Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm – Đả Đảo Cộng Sản - Sau 50 năm tết Mậu
Thân, một cái Tết ghi rõ tội ác của cộng sản vô thần Việt Nam, đánh dấu một vết
nhơ trong lịch sử Việt với cả chục ngàn người chết, bắt đầu đúng vào đêm Giao
Thừa, thời điểm linh thiêng mà mọi người dân Việt tưởng niệm công ơn các anh
hùng, liệt sĩ, ơn đức sinh thành dưỡng dục của ông bà, cha mẹ, thì cộng sản xé
bỏ hiệp định đình chiến vào 3 ngày Tết, khai hỏa và tạo ra những cuộc thảm sát
khắp miền nam Việt Nam. Cao điểm là cuộc thảm sát dã man tại Huế.
Lịch sử cận đại Việt Nam, từ ngày Hồ Chí Minh,
được Đệ Tam Quốc tế Cộng sản đưa về, rồi nổi lên cướp chính quyền ngày
19/08/1945, đặt Việt Nam vào gông cùm cộng sản, biến đất nước trở thành bãi
chiến trường của cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản mà dân tộc Việt là nạn nhân.
Từ đó đến nay, không một biến cố chính trị lịch sử quan trọng nào của Việt Nam
mà không có bàn tay quốc tế. Đúng hơn là của các siêu cường: Từ Hội nghị Genève
1954, qua Hội Nghị Paris 1973, tới Hội Nghị Thành đô 1990: Genève chia đôi nước
Việt Nam, Paris làm mất miền Nam, Thành đô dâng đất, nhượng biển cho Tàu cộng.
Tất nhiên trong đó có cuộc tấn công của cộng sản vào dịp Tết Mậu thân 1968, đưa
đến cả chục ngàn người chết, máu chảy thành sông, xương chất thành núi.
Vậy chúng ta hãy nói sơ về hoàn cảnh chính trị
và lịch sử thế giới của cuộc tấn công này.
Thật vậy, có người nói: "Hai tội đồ của
dân tộc Việt Nam trong lịch sử cận đại là Hồ Chí Minh và De Gaulle". Điều
này quả không sai.
Hồ Chí Minh, vì nghe lời Đệ Tam quốc tế Cộng
sản, đã du nhập ý thức hệ Mác Lê, áp đặt lên đầu dân tộc Việt, chủ trương đấu
tranh giai cấp, bạo động lịch sử, xúi con đấu bố, vợ tố chồng, anh em, bè bạn
sát hại lẫn nhau, gây ra không biết bao đau thương, tang tóc cho dân tộc.
Thêm vào đó, De Gaulle, sau khi theo chân đoàn
quân Đồng minh, trở về Paris, có được chính quyền, đã quyết định lập tức gửi
quân sang Đông Dương tái lập lại nền thuộc địa Pháp, trái với tinh thần công
pháp quốc tế của 2 Hội nghị Yalta và Potsdam. Chính vì vậy mà Việt Nam đã trở
thành chiến trường của cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản và dân Việt là nạn
nhân.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân nhằm đúng vào cao
điểm của cuộc tranh hùng này. Nói khác đi là cao điểm của Chiến Tranh Lạnh.
Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau khi Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) chấm dứt.
Hai cường quốc dẫn đầu cuộc chiến tranh này: một bên là Liên Sô, bên kia là Hoa
Kỳ.
Khi nói đến các cường quốc, chúng ta không thể
không nói đến giới lãnh đạo của họ.
Phía cộng sản Liên Sô: Người lãnh đạo Liên Sô
suốt trong thời gian Đệ Nhị thế chiến cho tới thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh
là Staline. Ông chủ trương đẩy mạnh Chiến tranh lạnh, như việc phong tỏa thành
phố Berlin năm 1948, đứng đằng sau việc giúp đỡ Kim Nhật Thành, ông nội của Kim
Chánh Vân hiện nay, xua quân xuống miền Nam Triều Tiên, với ý đồ tiêu diệt chế
độ tự do, dân chủ của Lý Thừa Vãn, khiến Hoa Kỳ phải đổ bộ quân vào để giải cứu
năm 1950.
Nhưng vào năm 1953, Staline bị 2 người tay em
thân tín là Khrouschev và Béria đầu độc chết. Khrouschev lên thay và lãnh đạo
Liên Sô từ năm 1953 tới năm 1964. Ông này chủ trương hòa hoãn với tư bản, đưa
ra những khẩu hiệu như tư bản, cộng sản chung sống hòa bình, nguyên tử phục vụ
hòa bình.
Người ta có thể nói Khrouschev là một trong
những người lãnh đạo cộng sản đã nhìn ra sự sai lầm của chủ nghĩa này, qua câu
nói: "Mục đích chính của kinh tế là làm sao để tăng trưởng sản
xuất, chứ không phải là chia đều sản xuất" như Marx chủ
trương.
Hơn thế nữa ông còn là nạn nhân của chủ nghĩa
độc tài, độc đoán, tôn thờ cá nhân của Staline. Trong nhật ký của ông, ông đã
viết rằng mỗi đêm, khi nghe điện thoại của Staline kêu đi họp, ông đều phải
trăn trối với vợ con, vì không biết mình còn sống để trở về hay không. Staline
trong thời gian cầm quyền đã thủ tiêu 9/10 Bộ Chính trị và 2/3 Trung Ương đảng.
Tuy nhiên thời gian cầm quyền của Khrouschev
cũng không kéo dài, vì tình hình chính trị, lịch sử thế giới thay đổi nhiều.
Như việc Hoa Kỳ bị sa lầy ở Việt Nam, cuộc đảo chính nền Đệ nhất Cộng hòa Việt
Nam, tiếp theo là bất ổn chính trị với những cuộc đảo chính. Anh em Tổng Thống
Ngô Đình Diệm bị sát hại ngày 01/11/963. Chỉ 2 tuần sau thì Tổng thống Hoa Kỳ
bị ám sát ở Dallas.
Chính vì lẽ đó mà phe bảo thủ, chủ trương trở
về Chiến tranh lạnh, cầm đầu bởi Brejnev, trở nên mạnh, đã đảo chính
Khrouschev, và lên thay thế ông vào năm 1964.
Brejnev đã thuyết phục được Trung ương đảng
qua một chính sách gồm 2 kế sách, với một tiền đề: Đừng nghĩ tư bản mạnh hơn
cộng sản, mà phải nghĩ cộng sản mạnh hơn tư bản. Chiến lược của cộng sản không
thể là một chiến lược phòng thủ, mà phải là một chiến lược tấn công.
Chiến lược tấn công đó gồm 2 kế sách:
Thượng sách, đó là tấn công tư bản ở khắp nơi trên thế giới, ngay ở trong lòng những nước tư bản như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Ý v.v..., để tư bản sụp đổ, để ngọn cờ cộng sản có thể cắm ở mọi nơi.
Thượng sách, đó là tấn công tư bản ở khắp nơi trên thế giới, ngay ở trong lòng những nước tư bản như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Ý v.v..., để tư bản sụp đổ, để ngọn cờ cộng sản có thể cắm ở mọi nơi.
Trung sách, đó là, nếu không được, thì lấy
trục Sài gòn, Pnomph Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến. Bên phía
đông thuộc về cộng sản, phía tây thuộc về tư bản. Chia đôi thế giới.
Ông đã dùng 3 quốc gia làm con chốt của mình
để thực hiện chính sách này: Bên Nam Mỹ và châu Phi thì dùng Cuba của Fidel
Castro, bên Âu châu thì dùng Đông Đức của Honnecker, bên Á châu thì dùng cộng
sản Việt Nam của Lê Duẫn.
Lê Duẫn của Việt Nam gặp được Brejnev là như
cá gặp nước, hết mình tuân theo ông này, sẵn sàng làm con chốt lót đường, dù hy
sinh bao nhiêu sinh mạng dân Việt, nhất định đánh vào miền Nam.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân là nằm trong kế
hoạch quốc tế của Liên Sô, và Lê Duẫn nhất nhất thi hành.
Cũng bắt chước cách lập luận của Brejnev, Lê
Duẫn có viết một bài trong tạp chí Học Tập số 2.1964, nay là tạp chí Cộng sản,
mang tựa đề "Một vài vấn đề trong nhiệm vụ quốc tế
của đảng ta". Ông viết:
"...Nhìn tổng quát tình hình thế giới,
phân tích những đặc điểm và những qui luật phát triển của ba vùng (ba vùng: các nước
xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc chủ nghĩa và phong trào nhân dân lao động
trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa - chú thích của tác giả bài này), chúng ta thấy rằng, lực lượng của cách mạng, lực lượng của chủ
nghĩa xã hội và của hòa bình hơn hẳn lực lượng của đế quốc phản động và chiến
tranh. Chúng ta mạnh hơn địch. Vì vậy cách mạng không thể ở thế thủ, chiến lược
cách mạng không nên là thế thủ; mà cách mạng đang ở thế tấn công; chiến lược
cách mạng nên là chiến lược tấn công, phá từng chính sách chiến tranh một, đi
đến phá toàn bộ kế hoạch gây chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm đầu,
nhằm đánh lùi từng bước một và đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc, đi đến
thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc..."
Theo kế hoạch Thượng sách của Brejnev, vào đầu
năm 1967, một phái đoàn quân sự Liên Sô đã lén lút qua Hà nội, rồi bay qua Căm
Bốt, vào miền Nam Việt Nam. Sau một thời gian quan sát, họ đã đi đến kết luận
là chiến lược "Nông thôn bao vây thành thị", chỉ đánh du kích của Mao
Trạch Đông là hoàn toàn thất bại, phải nâng cao chiến lược lên hàng sư đoàn, và
bắt đầu bằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968.
Brejnev không phải chỉ tấn công ở Việt Nam, mà
tấn công ở trên toàn thế giới, từ Âu châu, với những cuộc khủng bố giết 2 người
Chủ tịch nghiệp đoàn chủ nhân ông ở Đức và ở Ý, ở Pháp, do đảng Cộng sản Pháp
đứng đằng sau, với sự hậu thuẫn của nghiệp đoàn thợ thuyền, sinh viên học sinh,
đã bắt đầu cuộc đình công vô tiền khoáng hậu, bắt đầu vào tháng 5/1968. Ở Mỹ cũng
vậy, những phong trào bị giới thiên tả trà trộn, cộng với phong trào sinh viên
học sinh đòi hòa bình cũng đã biểu tình. Người ta có thể nói, chế độ gần như bị
lung lay.
Tuy nhiên, chế độ tư bản bị lung lay, nhưng
không bị sụp đổ như Brejnev và những người cộng sản mong đợi.
Brejnev đành bước sang Trung sách: chia đôi
thế giới, lấy trục Sài Gòn, Pnomph Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới
tuyên, phía đông thuộc về cộng sản, phía tây thuộc về tư bản.
Tuy nhiên kế sách này bị một miếng xương mắc
họng. Đó là Trung cộng. Cuộc tranh chấp đòi quyền lãnh đạo thế giới cộng sản
giữa Trung cộng và Liên Sô trở nên gay gắt và cao điểm vào thập niên 70.
Và thế giới cộng sản hoàn toàn bị chia đôi,
khi Nixon gặp Mao vào năm 1972, rồi Brejnev chết năm 1983 và Liên Sô sụp đổ vào
năm 1990.
Trước khi chết, Brejnev thấy chính sách của
mình gồm Thượng sách và Trung sách hoàn toàn thất bại, đã phải than lên: "Xã hội chủ nghĩa gì mà tham nhũng, hối lộ lan tràn khắp nơi,
một phần ba xe chạy ngoài đường là ăn cắp xăng của công, một phần ba bằng cấp
là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là đến để có mặt, sau đó là làm việc
tư hay đi xem hát."
Trở về phía Hoa Kỳ với cuộc tấn công Tết Mậu
thân 1968.
Người Hoa Kỳ thay thế người Pháp ở Việt Nam
sau Hiệp định Genève 1954.
Người Tổng thống gửi quân, theo đúng nghĩa lúc
đầu là những cố vấn sang Việt Nam là ông Kennedy. Rồi ông này chết vì bị ám sát
năm 1963. Người kế vị là ông Johnson. Johnson đã gửi quân ồ ạt sang Việt Nam từ
năm 1965, đến cao điểm với cả nửa triệu quân vào thời điểm tấn công Tết Mậu
Thân 1968.
Chính sách về Việt Nam của cả 2 đời tổng thống
Kennedy và Johnson, là do ông Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mac Namara đảm trách,
bị mắc nhiều sai lầm.
Nhưng sai lầm lớn nhất, đó là Mac Namara nhìn
chiến tranh Việt Nam dưới khía cạnh kỹ thuật, quân sự, không có chính trị, cho
rằng cuộc chiến này có thể chiến thắng bằng vũ lực hùng hậu, với tiền bạc, vũ
khí.
Chính vì vậy mà có cuộc đảo chính chế độ Đệ
nhất Cộng Hòa miền Nam Việt, khi ông Ngô Đình Diệm đã có thể dựng lại ngọn cờ
quốc gia, bị chao đảo dưới thời Pháp thuộc. Khi Đệ Nhất Cộng hòa không còn nữa,
ngọn cờ quốc gia bị vùi dập, với những cuộc đảo chính liên tiếp và với sự có
mặt của nửa triệu quân Mỹ.
Johnson gửi quân đến mức cao điểm nhất, nhưng
vẫn không thể thắng cuộc chiến, đành phải nghĩ đến giải pháp chính trị, không
gì hơn là thương thuyết, công nhận Mặt trận Giải phóng Miền Nam, được dựng lên
bởi cộng sản Hà Nội năm 1960. Từ đó người ta đi đến Hiệp định Paris 1973. Mỹ
rút quân khỏi miền Nam và miền Nam sụp đổ 1975.
Miền Nam thất bại bởi nhiều nguyên do, trong
đó có sự sai lầm trong chiến lược rút quân của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tạo
ra khủng hoảng làm mất tinh thần dân quân, nhưng cũng có những nguyên do chính
do các cường quốc quyết định đó là chính sách tấn công tư bản của Liên Sô cộng
thêm với sai lầm chiến lược của Hoa Kỳ. Người Hoa Kỳ chỉ mong rút quân khỏi
chiến trường Việt Nam đã công nhận Mặt trận Giải phóng Miền Nam, một cộng cụ
xâm lăng của cộng sản Việt Nam, ép chính quyền miền Nam ký kết Hiệp Định Paris
với đầy bất công và thiếu sót. Và sự thiếu sót và sai lầm lớn nhất là không bắt
cộng sản phải rút toàn bộ quân chính quy khỏi miền Nam.
Nhìn lại cuộc tấn công Tết Mậu Thân chúng ta
thấy cộng sản Việt Nam đã tạo ra một trang sử đẫm máu và đau thương nhất, là
một sự lừa đảo, giết người lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Ngày hôm nay, bắt
đầu bởi sự mù quáng của Hồ Chí Minh, đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam
đưa đến hậu quả là Việt Nam đang bị đô hộ bởi Tàu lần thứ 5. Cuộc đô hộ này kéo
dài bao lâu là tùy ở tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của cả người dân
trong và ngoài nước, tùy theo những cá nhân còn tinh thần quốc gia dân tộc
trong hàng ngũ quân cán chính ở trong đảng cộng sản, tùy theo những tổ chức
quốc gia yêu nước. Ngẫm lại lịch sử, thời kỳ bị đô hộ nào cũng có những khó
khăn của nó, thể mà ông cha ta vẫn kiên cường đứng lên đuổi quân xâm lăng về
nước. Họ cũng không có một tấc sắt trong tay lúc ban đầu, họ cũng chẳng có
chính quyền. Cái mà họ có chính là chính nghĩa và lòng dân. Ngày hôm nay, những
người Việt quốc gia, yêu nước, cũng đang được lòng dân, có chính nghĩa, hơn nữa
chúng ta còn có thuận lợi, đó là mọi người Việt Nam đều nhận ra và lên án chính
sách bành trướng của Trung Cộng. Chúng ta phải tự lực cánh sinh, tự trông cậy
vào mình trước. Nhưng chúng ta cũng phải biết cập nhật hóa cuộc đấu tranh của
chúng ta, để cho nó theo kịp đà tiến bộ của nhân loại, đồng thời vận động sự hỗ
trợ của quốc tế, không nhất thiết một vài nước, mà càng nhiều càng tốt, không
nhất thiết là chính quyền, có thể là những tổ chức nhân quyền, đấu tranh cho tự
do, dân chủ quốc tế, không nhất thiết là những tổng thống, thủ tướng, ngoại
trưởng, mà có thể là những nghị sĩ, thượng nghị sĩ, những viện nghiên cứu, đại
học, không cần đi sao chép tư tưởng, ý thức hệ ngoại bang, như cộng sản đã làm,
mà cần dựa trên căn bản tư tưởng cổ truyền, được cập nhật hóa. Cuộc đấu tranh
cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do, Dân chủ, Nhân quyền còn có rất nhiều khó khăn,
tuy nhiên, chắc chắn nó sẽ đi đến thành công khi mỗi người Việt Nam chúng ta
chung vai sát cánh, biến ý thức thành hành động. (1)
Paris ngày 02/02/2018
Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm – Đả Đảo Cộng Sản
(1) Xin xem thêm những bài về Việt Nam và Trung cộng trên:
Những bài liên quan về tội ác của cộng sản trong Mậu Thân Huế đã đăng trên Danlambao:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét