TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 9
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
PHẦN HAI: Chiếc
Lá Giữa Dòng
Cơn sốt thời cuộc
Trong đêm khuya thanh vắng,
tôi trằn trọc không ngủ được và nằm ôn lại những biến động của cuộc đời như
đang xem cuốn phim quay chậm. Từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng-sản, mặc dù mới
một năm qua thôi, nhưng đời tôi đã trải qua một bước ngoặt quá lớn. Kể từ cái
ngày 30 tháng Tư đen tối đó, tôi cảm thấy mình đã sống trong một thứ nhà tù lớn,
có tên là “Nhà Tù Việt Nam”, để rồi hôm nay lại rơi vào một nhà tù nhỏ tại một
tỉnh lẻ Cao Nguyên.
Giờ này nằm đây, tôi
nghĩ ngợi miên man và để mặc cho dòng tư tưởng quay về quá khứ. Bất giác tôi nhớ
má tôi hết sức, đôi dòng nước mắt tôi chảy ra khi nhớ lại hơn tháng trước đây
tôi rời nhà, ngồi trên xe gắn máy của Thạnh, ra đi trong lúc má tôi đang bệnh nặng,
nhưng lúc bấy giờ tôi không đủ can đảm quay lại nói lời từ giã. Bây giờ má tôi
ra sao, nếu biết tôi lâm vào cảnh này liệu má tôi có chịu đựng nổi hay không.
Tôi hồi tưởng lại giai
đoạn tôi được chỉ định qua làm cha sở tại Nhà thờ La Mã, đúng hai tháng sau khi
cộng-sản chiếm miền Nam. Mặc dù chỉ ở họ đạo này một năm, nhưng tôi cũng đã là
chứng nhân và đồng thời cũng là nạn nhân của bao nhiêu cảnh nhố nhăng gây ra bởi
những hạng người mà dân chúng lúc bấy giờ gọi là “sâu bọ hóa kiếp làm người”.
Những con “sâu bọ hóa kiếp làm người” này đang ngất ngây vì say men chiến thắng.
Sẵn có quyền lực trong tay, họ làm mưa làm gió, hết trò này tới trò khác. Họ đã
hành sử quyền lực một cách thái quá, gây bao nhiêu thán oán trong dân chúng.
Tôi còn nhớ lúc đó, mỗi
buổi sáng tôi thấy cô trưởng ấp của tôi, người nhỏ thó, ốm tong teo như con
nhái mén, tay cầm roi tre đang “lùa” một tốp chừng 10 nghĩa quân chế độ cũ đi tới
từng nhà của “cách mạng”, bắt quỳ gối trước cửa lạy từng người trong nhà để xin
lỗi. Anh nào ương ngạnh không chịu quỳ là roi tre từ sau bổ tới! Màn kịch này
được diễn đi diễn lại khá thường xuyên.
Bản thân tôi cũng hứng
chịu bao cảnh uất ức nói không nên lời. Tôi còn nhớ một buổi trưa nọ, có một tốp
du kích đi ngang qua nhà thờ xứ đạo của tôi. Vài tên dừng chân trước núi Đức Mẹ
trước nhà thờ, chế giễu và nói những lời lộng ngôn phạm thượng. Sau khi tôi
ngăn can, bọn chúng tức khí vào nhà thờ lật các ảnh tượng xuống, đặt ghế lên đầu
các tượng thờ phượng. Tôi bảo thầy Đảm là thầy giúp xứ của tôi xuống xã trình
báo sự việc, nhưng bọn du kích đã rượt đánh và thầy giúp xứ phải trốn chạy
thoát thân. Hôm sau tôi làm đơn khiếu nại lên huyện và được trả lời: “Vì các đồng
chí ấy say rượu!” Thế là hết chuyện!
Thời điểm đó, cơn sốt
cách mạng dâng lên quá cao khiến cho nhiều người tự thấy mình cũng phải “cách mạng”.
Cách mạng trong lối ăn nói, bằng cách dùng thật nhiều từ cách mạng như Mỹ-ngụy,
đảng ta, khẩn trương, phản ảnh, tự giác, ý đồ. Cách mạng trong lối ăn mặc, bằng
việc mua vội chiếc mũ tai bèo, một đôi dép râu, một bộ quần áo đen bằng vải
nylon dầu, một khăn rằn quấn cổ, một cái xà-cột đeo vai.
Cách mạng văn hóa bằng
cách hát rỉ rả như dế kêu các bản nhạc thời thượng như bài “Chiếc mũ tai bèo”:
“Chiếc mũ tai bèo em gửi đến tay, khuya sớm em lo máy may càng nhanh, mối chỉ
đường kim theo anh đi giết thù. Anh bộ đội ơi, em ngồi em may mà lòng miền Nam
trong tim lửa cháy, có cả tình quê trong chiếc mũ tai bèo!” Hoặc “cao cấp” hơn
một chút thì rên rỉ bài “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”: “Cùng mắc võng trên rừng
Trường Sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Trường
Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây. Trường Sơn Tây anh đi, thương em bên ấy mưa nhiều,
con đường mà gánh gạo...”
Tình cảnh càng tệ hại
hơn do thái độ gièm pha của những kẻ xu nịnh đã lợi dụng thời cơ để nương gió
phất cờ. Chúng đã hiện nguyên hình là những quái thai của thời cuộc. Dân chúng
gọi bọn này bằng cái tên đầy mỉa mai là “Cách mạng ba mươi”! Chính bọn cách mạng
ba mươi này đôi khi còn ác ôn hơn đám Việt cộng có “môn bài”! Chúng lợi dụng thời
cơ gây ra không biết bao nhiêu uất ức trong dân chúng. Để chứng tỏ thái độ cách
mạng của mình, chúng đã biểu diễn nhiều trò quá đáng gây bao đau thương, phẫn uất
cho người dân vô tội. Từ đó nỗi bực tức của người dân đã phát ra thành câu ca
dao đen của thời cuộc:
“Việt cộng đứa giết đứa
chừa,
“Ba mươi” giết sạch
cho vừa lòng dân”!
Điều đáng buồn hơn nữa,
là ngay trong hàng ngũ các Linh mục lúc bấy giờ cũng có người nhi nha nhi nhô với
cái “tước vị” trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo của Việt cộng dựng lên. Họ đâu có
biết rằng, đây là thứ con đẻ của chế độ mới, một chế độ theo chủ thuyết vô thần,
muốn lợi dụng chính những người trong hàng ngũ các tôn giáo để gây chia rẽ rồi
đi đến khống chế và làm tê liệt hoạt động của các tôn giáo. Các đại diện trong Ủy
Ban Liên Lạc Tôn Giáo được ban phát cho một vài đặc quyền đặc lợi, và có người
đã cảm thấy hãnh diện để khoe khoang về điều này. Tôi còn nhớ câu chuyện đã xảy
ra cho chính bản thân tôi và khó quên được.
Lúc đó vào khoảng trước
lễ Giáng Sinh 1975, và tôi vừa qua làm việc ở tỉnh Bến Tre được sáu tháng. Ngày
kia, một cha bạn xứ đạo gần bên mời tôi tới dự tiệc cưới của cô cháu gái được tổ
chức ngay tại nhà xứ. Mặc dù hai xứ đạo chỉ cách nhau có sáu cây số, nhưng vì
khác xã và ở lại qua đêm nên tôi phải làm đơn xin phép đi đường. Đơn phải có
trưởng ấp chứng trước rồi xã mới ký sau.
Khổ nỗi, ngày đó cô trưởng
ấp của tôi đi bán dừa khô mãi xế chiều mới về, tôi chờ chực mãi rồi cuối cùng
cũng xin được chữ ký của cô. Lúc đó đã bốn giờ chiều, tôi vội vàng chạy xuống
xã vì sợ trễ giờ công sở đóng cửa. Cũng may là gặp ngay được ông chủ tịch Ủy
Ban Nhân Dân Xã kịp lúc nên xin đóng dấu ký tên vào đơn không khó khăn gì lắm.
Cầm được giấy phép đi
đường trong tay thì đã gần năm giờ chiều, mà tiệc cưới thì bắt đầu lúc bảy giờ
tối hôm đó, như vậy tôi còn được hai tiếng đồng hồ.
Nhưng trong hai tiếng đồng
hồ đó, tôi còn hai việc phải làm, là cuốc bộ sáu cây số và khi tới nơi, phải
trình giấy đi đường cho chính quyền địa phương sở tại đóng dấu ký tên vào, rồi
mới có thể an tâm vô nhà xứ dự tiệc cưới. Tôi phải làm cho đủ mọi thủ tục này vì
ngày hôm sau, khi về nhà tôi lại phải trình diện một lần nữa với chánh quyền xã
với đầy đủ bằng chứng là đêm qua tôi đã ở đâu, có đúng địa điểm như tôi đã ghi
trong đơn xin đi đường hay không.
Sở dĩ tôi phải lội bộ
vì trước đó mấy hôm chiếc Honda 70 của tôi hết xăng và không thể tìm mua được
xăng. Sẵn có dầu lửa, tôi đổ vào xe chạy thử vì có người nói xe Honda chạy “tạm”
bằng dầu lửa cũng được, chỉ tội là ra nhiều khói đen và 'bu-dzi' hay bị đóng chấu.
Tuy không an tâm, nhưng mua không được xăng thì phải đổ dầu lửa vào chạy chớ biết
làm gì hơn? Đổ dầu vào, đạp xe máy nổ ngon lành, có lẽ nhờ chỗ xăng còn sót lại.
Tôi chạy được vài cây số,
nhưng xe bắn khói đen mù mịt và cứ cà giựt, cà giựt với tiếng máy rống ò ò như
tiếng bò bị cắt tiết! Lúc ấy tôi nghĩ bụng: “Mầy muốn gào muốn thét kiểu gì
cũng được, miễn cứ chạy là được rồi!” Một lúc sau, bất thần tôi nghe khịt khịt
mấy tiếng và xe yếu dần. Tôi cố vặn tay ga làm chiếc xe nẩy lên nẩy xuống mấy
phát như người trúng phong đòn gánh rồi im lìm bất động. Tôi dựng xe lên và cố
lôi hết bao nhiêu kiến thức tôi biết về xe Honda như chùi 'bu-dzi', đóng mở chắn
gió.
Tôi hì hục hàng giờ mà
máy vẫn không nổ, chỉ còn nước đẩy xe về nhà dựng vào một xó sau khi đã cẩn thận
rút hết dầu lửa ra. Ngày hôm sau, tôi mượn được một xị xăng đổ vào và cùng với
một thanh niên đệ tử, hai cha con thay nhau đạp toát cả mồ hôi. Chiếc xe tội
nghiệp vẫn cứ trơ ra, nằm yên bất động, tôi bảo: “Thôi cứ tạm thời đi bộ đã con
ạ, chờ có dịp mua được xăng hãy sửa xe luôn thể.”
Sau một tiếng rưỡi đồng
hồ rảo bước, tôi tới nơi thì trời đã chạng vạng tối. Tôi vội vào nhà ông Chủ tịch
Ủy Ban Nhân Dân xã địa phương để trình giấy đi đường, dù biết rằng ông không có
con dấu ở nhà nhưng chỉ cần ông ký tên, hoặc biết là tôi có tới trình diện là đủ
vì tôi không muốn để một sự rắc rối nào xảy ra sau khi tôi đã gặp quá nhiều khó
khăn với địa phương nơi tôi sinh sống. Trước đó bốn tháng có người em từ Vĩnh
Long qua thăm tôi, vì quá hạn giấy phép đi đường trễ một ngày mà bị bắt và còn
đang bị giam tại huyện Giồng Trôm vì bị tình nghi là CIA. Tôi cũng biết rất rõ
là tôi đang bị canh chừng và theo dõi từng bước đi.
Tôi vào tới nhà xứ thì
tiệc đã bắt đầu. Có khoảng 50 khách đang ngồi kín căn phòng chánh của nhà xứ. Vị
Linh mục chủ nhà và những người quen mừng rỡ đón tiếp tôi. Sau khi bắt tay chào
hỏi, tôi ngồi vào bàn với một số các Linh mục trẻ cùng trang lứa và vài ba giáo
dân mà tôi quen biết. Họ là những tay chịu chơi, uống rượu đế như hũ chìm.
Cha sở chủ nhà ngồi chung với vài ba người trong chánh quyền địa phương ở
bàn giữa nha, cách bàn tôi khá xa.
Ngồi chung bàn với tôi
có linh mục NVL, một thời học chung với tôi ở Tiểu chủng-viện Vĩnh Long, lúc đó
là cha sở của một họ đạo nhỏ cách đấy vài ba cây số. Linh mục NVL là con
người thích khoa trương, hay khoác lác về tất cả mọi vấn đề. Tôi chưa hề thấy bất
cứ một phạm vi nào khi có ai đề cập tới mà anh chịu đứng thứ nhì hoặc thứ ba
bao giờ. Cứ phải là nhất! Bởi đó, tuy dù là bạn học nhưng sau này không mấy khi
tôi tiếp xúc, gần gũi, nói rõ hơn là tôi không chịu được tính nết khoa trương của
anh ta. Anh về làm việc trong tỉnh Bến Tre từ năm 1973, còn tôi mới đổi về đó
sau ngày mất miền Nam, nên vị trí thế đứng và sự quen lớn với người dân
trong vùng có khác nhau. Hầu hết những người làm việc trong chánh quyền mới ở địa
phương này đều quen biết NVL, trong khi đó tôi mới chân ướt chân ráo tới nhận họ
đạo, chưa quen biết nhiều, lại còn bị tình nghi là CIA và bị chính quyền địa
phương tìm cách gây khó dễ, cho người rình rập theo dõi ngày đêm.
Lúc bấy giờ trong tỉnh
Bến Tre có một số Linh mục và tu sĩ Công giáo được mời vào Ủy Ban Liên Lạc Tôn
Giáo. Linh mục NVL cũng được mời tham gia, nhưng anh không giữ chức vụ gì quan
trọng, chỉ là một thành viên tầm thường. Dù vậy Linh mục NVL cũng lấy làm hãnh
diện và thích khoe khoang về những lần đi họp ở tỉnh được ở khách sạn loại
sang, được ăn ngon, thức ăn đặt từ nhà hàng mang tới. Anh ta lộ vẻ hân hoan ra
mặt vì có được một chỗ đứng trong chánh quyền mới, trong khi tại một vài nơi
khác, cộng sản đang lùng bắt, áp chế, làm khó làm dễ đủ điều các Linh mục “phản
động” và những giáo dân ương ngạnh, chống đối hoặc bất hợp tác với chế độ. Tối
hôm ấy Linh mục NVL đang ngồi đối diện với tôi trong bàn tiệc.
Thức ăn ngon và bầu khí
vui vẻ làm tôi quên mệt nhọc. Vừa ăn được một chập thì cha Thạnh, ngồi bên cạnh,
hỏi tôi tại sao tới muộn. Tôi gác đũa, vui vẻ kể lại diễn tiến thủ tục xin phép
đi đường, vụ chiếc Honda “ngộ độc” đang nằm nhà khiến tôi phải cuốc bộ và khi tới
đây còn phải ghé vô nhà ông chủ tịch trình giấy tờ để tránh mọi chuyện phiền hà
rắc rối v.v... Tất cả mọi người trong bàn tỏ ra hào hứng vui vẻ lắng nghe và lộ
vẻ cảm thông với hoàn cảnh tôi đang bị “đì” trên họ đạo La Mã. Lúc tôi đang nói
nửa chừng, NVL vội khoa tay “cướp diễn đàn” bằng một giọng mỉa mai châm chọc:
“Trời! Ông La Mã sướng thiệt! Đi đâu cũng có giấy đi đường đóng dấu ký tên đàng
hoàng! Còn mình á hả? (quơ tay) Hổng ai chịu cho mình miếng giấy nào. Mỗi lần
mình muốn xin giấy đi đường thì mấy anh em trong Ủy Ban nói, (khoác tay) ‘Thôi
đi cha ơi, cha đi đâu thì đi, ở đây ai không biết cha mà phải giấy với tờ, giấy
tờ là những người khác kìa!’’’ Anh ta có vẻ cao hứng, chỉ mặt tôi nói tiếp:
- “Này, tôi ghen với
ông La Mã đấy nhé! Hì... hì...”
Những người cùng bàn nhếch
mép cười gượng gạo trước câu nói khoa trương có tính cách châm biếm này. Còn
tôi, vốn rất nhạy cảm với tánh khoác lác của anh ta nên lúc đầu nghe nóng ở
gáy, sau đó thấy nóng mặt và hình như biết mình muốn phản ứng một cách quyết liệt,
nhưng tôi vội kềm hãm, bình tĩnh và nghiêm nét mặt trả lời:
- “Anh L. à! Hoàn cảnh
anh khác, tôi khác. Anh nói lên những lời đó ở đây làm gì?”
Cha Thạnh ngồi kế bên
tôi, dùng đầu gối thúc nhẹ vào chân tôi, ý bảo đừng thèm để ý, cứ nhịn đi cho
xong chuyện. Tôi hiểu ý Thạnh, (và cũng nhớ có mấy người trong chánh quyền đang
có mặt!), tôi cầm đũa vừa gắp thức ăn vừa nói một cách vui vẻ: “Thôi xin lỗi
quý vị, phỏng vấn để lúc khác, giờ cho ăn cái đã, vừa lội bộ hơn tiếng đồng hồ,
đang đói mềm người đây!”
Anh em ngồi chung bàn
cười ồ sau câu nói giải thoát của tôi và mọi người cầm ly, cầm đũa lên. Nhưng
Linh mục NVL chưa chịu buông tha. Khi nghe tôi nhắc tới đi bộ, dây thần kinh
“khoác lác” của anh ta lại bị chạm lần nữa, bèn vung tay nói lớn: “Còn xăng ấy hả,
trong nhà mình không đủ thùng mà chứa! Tiêu chuẩn mì ăn liền, bột ngọt, xà bông
bột cũng vậy, mình xài không hết còn cho người khác! Chiếc Honda 90 phân khối của
mình chạy không biết tới bao giờ mới hết xăng. Mấy anh trên Ủy ban nói mình chứa
xăng làm gì cho nguy hiểm, coi chừng có ngày cháy nhà thờ, lúc nào cần thì lên
cơ quan mà đổ. Mình cũng mong cho nó hết xăng, có dịp đi bộ cho nó khỏe người!
Hì... hì...”
Đến đây, tôi không còn
kềm chế được nữa! Bằng một phản ứng tự nhiên và nhanh như đòng điện, tôi buông
vội đũa xuống, trợn mắt và hai tay nắm khăn trải bàn ăn giật mạnh một phát làm
đổ vài ly rượu. Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, nói rít qua hai hàm răng cắn chặt,
vì ngại những người ở các bàn bên nghe thấy: “Câm mẹ cái giọng khốn nạn của anh
lại đi!”
Thạnh vội vàng ghì lấy
tay tôi trong khi thực khách trên bàn lo chụp mấy cái ly ngã nghiêng, có vài ly
rượu đổ tung tóe. Tôi cảm thấy choáng váng và mệt lả người sau câu nói đó, vội
kéo ghế đứng lên, xin lỗi các người trong bàn ăn và bước ra ngoài. Có người nào
bên cạnh cầm tay giữ tôi ở lại, nhưng tôi quyết định ra ngoài.
Vừa xoay người bước đi
tôi còn nghe tiếng cha Thạnh ở phía sau trách NVL: “L., mầy không thấy thằng Lễ
nó đã quá khổ rồi sao mà còn hành hạ nó nữa?” Tôi cho rằng đây cũng là một hiện
tượng quái thai của thời cuộc, và nếu trong tiệc cưới đó không có mặt mấy người
trong chánh quyền, có lẽ câu chuyện còn đi xa hơn.
Trò hề thế sự
Tôi không thể nhớ
hết được cảnh chướng tai gai mắt của thời buổi nhiễu nhương lúc bấy giờ. Tuy
nhiên một vài sự việc gây ấn tượng mạnh thì tôi không thể quên được, như câu
chuyện về cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước lần đầu
tiên vào tháng Tư năm 1976 sau đây.
Trước ngày bầu cử, ai từ
18 tuổi trở lên được cấp phát thẻ cử tri như các cuộc bầu cử thông thường khác.
Điều bất thường là các cử tri được chia ra thành từng tổ, mỗi tổ 12 người và có
một tổ trưởng đứng đầu để lo việc điều hành và kiểm soát các tổ viên.
Tiếp theo là giai đoạn
học tập bầu cử. Các tổ trưởng phải lo điểm danh và bảo đảm đủ số 12 người đến dự
các buổi học tập được tổ chức trong trường học nằm ngay trước nhà thờ xứ đạo của
tôi. Cán bộ ở tỉnh về lo tổ chức các lớp học tập bầu cử. Nội dung bài học cũng
ngắn gọn và dễ hiểu. Sau khi giảng giải về tầm quan trọng của cuộc bầu cử Quốc
Hội chung cho cả nước lần đầu tiên, cán bộ viết lên bảng tên của các ứng cử
viên trong tỉnh Bến Tre.
Nếu tôi nhớ không lầm
thì có cả thảy là 10 ứng cử viên và trước các tên có đánh số thứ tự 1,2,3,4...
Cán bộ giảng dạy cho biết sẽ loại bỏ 2 người “đúng theo thể thức bầu cử dân chủ”.
Cán bộ giải thích như thế. Sau đó cán bộ bầu cử tay cầm lá phiếu mẫu giơ lên
cao cho mọi người thấy và lớn tiếng “dạy” tiếp:
“Trước khi bước vô buồng
kín để bầu, bà con ta sẽ được phát lá phiếu y như lá phiếu này (cầm hai tay đưa
lên cao và xoay qua xoay lại). Trong buồng kín có sẵn bút bi và thước kẻ, bà
con chỉ việc gạch ngang tên hai người cuối cùng như thế này (làm thử), xong gập
lá phiếu làm đôi như thế này (làm thử), sau đó bước ra khỏi buồng, đến bên
thùng phiếu, giơ cao lá phiếu của mình lên và bỏ vào thùng như thế này (làm thử).
Đơn giản chỉ có vậy thôi, bà con nắm cả chưa? Có ai còn muốn hỏi gì không? “
Từ cuối lớp có tiếng
người đàn bà:
- Tôi có thắc mắc
xin hỏi. Gạch bỏ số nào cũng được hay phải bỏ hai số cuối cùng?
Cán bộ bầu cử trợn mắt
đáp vội:
- Tôi đã bảo là bà con
gạch bỏ tên hai người cuối cùng như tôi đã biểu diễn, chị không nghe kịp hay là
chị có ý đồ gì?
Tuy bị chụp mũ là “có ý
đồ” một cách bất ngờ, nhưng chị đàn bà này cũng không phải tay vừa, chắc cũng
là hạng “mẹ chiến sĩ”, bà ta phản pháo:
- Ý đồ gì? Không hiểu
thì tôi hỏi, tại sao phải gạch bỏ tên hai người cuối cùng mà không thể gạch tên
người khác?
Anh cán bộ lộ vẻ bất
bình:
- Đó là chỉ thị của
“trên”, bà con cứ thế mà thi hành, không phải thắc mắc lôi thôi, hãy tin tưởng
vào đường lối lãnh đạo đầy sáng tạo của đảng.
Nghe tới tiếng “đảng”,
người đàn bà từ từ ngồi xuống, cả lớp trở nên yên lặng như tờ, con ruồi bay
ngang cũng nghe được. Cuối cùng anh cán bộ đánh tan bầu khí nặng nề bằng câu
nói dõng dạc: “Bây giờ tới phần thực tập, bà con từng người một lên cầm phấn và
thước kẻ đây thực tập bầu phiếu”. Mấy chục cử tri trong lớp lần lượt tiến lên
“thực tập” bầu cử. Từng người một cầm thước kẻ và phấn gạch ngang tên hai người
cuối cùng đúng như lời “dạy” của anh cán bộ, xong trở về chỗ ngồi.
Tôi ngồi giữa lớp lặng
yên theo dõi màn hài kịch này ngay từ đầu, trong lòng đầy ngao ngán và uất hận
cho cái trò hề của chế độ. Nhưng đó là một thực tế của thời cuộc, còn biết bao
nhiêu thứ trò hề khác mà dù muốn dù không, trong hoàn cảnh đó người dân cũng phải
chấp nhận. Tới lượt tôi lên thực tập, khi cầm lấy cây thước và cục phấn vào
tay, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình và với những người đang có mặt, cũng
như xót xa cho hoàn cảnh của đất nước. Dưới chế độ này, người dân bị tước hết mọi
thứ quyền, kể cả quyền được “thắc mắc”.
Chế độ cộng-sản cố biến
toàn dân trở thành một thứ ngựa kéo xe bị che hai bên mắt, cứ phải đường thẳng
mà đi theo sự điều khiển của người đánh xe đang cầm roi ngồi phía sau, và tên
xà-ích ác ôn này cũng rất nhuần nhuyễn trong việc sửa trị các con ngựa chứng bất
kham!
Cuộc bầu cử Quốc Hội
khóa 6 diễn ra vào sáng Chủ nhật 25-4-1976. Từ lúc tờ mờ sáng, tiếng loa đã kêu
gọi inh ỏi để thúc giục đồng bào lo đi bầu. Các cử tri có mang thẻ trước ngực
ghi tên, số thứ tự của mình và tên của tổ, đứng xếp thành hàng một dọc theo con
đường đất bên hông nhà thờ cho tổ trưởng điểm danh. Có đội múa lân đứng đầu,
theo sau là đội thiếu nhi “Cháu Ngoan Bác Hồ” cầm cờ xanh cờ đỏ, một số khác
khua trống gióng chiêng, tạo nên bầu khí tưng bừng của một ngày hội lớn.
Sau khi các tổ điểm
danh xong và bảo đảm không còn sót người nào, chúng tôi được lệnh tiến bước, vẫn
giữ hàng một theo thứ tự từng tổ. Các tổ trưởng tay cầm một bảng con dẫn đầu.
Lúc này mặt trời đã lên khỏi ngọn cây.
Đoàn người chậm rãi tiến
bước theo sau đám múa lân, trông như một con rắn khổng lồ, đầu có sừng, đang bò
ngoằn ngoèo dọc theo con đê dài hàng mấy cây số để tới địa điểm bầu phiếu. Sau
khi đi gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi tới nơi và tôi rất đỗi ngạc nhiên khi
thấy phòng phiếu được tổ chức ngay bên trong nhà thờ họ lẻ của tôi mà tôi không
hề hay biết gì!
Trước khi bước vào “nhà
thờ”, các tổ phải chỉnh đốn hàng ngũ lại một lần nữa cho tổ trưởng điểm danh bảo
đảm đủ số 12 người. Sau đó tổ trưởng lần lượt gọi tên từng người theo số thứ tự
1,2,3,4,... tiến tới các bàn trình thẻ cử tri, lãnh phiếu bầu và bước vào buồng
kín bên cạnh. Tôi bước vào buồng kín như một cái máy, tay cầm lá phiếu bầu có
tên của các ứng cử viên được xếp theo thứ tự mà tôi đã được “học tập” phải làm
như thế nào.
Vô buồng kín, đặt lá
phiếu xuống mặt bàn cạnh bên cái thước kẻ và cây bút bi, tôi bỗng thấy cơn uẩn ức
dâng lên ngùn ngụt, và muốn nhân cơ hội này bày tỏ một thái độ phản kháng bằng
một hình thức nào đó với lá phiếu đang nằm trước mặt.
Trong lá phiếu, các con
số đứng trước những cái tên hoàn toàn xa lạ đối với tôi, duy chỉ có tên của Thiếu
tướng Đồng Văn Cống, nằm ở số 5 hay số 6 gì đó là tôi có nghe qua, vì ông xuất
thân từ xã Hiệp Hưng này. Có vài người biết chuyện về ông kể lại. Lúc còn nhỏ
con nhà nghèo, Cống đi ở đợ chăn trâu cho người trong làng, nhờ to con lớn xác
và đá banh giỏi nên đám trẻ chăn trâu nể nang và coi như đại ca.
Lớn lên Đồng Văn Cống
theo Việt Minh, tập kết ra Bắc và trở về miền Nam vào năm 1975 với cấp bậc thiếu
tướng và được bổ làm Tư Lệnh Quân Khu 7. Từ đó Đồng Văn Cống trở thành niềm
vinh dự cho bà con dòng họ còn đang sống tại đây và cả dân chúng xã Hiệp Hưng
này nữa.
Ngoài ông Cống, mà tôi
nghe biết chút ít, còn các người kia tôi hoàn toàn mù tịt, nhưng tôi biết tất cả
đều là người của đảng Cộng-sản đưa ra. Lúc đầu vì quá phẫn uất, tôi định bụng
là viết chữ “trò hề” và gạch chéo trên lá phiếu rồi cho vào thùng, nhưng biết
là không ổn vì bọn họ sẽ điều tra ra ngay lá phiếu của ai.
Một cách phản kháng
khác là gạch một số tên nào đó không phải tên hai người cuối cùng như tên cán bộ
đã bảo, hoặc bỏ phiếu trắng vào thùng. Nhưng cuối cùng tôi bỏ ý định, vì biết rằng
lúc bấy giờ tôi là cái đích cho họ theo dõi và quan sát, vả lại cho dù tôi có bỏ
phiếu cách gì đi nữa thì kết quả cuộc bầu cử này cũng đã được ấn định trước rồi,
chống đối trong chuyện nhỏ mọn này chỉ tội thiệt thân.
Nghĩ như vậy, nên tôi
cúi xuống gạch ngang hai tên cuối cùng rồi gập đôi lá phiếu bước ra khỏi buồng
bỏ vào thùng phiếu bên ngoài, tự nhiên cảm thấy con người mình hèn đi vì cử chỉ
này. Khi cho lá phiếu vào thùng, tôi tự an ủi và tha thứ cho mình với ý nghĩ:
“Tên nào có đắc cử thì cũng là một lũ Việt cộng, suy nghĩ làm gì”.
Lần đó ấp 6 trong xã Hiệp
Hưng của tôi được tuyên dương là ấp bầu cử gương mẫu với 100% cử tri đi bầu.
Các tân Đại Biểu Quốc Hội của tỉnh Bến Tre đắc cử với 99% số phiếu. Thật là một
cuộc bầu phiếu “dân chủ” thành công tốt đẹp chưa từng có! Nhưng chuyện bầu cử
chưa chấm dứt ở đây. Tuần lễ sau, trong ấp tôi có 13 cử tri bị gọi lên cơ quan
làm việc, trong số đó có anh thanh niên đệ tử của tôi.
Lúc trở về anh ta thuật
lại, 13 người này bị ông chủ tịch xã hạch hỏi tại sao đã được học tập kỷ lưỡng
rồi mà còn bầu cử sai qui cách, không chấp hành chỉ thị của “trên”? Không gạch
tên hai người cuối cùng mà lại gạch càn qua các tên khác? Muốn phá hoại cuộc bầu
cử hay có ý đồ gì? Sau khi nạt nộ quát tháo một hồi, ông ra hình phạt mỗi người
ba ngày công, mang gạo theo đi đào thủy lợi.
Vị đại diện chánh quyền
kết luận: “Vì đây là vi phạm lần đầu nên Đảng và Cách Mạng khoan hồng chỉ phạt
cảnh cáo chừng ấy. Bà con biết không, trong thời ngụy ấy hả, mỗi lần bầu cử nó
bắt bỏ phiếu cho ai là phải bỏ cho người đó. Trong phòng phiếu nó lên trần nhà
khoét lỗ dùng kiếng hiển vi (nguyên văn!) nhìn xuống để theo dõi, ai mà bỏ phiếu
không đúng ý nó, sẽ bị bắt đi không có ngày về, các anh chị đừng có tưởng...”
Về phần tôi, ít lâu sau
một chị giáo dân làm tổ trưởng tổ Phụ Nữ trong ấp tới nhà chơi và cho biết:
“Cha biết không, hôm bầu cử, khi cha bước vô buồng kín đã có sẵn ba người được
gài phía sau để theo dõi xem cha làm gì trong ấy, và họ khen là cha bỏ phiếu tốt”.
Nghe qua câu này tôi chỉ mỉm cười không nói năng gì nhưng nghe có cảm giác ớn lạnh
ở lưng, cái cảm giác mà chúng ta thường có khi vừa may mắn thoát được một tai nạn
trong đường tơ kẽ tóc!
Cuối tháng Tư 1976, vì
không thể sống được trong họ đạo dưới áp lực quá nặng nề đến từ nhiều phía, tôi
buộc lòng phải từ giã họ đạo La Mã, trở về quê ít ngày rồi lại ra đi, lần này
đi vào một tương lai vô định. Cũng như bao nhiêu anh em cùng chí hướng, tôi
không thể ngồi yên nhìn cảnh quê hương và dân tộc đang bị một thứ chất độc tai
hại tàn phá. Dù biết là tài hèn sức mọn, có thể không làm nên việc gì, nhưng
tôi vẫn nghĩ, thà không làm nên việc gì còn hơn là không làm gì cả. Và từ lúc
đó cuộc đời tôi đi vào ngả rẽ, dẫn đưa tôi vào nhà tù ở tỉnh lẻ cao nguyên này.
Quay về thực tại
Giờ này đã
quá khuya, buồng giam yên lặng, mờ ảo dưới ánh sáng leo lét của bóng điện nhỏ
duy nhất trên trần nhà. Tiếng ngáy của Long càng lúc càng to. Chung quanh tôi,
các anh em bạn tù đều đang ngon giấc. Bên ngoài cũng không nghe một tiếng động
nào, chỉ lâu lâu có tiếng bước chân thật nhẹ nhàng, dừng lại bên ngoài cửa sắt
buồng giam rồi lại bước đi. Tiếng bước chân nhẹ nhàng đến độ tôi phải chú ý lắng
nghe mới nhận ra được như tiếng bước chân âm thầm của loài hổ báo đang rình mồi.
Tôi biết ngay đó là cán bộ võ trang đang tuần tra về đêm.
Tôi cảm thấy lạnh nên nằm
dịch người sát vào Long trọc đầu đang ngủ say. Tôi nhè nhẹ kéo mí tấm chăn Long
đang đắp để phủ lên người cho đỡ lạnh. Long giật mình, phát ra mấy tiếng ự ự
trong cổ họng, trong khi mắt vẫn đang nhắm nghiền, vặn người mấy cái, chép miệng
và nằm yên thở đều. Long nằm ngửa, đôi môi hở ra để lộ hàm răng có chiếc răng cửa
bị gãy. Lúc này tôi không còn thấy Long xấu xí và đáng sợ như lúc mới chạm mặt
lần đầu.
Trái lại, tôi thấy một
tâm tình yêu mến dâng lên đối với Long, một thanh niên xa lạ tự phương trời
nào, mà tự nhiên đêm nay lại trở thành kẻ “chung chăn chung gối” trong đêm đầu
tiên tôi sống trong tù. Bất giác tôi cười thầm với cái ý nghĩ rằng đây là một
“Đêm Tân Hôn”! Một đêm tân hôn thật lạ kỳ, vì “tân giai nhân” nằm cạnh tôi trọc
đầu, sún răng, hình hài vạm vỡ như một võ sĩ đô vật và mình trần để lộ hình con
rồng xâm trổ to tướng trên ngực, con rồng lại đang nhe răng khè ra lửa! Tôi tiếp
tục mỉm cười trong bóng đêm!
Những ý nghĩ miên man vụn
vặt ấy từ từ ru tôi vào giấc ngủ lúc nào không hay, một giấc ngủ thật nhiều mộng
mị. Sáng ngày, lúc nghe tiếng kẻng báo thức, tôi giật mình tỉnh giấc và bàng
hoàng không biết mình đang ở đâu! Tôi nằm yên dụi mắt. Một hồi lâu mới nhận ra
được hoàn cảnh thực tại, tôi đang ở tù. Sau khi ngồi lên đọc kinh dâng ngày,
tôi cố nhớ lại các giấc mơ đêm qua.
Trong cơn mơ, tôi thấy
trở về thăm lại Đại chủng-viện Sài-Gòn, nơi tôi xa rời đã sáu năm qua, gặp lại
một vài cha giáo sư và một số bạn cũ, trông mặt mày ai nấy đều ủ rũ buồn rầu
nhưng không hiểu tại sao.
Trong một giấc mơ khác,
tôi mơ thấy bóng dáng người con gái trong bài ca-dao, “Trèo lên cây bưởi hái
hoa...” Tôi thấy nàng mặc chiếc áo bà ba trắng ôm sát thân người, tóc bỏ đuôi
gà, gương mặt trái xoan trắng ngần và đẹp thanh tú, nhưng trong vẻ đẹp ấy có ẩn
hiện một nỗi u buồn khó diễn tả. Hình như tôi thấy nàng đang đứng giữa ruộng cà
để nói chuyện với tôi và vài người khác hay sao đó. Giấc mơ này tôi nhớ không
rõ, nhưng giấc mơ trước tôi còn nhớ rõ như in
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu
Lễ
3
Tàu Sông Hương
Trong mấy ngày qua, các
tù nhân trong trại Gia-Ray tỉnh Xuân Lộc bàn ra tán vào về một đồ vật có hình dạng
lạ lùng, đang nằm trong lán mộc gần bên cổng trại. Mạnh ai nấy cố thử đoán xem
“nó” là cái gì. Nhưng cuối cùng, xem ra chẳng một ai dám chắc về lý đoán của
mình. Cũng có một vài cuộc cãi vã xảy ra vì bất đồng ý kiến về tên gọi của nó.
Đó là một đồ vật bằng ván gỗ, nếu dựng đứng lên trông giống như cái kệ sách có
bề ngang sáu tấc và cao năm thước.
Tuy nhiên có điểm khác
là các miếng ván nằm ngang không bằng mà lại hơi chênh chếch cao, nên chỉ trông
giống kệ sách thôi nhưng không thể là kệ sách được. Có ai lại đóng một kệ sách
với khích thước chướng đời như thế! Có người bảo nó là cây thang, nhưng nấc lại
cách nhau quá ngắn, và hai bên là hai mảnh ván rất to bản. Nếu nó thực sự là
cây thang thì đây là một cây thang lạ lùng nhất mà tôi được thấy. Chính tôi
cũng thắc mắc về nó.
Khi đi lao động ra vô cổng
trại, ngày nào cũng thấy nó nhưng không thể biết được dùng vào việc gì. Một hôm
gặp anh đội trưởng đội mộc, tôi hỏi về nó, anh cũng chẳng biết là cái gì, chỉ
biết đóng đúng theo kích thước của cán bộ giao cho đội thực hiện.
“Nó” nằm dài
trong lán mộc một thời gian. Rồi một hôm, vào thượng tuần tháng Tư năm 1977,
chúng tôi đi ngang lán mộc để xuất trại lao động, nhìn vào không còn thấy nó nữa.
Như vậy là nó được chở đi ban đêm và không một ai trong chúng tôi được biết. Điều
này cũng hơi khác thường vì các sản phẩm do anh em tù đóng như bàn, tủ, ghế, hòm
v.v... đều được chở đi ban ngày và các anh tù phải khiêng vác ra xe. Nhưng rồi
mấy ngày sau, chúng tôi quên khuấy nó đi, chẳng thấy ai còn thắc mắc gì về nó.
Trong khi còn biết bao nhiêu chuyện khác phải bận tâm lo nghĩ trong kiếp sống
tù đày ở trại Gia Ray đông nghẹt tù nhân, và thiếu thốn tất cả tiện nghi tối
thiểu này.
Trại Gia Ray, còn gọi
là Z 30D, trước kia là hậu cứ của trung đoàn 54, nằm trên một đồi cao có cái
tên khá thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”. Trại nằm quay cổng ra núi Chứa Chan cao to
sừng sững mà anh em tù thích gọi đùa là núi “Chán Chưa"! Sở dĩ tôi biết về
lai lịch trại này vì có một số người tù trước kia là quân nhân đã từng đóng
quân ở đây. Sau khi đổi đời, họ lại cũng vào đây ở tù tiếp theo.
Vì trước kia là một trại
lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ gì cả, ngoài mấy dãy nhà
tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang chuột dọc ngang. Trại
không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy nước.
Hàng ngày có xe bồn chở
nước tới cung cấp cho cơ quan và hơn một ngàn tù nhân trong trại. Vì số lượng
nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm và dĩ nhiên cái gì hiếm thì
quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống mỗi ngày hai lon Guigoz
trong hai bữa ăn trưa và chiều. Vì phần nước quá ít so với nhu cầu nên hầu như
không có ngày nào trong buồng là không có cãi nhau về “việc nước”.
Có nhiều trận đánh nhau
bưu đầu sứt trán “vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà
bếp để... “cướp nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao
mác đều được dùng để ẩu đả nhau. Cả hai phe tù có nhiều kẻ lỗ đầu sứt trán máu
me đầm đìa y như cảnh chiến tranh Quốc - Cộng trước kia giành nhau đất “nước”!
Trại Gia Ray
Nhóm chúng tôi từ trại
Phan Đăng Lưu trong tỉnh Gia Định chuyển lên đây vài ngày trước Tết Đinh Tỵ năm
1977. Trong nhóm còn một Linh mục khác là cha Vũ Đức Khâm, người đã một thời
làm việc với Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Hoàng Huỳnh thời Công giáo tự trị chống
Việt Minh tại chiến khu Phát Diệm trước năm 1954.
Vào Nam, cha Khâm được
nhiều người biết đến qua các hoạt động xã hội của ngài tại Sài Gòn trong những
năm đầu thập niên 70. Phần đông tù nhân trại Gia Ray lúc bấy giờ là nhân viên
công chức của chế độ cũ và một số người trong Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc, hầu
hết là trẻ tuổi. Số khác can tội vượt biên hay phản động, chống chế độ cách này
cách khác.
Khi chúng tôi chuyển tới
đây thì trong trại đã có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một
số anh em quân đội từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng con số tù
lên 1200 người. Trong số đó có khá nhiều anh em Công giáo.
Khi vừa tới, chúng tôi
được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi buồng chứa khảng 60 người.
Tôi vào chung đội với cha Vũ Đức Khâm và một số anh em tôi còn nhớ được như các
anh Nguyễn Tôn Tính, Nguyễn Tiến Đạt, Trần Nhật Kim, Mai Văn An. Phạm Văn
Thông…Hai ngày đầu tiên chúng tôi bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm.
Buồng giam trống trơn từ
đầu tới cuối, hai bên có hai dãy sàn nằm bằng gỗ, ở giữa là lối đi chạy dài.
Trong buồng không có cầu tiêu, và để thay thế vào đó là 3 cái ống sắt vỏ đạn
pháo binh 155 ly, mỗi ống đường kính chừng hơn gang tay và cao khoảng một thước,
được dựng trong một phòng nhỏ ở góc phía trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh
của chừng ấy con người trong buồng được giải quyết gọn trong ba cái ống đó. Tới
sáng ngày mở cửa mới được mang đi đổ ở cầu tiêu công cộng.
Tuy tôi chỉ ở trại này
thời gian ngắn, nhưng có mấy sự việc gây ấn tượng mạnh làm tôi không sao có thể
quên được. Trước hết là chuyện về cái cầu tiêu công cộng. Như tôi đã nói, lúc bấy
giờ trong trại có hơn một ngàn người, sống chen chúc nhau trong một cái trại
lính cũ mèm và trơ trọi.
Nước uống thì mỗi ngày
có xe bồn chở tới, củi đuốc thì có sẵn trong rừng, rau cỏ thì các đội rau xanh
trồng cho cả trại ăn, về khoảng tắm giặt thì... khắc phục! Nước uống còn không
đủ lấy đâu ra nước để tắm giặt? Nhưng còn vấn đề ‘đại tiện’ thì sao, việc này
không thể nào “khắc phục” được. Giải quyết khâu này cho hơn một ngàn con người
sống tập trung đâu phải là chuyện nhỏ!
“Đại hội” Ruồi Xanh
Sau hai ngày đầu bị nhốt
kín trong buồng, qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa ra ngoài đi lại tự do
như những người khác. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên được mở cửa, tôi có
nhu cầu ra khu cầu tiêu công cộng lần đầu tiên sau khi đã 'khắc phục' suốt đêm
trong buồng, vì 3 cái ống vỏ đạn pháo binh làm cầu tiêu dã chiến không đáp ứng
được nhu cầu của 60 con người. Muốn ra tới cầu tiêu công cộng tôi phải đi qua
vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp.
Sau khi qua nhà bếp một
đỗi, có con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dẫn ra phía bờ rào trại bằng
nhiều lớp kẽm gai cuộn tròn bao bọc chung quanh trại. Khu vực cầu tiêu công cộng
nằm sát bờ rào trại. Khi vừa tới đầu nhà bếp, mặc dù chưa thấy hình dạng nhưng
tôi đã “đánh mùi” được vị trí tôi muốn tìm tới. Ngay lúc tôi vừa nghe mùi cũng
là lúc tôi nghe một âm thanh lạ kỳ của đám ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống
cải muối dưa đang được trải phơi trên mái tôn của nhà bếp.
Trời ơi, ruồi xanh ở
đau mà lắm thế! Mùi dưa cải muối chua, mùi của nhà bếp, mùi của đường cống lộ
thiên rộng gần 2 thước bên hông nhà bếp, cộng với mùi thối từ cầu tiêu công cộng
cách đó không xa đã lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay
thành từng đàn, từng mảng trên nền trời đông như giải trấu. Chúng đang giành ăn
giữa những đám cải khô trên nóc nhà. Chúng bay vo ve trên miệng đường cống.
Chúng đậu vào những nơi nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh
náo nhiệt khác thường.
Đây là lần đầu tiên
trong đời tôi được nhìn thấy ruồi xanh nhiều như thế, nhiều không có thể tưởng
tượng được. Tôi thầm nghĩ có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế giới hôm nay tập
trung về đây để họp bạn, hoặc có đại hội đặc biệt gì đó của ruồi xanh! Về số lượng
đông khủng khiếp của muỗi thì tôi đã có dịp thấy tại rừng Năm Căn trong tỉnh Cà
Mau. Khi còn làm thầy giúp xứ, tôi đã có dịp xuống làm việc với cha Nguyễn Lạc
Hóa, một Linh mục người Tàu tại biệt khu Hải Yến vào năm 1967. Lúc đó tôi nghĩ
chắc là trên đời này không còn nơi nào nhiều muỗi như ở Hải Yến trong tỉnh Cà
Mau và lúc này tôi có thể nói không chỗ nào nhiều ruồi xanh như trại tù Gia
Ray, tỉnh Xuân Lộc!
Khi tới nhà bếp tôi phải
dừng lại vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp hàng dọc chờ từ trước,
trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Tôi đến nơi ráp vào hàng. Đứng vô hàng
xong, tôi ngoái lại sau lưng thì đã thấy độ mươi anh tù khác cũng đang lục đục
kéo ra đứng tiếp theo. Một lúc sau, hàng người bất đắc dĩ phải tới đây như tôi,
càng lúc càng dài hơn.
Lúc đó chẳng biết làm
gì hơn, tôi đành đứng yên quan sát. Vì mới tới trại mấy ngày, và hôm nay được
ra đây lần đầu nên cái gì đối với tôi lúc bấy giờ cũng lạ. Những người bạn tù bất
đắc dĩ phải đứng xếp hàng trước và sau tôi, đại đa số cũng xa lạ nên tôi cũng
chẳng có dịp nói chuyện với ai. Vả lại trông người nào cũng lầm lì câm lặng. Có
người mặt mày nhăn nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bi ‘đuổi’ rất gấp,
như thế còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?
Nhìn về phía xa trước mặt,
tôi thấy cái hố hình chữ nhật rất to, chiều dài phải có tới 15 thước, chiều
ngang quãng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một dãy nhà cầu chừng 15 hay
20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm phên nứa, cao khoảng 50
phân, phía trước có lá chắn bằng nứa cao chừng một gang tay, trên nóc có tấm
cót che mưa che nắng một cách sơ sài vội vã.
Dãy nhà cầu nằm cách bờ
đất khá xa và trước mỗi ô có một cầu bằng ván bìa bắt từ mép bờ đất đi ra. Nhìn
từ xa, tôi thấy trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi. Mới nhìn
thoáng qua trông giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong đang ló đầu ra
ngoài. Tấm phên phía trước chỉ che được những nơi cần che của con người đang ngồi
chồm hổm, đối diện với một hàng người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ hố chờ tới
phiên mình. Hàng người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những
người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi và đang kiên nhẫn
chờ đợi.
Đợi chờ trong đau khổ
Một lúc tôi mới chợt để
ý là hầu hết mọi người đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Điều này làm
tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá lạnh, tại sao họ lại cởi
trần, mặc quần đùi, trong khi tôi ‘diện’ khá chỉnh tề. Có nghĩa là tôi mặc cái
áo sơ mi và quần dài.
Nhìn lại tôi thấy mình
thật chẳng giống ai trong hàng. Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn
mặc chững chạc như tôi, coi lại toàn là lính mới trong nhóm tôi mới nhập trại mấy
ngày qua. Một số người đang khoanh tay cúi mình hoặc xoa hai bàn tay vào nhau
cho đỡ lạnh. Lúc đó tôi nghĩ bụng: “Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu
rét, còn mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm thế này!”
Hàng người nhích tới rất
chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà Trưng vào giờ tan sở. Có mấy
tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng “khẩn trương”, trông mặt mày nhăn
nhó, bứt rứt. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái hàng “nhộng” đang ngồi yên
bất động, giương những cặp mắt lờ đờ nhìn ra, trong trạng thái nhẹ nhàng thoải
mái.
Có một tay ngay sau
lưng tôi coi bộ “rất khẩn trương”, chắc là đang bị Tào Tháo đuổi gấp, nhưng lại
gặp đèn đỏ phía trước không thể làm gì hơn nên tức khí quát to, chửi đại, trúng
ai thì trúng: “ĐM, ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ muốn ngủ trong đó
à? Mau ra cho bà con còn nhờ với chớ!" Cả đám cười ồ sau câu nói của anh
chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa theo pha trò thêm vài câu gì đó
cho vui hơn, để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng con người. Chẳng ai
buồn trả lời câu chửi lãng xẹt của anh ta, nhưng một lúc sau có tiếng nói của một
trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết là chỗ bạn bè thân
thiết: “Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này thì nhanh cái chó
gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà ở đó la với hét?" Cả
bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên sầu trong giây lát.
Có mấy người xong việc,
kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần như vậy chúng tôi nhích
thêm được vài bước, y như cái cảnh xếp hàng mua vé trước rạp Rex mỗi khi có chiếu
phim hay! Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi ngang qua chỗ tôi, dừng lại
nói:
- Cậu Bảy có mặc quần
đùi không? Cởi quần áo dài ra đi, mặc quần đùi thôi.
Tôi ngạc niên hỏi:
- Sao vậy?
- Trời ơi! Vô đó nó thối
không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối ám vô mấy ngày còn chưa hết
mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo dài ra đi, con mang về buồng
cho!
Thì ra tôi mới hiểu tại
sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn lính mới chúng tôi là
ngây thơ trong việc này. Tôi nghe lời anh bạn, cởi đồ dài ra đưa anh cầm về
giúp. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi phải ở đây, không
thể nào rời bỏ vị trí được.
Kẻ ra người vào, rốt
cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên tới bên bờ hố và dàn thành hàng ngang đứng
đối diện với một người xa lạ đang ngồi bên trong. Hai người chúng tôi, một đứng
một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng chúng tôi tránh ánh mắt của nhau, vì
đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ. Lúc đứng chờ, tôi nhìn xuống
bên dưới và cảnh tượng thật là kinh khủng. Hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới
mỗi ô nhà cầu là một thùng chứa phân có 2 quai bằng dây sắt. Nhưng phân tràn be
bét ra ngoài và lấp đầy gần một phần ba cái hố. Các thùng chứa phân là của đội
rau xanh. Mỗi ngày có mấy anh vào khiêng ra, bón cho vườn rau cải được trồng rất
nhiều bên ngoài cổng trại.
Vườn rau này là nguồn
cung cấp thức ăn chính cho tù nhân trong trại. Khi đứng bên miệng hố, mùi hôi
thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Đám ruồi nhặng đông như trấu đang quần thảo,
cào cấu, nhào lộn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm thanh rào rào
như đàn ong vỡ tổ. Mặc dù chúng đã chia ra một tốp khác đang làm chủ tình hình ở
khu nhà bếp, số ruồi xanh ở đây còn dầy đặc mấy lần hơn. Trên lớp mặt nhầy nhụa,
từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, trườn đạp lên nhau không khoan nhượng.
Tôi không dám nhìn lâu
cảnh này và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một góc cách đó không xa.
Có một anh công-an ngồi gác trên chòi, yên lặng nhìn chòng chọc xuống đám tù
nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản năng. Tôi tự nhiên đâm ra
thương hại cho anh ta và nghĩ thầm: “Mình mới đứng một chốc đã muốn điên người,
còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!” Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì
cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.
Và tôi đã nghĩ đúng!
Cái gì rồi cũng quen đi. Về sau này mỗi sáng tôi lại phải đến đây, dĩ nhiên là
cởi trần mặc quần đùi, lại xếp hàng, lại đối diện với hai người bạn tù nào đó,
một người tôi đứng chờ và một người khác đứng chờ tôi! Cái hố vẫn là cái hố cũ
với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha của nó, nhưng tôi không cảm thấy kinh khủng
như lần đầu nhìn thấy. Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết
nhu cầu tự nhiên của cơ thể này trở nên khổ nhọc hơn. Chúng tôi phải xếp hàng
dưới cơn mưa và cái hố kia ngập nước trở nên lõng bõng những nước nhầy nhụa.
Đám dòi bọ bị ngập lụt trôi lều bều, giãy giụa như người trong cơn chết đuối
đang vẫy vùng cầu cứu. Cảnh tượng này trông càng khủng khiếp hơn.
Nhưng trời mưa lại giúp
bầu khí đỡ hôi thối và đàn ruồi nhặng cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng
sợ bị ướt cánh. Những ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này nhưng cố gắng
coi đó là chuyện tự nhiên. Tôi tự nhủ, đây là một phần trong giai đoạn mới của
cuộc đời.
Người bạn tù Linh mục
Lúc đó cha Vũ Đức Khâm
sống chung buồng với tôi và ngài đã để lại trong lòng tôi kỷ niệm sâu xa. Vì lớn
tuổi nên ngài được cho làm việc nhẹ trong trại gọi là “trực sinh”, còn tôi phải
vào toán lao động bên ngoài trại. Lúc bấy giờ trong trại có nhiều loại công việc
khác nhau và mỗi đội làm các việc đó có tên riêng như đội cấp dưỡng (nhà bếp),
đội mộc, đội rèn, đội rau xanh. Tôi được sung vào đội khai hoang dọn đất, tức
là đốn cây, khai phá lùm bụi, cuốc dọn đất cho các đội khác trồng trọt rau cải
cung cấp cho trại. Công việc của đội tôi cũng không vất vả lắm, nhưng phải phơi
nắng cả ngày và là một công việc đầy nguy hiểm.
Điều làm chúng tôi lo sợ
nhất là khi khai hoang cuốc đất, thỉnh thoảng lại có anh cuốc nhằm mìn, lựu đạn
hoặc đầu đạn M79. Đã có người bị nổ banh thây, có người cụt giò hoặc bị thương
tật. Ngoài ra còn một điều ngán nữa là đội chúng tôi lao động quần quật cả ngày
dưới trời nắng chang chang, mình mẩy đầy cát bụi, mà chiều lại không có một giọt
nước để lau người.
Có những hôm chúng tôi
năn nỉ quá, cán bộ võ trang dẫn đi “tắm” ở một cái hố nước gần đó. Hố nước chừng
bằng căn phòng, nước đục ngầu và chỉ cao vừa tới đầu gối. Khi đội chúng tôi tới
nơi, đã có hàng mấy trăm con người ở các đội khác tới trước. Họ đứng tràn chung
quanh miệng hố. Cảnh này nhìn từ xa giống như có đám ma của một nhân vật quan
trọng, lúc hạ huyệt ai cũng muốn bu lại để cố nhìn thấy quan tài lần cuối cùng.
Chừng ấy con người mà lội xuống ao, làm bùn non nổi lên nhào trộn với nước, đặc
quánh lại như vữa xây nhà, chúng tôi đành bỏ cuộc.
Làm sao mà tắm cho được?
Có những ngày nóng nực quá không thể chịu nổi. Sau giờ lao động ban chiều, cán
bộ cho chúng tôi đến “tắm” nhờ bên đội rau xanh. Nơi đó có dòng suối nhỏ mà đội
dùng để tưới vườn rau cải. Chúng tôi dùng lon múc một ít nước lau người. Nước
này đã tưới các luống rau và chảy xuống suối, mang theo từng tảng phân người
trôi lều bều trên mặt nước!
Trong trại lúc đó, có một
số đông anh em Công giáo. Những ngày Chúa Nhật hoặc ngày không đi lao động, anh
em hay đến thăm cha Vũ Đức Khâm và tôi. Để tránh mọi phiền phức trong lối xưng
hô, tôi bảo các anh em gọi cha Khâm là Cậu Hai, còn tôi là Cậu Bảy. Tôi mang
cái tên “Cậu Bảy” từ lúc đó.
Các anh em Công giáo
không những chỉ đến thăm viếng chuyện trò mà còn giúp nhau lo dọn mình xưng tội.
Các anh em bạn bè cũng mang tới cho chúng tôi ít thức ăn, đồ dùng. Trong số những
anh em thường tới chơi và giúp đỡ, tôi đặc biệt nhớ tới anh Phạm Hùng Thọ. Anh
là một sĩ quan trước kia vào trại Gia Ray chúng tôi mới biết nhau. Người Thọ
cao lớn, nước da ngăm đen, tính nết hiền hòa, nói năng chậm rãi.
Lúc đó anh ở đội rau
xanh là đội có cơ hội được tiếp xúc với “nước” nhiều hơn các đội khác. Mỗi buổi
đi lao động, Thọ gánh một đôi thùng thiếc lấy nước sạch mang về, chia cho tôi
và cha Khâm một thùng. Một thùng nước trong trại Gia Ray lúc đó thật là quý, nhất
là nếu biết công của Thọ đã phải gánh từ xa mấy cây số về thì mới hiểu hết được
giá trị của thùng nước đó như câu người ta thường nói: “ Của một đồng công một
lạng”. Tôi nhớ mãi về người bạn tốt này vì thường chọc đùa anh.
Biết tên anh là Phạm
Hùng Thọ mà lúc đó Phạm Hùng là Bộ Trưởng bộ Nội vụ, còn Nguyễn Hữu Thọ là Chủ
tịch nước nên một hôm tôi nói đùa với anh: “Anh Thọ này, giá mà tên anh chỉ lấy
mỗi hai chữ đầu là Phạm Hùng, anh em cũng được nhờ, hoặc chỉ lấy một chữ sau
cùng là Thọ và cho đứng sau chữ Nguyễn Hữu, có phải anh em mình trúng mánh
không? Tiếc là tên hai ông lớn gộp lại mới bằng tên anh mà chúng tôi chẳng được
nhờ vả gì!” Thọ nghe tôi nói bật cười thật tươi. Tôi vẫn nhớ nụ cười hồn nhiên
đó của anh.
Tết năm đó, phần đông
các anh em được gia đình vào thăm nuôi tiếp tế, trong khi chúng tôi vừa mới từ
trại Phan Đăng Lưu chuyển tới rất đột ngột nên gia đình và thân nhân không hay
biết chúng tôi hiện đang ở đâu. Mặc dù lúc đó chúng tôi được quyền đi lại từ buồng
này qua buồng khác và giao tiếp tự do, nhưng phần cha Khâm và tôi lúc nào cũng
phải dè dặt với anh chàng Bùi Định.
Vừa đặt chân lên trại
này, chúng tôi đã được các anh em thông báo phải cẩn thận dè chừng với anh này.
Vì mới tới, tôi chưa biết ai là ai, chỉ biết là anh Bùi Định được trại chỉ định
làm đại diện cho tất cả tù nhân. Anh ta cũng lo việc phát thư, sách báo, gọi và
dẫn tù ra nhà khách thăm gặp gia đình.
Khi từ nhà khách trở
vô, anh ta cũng phụ giúp cán bộ khám xét hàng họ, quà cáp. Trong buồng tôi cũng
có một anh tên là Đặng Báu, nghe nói là giáo dân ở nhà thờ Kỳ Đồng. Anh này
chuyên rình mò báo cáo anh em để lập công. Tôi đã phải nhiều phen khốn đốn vì
anh chàng Đặng Báu này. Khi lên tới trại này sau hơn 9 tháng bị bắt, lần đầu
tiên tôi mới va chạm với hệ thống dùng tù rình mò và tố cáo tù, mà về sau chúng
tôi gọi là “ăn-ten”. Lúc còn bị giam ở trại Phan Đăng Lưu cũng đã có hiện tượng
này, nhưng chưa được tổ chức quy mô thành “mạng lưới” như khi sống chung đông
đúc như ở trại này.
Chuyện năm xưa
Chúng tôi sống yên ổn
được gần một tháng thì có chuyện buồn xảy tới. Ngày nọ, có một anh Công giáo kể
tôi nghe câu chuyện về cha Khâm và dặn tôi về nói lại với ngài. Anh ta nói, một
hôm có một cán bộ người miền Bắc quen biết với cán bộ quản giáo đội của anh,
nên tới đội chơi. Vì biết anh là người Công giáo nên cán bô miền Bắc này hỏi
anh có có biết “tên Vũ Đức Khâm” không. Sau khi anh trả lời là biết, cán bộ này
nói: “Chính thằng Vũ Đức Khâm nó giết bố tôi".
Nghe kể lại chuyện đó,
trong lòng tôi bất an. Tôi rất lo sợ cho sự an toàn của cha Khâm, nhưng tôi
không kể lại với cha, sợ ngài lo lắng vì lúc đó tinh thần ngài rất sa sút. Mặc
dù không kể lại với cha Khâm, nhưng tôi hay tìm dịp hỏi riêng ngài về các việc
làm lúc còn ở Phát Diệm. Cha Khâm cho tôi biết, có làm việc với Đức cha Lê Hữu
Từ trong chiến khu Phát Diệm tự trị, chống Việt Minh. Ngài cũng cho biết, sau
này người ta thêu dệt nhiều điều mà ngài không hề làm.
Có lần tôi hỏi về vết sẹo
khá lớn trên mặt ngài, phía dưới cằm, cha Khâm cho biết là có lần ngài bị ám
sát ngay trong nhà thờ vào một buổi sáng sớm khi ngài vào nhà thờ dâng lễ. Ngài
bị bắn hụt chỉ bị thương và còn lại vết sẹo đó. Ngài nói sau lần đó, ngài không
còn dính líu tới Tự Vệ Quân nữa cho tới khi di cư vô Nam vào năm 1954.
Khi vô Nam, cha Khâm đi
du học ở Mỹ và có bằng tiến sĩ xã hội. Trở về Sài Gòn, ngài hoạt động mạnh
trong phong trào Thanh Sinh Công và mở những khóa phụ nữ cắt tóc đầu tiên tại
Sài Gòn. Lúc trước tôi không biết gì về cha Khâm, vì ngài là lớp đàn anh, lớn
hơn tôi hơn 20 tuổi. Nhưng tôi nghe tên và biết về việc xã hội ngài làm tại Sài
Gòn.
Vào tù chúng tôi mới gặp
nhau khi cùng bị giam chung trong dãy xà-lim ở An ninh Nội Chính ((Nha Cảnh sát
Đô thành cũ). Có 20 người trong 20 phòng liền nhau. Trong số những người nằm
xà-lim lúc bấy giờ tôi còn nhớ các ông Vũ Quốc Thông, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn,
ông Tống Đình Bắc. Trong thời gian đó, cha Khâm là người bị gọi đi hỏi cung nhiều
nhất, có khi gọi cả ngày lẫn đêm.
Cách mấy ngày sau, tôi
nghĩ là nên cho cha Khâm biết câu chuyện mà tôi đã được nghe để ngài chuẩn bị
tinh thần, hơn là có cái gì xảy ra quá đột ngột cho ngài. Trong một đêm tôi kể
lại câu chuyện mà tôi được nghe và ngài rất lo lắng, mặc dù ngài khẳng định là
không bao giờ có chuyện đó. Ngài cho biết là không bao giờ giết người lúc còn
làm việc ở Phát Diệm. Vì cả hai chúng tôi đều có linh tính về chuyện chẳng lành
có thể xảy ra, nên chúng tôi dành nhiều thời giờ lo giúp nhau chuẩn bị các việc
về phần hồn.
Lúc này cha Khâm coi
tôi là người bạn tinh thần và là chỗ nương tựa trong lúc sầu khổ. Tôi nhận thấy
rất rõ là ngài lo lắng và thương tôi hơn. Ngài luôn dặn dò tôi, cho dù bất cứ
vì hoàn cảnh gì mà phải xa nhau, cũng hãy luôn sống xứng đáng với chức vụ Linh
mục và giúp đỡ anh em, nhất là về phần tinh thần. Có lần tôi nói với cha Khâm
là ngài dịch cuốn “Một tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất hay. Cuốn
sách đó có ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất nhiều. Nghe nói thế ngài cảm động lắm.
Tôi còn hỏi tại sao
ngài lấy bút hiệu là Kim Thiếu khi dịch sách đó? Cha Khâm cười trả lời: “Tại Cậu
Bảy mày không biết chữ Nho đó thôi. Đây là lối chiết tự: chữ Khâm được kết hợp
bởi chữ Kim và chữ Khiếm, mà Khiếm tức là thiếu, vậy thay vì Kim Khiếm thì là
Kim Thiếu, tức là Khâm!” Có một đêm nằm gần nhau trên sàn ván trong buồng, tôi
nắm lấy bàn tay cha Khâm và hỏi thẳng vào vấn đề:
- Cậu Hai, giả sử như cậu
có Cậu mệnh hệ nào, cậu có muốn con làm gì không?
Cha Khâm trầm ngâm một
lúc mới trả lời:
- Cậu Bảy mầy hãy nói lại
với mọi người là tôi đã dọn mình ra đi bằng yên, và tôi không bao giờ làm điều
mà họ gán cho tôi.
Cha Khâm vẫn có thói
quen gọi tôi là ‘Cậu Bảy mầy’, nói xong ngài quay mặt đi với vẻ mặt rất buồn.
Tôi hứa là tôi sẽ làm như lời ngài dặn.
Vĩnh biệt Cha Khâm
Và chuyện
gì sẽ tới nó phải tới. Một buổi chiều kia, vào khoảng cuối tháng ba năm 1977,
sau hồi kẻng điểm danh, anh em buồng tôi đứng xếp thành 4 hàng như thường lệ
bên ngoài, chờ cán bộ tới điểm danh vào buồng. Nhìn ra, tôi chợt thấy một chuyện
bất thường. Có một nhóm cán bộ lạ mặt từ xa đi tới.
Thay vì các cán bộ có
trách nhiệm điểm danh hàng ngày mà chúng tôi biết mặt, lần này là Thiếu úy
Xuân, Sĩ quan An ninh của trại, và 2 cán bộ võ trang mang súng dài theo sau
đang tiến thẳng về phía chúng tôi. Thiếu úy Xuân từ miền Bắc vào, thuộc diện
“cùng hung cực ác”. Da mặt anh nám đen và đầy mụn trứng cá như dề cơm cháy, môi
thâm sì, cặp mắt trắng dã, khi nhìn ai, không bao giờ chớp mắt. Tôi còn nhớ
mãi hình ảnh ghê gớm đúng vào đêm giao thừa Tết Đinh Tỵ năm đó, ngày
19-2-1977.
Trong lúc anh em tù
nhân chúng tôi trong buồng chờ đón giao thừa và nói chuyện ồn ào vui vẻ. Thình
lình có nhiều tiếng súng to, súng nhỏ nổ vang bên ngoài. Có mấy anh lạc quan hảo
vội nhảy nhót vui mừng tưởng là phen này “tới rồi”! Lúc đó cộng-sản vừa chiếm
miền Nam, có nhiều phong trào nổi lên chống trả. Và có tin đồn nào là “phe ta”
đang nằm sẵn sàng trong mé rừng Long Khánh, chờ cơ hội thuận tiện đánh úp bất
ngờ. Đêm nay khi nghe tiếng súng rền trời, nhiều người phấn khởi vỗ tay. Có anh
cố khom người nhìn qua khe vách ván coi bên ngoài động tĩnh ra sao!
Một phần khác, có lẽ vì
đa số anh em trong buồng, không nhiều thì ít đều có dính dáng tới súng đạn
trong một cuộc chiến ác liệt vừa tàn, rồi hàng năm trời không có dịp nghe tiếng
súng, đêm nay nghe lại tiếng súng nổ rền vang, tự nhiên cảm thấy nổi hứng như
lân nghe pháo.
Trong khi anh em trong
buồng đang nhốn nháo vui mừng, thình lình cánh cửa duy nhất của buồng ngay đầu
hồi nhà bật mở tung ra! Cánh cửa mở rất mạnh như có một cơn bão lớn làm bật
tung khóa. Tất cả chúng tôi đột nhiên yên lặng nhìn ra phía cửa, miệng há hốc.
Thiếu úy Xuân hiện ra đứng
ngay cửa buồng. Anh ta đứng sừng sững như một Thiên Lôi từ trời rơi xuống, đứng
chết lặng như trời trồng, không nói một lời. Trên mặt nhiều người trong buồng
còn lộ vẻ sững sờ và bẽn lẽn như đứa trẻ ăn vụng, bị mẹ bắt gặp tại trận! Thiếu
úy Xuân “hiện ra” đúng giây phút đầu Xuân, nhưng không mang lại cho chúng tôi một
chút “Xuân” nào! Mặc bộ đồ công-an màu vàng, đầu đội nón cối che gần hết trán.
Cặp mắt trắng dã của
anh ta mở to hết cỡ, đang quét qua quét lại đám tù nhân đang đứng ngỡ ngàng,
lúng túng. Ai đang ở tư thế nào thì giữ nguyên tư thế đó! Một lúc sau, có
vài người khẽ cúi xuống, tránh cặp mắt đằng đằng sát khí của vị đại diện toàn
quyền cho Hung Thần! Anh ta giữ cho bầu khí nặng nề thêm một lúc, bằng cách đứng
yên, hai tay chống nạnh, hai chận dạng ra như trong tư thế xuống tấn của người
đang múa võ.
Cuối cùng anh ta độc
thoại: “Các anh hồ hởi cái gì, hả? Anh nào lúc nãy vỗ tay, hả? Bố láo! Các anh
đừng có tưởng bở!” Cả buồng vẫn yên lặng, một lúc sau có vài người bắt đầu cử động
nhè nhẹ và quay đi có ý như muốn nói “không phải tôi”. Có lẽ thấy màn biểu diễn
uy quyền đã tạm đủ, anh ta to giọng: “Cả buồng đi ngủ! Nếu còn tiếp tục làm ồn
thì đừng có trách!”. “Phán” lời đó xong, anh ta bước lui ra biến dạng vào bóng
đêm cũng nhanh như lúc anh ta “hiện ra”.
Cánh cửa buồng giam tự
nhiên đập “ầm” một tiếng, giống y như các cảnh trong phim thần thoại diễn tả
lúc Hung Thần vụt biến. Có cái khác là Thiếu úy Xuân “biến” mà không để lại một
vầng khói trắng như thường thấy trong phim! Sáng ngày chúng tôi được biết, đêm
qua cán bộ bắn súng mừng giao thừa thay cho tiếng pháo Tết!
Chiều nay, lúc đang đứng
trong hàng tôi lại thấy “Hung Thần” xuất hiện. Lần này thì xuất hiện giữa ban
ngày, có hai cán bộ võ trang xách súng dài theo sau. Thấy Thiếu úy Xuân đang
xăm xăm đi tới, linh tính báo cho tôi biết là có chuyện chẳng lành. Khi anh ta
tới nơi và dừng lại, đội trưởng của chúng tôi (lúc bấy giờ là ông già Lưu), hô
to mệnh lệnh: “Nghiiêêmm!” Cái ông già Lưu này, người thì bé con con mà tiếng
hô “nghiêm” của ông ngon lành nhất trại. Hô xong ông đứng cứng đơ người, hai
bàn tay úp vào, kẹp sát hai bên đùi, gót chân nhún lên nhún xuống.
Vì cái tật này mà ông
ta có biệt danh là “ông già lò xo”! Sau khi hô khẩu hiệu xong, "ông
già lò xo" định báo cáo số người như thường lệ, nhưng Xuân khoác tay, vì
việc này thuộc nhiệm vụ của cán bộ trực trại chớ không phải của anh ta. Anh ta
đến đây vì một việc khác. Thiếu úy Xuân đứng đó, giương cặp mắt lừ đừ trắng dã
nhìn thẳng vào chúng tôi, nói thật gọn nhẹ: “Anh Vũ Đức Khâm, vào buồng mang tất
cả nội vụ ra ngoài!" [1]
Trước giờ chia tay
Tôi nhìn cha Khâm thấy
ngài giật mình một phát thật mạnh và lảo đảo bước ra khỏi hàng. Những gì tôi lo
sợ đã đến. Lúc đó tôi nghe đau nhói trong tim khi nhìn thấy thân hình cao to của
cha Khâm, lúc bấy giờ khoảng 65 tuổi, lưng hơi còng, mình mặc áo đen, quần ngắn
đen, mặt tái nhợt và hai bàn tay run nhẹ, đang bước vội vào buồng. Vào tù ngài
để râu nên trông càng già hơn.
Tôi có thể đoán biết số
phần của ngài sẽ ra sao! Các anh em khác cũng đứng yên nhìn cha Khâm với vẻ ái
ngại, mặc dù họ chưa biết tính cách nghiêm trọng của sự việc như tôi biết. Thiếu
úy Xuân vẫn còn đứng đó, trong khi hai cán bộ võ trong xách súng theo sau cha
Khâm tới cửa buồng. Tôi đứng suy nghĩ một giây, và bước ra khỏi hàng tới trước
mặt Thiếu úy Xuân:
- Báo cáo anh!
Thiếu úy Xuân ngạc
nhiên nhìn tôi hỏi:
- Có việc gì?
- Tôi sinh hoạt chung với
anh Khâm và quản lý tất cả đồ đạc. Anh cho tôi vào buồng trả lại cho anh ấy.
Lúc đó tôi sinh hoạt ăn
uống chung với cha Khâm và anh Trần Đình Ngành, một giáo dân xứ Tân Việt. Thật
ra đó chỉ là cái cớ. Tôi còn một ý khác mạnh hơn và quan trọng hơn rất nhiều để
xin vào buồng trong lúc này. Thiếu úy Xuân suy nghĩ một chốc, gật đầu:
- Được! Khẩn
trương lên!
Tôi đi như bay về phía
buồng, nhưng hai tên võ trang đứng ngoài cửa chận tôi lại hỏi:
- Còn anh vào đây
làm gì?
- Tôi đã báo cáo xin
anh bên ngoài cho vào soạn đồ đạc của anh Khâm, vì chúng tôi sinh hoạt chung.
- Khẩn trương lên nhé!
- Vâng, tôi khẩn
trương!
Thấy hai anh này không
có gì khó khăn lắm tôi cũng mừng, đi vội lại với cha Khâm lúc đó ở khoảng giữa
buồng về bên trái. Lúc đó ngài đang lúng túng vội vàng lục tung đồ đạc ra, vất
lộn xộn trên sàn gỗ.
Thấy tôi bước vào, cha
Khâm mừng rỡ ra mặt, hai bàn tay run rẩy của ngài chụp lấy tay tôi, nói bằng giọng
đứt quãng:
- Cậu Bảy mày ở lại
mạnh giỏi, xin Chúa chúc lành. Gửi lời chào Ngành và các anh em, nhớ cầu nguyện
cho nhau. Cậu giữ tất cả thức ăn lại đi, tôi không mang gì đâu.
Lúc đó cha Khâm đã mất
bình tĩnh, lụp chụp và cố nói với tôi thật nhiều trong khi còn có thể nói được.
Tôi nhìn Ngài hết sức thương tâm, cố kềm hãm cơn xúc động và nói nhanh:
- Cậu Hai dọn mình ăn
năn tội đi, con giải tội cho. Con xin vào đây vì lý do đó.
Nói xong tôi ngước mắt
nhìn ra cửa thấy Thiếu úy Xuân đang từ từ đi vào. Lúc này cha Khâm đang ngồi
quay lưng ra cửa, mắt nhắm nghiền, đôi môi mấp máy. Tôi biết là ngài đang dọn
mình ăn năn tội. Tôi bắt đầu đọc công thức giải tội bằng tiếng La-tinh, đọc thật
nhỏ vừa đủ cho hai người nghe: “Dominus noster Jesus Christus te absolvat....”
Tôi vừa đọc xong thì Thiếu úy Xuân cũng vừa tới nơi. Anh ra lệnh bằng một giọng
nhỏ nhẹ nhưng dứt khoát: “Anh Khâm khẩn trương! Mang nội vụ ra ngoài!”
Tôi đứng nhìn theo bóng
dáng to cao của cha Vũ Đức Khâm đang vội vã tay xách nách mang trở ra cửa, theo
sau là Thiếu úy Xuân, trông như cảnh tội nhân bước ra pháp trường, có tên lý
hình theo sau. Có lẽ lúc đó cha Khâm cũng đã biết một phần nào số phận của ngài
nên trông ngài mất bình tĩnh một cách rất đáng thương.
Nỗi Buồn Chia Ly
Tối đêm hôm đó sau khi
đã vào buồng đóng cửa, một số anh em, nhất là các anh em Công giáo, lộ vẽ u buồn
trông thấy. Phần tôi, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy thật lẻ loi và cô
đơn. Tôi nằm nhớ cha Khâm và hai hàng nước mắt tràn ra. Lúc nãy khi thu dọn lại
đồ đạc tôi thấy chiếc dây thắt lưng bằng da, có bảng khá to mà tôi thấy ngài vẫn
thường mang. Có lẽ trong lúc vội vã ngài đã bỏ quên lại. Nhìn thấy vật này tôi
càng nhớ cha Khâm nhiều hơn. Khi đi ngủ, nhìn sang chỗ trống bên cạnh tôi bồi hồi
nhớ lại hơn một tháng qua, hai anh em Linh mục chúng tôi nằm gần nhau, an ủi
nâng đỡ nhau, cùng nhau dâng Thánh Lễ trong mùng cách âm thầm.
Tôi coi cha Khâm như một
người cha hơn là một bạn tù. Ngược lại ngài cũng rất quý mến tôi. Sự có mặt của
cha Khâm và tôi trong trại tù hơn một ngàn người ở đây cũng là một niềm vui và
là nguồn an ủi cho một số đông các anh em Công giáo. Giờ đây cha Khâm đi rồi,
chỉ còn lại một mình, và tôi cảm thấy trách nhiệm mình trở nên nặng nề hơn.
Thời gian này cũng là
lúc tôi thấy rõ vai trò một Linh mục trong nhà tù cộng-sản, là một chỗ dựa tinh
thần cho nhiều người. Điều này tôi đã bắt đầu cảm nhận ngay trong thời gian gần
hai tháng tù đầu tiên tại Ban Mê Thuột và sau đó là tám tháng ở An Ninh Nội
chính và trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định.
Đêm đó tôi nằm trăn trở
không ngủ được. Việc cha Khâm bị đưa đi làm tôi sốc nặng, vì tôi đã hình dung
được những gì đang chờ đợi ngài qua câu chuyện mà tôi được nghe. Trong đêm
thanh vắng tôi nằm nhớ lại những ngày tháng qua, từ lúc tôi bị bắt trong vùng rừng
núi ở Campuchia, giáp ranh tỉnh Ban Mê Thuột.
Nhớ lại những ngày đầu
tiên tôi bước vào nhà giam tỉnh Ban Mê Thuột, sau đó chuyển về An Ninh Nội
Chính và bị giam chung với cha Khâm ở dãy xà-lim, cha Khâm buồng 15, tôi buồng
20. Sau đó cả hai được chuyển qua trại Phan Đang Lưu tỉnh Gia Định, nhưng cũng ở
khác buồng. Lúc lên trại Gia Ray này, chúng tôi mới sống chung một đội với
nhau.
Những Bước Đầu
Nhớ lại kỷ niệm của những
ngày đầu, lúc tôi còn quá ngỡ ngàng với nếp sống trong tù, cái gì cũng lạ, cũng
bỡ ngỡ như chuyện buồn cười sau đây. Hai tháng sau ngày bị bắt, tôi được chuyển
về trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định. Phòng giam là một căn phòng trống trơn,
các tù nhân nằm trên nền xi-măng xây lên cao khoảng ba tấc cập theo vách tường.
Ở giữa có khoảng trống trũng xuống, mà chúng tôi gọi là “phi đạo” chạy thẳng ra
cửa.
Ngay gần cửa về phía
trái có một bể cạn cao chừng thước hai, có thể chứa được hai khối nước, có vòi
nước máy chảy vào. Từ thành bể trở vô sát với bờ tường là một khoảng trống làm
chỗ tắm giặt và trong cùng là cầu tiêu. Khu vực này được ngăn ra với “phòng ngủ”
bằng một bờ tường cao tám mươi phân. Như vậy phải hiểu là vách chỉ che được người
đứng bên trong kín được tới trên đầu gối một chút. Thật ra, công dụng của vách
ngăn này chỉ để nước khỏi bắn tung tóe ra ngoài, chứ không có ý che kín con người
tắm bên trong.
Buồng giam có mái nhà lợp
tôn, không cửa sổ và bên trên thay vì trần nhà, là một vỉ sắt ô vuông đề phòng
tù trổ nóc nhà vượt ngục. Mỗi buồng như vậy nhốt 60 người, có khi hơn, trong
khi sức chứa thực sự chừng 30. Tù nhân trong buồng thật hỗn tạp, đủ mọi thành
phần như phản cách mạng, phục quốc, vượt biên, văn nghệ sĩ, công chức chế độ cũ
v.v... và có vài anh cán bộ hủ hóa cũng bị nhốt vào đây. Trong buồng tôi
lúc đó gần phân nửa là số anh em Công giáo, nhiều nhất là thanh niên các xứ đạo
trong đô thành như Tân Việt, Tân Sa Châu, Bùi Phát. Đa số bị bắt vì tham gia
phong trào Dân Quân Phục Quốc.
Vì phòng quá đông nên rất
nóng nực, mọi người đều cởi trần và mặc mỗi chiếc quần đùi cả ngày lẫn đêm. Ban
ngày chúng tôi thay phiên nhau giội nước tắm trong giờ được cả buồng ấn định.
Khi tắm, mỗi người được giội ba “mũ” nước.[1] Người này tắm xong tới người kia,
cứ xoay vòng theo chiều kim đồng hồ căn cứ vào vị trí chỗ nằm trong buồng.
Tất cả mọi người, khi tắm
đều cởi truồng. Đây mới là cái khó cho tôi! Tôi để ý gần như ai khi tắm cũng
làm những động tác giống nhau. Họ tới bên bể nước, bước vào “nhà tắm”, tuột
nhanh cái quần đùi, giũ phành phạch hai lần và vắt nằm lên trốc vách ngăn. Hầu
hết đều quay mặt vô vách khi làm các động tác này, nhưng cũng có người cứ bình
thản quay mặt ra “khán giả”, vì còn mải mê tiếp tục câu chuyện dở dang. Có mấy
anh chàng quá mê cờ tướng, chẳng còn biết trời đất là gì, tuột quần xuống quá đầu
gối rồi mà còn đứng quay lại, tay trái giữ cạp quần, tay kia khua khoắng chỉ trỏ
và gân cổ lên cãi về một nước cờ còn chưa ai chịu ai.
Trong lúc miệng nói,
các ngón tay hạ xuống co tròn lại, gãi sồn sột chỗ vòng đai thắt lưng có một đường
viền lồi ra vì cạp quần thun quá chật. Nhiều khi đứng lâu quá, làm người kế sau
chờ sốt ruột phải lên tiếng giục mới chịu giở chân lấy quần ra. Xong động tác cởi
quần là bước vô “nhà tắm”, cúi xuống cầm nón nhựa múc thật đầy nước và giội lên
đỉnh đầu. Mỗi người chỉ được ba nón, ai giội quá bị cảnh cáo và khấu trừ lại
chuyến sau. Tắm xong, chẳng lau người gì cả, chỉ vuốt mặt vuốt mày cho đỡ ướt.
Sau đó với tay lấy cái
quần đùi, lại giũ phành phạch hai cái và cúi rùn người xuống xỏ chân mặc vào.
Thế là xong một lần tắm. Chiếc quần đùi bị dính nước ướt lỗ chỗ một vài nơi,
nhưng rồi một chốc lại khô ngay và lại chờ cho hết vòng rồi tiếp tục những động
tác y như thế cho tới khi hết giờ quy định, thường là trước giờ ăn chiều. Mỗi
ngày được chừng 4 hoặc 5 vòng, ai không cần tắm thì nhường cho người tiếp theo
và như thế vòng tua lại được rút ngắn đôi chút.
Tôi vô buồng 6 Khu C2
trại Phan Đăng Lưu này vào một ngày cuối tháng 8 năm 1976. Mùa này nắng rất to,
trong phòng nóng nực làm mồ hôi lúc nào cũng nhễ nhại trên người. Ngày đầu tôi
không tắm vì ngại. Qua ngày sau nóng nực không chịu nổi, nên khi trong buồng bắt
đầu xoay vòng đi tắm, tôi cũng vào phiên. Khi nhìn những anh tắm trước, tự
nhiên tôi đâm ra e ngại vì tôi không quen tắm cởi truồng trước mặt người khác.
Vòng tua càng nhích gần tới phiên mình, tôi càng bối rối, có nên hay không nên
tắm, và khi tắm có nên làm cách tự nhiên như những người khác không?
Thật là tấn thối lưỡng
nan! Không tắm thì nóng nực không chịu nổi, mà tắm trần truồng trước gần 120
con mắt, thật ngại chết người vì tôi chưa ở trong hoàn cảnh như thế bao giờ. Nhất
là đa số các bạn tù trong buồng lúc bấy giờ là các anh em Công giáo! (không hiểu
tại sao tôi lại có cái ý nghĩ là trần truồng trước mặt các anh em Công giáo
mình sẽ ngại ngùng hơn!) Nhưng nếu tôi mặc quần đùi tắm thì làm gì có đủ quần để
mặc và chỗ đâu để phơi.
Lúc đó tôi chỉ có hai
chiếc quần đùi để thay đổi nhau, mà tắm xoay tua kiểu này, dù có tới hàng chục
chiếc cũng không kịp để thay, không lẽ cả ngày phải mặc quần ướt? Nhớ lại hồi
còn đi học, khi ở trọ với anh tôi trong trại gia binh ở Vĩnh Long, tôi cũng đã
có dịp va chạm với cảnh tắm truồng tập thể. Những người lính đều tắm truồng,
tôi vào phòng tắm chung với họ nhưng tôi chỉ đóng cai khán giả mà không bao giờ
“nhập cuộc”.
Lúc này, anh bạn trước
tôi đã tắm xong và đang vuốt mặt, vuốt mày. Cùng một động tác giống mọi người,
anh với lấy cái quần đùi đang nằm chơi vơi trên trốc tường, căng ra, giũ phành
phạch 2 cái, xong cúi xuống mặc vội vào và bước ra nhường chỗ cho tôi. Anh ta
làm những động tác ấy nhanh như một người máy, có lẽ không muốn để tôi phải chờ
lâu.
Anh ta đâu có biết là
cho tới giây phút cuối cùng, tôi cũng chưa dứt khoát được tư tưởng. Lúc nãy,
trong khi đứng chờ, tôi ngoái đầu lại đảo mắt quan sát thật nhanh các bạn trong
buồng. Tôi làm như vô tình, nhưng thật ra là có ý dò xét xem có ai chú ý tới việc
tôi sắp sửa tắm hay không. Những gì tôi ghi nhận thật đáng khích lệ!
Trong góc đàng xa, một
nhóm khá đông mải mê cờ tướng, đang cúi gầm trên bàn cờ được kẻ vạch ngay trên
bệ nằm bằng xi-măng. Nhóm khác ngồi kế bên, đang tranh luận rất gay cấn, khua
tay múa chân, mạnh ai người ấy nói như một đám ứng cử viên đang cố gắng trình
bày kế sách cùng một lúc với cử tri!
Có vài người đang lúi
húi với cái bị cói đựng đồ thăm nuôi đang bị lũ kiến đói tấn công! Có người
đang ngồi đọc báo Nhân Dân. Có người trịnh trọng nắn nót que diêm trước khi
đánh lửa hút thuốc lào. Các nhóm này mang lại cho tôi thật nhiều sự an ủi và dễ
chịu.
Nếu cả 60 con người
trong buồng này ai cũng đang bận rộn về một việc như vậy thì việc tắm truồng của
tôi đâu còn là một vấn đề. Ngặt một nỗi, có mấy anh chàng ngồi trong các góc đối
diện kia đang trầm ngâm như những triết gia. Họ đưa cặp mắt lờ đờ rảo qua hết
nơi này tới nơi khác. Tôi không thể đoán được trong đầu óc họ lúc đó đang suy
nghĩ gì.
Họ nhìn bốn phương tám
hướng, nhưng thực sự họ chỉ nhìn để mà nhìn, hay có ý muốn quan sát một điều gì
không, ai biết được? Chính những anh chàng này làm khổ tôi, chính họ tạo cho
tôi sự bất ổn vì không thể đoán biết được gì trong cái nhìn vu vơ của họ. Tận
trong một góc đàng xa, tôi thấy Bác sĩ Lý Trung Dung đang ngồi một mình, cởi trần
mặc quần đùi trắng, vóc người nhỏ thó, đầu tóc bạc phơ. Ông đang dựa lưng vào
tường, đôi mắt nhắm nghiền, miệng lâm râm đọc kinh, đây là thói quen thường
ngày của ông.
Bác sĩ Lý Trung Dung có
lần kể với tôi ông là tác giả công trình Hội Chợ Thị Nghè trong dịp Quốc Khánh
năm 1957 thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lần đó cây cầu phụ bắt qua sông Thị
Nghè bị sập trong đêm làm chết khá nhiều người. Tôi cũng có mặt gần bên, trong
dịp tôi Sài Gòn lần đầu tiên khi tôi vừa 14 tuổi.
Sau khi đảo mắt một
vòng, tôi đi tới một kết luận thật nhanh: “Không đến nỗi nào, không có mấy người
chú ý đâu, cứ tự nhiên thôi!”Tôi mạnh dạn bước vào”buồng tắm” và làm những động
tác như các bạn tù . Tôi cố gắng làm một cách thật tự nhiên và nhẹ nhàng, trong
khi liếc mắt nhìn, chẳng ai thèm để ý tới tôi. Từ đó tôi nhập cuộc vào sinh hoạt
thông thường với anh em trong buồng. Việc đi tắm một cách tự nhiên đó không còn
là vấn đề đối với tôi, vì đó là thực tế của cuộc đời tôi đang sống. Cuộc đời của
một người tù.
Khi cha Khâm bị đưa đi
rồi, nhờ có anh tù mang thức ăn cho khu kỷ luật mà tôi quen, nên tôi biết tin về
cha Khâm và có thể gởi cho ngài ít thứ cần thiết. Cha Khâm bị đưa xuống cùm
chân trong hầm kỷ luật. Hầm này trước kia là hầm truyền tin của trung đoàn, nằm
giữa sân trại, ngay lối ra vào. Hôm sau tôi nhờ anh mang vào cho ngài nải chuối
và dây thắt lưng da to bản mà ngài vẫn dùng. Những ngày sau chúng tôi cũng tiếp
tục gửi thức ăn cho ngài, nhưng cũng có lần ngài nhắn lại là không cần thức ăn
nữa, chỉ xin anh em Công giáo giúp lời cầu nguyện cho ngài.
Khi cha Khâm bị đưa đi
rồi, chỉ còn lại anh Trần Đình Ngành và tôi sinh hoạt chung với nhau. Anh Ngành
là người rất tốt và nhân hậu. Anh rất thương cha Khâm và tôi. Trong đêm đầu
tiên cha Khâm bị dẫn đi, anh Ngành vô mùng nằm khóc nức nở và những ngày sau
lúc nào cũng tìm cách gửi một thứ gì đó cho “Cậu Hai”. Anh Ngành và tôi gặp
nhau trong khu xà-lim trại Phan Đăng Lưu, từ đó chúng tôi quý mến nhau.
Anh vẫn gọi tôi là “3
ngã” và tôi gọi anh là “3 huyền” theo các dấu trong tên của hai người là Trần
Đình Nghành và Nguyễn Hữu Lễ. Một tuần sau, trong khi chúng tôi đi lao động về,
thấy có một xe nhỏ bít bùng chạy từ trong trại ra. Hôm sau tôi được anh tù lo
việc liên lạc cho biết Cậu Hai đã được đưa vào nhà tù Chí Hòa.[1]Kể từ đó không
bao giờ tôi gặp lại cha Vũ Đức Khâm nữa.
Tin chuyển trại
Sau khi cha Vũ Đức Khâm
bị đưa đi một thời gian, có tin đồn là chúng tôi sẽ được di chuyển về Đồng
Tháp. Tin này được loan truyền đi rất nhanh trong trại. Có một điểm tâm lý dễ
hiểu là trong tù lúc nào chúng tôi cũng mong có sự thay đổi. Ai cũng hy vọng là
chỗ mới sẽ khá hơn nơi chúng tôi đang sống.
Vả lại, trại Gia Ray là
một nơi rất tạm bợ, thiếu thốn tất cả mọi thứ, ngay cả những nhu cầu tối thiểu
của con người, nên chúng tôi càng mong được chuyển đi nơi khác hơn. Lúc đầu
không ai biết tại sao có tin đồn đó, nhưng khi tìm hiểu cặn kẽ mới biết là những
người bà con vào thăm nuôi đã báo tin. Trước khi vào thăm nuôi, thân nhân của
tù thường dừng lại các hàng quán bên ngoài mua hoa quả, bánh trái và đã được một
cô bán hàng cho biết tin đó với tính cách “bí mật”.
Số là cô bán hàng có
quen một anh công-an cai tù trong trại. Ngày kia anh ta ra từ giã cô gái và nói
là anh sẽ vắng mặt một thời gian. Cô gái vặn hỏi mãi lý do nhưng anh ta không
nói, chỉ trả lời úp mở càng làm cho cô gái sốt ruột và sinh nghi sắp có chuyện
gì liên quan tới số phận các tù nhân trong trại.
Cũng nên biết là lúc bấy
giờ đồng bào trong Nam rất thương các người tù như chúng tôi, nếu có thể làm gì
để giúp cho các tù nhân, họ không bao giờ từ chối. Cô gái bán quán này cũng
trong tâm trạng đó. Mặc dù không làm gì được để giúp chúng tôi nhưng cô đã lợi
dụng sự quen biết với cán bộ để “moi” tin tức, và tìm cách đưa vào trong trại.
Vì cô nghĩ đó là cách
cô giúp cho những người tù mà cô thương mến. Lần này, sau mấy ngày úp mở về sự
vắng mặt sắp tới của anh cán bộ, cô gái phải làm hết cách để hỏi cho bằng được.
Cuối cùng anh cán bộ đành phải tiết lộ với câu dặn dò rất nghiêm trọng: “Đừng
bao giờ nói lại với ai là anh sẽ áp tải một số tù về Đồng Tháp!”
Chưa đầy 24 tiếng đồng
hồ sau, không một người tù nào trong trại Gia Ray mà không biết tin “bí mật” là
sẽ có một đợt chuyển tù về Đồng Tháp!
(Xin xem tiếp kỳ tới)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét