ. Cái khâu lọc vernie làm cho tôi nát óc; ngay sau khi cơm nước xong, tôi
chạy sang gặp anh Hiệp ở buồng số 1 bên cạnh (Hiệp đã đánh cờ với tôi ở phân
trại E), không ngờ quá dễ dàng giải quyết cái khâu này. Vernie gồm có cồn và
cánh kiến hoà tan, bây giờ chỉ cần đổ một ít nước lạnh vào, cánh kiến sẽ nổi
lên, vớt hết đi, nước còn lại có mầu sữa loãng, lại đỡ mùi hăng của cồn xông
lên.
Quan điểm của tôi và
Chăn là khi mình có một món ăn ngon, muốn cho mọi người thân quen được thưởng
thức. Bạn bè thân quen thì hàng chục, tôi hiểu rằng hễ nhiều người biết thì sẽ
lộ. Khâu đổ nước vớt cánh kiến, lúc đầu chúng tôi định giải quyết ở trong nhà cầu,
nhưng thấy thường xuyên có người ra vào, nên quyết định làm ở trong mùng. Tôi,
Chăn và anh Lương Yên đều nằm sàn dưới, không tiện; Phạm Phú Lục nằm sàn trên,
nhưng Lục e ngại vì anh có trách nhiệm trong kho vernie.
May quá, anh Hưng, một
dân chơi Hà-Nội như Nguyễn Văn Gôm (Gôm không hẩu rượu nên không để tham gia).
Hưng thuộc toán 3 nằm cùng buồng với toán 2. Do một sự tình cờ, Hưng chui vào
gầm sàn để tìm chiếc dép râu, mà anh cho là một người bạn nào đó đã trêu anh,
vì thế anh đã nhìn thấy ống nứa đựng vernie. Tôi phải dàn xếp, sau khi biết nội
vụ, Hưng rất hân hoan, nồng nhiệt xin tham gia. Hưng đã háo hức thì thào vào
tai tôi :
- Anh Bình có biết
không? Ngày xưa còn đi học ở Hà-nội, em là con sâu rượu. Bị bắt hơn 4 năm nay
em thèm, em nhớ hơn cả người yêu; xin anh cho em tham gia, với lòng tự trọng,
em xin giữ bí mật, dù có bị thiệt hại.
Thấy Hưng khẳng khái và
nhiệt tình tôi và Chăn đều để Hưng cùng thưởng thức. Hưng lại ở sàn trên, nên
tối hôm đó, sau khi cán bộ điểm xong, Hưng bỏ mùng sớm. Hưng lấy lý do thấy
người khó chịu, Chăn chui vào mùng, 2 người làm việc. Tôi chịu trách nhiệm
“ghếch” quan sát, phòng hờ mọi tình huống. Vả lại, thông thường, khi điểm xong
nếu không sinh hoạt tổ, toán thì tùy theo, tụm 5, tụm 3 chuyện trò tán gẫu.
Nhiều người đi nằm vì muốn yên tĩnh hoặc mệt mỏi v.v…
Để giảm bớt nguy cơ bị
phát hiện, tôi bàn với Chăn : chơi theo lối cá lẻ, nghĩa là mỗi người 1 ly (ống
nứa con) vào mùng của mình thận trọng mà hưởng. Ba người kia biết tôi và Chăn,
còn 3 người ấy không hề biết cùng uống tối hôm đó. Sau khi sắp xếp ổn, mỗi
người đều có 1 ly riêng vào mùng tự thưởng thức.
Phần tôi, chao ôi! Sao
mà đê mê thế hỡi trời! Đúng là : Chiến đấu càng gian nan, chiến thắng càng vinh
quang. Tôi trang trọng nói rằng : Không phải ai cũng được hưởng cái thú Lưu
Linh tuyệt vời như chúng tôi. Giữa cái nghiêm khắc ngặt nghèo; cái khổ đau tràn
lối, bị o-ép tứ bề của nhà tù cộng sản mà được hưởng cái ngất ngưởng đê mê và
cũng tê tái cuộc đời, thì mới cảm nhận đến cái đáy cùng bủn rủn, ngất ngây của
kiếp người. Tôi xin cảm tạ ông thần Lưu Linh!
Khoảng hơn 9 giờ, tai
tôi nghe rõ vừa kẻng cấm xong, chừng mươi phút; bỗng anh chàng Hưng ở sàn trên
ông ổng rời rạc, rên rỉ bài thơ “Say Đi Em” của Vũ Hoàng Chương :
Không biết nữa màu xanh
hay sắc đỏ Chưa cuối xứ Mê Ly…. Chưa cùng trời Phóng Đãng… Say đi em! Say đi
em! Say cho lơi lả ánh đèn. Say không còn biết chi đời… Đất trời nghiêng ngửa.
Mà trước mắt thành sầu… chưa sụp đổ. Thành sầu, không sụp đổ… Em ơi!
Không thể được, tôi bò
dậy, trèo vội lên và chui vào mùng của Hưng. Hưng đang nằm ngửa, chân giạng ra,
hai tay chới với giơ lên phía đình màn, miệng vẫn gầm gừ như con chó đang tranh
ăn, tôi đập khẽ vào ngực Hưng :
- Làm cái gì vậy Hưng ?
Hưng gạt tay tôi ra,
mồm còn lảm nhảm :
Trời say ta cũng lăn
quay.
Ở đời được mấy lần say
mà già.
Tôi bịt miệng Hưng và
ghé sát vào tai :
- Muốn cả lũ vào kỷ
luật, cùm ư?
Hưng im bặt và như tỉnh
ra. Tôi lại ghé sát vào tai Hưng nói tiếp :
- Bản lĩnh của người
con trai, lý trí vững mạnh của Hưng đâu ? Hãy uống một ngụm nước rồi nằm im.
Nói rồi, tôi với tay
lấy chai nước ở phía đầu giường, mở nút đưa cho Hưng. Như có một sức mạnh tiềm
ẩn, Hưng ừng ực uống hai ngụm, còn nói khẽ :
- Xin lỗi anh Bình!
Rồi Hưng nằm xuống
trong thái độ tỉnh táo; ngồi thêm chừng 2 phút, tôi mò xuống chỗ Lương Yên. Anh
nằm như chết và đang kéo gỗ. Tôi lại trèo lên mùng Phạm Phú Lục, anh ta cũng
nằm ngủ rồi. Tôi lại lỉnh xuống mùng của Chăn. Thấy nằm yên ắng, tôi cầm tay,
Chăn nói như bình thường :
- Yên trí, không sao
đâu!
Buột miệng tôi nói khe
khẽ với vẻ tự hào và hơi ích kỷ :
- Thế mới xứng đáng là
Người Nhái chứ!
Tôi vào đi tiểu, rồi mò
về mùng chui vô, lòng vừa buồn vừa vui. Vui vì xem ra sự việc đã ổn, buồn vì
tiếc, cả 10 năm trường, được cái may mắn diện kiến với cụ Lưu Linh, nhưng không
được hàn huyên, tâm sự.
Đêm nay nằm trằn trọc
mãi không ngủ được; tôi chợt nhớ đến lúc sinh hoạt của toán buổi tối hôm qua.
Nghĩ đến bộ mặt ngơ ngác, nhớn nhác của anh chàng Phạm Phú Lục, bụng tôi còn
cười rung lên. Đã trở thành thông lệ hàng năm, cứ mỗi độ Hè về tù lại phải tắm
“khô” nghĩa là, tắm không cần nước.
Tuy vừa hết Xuân mới
chạm đến Hè mà trời đã nóng chảy mỡ, nhất là ngồi trong một cái buồng chật chội
hàng trăm người. Tuy hầu hết anh em đều cởi trần, nhưng ngồi sinh hoạt mồ hôi
lúc nào cũng nhơm nhớp. Nhiều anh cái tay tẩn mẩn cứ vân vê lưng, tay, cổ của
mình; hàng 5- 6 ngày không có điều kiện tắm rửa nên nó ra hàng cục ghét. Cái
tay buồn cứ vò mãi, vê mãi, ghét thành từng cục, có khi bằng hột đậu xanh, cá
biệt có khi bằng hạt đậu đen rồi búng đi tứ tung trong buồng.
Vì thế có anh đang ngồi
bị “độp” một cái vào mặt, có khi vào tai, vào cổ v.v… Lúc đầu người nào chưa
hiểu thì giật mình ngơ ngác, nhìn khắp chung quanh xem có ai trêu ném mình, có
khi nhìn lên mái nhà, suy đoán là con mối hay con gián ỉa?
Tối hôm qua, anh chàng
Lục đang phồng mang, trợn mắt phát biểu ý kiến xây dựng phê bình anh Lê Văn
Bưởi, không chịu lao động tích cực, mà chỉ làm cầm chừng. Đột nhiên, một cục
ghét bắn ngay vào mắt anh, Lục giật mình nhìn khắp mọi người tưởng ai ném anh
ta, nhưng họ đều ngồi yên, không ai nhìn, anh đành cúi xuống giụi mắt. Chỉ có
người búng viên ghét ấy, thì cười rung bụng và cứ mỗi lần nghĩ tới, bụng tôi
lại rung lên bần bật (kể cả lúc bây giờ ngồi viết lại).
3. MIẾNG NGỌC CỦA ĐỜI
Sáng hôm nay, sau khi toán 2 cũng như các toán khác, xếp
hàng đôi ra đến chỗ quy định, ngồi chờ cán bộ gọi toán xuất trại như mọi khi,
anh Tiềm toán trưởng tiến ra gần cổng trại chỗ đám đông cán bộ , bộ đội vũ
trang để báo cáo như thường nhật với ông Lê Trí Miễn, cán bộ toán. Tiềm trở về
chỗ toán ngồi xếp hàng, anh đến chỗ tôi tươi mặt:
- Ông Miễn chỉ định
phân công Bình với Nguyễn Thanh Đương, hôm nay vào K2 sửa chữa sàn và cửa. Bình
theo toán ra lán thủ công lấy dụng cu, rồi có cán bộ dẫn vào K2.
Mấy người ngồi gần nghe
thấy đều ồ… ồ… lên, anh chàng Gôm ré lên :
- Tôi xin tình…
Anh Đồng ngồi cạnh đấy
đã cắt câu nói của Gôm :
- Không phải ai cũng
được vào K2; phải tương đối nghiêm trang, đứng đắn, chứ ồn ào như cậu, vào đấy
để làm loạn à?
Ra tới lán, sau khi anh
Tiềm đứng nghiêm trang báo cáo với tên công an võ trang, con số toán vừa xuất
trại theo thủ tục, tôi và Đương chạy về phía cầu bào của mình để lấy dụng cụ .
Tôi còn đang lúi húi xếp vài cái dụng cụ cần thiết vào cái hòm con cho Đương
xách đi, thì anh Tiềm tiến lại cầu bào, bảo tôi :
- Ông Miễn bảo Bình lên
gặp ông!
Khi tôi bước vào căn
buồng riêng của ông, ông nói ngay :
- Tôi định để anh Chăn
đi với anh, nhưng anh ấy phải ở lại tổ kỹ thuật, vả lại “thầy 1 thợ đôi” anh
chỉ cần 1 thợ phụ thôi.
Khi tôi chào ông bước
ra, ông ta còn nói với theo :
- Tôi tin tưởng nơi
anh.
Tôi và Đương xách hòm
dụng cụ và cái cưa con đi ra cổng lán thủ công, cũng là lúc một tên công an võ
trang đang đứng với ông Miễn ở cổng lán, đi ra theo.
Mây trời lãng đãng vài
vạt lửng lơ không một ngọn gíó, cây rừng đứng im phăng phắc. Mới giữa tháng năm
mà hôm nay sao nóng lạ? Chỉ hơn 2 cây số đường mòn, mà áo tôi và Đương đã ướt
đẫm mồ hôi; tên công an đi phía sau chắc cũng chảy nước! Chẳng nói với nhau một
lời, tuy cùng một quê hương nhưng thành 2 thế giới, mỗi bên đều có một bức
tường riêng.
Trong khi tôi với Đương
thì ríu rít chuyện trò, như được xổ lồng, phơi phới đón nhận cảnh núi rừng
thiên nhiên. Tôi dõi mắt theo một đôi bướm vàng đang đuổi nhau, chúng lả lơi
luồn dưới cành này, lách qua mấy cành kia nhởn nhơ nhung nhăng, phớt lờ coi như
không có chúng tôi đang đi ở trên đường; nghĩ lại cảnh đời của mình, một hơi
thở dài nhè nhẹ xì ra không nín được.
Kia rồi, đã tới cổng
của trại nữ, trại vây bọc bằng nứa cây, giống như phân trại E tôi đã ở. Nhìn
thoáng bên trong có chừng 7, 8 ngôi nhà tranh dài như lán chúng tôi, ngoài khu
A trại chính . Một nữ cán bộ, mặc bộ đồ vàng, chừng ba chục tuổi, tay cầm một
cuốn sổ và một nữ tù trẻ hơn mặc áo sọc, quần đen ra cổng đón chúng tôi. Tên vũ
trang nói gì với cán bộ nữ, bấy giờ y quay lại mới mở miệng nói với chúng tôi :
- Khoảng 5 giờ chiều
tôi sẽ trở lại đây đón các anh!
Chúng tôi đều dạ …theo
thủ tục, trong khi y đã quay ngoắt đi trở lại con đường rừng. Người nữ cán bộ
quay lại vẻ mềm mỏng :
- Các anh đã ăn sáng
chưa? Tôi là cán bộ trực trại, còn đây là chị Mai, trật tự thi đua của trại,
chị ấy sẽ dẫn các anh đến buồng số 3 có một cái sàn bị sập, có gì cần cứ nói
với chị.
Thấy người nữ cán bộ
trực trại thái độ nhã nhặn, nên tôi cũng cởi mở :
- Cảm ơn bà… chúng tôi
đã ăn sáng rồi!
Rồi tôi quay sang cô Mai
trật tự, hơi gật đầu như chào :
- Cô vui lòng dẫn chúng
tôi tới ngôi nhà số 3.
Không hiểu vì lý do gì,
cô Mai có vẻ hơi ngập ngừng không được tự nhiên, khi dẫn chúng tôi đi. Tôi tươi
mặt dịu dàng hỏi :
- Một sự tình cờ được
gặp cô, cô có thể vui lòng cho chúng tôi thăm hỏi cô một chút, có được không ạ?
Cô nhỏ nhẻ khe khẽ :
- Anh cứ hỏi đi!
Tôi thấy cứ thẳng thắn
nêu vấn đề, điều gì mình muốn biết. Quan điểm của tôi : cởi mở thì sẽ gặp cởi
mở, hoặc ngược lại, vì thế tôi nói thẳng :
- Dù sao chúng ta cũng
đều là tù cả, tôi đã bị tù 10 năm rồi, còn cô?
Cô mở to mắt hỏi như
ngạc nhiên :
- Anh tội gì mà ghê
thế? Em bị bắt hơn 2 năm rồi!
Để trông cái thông
thường, cần giản dị :
- Tội của tôi thuộc về
tư tưởng xét lại hiện đại! Còn cô?
Thấy cô có vẻ ngập
ngừng, ngại ngần, tôi nói luôn :
- Nếu cô thấy hơi ngại,
thì thôi! Không sao cả!
Cũng là lúc đến một cái
cửa, tôi nhìn lên thấy số 3 bằng sơn trắng : Vào trong buồng, nhìn dọc sang hai
đầu nhà; cũng sàn trên, sàn dưới bằng gỗ giống như những lán chúng tôi đang ở. Cô
Mai dẫn chúng tôi tới gian thứ hai phía trái, sàn dưới bị gẫy sập xuống. Một
cái cửa vào nhà cầu bị rơi bản lề ra, nên cửa phải dựng ở bên cạnh. Một gian
khác có mấy tấm ván long đinh ra, vài chỗ khác không đáng kể. Cả buồng có 3
người bị ốm, có lẽ ông Miễn đã biết trước nên đã bảo tôi đem đi, 2 hộp đinh 5
phân đóng sàn.
Đương và tôi, bắt đầu
bỏ đồ nghề hì hục thao tác, chúng tôi làm được khoảng 1 giờ, nóng quá tôi xin
lỗi 3 người bịnh để cởi trần. Khoảng 10 giờ, cô trật tự Mai đưa đến cho chúng
tôi một cái rá con đựng sắn luộc, chừng hơn 1 ký còn đang bốc khói, cô nói một
cách ngại ngần :
- Đây là sắn ở nhà bếp
còn thừa, bà cán bộ trực trại bảo em đưa lên, mời các anh.
Dù trong bụng chúng tôi
đang đói, nhưng cũng không khao khát ăn như thế, tuy vậy tôi cũng nói thẳng ý
này.
- Xin cảm ơn cô Mai,
chúng tôi đã ăn sáng ở trại, nhưng cô đã đưa ra chúng tôi xin nhận, và nhờ cô
cám ơn bà cán bộ trực trại.
Trong lúc cạy sửa 1 số
sàn, chúng tôi thấy ở những chỗ kẽ, phía dưới sàn 2, 3 miếng bằng gỗ nhẵn nhụi
như cái chầy con, đường kính khoảng 2 phân rưỡi đến 3 phân, dài chừng 14, 15
phân. Nguyễn Thanh Đương giơ ra hỏi tôi, tôi cũng lắc đầu, chịu chết, chẳng
biết họ dùng những cái đó để làm gì, nên chúng tôi cứ để lại chỗ cũ, sau khi
sửa sàn xong. Một lúc sau, cô Mai đến nhẹ nhàng nói :
- Gần 12 gìờ, xin các
anh nghỉ tay, mang dụng cụ lên chỗ phòng trật tự. Các anh ra giếng rửa mặt, tay
chân, rồi trở lại phòng trật tự đã có cơm sẵn.
Miệng nói tay cô chỉ
cho chúng tôi một gian nhà con con, gần phía nhà bếp.
Tôi và Đương đang lúi
húi rửa tay chân, mặt mũi, thì ầm ầm, bình bịch, tiếng la hét, rồi một đám đông
hàng trăm người già trẻ lớn bé, nhàng nhàng nhỡ nhỡ, đàn bà, con gái, trần
truồng như nhộng, từ cổng trại uà vào trong giếng…
Thật là bất ngờ, tôi và
Đương quýnh cả lên! Tội nghiệp anh chàng chủng sinh Đương, cố chạy ra cửa
giếng, bị họ đẩy xô vào ngã xấp, ngã ngửa mặt đỏ như gấc chín. Còn tôi cũng
chẳng hơn gì, tôi không biết làm sao, chạy ra không được. Phải nói 4, 5 chục
người xô vào trong giếng, quần áo họ đã vắt hết lên liếp chung quanh giếng; họ
giật lấy cả cái gầu tôi đang rửa.
Trong thâm tâm cũng
muốn nhìn cho rõ khi họ cởi truồng, nhưng vì họ đông quá, làm cho tôi không dám
mở mắt ra nhìn, đành lấy khăn mặt che đôi mắt bằng hai tay, mặc cho họ đẩy xô
chỗ này, sang chỗ khác. Giữa những tiếng la hét, những tiếng cười rũ rượi và
nước dội xối xả. Mãi hàng mươi phút sau tôi và Đương mới thoát ra khỏi giếng,
mất cả dép và khăn mặt mà không dám vào lấy.
Suốt đời tôi không quên
được, anh chàng Đương ngày nay (2002) đã là một linh mục thuộc địa phận Qui
Hậu, Tân Kỳ, Nghệ An, cho tới khi về với Chúa thì cũng chắc chẳng thể quên.
Thực ra, bên trại tù
đàn ông của chúng tôi, thì mùa Hè nào cũng vậy. Cả khu trại có một cái giếng,
cho nên toán nào cũng thì thọt, mánh với công an võ trang cho về sớm mươi phút
trước. Về chậm, về sau, giếng chỉ còn nước đục; nếu không nói là cạn hết, chỉ
còn nước bùn.
Nhưng trước đây, ở trại
tù đàn ông chúng tôi, cái cảnh vào khỏi cổng trại, là tranh thủ vừa chạy vừa
cởi quần áo để xông vào giếng, là chuyện bình thường. Nhưng bây giờ tôi mới
hiểu do hoàn cảnh khó khăn bên trại nữ cũng vậy, chỉ mấy anh chàng bộ đội vũ
trang ở mấy chòi gác là bở. Mùa Hè, ngày nào cũng được rửa mắt để nhìn, để
chiêm ngưỡng những “miếng ngọc” của trời.
4. MỘT GÓC HIỆP NGHỊ PARIS
Một buổi sáng, vừa ăn sáng xong chúng tôi đang chờ kẻng tập
họp để đi lao động như mọi khi, thì tên cán bộ Ý trực trại, hộc tốc từ ngoài
cổng khu A đi vào buồng số 2. Đến cửa, hắn vẫy tay gọi anh Tiềm- toán trưởng
toán 2- tới, rồi y rút trong người ra một cuốn sổ, dõng dạc:
- Những anh có tên sau
đây, mang hết công tư trang theo tôi: Trần Quốc Quang, Trương Nàm Tráng, Lầu
Chí Chăn, Lý Giòng Slau, Đặng Chí Bình, Lê Văn Bưởi.
Thật là bất ngờ, tôi
hấp tấp, tíu tít thu dọn chăn màn, quần áo. Một số anh em còn ngoài sân, chạy
xô vào buồng. Trước mặt tên Ý, tôi không nói từ giã được với bất cứ ai, kể cả
anh Tiềm toán trưởng, đứng ngay đấy. Khi đi theo tên Ý ra sân, tôi chỉ kịp nhìn
khắp một lượt anh em như chào giã biệt. Ngay lúc tôi lúi húi vơ xếp chăn mền,
trong đầu thoáng nghĩ : mới sáng sớm, không biết họ chuyển chúng tôi đi trại
nào, thuộc tỉnh nào….?
Vừa ra khỏi cổng khu,
nhìn ra sân trại tôi đã nhìn thấy một dẫy tù chừng 7-8 chục người. Họ xếp hàng
đôi ôm đồm chăn màn, hòm xiểng như chúng tôi, ngay sát phía cổng trại. Mấy cán
bộ lạ cùng mấy cán bộ trại I đi lại lăng xăng. Đặc biệt, tôi nhìn thoáng thấy
ông Toán chánh giám thị ở phía trong cổng trại. Tên Ý dẫn 6 chúng tôi đến phía
cuối của dẫy tù đó, cao giọng :
- Các anh xếp hàng đôi
nối theo đây!
Tôi cũng đã nhìn thấy
Lưu Nghĩa Lương, anh Tarzan và một số anh thủy thủ, tôi đã gặp mấy ngày trước ở
toán 3. Như vậy họ là tù Biệt Kích ở trại QT chuyển về khu nhà xây trước đây,
nhà số 1. Tôi hỏi mấy anh ở hàng cuối xem họ có biết sẽ chuyển đi trại nào
không, nhưng họ đều ngơ ngác không biết như chúng tôi. Đoàn tù 73 Biệt Kích của
trại Quyết Tiến và 6 chúng tôi ở trại I gồm 79 Biệt Kích. Đi áp tải có 4 công
an võ trang, một tên cán bộ lạ, Bùi Huy Tập cán bộ giáo dục và tên Cao Văn Thục
huấn luyện viên võ thuật của cán bộ trại I. Tên Tập đi đầu dẫn đoàn tù đi về
phía trái, như thế là đoàn tù đi bộ. Tên Thục đi gần chúng tôi nhìn Chăn và
Slau (Người Nhái) y nói như đùa :
- Trông đoàn đi cứ như
là “Lính thủy đánh bộ” ấy!
Y nói rồi cười, nhưng chả
có ai hưởng ứng, có lẽ vì mệt phải ôm, vác. Khi nãy, tôi đã hỏi lão Tập, chúng
tôi chuyển đi đâu? Nhưng y đã lạnh lùng, cộc lốc :
- Cứ đi sẽ biết!
Thấy tên Thục có vẻ
vui, tôi hỏi ngay :
- Thưa cán bộ, chúng
tôi được chuyển về đâu mà đi bộ thế này?
Y nói cũng cộc lốc :
- K3.
Đi chừng hơn 2 cây số,
thấy mọi người mang vác mỏi mệt, nên cán bộ cho nghỉ 10 phút. Giữa 2 bên là
triền rừng khuất gió nên thật là oi ả, dù mới cuối tháng 3 sắp bắt đầu vào Hè.
Thấy một anh Quyết Tiến cứ nhìn tôi như thiện cảm, tôi cười làm quen : Được
biết anh là Nông Văn Hính, dân tộc Tầy, án của anh chung thân (hiện nay ở
Cali), thuộc toán SWAN gồm 6 người :
1. Nông Công Định toán
trưởng, chiến đấu, chết trận, ngay ngày đầu đổ bộ.
2. Đàm Văn Ngô phụ tá
truyền tin, còn ở VN.
3. Đàm Văn Tôn (Tầy) tử
trận ngay hôm đổ bộ.
4. Lý A Nhì toán viên,
hiện ở Texas Mỹ.
5. Nguyễn Văn Ban Tử
hình, trong một vụ vượt ngục.
Toán Swan hầu hết là
người dân tộc Tầy. Ra Bắc ngày 4 tháng 9-1963. Địa bàn hoạt động thuộc Bắc Cạn.
Lại nhìn thấy một anh ngồi cạnh đấy, mặt mũi trắng trẻo, nhưng có nét trầm
ngâm, tôi nhìn anh rồi cười như chào; không ngờ anh lại vồn vã nói chuyện. Được
biết anh là Nguyễn Phước trong toán Buffalo, nhẩy ở Quảng Bình ngày 9/6/1964.
Toán anh gồm 9 người,
hiện nay ở đây chỉ có anh, rồi liếc mắt chỉ tay một người, đang đứng nói chuyện
với tên cán bộ lạ, tên anh ta là Trương Bá Ngữ, cùng toán.
Sau này tôi được biết,
những anh trong toán Buffalo gồm có :
1. Võ Khôn toán trưởng,
được tha về chết (ở VN?)
2. Trương Bá Ngữ (hiện
ở California)
3. Lê Chất (không rõ)
từ 12/72.
4. Nguyễn Hóa Đều (chết
ở trại Quyết Tiến cổng trời do bị cùm)
5. Nguyễn Khôi (chết
trong nhà kỷ luật)
6. Nguyễn Huy (không
rõ) từ 12/72
7. Nguyễn Phước (không
rõ) từ 12/72
8. Lê Trang (không rõ)
từ 12/72
9. Trần Hiệu (không rõ)
từ 12/72
Tuy buổi đầu gặp anh,
nhưng tôi đã thấy thái độ của anh, toát ra là không ưa Trương Bá Ngữ, cùng một
toán Buffalo với anh. Gần trưa thì đoàn tù đến phân trại K3, một cái trại vừa
phải (xấp xỉ phân trại E), chung quanh là 2 lượt nứa cả cây, chôn dựng đứng làm
hàng rào của trại. Bên trong có 6, 7 ngôi lán dài cũng bằng tre, nứa và gỗ như
nhà chúng tôi đã ở ngoài trại xây.
Sau khi vào trại, vào
buồng, chúng tôi mới biết : trại chia làm hai khu, chính trị và hình sự. Khu
chính trị lại chia làm 3 là F1, F2, và F3. Chúng tôi được dồn vào một cái nhà
gọi là F3, gồm gần 100 người. Mấy ngày sau F3 được chia làm 2 đội. Đội mộc hơn
3 chục người trong đó có Lê Văn Bưởi, Lầu Chí Chăn và tôi, do Trương Bá Ngữ làm
đội trưởng. Tên Dương Đình Thắng, là cán bộ ở Quyết Tiến về phụ trách. Còn lại
gần 6 chục người là đội xẻ, may và công việc linh tinh. Woòng A Cầu là đội
trưởng, Nguyễn Xuân Sang đội phó.
Phân trại K3 trước đây
chỉ dành cho hình sự, do tên đại úy Nguyễn Thành Cửu làm giám thị. Bây giờ có
thêm tù chính trị, nhưng toàn là Biệt Kích, Gián Điệp, từ trong Nam ra Bắc hoạt
động, bị bắt, vẫn do tên Cửu làm giám thị. Đội mộc hàng ngày ra lao động tại
một cái lán con, trên dốc đồi cheo chéo phía trái, trước ban giám thị.
Có thể do những cảm
nhận sẽ có nhiều chuyển biến của tình hình, nên khí thế lao động của toán mộc
và xẻ ở K3 không còn nỗ lực, hăng say như trước đây nữa. Ngược lại, tên cán bộ
Thắng ở QT về, lại tỏ ra rất nghiêm khắc trong sinh hoạt. Y người bé choắt, chỉ
có cái lon trung sĩ, lúc nào mặt y cũng cau có; gần một tháng trời, tôi chưa hề
nhìn thấy một nụ cười nào của y. Không biết y được chỉ thị thế nào, trước toàn
buồng F3 gồm mộc, xẻ, may, y tuyên bố :
- Hai người nói chuyện
với nhau mà không có người thứ ba nghe thấy, là phạm nội quy, sẽ bị kỷ luật!
Tối nào cũng sinh hoạt
rồi đọc báo 1 giờ cho tới khuya. Không khí ngột ngạt ngày đêm ép đè, không ai
dám ngồi tâm sự chuyện trò với ai. Một hôm tôi nghỉ bệnh, đang ngồi nói chuyện
với hai anh Đoàn Phượng và Lò Văn Cươm cũng nghỉ ốm ở sàn dưới. Bỗng thoáng
nhìn thấy máu chảy từng giọt xuống, từ sàn trên, chéo phía chân tôi ngồi chừng
2 mét. Tôi trèo vội lên, thấy Lưu Nghĩa Lương (hiện nay ở California) đang nằm
sấp xuống sàn. Tôi vội vàng kéo tay Lương, hốt hoảng hỏi :
- Sao vậy em? Em làm
sao vậy!
Cũng là lúc tôi đã nhìn
thấy một vệt cắt dài ở tay Lương, trong khi đôi mắt Lương nhắm nghiền. Chạy vội
ra phòng y tá, thấy có một người, tôi hổn hển nói ngay :
- Ở F3 có người tự tử!
Tên y tá theo tôi về
F3, đã có 5, 6 người đang nhớn nhác trèo lên sàn trên ngấp ngó Lương. Sau khi
tên y tá (sau này tôi biết tên y là Đại) trèo lên, y lại trèo xuống, rồi ra
thẳng cơ quan chỗ giám thị. Mười phút sau, tên Đại y tá, một thượng sĩ lạ và
tên Thắng vào trại, đến nhà F3. Phượng, Cươm và mọi người đã về chỗ nằm của
mình. Tên Đại về buồng y tá mang đến cuộn băng, cái kéo và một lọ thuốc rồi
cùng tên Thắng trèo lên sàn trên.
Tuy tôi vờ nhắm mắt
nằm, nhưng cũng không thể nghe được chuyện gì trên sàn Lương. Chừng 15 phút
sau, cả 3 tên đều đi ra về phía phòng y tá, như cái máy, tôi phóng lên, thấy
Lương nằm đắp chăn, tôi đặt tay lên vai, khẽ hỏi :
- Em có sao không?
Lương mệt nhọc, chậm
chạp trả lời tôi :
- Em không sao đâu!
Liếc nhìn phía phòng y
tá thấy bọn chúng trở ra, tôi lẹ làng về chỗ nằm. Cả 3 tên lại tiến vào F3;
đứng ở cửa, tên Đại nói đủ nghe trong buồng :
- Lệnh ông cán bộ, tất
cả những người ốm bịnh đều ra sân tập họp.
Đoàn Phượng, Cươm tôi
và 3 người nữa đều lục đục kéo ra sân. Tên Đại, cho đi gọi cả anh làm vệ sinh
của trại; tất cả 7 người ngồi ở sân. Tên Thắng nghiêm mặt nói rõ ràng :
- Câu chuyện của anh
Lương hôm nay, tuyệt đối khi trại về không được nói cho một ai biết. Nếu ai
không kín miệng, sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Nói rồi y vẩy tay:
- Các anh về chỗ!
Vào buồng một lúc, thấy
chúng đã ra khỏi cổng trại, tôi trèo vội lên, lật chăn Lương, nhưng Lương đã
nhắm mắt im lìm như ngủ say. Trèo xuống chỗ nằm đã thấy các anh Cươm và Phượng
đang loay hoay hút thuốc lào. Tôi cũng sà đến làm một điếu!
Trong cảnh sống ngột
ngạt, nghiêm ngặt ấy, mỗi người đều tự hiểu, tốt nhất là hãy “đậy” cái miệng
của mình lại. Bởi vì nhiều lần, ai cũng thấy, khi có một tin tức gì lộ ra; có
một tên antenne báo với cán bộ giáo dục, là ai nói tin đó. Cán bộ sẽ gọi người
ấy lên hỏi, truy, cuối cùng sẽ đến gốc là ai. Vậy, phải tự hiểu để khỏi hậu hoạ
lôi thôi, cứ im lặng là vô lo. Tôi, Phượng và Cươm thăm hỏi nhau chuyện khác :
ngồi 3 người rất hợp pháp. Hôm ấy, tôi được biết sơ về anh Lò Văn Cươm : Anh
thuộc toán Dauphine gồm 5 người là các anh :
1. Triệu Trung, toán
trưởng (tử hình);
2. Nông Đức Vũ truyền
tin (tử hình);
3. Hoàng Tồn, toán phó
(hiện ở Iowa);
4. Lò văn Cươm, toán
viên (hiện ở VN);
5. Đèo Văn Bạch, toán
viên (hiện ở MA).
Toán này ra Bắc ngày
4/6/1963 địa bàn hoạt động tại Hà Giang.
Còn về anh Đoàn Phượng
thuộc toán TELLUS gồm 4 người là các anh :
1. Nguyễn Văn Ngô, toán
trưởng (hiện ở San José);
2. Nguyễn Cuông, toán
viên (ở Mỹ);
3. Đoàn Phượng, truyền
tin trưởng (chết, vượt biên 1982);
4. Đỗ Văn Tương, toán
viên (hiện ở Mỹ).
Toán này ra Bắc
7/6/1963 địa bàn hoạt động tại Ninh Bình.
Cho đến trưa và chiều
hôm ấy các toán của trại đi lao động về, không một ai biết, hay bàn tán gì về
chuyện Lưu Nghĩa Lương tự tử.
Lợi dụng trong lúc vào
nhà cầu, tôi chỉ nói nhỏ với Lầu Chí Chăn biết và cũng phải dặn kỹ, không nói
cho người thứ 2 biết. Đến cả tuần sau, trong trại coi như không hề có sự việc
Lương tự tử. Những khi chưa ngủ, nằm miên man suy nghĩ, tôi phải rùng mình kinh
sợ, cho cái uy lực nhiều chiều ngang dọc của cộng sản o-ép con ngươi. Khoảng
hơn 10 ngày, khi vào K3, tôi biết trong khu F1, F2 có hơn 50 Biệt Kích, từ trại
trung ương số 2 Phong Quang, Yên Bái chuyển về K1 (Khu nhà xây số 3).
Rồi đã tách làm 2 khi
chuyển vào K3 thành F1, F2 trước chúng tôi 3 ngày. Do đấy K3 có khoảng 150 Biệt
Kích và chừng 350 hình sự lưu manh, tất cả trại trên 500 người.
Trong một cái trại hơn
500 người tù, như một cái xã hội thu nhỏ. Trước đây ở các trại giam khác, cuộc
sống lao tù thật đơn điệu, ngoài những chuyện đục, cưa, bào, xẻ, tắm rửa, ăn
uống con cá, lá rau. Mà cũng không có con cá lá rau mà bàn, cho nên khi có một
chuyện gì đặc biệt một chút, cứ ghé tai truyền miệng nhau, trong một ngày là cả
trại đều biết. Cái tâm lý khao khát, tò mò, muốn biết chuyện lạ trong một nơi
cùng khổ, nó đòi hỏi ghê gớm lắm.
Thế mà cái chuyện tự tử
của Lưu Nghĩa Lương, cắt tay máu chảy có dòng xuống sàn dưới, cứ im thin thít
như thịt nấu đông. Càng suy nghĩ, càng thấy cái sức ép ngầm của cộng sản,
khủng khiếp thật.Tôi thấy cuộc sống như thế thì sống làm gì, tôi không chịu
được nữa.
Tôi bàn riêng với Chăn,
mình phải chịu trận trước, rồi sao cũng được! Thế là ngày thứ Bảy cuối tháng 5,
Chăn và tôi đường hoàng ở trong sân khu F3, hai người đứng riêng ra một góc
sân, đi đi, lại lại, tâm tình nhỏ to chuyện trò. Ngay buổi chiều hôm ấy Trương
Bá Ngữ và Vòng A Cầu được gọi ra khu giám thị về, yêu cầu F3 (mộc, xẻ) sinh
hoạt có cán bộ Dương Đình Thắng chủ trì, để truy bức 2 người, Lầu Chí Chăn và
Đặng Chí Bình chống phá và vi phạm nội quy.
Rất nhiều anh em thân
quen lo cho chúng tôi, thế nào cũng phải đi kỷ luật và hạ mức ăn. Như trên tôi
đã trình bày, nếu có phải đi kỷ luật, chúng tôi đồng ý chấp nhận. Khoảng 4 giờ
chiều tên Thắng vào hội trường khu F3, gọi cả người ốm, bệnh ra hội trường sinh
hoạt. Sau khi gần 100 người tụ tập đông đủ ở hội trường, tên Thắng mặt lạnh như
tiền ngồi chủ tọa, có Nguyễn Xuân Sang toán phó (mộc) ngồi ghế bên cạnh ghi
biên bản.
Để cho một phút mọi
người im lặng trong không khí nặng nề, tên Thắng gằn giọng nhìn tôi và Chăn.
- Anh Bình và anh Chăn
hãy đứng dậy!
Tôi và Chăn đều đứng
lên một cách miễn cưỡng, xa nhau 5, 6 người; tên Thắng cũng đứng lên và cao
giọng :
- Sáng nay, những ai đã
trông thấy 2 anh Chăn và Bình nói chuyện riêng ngoài sân?
Có hơn chục cánh tay
chậm chạp đưa lên. Y quay lại Chăn và tôi vẻ hằn học :
- Hai anh ngang nhiên
chống phá và vi phạm nội quy một cách trầm trọng; hôm nay tôi cho phép tổ, toán
hãy mổ xẻ, phân tích phê bình giúp đỡ để hai anh, thấy được mức độ sai trái của
các anh.
Một anh tôi chưa quen
đầu cắt cao, mặt hơi tròn, giơ tay xin nói. Còn 2, 3 người nữa cũng giơ tay xin
phát biểu, qua nét mặt và thái độ, tôi thấy còn mấy anh nữa cũng còn muốn giơ
tay. Tên Thắng chỉ tay cho anh mặt hơi tròn, đầu cắt cao phát biểu trước. Giọng
anh hơi khàn, nhưng thái độ thật mạnh bạo:
- Thưa cán bộ, ngay
trước mặt mọi người anh Chăn và anh Bình, đường hoàng rủ nhau ra một chỗ vắng,
để nói chuyện riêng. Như vậy là các anh đã coi thường nội quy của trại và đã bỏ
ngoài tai, lời cán bộ mới nhắc nhở nửa tháng trước đây.
Tên Thắng gật gật gật
đầu, có vẻ thoải mái, y chỉ tiếp một anh khác đã giơ tay. Anh này người nhỏ bé,
mặt hơi gầy gầy, tôi cũng chưa biết tên. Giọng anh nhỏ nhẻ, từ tốn :
- Thưa cán bộ, sáng nay
tôi thấy hai anh thì thầm, to nhỏ ở chái hội trường, trong khi toàn buồng không
một ai nói chuyện với nhau mà không có từ 3, 4 người trở lên. Tôi nghĩ rằng anh
Bình và anh Chăn là thợ giỏi, thường đóng hàng cho cán bộ, mới dám ngang nhiên
như thế. Tôi đề nghị các anh phải hoàn toàn chấp hành, nội quy của trại.
Thấy còn một số anh em
nữa định phát biểu, tôi thấy không có gì khác hơn, nên tôi giơ tay xin nói. Tên
Thắng và một số anh em có vẻ hơi ngạc nhiên, cuối cùng tên Thắng vẫy tay đồng ý
cho tôi nói. Tôi nghĩ rằng cứ thong thả mềm dịu là tốt nhất, tôi nói với một
thái độ nhã nhặn :
- Thưa cán bộ và toàn
thể anh em trong buồng F3. Trước hết tôi phải cám ơn cán bộ và các anh em đã có
buổi họp này, để giúp đỡ chúng tôi. Tôi thấy rằng không gì bằng là tôi xin
trình bầy hết những suy nghĩ trong lòng tôi. Ở bất cứ tập thể nào đều cũng có
nội quy, nhất là ở trong trại giam. Vì ý thức như thế, nên tôi đã có 10 năm ở
trại giam rồi, tôi chưa hề vi phạm hoặc khi nào chống đối nội quy, từ ở Hỏa Lò,
phân trại E rồi K1, cho tới K3 này.
Từ khi cán bộ ra chỉ
thị: “Hai người nói chuyện, không có người thứ 3 nghe thấy, là phạm nội quy”.
Từ ngày ấy hơn một nửa tháng nay, khí thế lao động, hăng say sản xuất của F3 đã
giảm thấy rõ ràng (vì lý do khác, nhưng tôi cứ níu kéo vào đây để bảo vệ, để
tăng cường cho ý kiến của mình) đã gây ra một không khí căng thẳng và anh em
rất khó thực hiện được chỉ thị của cán bộ trong lao động .
Bây giờ một cặp xẻ, mỗi
khi phải bàn nhau một điều gì khi gặp trở ngại về nghề nghiệp, lại phải gọi một
người thứ 3 đến chứng kiến hay sao? Một cặp quai bễ lò rèn cũng vậy. Tôi và anh
Chăn đang đóng một cái giường đôi đặt, cho ông Cửu (Giám thị K 3) chúng tôi
đang gặp khó khăn nghề nghiệp, nên anh Chăn và tôi rất băn khoăn, ăn ngủ không
yên (điều này tôi đã nói với Chăn trước). Chúng tôi sáng nay đang thảo luận với
nhau sao để thứ Hai này, chúng tôi giải quyết cái giường ấy cho ổn.
Vả lại, 10 năm ở trại
giam, tôi chỉ học thuộc và thi hành 4 tiêu chuẩn cải tạo, và 6 điều nếp sống
văn hóa mới, mà thôi. Tôi chưa thấy cái nội quy nào như trên cả.
Trong khi tôi nói đến
chỗ bàn nhau đóng giường, anh Chăn cũng giơ tay thừa nhận, tôi nói là đúng sự
thật.
Tên Thắng sạm mặt
xuống, trong khi anh em mặt lại tươi lên, mắt các anh sáng lên nhìn tôi. Tên
Thắng đứng lên định nói gì đó… Thì cũng là lúc tiếng kẻng giờ lấy cơm, nên tên
Thắng xua tay nghỉ buổi họp. Đặc biệt, không phải đọc lại biên bản sinh hoạt
buổi họp như mọi khi. Anh chàng Vòng A Cầu của toán xẻ và may cứ nhìn tôi cười.
Ngay buổi tối hôm đó, cái anh người nho nhỏ, mặt gầy đã đến nói chuyện với tôi
và Chăn, tỏ vẻ hãy thông cảm. Tôi đã bắt tay anh và vồn vã thăm hỏi anh, được
biết anh là Thân Văn Kính, án chung thân. Toán của anh là PEGASUS gồm 6 người.
Ra Bắc 20/2/1963. Địa bàn hoạt động thuộc Lạng Sơn. Toán gồm có:
1. Thân Văn Kính, Toán
Trưởng;
2. Hứa Viết Cóc, Toán
Phó (Tử trận, trong chiến đấu ngay khi đổ bộ);
3. Lương Văn Phổ,
Truyền Tin, không rõ từ 12/72;
4. Bành Viết Kim Toán
viên, chết ở trại QT;
5. Hà Văn Thưởng Toán
viên, bị tử hình trong một vụ trốn tù ở Yên Thọ;
6. Hoàng Văn Vân, chung
thân, hiện ở Atlanta.
Sau đó, cái mặt anh hơi
tròn, đầu húi cao cũng đến nói chuyện với chúng tôi, ý nói anh phải tỏ ra tiến
bộ nên phát biểu vậy. Tôi nói là rất hiểu, không sao đâu. Và tôi thăm hỏi về
toán của anh. Được biết anh là Bùi Văn Ân thuộc toán Bart. Gồm 5 người, ra Bắc
4/6/1963, địa bàn hoạt động thuộc tỉnh Nghệ An. Toán của anh gồm có
1. Bùi Văn Ân toán
trưởng, hiện ở Oregon;
2. Đinh Văn Chúc, chết
ở Gia Kiệm, Sài Gòn (về nhà chết);
3. Nguyễn Khắc Định,
chết ở Rạch Giá (được tha về chết);
4. Nguyễn Văn Tập chết
ở Gia Kiệm (tha về mới chết);
5. Trần Văn Thành chết
ở trong tù.
Khoảng cuối tháng 5/72,
hơi chéo phía trước trại giam K3 đã dựng rất nhanh 4 cái nhà con, do nhóm làm
nhà của Vòng A Cầu làm. Mỗi cái chiều rộng chừng 3m, chiều dài khoảng 4m; đề
những con số to 1, 2, 3 và 4 mầu đen, phía ngoài vách nứa. Chúng tôi trong trại
nhìn ra, cũng như khi đi làm qua, không hiểu chủ trương 4 căn nhà đó để làm gì?
Chừng vài ngày sau, khi đi làm ở lán thủ công, lại nhìn thấy ở sân ban giám thị
K3, có một chiếc xe bus rất to và dài. Có nhiều người mặc thường phục, ra vào
mấy cái nhà to, của khu giám thị.
Ngày hôm sau, khu F3
tập họp đi lao động, cán bộ trực trại gọi 4 người ở lại để gặp cán bộ là
- Đặng Công Trình, –
Thân Văn Kính, – Lê Văn Bưởi, – Lý Văn Chung tức Ngô Quốc Chung.
Chúng tôi đi làm, ai cũng
băn khoăn không hiểu thế nào? Mãi trưa hôm ấy đi lao động về, tôi tìm mọi cách
để hỏi thăm các anh. Anh Ngô Quốc Chung, rất kín đáo, ngại ngần. Anh nói cán bộ
dặn tuyệt đối về trại, không được nói với bất kỳ ai, buổi gặp cán bộ hôm nay :
không nói một điều gì với bất cứ ai đến thăm hỏi, nếu không anh sẽ chịu hoàn
toàn trách nhiệm. Cuối cùng tôi không hề biết một tí gì. Những ngày sau đó, tôi
tìm hiểu được biết sơ lược về anh.
Anh bị mất một mắt ở
điểm nhẩy ngày 4/7/1963, anh là toán trưởng toán PACHER. Địa bàn hoạt động
thuộc Lào Cai. Toán anh gồm 5 người:
1. Lê Văn Can, hiện nay
không biết;
2. Phạm Quang Cảnh, ở lại miền Bắc;
3. Vàng Văn Chương, không rõ từ 12/72;
4. Đỗ Văn Thảo, không rõ từ 12/ 72;
5. Riêng anh Ngô Quốc Chung, sau này do giấy tờ lằng nhằng, ghép chuyện vợ con nên phái đoàn Mỹ từ chối, không thể đi HO. Hiện nay anh vẫn ở VN, không rõ sống hay chết. (Mới đây, đầu 2004, tôi được biết anh Chung đã được đến Mỹ, nhưng tôi chưa có dịp nói chuyện với anh).
2. Phạm Quang Cảnh, ở lại miền Bắc;
3. Vàng Văn Chương, không rõ từ 12/72;
4. Đỗ Văn Thảo, không rõ từ 12/ 72;
5. Riêng anh Ngô Quốc Chung, sau này do giấy tờ lằng nhằng, ghép chuyện vợ con nên phái đoàn Mỹ từ chối, không thể đi HO. Hiện nay anh vẫn ở VN, không rõ sống hay chết. (Mới đây, đầu 2004, tôi được biết anh Chung đã được đến Mỹ, nhưng tôi chưa có dịp nói chuyện với anh).
Tôi thăm hỏi với anh
Thân Văn Kính cũng nhã nhặn từ chối (anh Kính chết 3/5/2000 do bệnh ung thư ở
Atlanta). Mãi tới hôm đó tôi mới gặp được anh Đặng Công Trình, anh đã hiểu tôi
nên anh tin, mới cho tôi biết:
- Họ có vẻ là cán bộ
của bộ, rất hoà nhã, lịch sự, mời thuốc lá uống trà; đàm đạo như bạn bè. Cán bộ
chỉ hỏi thăm sơ về toán ra Bắc bao giờ, nhẩy ở đâu v.v… Đặc biệt họ rất quan
tâm : ở những trại nào? Bị cùm kẹp ra sao? Có cán bộ nào ức hiếp? Hiện giờ có
khỏe không? Có bệnh tật gì không v.v…
Anh Trình có cảm tưởng
cán bộ đó là người của phía bên mình, tức là của chính quyền miền Nam.
Sơ lược tôi biết về
toán anh Trình : tên toán SCORPION. Toán của anh gồm 7 người :
1. Nguyễn Xuân Phương,
toán trưởng không rõ từ 12/72;
2. Nguyễn Văn Chỉnh,
toán viên hiện ở TX Hoa Kỳ;
3. Nguyễn Văn Khải, toán
viên không rõ từ 12/ 72;
4. Vũ Đình Nghị , toán
viên chết ở trong tù trại QT;
5. Nguyễn Văn Thưởng,
toán viên, hiện ở TX Hoa Kỳ;
6. Đinh Quý Mùi, anh
này không về K3 phố Lu, Lào Cai.
7. Đặng Công Trình,
toán phó, án chung thân. Anh đã chết ngày 21/8/1996 lúc 11 :30 AM tại Cali, do
bị tai biến mạch máu não. Toán anh ra Bắc ngày 17/6/1964, địa bàn hoạt động
thuộc Yên Bái.
Còn anh Lê Văn Bưởi,
cũng nói như anh Đặng Công Trình, anh Bưởi là người đi lẻ (điệp viên) như tôi.
Tôi đã trình bày chi tiết về anh ở tập 3 Thép Đen. Một điều đau lòng là, anh
Bưởi đã chết ở NY (Hoa Kỳ) ngày 27/10/1995, sau khi anh sang Mỹ diện HO được 3
năm. Tôi đã đến thăm mộ anh ở NY năm 1999. Anh Lê Văn Bưởi chết vì bệnh ung thư
màng óc. Vợ con anh còn ở Đà Nẵng, VN.
Cuộc đời đã thể hiện như Cụ Nguyễn Công Trứ hiểu: Rút cục lại mỗi người, riêng
mỗi kiếp!
Rồi từ đấy, buổi sáng,
buổi trưa, mỗi ngày 2 lần, họ lần lượt gọi các anh ở F3; cũng có khi gọi F1, F2
có cán bộ vũ trang đi kèm sát ra tới các buồng con. Mục đích họ không cho F1,
F2, có thể liên lạc được với F3 phía bên ngoài.
Một buổi chiều chủ
nhật, chúng tôi đang ngồi tụm ba, tụm năm, ở hội trường, vừa hóng thở một chút
không khí trong lành, vừa chờ kẻng cơm chiều. Bỗng nghe thoáng mấy tiếng gào
thét, phía căn nhà số 3 bên khu hình sự. Nhiều người chúng tôi, đều tiến ra
cổng khu F3 nhìn sang. Cửa nhà số 3 vẫn khóa, bên ngoài cửa, ngay ở dưới sân có
2 em hình sự chừng 18, 20 tuổi bị trói giặt 2 tay ra sau lưng, đang lăn lộn
khóc, rên la. Hai tên công an thỉnh thoảng lại đá rồi đạp cả hai em hình sự nằm
dưới sân, các em kêu gào thảm thiết. Trong khi còn một tên CA nữa đang cầm một
đoạn gỗ như cái cán xẻng, thẳng tay giáng xuống 2 cái tay, thò ra ngoài chấn
song của cánh cửa, bị khóa cái còng số 8. Tiếng hét ré lên :
- Gẫy, đứt tay của con
rồi! Con lậy ông cán bộ!
Những tháng trước đây,
nhiều ngày, tôi cũng có nghe thấy những tiếng la thét phía bên hình sự, đêm
cũng như ngày, nhưng tâm trạng của tôi khi ấy : chính mình cũng chưa biết khi
nào về lòng đất, huống chi chuyện thiên hạ, chuyện của đời, xin mặc cho đời;
tôi không còn quan tâm. Nhưng hôm nay, đứng nhìn cảnh này, dạ tôi xót xa đầy
vơi, tâm tư triền miên trong niềm sầu tê tái. Tôi chợt nhìn thấy mầu đỏ ối ở
đôi tay bị khóa ở cửa, mầu đỏ loang lổ cả dưới đất. Ba tên công an VC tụm lại
nói gì với nhau, rồi cùng hè nhau đá, đạp túi bụi vào 2 em đang nằm dưới sân,
một giọng khàn khàn rên rỉ thốt ra ngay trong đám anh em:
- Đừng đánh nữa! Người
ta chết mất!
Rồi một người nữa, nói
như than van trong nghẹn ngào:
- Cùng đồng bào, sao mà
ác nghiệt thế!
Tôi quay lại, ra bác
Dâng, mặt bác mếu xệu như khóc. Trong khi một tên CA, hung hãn một chân đứng
trên ngực, một chân gi gi trên mặt một em nằm dưới đất : Không còn tiếng rên
la, tôi đã thấy mầu đỏ, chảy ra loang lổ. Một tên CA quầy quả vào phía trong, rồi
y cùng với tên Đại y tá trở lại, khênh cả hai em khuất về bệnh xá. Hai tên CA
còn lại, mở cửa buồng, mở khóa tay, em hình sự cũng đã bị ngất xỉu, chúng khênh
em ra để ở sân. Một tên khóa cửa buồng, rồi cùng đi theo, khi chúng khênh em bị
xỉu dưới sân, khuất vào phía trong.
Tất cả chúng tôi, mặt
người nào cũng buồn rười rượi, tôi kéo tay anh Bưởi đi vào buồng. Cả đêm hôm
ấy, tôi cứ thao thức mãi về một cảnh đời thương đau, tôi chứng kiến. Chỉ hai
ngày sau, F3 chúng tôi được tập họp lại, bốn, năm tên cán bộ của Bộ vào tuyên
bố : Từ nay chúng tôi được ăn chế độ bồi dưỡng, riêng về gạo tất cả đều ăn mức
18 kg. Từ đấy sáng cũng như chiều, ngày nào bữa cơm cũng có đủ thịt cá. Lại còn
được tuyên bố : cứ 5 ngày lại có một bữa liên hoan, có kẹo bánh, thịt cá ê hề.
Từ buổi chúng tôi chứng
kiến cảnh CA đánh các em hình sự (không biết vì lý do gì), mấy ngày sau, tôi
tìm cách đến thăm hỏi chuyện bác Dâng. Không ngờ đây là nhóm thủy thủ Hải
Thuyền đầu tiên bị bắt ở miền Bắc. Nhóm của bác gồm 10 người bị bắt ngày
14/1/1962. Như thế nhóm của bác đã bị bắt trước tôi 5 tháng, khi ấy tôi còn ở
Sài Gòn. Tôi tò mò để hỏi những người trong nhóm là đưa ai (điệp viên) đi,
nhưng các bác chỉ nói một người chừng 4 chục tuổi. Tôi hiểu và thông cảm, làm
sao các bác biết được tên tuổi người mà các bác đưa đi, cũng như tôi. Nhóm thủy
thủ này gồm 10 người:
1. Bác Vy Văn Dâng,
thuyền trưởng, đã đến Mỹ, chết ở Sacramento.
2. Trần Văn Cương, Hiện nay (16-03-2004) ở San José.
3. Nguyễn Xuân Đình ở Los Angeles.
4. Lê Văn Đức, không rõ từ 12/ 72.
5. Nguyễn Xuân Hạ, chết ở Cali tháng 12/ 1995.
6. Trần Văn Nhung ở Sacramento.
7. Hoàng văn Sỏi ở Sacramento.
8. Đỗ xuân Thành ở Sacramento.
9. Nguyễn Văn Trình, không rõ từ 12/ 72.
10. Nguyễn Quốc Tuấn , không rõ từ 12/ 72.
2. Trần Văn Cương, Hiện nay (16-03-2004) ở San José.
3. Nguyễn Xuân Đình ở Los Angeles.
4. Lê Văn Đức, không rõ từ 12/ 72.
5. Nguyễn Xuân Hạ, chết ở Cali tháng 12/ 1995.
6. Trần Văn Nhung ở Sacramento.
7. Hoàng văn Sỏi ở Sacramento.
8. Đỗ xuân Thành ở Sacramento.
9. Nguyễn Văn Trình, không rõ từ 12/ 72.
10. Nguyễn Quốc Tuấn , không rõ từ 12/ 72.
Sau nhiều hiện tượng,
thái độ của các cán bộ của Bộ, của trại và trao đổi một số anh em Biệt Kích, đã
nhiều lần được gặp cán bộ của Bộ; rồi chính bản thân tôi đã phải gặp họ 2 lần,
tôi đã dự đoán được ý đồ và chủ trương của họ. Vì chưa đủ yếu tố để khẳng định,
cho nên tôi phải dùng từ “Có Thể”: có thể họ đang chuẩn bị để rồi sẽ ký hiệp
định Paris đã dằng dai mấy năm rồi, nên họ dành quyền chủ động trước.
- Những đám BK gián
điệp này họ không hề muốn trao đổi, hay trao trả cho phía Mỹ và VNCH. Như thế
có khác gì thả hổ về rừng, để rồi phải lo hậu họa? Với những điều khỏan của
Hiệp nghị, có thể họ không thể lắt léo, chuyển đổi lập lờ, đánh lừa nhiều khâu
theo bản tính của họ (cộng sản) được. Vạn bất đắc dĩ phải trao trả những Biệt
Kích gián điệp này, cộng sản phải nghiên cứu sao, để coi như đã cắt gân chân
hết. Chúng có được về rừng, thì cũng chả còn làm gì được phiền toái, cho họ sau
này.
Nguyên tắc bản chất của
cộng sản là : bất kể kẻ thù nào, nếu ai hiểu được những hiểm độc, lật lọng,
tráo trở của chúng, hiểu đến chừng mực nào; cộng sản nham hiểm, quỷ quyệt là
10. A hiểu cái đó đến 4, B hiểu đến 3, C hiểu đến 7.Tùy theo để chúng có kế
sách đối xử với từng loại. cộng sản kỵ nhất là ai hiểu hết cái tẩy đen của
chúng.
Tướng, tá, chính khách,
hay học giả uyên bác mà chưa hiểu hết tẩy của cộng sản. Không những chúng coi
thường, mà còn tìm cách lợi dụng những điều chưa hiểu chúng. Nhưng một anh địa
phương quân, một ông cha, một ông sư, hay một người bình thường dân dã, mà lại
hiểu hết tim độc của cộng sản, thì chúng thấy nguy hiểm hơn, chúng kỵ nhất.
Nó sẽ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt, hoặc hóa giải. Nếu không được thì chúng
tìm cách hạ uy tín, hoặc mượn tay của kẻ khác giải quyết v.v… cộng sản có
trăm phương ngàn kế cuối cùng sao cho, ai chúng kỵ, cũng trở thành vô hiệu hóa.
Những người bộ gọi lên, bộ hành xử mỗi Biệt Kích mỗi kiểu,
mỗi cách, mức độ khác nhau. Cá nào thì mồi nấy. Cán bộ hết sức nhã nhặn, bắt tay,
vỗ vai coi như anh em một nhà, người cùng một nước. Nhẹ nhàng, khoét sâu những
nhược điểm của Biệt Kích, gián điệp, của xã hội miền Nam, của Mỹ (xã hội nào,
cá nhân nào chả có nhược điểm, chỉ ít nhiều và loại nhược điểm khác nhau).
- Anh bị cùm kẹp, tù
đày bao nhiêu năm? Như thế thật tội nghiệp cho anh!
- Anh mất hết cả tuổi
trẻ, tuổi hoa mộng! Anh thật may mắn, được sống sót đến ngày nay.
Y hỏi với thái độ và
đôi mắt thật thương cảm; rồi y nhấn mạnh :
- Người đau khổ hơn cả
là cha mẹ anh, vợ con anh v.v… Có khi nào, anh suy ngẫm, truy nguyên là do đâu
không? Anh có biết hiện nay, những tên đã dạy anh, cấp chỉ huy của anh, chúng
nó bây giờ ra sao không? Không những họ đã quên các anh rồi ! Họ đào tạo xong
một người, đẩy sang khỏi vĩ tuyến là lĩnh thưởng, lĩnh lương, hết trách nhiệm!
Trong khi Mỹ vẫn đài
thọ lương năm, lương tháng của các anh, nhưng chúng đã lắt léo, tìm cách ăn
chặn hết. Bố mẹ, vợ con của các anh vẫn khổ cực, lầm than. Vẫn phải chạy chọt
cuộc sống, miếng ăn hàng ngày kết hợp với niềm thương nhớ, cùng với bao nhiêu
nước mắt vì anh. Nói đến đây, thì hẳn anh đã nhận ra, cái nguyên nhân rồi?
Nếu chính quyền miền
Nam, cán bộ miền Nam không hề ăn chặn lương của Biệt Kích gián điệp. Sự khêu
gợi này đã làm cho chúng tôi phải suy nghĩ nhiều rồi. Huống chi, trong muôn một
lại có hiện tượng, một số cán bộ ở Long Thành hoặc ở khâu khác, tìm cách ăn
chận. Thậm chí còn lường gạt những người vợ trẻ, khi đi lĩnh lương của chồng là
Biệt Kích, mới cưới bị bắt ngoài Bắc. Đem vợ con của người ta đi hết khách sạn
này đến khách sạn khác. (Sự việc này có thật, người thực, việc thực, tôi chưa
muốn nêu tên) .v.v… Sự khích lệ này càng càng hữu hiệu thần kỳ. Chúng biết chỗ
mạnh của chế độ tư bản, tự do; chúng cũng biết và biết rất rõ những cái nhược
của chúng ta.
Cái nhược điểm nội tại,
nghĩa là có cái chế độ dân chủ tự do dân quyền, là có cái nhược điểm đó rồi.
Nhất là tính giác ngộ về dân chủ, của người Việt chúng ta chưa cao đầy đủ như
dân các nước, đã văn minh. Tính kèn cựa, bè phái, cá nhân, đố kỵ. Cái tôi to
tướng, trâu buộc ghét trâu ăn, cục bộ, mầu cờ sắc áo, tín ngưỡng v.v. . . Đám
BK gián điệp này, bất đắc dĩ bất khả kháng, chúng phải để họ về miền Nam. Họ
không quậy phá, trở thành cái nạn kiêu binh, mới là lạ.
Chưa hết, cộng sản
còn phòng hờ nhiều tầng, nhiều khâu. Gần về cuối, những tên cán bộ của bộ, còn
có cái trò:
- Anh đã thấy được cái
tồi tệ của những kẻ tay sai cho đế quốc, thực dân mới. Vậy anh phải có trách
nhiệm với dân tộc Việt Nam, với cách mạng. Nó tìm một vài cái ưu của mình để
lôi mình vào cái thế không đồng ý, không gật đầu không được. Khi ấy cán bộ của
bộ, mới đi vào chi tiết:
- Như anh đã đồng ý (nó
coi như mình đã thỏa thuận), khi anh về với gia đình, về tới miền Nam; anh phải
có trách nhiệm giúp đỡ nhân dân, giúp đỡ cách mạng. Vậy bất cứ sau này (không
kể thời gian nào) có một người đến với anh thì anh phải giúp đỡ? (Tất nhiên,
lúc ấy anh nào cũng phải đồng ý).
Bấy giờ cán bộ mới nói:
- Làm sao khi ấy, để
người cán bộ đó biết anh và để anh biết người cán bộ đó là người của nhân dân,
của cách mạng? (đến đây, ai chẳng ngắc ngư, lúng túng).
Lúc đó y mới nói, cứ
như vừa tìm ra một cách:
- Anh hãy viết vào một
mảnh giấy này bất cứ điều gì, rồi anh ký tên. Sau này, bất cứ ai cầm mảnh giấy
này đến gặp anh, thì đó là người của cách mạng. (lại lúng túng, không biết viết
gì).
Cán bộ lại gợi ý như:
- Chẳng hạn anh viết:
Hẹn anh ngày 20, hoặc tôi vẫn nhớ đến anh v.v. . . Rồi anh ký vào. Mục đích sau
này, anh vẫn nhận ra đó là mảnh giấy, của chính tay anh đã viết.
Tôi hiểu, cộng sản
cũng hiểu, với đám BK gián điệp này không phải ai cũng tin, cũng mắc. Dù rằng
cộng sản đã lấy cứu cánh là phương pháp ngăn cách ra, hỗ trợ:
- Tuyệt đối anh không được nói với ai, chỉ có anh và tôi,
nếu sau này không đúng, anh sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. (Khi còn trong tay chúng,
thì 5 cái từ này có uy lực ghê gớm).
Nhưng “Nó lú lại có chú nó khôn”, phòng hờ có những tên biết
rõ âm mưu của chúng đi nữa. Nhưng qua thăm dò (do những tên chó săn) đã thấy
hữu hiệu, khi BK còn trong đang nhà tù. Thực thế, nó úp úp, mở mở, anh nào cũng
lên gặp riêng cán bộ, có người nó đưa cho cả bao thuốc lá, gói trà thơm v.v. .
. Thậm chí cả tiền: 5, 3 đồng bạc, nó gây ra ngay trong anh em BK gián điệp đã
nghi ngờ lẫn nhau. Còn ở trong trại giam đã thế huống chi, khi về miền Nam tha
hồ tố khổ nhau v.v. . . Những gián điệp biệt kích, khi đó quay ra chống nhau,
làm rối loạn, phá ung thối xã hội miền Nam.
Nhất cử lưỡng tiện,
không những không phải lo chúng thu tập những kinh nghiệm đã có với lòng căm
thù cao hơn gấp bội, so với ngày chúng ra Bắc trước đây (ý này của Lê nin) một
kẻ thù sau khi bị bắt xổng ra, nó sẽ căm thù ta, lên nhiều lần hơn.
Mới chỉ hơn một tháng
bồi dưỡng ăn uống, tuy không nói là đầy đủ, nhưng không còn đói nữa. Hằng ngày,
nhìn nhau anh nào cũng lên cân, lại sức trông thấy. Cũng như một cái cây, lâu
ngày cằn cỗi vì thiếu nước, giờ đây tưới bón đầy đủ thì nó lớn trông thấy. Hơn
nữa, cái tinh thần mới quan trọng, mỗi người biết bao nhiêu hy vọng, huy hoàng
mơ mộng, xây đắp mộng ngày mai, cho nên trông ai cũng mắt sáng long lanh, da dẻ
hồng hào trở lại. Cụ thể nhất là Lầu Chí Chăn (Người Nhái) hay Đèo văn Bạch anh
nào cũng to lớn khác thường.
Qua phương cách bí mật
liên lạc với trong F1 và F2 chế độ đãi ngộ, bồi dưỡng có phần khác với F3,
chúng tôi được biết, trong F1 và F2 mỗi người được phát một cái khăn mặt, một
bàn chải và một tuýt thuốc đánh răng. Trong khu lại có lược, kéo, dao cạo, tông
đơ để cắt tóc cho nhau. Bên F3 hoàn toàn không có những thứ đó. (Hẳn ai cũng
biết vì sao rồi).
Chiều hôm qua Chăn gọi
tôi ra hội trường F3 nói chuyện, tâm sự (hai người chuyện trò, không còn ai để
ý nữa). Từ cái buổi sinh hoạt toàn buồng để tố Chăn và tôi. Cũng có thể là do
đúng lúc tuyên bố chế độ bồi dưỡng, nên mới cởi mở thế chăng? Chăn và tôi đang
nói chuyện, Nông văn Hính cũng kéo đến rồi cả Lưu Nghĩa Lương nữa. Chúng tôi
pha trà để câu chuyện thêm ấm cúng, Lầu Chí Chăn hỏi nhỏ :
- Tại sao F1, F2, lại
có chế độ bồi dưỡng khác chúng ta? Anh có đoán ra không?
Đắn đo một lúc rồi tôi
cũng nói :
- Chăn hỏi thế thì tôi
cũng tịt thôi, nhưng tôi cứ dự đoán, chả biết có đúng hay không?
Chăn, Hính, Lương đều
khích lệ :
- Cứ nói đi! chả đúng
cũng không sao?
Thấy anh em ủng hộ,
khích lệ tôi cũng nói đại :
- Đã gần một tuần nay,
tôi cứ suy nghĩ về điều này mãi, lối nào cũng có mâu thuẫn, nên lại phải gạt
đi. Chỉ còn hướng này có khả dĩ tạm thời chấp nhận. Hầu hết anh em Biệt Kích ở
F1, F2 so với chúng ta đều là người mới.
Họ ra Bắc từ 1965 trở đi, thậm chí có toán mới năm 1967 vừa
đây. Như chúng ta đã biết mánh khoé cộng sản : “cá nào, mồi nấy”.
Những người ra sau, mới tù ít, chưa hiểu hết cái đểu giả, độc hiểm, trắng trợn,
muôn mầu đổi thay của cộng sản, như chúng ta nên họ mua kiểu khác. Người nào
hay loại nào đã hiểu hết cái độc hiểm của chúng, thì chúng không cần mua nữa,
chỉ có thủ tiêu hay giết.
Cả 3 người đều gật gật
đầu, Hính nói :
- Anh Bình nói có lý
đấy! Nhưng tại sao nhiều người cứ bị lừa mãi?
Nói về sự nham hiểm,
lừa lọc của người cộng sản; tôi nhớ đến lời của Đức Khổng Phu Tử xưa có nói
với học trò : “Lý luận mà không giản đơn, hoặc phải lấy thí dụ cho người khác
hiểu, thì chính người đó không có khả năng”.
Vậy tôi xin trình bày
thế này :
- Nói về cái tài lừa
lọc gây chia rẽ, chọc vào những huyệt mâu thuẫn, của từng loại người thì không
ai bằng VC. Nó nguy hiểm ở chỗ; người bị mắc lừa ở mức độ, khác nhau mà vẫn
không biết.
Tôi xin thí dụ :
Ngay cá nhân với cá
nhân, giữa anh A và B, do mồm mép, tâm lý thu phục tình cảm. Nghĩa là do cái
tài che giấu của anh A đã làm cho anh B thương cảm, tin tưởng để rồi A đã làm
một cú lừa ngoạn mục đối với B. Như vậy sau này, đừng hòng bao giờ dùng miệng
lưỡi, dùng phương pháp này nọ mà anh A lừa anh B lần thứ hai.
Thế mà, xin các anh hãy
nhìn bằng sự thật, việc thật, hãy nhìn ngay vào quê hương đau khổ, mộc mạc của
chúng ta :
Từ cái thời Sô Viết
Nghệ Tĩnh 1930, thời mặt trận Bình Dân, với tờ báo Le Travail ở Hà-Nội, ta cũng
không bàn đến vì xa quá. Hãy nói từ cái gọi là Cách Mạng Tháng Tám 1945, chính
phủ liên hiệp với bao nhiêu thành phần quốc gia. cộng sản gây mâu thuẫn xúc
xiểm giữa những thành phần quốc gia với nhau. Phần khác, chúng bí mật thủ tiêu,
nhưng nó lập lờ đánh lạc, để rồi những đảng phái, đoàn thể nghi ngờ lẫn nhau.
Cuối cùng cộng sản đã lừa được biết bao nhiêu người. Rồi diễn tiến cho tới
hội nghị Genève 20-7-54. Một nửa nước bị lừa, điển hình là ông Thẩm Hoàng Tín,
dược sĩ, đương kim thị trưởng thành phố Hà Nội. (xin xem TĐ 3, tôi đã trình
bày).
Rồi qua trình diễn tiến
đến hiệp nghị Paris 27-1-1973, cho tới khi mất nước, thì lại cả nước bị lừa.
Đến bây giờ đây (tháng 10-2004) ở hải ngoại,
(mỗi lần lừa để có lý
do mới, nào là những thành phần bảo thủ đã chết hết rồi. Ngày nay có nhiều
thành phần trẻ, tiến bộ v.v…) hẳn quý vị đã thẩm nhận, ở mức độ khác nhau như
thế nào rồi?
Như thế mà nhiều người vẫn coi thường cái tài lừa lọc,
khích động, chia rẽ, gây mâu thuẫn, mua chuộc ở mọi thành phần của cS. Không
thấy: về lọc lừa, nham hiểm, sắt máu thì cộng sản là sư tổ. Hơn nữa, thế giới
tự do của chúng ta lại có quá nhiều cái nhược điểm nội tại.
(Cũng đã nhiều lần tôi
đặt dấu hỏi: Mỹ, Pháp bị cho ăn mắm ngoé vì tiểu nhân với quân tử nên thường bị
thiệt đã đành. Tại sao, cũng là người Việt mà chúng ta bị VC lừa nhiều thế, mà
vẫn cứ bị lừa? Suy nghĩ mãi, chỉ có tạm thời chấp nhận: Thiên tính tự nhiên của
người Việt dễ tha thứ, dễ quên hận thù, truyền thống “dĩ hoà vi quý”. Nhưng VC
mang ý thức hệ cộng sản sắt và máu, ràng buồng trong một cái tập thể, chỉ có
máu và máu, không có tình người).
5. CON ĐẺ CỦA NHÂN DÂN
Trời đã bắt đầu vào Thu, tiếng ve sầu nỉ non ở những đám
cây rừng, chung quanh trại đã thưa dần. Cái mầu vàng ươm ươm của trời Thu làm
cho cảnh vật sạm lại, như chiếc đỉnh đồng hoen rỉ. Dăm chiếc lá vàng rời cành
sớm, la đà, chao đảo, lửng lơ như nhõng nhẽo với nàng Thu, cả một năm mới mò
về. Một buổi trưa tôi đang thơ thẩn một mình ở hội trường để chào đón cô Thu đã
trở lại; để hít thở cái hơi nồng nàn của nàng Thu đã đến thì.
Những tiếng xôn xao ở
phiá cổng của F3, đã kéo tôi về trại tù K3. Đã từ hơn một tháng nay, thường
buổi trưa có các em phía bên tù hình sự, kéo sang phía cổng khu F3, để xin cơm
và những thức ăn thừa. Tuy chẳng có đâu mà thừa. Có thể các anh, các bác khu F3
do tình thương yêu, lá rách ít, đùm bọc lá rách nhiều, nên đã cố dành lại ít
cơm canh, có thể được để chia xẻ với các em bên đó.
Chính tôi và Chăn cũng
có một buổi trưa mang cho một em ghẻ, lở, lại què chân, và một em cụt tay, hai
suất cơm không, như một sự cảm thông nỗi bất hạnh của nhau.
Đặc biệt trưa nay có
đến hơn một chục em, có cả một vài người lớn tù hình sự đứng phía ngoài cổng
F3, thò những bàn tay gầy, khẳng khiu ghẻ lở vào xin ăn. Cũng hơn chục anh Biệt
Kích, người thì bát cơm, bát rau; người thì vài miếng thịt với tí nước, miếng
bánh mì chưa ăn hết, khúc xương heo còn chút thịt gân chưa gặm, đều đưa ra cho
các bạn tù hình sự. Các em và các anh tù hình sự đã tranh giành nhau, cãi nhau
như mổ bò, để rồi tên cán bộ trực trại phải đến quát tháo, đuổi đi. Tự nhiên
một anh hình sự, đứng ở giữa sân gào lên:
- Sao các ông nói, bọn
Biệt Kích gián điệp là ác ôn, hay ăn gan, uống máu đồng bào, mà bây giờ các ông
lại cho họ ăn thịt cá ngon thế? Còn chúng tôi là con đẻ, của nhân dân thì khổ
thế này?….
Tiếng gào của anh tù
hình sự, làm cho chúng tôi và cả tên trực trại ớ ra… ngỡ ngàng. Tên trực trại
sạm mặt lại mấy giây, rồi y quay ra phía tên hình sự quát rổn rảng:
- Họ, bây giờ khác; rồi
đây đảng còn cho họ ăn không hết, đổ đi nữa đó. Các anh cũng không được phân
bì!
Thấy những chuyện khó
nghe, khó nhìn, tôi kéo tay Hính và Chăn đi vào buồng. Buổi tối hôm ấy, sau khi
cán bộ trực vào buồng điểm xong bước ra, anh Nguyễn văn Tâm kỹ thuật tổ may,
đứng giữa buồng nói to:
- Tôi được lệnh của cán
bộ, xin các anh vui lòng lần lượt đến tôi để đo, sau này cắt may quần áo!
Cả buồng xôn xao suy
đoán, là sắp được trao trả rồi. Nhất là, từ ít tuần nay, ra đường chúng tôi
được gặp cán bộ trại, nam cũng như nữ cho đến cả anh Đại y tá, thái độ tình
cảm, niềm nở khác thường. Thậm chí bà Hoàng cán bộ y tế của trại, khi bất ngờ
gặp tôi trước khu ban giám thị, đã cong cớn chì chiết:
- Về miền Nam, thì đừng
quên miền Bắc nhé!
Tôi chỉ cười, mà không
nói gì; tôi hiểu chuyện đời không đơn giản như 2 + 2 = 4.
Nhưng nhìn lại mọi vấn
đề, từ hiện tượng, đến thái độ lời nói của cán bộ của Bộ, của trại kể cả giám
thị trưởng là ông Nguyễn Thành Cửu cũng thế. Một hôm tôi ở ngoài lán mộc, ông
ghé qua xem cái giường đôi, tôi và Chăn đang làm dở. Trong một câu chuyện vui
ông vồn vã nói:
- Sau này, anh còn làm
gì đến cái nghề này nữa?
Tôi coi như ông ta nói
đùa nên trả lời:
- Thưa ông, đây là nghề
kiếm cơm của tôi, Đảng và nhà nước đã giáo dục dậy cho tôi cái nghề này, làm
sao tôi bỏ được!
Tóm lại với cái nhìn và
cái hiểu của tôi, từ cán bộ Bộ, cán bộ trại họ đều đinh ninh, tin tưởng là số
Biệt Kích gián điệp này, sẽ được trở về với gia đình ở trong Nam. Đến ngay bản
thân chúng tôi, hầu như ai cũng nghĩ như thế (Họ làm sao hiểu được chủ trương,
thâm mưu của bộ chính trị?). Riêng tôi, nhiều đêm ngày nghĩ suy, qua sách vở,
qua phim ảnh kết hợp với kiến thức của mình. Rất nhiều sự việc trong thế chiến
I và II, chuyện cổ, chuyện kim cho tôi hiểu đừng thấy đỏ mà kết luận là đã
chín. Ông bà mình vẫn thường ca thán: Leo cây đã đến buồng rồi, mà vẫn không
được ăn v.v…
Có những chuyến tàu
trao trả tù binh; ra tới giữa biển thì nổ tan tành, chìm mất tiêu cả người áp
tải, đến tù binh. Vậy phải thận trọng tối đa, với điều kiện có thể. Suy nghĩ
như vậy, một buổi tối cuối tuần, tôi đã gọi Nông văn Hính và Lầu Chí Chăn;
những hạt nhân đã được tôi luyện, thử thách. Sau khi tôi đưa ra ý kiến, và
trình bày chung quanh sự việc; các anh đều thấy cái nguy hiểm: Có khi ở tù mãi
không sao, nhưng phút cuối cùng tưởng chim đã xổ lồng, sẽ thực hiện những mộng
đẹp, đã xây từ bao ngày tháng trước đây, lại trở thành Zêrô vào gió bụi.
Nghe tôi đưa ra sự việc
như vậy Chăn và Hính đều có nét tư lự, suy tư. Thấy vậy, tôi cười kể cho Hính
và Chăn nghe một sự việc người thật, việc thật như sau:
- Quá lâu ngày tôi
không còn nhớ rõ do ai và bao giờ, nhưng có một anh ở trong tù bị bắt về tội vượt
tuyến kể lại. A! Tôi nhớ ra rồi, anh ta là Nguyễn Chí Sơn, tình báo đặc công
cấp huyện, tập kết từ trong Nam ra Bắc của cộng sản. Năm 1964 anh ta muốn
vượt tuyến (qua giới tuyến 17) vào miền Nam. Sau nhiều những chuẩn bị, luồn
lọt, lắt léo, công phu, anh mò vào đến bờ sông Bến Hải.
Cái đêm hôm ấy, ra tới
bờ sông, anh nhìn giòng nước lững lờ chảy ra phía cầu Hiền Lương, tâm hồn anh
thanh thoát lâng lâng, với bao nhiêu mộng đẹp ngày mai. Anh nghĩ, biết bao
nhiêu gian nan, khổ cực anh đã trải qua, chỉ còn một giòng sông này nữa và anh
đã trườn nhẹ xuống nước, để bơi sang kia bờ.
Khi tới bờ bên kia, tuy
mệt, nhưng sự sung sướng đã làm anh, quên cả mệt. Để thưởng nhận cái phút linh
thiêng ban đầu của tự do, anh đã giang tay nằm xấp, ôm lấy mảnh đất tự do, quý
yêu của miền Nam. Ở giữa đám cây rừng, miệng anh gào to cho thỏa, cái sướng vui
trong lòng:
- Ôi! Tự do đây rồi! Ta
đã được tự do rồi!
Ngay lúc đó, hai tên CA
thường phục, bẻ giật hai tay anh ra sau lưng khóa lại. Chỉ vì giòng Bến Hải,
chỗ đó có một giòng nhánh, mà theo vĩ tuyến 17 thì nó vẫn còn thuộc bờ Bắc khu
phi quân sự.
Trong niềm hưng phấn,
lẫn lộn nỗi ưu lo, tôi hay thơ thẩn một mình ra những chỗ vắng vẻ trầm ngâm suy
tư. Tình cờ tối hôm qua ở ngoài hội trường, nhìn thấy anh Tarzan dễ mến. Người thợ
máy trên con thuyền định mệnh đã đưa tôi ra Bắc năm 1962, mừng rỡ, tình thâm
tôi bắt tay anh mà giữ mãi chẳng muốn rời. Thấy anh đang chuyện trò với một
người nữa, tôi chỉ mỉm cười, anh Tarzan (Nguyễn Phương) vẫn cầm tay tôi, hất
hàm về người đó:
- Đây là anh Hưng 10
năm xưa, cũng là thủy thủ đưa anh đi chuyến đó!
Tôi mừng rỡ ra mặt,
cũng bắt tay, nhưng không thể nhận ra anh; làm sao mà nhớ được! Nhân dịp này
tôi tíu tít hỏi hai anh về chuyến đi, bị bắt của các anh; đồng thời tôi mong
muốn được gặp lại bác thuyền trưởng già ngày ấy. Anh Hưng rối rít chạy vào
buồng, rồi cùng ra với 2, 3 người nữa, anh Hưng chỉ một bác đã có tuổi nói nhè
nhẹ:
- Đây là bác Vy Tiến An
thuyền trưởng!
Câu chuyện hàn huyên
rôm rả, nhưng cũng có nhiều tiếng thở dài. Nhóm thủy thủ do bác Vy tiến An làm
thuyền trưởng, gồm 11 người bị bắt ở ngay bên ngoài cửa sông Gianh, ngày
28/6/1962. Như thế chỉ đúng một tháng sau (ngày tôi ra Bắc 28/5/1962), các anh
đã bị bắt rồi ở một chuyến khác. Thương các anh, các bác và, tôi cũng thương tôi
nữa. Cho đến nay (tháng 3-2004) tôi được biết 11 người Hải thuyền đó:
1. Vy Tiến An. Thuyền
trưởng chết ở trại tù Thanh Phong Thanh Hóa 1981.
2. Hoàng Bài, Thủy thủ
hiện ở California.
3. Hoàng Cung, Thủy thủ
hiện ở California.
4. Nguyễn Hưng, Thủy
thủ chết ở trại tù T52 Hà sơn Bình.
5. Nguyễn Phương
(Tarzan) thợ máy, hiện ở Tortine Cali.
6. Hoàng Thêm, Thủy thủ
hiện ở Cali.
7. Hoàng Thủ, Thuỷ thủ
hiện ở Cali.
8. Hoàng Xuân Tình,
Thủy thủ, hiện ở Cali.
9. Nguyễn Hòa Thủy thủ,
hiện ở Cali.
10. Trịnh văn Truyện,
Thủy thủ, hiện ở Florida.
11. Nguyễn Thiện, Thủy
thủ, chết ở trại tù Cổng Trời, Quyết Tiến.
Ngay buổi tối, đến lượt
tôi được đo giầy, đo quần áo, tôi tần mần cứ nhìn anh chàng Tâm đo chiều này,
chiều kia. Đầu lại suy nghĩ về cái toán Người Nhái của anh, vụ án sông Gianh,
tôi đã tường thuật ở tập 3 Thép Đen. Ra Bắc 26/ 6/ 1962. Vụ của anh có 4 người
là:
1. Lê văn Thảo, chết
ngay khi bấm nút mìn, nhầm từ 2 giờ thành 2 phút.
2. Nguyễn văn Tâm, Toán
phó, hiện ở Cali.
3. Nguyễn văn Chuyên,
Toán trưởng, không rõ.
4. Lê Văn Kinh, hiện ở
Florida.
Khi Tâm đo gần xong,
đột nhiên tôi hỏi:
- Anh có biết anh
Chuyên sống chết ra sao không?
Anh chỉ nhìn tôi, như
ngỡ ngàng rồi lắc đầu.
Trong đầu tôi lại loé
lên một ý nghĩ: Không biết có liên quan gì, giữa chuyến của Lê Văn Kinh, toán
Người Nhái (Frogman), và của bác thuyền trưởng Vy tiến An hay không? Tôi chưa
có điều kiện hỏi.
Đã hơn một tuần rồi từ
cái hôm Hính, Chăn và tôi bàn đến sự an nguy của chuyến tàu về Nam. Hôm nay,
tôi có ý định gặp lại hai anh, thấy hai anh không có ý kiến gì; tôi đành phải
thong thả trình bày:
- Vì sự sống còn của
bản thân chúng ta, phải cần ít nhất 5, 7 người, tương đối bén nhậy tinh nhanh,
phân công đều khắp những nơi cần thiết của con tàu, nâng cao cảnh giác tối đa:
Mọi hiện tượng không bình thường, bất kỳ của thủy thủ đoàn, cũng như những
thành phần của đối phương liên hệ. Tóm lại, không bỏ qua bất cứ một hiện tượng
nào nghi ngờ, thái độ, ánh mắt của họ nhìn nhau v.v… Chúng ta đều ít nhiều có
một chút chuyên môn, về mìn và chất nổ.
Hính và Chăn đều đưa ra
ý kiến là phải có một người, chịu trách nhiệm điều hành, và đặt tên là gì? Tôi
cũng lúng túng, xưa nay mình có quen kiểu đó đâu, nên nói đại: Hay là cứ tạm
thời đặt là “Ủy ban hành động”. Lúc này chỉ cần 3 chúng ta, sau này diễn tiến
tới đâu, mỗi người chúng ta đều nhắm, dự trù 2 người, như tiêu chuẩn đã nói.
Khi gần cuối chúng ta mới báo, đưa họ vào ủy ban. Giữa 3 người (ý kiến 2 anh),
tạm thời tôi làm tổ trưởng điều hành.
Buổi tối, khi sinh hoạt
tổ, toán xong, Chăn ghé tai tôi:
- Anh Bình có muốn gặp
mấy anh bộ đội miền Bắc, bây giờ là Biệt Kích không?
Tò mò, tôi nhận lời
ngay, cuối cùng tôi đã gặp 3 anh:
1) Nguyễn Thế Hiên,
Tiểu đội trưởng bộ đội Việt cộng.
2) Lò Khâm Thái, bộ đội
VC.
3) Nguyễn Đình Linh,
Đại đội trưởng bộ đội VC.
Ba anh này đều là bộ
đội của cộng sản, đóng quân ở Hòa Bình đã đào ngũ, trốn sang Lào rồi vào Sài
Gòn. Sài Gòn đã tuyển mộ để huấn luyện tình báo, trở thành Biệt Kích. Ba anh đều
đi bổ sung, cho một toán Biệt Kích đã hoạt động ở miền Bắc, các anh bị bắt ngày
9/9/1962.
Điều đáng đau lòng, với
những tiếng thở dài cho tới nay, tôi được biết cả 3 anh đều đã sang bên kia thế
giới. Riêng anh Nguyễn Thế Hiên, một lần đã cướp súng của một tên công an võ
trang ở trại tù Thanh Phong Thanh Hóa, chạy vào rừng. Bị chúng truy đuổi theo
và đã bị bắn chết đầu 1980. Giờ đây, tôi được biết 2 anh Thái và Linh cũng bị
chết do cùm kẹp ở trại Thanh Phong. Tôi xin kính cẩn thắp nén hương lòng, cầu chúc
cho linh hồn, các anh với lòng kính trọng, và biết ơn của tôi.
Đến đây, lòng tôi cũng
nhiều day dứt không thể ghi nhớ được nhiều sự việc một cách rõ ràng. Nguyên
nhân chính từ dạo đó (1972), tôi có nghĩ đâu sẽ có một ngày, được ngồi viết lại
chi tiết những sự việc đã trông thấy, đã trải qua?
Buổi sáng ngày
20-11-1972, khi F3 tập họp để đi làm như mọi ngày, tên trực trại đọc 3 tên ở
lại trại:
Lưu Nghĩa Lương.
Lê Văn Bưởi.
Đặng Chí Bình.
Cả 3 chúng tôi đều
nghĩ, lại sẽ lên gặp cán bộ của bộ. Sau khi F3 đã xuất trại gần 1 giờ, tên trực
trại lại vào F3, y chỉ tay vào chúng tôi, cao giọng rõ ràng:
- Hai anh hãy chuẩn bị
tất cả công tư trang của 2 anh, 15 phút nữa ra chờ phía cổng F3.
Chúng tôi nhớn nhác,
vừa buộc gói chăn màn xong thì một tên cán bộ đi vào; thì ra là tên Bùi Huy
Tập, cán bộ giáo dục của trại; chúng tôi đã nhẵn mặt. Hôm nay y rất lạnh lùng:
- Các anh ôm chăn chiếu
theo tôi!
Tôi quay lại nhìn anh
Bưởi, vừa như chào, vừa ngỡ ngàng không biết thế nào? Khi chúng tôi ra tới cổng
trại, có một tên công an võ trang từ cổng tách ra, đi sau chúng tôi. Tên Tập đi
trước rẽ về phía đường ra trại 1 (Dù đi tỉnh nào, cũng phải đi ra trại 1 rồi
qua phố Lu).
Loay hoay hơn 3 cây số
đường rừng, dù trời đã vào chớm Đông mà tôi và Lương cũng toát mồ hôi, vì đi bộ
và ôm, vác. Nhưng cái làm chúng tôi mệt hơn cả là lòng hoang mang, không biết
chúng đưa chúng tôi đi đâu, rời chỗ đang ăn uống no nê bồi dưỡng v.v…?
Khi tới cổng trại 1,
tên Tập ra hiệu tay cho hai chúng tôi đi vào. Lại một bất ngờ nữa, có trời mới
hiểu, chúng định làm gì? Rồi y chỉ tay tiếp, rẽ vào ngôi lán ở sát cổng. Đây là
toán lâm sản, của những người tù chính trị địa phương. Nghĩa là chúng tôi lại
trở về tù, như mọi khi, ăn chế độ 12 đồng. Phần vì mệt, nhưng cái chính là nỗi
buồn hoang mang. Đời lại rơi xuống hố đen thẳm, như trước đây; vì thế cả Lương
và tôi đều vất chăn màn vào chỗ chỉ định rồi nằm vật ra, im lìm như ngủ. Đến
bữa, mấy anh toán lâm sản giục đem bát ra chia cơm, cả Lương và tôi chẳng còn
thiết ăn uống gì, nên đều nói:
- Xin mời các anh chia
cả cho toàn mâm, hôm nay chúng tôi không ăn!
Nằm im như ngủ, nhưng
lòng tôi đang nghĩ lại trong đó, K3 đang ríu rít anh em ăn uống thịt cá, còn
chúng tôi thì hết rồi! Nhìn sang Lương nằm bên cạnh, tôi đoán chắc Lương cũng
chẳng hơn gì tôi.
Khoảng 2 giờ chiều, lại
thấy anh Lê văn Bưỏi, mặt cũng dài và nhăn như cái giẻ, ôm chăn chiếu bước vào.
Thủ đoạn gớm thật, một chút cũng thủ đoạn, chỉ có một con đường ngắn, từ K3 đến
K1 hơn 3 cây số, ba chúng tôi chúng phải đưa làm 2 lần.
Tôi tin rằng tất cả các
anh em Biệt Kích, ở F1, F2, F3 không một ai biết là ba chúng tôi, đang ở ngay
K1 này. Đúng như thế, cụ thể mới đây trong một lần, tôi đi Cali để tìm tòi lại
những dữ kiện, chuẩn bị viết cuốn Thép Đen 4, là cuốn cuối cùng cho xong món nợ
nhỏ nữa, với quê hương.
Một bữa có 7 người ngồi
ở phòng khách của nhà anh Hồ văn Sinh, trong đó có 5 người là Biệt Kích, có cả
bác Hà văn Chấp, toán trưởng của toán Biệt Kích đầu tiên ra miền Bắc. Trong tù
chúng tôi đều gọi là bác, năm nay bác đã 85 tuổi.
Tên toán của bác là
CASTER (Mỹ là CASTOR), gồm 4 người ra Bắc ngày 27-5-1961, do Nguyễn Cao Kỳ lái,
địa bàn hoạt động thuộc Sơn La, Lai Châu.
1. Hà văn Chấp Toán
trưởng, hiện nay ở Cali.
2. Đinh văn Anh, truyền
tin trưởng, hiện nay ở Cali.
3. Lò văn Piếng, truyền
tin phó. Tôi nghe loáng thoáng đổi hay ghép người, phái đoàn Mỹ phỏng vấn, anh
bị từ chối, nên vẫn còn ở VN.
4. Quách Thức, hiện nay
nghe nói đã chết ở VN.
Đúng một tháng sau,
chuyến bay C47 (Cò trắng) do Phan Thanh Vân lái ra để tiếp tế ngày 2/7/1961, bị
hạ ở Cồn Thoi, Ninh Bình. Tôi đã tường thuật ở Thép Đen III. (Hiện nay, tôi có
bản viết như hồi ký ” Người về từ cõi chết”.
Ký tên ”Cò trắng Phan
Thanh Vân”. Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ in nó vào phần cuối tập này).
Trở lại ngôi nhà anh Hồ
văn Sinh, tôi nhớ hôm đó là 16-11-2003. Có 7 người gặp nhau họp mặt, 5 Biệt
Kích là.
1. Hà văn Chấp. (Đã nói
ở trên)
2. Đinh văn Anh. (Đã
nói ở trên)
3. Lưu Nghĩa Lương. Đã
nói về Lương trong tập 2 Thép Đen.
4. Đặng Chí Bình.
5. Phạm Ngọc Ninh.
Trong toán Hadley, 11
người do Lê Văn Ngung làm toán trưởng, bị bắt 26-1-1967. Còn hai người không
phải Biệt Kích là anh Phan Nhật Nam và anh Nguyễn Chí Thiện.
Trong một câu chuyện,
đề cập đến buổi VC gọi đưa anh Bưởi, tôi và Lương đi, anh chàng Ninh phát biểu,
như khẳng định.
- Khi đó và ngay cả bây
giờ chúng tôi cứ nghĩ, nó (cộng sản) đưa các anh ra để tha trước!
Anh Bưởi thì chết ở NY
rồi. Tôi và Lương ngồi đấy, đều cười và nói:
- Nó chuyển ra ngay K1
rồi đưa sang trại Phong Quang.
Nhưng Phạm Ngọc Ninh
vẫn cho là chúng tôi nói đùa chứ anh tin là cộng sản đã tha chúng tôi rồi. Dù
chuyện của 3 người, mà 2 người ngồi đấy là hai chúng tôi đều khẳng định, VC đưa
chúng tôi vào tù trở lại. Ninh vẫn cứ tưởng chúng tôi nói vui đùa. Thấy vậy,
tôi nghiêm mặt hỏi Ninh:
- Em nghe ai nói thế?
Khi đó em đang ở trong F1, F2 mà. (vì Ninh nhỏ hơn tôi hàng chục tuổi, nên tôi
vẫn gọi thế từ khi biết nhau).
Ninh thẳng thắn trả lời
ngay:
- Khi họ đưa các anh đi
tha, F3 ai cũng biết, kháo nhau ầm lên, hai ngày sau tin đó mới vào F1, F2
chúng em!
Tôi trình bày chi tiết
một sự việc để thấy rõ cái thủ đoạn lắt léo, lừa lọc của cộng sản. Sự việc
của 3 người, mà 2 người còn sống ngồi ngay đấy, Ninh còn không tin. Nếu 1 hoặc
cả 2 chúng tôi đều chết, thì ai mà thanh minh? Ngay buổi tối, khi ở nhà anh Sinh
về Lưu Nghĩa Lương, đã hỏi thẳng tôi:
- Em vẫn chưa hiểu hoàn
toàn, cộng sản lắt léo vụ 3 anh em mình ở K3 ngày ấy, thì họ có lợi gì?
Tôi nhìn Lương bằng đôi
mắt nheo nheo như cười; như muốn nói với Lương: Tôi biết Lương cũng hiểu nhưng,
muốn thử xem trí của tôi, còn xài tạm được hay không mà thôi; hay đã lú lẫn,
lẩn thẩn rồi; dù thế tôi cũng nói:
- Do anh em mình mỗi
người đều phải mưu sinh; không có điều kiện chuyên trách ngồi nghiên cứu, đào
sâu, xét kỹ những thủ đoạn lắt léo, lừa lọc của cộng sản, cho nên chúng ta
khó thể quán triệt. Tuy thế trong trường hợp này, anh cũng thấy cộng sản có 3
điểm lợi chính:
1/ Bọn Biệt Kích gián
điệp này chúng không muốn trả về miền Nam. Như một con nợ không muốn trả, mà
người đòi lại lịch sự, hòa nhã, tư cách kiểu salon, bàn giấy thì chúng giấu bớt
đi. Trước hết là những thành phần đi lẻ, không là một tập thể như một toán Biệt
Kích, có sự ràng buộc liên đới với nhau. Chúng có muôn ngàn lý do nói về những
cá nhân này: Anh ta đã chết bịnh ở một trại nào đó, năm nào đó. Ở trại X, anh
ta đã trốn vào rừng, nghe đâu đã chết rồi v.v…
2/ Đây là những anh đã
thực sự cải tạo tốt nhất; đã tố cáo mọi sai trái, để giúp đỡ những người chung
quanh tiến bộ, vì thế Đảng và nhà nước đã tha, cho các anh ấy về với gia đình
trước v.v… Niềm khích lệ, niềm cổ vũ cho những ai còn mơ hồ.
3/ Trong đám Biệt Kích
còn lại, có những người sâu sắc suy đoán: Có thể chúng đem 3 người đi vào rừng
thủ tiêu; chứng cớ chúng đưa đi 2 đợt, dù chỉ có 3 người. Gây ra những áp lực
ngầm lo sợ cho bản thân mỗi người, hãy ngoan ngoãn yên lành, chịu đựng như thế.
Nói về cái thủ đoạn lọc
lừa của cộng sản thì nói mãi cũng không cùng. Tôi nhớ lại một sự việc ở Hội
Nghị Genève 20-7-1954. cộng sản đã làm cho thế giới, trắng mắt ra mà nhìn.
Hội Nghị Genève có Ủy hội Quốc Tế 3 nước, một nước trung lập là Ấn Độ làm Chủ
Tịch, còn 2 nước ở 2 phe: cộng sản có Ba Lan, tự do có Canada.
Uỷ hội QT này có trách
nhiệm đôn đốc, kiểm tra, xem xét 2 phía, thực thi những điều khoản của hội
nghị. Riêng điều khoản, dân chúng 2 miền Nam Bắc vĩ tuyến 17 được toàn quyền, ở
lại hay sang phía bên kia sống, tùy theo ý muốn.
Đối với dân chúng miền
Bắc thì Ủy hội và thế giới khỏi lo: Vì chính phủ VC đã tuyên bố rõ ràng: Chính
quyền của chúng tôi từ dân mà ra, cho nên mục tiêu là phục vụ người dân. Nếu
dân muốn, không những chúng tôi làm theo mà còn tạo mọi điều kiện thuận tiện dễ
dàng, cho họ làm theo ý muốn.
Đến giai đoạn các điều
khoản bắt đầu có hiệu nghiệm thực thi. Trong hội nghị, những buổi liên hoan
tiệc tùng, họp hành cộng sản cũng đã tuyên bố rõ, nhất là với phái đoàn
Canada: Trên miền Bắc các ông có toàn quyền đi bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào,
ngày cũng như đêm để thăm hỏi dân chúng, có muốn di cư vào miền Nam.
Nhưng xin các ông cũng
thông cảm cho chúng tôi. Mới tiếp nhận, chúng tôi chưa đủ khả năng kiểm soát
được hết.
Chiến tranh vừa xong,
súng ống, đạn dược đây đó còn nhiều, chúng tôi chưa thể quán thấu. Do đấy, nếu
các ông muốn đi đến vùng nào, huyện nào xin các ông cho chúng tôi biết nơi và
thời gian chính xác, chúng tôi có trách nhiệm giữ an toàn bảo vệ cho các ông.
Các ông không còn lạ gì nữa, dân chúng mà mình chưa kiểm soát được, do những
căm thù riêng rẽ cá nhân. Họ dùng súng chỗ nào đó ”đoàng” một phát thì nguy
hiểm, chúng tôi cũng có phần trách nhiệm v.v…
Mấy ông tư bản của
chúng ta, cũng hiểu cộng sản có nhiều độc hiểm. Mình đi làm đây lương năm,
lương tháng lo cho vợ, cho con, cho bố, cho mẹ v.v… Xông xáo, xục xạo lắm,
chẳng giải quyết được cái gì, nhỡ không may thì khổ vợ, khổ con v.v… Vậy để an
toàn cứ nên làm theo họ (cộng sản). Vậy bạn đến một vùng nào đó, thậm chí một
xứ đạo nào đó, để thăm dò dân chúng. Bạn cứ yên trí là sẽ có những cuộc biểu
tình phản đối, nếu không là cà chua, trứng thối đón tiếp bạn.
Với những lời lẽ hợp
lý, chính danh:
- Các ông mơ hồ quá,
nước chúng tôi đã độc lập tự do, bao nhiêu xương máu mới giành được lại muốn
chúng tôi đi đâu v.v…
Tóm lại điều khoản đó
của hiệp nghị đã vô hiệu hóa với cộng sản.
Xin trở lại trại trung
ương số 1 phố Lu, Lào Cai.
Giai đoạn này chúng tôi
tất cả gồm 3 người tâm trạng chán chường, lo âu, trước mắt lại ăn đói, lại lầm
than khổ cực.. Vì thế ngay khu A chính trị, cách cái sân trại phía hàng rào bên
kia, chúng tôi cũng chả cần biết, còn các anh em tù chính trị miền Bắc nữa hay
không?
Chừng hơn một tháng
sau, gần Tết âm lịch, chúng tôi cũng tưởng sẽ ăn Tết ở K1. Chắc giai đoạn này,
diễn tiến ở bàn hiệp nghị Paris, chúng đã thấy có chiều hướng chắc chắn, giấu
bớt tù được. (Điều đương nhiên, chúng liên lạc chặt chẽ, thường xuyên giữa phái
đoàn cộng sản ở Paris với trong nước).
6. PHƯƠNG TRỜI GẬP GHỀNH
Một buổi sáng khoảng 8 hay 9 tháng 1-1973 tên Tập vào bảo
chúng tôi, mang hết chăn màn v.v… Ra tới cổng đã có một công an võ trang với
một cán bộ lạ; họ đưa chúng tôi lên một chiếc xe tải không có mui. Họ khóa tay
cả 3 người lại với nhau, chỉ định tôi ở giữa anh Bưởi và Lương. Có nghĩa anh
Bưởi và Lương còn một tay, riêng tôi cả hai tay đều bị còng, vì ở giữa hai
người. Trên con đường gập ghềnh, chiếc xe lắc lư, chao đảo như trong cõi lòng
héo úa, của chúng tôi.
Khoảng hơn 3 giờ chiều,
tôi nhìn về phía trước là một khu có nhiều nhà tre nứa, nhất là lại thấy một
khu rộng có hàng rào nứa dựng đứng thật cao. Chúng tôi đều hiểu đấy là một trại
giam. Xe đi tuột vào trong khu hàng rào nứa; khi xe ngừng tên cán bộ vẫy tay
bảo, chúng tôi xuống. Phần tôi, cả hai tay đều lằng nhằng, với anh Bưởi và
Lương, nên loay hoay mãi 3 chúng tôi mới xuống đất được.
Tên cán bộ mở khóa cho
chúng tôi, ra hiệu tay, hãy ngồi tại chỗ, ngay sân trại. Y quầy quả đi ra khỏi
cổng, vào một căn nhà ngay trước cổng. Tôi đưa mắt nhìn vào phía trong, rất
nhiều nhà lán sàn, lại chia ra làm nhiều khu. Một tên công an lạ, tay cầm miếng
giấy từ cổng đi vào, mắt y lừ đừ nhìn chúng tôi, rồi lạnh lùng :
- Ba anh là ĐCB, Lưu
Nghĩa Lương và Lê Văn Bưởi phải không?
Chúng tôi đều “dạ” nhè
nhẹ.
Y cộc lốc :
- Bỏ tất cả đồ đạc,
chăn màn ra, khám!
Cũng lúc đó một tên tù
từ phía trong đi ra, ôm theo một chiếc hộp hắc ín. Sau này tôi biết tên là
Bằng, trật tự của trại. Anh Bằng lục lọi quần áo, chăn màn chúng tôi. Bằng thấy
có dấu đầy đủ nên khẽ hỏi :
- Các anh ở trại nào
chuyển đến :
Tôi cũng nói nhỏ :
- Trung ương số 1 phố
Lu, rồi hỏi lại – Đây là trại gì thế anh?
Bằng nói vừa đủ để 3
chúng tôi nghe :
- Trung ương số 2 Phong
Quang, Yên Bái.
Theo lệnh của tên trực
trại, Bằng dẫn cả 3 chúng tôi vào một cái lán ở gần đấy, ngay ngoài sân trại.
Qua Bằng, tôi biết tên trực trại là Hường, y chỉ định cho chúng tôi 3 chỗ nằm,
rồi ngắn gọn :
- Sáng mai sẽ được phân
bổ tổ, toán!
Nhìn thoáng cả một căn
lán dài, cũng giống như những lán tù bên trại 1, có hai, ba, người đang nằm,
chắc là bịnh. Như tôi đã nói, phần vì mệt, phần khác cũng là phần chính, lòng
đang ôm một mối sầu rười rượi, nên mỗi người đều về chỗ nằm, cho hồn dập dềnh
vào biển đen, vùng Địa Trung Hải.
Những tiếng ầm ầm xôn
xao, tôi bò dậy, các toán đi làm về, đầy buồng ồn ào cơm nước. Cho tới tối, ngồi
nói chuyện với một anh chủng sinh tu sĩ bên cạnh, là Trần thế Khải người Hà
Nội. Anh cho biết, cha anh là Trần tứ Hải cũng bị bắt và cũng ở trại này, nhưng
ở toán khác, khu II ở bên kia. Qua anh Khải tôi biết sơ : Đây là phân trại B
của trại Phong Quang, phân trại A xây, là trại chính ở phía ngoài cách đây hơn
5 cây số.
Ngồi nói chuyện với anh
Khải, tôi để ý cách tôi mươi mét, phía chéo sàn bên kia có một bác già, từ nãy
cứ ngồi yên xếp chân bằng tròn nghiêm trang; thỉnh thoảng làm dấu thánh giá.
Anh Khải cho biết đấy là bác Túy, chánh trương một xứ đạo, bác chẳng nói chuyện
với ai, chỉ thường ngồi một mình đọc kinh lần hạt. Như thế trong buồng hơn 100
người, hầu hết là tù chính trị ở miền Bắc, 1/ 3 là công giáo hoặc tu sĩ chủng
sinh.
Sáng hôm sau, còn đang
chia sắn sáng, một tên cán bộ lạ đi vào buồng, đi theo có tên Bằng trật tự. Tên
cán bộ lạ có đôi mắt tí him nhập nhèm. Y chẳng đeo lon lá gì, chẳng hiểu y có
một uy lực như thế nào, khi y bước vào buồng, tiếng râm ran chuyện trò im bặt,
ai cũng nem nép khác thường. Y đến thẳng chỗ anh Bưởi và tôi, cười nửa miệng
nhìn chúng tôi, giọng Thái Bình rang rảng :
- Anh nào là ĐCB?
Tôi nhổm lên trả lời
nhè nhẹ :
- Thưa ông tôi!
Cái cười nửa miệng ngậm
lại, rồi y nghiêm giọng :
- Anh đi làm theo toán
mộc!
Y nhìn sang anh Bưởi :
- Anh là Lê Văn Bưởi?
Lưu Nghĩa Lương đâu?
Cũng là lúc Lương đang
lách khỏi 2 người, đến trước tên cán bộ.
- Thưa ông tôi là LN
Lương!
Y nhìn Lương vài giây,
rồi rành rọt :
- Anh theo trật tự về
toán 5; còn anh Bưởi về toán 10.
Nói xong, lật đật y ra
khỏi buồng, bấy giờ buồng mới râm ran, ồn ào trở lại. Qua anh Khải tôi được
biết, y tên là Tằng, anh em vẫn gọi là Tằng toét. Y là cán bộ giáo dục, nhưng
là một tên Hung Thần của trại Phong Quang này. Người ta vẫn thì thầm, thuật lại
: Y đã cùm chết chú ruột của y, gần 2 năm trước đây.
Đến giờ trại tập họp đi
làm, tôi theo toán ra ngoài sân trại. Trời ! Một cái sân trại to như thế mà
ngồi che kín khắp, toàn là tù; có lẫn 3, 4, toán là tù hình sự vì tôi thấy mấy
cậu trẻ, rách rưới lau nhau; có cậu đi chân đất.
Toán của tôi chỉ gọi là
toán mộc, có chừng hơn 20 người do anh Ngô Xuân Hòa làm toán trưởng. Khi toán
xuất trại, toán rẽ phía trái rồi tiến dần lên một cái đồi con, trên đó có một
cái lán mộc nhỏ, chừng hơn hai chục cái cầu bào. Chắc trong hồ sơ của tôi có
ghi về tay nghề, nên được cán bộ toán phân công làm cửa chớp. Tên y là Nguyễn
Đức Khẩn, đeo lon trung sĩ.
Buổi trưa toán về, vào
đến trại, thấy một nhóm gần 60 người ôm đồm chăn chiếu ở sân; hỏi ra là ở trại
Tân Lập chuyển đến. Mấy ngày sau, tôi gặp một anh ở Tân Lập tên Thành. Tôi được
biết trại Tân Lập có rất nhiều Biệt Kích, cũng mới chuyển đến. Họ được ăn bồi
dưỡng, chuẩn bị, để trao trả trong hội nghị Paris.
Có thể do ảnh hưởng
những diễn tiến của hiệp nghị Paris, không khí trong trại có một chút cởi mở.
Cụ thể những ngày cuối tuần, đã có một vài anh tù mở đường, mò từ khu nọ sang
khu kia chơi. Vài ngày sau, lại có một nhóm tù, từ trại Vĩnh Tiến chuyển về,
rồi lại một nhóm tù từ trại Nam Hà chuyển lên. Phần tôi tinh thần và thể xác cứ
như con gà rù, bao nhiêu diễn tiến của sự việc chung quanh, tôi nhìn như những
áng mây trôi trên trời. Tôi nhớ rõ, vào ngày 30 hay 31 tháng 1 năm 1973, ba
chúng tôi đã chuyển sang trại Phong Quang khoảng hơn 2 chục ngày. Một buổi sáng
sớm, tiếng loa ở cổng trại nheo nhéo những điệu nhạc, cũng khuôn khổ các tiết
mục của mỗi ngày như mọi khi (Hầu hết tù nhân chả còn để ý đến); bỗng một bản
tin đặc biệt là hội nghị Paris đã được 4 bên long trọng ký kết ngày 27-1-1973
v.v…
Một tia sáng loé lên
trong đầu, tôi xốn xang muốn xông xáo, chỗ này, chỗ kia để trao đổi sự kiện
này, với các anh em quen biết; nhưng tia sáng đó chợt tắt ngủm trong lòng tôi.
Họ đưa chúng tôi đến trại này, tức là họ đã giấu chúng tôi đi. Với sự hiểu biết
của tôi, về ý thức và cách làm việc của Mỹ và chính quyền miền Nam, tôi chẳng
có một chút hy vọng gì.
Tuy thế, khi tập họp
trại đi lao động sáng hôm nay, thái độ của các cán bộ có khác thường; mặt người
nào cũng trầm ngâm ít nói hẳn đi. Ngay không khí thái độ, của đám đông tù ngồi
ở sân, cũng trầm lắng khác mọi khi. Như vậy hiệp định Paris đã ký 27-1-1973, mà
mãi hôm nay ngày 31 đài mới nói tới.
Không hiểu đến bao giờ
chúng tôi mới có báo Quân Đội Nhân Dân và tờ báo Nhân Dân của Đảng để đọc, biết
qua những điều khoản, trong Hiệp Định. Tôi tin rằng toàn bản hiệp định, sẽ được
đăng trên 2 tờ báo này; trường hợp này công khai mà. Vả lại cộng sản đã chủ
động, thì họ phải có lợi rồi.
Kế sách giằng co của
chúng, đã có kết quả (Hầu hết các bàn cãi để ký, một hợp đồng hay hiệp nghị
nào. Kế sách của chúng là lì…. cò cưa). Từ trước đến nay, hầu như chúng ta đều
thua, vì chúng ta không có lòng nhẫn nại, cứ bàn cãi những cái cũ nhàm chán
mãi, mỗi ngày; có khi cả tháng, cả năm v.v… Sốt ruột, thôi phiên phiến cho
xong! Thế là lại rơi vào cái chủ trương, của chúng.
Chiều nay là thứ sáu,
tôi sẽ tìm cách lỉnh sang mấy khu 1 và 2. Thật là bao nhiêu người mới, sự việc
mới, đặc biệt được gặp lại một số anh em tù chính trị địa phương (Miền Bắc) cũ
ở trại phố Lu. Những người của muôn năm cũ, tưởng đã xa rồi…. không còn gặp lại
nữa như : Bác Nguyễn văn Tiến, Lê Phiến, Lê Liễu, bác Lẫm, Bùi Tâm Đồng, Trần
Nhu, Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện. v.v… Anh Vĩnh là một đại úy thời Liên
Hiệp Pháp, đã một lần tôi ngồi uống trà với anh. Anh Thiện ở toán già yếu do
tên cán bộ Khê phụ trách. Chiều chiều hoặc thứ Bẩy, Chủ Nhật, nhìn dáng anh
Thiện cao gầy, xách lon guigoz trà cáu ghét, đi đôi guốc lộc cộc ngoài sân. Mấy
anh Lê Văn Bưởi, Trần Nhu, Nguyễn Chí Thiện và Phùng Cung hay túm tụm chuyện
trò ngoài sân, tôi cũng mặc. Tâm trạng của tôi vẫn chui rúc trong sương mù dầy
đặc, như gà rù gặp chướng khí, nên chẳng muốn tiếp xúc tâm tình với ai. Hôm qua
tình cờ có một chút niềm vui, tôi mới quen được 4 anh :
- Nguyễn văn Đằng, –
Hoàng đình Vinh, – Tiệp và Thuần .
Hai anh Tiệp và Thuần
(mấy năm lục lọi cái trí óc cằn cỗi của tôi mà không thể nhớ, được họ của các
anh). Tôi nói về 4 anh này vì có nhiều lý do. Các anh là tù ở bên trại tù quân
đội (những người bị bắt ở miền Nam, rồi bị bí mật đưa ra Bắc). Ở trại tù quân
đội, hầu hết tù chưa hiểu cộng sản mấy, nên có quy chế tốt hơn.
Các anh lập kế vượt
ngục, chúng ráo riết truy lùng, nên đã bắt được. Để kỷ luật, chúng cho các anh
vào trại tù của CA, ở miền Bắc như chúng tôi, đã hơn một năm rồi.
Do quan hệ cá nhân,
tình người nên các anh và tôi rất quý mến nhau. Sau đó, các anh và tôi qua lại
chuyện trò thường xuyên hơn. Cá biệt, cậu Tiệp và tôi mỗi ngày mỗi tin tưởng
nhau hơn, để có thể nói với nhau những chuyện, không thể nói với nhiều người.
Tiệp khoảng chừng 26,
27 tuổi, là thông dịch viên trong quân đội (VNCH). Qua 4 người này, tôi biết
thêm trại Phong Quang này có hàng trăm Biệt Kích gián điệp. Sáu, bảy tháng
trước họ chia làm 2, một nhóm chuyển về trại Tân Lập, một nhóm về phố Lu, mà
tôi đã trình bày ở trên (52 Biệt Kích).
Vào khoảng giữa tháng
2, ban thi đua, đưa vào mỗi khu một tờ báo Quân Đội Nhân Dân và tờ Nhân Dân :
Đúng là cá đói lâu ngày được ăn, chen chúc, giành giật tờ báo, châu đầu vào đọc
ngấu nghiến. Tôi liếc sơ qua thấy có toàn bản các điều khoản của hiệp nghị
Paris. Để cho mọi người đọc, tôi trở về lán.
“Muốn ăn két thì phải đi đào giun”, tôi mò lên
phòng trật tự thi đua. Chỉ là một phòng xép ở trong, đầu hội trường, chừng 2 x
3 mét, kê vừa một cái bàn với mấy cái ghế. Thoáng nhìn thấy anh Bằng trật tự
đang cắm cúi đọc tờ Nhân Dân; tôi chào rồi lách cửa bước vào. Do thái độ tự
trọng, nhã nhặn của tôi, anh đã niềm nở tiếp chuyện. Chúng tôi đã quen nhau và
ngay chiều ấy, tôi đã mượn được tờ ND rồi mang sang lán bác Tiến ở khu 2, để
cùng đọc. Trên đường về lán, nhớ đến lời anh Bằng trật tự dặn khi nãy :
“Anh hay vào các khu
khác chơi, nếu gặp ông Tằng, đừng để ông ấy bắt gặp, hơi phiền đấy!”
Ông Tằng thì ai mà chả
ngán! Anh Bằng là trật tự thi đua, mà tỏ ra một người có tư cách. Nhiều tên
trật tự mặt cứ câng câng, thái độ như một tên ác ôn hay sừng xộ, với mọi người.
Hôm nay tôi đã miệt mài
đọc tờ báo mãi, có văn kiện Hiệp nghị Paris lập lại hoà bình, ở Việt Nam. Tôi
nhớ hình như có 9 chương và khoảng 22 hay 23 điều khoản. Tôi tìm ngay đến chỗ
trao trả tù binh, ở chương III. Trong chương này, tôi đọc kỹ điều 8a/ Trao trả
nhân viên, quân sự và dân sự cho 4 bên.
Mãi trưa hôm sau, thứ
Bẩy tôi mới thuận tiện sang thăm bác Tiến. Chỗ bác có Lê Phiến và Nguyễn quốc
Anh đang chuyện trò. Giở tờ báo tôi chỉ vào mục trao trả, những thành phần tù
nhân của 4 bên. Để cho bác yên tĩnh đọc và suy ngẫm, tôi liếc nhìn một tấm hình
ở trang 3, trang phụ có 3, 4 thanh niên trẻ, mặt tươi hớn hở, đến ghi tên xin
nhập ngũ ở bàn giấy thuộc huyện (không nhớ) tỉnh Hà Tây. Với dòng chữ to dưới
tấm hình : Hoan nghênh tinh thần xung phong, gia nhập bộ đội của đoàn viên,
thanh niên Huyện (Thanh Chương).
Chúng tôi nói chuyện
với nhau một lúc, bác Tiến bỏ báo xuống, rồi dịu dàng như nói chuyện với các
cháu con :
- Nội dung của bản hiệp
định này, không thể mổ xẻ một lúc mà sáng tỏ. Bác chỉ muốn nói những sự việc
chung quanh, nhưng nó lại không kém phần quan trọng, đối với cộng sản. Kế sách
của chúng là lắt léo, tráo trở, chúng phải tìm mọi kẽ hở, mọi mắt lưới, để
chúng đạt những kết quả, có lợi cho chúng. Dùng những câu văn, những từ ngữ lập
lờ, lắt léo, để có thể hiểu theo nhiều hướng.
Chúng nghiên cứu kỹ
từng dấu phẩy, dấu chấm; chấm chỗ nào và phẩy chỗ nào. Sau hết, bác muốn lưu ý
với các cháu, điểm này : Từ thế chiến I, II cho đến bây giờ, hầu hết các chính
khách, các nhà quân sự, đều có ý niệm chung về một hiệp nghị hòa bình (đình
chiến), là giai đoạn nghỉ ngơi, để lại sức rồi lại tiếp tục chiến tranh (đánh
nhau). Đấy là những người có đầu óc cảnh giác, lo xa, nhưng với cộng sản thì
phải nhớ điều này : Đình chiến là giai đoạn nỗ lực, đẩy mạnh, xúc tiến cho
chiến tranh cao nhất.
Nghe bác Tiến nói tới
đây, đúng vào một mối đang băn khoăn trong lòng tôi, cho nên tôi tỏ thái độ
muốn nói. Bác hiểu ý, nên nhìn cả 3 chúng tôi, hòa nhã:
- Bác cháu mình gặp
nhau là để đổi trao bổ sung, những kinh nghiệm và hiểu biết, cho nên các cháu
phải nói, phải hỏi, phải đặt vấn đề.
Tôi cầm tờ báo, nhìn Quốc
Anh, Lê Phiến rồi nhìn bác Tiến, mở trang 3, chỉ vào mấy tấm hình đoàn viên :
- Bác ơi! Cháu nhìn tấm
hình từ hôm qua, cháu cứ thấy một cái gì nó hơi không bình thường. Hiệp định
Paris vừa ký, mà cộng sản vẫn tuyển quân, rồi cháu lại vừa nghe bác lý luận
về hiệp nghị hòa bình. Từ chỗ băn khoăn lạ lùng, dần dần đến lo lắng bác ạ. Qua
lời bác nói, cháu cứ hình dung ở miền Nam, cuộc chiến vừa qua đã tạo thành
những khu vực, bản làng xen kẽ giữa 2 bên. Hầu hết bên phiá VNCH từ trên xuống
dưới, hành chính cũng như quân sự; dù người có lòng cảnh giác cao nhất thì cũng
phải nghỉ ngơi 1 tuần, mươi ngày, sau một cuộc chiến dằng dai hơn 15 năm. Nhưng
với cộng sản chúng chủ động ký bản hiệp nghị này, chúng đã chuẩn bị hàng
nhiều tháng, nếu không nói là hàng năm. Cứ nhìn cái đám tù Biệt Kích gián điệp,
chúng đã chuẩn bị hàng năm trước, trước khi ký.
Các lãnh vực khác, nhất
là quân sự, có những sự việc do những ngăn chận đối đầu của VNCH và của Mỹ,
chúng không thể chuyển hàng (vũ khí) chuyển quân theo yêu cầu, theo ý muốn của
chúng. Giờ đây là một giai đoạn, một thuở ngàn năm. Về quân sự : Sư đoàn này,
binh đoàn kia, vũ khí lương thực… Chúng cho lệnh bên Paris kéo dài, giằng co
điểm này, ý kia v.v… Khi tất cả các nơi, các chỗ tiếp ranh, các binh đội, súng
ống, xe cộ chuẩn bị xong chờ sẵn, bấy giờ cộng sản mới cho lệnh bên Paris ký.
Lúc đó là hàng sư đoàn,
hàng trăm xe cộ ào ạt tiến. Trong khi các nơi, các quân binh chủng của VNCH,
cũng đang chờ giờ ký, giờ hiệp nghị Paris có hiệu nghiệm. VNCH chuẩn bị chờ ký
để làm gì? Tiệc đã nấu sẵn; hoa, pháo và cả súng (bắn chào mừng) nữa đã sẵn sàng.
Khi giờ G đến, họ đều nhẩy lên, hoan hô, reo hò, mừng rỡ, cắm hoa đầu súng, thì
cũng là lúc phía bên cộng sản ngược lại. Để rồi… sẽ mang hận…. ngàn đời.
Chính tôi một buổi khác
đã nói trước bác Tiến và Trần Nhu (tù miền Bắc, hiện đang ở Wichita KS) : “Có
thể vì hiệp nghị Paris này, miền Nam sẽ mất!” Tôi không nói theo ngẫu hứng, mà
phải dựa trên những cơ sở cụ thể”.
Sáng hôm nay, cũng như
mọi buổi sáng, sân đầy tù đang chờ cán bộ gọi xuất trại, bỗng có tiếng nói trẻ
và rất trong :
- Bác Thiệu ơi ! Chúng
cháu mong bác ra Hà-Nội lắm!
Mấy tiếng cười rộ lên
của mấy cậu choai choai phía bên 4 toán hình sự, nhiều người tù chính trị, cả
mấy tên cán bộ đứng gần đấy, đều quay ngoắt sang đám tù hình sự. Nhưng rồi lại
chìm vào cái im lặng, với những nét mặt trầm ngâm.
Có lẽ còn rơi rớt cái
dư âm, của cái hiệp định Paris vừa ký chăng? Một luồng liên tưởng đã xông vào
giòng suy tư của tôi : “Bác Thiệu”! Nghe thật lạ! Có thể trong cái khuôn thước
bác Hồ ở miền Bắc, mà lũ trẻ đã bị ấn, nhét vào đầu từ khi còn ấu thơ? Bây giờ
chán chường, ghê sợ, kinh tởm bác này, thì tìm một cứu cánh là một bác khác, ở
miền Nam? Trong những cái đầu còn nhiều mầu hồng, mầu xanh của các em, chỉ biết
nhìn lên mây trời rồi gọi đại; chứ bác Thiệu làm sao xứng! Có chăng là cụ Diệm,
một người ít ra có khí phách cương cường, có lòng tự trọng dân tộc. Thà chịu
chết nhất định không thể chấp nhận, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Một người
có ý chí, đứng thẳng bằng chính đôi chân của mình, dù rằng cụ cũng còn một số
điểm, phải sửa đổi.
7. HUNG THẦN TẰNG TOÉT
Chiều nay tôi đang lửng lơ, khệnh khạng (buồn chán không
muốn làm gì cả) lắp ghép một cánh cửa chớp trên lán mộc, thì có tiếng ồn ào ở
phía dưới chân đồi, nơi có toán 4, đa số là tu sĩ chủng sinh, trong đó có bác
Túy, một ông Chánh Trương thường ngồi một mình đọc kinh, lần hạt, mà buổi đầu
tôi đến trại đã thấy. Toán đang đào một chiếc ao ngay phía trái của trại, hàng
tháng nay rồi, toán này bị hành, làm bùn đất.
Tuy đã giáp Tết nhưng
trời vẫn còn lạnh buốt, với những cơn gió mùa Đông Bắc, về muộn. Từ chỗ lán mộc
của toán tôi, trên một cái đồi con gần khu ban giám thị, nhìn xuống chỗ đào ao
xa, khoảng 6, 7 chục mét. Từ dưới ao chuyển đất lên bờ, tù đứng thành mấy dây,
để chuyền đất.
Qua dáng dấp, rõ ràng
bác Túy, có thể vì tuổi già, hơn nữa bác đã ốm bịnh mấy ngày ăn cháo, nên không
chuyển kịp đất. Tên Tằng (toét) từ cổng trại đi ra, đứng nhìn một lúc, rồi tay
y khua khoắng chỉ trỏ gì đó, tôi không nghe rõ; đột nhiên tôi thấy tên Tằng đạp
cho bác Tuý một cái, bác ngã sóng soài ra. Mấy anh chủng sinh chạy lại đỡ bác
dậy, nhưng tên Tằng không cho một ai đỡ bác; y bắt bác đứng vào đường dây. Tên
cán bộ toán, tên công an võ trang đứng gần đấy cũng không có thái độ gì. Bác
Túy lặc lè, xớ rớ vừa đứng dậy được; tên Tằng xông đến đạp một cái nữa. Bác lộn
từ ở trên bờ cao, lao xuống chỗ đất bùn, đầu cắm ngập xuống bùn. Chân tay bác
giẫy chới với ở trên không, mấy người chạy xô xuống định kéo bác lên, nhưng tên
Tằng quát to:
- Cấm không anh nào
được mó vào người anh ta!
Chúng tôi ở lán đứng
nhìn, cùng kêu giổ lên! May quá, đúng khi ấy Tôn đại úy (người miền Nam tập kết
chừng hơn 50 tuổi) giám thị phân trại B, từ trên khu giám thị đi ngang thấy
thế, ông ta quát:
-Ai kéo anh ta lên,
không thì chết!
Tên Tằng chạy lại kéo
tay tên đại úy Tôn (nói gì nhỏ, xa nghe không rõ), rồi một tay y chỉ về phía
cổng trại. Giữa lúc ấy tên Hòa, cán bộ toán mộc ra đuổi chúng tôi về chỗ làm.
Tan tầm, toán mộc của
tôi về ngang cổng trại. Bác Túy đang bị treo ngoài hè nhà trực trại, như cái
trống. Đầu và chân bác thõng xuống, không động đậy, hai tay bác bị bẻ giặt phía
sau lưng, treo lên mái. Những toán đi lao động về ngang đều nhìn thấy, tù nhân
chỉ lấm lét, nhìn nhau! Người tôi như đờ đẫn, tôi ghé vào tai Phùng Văn Tại:
- Nó sẽ hành bác Túy,
chết mất!
Mãi hơn 7 giờ, cơm nước
đã xong, tên Hường trực trại vào gọi toán trưởng của toán 4 (đào ao) ra nhà
trực. Hai mươi phút sau, Bằng trật tự và toán trưởng 4, khênh bác Túy về chỗ
của bác. Một số các anh chủng sinh và quen biết, xúm lại lau bớt bùn đất, đắp
chăn bỏ mùng cho bác. Bác không nói năng gì được nữa. Dưới ánh đèn không đủ
sáng, tôi thấy tay và mặt bác sưng tấy lên nhiều chỗ. Vài người có một số thuốc
riêng, cố cho bác uống. Nghe mấy anh lau rửa cho bác nói, ngực bác tím bầm sưng
to ở phía trên mỏ ác. Tôi cũng được anh em toán thuật lại: Ông Tôn giám thị ở
chỗ đào đất, bảo mấy người kéo bác Túy lên, nhưng tên Tằng toét đã hẩy tay ông
Tôn và nói nhỏ:
- Ông hãy về làm việc
của ông đi! Để tôi giải quyết!
Tên Tằng toét, có người
nói y chỉ có cái lon thượng sĩ thôi, thấy lạ, tôi mò mẫm tìm hiểu. Chính anh
Bằng trật tự đã cho tôi biết: Tằng chỉ là thượng sĩ, cán bộ giáo dục nhưng y là
bí thư đảng ủy. Ông Thích, thiếu tá Giám thị trưởng của trại Phong Quang này,
mà vẫn còn phải nể. Nhiều sự việc, tai nghe, mắt thấy để sự hiểu biết của tôi,
được nới rộng.
Tôi cũng lấy làm lạ,
không hiểu vì sao tên Tằng lại hành động dã man, với bác Túy như thế? Nghe dư
luận, hơn một tháng trước, khi bác Túy (Lâm Đình Túy), từ trại Vĩnh Quang
chuyển đến, cùng hơn một chục người tù khác. Trong lúc khám tư trang ở cuối hội
trường, chăn màn quần áo của bác Túy còn để đấy, nhưng không thấy bác đâu.
Chính tên Tằng, vào hội trường thấy bác Túy đang ngồi khoanh chân một mình dưới
đất trong một góc, mắt nhắm nghiền, miệng lẩm nhẩm đọc kinh. Y quát và kéo bác
ra sân.
Đột nhiên bác Túy tát
cho tên Tằng một cái. Vì bất ngờ, tên Tằng bị một cái tát như trời giáng. Mọi
người tù có mặt đều choáng hồn, xanh mắt, một việc chưa thấy ở nhà tù Việt
Cộng. Tên Tằng hùng hục đấm đá, rồi sai trói bác Tuý treo ngay ngoài nhà trực
trại.
Sáng mồng một Tết, tôi
dậy sớm ngồi trong mùng, đầu óc mông lung, rồi rũ rượi. Chợt một ý thơ xưa
(tiền chiến) chẳng nhớ rõ của ai, tôi xin phép cứ đổi đại, để phù hợp với lòng
tôi lúc này, miệng lẩm nhẩm cóc rỉ:
Xuân đã sang rồi… ai có
hay?
Tình xuân chan chứa… ý
xuân đầy.
Trại giam buồn lắm…
xuân không đến.
Chỉ đứng bên ngoài…
ngắm vào đây.
Xuân về mà lòng buồn
rười rượi; bao nhiêu điều ngược, xuôi trong đầu. Tôi có ý định bàn với anh Bưởi
và Lương, khi Tết xong, cứ lên cán bộ hỏi đại:
“Bây giờ đã có hiệp
nghị Paris thì giải quyết chúng tôi thế nào?”
Xem họ trả lời sao? Bật
dậy, gấp chăn màn, rửa mặt rồi lỉnh sang anh Bưởi và Lương.
Đầu tôi chợt lóe một
tia sáng! 4 anh chàng: Tiệp, Đằng, Vinh và Thuần có liên hệ, đến trại tù quân
đội; vậy thì biết đâu! Họ sẽ được về? Tôi phải thăm… hỏi!
Làm sao tôi quên một sự
việc: khoảng 10 giờ tên Tằng vào trại, hôm nay y gọi trật tự hô hào các buồng
ra sân trại chơi vui ngày Xuân (có thể y cũng vui vì Đảng của y đã ký được hiệp
nghị Paris có lợi). Y cố khích lệ, đem vào một quả volley, bảo anh em chăng
lưới. Rồi sai Bằng lấy một sợi dây thừng to, giở trò thi các toán kéo co.
Có thể tâm trạng của đa
số tù nhân, ngày Xuân dân tộc mà! Ủ rũ trong buồng thì buồn quá! Gia đình, cuộc
đời, đất nước, trăm thứ nó xé óc mình ra. Thì cứ vui đại cho quên đời v.v… Cho
nên anh em cũng ra đông, hò reo, chạy nhảy, chuyện trò. Tôi nhớ nhất về cái vụ
kéo co: 17, 18 toán toàn trại, thi kéo co với nhau. Cho tới chiều, toán thợ xẻ
là vô địch.
Toán này có mấy cái ưu
thế: kéo xẻ, việc nặng thường ăn mức 18 kg gạo, hai cánh tay chỉ có cò cưa suốt
ngày. Tên Tằng cũng tỏ vẻ bực bội với toán xẻ. Y nghĩ thế nào không biết, y lấy
chùm chìa khóa trong túi, lạch cạch mở cổng khu kiên giam hình sự: toàn những
tay đầu gấu anh chị, võ biền. Đội xẻ kéo co có 16 người, y vào khu kiên giam
hơn nửa giờ. Chả biết y kích bác ra sao ở trong đó, y chọn được 16 anh trẻ, ngổ
ngáo, tay chân xâm vẽ rồng, phượng, trông gớm ghiếc.
Y dẫn 16 cậu ra sân;
tinh thần thể thao của trại càng được khích lệ. Mấy chỗ bóng chuyền cũng dẹp,
để tụ tập vây quanh đám kéo co. Phần thưởng là 3 cái bánh chưng; với những
tiếng hò reo cổ vũ cho mỗi bên, cũng làm cho lòng ai, vài giờ quên đi…
Cái sầu vạn cổ, chất
trong hồn chiều nay…
Chất trong hồn… chiều
nay. Nhớ nhà châm điếu thuốc… Khói vàng bay lên mây… (Hồ Dzếnh).
Điều này cho tôi hiểu:
Cái hệ thống uy lực của đảng cộng sản! Thông thường, khu kiên giam chỉ có
lệnh trực tiếp của Ban giám thị trại, mới được mở cửa, thế mà tên Tằng, đã chả
coi BGT ra cái gì, do một cái hứng cá nhân ! Một ông đại úy giám thị một trại,
mà một tên thượng sĩ coi như cái móng tay, chỉ vì đảng.
Cuối cùng chức vô địch
trại, không một toán nào lấy khỏi tay toán cò cưa. Anh chị võ biền, ngổ ngáo mà
đói meo thì cũng đành nhìn mấy anh già toán xẻ, mà lồi mắt ra. Tên Tằng cũng ứ
ruột, máy tốt mà không có xăng thì cũng chào thua!
Như đã hẹn hôm mồng một
Tết với Đằng, Tiệp, Vinh và Thuần, chiều nay tôi ghé sang nhà A khu II. Ngày
Xuân còn rơi rớt, cũng có ca trà với mấy chiếc ly nứa con con, anh em hàn huyên
cho niềm Xuân trong tù bớt phần nào da diết. Hỏi thêm một vài chi tiết liên
quan, tôi gợi ý; nhìn các cậu, mắt ai cũng sáng dần ra. Anh Thuần tương đối lớn
tuổi, khoảng 44, 45, tỏ ra chững chạc, điềm đạm. Nhưng, hầu như anh chỉ thể
hiện, tình thương nỗi nhớ, vợ con là chính. Sau buổi nói chuyện, cả 4 người đều
dạt dào hy vọng. Phần tôi, với những điều tôi hỏi các anh từng chi tiết sự
việc, tôi cũng tin tưởng rất nhiều là 4 người sẽ về miền Nam.
Dù tôi hiểu họ cũng có
nhiều tính toán trong lòng, tôi vẫn nói đại ý: Dù sắp tới suy nghĩ một chuyện
gì thì cũng nên phòng hờ cả 2 trường hợp: tốt và xấu! Xấu là không được vể thì
sẽ tính sao? Còn nếu tốt là được về thì sẽ làm gì. Làm gì cũng phải phòng hờ 2,
3 hướng! Bây giờ trước mắt, trong vòng một tháng kể từ hôm nay, chúng ta đều
nghe ngóng, từng hiện tượng xem động tĩnh ra sao. Tùy theo tình thế diễn tiến
thế nào, bấy giờ bàn tính thảo luận mới thích ứng.
Riêng Tiệp, tôi hẹn một
ngày sang tôi, anh em mình sẽ nói tiếp, hiểu ý tôi nên Tiệp nhẹ gật đầu mà mấy
anh em kia không để ý thấy. Vả lại tôi và Tiệp cũng thường xuyên gặp nhau từ
trước, không như ba người kia. Khoảng 10 giờ tôi đang lơ mơ đi vào giấc ngủ,
bỗng nghe tiếng sang sảng, giọng Nghệ An rủng rẻng, xoáy vào đêm rừng, rõ như
hát:
- Nói dối trở thành
công khai, hợp pháp! Thầy nói thầy thương yêu trò lắm! Trò nói trò kính yêu
thầy lắm! Cả thầy lẫn trò đều hiểu là nói dối, nhưng cả hai bên đều chấp nhận
và nó trở thành hợp pháp, công khai!” Rồi có tiếng cười ròn sằng sặc…..như nắc
nẻ.
Thấy anh Trần Thế Khải
dậy đi đái qua, ngồi trong màn tôi hỏi với ra:
- Sao lạ vậy! Ở đâu, ai
mà dám nói thế?
Anh Khải ngập ngừng
đứng lại, thì anh Khẩn toán trưởng cũng nằm trong màn nói vọng ra:
- Cái anh chàng Bổn đó
mà! Ở ngay đầu lán A khu 1, nghe đâu anh ta bị bắt từ giữa 1954, đêm tối thỉnh
thoảng anh ta cứ hay lảm nhảm như vậy!
Nhẩm tính, anh này đã
tù 18 – 19 năm rồi còn gì! Chẳng hiểu anh ta tội tình gì? Gợi trí tò mò, định
tâm sẽ tìm hiểu nếu có dịp, trong những ngày tới.
Ngay phía sau lán mộc
của tôi, chỗ vẫn thường đi tiểu tiện; cạnh đó có một cây trò cụt. Cứ mỗi lần
đứng tồ, mắt tôi lơ đãng nhìn cây trò cụt; không hiểu vì sao nó cụt lưng chừng,
từ gốc tới chỗ cụt, chỉ chừng 1m50. Sau nhiều những trận mưa rừng rả rích, mãi
trong một góc khuất, sáng nay nó nảy ra 3 – 4 cái nấm trắng hồng ngồn ngộn, non
hơ hớ. Đúng là nấm mèo, loại nấm ở trại I tôi đã ăn nhiều năm, nhiều lần. Của
núi rừng tặng thưởng, mình phải biết nhận chứ!
Nghĩ như thế, tôi cố
tìm cách lại ra “tồ” lần nữa. Mắt trước, mắt sau tôi hái hết, giấu trong miếng
giẻ, đem vội vào cầu bào cất kỹ. Như “buồn ngủ gặp chiếu manh”, cả một buổi
làm, thỉnh thoảng như tôi muốn cười với gió núi, cây rừng; hứa hẹn sẽ có một
bữa ngất ngây tuyệt cú mèo. Tôi nghĩ đến chiếc ca tráng men đã cũ mèm, vẫn đun
pha trà 6, 7 nước, đến khi trà đã nhừ nát mới thôi! Nồi đấy, và đống lửa kia,
ôi sao cuộc đời hậu hĩnh!
Gần tới giờ chiều thì
chiếc ca nấm nóng hổi, đã sôi nhiều lần. Tôi đã lau chùi sạch sẽ, thương mến,
nâng niu như một cô nàng, ngọc ngà mỹ miều, đang nằm khuất trong góc cầu bào
rồi. Dù mùi thơm của nàng xì ra đã ngứa cả mũi, nhưng tôi cương quyết không
nếm, hay ăn thử. Chế ngự sự ham muốn của lòng mình, để mang về trại (tin tưởng
anh Bằng và khả năng ứng xử của mình). Chờ khi nào điểm xong, bỏ mùng, bấy giờ
ta mới mở nàng ra mà thưởng thức. Chỉ mới suy nghĩ thế mà cái tay bào thẳm thấy
khỏe hẳn lên, đẩy xoèn xoẹt phoi bào chạy ra văng tứ tung, như pháo bông ăn
mừng đêm dạ hội.
Tối đến cơm nước cũng
như mọi khi, đã vào nằm yên một chỗ trong dạ dầy. Tất cả đều diễn tiến, như đã
dự trù. Bỏ mùng sớm, từ nãy tôi vẫn ủ kỹ nàng trong người, bây giờ tôi mới êm
ái lôi tuột nàng ra chiếu. Sờ vào nắp ca vẫn còn âm ấm tay, chẳng cần ly bát,
thìa đũa làm quái gì, có phải mỡ, mắm đâu? Mắt liếc nhìn bóng người qua lại lờ
mờ phía ngoài mùng, tay tôi khe khẽ thò vào, lại thấy hơi nhơn nhớt. Nhón lẹ
một miếng, tôi ngửa hẳn mặt lên, há hốc miệng ra từ từ sẽ đưa miếng nấm vào…………
Nhưng mà ngọt quá, thơm quá! Ôi! Nấm mèo Yên Bái sao mà thơm ngon thế, hỡi núi
rừng! Tôi ngấu nghiến nhai, rồi cầm cả ca uống ừng ực.
Chỉ một phút đã sạch
trơn, sạch khô không còn một tí nước. Mặc cuộc đời, mặc thiên hạ tôi nằm đổ vật
ra, để thưởng thức cái của hiếm, của núi đồi sơn cước; để cho con tì, con vị nó
nhẩy nhót tự do, như chưa bao giờ nó hiểu thế nào là tự do. Nằm tơ mơ lòng vần
thầm nhủ: Xin cảm tạ rừng thiêng Yên Bái đã ban đặc ân cho tôi!
Nhưng cũng đất trời
hỡi, tự nhiên nhà cửa, đất trời quay như chong chóng, người tôi cứ giật lên
từng cơn, cả tay chân cũng giật. Tôi chỉ kịp nhấc được cái mùng rồi tôi nôn
thốc, nôn tháo xuống đất. Tôi chả còn biết ngượng ngùng, hay xin lỗi ai. Dưới
đất chỉ có một đống lá rau cải bắp già và nước đen đen, vàng vàng. Từng sợi
nhớt kéo dài từ đống nôn, nối dài tới miệng tôi, tôi không còn biết ngượng nữa,
và tôi cũng không biết gì nữa.
Mãi khi tôi lơ mơ nhìn
thấy ánh nắng, và bóng anh y tá đẩy cửa bước vào. Anh y tá này tên là Kiệt
người miền Nam, anh nói nhưng mặt lại lạnh lùng:
- Đù mẹ, tôi tưởng đêm
hôm qua anh chết rồi chứ!
Quá nhiều nỗi niềm
trong lòng, nên tôi im luôn, chả nói năng gì! Tôi muốn hỏi anh vì sao tôi lại ở
đây, mà bây giờ tôi đã biết đấy là buồng y tế, ở mãi gần nhà kỷ luật. Thấy thái
độ của anh ta như vậy, tôi đành nuốt mọi thắc mắc vào trong lòng. Anh ta cũng
đóng, rồi khóa cửa đi luôn. Mãi hơn 1 giờ sau, Y trở lại với tên Hường trực
trại, bảo tôi hãy đi về lán. Do lòng không vui nên tôi cố gắng kéo người ngồi
dậy, để chân xuống đất tìm dép nhưng chợt hiểu, nên tôi gắng đứng dậy, tập tễnh
chân không đi về lán. Phải đến hơn 100m, lưng chừng có anh Bằng trật tự ghé
đến, dắt tay tôi.
Về đến lán chưa nằm ấm
chỗ, khoảng hơn 10 phút thì ông Tôn giám thị, đi theo có tên trực trại Hường
bước vào lán. Nghĩ đến tấm lòng của ông Tôn hôm sự việc bác Túy, tôi cố bò dậy
thể hiện một thái độ nhỏ với người có lòng. Yên lặng 5-10 giây, y liếc khắp lán
một lượt quay lại, vẻ trang trọng:
- Anh phải thành khẩn
biết ơn Đảng và nhà nước, đã cứu sống anh đêm qua!
Tôi tỏ ra thành khẩn,
nói trong niềm xúc động:
- Tôi xin cảm tạ Đảng
và nhà nước đã đặc ân cho tôi!
Trong lòng tôi lại nghĩ
thầm:
“Như tôi đã thành khẩn
cám ơn rừng thiêng Yên Bái, đã ban đặc ân cho tôi.”
Trước khi ra, y còn
nói:
- Anh hãy nằm xuống đi,
phải nhớ chú ý, cẩn thận ăn uống sau này!
Như tôi đã có chủ
trương từ trước, sẽ lên hỏi thẳng cán bộ, Hiệp định Paris đối với chúng tôi thì
sẽ như thế nào? Tôi cũng có nhiều lần bàn với anh Bưởi và Lương rồi; nhưng cứ
lần lữa, rụt rè ngày này qua ngày khác. Bây giờ đã giữa tháng 3, từ ngày ký
hiệp nghị Paris đã một tháng rưỡi rồi, mà không ai nói gì đến chúng tôi cả.
Trong dạ chúng tôi đều
đinh ninh, những anh em Biệt Kích ở trại trung ương số 1, đã được về miền Nam
rồi. Không do dự ngần ngại nữa, một buổi sáng tôi thấy ông Tằng (tôi đã biết là
bí thư Đảng, ông Tôn Đại Úy giám thị không quan trọng). Tôi xông thẳng vào cửa
chính, hỏi ngay tên có quyền, tôi tiến lên tới chỗ ông Tằng. Y quay lại tôi,
mặt hơi ngạc nhiên.
- Thưa ông, tôi muốn
gặp ông; khi nào thuận tiện ạ?
Mặt y tươi hẳn, nói nhè
nhẹ:
- Anh về chỗ, hôm nào
tôi sẽ gọi! Anh tên gì?
- Thưa ông tôi là ĐCB,
người của VNCH bị bắt!
Ngay chiều hôm ấy, sau
khi anh Khẩn toán trưởng đến cán bộ toán báo cáo công việc thường lệ. Anh quay
xuống hàng toán đang ngồi, đến chỗ tôi:
- Anh Bình ở lại, gặp
cán bộ!
Về lán, cũng hơi hồi
hộp, nhưng lại nghĩ tới nguyên tắc: “Không liều không có cái gì cả!” Bây giờ
hãy cứ xông đã!
Xuất trại xong chừng
nửa giờ, anh trật tự Bằng vào buồng gọi tôi ra cổng trại. Tôi ra đến nơi, cán
bộ trực trại Hường, đứng từ nhà trực trại, chừng 15-20 mét vẫy tay. Chắc có sự
hợp ý trước, tên công an võ trang gác cổng chỉ nhìn tôi gật đầu. Tôi tưởng gặp
trực trại Hường, nhưng khi tới nơi, y ra hiệu tay, tôi đến cửa một gian buồng,
ngăn đôi với phòng trực trại. Bên trong, có tiếng nói lão Tằng:
- Cứ mở cửa vào!
Phòng rất đơn giản, chỉ
có hai cái bàn to và nhỏ, tên Tằng cầm bút ngồi ở cái bàn to, trước mặt cũng có
một ghế đẩu cho bị can ngồi, như phòng hỏi cung. Trong góc có chiếc bàn con và
chiếc ghế, chắc cho tù ngồi viết báo cáo hay kiểm điểm. Mắt tên Tằng có cái
lẹo, thành ra mắt lão nhìn như chỉ mở một nửa, hơi nhếch mép cười hỏi tôi:
- Anh muốn gặp tôi làm
gì?
Trong túi tôi đã mang
sẵn tờ báo ND có đăng bản Hiệp nghị Paris; nhưng tôi chưa lấy ra tôi hỏi thẳng:
- Thưa cán bộ, bây giờ
có hiệp nghị Paris, nhà nước sẽ giải quyết tôi thế nào ạ?
Tên Tằng toét đứng xổ
dậy, thái độ vẻ hùng hổ, mắt y càng nhắm lại. Y tiến đến chỗ cái bàn con trong
góc, lật mấy tờ báo rồi lôi tờ ND, ném xuống bàn trước mặt tôi, giọng như riễu
cợt:
- Đâu chỗ nào, nói trao
trả các anh?
Mở tờ báo, liếc nhìn
điều 8a, tôi chỉ vào giọng tin tưởng:
- Thưa ông đây ạ! Điều
8a đã nói rõ ràng: Trao trả lại người của 4 bên!
Mặt vênh lên, mắt y
càng nhắm lại:
- Đọc kỹ lại đi! Anh là
người Việt Nam hay là người nước ngoài?
Tôi hơi chột dạ, tuy
vậy vẫn cúi xuống đọc: Nhân viên quân sự, dân sự nước ngoài bị bắt…. Tôi hơi đờ
ra vài giây, vì bất chợt, nhưng tôi đã nói ngay:
- Thưa ông, theo công
pháp quốc tế thì VNDCCH và VNCH là 2 chế độ chính trị khác nhau là 2 nước khác
nhau!
Tôi mới nói tới đây y
dõng dạc gạt ngay:
- Hội nghị Paris để
giải quyết cho người nước ngoài, không phải giải quyết cho người VN. Thôi anh
hãy về suy nghĩ cho nó kỹ! Anh không hiểu biết gì cả! Đừng có suy nghĩ viển
vông!
Nói rồi, thái độ của y
như muốn đuổi tôi về. Tôi không thể quên được một việc này. Khi tôi đã bước ra
cửa, để về trại, y gọi giật lại rồi chỉ vào tờ báo:
- Có mục giải quyết cho
người Việt Nam, đây này!
Tôi cắm cúi đọc điều 8c: Về vấn đề trao trả các nhân viên
dân sự Việt Nam, bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam, sẽ do hai bên miền Nam, giải quyết.
Không biết rằng các ông
ký hiệp nghị kể cả Mỹ, có hiểu rằng làm sao tù, dám cãi lý tay đôi với cán bộ
giam giữ?
Các ngài, các quý vị
có biết rằng với VC: Cũng cùng một sự việc! Quý vị thảo luận, bàn cãi thêm bớt
điều này, khoản kia, quý vị nói chuyện với chúng ở đâu? Ở ngoại quốc, ở nước
các quý vị, ở VN hay ở trong tù, là hoàn toàn khác nhau. Tôi xin tường thuật
lại một sự việc cụ thể, mà tôi là nhân chứng cho sáng tỏ: Vụ việc của anh Trần
Thế Khải. Anh là một chủng sinh tu sĩ, bố là ông Trần Tứ Hải cùng ở Hà-Nội. Cả
hai bố con đều bị bắt, từ đầu năm 1964. Khoảng năm 1974 – 1975, tôi gặp hai cha
con đều tù ở phân trại B Phong Quang. Sau khi VC cướp được miền Nam, thì chúng
thả ông Hải về cuối năm 1975, anh Khải thì vẫn còn ở tù.
Đầu năm 1976, anh gửi
một lá thư lén lút (qua những người đi tiếp tế), về cho ông bố là Tứ Hải. Thư
hợp pháp, là thư tù viết mỗi tháng một lần, gửi cho thân nhân. Với điều kiện,
thư viết xong để vào bì thư, không được dán. Đưa cho cán bộ duyệt xét, rồi cán
bộ gửi đi. Tù nhận thư gia đình, cán bộ cắt ra, duyệt xét. Lá thư chui, anh
Khải đã nói ý với bố, hãy hỏi cho ra nhẽ. Hiến pháp của VC có ghi rõ ràng,
quyền tự do tôn giáo. Muốn tu hay tôn thờ đạo nào, là quyền của mọi người; vậy
tại sao, anh chỉ đi tu dòng thôi, anh đã tự hiến dâng mình cho Chúa, mà Đảng và
nhà nước đã bắt giam giữ anh, hơn 10 năm rồi?
Không biết vì sao lá
thư chui của anh Khải, bị ban giáo dục phát hiện. Trước 4, 5 toán trong toàn
khu II, phân trại B. Ban giáo dục do Tằng Toét triệu tập, để tố anh Trần Thế Khải
đã vi phạm nội quy, trầm trọng.
Trong buổi truy ép này,
anh Khải phải đứng riêng một chỗ, cho mọi người “nhằm” để truy ép, phát biểu.
Có thể kỳ này VC đã chiếm được miền Nam, những kìm kẹp, o ép trong xã hội đã có
phần lới lỏng, (trước đây, nó cứ đưa đi cùm, chẳng cần sinh hoạt) anh Khải phát
biểu, rất hùng hồn:
- Thưa cán bộ: Hiến
pháp của nước nhà, Đảng và nhà nước đã công nhận, quyền tự do tín ngưỡng; vậy
tôi đi tu thì có tội gì?
Lời phát biểu rất lạ ở
trong tù tôi chưa được nghe, trong khu này có hơn 1 chục tu sĩ chủng sinh, đang
ngồi như: anh Phạm Sĩ An, Nguyễn Thanh Đương, Phùng Văn Tại, Nguyễn Quốc Anh,
Nguyễn Xuân An, Phạm Xuân Thi.v.v… Mặt ai cũng hồng lên như thêm khí thế mới!
Tên Tằng Toét, dõng dạc, bước đến gần anh Khải, rồi quay lại anh em, y khoắng
tay gằn giọng:
- Đúng! Đúng chế độ
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nguyên tắc sống, một triệu lần ưu việt hơn
bất cứ một chế độ nào: mọi người không ai ăn bám ai!
Ngừng lại một tý, rồi y
quay lại, cao giọng hỏi cả buồng:
- Các anh có đồng ý như
vậy không?
Cả buồng ồn ào lên
tiếng:
“đồng ý ạ”
Y quay lại anh Khải,
nhấn mạnh lần nữa:
-Anh có đồng ý cái
nguyên tắc, đó không?
Anh Khải cũng dõng dạc
trả lời:
- Tôi rất đồng ý!
Tên Tằng cười nửa
miệng, y tiến sát anh Khải hơn, cầm cái ve áo của anh, y hằn học:
- Anh có làm được, cái
áo này không?
Mặt anh Khải vừa đỏ mặt
lên,vừa lắc đầu. Y lại chỉ đôi dép râu, anh Khải đang đi:
- Anh có làm được, đôi
dép kia không?
Anh Khải lại lắc đầu! Y
quay lại nói giọng đều đều.
- Cái kính anh đeo, bát
cơm anh ăn, anh đều không làm được. Người khác đã làm cho anh! Vậy anh cũng
phải có trách nhiệm, với người khác. Nghĩa là, anh cũng phải như mọi người dân,
cũng phải đi nhân công, thủy lợi. Anh cũng phải đi nghĩa vụ quân sự, như mọi
người!
Hầu hết anh em, trong
đó có tôi đều ớ ra. Tôi định giơ tay phát biểu. Nhưng tôi chợt tự hiểu, tôi
đành nuốt xuống, rồi ngồi yên. Tôi tin hầu hết anh em khác, cũng tự hiểu như
tôi, kể cả anh Trần Thế Khải.
Nếu được tự do bàn cãi
tranh luận thì ai cũng thấy: Trong vấn đề liên đới xã hội, không một ai có thể
làm hết mọi nhu cầu của mỗi người. Vậy người làm cái này, người làm cái kia tác
động qua lại vậy thôi, chứ từ xưa có ai ăn bám ai đâu? Cho nên, người nào đặt câu
hỏi như vậy, là không hiểu gì về sự tương quan của xã hội, nếu không nói là
ngu! Nhưng đấy là tự do bàn cãi. Chứ anh là người dân trong chế độ VC, nhất là
tù nữa thì phải biết điều, nó khác hẳn nhau đấy. Không biết thì ráng mà chịu,
đừng có kêu trời! Kết quả buổi truy ép anh Khải: Anh nhận vi phạm nội quy đã
viết thư thắc mắc điều sai trái. Anh phải nhận 2 tuần kỷ luật, 6 tháng không
được viết thư và nhận quà tiếp tế, của gia đình.
Do những chồng chéo
liên hệ, để chế độ Độc Tài cộng sản còn duy trì, do đó chúng bị một số sức ép
bên ngoài nên khoảng 1981 – 82 đa số các tu sĩ chủng sinh còn sống, được tha
về. Người lập gia đình lấy vợ con, có người vẫn lén lút, tận hiến mình cho
Chúa. Để rồi phải luồn lách, dưới nhiều hình thức, cuối cùng thụ phong linh mục
“chui” được một số vị.
Phần anh Trần Thế Khải,
1982 anh được về nhà ở đường Ngô Thời Nhiệm, anh tiếp tục tu ở nhà thờ Hàm
Long. Rồi được thụ phong linh mục chui do Đức Giám Mục Nguyễn Kim Điền. Sau đó
được chính thức, về làm cha xứ ở nhà thờ cửa Bắc. Hai năm trước đây, đầu 2002,
linh mục Khải bị ” stroke” liệt hết nửa người, linh mục đã trở về nhà chung của
nhà thờ lớn để dưỡng bệnh. Bố của anh, là ông Tứ Hải đã chết từ năm 1985.
Xin trở lại chuyện của tôi, với Tằng Toét. Trên đường vào
trại, tôi vừa buồn vừa ức. Buồn vì sự việc đã rõ ràng, họ giấu mình, họ không
muốn trả mình! Ức vì “Con dại cái mang” Bố
mẹ có tài có của, thì con cái được nhờ! Ngược lại bố mẹ đã không khôn lanh,
hiểu được kẻ thù, lại vô trách nhiệm, thì con cái ráng mà chịu. Nhất lại là
những đứa con, đã bị bỏ rơi như tôi!
Tuy vẫn đi làm (không
đi làm không được) nhưng lòng buồn rã rượi. Trong lòng lại cứ hình dung, các
anh em Biệt Kích ở trại 1 bây giờ, đang tíu tít chìm ngập vào một trời mầu sắc
huy hoàng, của miền Nam. Tôi cũng đã cho anh Bưởi và Lương biết sự tình. Chúng
tôi cùng nhìn nhau, bằng đôi mắt đờ đẫn, không còn sinh khí.
Mới được 3 – 4 ngày,
một buổi sáng, Hường trực trại vào gọi tôi ôm chăn chiếu, chuyển về toán 6
(toán rau xanh). Tôi ôm chăn chiếu đi, và tự hiểu: Họ không cần nghề nghiệp gì
cả, dù tôi có nghề mộc vững. Họ đầy ra chỗ cứt đái, đất cát, để tự ngẫm, tự
thấy vì sao? Tôi ngồi đăm chiêu một lúc, rồi lòng như cứng lại: Không sao cả!
Hãy gồng mình lên, đón nhận những trái đắng, mà mình đã tự nguyện gieo!
Toán rau, do một cán bộ
tên Mão phụ trách, dáng y lùn lùn nhà quê đặc sệt. Tôi được phân công tưới,
tiêu một số vườn cà, đậu, gánh gồng cứt, nước đái, ruồi, bọ tiếp xúc hàng ngày.
Có những buổi tôi đứng
giữa trời bao la, bên cạnh những hố phân và nước tiểu, nghĩ suy: Một đời người
của bất cứ ai, đều phải có những giai đoạn khó khăn, và những giai đoạn thuận
tiện. Điều quan trọng khi gặp giai đoạn khó khăn, hãy vận dụng trí óc tìm ra
phương cách, để chuyển đổi thành giai đoạn thuận tiện. Bây giờ, theo họ là tôi
đang bị hành! Tại sao tôi không biết thưởng thức, cái tuyệt vời của thiên
nhiên? Bình minh và hoàng hôn diệu kỳ? Mây chiều, gió núi và những sinh hoạt
của sinh vật của đất trời, dù cho là con bọ, con bướm, con sóc, con trùng?
Rồi những ngày sau, tôi
đã tìm ra những phương cách cải thiện: Cà luộc, cà nướng, đậu luộc, đậu nướng,
mùa nào thức ấy, tôi qua mặt hầu hết! Khéo léo tôi kết hợp với anh Vàng Dơi,
một người dân tộc Mèo, trong toán chúng tôi lại được về một tổ, cùng làm một
công việc, thật là hết ý.
Đã có những con Cuốc
gọi vào Hè; hàng ngày tôi chỉ đánh có cái quần đùi, còn trần trùng trục, ngoài
vườn rau. Giữa thanh thiên bạch nhật, cán bộ, công an võ trang ngồi gác cả các
khu vườn rau rộng. Tôi nằm ngửa, trườn vào giữa vườn ớt, vườn cà, (nếu ngồi sẽ
thấy đầu nhấp nhô) tha hồ với tay chọn những quả, ưng ý nhất.
Tôi chỉ mặc mỗi cái
quần đùi, có 2 lý do:
1) Mọi người từ cán bộ
trại, toán trưởng tự hiểu, tôi không thể giấu đút được, một cái gì; mà lại ra
vẻ chịu khó lao động.
2) Tôi khâu một cái túi
nhỏ dài chừng 18 – 20 phân, rộng 6 – 7 phân, miệng túi khâu liền vào cạp quần
phía trong. Cái túi lủng lẳng, khoảng giữa “tổ chim”. Thôi thì thượng vàng, hạ
cám, toàn những thứ quốc cấm đầu mùa, vừa non, vừa ngon, kể cả ban giám thị
cũng chưa có ăn, như ớt, cà, đậu v.v… Tôi cho vừa đủ vào túi, nhìn bên ngoài
không có một hiện tượng khả nghi. Khi về cổng trại, cán bộ, cũng như trật tự
thường chú ý khám xét, những anh quần áo rườm rà, ôm xách lềnh khềnh. Tôi chỉ
mặc cái quần đùi, tay cầm một cái ca uống nước cũ mèm, nhiều khi tôi để vài cái
rau già, có khi mở nắp đường hoàng v.v…
Tóm lại, giai đoạn này
tôi không còn đói như trước đây, cơ thể của tôi còn được bồi dưỡng. Rau, trái
ngon đầu mùa, thứ mà hơn một chục năm, cơ thể tôi không có (chỉ ăn muối rang là
nhiều). Tôi cũng muốn cho, những bạn bè thân quen được hưởng ít nhiều, nên mới
có cái túi bí mật trên. Một buổi vào giữa hay đầu tháng Tư, Tiệp sang tôi với
đôi mắt long lanh, ghé tai tôi thì thầm:
- Anh nhận định rất
đúng, hôm qua cán bộ gọi chúng em, họ chuẩn bị trao trả về miền Nam. Cán bộ căn
dặn tuyệt đối không được nói, với bất cứ ai.
Tôi đờ người suy nghĩ:
vui, buồn, lẫn lộn. Bốn người được về, thì mừng cho anh em rồi, nhưng điều đó
càng khoét sâu những nỗi niềm riêng, trong lòng mình.Tôi đề nghị hôm sau gặp
lại Tiệp, rồi chuẩn bị, trang bị, tư tưởng, quyết tâm, phương cách kỹ thuật
v.v…
8. HY VỌNG TREO TRONG MƯA
Sau những thăm dò, gợi ý, tôi và Tiệp đã bí mật thỏa thuận
một kế hoạch, do khả năng vận động điều hành của Tiệp là chính.
Để vớt vát phần nào
danh dự cho vụ cướp phi công, ở Sơn Tây 11/1971 Mỹ đã thất bại chua cay, để cổ
vũ khích lệ cho những người có tinh thần chống đối, trong chính quyền cũng như,
ngoài nhân dân. Chuẩn bị, dự trù, sơ lược :
Phương tiện : Chỉ cần 3
máy bay trực thăng, loại cơ biến tối tân nhất, bất ngờ đột nhập từ phiá Lào
sang.
- Hai cái, có nhiệm vụ
bắn phá, kìm hãm mấy cơ sở bộ đội và Công An Nhân Dân, trong bán kính 5 km.
- Một cái, sẽ đáp xuống
sân trại tù Phong Quang, Yên Bái để giải cứu chừng 8 – 12 người tù.
Thời gian quy định tối
đa 30 phút (từ lúc đến tới lúc đi) vào đêm, từ 1 – 3 giờ ngày 15 mỗi tháng. Tám
đến mười hai người này, dấu hiệu : Khăn trắng buộc cánh tay trái. Khẩu hiệu :
Hỏi : Đi đâu? Đáp : Hải Phòng!
- Tám đến mười hai
người này, ngoài những nhiệm vụ thức đêm của ngày 15 mỗi tháng, từ 1- 3 giờ,
cùng hô hào, phá vách, phá cửa. Tùy mỗi người tù, tự ý giải quyết đời mình.
Ngăn chặn bất cứ ai không đúng mật khẩu quy định, xông vào máy bay.
Mục đích chính : Cổ vũ
khích lệ cho những người có tinh thần chống VC, trong chính quyền cũng như
ngoài nhân dân.
Nếu thành công, 8-12
người tù thì nhỏ, nhưng về chính trị sẽ to lớn đến trăm, ngàn lần. Cuối cùng,
tôi còn nhắc Tiệp : Về tới miền Nam, phải nỗ lực xúc tiến, nỗ lực ưu tiên cho
kế hoạch.
Sáng ngày 20-5-1973,
trước sân trại đông đầy các toán. Đông đủ cán bộ trại, có mấy cán bộ lạ, họ đã
đọc tên 4 người : Đằng, Vinh, Tiệp, và Thuần được tha về miền Nam, theo hiệp
nghị Paris, để hoà giải dân tộc. Bốn cậu đều được mặc quần áo nâu mới, một túi
xách, tôi chỉ kịp thời nói riêng với Tiệp một câu :
- Tháng 7 bắt đầu!
Một chiếc comanca đã
đợi sẵn ngoài cổng trại, phần tôi với bao công trình bí mật, chuẩn bị với các
buồng. Những ai là hạt nhân, cốt cán đã được tôi luyện, thử thách.
Sau khi 4 người đi cũng
có nguồn tin, có khi ra ngoài kia (cách trại 5 – 7 cây số) đã có xe khác đón
đi. Hoặc chính chiếc comanca đó, ở cổng trại sẽ đưa các cậu, về một trại giam
khác (Điều này trước đấy, đã xẩy ra nhiều ở các trại). Có những người tù được
tuyên bố tha ở trại này, dăm ba năm sau lại gặp ở một trại khác.
Chừng 5 tháng sau ngày
Tiệp về, có một em hình sự bí mật cho tôi biết : Do gia đình tiếp tế nghe đài ở
Sài Gòn, Tiệp có họp báo ở SG, Tiệp được thăng cấp là trung úy. Nhưng còn chúng
tôi, từ tháng 7-1973 cứ mòn mỏi, khắc khoải băn khoăn mãi, cho tới khi mất miền
Nam, mới hiểu được gần đúng cái nguyên nhân tại sao!
Bây giờ đây (March 04)
anh chàng Tiệp ở nơi nào, còn sống hay đã đi về với gió bụi? Ở nước ngoài hay
còn ở trong nước? Tại sao ngày ấy lại lơ là, bỏ quên hở Tiệp? Lý do nguyên nhân
thì nhiều lắm! Nhưng tôi vẫn mong ước, muốn nghe đích xác vì sao? Để phần nào
lấp đi những nỗi niềm, gần 2 năm vò xé khắc khoải của cõi lòng, của mỗi đêm
ngày 15 mỗi tháng?
Dù ở cảnh ngộ nào, khi
trong lòng có niềm hy vọng, thì tinh thần sảng khoái, nét mặt sẽ lộ đầy sinh
khí. Tôi vẫn đi lao động hằng ngày, nhưng với một tinh thần năng nổ, lạc quan
khác mọi khi.
Sáng nay, trời trong
xanh, không một vẩn mây; ngước mắt nhìn khắp bầu trời, lòng tôi nao nao yêu
trời, yêu đất, yêu thiên nhiên lạ thường. Bên cạnh một hố phân to, với những
phân đánh đống trên bờ. Hôm nay tôi và anh Vàng Dơ, thay phiên nhau anh đi
tưới, còn tôi đảo phân dưới hố, và đắp che lại những đống phân, ở trên bờ.
Trời cao lồng lộng,
rừng rộng, núi cao, chỉ một mình tôi với trời. Đột nhiên nghe vi vu, re re như
một tổ ong bị vỡ; rồi ríu rít, vù vù, một đàn sáo sậu đến 3, 4 chục con, bay sà
đến đậu ở cây muồng mun, duy nhất của vườn rau, cạnh hố phân. Chẳng biết chúng
có phiên họp, hay những cuộc hẹn hò gì, mà cứ như cái chợ.
Chúng nhẩy nhót lung
tung, chuyền cành, mỏ thì ríu ra, ríu rít. Lại một đàn sẻ, cũng từ mãi phía căn
nhà con, của cán bộ Mão, rào rào bay đến. Tôi vẫn cắm cúi giấn sâu cái cần đảo,
xuống giữa hố, để đẩy những đống phân đóng cục lâu ngày. Chưa được mươi phút,
một đàn sáo đá đến hơn chục con ở đâu cũng lướt đến.
Thấy khác thường, những
ngày trước cũng có những đàn chim, mò đến cây muồng này, nhưng không nhiều như
hôm nay. Ở trên cây, chúng nó cãi cọ nhau như mổ bò, nhưng dù sẻ hay sáo hầu
hết chúng cứ chằm chằm, nhìn tôi đang đảo phân. Tôi có cảm tưởng, như chúng nó
muốn nói gì với tôi. Nhìn những con bọ đang lềnh bềnh, bơi trên hố phân. Lại
nhìn một đống bọ trắng hếu, chảy dài như một giòng suối con, từ trong đống phân
chảy ra, tôi chợt hiểu, chính vì những chú bọ này. Tôi phải biết điều, nhìn lên
cây muồng chỗ đám chim, như tôi muốn nói với chúng :
- Xin mời các quý vị,
tôi thật là dốt, tôi có biết đâu!
Tôi bỏ cần đảo phân,
rồi chạy chui vào vườn ớt, ngồi im. Đúng như rằng, sau vài phút nghe ngóng,
chúng rào rào chúng bay xuống hố phân, đống phân trông cứ như… một đàn chim
rừng nhiều loại!
Thiên nhiên cũng lạ
lùng! Đàn nào nó ra đàn nấy, không hề lẫn lộn, để ý nhìn, tôi chưa thấy con sẻ
lại nói chuyện với con sáo. Hoặc ngay sáo sậu với sáo đá, chắc cũng cùng họ
hàng giòng giống với nhau, vậy mà tôi cũng không thấy chúng hỏi han tâm tình với
nhau, dù chỉ là lịch sự, xã giao. Anh Vàng Dơ đã quang gánh trở về, đàn chim vù
vù tán loạn bay đi, sau khi đã làm sạch bữa tiệc thịnh soạn, do tôi mời.
Nhìn hai con chim Di bé
tí đang luồn lách trong mấy cây ớt tìm sâu, tôi nghĩ tới tối hôm qua. Vì ở nhà B
trong khu 1 tôi chợt nhớ chuyện của anh Bổn hôm nọ đã hô hoán trong đêm :
“Nói dối được công nhận
hợp pháp trong xã hội”.
Do muốn tìm hiểu sự
việc, nên phải qua một số anh, cuối cùng phải có anh Bằng trật tự, tôi đã một
lần trực tiếp nói chuyện với anh Bổn, nên đã hiểu sơ về anh. Anh là Trần Phú
Bổn, trung đội trưởng du kích, đặc công của huyện Nghĩa Đàn (Quê của HCM), tỉnh
Nghệ An. Anh cũng là phó bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản (sau này mới đổi
thành đoàn thanh niên HCM).
Trong đợt chống phá
ngăn chặn, “đồng bào di cư vào Nam, theo Mỹ Diệm” (1954), anh là trưởng đoàn
đặc công của Huyện. Nhiệm vụ của đoàn là tìm mọi phương cách ngăn cản (tuyên
truyền, phao những tin thất thiệt, kể cả bạo động : đốt nhà, bắt cóc trẻ con,
thủ tiêu v.v…). Làm sao thực hiện hữu hiệu ngăn chận, những người công giáo,
“theo Mỹ Diệm vào Nam”.
Anh tâm sự :
- Trong quá trình thực
hiện công tác, anh ra lệnh cho từng tổ, đôi khi chính anh dẫn một tổ đi làm
nhiệm vu, vì lòng hăng say phục vụ công tác khi ấy.
Anh nói như than thở
những câu :
- Chỉ vì khi ấy, tôi
cũng như nhiều thanh niên khác quá tin vào cái bánh họ vẽ ra! Không những họ
nói láo, nói bịp với người dân, họ còn bịp cả nhau nữa : Bàn giấy này bịp bàn
giấy kia; cơ quan này bịp cơ quan kia; tổng bí thư bịp bộ chính trị, bộ chính
trị bịp ủy ban trung ương, trung ương bịp tỉnh, giám đốc v.v… Nghĩa là cả một
xã hội nói láo, ai cũng biết, nhưng không ai thắc mắc. Tôi đã hăng say đốt nhà,
có khi phải thủ tiêu người để lập công với Đảng!
Cuối cùng anh nói :
- Rồi đây, tôi sẽ phải
làm một cái gì để đền tội, của tôi! Tóm lại, anh và cả tổ 3 người bị bắt đêm
29-3-1955 (Hãy còn khu vực 300 ngày Hải Phòng). Do ông cha và đám thanh niên
công giáo một họ đạo… Họ trói chúng tôi cho tới sáng.
Cơ quan của huyện
xuống, tôi và đồng chí huyện ủy đã nháy nhau. Tôi tưởng họ sẽ dẫn về huyện là
xong, nhưng họ đã dẫn vào trại giam. Chúng tôi chờ ở trại giam cả tuần không
thấy gì. Tôi gọi lão trực trại vào, bảo y mở cửa để chúng tôi ra, y cứ lừ lừ
nhìn, tôi tức mình chửi cho một chập, rồi cứ thế chúng đưa hết trại này đến
trại kia.
Ở trong tù, tai nghe,
mắt thấy rồi có điều kiện ngẫm suy, tôi đã sáng mắt ra hiểu được nhiều vấn đề
trong bóng đêm của địa ngục, tôi điên, tôi đã chửi ráo. Hai người kia cùng tổ,
bây giờ không biết ở đâu, tôi bị đưa về trại này hơn 5 năm rồi.
Sau khi nghe hiểu biết
về anh Bổn, tôi nghĩ anh đã phạm vào một cái tội quá nặng nề, trong tay cộng
sản. Đó là cái tội “không thể tha!” Trong xã hội cộng sản, có một loại người
bị cái tội này. Nếu không tha Bổn chỉ có một mình anh ta khổ cực, gia đình vợ
con anh ta nhớ thương khổ đau. Tha anh ta thì mất chính trị (đảng sai làm, rồi
bỏ tù) thiệt hại cho Đảng. Chưa nói, nếu anh ta lại đem cái hiểu biết đó cho
nhiều người biết, thì còn bị thiệt hại nguy hiểm đến chừng nào.
Kỳ này lại càng có
nhiều trại chuyển tù về đây; trại thì mươi người; trại thì vài chục người v.v…
Tôi có cảm nghĩ cộng sản đã ký hiệp nghị Paris, chúng suy đoán có thể rồi đây
có các phái đoàn Quốc Tế sẽ đến quan hệ, xem xét, du lịch, tham quan v.v…Vậy
phải dẹp bớt trại giam. Lọc lõi những trại nào, thành phần, tội lỗi xét ra
không nguy hại lắm thì cho về. Bởi vì có cho về cũng chỉ là cho chúng ra cái
lồng lớn hơn, mà thôi. Khi tình hình cần thiết thì lại bắt vào, chứ chúng chạy
đi đâu được! Còn những tên nào xét ra không thể tha, chưa thể tha v.v… Hãy dồn
chúng vào một số trại đặc biệt, còn thì phá bỏ bớt trại giam đi.
Trưa hôm qua, tôi đang
nằm nghỉ mươi, mười lăm phút để chiều đi làm, thì nghe mấy người ở cổng khu hô
hoán :
- Các anh ơi! Có ra xem
vua tù không?
Nghe lạ tai, tôi cũng
mò ra. Ở sân trại chính có hơn chục người ôm chăn chiếu : Họ chỉ một anh tóc đã
có sợi bạc, gọi bằng bác thì quá trẻ, vì cái mặt chỉ hơn 5 chục. Họ bảo anh đó
là Tôn Thất Tần người tù từ 1945. Nghĩ mình đã tù 11 năm, đã thấy là lâu, anh
Bổn 18 năm rồi. So với một đời người đã thấy ghê sợ; nhưng Tôn Thất Tần 28 năm
mà vẫn còn ở trong tù, thì đáng là vua rồi. Khó có ai hơn, vì có ai đó, thì
phải chết rồi còn đâu! Nghĩ như vậy, tôi định có bữa nào sang làm quen.
9. NHẠC VÀNG QUÊ HƯƠNG
Nhiều chuyện quá, sáng nay lại nghe bên khu 2, có nhóm nghệ
sĩ nhạc vàng đồi trụy của Hà Nội, mới chuyển đến. Rồi còn nghe nói có một tướng
phỉ, khỏe như con gấu là Lý Cà Sa cũng mới chuyển về v.v… Từ từ tôi sẽ tìm cách
đến thăm hỏi, khi có đìều kiện sau này. Chỉ vài ngày sau, tôi đã mò sang chỗ
nhóm “nhạc vàng” ở nhà B khu 2. Có thể vì 2 lý do:
1. Cùng dân 36 phố
phường mí nhau.
2. Cùng một quan điểm
yêu nhạc tình êm dịu, quê hương; trữ tình pha chút lãng tử, hải hồ cho nên tôi
và nhóm “nhạc vàng” dễ thân nhau. Nhóm này gồm có 4 cậu, tên mỗi cậu đều có một
đặc danh đi theo:
· Toán Xồm (Nguyễn Thắng Toán, Guitar
kèn),
· Đắc Sọ (trống),
· Thành Tai Voi (kèn),
· Lộc Vàng (Nguyễn Văn Lộc, ca).
Nhóm “nhạc vàng” bị bắt năm 1967 cũng là năm có vụ án “xét
lại hiện đại”. Toán Xồm là đầu vụ, một phiên tòa ở Hà Nội đã xử năm 1969, cộng
sản gọi là nhóm “nghệ sĩ nhạc vàng đồi trụy”. Kết quả Toán Xồm 15 năm, Đắc Sọ
12 năm, Thành Tai Voi 10 năm và Lộc Vàng 10 năm. Toán người nhỏ tí, có cái mũi
như lai Tây, Toán học trường Tây, nhưng vì yêu văn nghệ, thích đàn hát nên học
hành chẳng ra sao. Vì vậy, bắt đầu khoảng 57 – 58 một số cậu choai choai không
có tiền, đàn đúm, còn đói ăn nữa nên đã tụ tập một nhóm nhỏ yêu nghệ thuật, yêu
ca nhạc. Lúc đầu chỉ hát “nhạc xanh” là nhạc của các nước XHCN phương Tây. Ban
nhạc của các cậu thường vào chơi trong những buổi tiệc tùng, liên hoan ở các sứ
quán Ba Lan, Tiệp Khắc, Liên Sô v.v… Được vài năm, nhưng cũng đói rách. Khoảng
61- 62 lũ choai choai Hà Nội có phong trào bí mật nghe đài Sài Gòn. Bài hát nào
mới ở SG, chỉ vài ngày sau chúng đã lén lút, ca cho nhau nghe ở Hà Nội rồi như: Đời là vạn ngày sầu…. biết tìm
vui chốn nào… Ta yêu nhau đi thôi!…. Duyên tình ta xé… làm đôi…
Hoặc: Tàu Đêm Năm Cũ…
Thực ra dạo ấy và cho tới cả bây giờ tôi cũng không biết những bài hát đó tác
giả là ai? Nhưng ngay trong trại Phong Quang vào những ngày thứ Bẩy, Chủ nhật
một ấm chè rẻ tiền (chè cám) 5, 7 người có chút tâm hồn văn nghệ tụ tập (lén
lút) ca hát, với một cây đàn tự chế. Khi thấy “áo vàng” vào khu, các cậu đổi
“gam” ngay, thành những bài hát VC.
Như tôi đã nói, do cùng
Hà Nội, lại có “gu” giống nhau nên bất cứ có buổi ca nhạc “bỏ túi” ở buồng nào
các cậu thường báo trước, tôi là một khán, thính giả nhiệt tình. Tôi đã được
nghe nhiều bài hát của Sài Gòn ở trại Thanh Phong. Thời gian ấy, một vài sự
việc cho tới bây giờ, vẫn hằn vào lòng tôi.
Toán Xồm có cái tài bắt
chước, khi ấy gọi là “bắt vở”. Bất cứ một cán bộ lạ hay quen, từ trên bộ về nói
chuyện với toàn trại, những ngày sau khi về trại, có khi đang lao động, có khi
ngồi uống trà v.v… Toán Xồm bất ngờ làm một động tác, lột tả lại để ai cũng
hiểu, Toán Xồm muốn nói đến cán bộ nào rồi, kể cả giám thị, cho đến ông cục
trưởng Cục Lao Cải (giai đoạn ấy). Buồn cười một cách ý nhị, tôi phải thừa nhận
là một cái “tài” không phải ai cũng làm được. Chỉ một cái “nháy mắt”, “nhếch
môi”, “giọng khạc”, “mắt liếc”, “tay vẫy” mỗi khi nói v,v… Nghĩa là ai có cái
tật gì Toán Xồm làm đúng như thế. Không hề nói trước, nhưng những người chung
quanh đều hiểu Toán Xồm muốn nói đến ai. Vì thế, mọi người đều cười thoải mái!
Sự việc thứ 2 Toán Xồm
kể lại, khi còn ở Hà-Nội, trong thời gian nhạc xanh, nhạc vàng, nhóm cũng
“rách” lắm (cả xã hội cùng đói rách, chứ riêng gì ban nhạc), bàn nhau mới nghĩ
ra, đành phải sắm thêm vài chiếc kèn đám ma, kiếm gạo cơm trong những người
chết, để cứu cuộc sống của nhóm. Nhóm đã hành nghề mấy năm của cái đất Thăng
Long dưới cái chế độ “Xếp Hàng Cả Ngày” thời gian ấy, thì cũng thêm cho bát cơm
đầy.
(Đến đây tôi xin thưa
quý một chút: Câu chuyện của Toán Xồm kể có hơi một chút “thô tục”, nhưng nếu
tôi không tường thuật mọi chi tiết sư việc thì còn đâu là hồi ký? Vì thế kính
xin quý vị tha thứ)
Nghĩa là ngoài ca nhạc,
nhóm còn đi thổi kèn, đánh trống cho đám tang nữa. Đã nhiều lần, nhiều nhà,
nhưng có một đám ấy tương đối khá giả. Một gia chủ bị chết làm tang 3-4 ngày,
bốn cậu trong nhóm kèn trống, ngồi 4 góc của chiếc quan tài thân chủ.
Vợ con, họ hàng trừ khi
ăn cơm hay sinh hoạt cá nhân, còn hầu như ngày đêm phục tang, khóc than chung
quanh quan tài. Trong tiếng trống, tiếng kèn vẫn đều đều nỉ non đêm ngày, phụ
hoạ với tiếng khóc than của thân nhân. Chỉ có tiếng kèn của một cậu hơi lạc
giọng, chỉ trong nhóm mới biết:
- Tò……Tí …….Te ……….
Nhóm hiểu ngay là
Thò…..Tí…….Ghe ….!…….
Nhìn vào đám thân nhân
đàn bà con gái, các cậu nhớn nhác tìm tòi. Một cậu ở góc khác thổi dóng lên
tiếng kèn:
…….Õ…………í……………e………….(Ở
….. đâu…..nào?…….) Nhớn nhác không biết của quý chỗ nào nên thổi kièn hỏi. Anh
chàng Đắc Sọ đánh trống đã nhìn thấy! Đắc Sọ vội đập trống điệu riêng:
……..Bốp…..bình….bình
(………Góc……trong…….cùng…….)
Thành Tai Voi, cũng
trống, đang ngồi sát đấy, cúi xuống nhìn cho kỹ, rồi đập trống:
…………Binh…… bùng……binh……
(Tinh …..mùi …..tương……)
Do cái tài thuật chuyện
hóm hình có duyên của Toán Xồm chúng tôi ngồi nghe trong tù, cùng cười như nắc
nẻ. Rất tiếc, tôi không đủ khả năng diễn đạt, theo ý muốn.
Về anh Tôn Thất Tần,
giai đoạn 73 – 74 anh được làm vệ sinh tự giác trong trại, tương đối nhàn hạ,
có thể vì công việc dễ chịu như được chiếu cố nên anh dè dặt nói chuyện, để bảo
vệ cái “job” thơm? Tôi và anh đã đánh cờ tướng 3, 4 lần, trí óc của anh còn
minh mẫn lắm! Tôi chỉ biết một chút về anh: Bị bắt ngày 24 – 9 -1945. Anh là
Đổng Lý Văn Phòng, đã kịch liệt phản đối Vĩnh Thụy (Bảo Đại) trao ấn tín cho
Trần Huy Liệu của Việt Minh. Hơn một tháng sau, của ngày 19 – 8 -1945, Việt
Minh truy ép anh mấy lần không được, nên họ đã bắt (Anh nói với tôi như vậy,
thực hư tôi không rõ.)
Một buổi sáng, đầu tháng
7 – 1974, tên Hường trực trại đọc tên tôi trước hàng tù, đợi xuất trại đi làm.
Tôi được chuyển về toán 7 làm nhà, tôi bàng hoàng ngẩn ngơ tiếc nuối toán rau
của ông Mão, được hơn một năm trường (ra toán rau là đi đày, ý chí chuyển đổi
khó khăn ra thuận tiện của tôi có hiệu lực. Có thể chúng thấy, hơn một năm đầy
tôi ra cứt, đái, nắng mưa ở toán rau, chắc tôi đã biết thân rồi!
Cũng có thể chúng xem
hồ sơ của tôi; tên này ở trại trung ương số 1 đã là kỹ thuật xây dựng nhà cửa;
cũng là kỹ thuật hàng ngang (mộc), vậy hãy cho nó về toán làm nhà xem sao? Hẳn
nó đã tự biết thân! Chúng có biết đâu rằng, con người cái chính là khâu tư
tưởng! Tôi đang mang tâm trạng, bao nhiêu anh em Biệt Kích khác đã được về miền
Nam tự do, còn tôi chúng giấu đi, nhét trở lại tù ngục, lam lũ đói khát.
Về toán làm nhà do tên
trung sĩ Đạo phụ trách; toán trưởng là anh Nguyễn Trí Viên (tù chính trị địa
phương). Khi ra hiện trường anh Viên phân công, cho tôi làm vì trưởng một căn
nhà gỗ 5 gian. Năm gian thì có 10 vì, tôi đã trả lời anh Viên là tôi không biết
làm! Viên chạy đến cán bộ Đạo, một lúc sau cả Đạo và Viên xồng xộc đến chỗ tôi.
Tên Đạo sừng sộ :
- Tôi còn lạ gì anh
nữa! Ở trại 1 anh đã dựng cả một công trình!
Tôi nói dịu dàng :
- Thưa ông, đầu óc tôi
không biết làm sao, tôi chả còn nhớ gì ở trại 1.
Không nói gì thêm, y bỏ
đi! Anh Viên lấy một cái đục 2 phân với một cái bướm đưa đến, rồi chỉ cho tôi
một cái lỗ đục ở cây cột cái để “Xàm” xà. Tôi suy nghĩ: Mình vẫn là tên tù,
không nên làm quá; cái gì quá đều không tốt! Hãy theo cái thuyết của Albert
Einstein; nghĩa là tương đối, trung dung, vừa phải thôi. Rồi tùy từng sự việc,
tùy từng giai đoạn để xê dịch, trung dung ở chỗ nào cho thích hợp.
Theo qui định thời gian
ấy, 12 lỗ đục cột, một công khoán, vậy tôi cứ tà tà đục chừng 9 hay 10 lỗ một
ngày, không cần kỹ thuật. Để nhắm mắt qua cầu, cho đầu óc còn làm nhiều việc
khác! Cái thích thú của tôi là, trong toán làm nhà này lại có Lý Cà Sa, tôi
đang muốn làm quen, tìm hiểu. Lý Cà Sa là người duy nhất ở trại Phong Quang
được ăn 21 kg. Thông thường, người tù nào làm khỏe, năng suất cao, thì cũng chỉ
được ăn mức 18 kg là mức cao nhất, theo quy định của Cục Lao Cải.
Anh em trong toán kể
lại: Một buổi ngoài hiện trường lao động làm nhà, cây cột cái thường phải 4
người khỏe khiêng; thế mà Lý Cà Sa một mình vác. Tên Tằng và nhiều cán bộ chứng
kiến, vì thế tên Tằng ký giấy đặc biệt cho Cà Sa ăn mức 21 kg. Về tâm lý, hầu
hết mọi người đều trầm trồ ca ngợi, có thiện cảm với một người khỏe mạnh khác
thường như thế. Trần Định toán trưởng, cũng như anh em trong toán nhà bếp. Mỗi
khi Cà Sa mang soong xuống bếp lấy cơm (lấy riêng), nhà bếp cứ ang áng xúc cho
một xẻng cơm, có khi còn hơn cả mức 21kg nữa. Vì vậy Cà Sa cũng lén lút cho
chác, những ai Sa mến.
Cũng là một đặc biệt,
Cà Sa lại thích đùa bỡn với mấy cậu nho nhỏ, be bé. Luật bù trừ của tạo hóa
cũng kỳ diệu! Người to lại thích người nhỏ, gầy thích mập, cao thích lùn và
ngược lại. Không biết người thông minh có thích người đần không? Hoặc người vui
tươi, nồng nhiệt có thích người sầu buồn như gà rù không? Cái này xin để quý vị
thẩm định.
Cũng vì thế Toán Xồm
(bé tí) rất thích Lý Cà Sa, nên hằng ngày thường sang chỗ Cà Sa. Tất nhiên Cà
Sa cũng thích Toán Xồm và hay đần mặt ra, nghe lời ca tiếng nhạc của nhóm “nhạc
vàng”.
Con người của Lý Cà Sa
cũng khác thường, chân tay mình mẩy rất nhiều lông, mà lông lại dài nữa. Mặt
anh ta, tôi có cảm tưởng hơi giống như con khỉ đột, đôi mắt sâu, lông mày rậm.
Tôi cũng đã được nhìn thấy nhiều người to khỏe rồi, nhưng phải thừa nhận Cà Sa
có một sức khỏe lạ thường trời cho. Chắc chắn Cà Sa không phải là người to, cao
nhất, anh ta cao chừng 1m 83 đến 1m 85 (xin quý vị tín nhiệm mắt của một người
thợ kim hoàn, một kỹ thuật nhà, mộc!. Cụ thể tôi đã vẽ kích thước cái cùm Hỏa
Lò bằng trí nhớ, ở tập 1 Thép Đen, đã không sai với hình chụp hiện nay). Còn Cà
Sa cân nặng bao nhiêu tôi xin chịu (nhà tù chưa bao giờ có cân).
Nhớ lại Tết vừa qua,
trong vấn đề kéo co, cũng tên Tằng Toét và cả anh em tù, cũng muốn thử xem sức
khỏe của Cà Sa như thế nào? Bữa hôm Tết, y cho 6 người của toán cò cưa và Lý Cà
Sa ăn no; buổi chiều y cho 6 người này, kéo dây ” kéo co ” với Cà Sa. Trước sự
cổ vũ của anh em tù cũng như cán bộ toàn trại, cuối cùng Cà Sa đã thắng!
Một buổi uống trà cám,
Cà Sa đã kể lại thời kỳ anh ta bị bắt. Trước 5 – 6 người, có Toán Xồm và tôi,
Cà Sa nói:
- Hàng mấy năm trường
vùng vẫy trong vùng Hoàng Su Phì Hà Giang. Việt Minh không thể làm gì y được.
Sau VM dùng trò mua chuộc, dụ dỗ sẽ cho làm tướng vùng dân tộc thiểu số, sẽ cấp
dinh thự, kẻ hầu người hạ v.v… Cuối cùng đã bắt được Cà Sa.
Cà Sa kể tiếp:
- Trong thời gian khai
thác, thẩm cung luôn có 6 CA võ biền, to khỏe canh gác. Chân tay Cà Sa lúc nào
cũng bị xiềng xích ngày đêm, vậy mà khi Cà Sa đi cầu cũng 4 người đứng canh.
Khi Cà Sa biết bị lừa, y gầm thét phá phách dữ dội, có lần y vớ được một tên
CA, y ném qua một bờ suối rộng 3m. Việt Minh phải trị bằng cách cho ăn đói
nhiều ngày. Ăn được 5 phần thì chỉ cho 1 phần thôi “Thà không cho ăn để chết,
không ác độc, thâm hiểm bằng cho ăn ít như thế!” Đấy là lời nói của Lý Cà Sa.
Đêm qua bên nhà A khu 1
có một chuyện không bình thường: Nghe đâu cũng lại ăn nấm độc, 6 người bị nặng
nhất đang đêm phải đưa đi nhà thương Yên Bái, nhưng 4 người đã chết. Sáng ngày
ra, trong trại xôn xao, bàn tán như sau: Một cặp tù xẻ gỗ thuộc loại tự giác.
Những cặp loại này
không cần phải công an võ trang đi kèm, cứ 2 người đi thăm thưng trong rừng
cây, thấy cây nào đáng xẻ, gỗ thuộc loại nào về báo với cán bộ toán. Khi đã
được chấp thuận, cho chỉ thị xẻ theo quy cách, kích thước, ngày tháng mức ấn
định v.v… Do đấy, có cặp xẻ phải làm tại chỗ hàng tuần, hàng tháng, cứ sáng sớm
xách cơm nước đi, tối phải về trại trình diện.
Hôm qua, một cặp xẻ:
Hoàng Điềm và Ngô Thanh (tù chính trị địa phương, tức miền Bắc) những cây gỗ
gần chỗ các anh xẻ, sau những trận mưa rừng rả rích, cũng mọc lên rất nhiều
những loại nấm mèo. Ngay từ chiều 2 anh đã nấu thử tại chỗ để ăn (những người
khác trong toán kể lại). Các anh về khoe là :
- Thịt gà phải trả về
tiền! Ngon quá! Lại nghĩ đến những bạn bè thân của mình, các anh đã mang về một
ống Guigoz và một cà men con. Tối các anh về trại, vào buồng chia ra làm 5
phần, anh thì có 3 người thân, anh thì có 2. Các anh đã lén lút đưa cho người
thân, để cùng thưởng thức.
Nghe bạn thân là anh
Điềm với anh Thanh ca ngợi hết lời, lại thấy 2 anh đã ăn rồi mà có sao đâu. Vả
lại, đang đói thiếu, của thơm ngon như thế mời gọi, của quý dành cho người
thân! Bởi vậy các anh đều nhiệt tình thưởng thức, còn không cho ai biết nữa
chứ. Chỉ có một người là anh Hoè của toán nhà bếp (bạn của anh Điềm) bị đau
bụng từ chiều, nên anh để dành lại, sáng mai khỏi đau bụng sẽ ăn.
Buổi trưa hôm đó, sau
khi đã có 4 người chết ở nhà thương, còn 2 người ngắc ngoải. Tên Tằng Toét đã
lấy cái phần của anh Hoè đau bụng chưa ăn, chừng 1 phần 3 chiếc ca nhỏ uống
trà. Y bắt con Vện của cán bộ trực trại ăn thử; nửa giờ sau con chó sùi bọt
mép, giẫy lên rồi nằm luôn.
Vấn đề kỳ lạ để lại
trong lòng nhiều người: Tại sao anh Điềm và anh Thanh đã ăn tại chỗ từ chiều,
cho tới khi về trại không sao cả. Hai anh đã chết rồi, thì ai trả lời được cho
mọi người khỏi băn khoăn? Theo tôi, chỉ có một cách giải thích hợp lý: Vì lý
do, nguyên nhân gì đó, buổi chiều hôm ấy anh Điềm và anh Thanh chưa hề ăn nấm
mèo ấy. Hoặc, các anh đã ăn nấm khác, không phải cùng nồi, đã múc đưa về trại.
Gần 3 tháng trời họ
chuyển tôi về toán ông Đạo làm nhà, thấy tôi không chuyển biến tư tưởng, chẳng
chịu làm ăn cái gì cho ra hồn. Thật không ngờ, đầu tháng 2- 1975 họ lại chuyển
tôi về toán mộc để làm hàng ngang. Lán mộc bây giờ ở ngay phía trước cổng trại,
ngay sau phòng trực trại của tên Hường.
Toán mộc cũng vẫn là
cán bộ Hòa và toán trưởng vẫn là anh Khẩn, như khi tôi mới chuyển về trại này.
Họ phân công cho tôi đóng giường đôi, và làm ghế. Quan điểm của tôi đã nói ở
trên, tôi chỉ làm cầm chừng, “nhắm mắt qua đò”. Kỳ này tôi lại đốc tật là thích
uống trà đêm, trong buồng cũng có một vài anh cũng thích uống trà ban đêm. Ngồi
một mình trong mùng, nhấm nháp ly trà (ly nứa) để cho lòng lâm ly, để cho óc trầm
ngâm suy tư chuyện Đông, chuyện Tây, chuyện trong, chuyện ngoài, nghĩa là
chuyện đời.
Những người uống trà
đêm, “muốn ăn thì phải lăn vào bếp”. Họ phải lo chuẩn bị đóm nứa khô. Nội quy
cho mỗi tù nhân, chỉ được mang một cái đóm vào trại, để hút thuốc.
Tùy theo khả năng, tài
ba của mỗi người, có gia đình tiếp tế, có tiền thì uống trà ngon, trà búp. Kém
khả năng thì uống trà cám loại bẹt, một gói giá 1 hào 50, uống được một tuần.
Nhấm nháp một tí đặc chát, để cho đời lên men.
Thường thường 11- 12
giờ đêm, người ta ngủ yên ắng, mình khe khẽ bò dậy, vào nhà xí chừng 3, 4 cái
đóm nứa, đã có thể sôi nước trong một cái ca con. Sau khi đã đun trà xong,
chuẩn bị cái giẻ rách lau cho ca sạch trắng. Một cái giẻ dùng hàng tháng. Cứ
đêm lau, sáng ra lán giặt phơi, nó cũng là một cái thú ở trong tù.
Thấy cứ phải lau chùi
ca, chạy vào, chạy ra trong nhà xí. Một đêm, tôi chợt nghĩ ra một cách, theo
điều kiện cho phép của tôi. Đã cuối tháng 2 đầu tháng 3, sắp hết Xuân vào Hè,
tôi lại dùng cái quần đùi thời gian ở toán rau. Chỉ khác đi là lần này đựng
than, loại than gỗ cứng quý. Ở ngoài lán mộc luôn có đống lửa, hút thuốc, đun
trà v.v… Tôi chọn những gỗ cứng, tốt đốt cháy đến đâu, tôi nhúng vào nước. Có
một loại than thật cứng, giữ được lửa lâu. Mỗi ngày tôi mang về 6 cục, mỗi buổi
tôi mang về 3 cục. Đêm có thể tôi đun 2, 3 lần trà, than vẫn còn đượm. Chỉ ngồi
một mình trong màn, lại không có khói, ấm cúng, chủ động, không phải lấm lét
canh công an võ trang.
Tôi làm ở lán mộc này
được hơn một tháng, một buổi tôi ra chỗ góc lán đi tiểu, chỗ tôi trồng mấy ngọn
lang để cải thiện. Thoáng bóng một chú gà giò, chừng 2 vụm tay, chú gà cứ tẩn
mẩn mổ mấy loại côn trùng, ở đám dây khoai lang. Tôi chợt lóe một ý nghĩ: Hàng
chục năm không có mùi thịt gà! Dịp may trời cho, tại sao không liều? Chắc chú
gà này của vợ chồng lão Tôn đại úy giám thị trại, ở phía bên kia hàng rào với
lán mộc.
Phải liều, cứ cái câu
“không liều thì không có cái gì cả”. Nhìn trước nhìn sau, tôi lựa thế le con gà
vào một cái góc. Như một cái máy, tôi chộp lẹ.
Có lẽ vì là chú gà giò
chưa lớn bao nhiêu, nên không hề kêu gì cả. Bóp cổ 2 phút là chú giẫy chết! Tôi
thành thật xin chú mày tha lỗi! Vì tôi đói và thèm quá! Vùi đất ngay tại chỗ,
vì đi tiểu đã lâu. Tôi vào cầu bào, không ai để ý gì, tuy vậy trống ngực tôi
cũng đánh liên hồi.
Cắm cúi cưa, cắm cúi
bào, nhưng đầu tôi tính một cách, sao mang về lọt qua cổng trại! Đi tiểu lần
sau, chỉ kịp vặt hết lông. Mười lăm phút tôi lại đi lần nữa, đã chuẩn bị, mang
theo một cái chàng sắc bén, vội vàng mổ ruột vất hết, chỉ gan và mề để lại. Quá
5 phút lại phải vào, liệu chờ người đi tiểu ra, tôi lại đi. Nếu ai để ý sẽ thấy
lạ, có thể đoán tôi hôm nay bị đi đái rắt. Đã tính rồi, tôi ra cắt béng đầu và
2 chân gà đi, con gà bây giờ chỉ còn khoảng 2, 5 đến 3 lạng là cùng. Tôi mang
vào giấu ở cầu bào.
Cứ có điều kiện không
ai để ý, tôi lại cắt con gà thành những miếng nhỏ, sao cho cả con gà càng thu
nhỏ lại, càng tốt. Gần giờ thu quân, tôi dồn hết vào cái túi bí mật ở trong
quần. Nếu ai tinh ý sẽ thấy cái chỗ đi tiểu của anh chàng này, hôm nay hơi to.
Tôi phải cố thót bụng lại, để đánh lạc hướng trật tự và trực trại. Tay tôi cầm
4, 5 cái đóm hút thuốc, với cái ca con, đựng tí bã trà.
Khi toán về tới cổng
trại, ngay từ xa tôi đã thoáng nhìn thấy dáng dấp tên Tằng Toét, tôi cũng hơi
chờn. Có Tằng đứng đấy, trực trại, trật tự phải nghiêm khắc xét, khám kỹ hơn.
Tôi băn khoăn, vài phút rồi quyết định: Đã tính rồi, cứ tiến!
Sau khi anh Khẩn đứng
nghiêm báo cáo con số toán, tên trực trại nhìn 5 cái đóm trên tay tôi, y quát :
- Anh kia mang nhiều
đóm thế!
Tôi nói cố hết sức dịu
dàng:
- Thưa ông, có 2 anh bị
ốm ở nhà, nói với tôi mang hộ!
Y gằn giọng :
- Không được!
Tôi bỏ lại 3 cái, y
cũng không nghe (vì có tên Tằng đứng đấy) đúng nội quy chỉ được mang một cái
mỗi người. Tôi chỉ cầm một cái đi vào, còn bỏ lại hết. Khi đi qua tên Tằng và
tên Hương, tôi có cảm tưởng chúng cứ nhìn tôi mãi. Không biết mũi của chúng có
ngửi thấy mùi thịt gà tươi, ở trong quần của tôi không? Thế là nhiệm vụ hoàn
thành!
Cái đêm hôm ấy, hầu như
tôi thức cả đêm! Sau khi điểm xong, cho tới kẻng cấm, tuy nằm mà bao hy vọng
chờ đón, lẫn với tính toán đến 12 giờ đêm, chả làm sao ngủ được. Nghe ngóng yên
ắng, có nhiều tiếng gáy, tôi mới bò dậy xuống sàn, vào nhà xí nhóm than cho
cháy. Chỉ nửa giờ sau đã có già nửa cái lon Guigoz, là thịt gà giò chín thơm
lừng. Mở cửa nhà xí, ngó ngấp, nghe ngóng, bấy giờ mới rón rén khe khẽ trèo lên
sàn, chui vào mùng, để mà hưởng thụ.
Thành thực mà nói, 13 năm tôi đã hoàn toàn quên béng cái
mùi thịt gà giò đi rồi. Cũng xin thành khẩn nhận lỗi, đêm hôm đó tôi đã quên
hết… Một câu thơ con cóc: Cái đêm hôm ấy, đêm gì? Gà non, nhóp nhép….gầm ghì cả đêm!
(Cho đến khi tôi viết mấy dòng này, tôi hơi một chút băn khoăn, có nên cảm ơn
vợ chồng ông đại uý Tôn, của trại Phong Quang ngày ấy? Chỉ vì Tôn có chút tình
người.)
Sáng hôm sau, trong khi
ngồi xếp hàng chờ cán bộ vào điểm, bỗng anh Bùi Tâm Đồng nói to bâng quơ:
- Đêm qua tôi nằm mơ
được ăn thịt gà, sáng ra vẫn còn mùi thơm của thịt gà!
Có mấy anh nữa rống lên
phụ họa:
- Tôi cũng ngửi thấy
mùi thịt gà thơm phức!
- Tôi thấy thơm lừng
trong buồng, vào nhà cầu đi đái tôi còn ngửi thấy!
Chỉ có một mình tôi
biết, mùi thịt gà đó do đâu ra, và nó còn nằm trong bụng của ai bây giờ, mà
thôi!
Những tháng năm lang
thang trên xứ người, có nhiều lúc tôi nhớ lại con gà giò “ăn cắp”của ông bà Tôn
năm ấy. Tôi có ý nghĩ: Nếu có thể được, bằng cách nào đó, trong điều kiện nào
đó, tôi sẽ xin trang trải món nợ của ông bà Tôn ngày ấy, cả vốn lẫn lời. Cũng
như tôi đã trả được món nợ cả vốn và lời, 4 đồng của Phan Thanh Vân ở phân trại
E, phố Lu năm 1969 (năm Hồ già về với Karl Marx). Hiện nay Vân đang ở
Washington DC.
Nói về ông đại úy Tôn
này, tháng trước (10/04) chính Lưu Nghĩa Lương ở toán 5 đã kể cho tôi nghe
(Lương hiện ở CA.). Tay Tôn này tập kết, chả hiểu trong Nam có vợ con hay chưa?
Cơ quan, ban giám thị có một cô loại thanh niên xung phong, chừng 22 – 23 tuổi.
Dáng quê, không đẹp vẫn hàng ngày phục vụ dọn dẹp, lau chùi, giặt giũ v.v… Ông
Tôn đã làm cho cô ta có bầu. Đảng, cơ quan bắt y phải cưới làm vợ. Rồi Đảng cho
vợ chồng một căn nhà con, phía bên kia hàng rào lán mộc của chúng tôi. Lương
còn nói: Có lần Lương gặp đại uý Tôn đi trên chiếc cầu con (từ cổng trại ra lán
thủ công, và nhà ông Tôn có một cái suối nhỏ) Lương vừa chào lại có ý móc máy,
đùa cợt :
- Chào ông ạ! Thưa… bà
đẻ con trai hay con gái ạ?
Tôn quay hẳn lại nhìn,
xem thằng nào biết mà lại hỏi thế? Dù vậy y vẫn trả lời như vui, như đùa :
- Theo Đảng mấy chục
năm, bây giờ mới có cái “thằng”.
Qua cách trả lời Lương,
ta đã thấy phần nào con người của “ông” Tôn rồi!
Sau cái đêm chén con gà
giò, ngay ngày hôm sau đi làm ngoài lán mộc. Mỗi lần tôi đi tiểu, đều nhìn sang
phía nhà vợ chồng ông Tôn nghe ngóng động tĩnh, có hiện tượng tìm tòi, kêu ca
mất gà hay không?
Nhưng tôi vẫn thấy im
lìm. Trong khu hàng rào, có căn nhà nhỏ của vợ chồng ông Tôn, chung quanh tôi
thấy có một số cây rừng nho nhỏ. Sát phía căn nhà có một cái chuồng gà, bằng
tre và nứa. Chừng gần 2 chục con gà lớn bé, hàng ngày ra lang thang trong khu
vườn con đó. Chúng tìm những con sâu, bọ, côn trùng, ngoài một bữa ăn duy nhất
khoảng 4 giờ chiều. Từ cái lỗi lấy trộm gà của tôi đối với gia chủ là ông Tôn,
dần dần tôi càng để ý nhà ông ta kỹ hơn.Tôi làm mộc, cứ mỗi buổi chiều nghe
thấy 3 tiếng phạch, phạch, phạch, của một cái que đập vào một cái phên liếp là
tôi chạy vội ra chỗ đi tiểu, ghé mắt sang bên kia phía hàng rào nhà ông Tôn.
Một bà chỉ 26, 27 tuổi,
tôi đoán là vợ ông Tôn nên gọi là bà, mang một cái rá con lẫn lộn ngô xay với
cám gạo, bà rắc vãi ra phía trước mặt. Rào rào từ khắp các ngõ ngách, các chú
gà lớn nhỏ chạy bổ, chạy đáo về chỗ bà chủ. Có con vội vàng quá, vấp vào những
cành cây, ngã lăn lộn mấy vòng nhưng cũng cố vội vàng, bò dậy chạy về chỗ ăn.
Nhìn cảnh này, óc tôi
liên tưởng suy ngẫm: Những con gà trong khu vườn này, đã được thả ra khỏi
chuồng từ sáng sớm. Lang thang kiếm ăn cả ngày trong vườn, ngày nào cũng thế nên
những con côn trùng không còn bao nhiêu, cho nên, chúng đói lắm.
Vì vậy khi nghe 3 tiếng
hiệu lệnh bằng mọi giá, chúng phải chạy về ăn, nhất là phần ăn chỉ có hạn. Nếu
trong khu vườn con ấy, gia chủ lại phơi vài chiếu thóc, ngô, đậu hay gạo v.v…
Những con gà kiếm chác được ít nhiều, đôi khi còn no nê nữa. Chắc chắn chúng sẽ
không chạy bán sống, bán chết khi nghe 3 tiếng lệnh gọi về ăn, như tôi đã thấy.
Hoặc gia chủ, cho ăn thả cửa hai, ba bữa ê hề ngô thóc, thì cũng không còn cái
cảnh tôi đã nhìn thấy ở đàn gà.
Suy ra xã hội cộng
sản: Từ mấy con cá dưới sông, con chim trên trời; cành khô, củi mục, tất cả
mọi nguồn lợi kinh tế của quốc gia, cộng sản phải quản lý hết, quản lý nghiêm
ngặt. Dù có thừa, vựa lúa gạo của miền Nam từ ngàn xưa bao giờ cũng thừa, bây
giờ lại cải tiến tăng vụ nữa. Chúng phải cất đi, phải giấu đi, phải cho đi v.v…
Thậm chí thà để mốc đổ đi, chứ không thể để, cho dân chúng no nê đầy đủ. Của
thừa, không tiếc! Nhưng cho ăn đầy đủ thì lại lắm chuyện, không quản lý được.
Còn lý do thì nhiều lắm, nào thiên tai, dịch hoạ v.v…
Tất cả để phục vụ cho
một mục tiêu chính: Quản lý con người, quản lý xã hội. Đặc biệt về vấn đề an
ninh nhà nước, tức cho ngay bản thân chúng, đó cũng là một cái khóa an toàn vạn
năng.
Cũng từ đấy ta suy ra,
nền công nghiệp quốc phòng của chúng thì vô cùng hiện đại, để chống với nước
khác là phụ. Cái chính là để trấn áp, tiêu diệt mọi mầm mống nổi dậy, của dân
chúng trong nước của chúng. Sao cho bảo vệ cái chỗ ngồi của những tên lãnh đạo,
được vững chắc ngàn thu.
Cho nên nếu chúng ta
viết bài, nhận định về vấn đề này, về vấn đề kia là chúng ta bàn cãi, lý luận
về cái ngọn: quả này sâu, hoa kia thối, cành này gẫy mà thôi. Tất cả từ cái gốc
quản lý xã hội, quản lý con người của chúng.
cộng sản đã nhìn
thấy: Con người khi có cuộc sống đầy đủ, thừa thãi thì không thể quản lý được
(như đàn gà nói trên). Cho nên ai cũng nhìn thấy rõ ràng như ban ngày: Dưới chế
độ cộng sản bất cứ ở đâu, đã qua, bây giờ và sau này, không bao giờ người dân
trong chế độ đó được tự do, dân chủ, dân quyền, no ấm, thừa thãi v.v… Còn như
cái thế giới Đại Đồng “làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu” v.v…
Tất cả đều là bịp bợm,
bánh vẽ. Nhìn một cách biện chứng khoa học: Không bao giờ cái chế độ Đại Đồng
đó hiện thực, mà chỉ là không tưởng. Tôi trình bày, đây chỉ là cái gốc, có
nghĩa dưới chế độ cộng sản hay biến xác là XHCN ngày nay, còn vài cái gốc
nữa: những thiên tới, chúng ta sẽ nói đến.
10. SẦU LẮNG MÊNH MÔNG
Dư âm của bữa ăn con gà giò hãy còn rơi rớt trong cảm giác,
hãy còn làm cho lòng tôi lâng lâng nhìn cuộc đời. Sáng sớm hôm nay, trong buồng
hãy còn tối, tôi giật mình thức giấc vì chiếc loa ở cửa buồng nheo nhéo loan
báo: Ngày 13 – 3 đại quân cộng sản có xe tăng đại pháo đã bất ngờ mở trận tấn
công vào thị xã Buôn Mê Thuột ở cao nguyên miền Nam, chúng đã chiếm được thị xã
Buôn Mê Thuột. Hôm nay là ngày 15-3, như thế đã 3 ngày chúng mới loan tin trên
đài. Tình hình phải chắc ăn chúng mới loan tin, chúng rút kinh nghiệm năm Mậu
Thân 1968.
Người tôi tự nhiên đờ
ra, tôi đã ngồi dậy rồi, lại nằm xuống lịm đi, phải chăng mối ưu lo của tôi hơn
2 năm xưa bây giờ đã ló ra? Tôi nhớ thời gian ký hiệp nghị Paris, nhìn một tấm
hình chúng đang tuyển quân, tôi đã lo có khi vì hội nghị Paris này rồi sẽ mất
miền Nam!
Cả ngày hôm ấy, người
tôi như mất hồn. Ngồi xếp hàng với các toán chờ xuất trại, tôi liếc nhìn mãi
sang phía bác Tiến, anh Bưởi và các toán chung quanh. Mọi người nhìn nhau bằng
những đôi mắt trắng nhờ nhờ. Ngay xa xa chỗ mấy toán hình sự, hôm nay cũng
không còn ồn ào cãi cọ nhau, như mọi khi.
Từ tối hôm qua, lòng
tôi đã nhẩm tính dự trù cho đêm nay (15-3) như mỗi tháng. Từ cái tháng 7/1973
cho tới bây giờ niềm hy vọng mòn mỏi đợi chờ cứ mỗi tháng, mỗi bé dần, bé dần
cho đến đoạn chót chỉ còn bé một tị. Cũng như đêm nay, niềm mong chờ, hy vọng
của chúng tôi cũng còn bé, chỉ còn chút síu.
Bản tin buổi chiều, lại
thêm: Đại quân hàng 5- 6 sư đoàn đã vượt sông Bến Hải, bất ngờ thần tốc tiến
chiếm Cổ Thành và thị xã Quảng Trị. Đại quân đang trên đường tiến vào cố đô
Huế. Từ nay chúng không để hai, ba ngày sau mới đưa tin tức nữa. Có lẽ riêng về
trận đầu, trận mở màn ở Buôn Mê Thuột chúng thận trọng, nghe ngóng trong nước
ngoài nước nên chúng mới chậm trễ, đưa tin cho nhân dân miền Bắc như vậy. Còn
bây giờ thì đài, báo, cứ ra rả từng bước tiến, từng trận đánh của đại quân mà
chúng đã tuyên bố là chiến dịch tổng tấn công toàn diện, lấy tên là Hồ Chí
Minh.
Đất nước miền Nam
thương yêu ơi! Ông bà tổ tiên ơi! Có chứng giám lòng con lúc này! Vì tôi hiểu,
tôi nhìn vào bản chất của cuộc chiến, hoàn cảnh, điều kiện nên tôi mới buồn héo
hắt, rũ rượi như thế này!
Đúng như ông bà mình
dạy: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Đêm ngày 2-4 khoảng 10 giờ; kẻng cấm
9 giờ vừa xong một lúc; bên ngoài cổng và sân trại rầm rập í ới tiếng của công
an võ trang và cán bộ. Nhìn ra về phía lán thủ công có ngọn lửa sáng, biết là
có cháy nhà, nhưng chúng tôi không biết cháy ở đâu, phía ngoài cổng trại. Nửa
giờ sau, ngọn lửa đã được dập tắt, một đoàn cán bộ và công an võ trang lại vào
mở khóa, ngay lán của chúng tôi. Thoáng nhìn tôi thấy cả Tôn, Tằng, cán bộ toán
tôi và trực trại, tên Hường đứng trước cửa cầm tờ giấy dõng dạc :
- Anh ĐCB nghe đây: Anh
giấu than trong cầu bào, than đã ngún lửa, cháy cầu bào. Lệnh của ban giám thị,
ĐCB bị kỷ luật một tuần, hạ mức ăn 13 kg.
Không ngờ nguyên nhân
vụ cháy lại là do chính tôi, chỉ vì kỳ này tâm hồn “bay lên cây” cả rồi. Tôi đã
cập rập, vội vàng, lú lẫn giấu than như mọi khi trong cầu bào, nhưng hôm nay đã
không coi kỹ, than hãy còn tí lửa, ngún dần đến 10 giờ thì cháy lên.
Tôi ôm chăn chiếu vào
nhà kỷ luật, trong đó đã có 2 – 3 cậu hình sự cũng đang bị cùm. Loại cùm suốt,
giống như ở trại giam Hà Tĩnh tôi đã bị cùm. Cùm loại này chỉ là hàng cháu,
hàng chắt của cái cùm Hỏa Lò. Hạ mức ăn 13 kg, chứ dù 7.50 kg một tháng, đối
với tôi cũng chẳng nhằm nhò gì lúc này. Cái quan trọng, cái làm tan nát lòng
tôi bây giờ là, tình hình chiến sự ở miền Nam.
Tôi bị cùm chừng 5
ngày, một hôm một em tù hình sự cùng suốt cùm với tôi, đưa cho tôi một miếng
giấy cuộn tròn nhỏ xíu:
- Chú ơi! Có một chú ở
gian đầu nhà kỷ luật này, bảo cháu trao giấy này cho chú! Cháu nghe nói chú ấy
là Nguyễn Hữu Luyện, Đại Uý Biệt Kích trong Nam ra Bắc hoạt động. Chú ấy hiện
giờ mức ăn kỷ luật, nhưng không bị cùm.
Trong bóng điện mờ mờ,
Tôi mở miếng giấy ra; chữ viết bằng bút chì nguyên văn:
Chào anh Bình! Anh hãy
yên tâm! miền Nam của chúng ta sẽ không sao cả! Ít ngày tới anh sẽ biết!
Tôi đọc miếng giấy ân
tình, đăm chiêu một lúc! Trước hết tôi xúc động, cảm ơn anh Luyện, tôi chưa hề
biết gì về anh, thế mà anh đã gửi lá thư động viên cho tôi. Bình thường như mọi
khi, trường hợp này là tôi đôn đáo, xúc tiến để liên lạc với anh. Anh không tìm
tôi, tôi cũng tìm đến anh. Nhưng bây giờ cơ thể tôi như con gà đang bị “dịch”,
tinh thần của tôi thì đã bay lên cây mất rồi, nên tôi chả muốn gì hết! Tôi chả
cần hỏi em hình sự bằng cách nào và đường dây nào, để mảnh giấy này đến tay
tôi? Hẳn anh Luyện nghĩ anh là
Đại úy, lại mới ra Bắc
sau này, anh nắm vững được tình hình hơn, nên anh có trách nhiệm, làm yên lòng
anh em đã từ lâu, không thể biết hiện tình.
Tôi hiểu thế, và lòng
tôi vẫn xúc động biết ơn anh vì tình chiến hữu, cùng mầu cờ sắc áo, cùng không
may đã rơi vào tay kẻ thù. Cũng mừng cho anh, một mình ở trong một gian nhỏ,
không bị cùm xích, như một hình thức kiên giam. Anh đã viết thư an ủi, động
viên tôi nhưng anh Luyện ơi! Tôi còn hiểu, không phải anh mà cả những vị lãnh
đạo ở miền Nam cũng chưa nhìn từng điều kiện, hoàn cảnh của mỗi giai đoạn, cho
nên còn mơ hồ là Mỹ, sẽ mang quân vào cứu.
Chúng ta gạt bỏ một
điều khách quan: Với cái điều kiện cuộc chiến ở VN vừa qua, dù Mỹ có bom,
nguyên tử, khinh khí cũng không bao giờ dám dùng. Nếu Mỹ khùng, Mỹ dốt, Mỹ kém
mà dùng là Mỹ tự sát. Không những cả nhân dân thế giới ngăn chặn, mà chính ngay
nhân Mỹ, trong chính quyền Mỹ sẽ sớm muộn giải quyết, kẻ nào quyết định dùng
bom nguyên tử. Vậy chúng ta chỉ bàn về chiến tranh thông thường, với những vũ khí
thông thường.
Nếu chịu khó suy sâu,
nhìn kỹ tình hình miền Nam từ 1965 (Mỹ mang quân đầu tiên) cho đến 1971 -1972,
trận Nam Lào, trận Khe Sanh v.v. . . Nói theo lối bình thường dân gian: Có “các
vàng Mỹ cũng không dám ” mang quân trở lại miền Nam nữa. Mỹ mà không dám thì
không có một nước nào khác, một khối quân sự nào khác lại dám xông vào.
Xin hãy khách quan để
xét vấn đề: ở đây chúng ta không nói hay chưa nói về chính trị, mà chỉ đơn
thuần về quân sự. Xin hãy tìm đọc lại những báo chí, những bài nhận định, bình
luận của những giai đoạn chiến tranh ở miền Nam. Ngay của phe ta (thế giới tự
do) hay những nước trung lập, thành phần thứ 3 dân tộc chủ nghĩa phân tích,
nhìn nhận.
Tổng quan:
- Phong cách chiến đấu.
– Phương tiện chiến đấu. – Tinh thần chiến đấu. – Phục vụ một người quân nhân.
– Nhu cầu của một quân nhân v.v. . .
Rất nhiều những nhà
bình luận quân sự, những chiến lược, chiến thuật gia đều đánh giá chung để
tương quan ngoài chiến trường.
Nếu bên cộng sản là
1, thì Mỹ đồng minh phải 12.
Nghĩa là :
Nếu cộng sản có một
khẩu súng, Mỹ và đồng minh phải có 12 khẩu. Nếu cộng sản có một xe tăng, Mỹ
và đồng minh phải có 12 xe tăng. Nếu cộng sản có một viên đạn, Mỹ và đồng
minh phải có 12 viên. Kinh phí cộng sản đài thọ cho một bộ đội, kinh phí Mỹ
phải có 12 lần hơn v.v. . .
Tôi không rõ họ đánh
giá có chính xác hay không? Họ nhìn tổng quan, mặt này bù mặt kia chăng? Chứ
tôi cứ xét một quân nhân, về lương lậu đài thọ: Mỹ không phải 12 lần hơn mà mấy
chục lần hơn phía cộng sản.
Một tên Việt Cộng chiến
đấu, có khi chỉ một cái quần đùi, một áo cánh nâu. Đâu họ cũng nằm được, chướng
ngại hoàn cảnh nào cũng tích cực chiến đấu được, chui rúc chỗ nào cũng xong. Họ
ăn uống thì nếu cần vài nắm gạo rang, với nước ao hay nước sông.
Ngược lại phía Mỹ, tôi
nghe nói: Đi trận phải mang theo giấy toilet , đầy đủ tiện nghi cá nhân, thậm
chí còn đem theo cả nước tắm nữa (sợ tắm nước Đông Á không hợp), nghĩa là quá
kềnh càng. Một tiểu đoàn chiến đấu phải có 2 tiểu đoàn phục vụ. Thành ra vừa
phí phạm vô ích, lại vừa hạn chế tính năng cơ động, của một người chiến binh.
Không chính xác nhưng
cứ ang áng chiều hướng đó, ta suy ra Mỹ là siêu cường, chứ có là siêu siêu
cường, cứ dần dần sẽ không thể chịu nổi, theo lũy tiến cuộc chiến này. Cho nên
ông Nixon, ông Johnson hay bất cứ ông nào, Đảng Dân chủ hay Cộng Hoà thì rồi
cũng phải tìm cách rút khỏi cuộc chiến hiện nay. Hơn nữa nước Mỹ còn hàng trăm
thư lo cho mình,còn áp lực phản chiến của nhân dân Mỹ nữa. Cuộc chiến ở Đông
Nam Á xa xôi, có phải là sống còn của Mỹ đâu? Vậy nếu chúng ta chửi là Mỹ đểu,
Mỹ bỏ bạn chiến đấu Mỹ v.v… là trách oan.
Phải nói cuộc chiến ở
Miền Nam là Mỹ không thể chịu nổi nữa, nên phải tìm cách rút chạy trong điều
kiện đỡ mất mặt mà thôi.
Cái điều đáng nói và
cần nói là: Tạo Hoá sinh ra con người, Ngài đã tạo ra cho mỗi người có 2 cái
chân. Trừ trường hợp tật nguyền bẩm sinh hay không may trong quá trình sống.
Mỗi một người phải có ý chí tự cường, tự túc, đứng thẳng bằng đôi chân của
chính mình. Không dựa dẫm bất cứ cái gì, bất cứ ai, đương nhiêu không dựa được
thì đổ. Một nước cũng thế! Chứ như tuyên bố của một vị tổng thống:”Viện trợ 700
triệu thì đánh theo 700, viện trợ 300 triệu thì đánh theo lối 300″. Nếu sự việc
này có thật, nó nói lên nhiều vấn đề lắm!
Đúng bẩy ngày tôi được
tha kỷ luật, lại trở về lán làm mộc. Tôi phải tiếp tục lao động hàng ngày, nên
trừ lúc tôi còn trong kỷ luật ăn 9 kg, bây giờ tôi lại trở về mức ăn bình
thường 15 kg. Những điều này làm sao tôi còn quan tâm đến. Hàng ngày những tin
tức miền Nam đã làm lòng tôi thiu sượng, rữa ra rồi. Hôm nay đã 9/4 quân dân
miền Nam thương yêu của tôi, đã rơi vào cái thế “cuốn chiếu”. Lúc này dù bất cứ
ai, dù có tài thánh cũng không thể còn cứu giúp miền Nam, được nữa. Trừ trường
hợp dùng bom nguyên tử, cái mà tôi đã gạt bỏ đi rồi.
Với sự xét luận của
mình, tôi đã thấy trước, thấy đã từ gần 2 năm xưa. Thế mà sao lòng tôi vẫn rách
nát, vặn vò nghe những sự việc diễn tiến từng ngày, ở miền Nam ruột thịt lúc
này. Tôi nhìn những cây “bàng lăng” vô tri bên cạnh lán mộc, cành lá vẫn vung
vẩy với gió. Nhìn cả mấy con chim câu đang đùa bỡn rúc mỏ vào nhau, trên nóc
nhà trực trại, lòng tôi như muốn hỏi chúng:
“Chim ơi! Cây ơi! có
hiểu lòng tôi đã ung thối thế nào không?”
Hôm nay đã 20/4 tôi
chẳng còn muốn chạy sang bác Tiến, anh Bưởi và nhiều bạn tâm hồn khác, cả Lý Cà
Sa, Lưu Nghĩa Lương v.v… để bàn luận tình hình nữa. Tôi chỉ muốn không biết gì
nữa! Tôi cố không muốn rơi vào những chuyện bình thường của cuộc đời: Khi vui,
khi thắng, khi thành công, thì tay bắt mặt mừng, liên hoan, chúc mừng v.v…
Nhưng khi hư hỏng, thua lỗ, thất bại thì quay ra vặc nhau, hết đổ lỗi cho người
này, lại người kia của bất cứ một đoàn thể, một công ty, hay một nước nào.
Có thể vì tôi kỳ này ít
ăn, nên sức yếu hoặc ít ngủ hay bị cơn gió không lành. Chiều hôm qua tôi đang
đứng nói chuyện với mấy chủng sinh: bỗng hoa mày chóng mặt rồi tôi không biết
gì nữa. Khi tôi tỉnh dậy; các anh Nguyễn Thanh Đương, Nguyễn Quốc Anh và Phùng
Văn Tại đang xoa dầu, nắn bóp tay chân của tôi. Các anh nói, tôi ngất xỉu té
xuống sân trại, các anh đã kịp đưa vào trong buồng xoa dầu, cao. Dù thế nào tôi
cũng xin cảm tạ Chúa cho tôi sống, cảm ơn các anh, bạn bè đã tương trợ, cưu
mang.
Rồi cái ngày 30/4/1975
phải đến…. và đã đến. Cái ngày mà cả miền Bắc cũng như miền Nam, không ai là
không biết đến. Trong chốn ngục tù tăm tối, cái ngày 30/4/1975 đến với tôi, như
một mốc nghiệp của đời. Xoá đi hết những hy vọng, những mộng mơ, những viễn
tưởng. Đồng thời những cùm kẹp khổ đau của tôi, những đói khát đọa đầy, cả tuổi
xuân hoa mộng của tôi đều trở thành con số Zêrô to lớn.
Tôi nghĩ đến đoạn chì
mật duy nhất, tôi còn cất giấu. Tôi cứ tưởng, cứ đinh ninh đã phòng hờ cả 2
hướng tốt và xấu. Tốt là nếu có điều kiện sẽ dùng nó, để hoạt động trở lại. Xấu
là tôi quyết đem theo nó, về lòng đất với tôi. Ai ngờ đâu, lại có hướng thứ 3.
Tôi đã moi đoạn chì mật trong riềm gấu, của chiếc áo soọc tù đã cũ rách, và tôi
đã tự hủy nó. Bây giờ:
Với tôi… tất cả… đều vô
nghĩa
Tất cả…. không ngoài
nghĩa… khổ đau!
(Chế Lan Viên)
Nhưng sau cái ngày đen
tối ấy đến, một đêm tôi chợt lóe lên một ý niệm: Sống, tôi cần phải sống, can
đảm nhận lãnh cuộc sống này để…. sám hối…. Để chuộc cái lỗi lầm, tội lỗi với
những thương đau, khốn cùng của đồng bào từ đây, và cho những ngày tới, mà chính
tôi đã góp phần gây ra. Không làm tròn một trách nhiệm nhỏ, được đất nước trao
cho.
Sau cái ngày 30-4-1975, cái ngày Dương Văn Minh đại diện
quân nhân miền Nam, tuyên bố đầu hàng cộng sản vô điều kiện. Dù tâm niệm là
cần phải sống, nhưng con người tôi như không còn hồn, vẫn như một cái xác biết
đi. Đã giữa tháng 5, đã có những chú ve sầu rả rích, nỉ non than vãn trong
những cây rừng chung quanh trại. Tôi vẫn đội một chiếc mũ dạ rách vá 2 – 3 mầu,
trùm đầu, trùm tai chẳng còn muốn nói chuyện với ai. Râu ria, tóc tai không cần
cắt, không cần cạo, lang thang một mình, miệng luôn lẩm bẩm một câu duy nhất: Riêng tôi một mình… tâm tư sầu
lắng đi trong… bùi ngùi…
Khoảng gần cuối tháng
5, họ chuyển tôi về toán làm gạch. Theo cái hiểu biết của mọi người tù, toán
gạch là một toán làm nặng, bùn đất, nắng mưa; cho nên phải về toán gạch có
nghĩa là bị phạt, bị trừng giới trong tù. Tôi được chuyển vào khu II ở nhà A.
Cán bộ phụ trách toán gạch là trung sĩ Hoàn người lùn tịt nhưng thuộc loại hắc
ám, ác ôn. Địa điểm làm việc của toán gạch thật xa trại đến hơn 2 cây số.
Làm gạch có nhiều khâu:
Khâu lấy đất, nhào đất, khâu đóng khuôn, phơi gạch, khâu vận chuyển về lò nung
v.v… Vì tôi là lính mới, chưa biết cách làm ở các khâu khác, nên họ phân công
vào một nhóm hơn chục người vận chuyển, gạch thô về lò. Gạch thô là gạch chưa
nung, còn ở sân phơi, mỗi một viên nặng gần 2 Kg.
Mỗi người quang gánh
với 2 cái sọt, người gánh yếu nhất cũng phải mỗi bên sọt 5 viên, như vậy cũng 2
chục kg trên một đoạn đường gần 1000m. Người trung bình mỗi bên sọt 10 hay 15
viên gạch. Trong tổ, cá biệt có anh Thanh, do “tinh thần phấn đấu thi đua”,
gánh mỗi bên 20 viên, như thế cũng gần một tạ rồi. Gánh gạch hay làm ở các
khâu, có tổ trưởng ghi đếm từng ngày. Về toán gạch, tôi cũng có một chút vui vui.
Một buổi tôi thoáng thấy bóng Nguyễn Chí Sơn, anh chàng đầu 1972 đã trốn tù ở
trại trung ương số I Lào Cai, thế mà bây giờ 1975 lại thấy lao động ở khâu đóng
gạch này.
Tôi nhớ Chí Sơn, tập
kết ra bắc theo đảng VC. Năm 1964 Sơn đã thấy được bộ mặt thật của con Hồng
Tuộc, nên đã vượt tuyến vào Nam (Thép Đen III). Ngay trong nhóm vận chuyển gạch
này lại có cả Lưu Nghĩa Lương, chắc cũng bị đầy ra toán này. Lúc đầu về toán
gạch tâm trạng “mũ ni che tai “để qua cầu, nên tôi gánh mỗi bên sọt 5 viên
gạch. Được 2 – 3 ngày cái vai nó sưng, đau nhức lòng tôi càng bế tắc, bi đát.
Tôi đã hiểu và hiểu đến
đáy, càng chán chường, sầu não càng chóng tàn lụi; nhưng lúc này tôi không còn
quan tâm đến bất cứ thứ gì. Hôm sau tôi khai bệnh nghỉ, không đi làm. Chúng
không cho nghỉ, chúng bắt trật tự, toán trưởng lôi kéo.
Thậm chí có ngày chúng
được lệnh lôi tôi xềnh xệch, từ trong sân ra ngoài cổng trại, để theo toán. Ra
ngoài hiện trường, tôi liều lĩnh muốn ra sao thì ra, mỗi bên sọt tôi để 1 viên
gạch, rồi gánh theo nhóm. Tên Hoàn tức ứ ra mặt, đã mấy lần lão định đến đấm đá
tôi, chắc y đã báo cáo về giám thị nhiều lần và chắc giám thị cũng xem hồ sơ
của tôi. Tôi là dạng tích cực lao động, một con người năng động cải tạo tiến
bộ, mà bây giờ lại như thế, chắc họ đã đoán ra ngày 30-4 miền Nam mất đi, phải
có liên quan!
Một buổi nhóm gánh gạch
chúng tôi sắp về tới lò nung, phải đi qua chiếc nhà con, của cán bộ toán. Xa xa
ở một cái lều con, ngay cạnh đường, tôi thấy 5 – 6 cán bộ áo vàng, các anh em
đã nhìn thấy đều lộ vẻ nghiêm trang lo lắng. Có cả thiếu tá Thích, giám thị
trưởng của trại trung ương số 2, Phong Quang!
Tôi đoán, tên Thích này
đã nghe báo cáo: Tên ĐCB gánh mỗi bên chỉ có một viên gạch; hôm nay lão thân
chinh ra tận hiện trường xem thực hư? Phần tôi, nếu bây giờ quá sợ sệt, tôi xin
anh em vài viên gạch bỏ thêm vào sọt, thì cảm thấy hèn quá! Dứt khoát, dù có bị
bắn vẫn tiến bước! Khi nhóm đi qua 5, 6 tên cán bộ, chúng đều quay ra gườm gườm
nhìn. Tên Thích đeo chiếc lon thiếu tá, hai tay chống cạnh sườn tiến ra chỗ tôi,
anh em đều cúi đầu chào: Thưa ban!
Tôi không nhìn y, nhưng
cũng làm theo! Mắt y quắc lên, trắng như mắt cá mè. Khi tôi đi ngang qua, y gọi
giật lại :
- Anh Bình đứng lại!
Tôi gánh 2 viên gạch
đứng im. Bước lại gần, y cầm hai viên gạch đưa sát mặt tôi, nói như quát :
- Anh vất mẹ cái quang
gánh đi! Hãy cầm mỗi tay một viên này, mà đi!
Hai tay tôi đỡ hai viên
gạch từ tay y, rồi lại cắm cúi đi theo tổ, trước hàng chục con mắt tưởng phụt
lửa của lũ áo vàng và gần 2 chục con mắt lấm lét của anh em tù.
Vắng lặng, ngột ngạt
căng thẳng, tôi biết tên Thích đã kìm chế mạnh lắm. Tôi đã chuẩn bị đón nhận,
một trận cuồng phong của y. Khi tổ trở lại thì đám áo vàng đã đi đâu hết, chỉ
còn một tên vũ trang đeo súng, đứng lơ ngơ bên ngoài văn phòng, của tên cán bộ
toán. Tôi tự hiểu, chiều nay và những ngày tới tôi sẽ gánh những hậu quả của
việc làm này.
Trong một nhà tù kín
mít hàng ngàn tù nhân, trưa và chiều hôm ấy, cái chuyện ĐCB gánh mỗi bên quang
một viên gạch, làm đầu câu chuyện, để nhiều anh em bàn tán kháo nhau. Ngày hôm
sau, chiều tan tầm, đoàn tù của toán gạch lếch thếch uể oải, trên đường về trại
như mọi ngày. Khi toán đến một khúc quành, đột nhiên có 3 tiếng súng phía hàng
đầu. Hai tên công an vũ trang cầm ngang, 2 khẩu CKC và tên cán bộ Hoàn nhớn
nhác, hùng hục quát tháo ầm ĩ :
- Cả toán tập trung
lại, anh Dậu điểm con số toán!
Chúng tôi phải xếp hàng
đôi, vón lại cho anh Dậu điểm người, và đã biết là Nguyễn Chí Sơn. Chí Sơn đã
làm cho tên vũ trang đi cạnh mất cảnh giác, trong một khúc quẹo, anh đã lỉnh
nhanh vào một vạt rừng giang.
Tôi nhìn vào cánh rừng
trong chiều muộn, khoảng 3 chục mét cách đường đi. Một vài đống giang chặt từ
tuần trước, còn xếp đấy. Khi đã biết rõ là Nguyễn Chí Sơn, mấy tên vũ trang và
tên Hoàn, bắt toán nghiêm chỉnh xếp hàng đôi, tiếp tục đi về trại.
Những lần khác tôi
không biết, cụ thể tại trại Trung Ương số 1, Sơn đã trốn ở thùng phân nhà cầu,
hơn bốn năm trước. Anh chàng Nguyễn Chí Sơn này cũng như Lê Sơn ở phân trại E,
đều là người của họ, đã có nhiều công lao trước đây với chúng. Vì thế chúng đã
không hành hạ tới chết, chứ loại chúng tôi, mà chúng bắt được, thì khó mà tồn
tại.
Tôi đang miên man về
hai anh chàng Sơn, tiếng chó cắn ở một khúc khuất vắng, văng vẳng đến. Sáu, bẩy
tên công an vũ trang với ba con chó to, cao, lo le ba cái lưỡi đỏ lòm, rầm rập
chạy ngược từ phiá trại ra. Gặp đoàn tù đang líu ríu về trại, chúng hội ý với
mấy tên cán bộ của toán, rồi dắt chó chạy xô toả vào rừng giang. Nhìn cảnh bố
ráp săn đuổi của lũ áo vàng, tôi rất lo lắng cho Sơn.
Tôi biết Sơn đã từng là
đặc công khu Ba Lòng, vừa lanh lẹ vừa tinh khôn, nhưng vẫn phải cần những may
mắn, của đời hỗ trợ. Cả trại chiều hôm ấy đều được lệnh ăn cơm sớm, vào buồng
điểm số ngay.
Trăn trở tâm tư khắc
khoải, trong lo âu lẫn chán chường cả ngày, nên tôi nằm xuống là đi ngay vào
một giấc mịt mùng vô thức. Tiếng ồn ào ở trong buồng, rồi tiếng giật giọng của
ai: “Chí Sơn”! Tôi bò nhổm dậy. Qua lỗ vách nứa đan, bẩy, tám tên áo vàng, quần
ống cao, ống thấp. Một tên cầm một sợi thừng, đang kéo Chí Sơn bị trói giặt
cánh khỉ, đi ở giữa. Hơi ngạc nhiên, ở phân trại E hoặc phân trại A trại tù
Trung Ương số 1, đã mấy lần tôi nhìn thấy cảnh lũ áo vàng bắt được tù trốn,
thường nằm trên mấy đòn cây rừng mang về.
Bởi khi bắt được tù
trốn, chúng thường phì nỗi bực tức căm giận, vì mệt nhọc lùng xục tìm tòi, qua
những cẳng chân, nắm tay hay những chiếc gậy vào người tên tù, thì còn làm sao
mà đi được. Nhưng Chí Sơn chỉ bị trói dong về trại, chắc rằng chúng đã được
lệnh nghiêm ngặt không được đánh, vì Sơn chỉ là đối tượng, mâu thuẫn nội bộ?
Ở trong trại, những
ngày cuối tuần hay những giờ không đi lao động, anh Bưởi và Lương thấy tôi buồn
ít nói, nên hay rủ tôi tới thăm uống trà, với anh này anh kia như: Kiều Duy
Vĩnh (nghe nói là một đại úy thời Liên Hiệp Pháp) hay anh Nguyễn Chí Thiện, hoặc
anh Phùng Cung v.v… (những thi nhân phản kháng trong nhân văn giai phẩm). Tôi
đều từ chối, tránh xa những chỗ đông người. Tuy ra vào khu có nhìn thấy nhau,
nhưng chưa hề tâm sự với ai, vì giai đoạn này tôi có còn hồn đâu!
Trưa hay chiều, tôi hay
lang thang một mình ra phía sau lán, ngồi vắng lặng đăm chiêu, cho hồn lửng lơ
hay đi chơi đây đó! Một buổi trưa mắt tôi lững lờ, lần theo một bóng người với
chiếc cần câu, phải nói là một chiếc que nứa dài hơn 1m. Bóng đó cứ loay hoay,
thả câu trong một cái ao con. Phải nói là cái rãnh con, đầy bèo tấm, nước đen
ngòm. Tôi đoán chiếc ao con này, (bên trong hàng rào trại) khi làm trại người
ta đào lấy đất đắp, mấy cái nền của lán trại. Do năm tháng, và mưa nắng thành
một rãnh nước tù, như những người tù trong trại.
Thỉnh thoảng tôi cũng
thấy có tiếng động trong đám bèo tấm. Chắc chỉ là mấy con ngóe, con ễnh ương
chứ không phải là cá. Cá ở đâu vào đây? Và nếu có do trời mưa, thì lấy cái gì
để mà ăn, nước lại đen thẫm như vậy!
Bỗng bóng người đó giật
mạnh chiếc que nứa! Rõ ràng một chú cá trê đen thẫm, như mun tung lên cao, ngọ
ngoạy mấy cái rồi lại rơi tõm, xuống chiếc rãnh màu đen mất tiêu. Tôi chạy bổ
đến, ra là anh Bùi Tâm Đồng, anh đang ngẩn ngơ nhìn xuống chiếc ao đen, tay mân
mê chiếc lưỡi câu. Tôi háo hức vồn vã:
- Tiếc quá! Tôi cũng
tiếc cho anh!
Anh xòe tay rồi đưa cho
tôi một chiếc xương hàm trên, của con cá còn dính ở lưỡi câu :
- Đây anh xem, nó đã bị
xứt hàm rồi, chắc chả bao giờ còn dám cắn câu nữa.
Rồi anh nói thêm như
giãi bầy :
- Tôi đã rình và chuẩn
bị hơn 2 tháng nay, qua hiện tượng động tĩnh sau những trận mưa, tôi xác định
chiếc rãnh này có một con cá, mà tôi còn đoán được là cá trê nữa! Tôi phải tìm
thép, chặt ngạnh uốn thành một lưỡi câu, rồi tôi phải hy sinh một miếng tóp mỡ,
mẹ tôi hồi tết mò mẫm lên tận đây tiếp tế. Cũng hàng tuần lễ nay, hôm nay nó
mới cắn, thì chỉ được mỗi cái hàm trên của nó.
Để cho câu chuyện tôi
và anh gần gũi nhau hơn, và cũng để khích lệ, tôi động viên :
- Yên chí anh Đồng ơi!
Nó vẫn là một sinh vật, đói phải ăn, hãy kiên trì!
Và rồi mãi hơn một
tháng sau, một trận mưa đêm thứ Bẩy, ngày Chủ nhật tôi và anh Đồng đã lại câu
được chú cá trê ngày ấy. Hàm trên của chú cá đã thành sẹo, trông chú giẫy như
một người bị tật méo mồm. Nhìn con cá trê gầy nhẳng, tuy không to nhưng tôi chắc
nó đã già lắm rồi!
Không phải nó không
biết, nó không rút kinh nghiệm, có khi nó đã tự thề hứa là không còn bao giờ
cắn những cái loại vớ vẩn ấy nữa! Đã làm mình mất cả xương hàm trên, lại còn
bay lên trời như pháo thăng thiên nữa. Thà đi kiếm chác con sâu, con bọ ở mé
bờ, cùng lắm thì mấy cánh bèo mà sống. Nhưng….. Như tôi đã nói chữ “nhưng” ở
đời, con cá cũng không thoát khỏi chữ “nhưng”. Đói quá! Chẳng có con sâu, con
bọ nào cả, suốt ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác chẳng có một
cái gì, ngoài những cánh bèo. Thôi thì, nếu có phải “đớp” vào là sẽ chết, thì
cũng xin một lần, vì thế cậu cá trê ngày ấy lại sơi nữa. Và bây giờ chúng tôi:
Anh Đồng và tôi, chạy chọt ngoại giao được tí muối với một cái lon Guigoz.
Chiều nay sẽ có một bữa tơi bời hoa lá cành, với chú cá trê này.
Chúng tôi xốn xang tất
bật chuẩn bị nhiều mặt; lửa đóm canh gác, bí mật chỉ có 2 người thôi. Khi cắt
đôi con cá, thấy ruột nó ngắn một tị chừng 2 phân toàn đất thôi. Lá gan và tim
của nó cũng tí tẹo, khác hẳn với một con cá to bằng thế, mà ở điều kiện bên
ngoài. Chưa nói, khi mỗi người có một phần, bắt đầu thưởng thức thì ôi thôi!
Thịt của nó như mùi con bọ xít của cây bí ngô, bí đao, nó vừa khăn khẳn lại vừa
nồng nồng. Tuy thế chúng tôi cũng vui vẻ và nhăn mặt, trợn mắt chén hết!
Ngày 19/2/76, buổi
sáng, tôi đang ngồi trong hàng chờ toán xuất trại như mọi khi, tên Hường trực
trại đọc tên tôi ở lại, chuẩn bị công tư trang, chuyển trại.
Đã từ lâu tôi xác định,
mình bây giờ như một món đồ vật, vậy tùy chúng muốn đưa đi đâu thì đi, muốn để
ở đâu thì để. Không đâu xa, chúng chuyển tôi ra phân trại A.
Đây là trại chính của
trại Phong Quang, trung ương số Hai Yên Bái có tên tổng giám thị là thiếu tá
Nguyễn Trọng Thích trực tiếp phụ trách. Chung quanh trại có tường xây như bên
trại chính phố Lu, Lào Cai. Bên trong có 7 – 8 ngôi lán tù cũng bằng tre, nứa,
gỗ như trong phân trại B, tôi vừa chuyển đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét