Mục lục
Lời tựa
Phần I: Cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Chương I: Nguyên nhân cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Chương II: Lịch trình đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Chương III: Phương pháp đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Phần II: Tài liệu (Nhân vật và Tác phẩm)
I. Phái cựu học
Cụ Phan Khôi
Giới
thiệu cụ Phan Khôi
- Phê
bình lãnh đạo văn nghệ
- Tìm
ưu điểm (ngụ ngôn)
- Ông
Bình Vôi
- Ông
Năm Chuột (truyện ngắn)
- Nắng
chiều
II. Phái thanh niên
Trần Dần
Trần Dần
- Giới
thiệu Trần Dần
- Nhất
định thắng (thơ)
- Hãy
đi mãi (thơ)
Phùng Quán
- Giới
thiệu Phùng Quán
- Chống
tham ô lãng phí (thơ)
- Lời
mẹ dặn (thơ)
Tạ Hữu Thiện
- Giới
thiệu Tạ Hữu Thiện
- Tôi
tìm em (thơ)
Bùi Quang Đoài
- Giới
thiệu Bùi Quang Đoài
- Lịch
sử một câu chuyện tình (truyện ngắn)
- Chủ
nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị (bút chiến
Minh Hoàng
- Giới
thiệu Minh Hoàng
- Đống
máy (truyện ngắn)
Phùng Cung
- Giới
thiệu Phùng Cung
- Con
ngựa già của chúa Trịnh (truyện ngắn)
Trần Lê Văn
- Giới
thiệu Trần Lê Văn
- Bức
thư gửi một người bạn cũ
Hoàng Tích Linh
- Giới
thiệu Hoàng Tích Linh
- Xem
mặt vợ (kịch ngắn một hồi)
- Cơm
mới (kịch một hồi)
III. Các nhà văn đứng tuổi
Tồ Hữu
- Giới
thiệu Tố Hữu
- Bài
ca tháng Mười (thơ)
- Đời
đời nhớ Ông (thơ)
Nguyễn Tuân
- Giới
thiệu Nguyễn Tuân
- Phở
(tuý bút)
- Phê
bình nhất địnnh là khó
- Nguyễn
Tuân tự phê bình
Văn Cao
- Giới
thiệu văn Cao
- Anh
có nghe không (thơ)
- Những
ngày báo hiệu mùa xuân (trích trong bài thơ dài “Những người trên cửa
biển”)
Trần Duy
- Giới
thiệu Trần Duy
- Những
người khổng lồ
- Thành
thật đấu tranh cho tự do dân chủ
Hoàng Cầm
- Giới
thiệu Hoàng Cầm
- Em
bé lên sáu tuổi (thơ)
- Tiếng
hát (trích 2 đoạn trong hồi thứ nhất vở kịch thơ dài Tiếng hát
Trương Chi)
Hữu Loan
- Giới
thiệu Hữu Loan
- Cũng
những thằng nịnh hót (thơ)
- Lộn
sòng (truyện ngắn)
Sỹ Ngọc
- Giới
thiệu Sỹ Ngọc
- Làm
cho hoa nở bốn mùa
- Bất
mãn
Chu Ngọc
- Giới
thiệu Chu Ngọc
- Chúng
ta gắng nuôi con (hoạt cảnh)
Như Mai
- Giới
thiệu Như Mai
- Thi
sĩ máy
IV. Các nhà học giả
Đào Duy Anh
- Giới
thiệu Đào Duy Anh
- Muốn
phát triển học thuật
Trần Đức Thảo
- Giới
thiệu Trần Đức Thảo
- Nội
dung xã hội và hình thức tự do
- Nỗ
lực phát triển tự do dân chủ
Nguyễn Mạnh Tường
- Giới
thiệu Nguyễn Mạnh Tường
- Qua
những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo
- Vừa
khóc vừa cười
Lời tựa
Trăm hoa đua nở, Trăm nhà [1] đua tiếng là dịch nôm câu chữ Hán: Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh, trong cổ văn.
Đây là một câu mà các học giả đời Hán đặt ra để vừa ca tụng vừa tỏ ý luyến tiếc nền văn học cổ điển của Trung Quốc, sáng ngời trong mấy thế kỷ trước, về thời Đông Chu.
Văn học Trung Hoa về thời Đông Chu quả thật xứng đáng cho các thế hệ sau ca ngợi, vì trong vòng ba thế kỷ (từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch kỷ nguyên), các học giả thời Đông Chu đã đưa nền văn học Trung Quốc từ chỗ thấp nhất đến chỗ cao nhất mà hai nghìn năm sau, không tài nào vươn tới.
Gần như cùng một lúc, Lão học, Khổng học và Mạc học đua nhau ra đời, tiếp theo là những học thuyết uyên thâm của Mạnh Tử, Tuân Tử và Dương Chu. Có thể nói được rằng hầu hết các lý thuyết hiện nay còn đương tranh giành ảnh hưởng trong nhân loại, như chủ nghĩa dân chủ, lãng mạn, vô chính phủ, duy vật, xã hội, quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, phát xít, v.v... đều đã có đại diện từ thời bấy giờ. Tính theo thời gian thì nền văn học Trung Quốc đã bỏ xa nền văn học Âu châu vào khoảng 20 thế kỷ.
Vì vậy nên ngày nay, những học giả nghiên cứu về lịch sử văn hoá Á đông đều phải thắc mắc về một điểm: Tại sao một nền văn hoá đương phát triển một cách tốt đẹp như vậy lại bỗng nhiên đứng dừng lại, khiến trong suốt hai nghìn năm về sau, Trung Quốc chỉ có lùi mà không có tiến về phương diện tư tưởng?
Ông Tibor Mende, một nhà học giả Tây phương, chuyên nghiên cứu về các vấn đề Á đông, đã ví nền văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ như hai con sông lớn, đã mang sinh lực tưới khắp miền Đông Nam Á, bỗng dưng bị cạn hết nước. Nguyên nhân gì đã làm tịt ngòi? Ông nêu ra câu hỏi mà không trả lời. [2]
Nói một cách rõ ràng hơn thì: Tại sao về thời Đông Chu lại có Khổng, Mạnh, Lão, Mạc,.. mà hai nghìn năm sau không có vị thánh hiền nào cả? Hoặc dùng một hình ảnh tượng trưng thì: tại sao trong một thời đại loạn ly như thời Xuân Thu, Chiến Quốc, trăm hoa lại đua nở mà từ thời ấy về sau hoa lại không nở?
Chúng tôi nghĩ rằng nếu ôn lại lịch sử chính trị Trung Quốc, chúng ta có thể tìm ra câu giải đáp.
Về thời Đông Chu, Trung Quốc bị phân chia thành nhiều nước chư hầu, luôn luôn đánh nhau để tranh giành ngôi bá chủ, nên nước nào cũng lo thu phục nhân tài để mở mang thế lực. Vì vậy nên kẻ sĩ đương thời được trọng đãi. Một mặt khác vì nước nào cũng yếu, nên không ông vua nào có đủ quyền lực để thiết lập chế độ độc tài. Do đó ngôn luận không bị kiềm chế vì các nhà học giả, nếu chẳng may bị vua chúa trong nước khủng bố vì tội đã phát biểu một ý kiến trái ngược với đường lối của triều đình, thì cũng dễ dàng vượt biên giới chạy sang nước đối nghịch, có người sẵn sàng dung nạp ngay. Vì vậy nên mới có quang cảnh "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Nếu hoa không nở được ở khí hậu này, có thể nở được ở khí hậu khác. Nếu một học giả không phổ biến được tư tưởng của mình ở Tề, thì có thể di cư sang Sở chẳng hạn, để truyền bá học thuyết của mình.
Thời Đông Chu tuy là một thời loạn lạc, nhưng chính vì loạn lạc mà tư tưởng không bị kiểm soát.
Trái lại, sau khi Thương Ưởng đưa ra thuyết quân chủ chuyên chế và Lý Tư, học trò của Thương Ưởng giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, thì từ ngày ấy về sau không một vị thánh hiền nào xuất hiện trên đất Trung Quốc nữa. Một lẽ rất dễ hiểu là không có tự do tư tưởng thì không có nhà tư tưởng, cũng như hễ không có nước thì không thể nào có cá được.
Lý Tư, môn đệ của phái Pháp gia, được Tần Thuỷ Hoàng bổ làm Thượng thư, làm sớ tâu đại khái như sau:
"Từ trước tới nay, thiên hạ sống trong cảnh phân chia, nên tư tưởng bị hỗn loạn... Ngày nay Bệ hạ đã thống nhất sơn hà mà vẫn còn nhiều người ngang nhiên mở trường dạy học, mang ý kiến riêng của mình ra chê bai luật pháp và chính sách của triều đình... Nếu Bệ hạ không mau ngăn cấm thì kỷ cương sẽ sụp đổ từ trên xuống dưới và đảng phái sẽ mọc từ dưới lên trên."
Năm 213 trước Tây lịch, Tần Thuỷ Hoàng nghe theo Lý Tư đốt hết sách vở có phương hại đến đường lối của Tần triều và chôn sống 460 nhà trí thức đối lập. [3] Họ bị chôn sống vì bờ cõi của đế quốc Tần rộng quá, không tài nào chạy thoát. Từ ngày ấy Trung Quốc có một chính phủ duy nhất, một luật pháp duy nhất, nhưng cũng có một lối nghĩ duy nhất. Trăm hoa hết đua nở và trăm nhà đều im tiếng.
Sau Tần đến Hán. Các vua triều Hán, khôn ngoan hơn vua Tần, không cấm đoán tư tưởng, nhưng hạn chế tư tưởng bằng cách đưa Khổng giáo lên địa vị quốc giáo, khiến các học thuyết khác phải lùi bước. Triều đình chỉ tuyển lựa những người thông hiểu Ngũ kinh, Tứ thư để bổ làm quan lại, nên Nho học trở thành bậc thang cho giới trí thức bước lên đàn sĩ hoạn. [4] Nhưng cũng vì vậy mà triết lý của Khổng Tử bị xuyên tạc và Khổng học chỉ còn là một lợi khí của giới thống trị. Nói theo kiểu cụ Phan Khôi thì "Trăm hoa" đã trở thành hoa cúc vạn thọ hết thẩy. [5]
Suốt trong 20 thế kỷ về sau, trí thức Trung Hoa luôn luôn bị khủng bố. Tư Mã Thiên bị thiến, Ban Cố bị chết trong ngục, Phạm Việp vị xử tử... cho đến người cuối là Lương Khải Siêu, phải chạy sang Nhật Bản mới thoát thân.
Từ ngày ông Mao Trạch Đông lên kế nghiệp Tần Thuỷ Hoàng, ông đã giết Hồ Phong, và nhiều học giả khác, nhưng gần đây ông lại tuyên bố cho phép "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng".
Không ai biết rõ chủ định của ông Mao như thế nào, nhưng mọi người đều nhận thấy rằng trên toàn cõi Trung cộng hiện nay, không có thứ hoa nào khác hơn là hoa Mác-Xít.
Tóm lại dù là chuyên chế kiểu quân chủ hay kiểu cộng sản, chế độ tập quyền vẫn tiêu diệt tự do tư tưởng. Ngày nay cũng như suốt hai nghìn năm về trước, trí thức Trung Hoa vẫn bị bịt mồm, bịt miệng.
Từ ngày Bắc Việt trở thành một "vệ tinh" của khối cộng sản, trí thức ở Bắc Việt cũng lâm vào tình trạng chung của đồng bạn ở khắp trong bức màn sắt.
Nhưng "40 năm một thuở", trong dịp hạ bệ Stalin vừa qua, họ đều đứng dậy đấu tranh chống Đảng, đòi phục hồi quyền tự do tư tưởng. Trong phong trào quật khởi này, trí thức ở Bắc Việt cũng đã góp một phần quan trọng. Suốt trong thời gian hai năm, 1956 và 1957, trí thức ở miền Bắc đã sản xuất trên một trăm bản văn có giá trị. Cộng sản coi những bản văn ấy là những "cỏ độc", nhưng chúng tôi coi những tác phẩm của họ như một "trăm hoa" thực sự.
Vì vậy nên chúng tôi sưu tầm và kết lại thành một "bó hoa" để cống hiến độc giả, hòng góp sức vào công việc làm sáng tỏ thêm nền văn học hiện đại của dân tộc Việt Nam.
Đối với độc giả trong Thế giới Tự do chúng tôi cũng muốn nói một câu: Không nên nghĩ rằng cần phải chuyên chế mới có đủ phương tiện để thực hiện những công trình vĩ đại, vì xưa kia Tần Thuỷ Hoàng cũng đã thực hiện những công cuộc vĩ đại, xây đắp Vạn lý Trường thành, thiết lập xa lộ, thế mà nhà Tần vẫn bị mất nghiệp; một mặt khác, chính vì Tần Thuỷ Hoàng khởi đầu việc đàn áp tư tưởng mà văn hoá Trung Quốc đã bị đứng dừng trong hai ngàn năm nay. Lợi nhất thời không bằng hại muôn thuở.
Saigon, tháng Giêng 1959
Hoàng Văn Chí
Trưởng ban biên tập của
Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá
Phần I: Cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Chương 1: Nguyên nhân cuộc nổi dậy của trí thức ở miền Bắc
Trí thức ở miền Bắc Việt Nam đã nổi dậy chống lại chế độ cộng sản từ mùa Xuân năm 1956 mà mãi đến cuối Thu năm ấy báo chí ở Sài Gòn mới được tin vì nhà cầm quyền miền Bắc đã dùng mọi biện pháp để cố tình bưng bít một cuộc nội biến đánh dấu sự suy sụp của hệ thống tư tưởng cộng sản. Suốt trong thời gian mấy tháng, trong khi trí thức ở miền Bắc đã anh dũng vùng dậy đánh những đòn chí mạng vào uy tín của Đảng thì báo chí và đài phát thanh của Đảng hoàn toàn làm ngơ. Đảng chỉ mải miết dùng lực lượng công an để đe doạ những người đọc báo, bán báo và ra lệnh cho công đoàn xui giục công nhân nhà in không in báo đối lập.
Cho mãi đến khi những "đòn ngầm" đó không hạ nổi địch thủ, và cũng đến khi phe đối lập dồn Đảng vào chân tường, không có thế lui, Đảng mới chỉ thị cho các đoàn thể ở khắp mọi nơi viết kiến nghị đòi đóng cửa các báo đối lập. Chính những lúc kiến nghị đồng loạt đó xuất hiện trên mặt báo Nhân dân, thì dư luận ở Sài Gòn mới biết là có báo đối lập ở miền Bắc. Chỉ một tháng sau thông tín viên hãng AFP ở Hà Nội loan tin cho thế giới biết việc nông dân ở Nghệ An đã bạo động nổi dậy, dùng gậy tre và những võ khí thô sơ khác đánh nhau với bộ đội. Tin đó làm nhiều người sửng sốt.
Sửng sốt là phải, vì trước đó một tháng các báo chí của Đảng và đài phát thanh Hà Nội hãy còn say sưa ca khúc khải hoàn sau đợt Cải cách ruộng đất "hoàn toàn thắng lợi".
Đùng một cái, ông Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, ông Hồ Viết Thắng, Thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất đột nhiên bị cất chức: ông Võ Nguyên Giáp phải đứng ra thay mặt Trung ương Đảng công khai thú nhận sai lầm và hứa hẹn sửa chữa. Tiếp đến là tin cán bộ tập kết phá bóp cảnh sát Bờ Hồ, tin học sinh tập kết khởi loạn ở Ngã Tư sở, và cuối cùng là "vụ Quỳnh Lưu".
Nhiều người ở Sài Gòn không ngờ có những chuyện lạ lùng như vậy. Ngạc nhiên trước tiên là số người trước kia có tham gia kháng chiến, và hiện còn lưu luyến chiến khu. Họ không phân biệt kháng chiến với cộng sản, nên cứ yên trí rằng chế độ miền Bắc thực sự là chế độ "dân chủ cộng hoà" và ông Hồ là một người chân thành ái quốc. Họ cũng đinh ninh rằng những phần tử nhiệt thành như họ, trước kia đã tích cực tham gia kháng chiến thì ngày nay vẫn phục vụ chính sách của "Bác" cho đến cùng. Họ không ngờ rằng "giá" họ được đi tập kết thì chính họ cũng sẽ phải dự vào cuộc phá bóp cảnh sát Bờ Hồ (Hà Nội) để giải thoát cho một số "tập kết" bị giam cùm trong đó.
Những người thông thường, có đôi chút kinh nghiệm đau xót với cộng sản, kể cả những đồng bào Bắc Việt di cư cũng không ngờ rằng trong một thời gian không đầy hai năm tình hình ở nơi quê cha đất tổ có sự thay đổi quá nhanh chóng như vậy. Họ nhớ ngày nào quân đội của "Cụ" kéo vào chiếm đóng Hà Nội, nhân dân thủ đô còn đón rước tưng bừng. Nào cờ quạt, nào biểu ngữ, nào cổng chào, nào kéo nhau đi xem văn công, [6] xem triển lãm. Họ không ngờ rằng chỉ một năm sau khi họ bỏ nhà cửa ra đi, bộ đội oai hùng đó lại bị chính ngay nông dân vác gậy phang vỡ đầu.
Giới quan sát ở Sài Gòn thì không ngạc nhiên khi nhận được những tin tức kể trên. Họ đã tiên đoán rằng sớm muộn thế nào cộng sản cũng phải "sửa sai" để vớt vát lòng dân vì từ năm 1926 Mao Trạch Đông, trong bài "Cuộc đấu tranh của nông dân Hồ Nam" đã chủ trương rằng: "Muốn nắn một vật cong thì phải nắn quá mức, để khi buông tay ra thì vừa". Nhưng phải thú thực rằng ít người ngờ rằng khi buông tay ra, vật cong đó lại bật trở lại quá mạnh, và bật đúng vào mặt người đã "uốn quá mức".
Vì dân tộc Việt Nam vốn dĩ là một dân tộc có truyền thống chịu đựng để tồn tại. Trong khi chịu đựng, họ luôn luôn chăm chú chờ dịp kẻ thù yếu thế là lập tức quật trở lại. Đối với cộng sản ngày nay cũng như đối với phong kiến Trung Quốc thuở xưa, dân Việt Nam vẫn dùng chính sách dĩ nhu nhược thắng cương cường. Họ giả vờ gãi đầu gãi tai, vâng vâng, dạ dạ, làm cho kẻ thống trị ăn no ngủ yên, lâu ngày sinh ra chủ quan khinh địch. Bệnh chủ quan này người Hán, người Minh, người Pháp ngày xưa đã mắc phải. Ngày nay Việt cộng và các cố vấn "vĩ đại" cũng không sao tránh được.
Vì nếu thực dân và đế quốc có chủ quan của thực dân đế quốc, thì cộng sản cũng có chủ quan đặc biệt của cộng sản. Mặc dù đã học thuộc biện chứng pháp, họ vẫn quên không nhớ rằng mọi vật đều biến chuyển, nên chi họ không ngờ rằng ngay trong hàng ngũ của họ đã phát sinh ra những "mâu thuẫn đối kháng" đưa dần đến sự "huỷ thể của huỷ thể".
Nói một cách khác, Việt cộng không tính đến hai việc: Một việc là giới trí thức đã tham gia kháng chiến dưới quyền lãnh đạo của họ lại dám ngang nhiên nổi dậy chống họ, hai là họ không ngờ rằng đồng chí Khrushchev lại "nỡ lòng" hạ bệ cố đồng chí Stalin vĩ đại.
Chúng ta thử xét xem hai việc này có liên quan mật thiết như thế nào.
*
Nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng đều có thể chia làm hai loại: Khách quan và chủ quan.
Những nguyên nhân khách quan là những biến chuyển quốc tế quốc nội đột nhiên làm giảm uy thế của giai cấp thống trị và nguyên nhân chủ quan là đời sống mỗi ngày một đen tối của giai cấp bị trị, bị áp bức và bóc lột tới một mức không thể chịu đựng lâu hơn.
A. Những nguyên nhân khách quan
Những nguyên nhân này có thể chia làm hai loại: Một là ảnh hưởng quốc tế do bài diễn văn của Khrushchev hạ bệ Stalin gây nên, hai là ảnh hưởng của chiến dịch Cải cách ruộng đất mà giới trí thức miền Bắc đã mệnh danh là một cuộc "ám sát tập thể".
a) Việc hạ bệ Stalin
Ngay sau khi Stalin nhắm mắt thì những mâu thuẫn nội bộ đã phát sinh từ ngay trong bốn bức tường của điện Kremlin. Nào thanh trừng Beria, lật đổ Malenkov, rồi đến hạ bệ uy tín của mồ ma Stalin.
Hiện nay chưa ai biết đích xác tại sao Khrushchev lại giở cái trò hạ bệ uy tín của một người đã mồ yên mả đẹp một cách kỳ quặc như vậy. Nhưng phần lớn các nhà quan sát quốc tế cho rằng Khrushchev muốn làm khuây khoả lòng dân Nga giữa lúc những nỗi khổ cực của họ đã chồng chất tới một mức họ không thể chịu nổi. Đổ tất cả tội lỗi lên đầu một kẻ đã quá cố là một diệu kế để xây dựng uy tín của người mới kế nghiệp và tạo cơ hội để thanh trừng nội bộ.
Các đại biểu dự cuộc Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên sô quả đã giật mình khi thấy Khrushchev kể ra nào Stalin đã lưu đầy các dân tộc thiểu số, thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập, hàng ngàn sĩ quan của Hồng quân. Khrushchev vạch ra nào là sự u mê của Stalin trước hiểm hoạ xâm lăng của Đức Quốc xã, nào là sự ngu độn trong việc điều khiển chiến tranh. Lãnh tụ mới tuyên bố trước Hội nghị rằng nguyên nhân duy nhất của tất cả những sai lầm và tội lỗi mà Nga-sô đã mắc phải trong triều đại Stalin là bệnh sùng bái cá nhân. Khrushchev định nghĩa sự sùng bái cá nhân là: đề cao một vị lãnh tụ thành một thánh sống có tài triệt thấu mọi việc trong thiên hạ, giải quyết được mọi việc cho mọi người mà không hề mảy may sai lầm.
Hội nghị lần thứ 20 cũng sửa đổi lại luận thuyết Stalin, ấy là từ bỏ quan niệm quá khích của Stalin nói rằng "cách mạng nhất thiết phải bạo động và càng tiến tới xã hội chủ nghĩa thì đấu tranh giai cấp càng quyết liệt". Thay vì chính sách "quá tả" của Stalin, Khrushchev đưa ra một chính sách mềm dẻo hơn, đối ngoại cũng như đối nội, Khrushchev tuyên bố sẽ dân chủ hoá chế độ và hứa hẹn từ nay sẽ lãnh đạo "tập thể". Đợi mãi không thấy Khrushchev ban bố một biện pháp gì khả dĩ mang lại ít nhhiều dân chủ, ngoài việc Khrushchev đi đâu cũng cập kè với Bulganin cho có bạn đồng hành, các nhà văn Nga bắt đầu lên tiếng đòi hỏi. Người cầm đầu phong trào là Dundinsev. Ông viết một loạt bài báo lấy nhan đề là "Cơm áo không đủ", trong đó ông trình bày những bất công của chế độ, nhưng khi xin phép xuất bản thành sách thì nhà cầm quyền Nga không cho. Quyển sách này phải gửi sang Anh xuất bản.
So với các nước Đông Âu thì phong trào đòi hỏi tự do ở Nga tiến chậm hơn, nên chưa kịp gây ảnh hưởng sâu rộng, thì vụ Budapest đã xẩy ra, khiến Khrushchev vội vã trở lại chính sách cứng rắn của Stalin và thẳng tay đàn áp.
b) Khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở"
Tuy các lãnh tụ Trung cộng phải tuân theo chỉ thị của Đệ tam Quốc tế và công bố tân chính sách, nhưng vì tình hình nội bộ không đến nỗi khẩn trương như ở Nga-sô, nên họ chỉ thi hành một cách hời hợt cho đủ lệ, nghĩa là chỉ tung ra một khẩu hiệu rất lờ mờ là "Trăm hoa đua nở". Ngoài ra họ tránh không áp dụng một biện pháp nào có tính cách nới rộng tự do dân chủ.
Ngày 25 tháng 5 năm 1956, cục trưởng cục Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc là Lục Định nhất triệu tập các nhà khoa học, xã hội học, các văn nghệ sĩ, các đại diện đảng phái bù nhìn và một số "nhân sĩ tiến bộ" đến viện Hoài Nhân đường ở Bắc Kinh để đọc cho họ nghe một bài diễn văn nhan đề là "Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh". Họ Lục nói rằng hai câu tám chữ đó là ông Mao đã trích ở cổ văn ra và giao cho ông công tác giải thích.
Họ Lục nói rằng:
"Nếu không có nhiều môn phái, nhiều chủ trương thì văn nghệ không thể trở nên phong phú được."
Vừa mới nói ra, họ Lục lại vội vàng khép lại:
"Hai nghìn năm về trước, trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, Trung Quốc có nhiều học phái khác nhau. Hồi đó các học phái đều tự ý phát triển, không phục tòng một hệ thống tư tưởng nào cả, nhưng ngày nay... chính quyền của nhân dân đã thành lập và vững mạnh thì sự tranh luận của bách gia ngày nay phải nằm trong khuôn khổ một chương trình chung."
Nói về những tương quan giữa văn học và chính trị họ Lục cũng tuyên bố nước đôi như sau:
"Cần phải đề cao sự tự do tranh luận và bênh vực ý kiến trong mọi ngành học thuật nhưng đồng thời cũng không nên lẫn lộn những cuộc tranh luận xây dựng torng nội bộ Đảng với những cuộc tranh đấu để tiêu diệt những phần tử phản động... Có hai lối phê bình: Phê bình kẻ thù và phê bình những đồng chí phạm sai lầm. Phê bình kẻ thù là đập cho nó một truỳ vỡ sọ chết tươi, còn phê bình một một đồng chí phạm sai lầm là lấy khoan hồng đưa dần họ về với chính nghĩa."
Ông Lục Định Nhất nói rất nhiều, nhưng quên không định nghĩa thế nào là "kẻ thù" và thế nào là "phạm sai lầm" nên không ai dám đụng chạm đến Đảng, sợ nhỡ bị "một truỳ vỡ sọ chết tươi" như ông Lục đã cảnh cáo. Vì vậy nên phong trào chống đối ở Trung Quốc chậm phát hơn ở các nước cộng sản khác. Mãi đến 1957 nhóm La Long Cơ mới khởi sự chống Đảng.
c) Tình hình ở các nước Đông Âu, ở Ba Lan
Ba Lan vốn dĩ là một nước có truyền thống quốc gia rất mạnh, nên phong trào chống đối Nga bộc phát trước tiên. Sau vụ Poznan (28-6-56) các nhà cầm quyền Sô-viết nhận thấy sức mạnh của lý tưởng quốc gia nên cố tìm cách đàn áp phong tràọ Nhưng đảng Cộng sản Ba Lan tranh chấp quyền hành với Nga-sô, tự ý đón Gomulka từ nhà tù về và đưa lên nắm chính quyền. Đứng trước sự đã rồi, Khrushchev đành nuốt hận làm lành và tiếp đón Gomulka một cách gượng gạo. Về phần Gomulka, ông cũng khéo léo cố tránh không làm gì khiến Nga-sô phải bẽ mặt và kiếm cớ can thiệp.
d) Ở Hung Gia Lợi
Chỉ vài tháng sau các nhà lãnh tụ Sô-viết phải đối phó ngay với cuộc khởi nghĩa của dân chúng Hung. Trong mấy ngày đầu họ yên trí rằng họ có thể thu hẹp phạm vi ảnh hưởng như việc đã xẩy ra ở Ba Lan, nhưng đến khi dân chúng đòi độc lập và dân chủ hoàn toàn thì Khrushchev ra lệnh cho bộ đội quay trở lại đàn áp. Vụ Budapest đã vang dội khắp thế giới và có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần dân chúng ở Bắc Việt.
e) Tình hình ở Bắc Việt năm 1956
Nếu mang so sánh thì chúng ta có thể nhận thấy các lãnh tụ ở Bắc Việt trong năm 1956 quả đã vất vả hơn các vị đàn anh của họ ở Trung Quốc. Lý do là vì Trung cộng đã hoàn thành chiến dịch Cải cách ruộng đất từ mấy năm trước khi Đệ tam Quốc tế ban hành đường lối mới nên tình hình chính trị tương đối đã được ổn định. Hơn nữa Trung cộng đã thanh trừng hết mọi phần tử trí thức đối lập trong vụ án Hồ Phong nên nắm vững được tình hình nội bộ để đối phó với làn sóng cách mạng từ Đông Âu tràn sang.
Trái lại, khi Mikoyan, sứ giả của điện Kremlin sang Hà Nội để giải thích về "tân chính sách" thì cuộc cách mạng ruộng đất ở miền Bắc còn đang dở dang, và đang ở giai đoạn chót và mạnh nhất. Đứng trước tình thế đó ông Hồ Chí Minh đành trì hoãn việc ban bố chính sách mới và cứ để yên cho cuộc đấu tố tiếp diễn, vì không có lý gì (theo lời ông Hồ) lại "dội một gáo nước lạnh vào đầu cán bộ".
Do đó mãi đến tháng tám năm 1956 Việt cộng mới phổ biến quyết định quan trọng của Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên sô, đồng thời tuyên bố "Sửa sai", vì mãi đến cuối tháng Bảy mới hoàn thành đợt chót của chiến dịch Cải cách ruộng đất, gọi là đợt Điện Biên Phủ. Vì để quá lâu mới mở "súp páp" nên khi mở thì hơi xì phải mạnh hơn. Những nỗi oan ức mỗi ngày một chồng chất thêm đã gây trong dân chúng một không khí căm thù đối với chế độ mỗi ngày một sâu rộng. Đồng thời tình hình Đông Âu mỗi ngày một căng thẳng. Vụ Poznan đã xẩy ra ngày 28-6-1956 và kế đến vụ Budapest, ngày 23-10-1956 làm rung chuyển bộ máy thống trị của Đệ tam Quốc tế ở khắp các nước chư hầu.
Chiến dịch sửa sai
Chiến dịch này bắt đầu bằng việc giải thích bằng báo chí và bằng "học tập" về quyết nghị của Hội nghị lần thứ 20, trong đó có nói đến "bệnh tôn sùng cá nhân" và "chính sách tập thể". Việc thứ hai là "hạ bệ" ông Trường Chinh và ông Hồ Viết Thắng, và thả ra 12 ngàn đảng viên bị cầm tù vì bị quy lầm là địa chủ, trong số đó có nhiều người đã bị lên án tử hình.
Ảnh hưởng của "sửa sai" ở nông thôn
Sau khi các đảng viên trung kiên được tha từ nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi phục đảng tịch và chức vụ thì họ tìm ngay đến các "đồng chí" đã "tố sai" để trả thù. Do đó tình trạng xung đột giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị sụp đổ, cán bộ đâm ra hoang mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói một cách hài hước: "Lạc quan sai; bi quan cũng sai; chỉ có hoang mang mới đúng". Nhân đân được dịp đòi lại ruộng nương, nhà cửa bị tịch thu.
Ở nông thôn các đảng viên đi họp phải mang búa theo để "thảo luận" với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình "tiểu tư sản" hồi kháng chiến đã trú ngụ tại nhà mình. Các bần cố nông, trót nghe lời Đảng "tố điêu" nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp cyclo và đi ở. Vì vậy nên dân số ở Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân "Nam bộ tập kết" đập phá bót cảnh sát Bờ Hồ Hà Nội (bên cạnh ga tầu điện, đầu phố Cầu Gỗ).
B. Những nguyên nhân chủ quan
Trí thức ở miền Bắc trước kia đã chân thành hợp tác với cộng sản để kháng chiến mà ngày nay phải dứng dậy chống lại chính quyền cộng sản, một phần vì nhiệm vụ thiêng liêng của họ bắt họ phải luôn luôn tranh đấu cho tự do dân chủ mà chế độ cộng sản cũng chỉ hẹn hò nhưng thực sự không mang lại. Một phần khác cũng vìchính bản thân họ bị bóc lột và bị áp bức tới mức độ mà không ai chịu nổi. Nhìn xung quanh mình, người trí thức chỉ thấy chém giết và khủng bố, dã man hơn cả những thời kỳ mà sử sách đã ghi chép, nhìn vào bản thân, họ thấy họ trở thành một thứ tôi đòi, vừa bị bóc lột vừa bị chà đạp. Từ giai cấp tiểu tư sản họ tụt xuống trở thành vô sản. Từ địa vị lãnh đạo tư tưởng và học thuật họ đã trở thành một thứ người mà ông Mao ngang nhiên gọi là "không ích lợi bằng cục phân".
a) Đời sống vật chất của giới trí thức ở miền Bắc
Ai cũng biết trong thời gian kháng chiến giới trí thức đã phải sống một đời sống cơ cực. Câu chuyện cụ Phan Khôi khi trở về Hà Nội, được bạn thân đãi cơm có thịt gà, cầm đũa chỉ vào miếng thịt trên mâm mà nói đùa: "Chín năm nay tao lại mới gặp mày", đã trở thành một giai thoại.
Nhưng không phải tất cả văn nghệ sĩ về Hà Nội đều gặp được thịt gà. Một đoạn trong bản đề án của ông Hoàng Huế, một thi sĩ tập kết, gửi Đại hội Văn nghệ Toàn quốc, đăng trong tập Giai phẩm đã tả cho chúng ta biết tình hình sinh hoạt vật chất của đa số văn nghệ sĩ ở chiến khu trở về Hà Nội.
Ông Hoàng Huế viết:
"Ai cũng biết rằng đời sống của chúng ta thiếu thốn quá. Đây là một sự thật buồn bã vẫn hàng ngày đập vào mặt chúng ta làm cho những kẻ đơn giản nhất cũng phải suy nghĩ.
Chúng ta không thắc mắc về cảnh sống trong kháng chiến. Nhưng trở về Hà Nội, giữa những phố xá đầy nhung lụa, tủ kính và ánh đèn xanh đỏ, có lẽ chưa bao giờ người nghệ sĩ cảm thấy cay đắng như lúc này. Cần phải nói thẳng rằng ở một toà soạn báo văn nghệ, trong số 8 biên tập viên có vợ, thì 6 người đã thất nghiệp hay bán thất nghiệp. Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng để chép thơ cũng đã bao lần biến thành đơn xin việc. Những lá đơn ấy gởi đi rồi im lặng không nghe một tiếng trả lời.
Sự thật đã có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà phê để uống. Đã có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện, và đã có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của mình để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ.
Hữu Loan có thể nói cho chúng ta biết tình cảnh của anh. Nằm trong bóng tối của một gian nhà nhỏ ở ngoại ô Hà Nội khi không có tiếng vợ kêu con khóc, Hữu Loan chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu để thức mà viết. Văn Ký cũng có thể nói cho chúng ta biết tình cảnh của anh. Buổi sớm mai không có củ khoai luộc cho con ăn, nghe tiếng con kêu khóc mà đứt ruột."
Đoạn văn kể trên là lời phát biểu của thi sĩ Hoàng Huế về đời sống vật chất của giai cấp mà cụ Phan Khôi mệnh danh là "quần chúng văn nghệ". Căn cứ vào những lời trình bày của ông Hoàng Huế thì đời sống của văn nghệ sĩ sau khi họ về Hà Nội còn cực hơn thời kỳ họ nằm gai nếm mật ở chiến khu gấp bội lần. Nhưng không phải mọi văn nghệ sĩ đều sống một cách đen tối như vậy. Đây là lời ông Hoàng Huế tả về đời sống của cấp lãnh đạo, một giai cấp mà Milovan Djilas gọi là "giai cấp thống trị mới":
"Hai năm hoà bình, chúng ta thấy có nhiều nhà văn (trước kia) có tài, (ngày nay) bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa có tẩm thuốc độc. Tác phẩm của họ (ngày nay) chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo. Họ trịnh trọng thắt cà vạt đỏ, đi giày da vàng, đọc đít cua và nhồm nhoàm ăn tiệc, rồi lại xách va ly, bay đó bay đây, trên mây trên gió."
Đây là thi sĩ Hoàng Huế muốn nói đến các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu vân vân... Họ là cấp lãnh đạo, chuyên môn ra chỉ thị, kế hoạch cho quần chúng văn nghệ thi hành, nghĩa là sản xuất theo "com măng" của Đảng đặt. Còn bọn quần chúng văn nghệ thì nai lưng sáng tác để bán rẻ văn chương cho Đảng lấy mỗi tháng vài chục kí lô gạo.
Hiện nay trong giới văn nghệ sĩ ở miền Bắc có hai giai cấp, sống hai đời sống quá chênh lệch. Cụ Phan Khôi gọi giai cấp trên là giai cấp lãnh đạo và giai cấp dưới là giai cấpquần chúng văn nghệ. Cụ Phan Khôi gọi như vậy vì cụ muốn nói cho có văn vẻ. Sự thực thì nhiều người gọi một cách nôm na là "cai văn nghệ" và "cu ly văn nghệ". Gọi bằng hai danh từ đó mới thực sự nêu lên được tình trạng "người bóc lột người". Người bóc lột hiện nay không phải là một nhân vật cầm ba-toong, ngậm xì-gà mà là Đảng, một vật vô hình, bóc lột hàng triệu nô lệ làm việc bằng chân tay hay bằng trí óc, để nuôi một lũ cán bộ "thắt cà vạt đỏ và ăn tiệc nhồm nhoàm".
Đây quả thật là một cuộc đấu tranh giai cấp, giữa một giai cấp thống trị ngồi mát ăn bát vàng và một giai cấp bị trị, bị bóc lột đến tận xương tủy.
Trong khi bọn văn nghệ sĩ dám can đảm sống với lý tưởng của mình để không có củ khoai mà ăn thì Nguyễn Tuân sang Helsinki dự Hội nghị Hoà bình Thế giới, ở một khách sạn lớn vào bực nhất mà còn chê là cơm ở khách sạn đó không hợp khẩu vị. Nguyễn Tuân viết:
"Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thực là sang trọng; đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại... Nhưng tôi ăn uống sao không thấy ngon...".
(Xem bài "Phở" của Nguyễn Tuân trong phần tài liệu.)
Còn Nguyễn Công Hoan khi sang dự Hội nghị Văn hoá Á châu lại đương nhiên vào nằm ở khách sạn Asoka là khách sạn nổi tiếng là nơi trú ngụ của các bậc đế vương trên thế giới.
b) Đời sống tinh thần của văn nghệ sĩ ở miền Bắc
Sự chênh lệch không những chỉ thể hiện trên đời sống vật chất, mà còn thể hiện sâu sắc hơn trong cuộc sống tinh thần. Trong khi quần chúng văn nghệ phải làm việc như tôi mọi, thì một thiểu số, vừa thiếu đức vừa thiếu tài, chỉ khéo nịnh hót để ăn trên ngồi chốc, tác oai tác quái. Một văn nghệ sĩ giấu tên đã làm bài thơ sau đây đăng trong báo Văn số 24 ngày 10-10-1957.
Ông "Vỗ ngực"
Học thuật văn chương chửa sạch nghề
Tập toè lên lớp cũng khen chê
Giáo điều khó nuốt lèn thô bạo
Lý luận không tiêu kéo nặng nề.
Tình cảm khô khan như củi gộc
Phê bình nồng nặc tựa cơm khê.
Anh em vặn lại, cùng kỳ lý,
Vỗ ngực, ông giơ Đảng chực loè. [7]
Không phải chỉ có loè không mà còn mắng thực sự. Chứng cớ là Nguyễn Công Hoan, tên lý trưởng văn nghệ đã từng nằm ở khách sạn Asoka mắng cụ Phan Khôi, tên cu ly văn nghệ đáng tuổi bố.
Sự thể là nhân dịp cụ Phan Khôi thượng thọ 70 tuổi, giữa lúc cụ đương bị Đảng quy vào tội phản động, không một ai dám lai vãng đến chúc thọ cụ vì sợ bị liên quan, cụ bèn làm một bài thơ để kỷ niệm ngày thượng thọ của cụ. Trong bài thơ đó có hai câu như sau:
Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi!
Thọ ta, ta chúc lọ phiền ai.
Bài thơ này không xuất bản, nhưng cũng đến tai Nguyễn Công Hoan, Hoan liền làm một bài thơ hoạ lại như sau:
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai.
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó,
Nhân văn, nay lại hít gì voi,
Sống dai thêm tuổi, cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời, chẳng thấy gai.
Đại khái thì toàn bộ giai cấp mới đều đểu cáng và hèn hạ như vậy.
Trên đây là thơ, còn những đoạn văn xuôi chứng nhận rằng hiện nay ở miền Bắc đã phát xuất những hạng người thô bạo và hống hách như vậy thì có rất nhiều.
Cụ Phan Khôi, trong bài "Phê bình lãnh dạo văn nghệ" (xem phần tài liệu) mang cộng sản ra so sánh với phong kiến và kết luận rằng cộng sản còn tàn bạo và quan liêu hơn phong kiến gấp nhiều lần.
Trần Duy trong bài "Những người khổng lồ" (xem phần tài liệu) ví bọn cán bộ cộng sản như một lũ người "không tim".
Ngoài ra ông còn vẽ bức tranh khôi hài nhan đề "Một phương pháp xây dựng văn nghệ", đăng trong báo Văn số 30 ra ngày 29-11-1957, trong đó ông chế giễu sự can thiệp thô bạo của chính trị vào lĩnh vực văn nghệ. (Xem tranh ở trang 35.)
Nhưng đặc biệt nhất là bài "Thi sĩ máy" của Như Mai đăng trong tờ Nhân văn số chót trong đó ông chế giễu sự ngu dốt của cán bộ cộng sản về văn nghệ và cách chúng đối xử với văn nghệ sĩ sau này như thế nào. Ông viết:
“... Nhạc sĩ Ảo Huyền được cử đi học lớp 'nghiên cứu nghề làm nước mắm’; hoạ sĩ Lập Thể được điều động sang Mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ, thi sĩ Mây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói Kiều, tán róc về thành phần giai cấp cho những người có óc mê tín.
Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra chợ Giời làm nghề bán văn kiêm bán săm lốp. Săm lốp vì cần được khuyến khích nên miễn thuế, còn văn của Đắng Văn Cay thì bị liệt vào hạng vô dụng và phải chịu thuế bốn phần trăm. Rất ít người chịu quăng tiền ra mua. Đôi ba vị khó tính lại còn rỉa rói: 'Văn chương anh thì ra cái đếch gì! Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa kìa!’.
Nhà đạo diễn Kinh Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, mỗi khi luyến tiếc sân khấu, thường ngắm cá bơi lội rồi tưởng tượng con cá vây bạc óng ả này là Điêu Thuyền, con cá mặt đen nọ là Bao Công, cặp cá đuôi cờ lồi mắt kia là đôi nhân vật tiểu tư sản v.v..."
(Xem trọn bài trong phần tài liệu)
Viết mấy dòng này Như Mai có ý nhắn nhủ những trí thức nào còn mê "thiên đường cộng sản" thì hãy nên biết trước số phận mà cộng sản sẽ dành cho mình trên cõi thiên đường đó.
c) Tâm trạng của giới trí thức ở miền Bắc
Tâm trạng của đại đa số trí thức ở miền Bắc, nhất là những tir thức đã dày công theo đuổi kháng chiến, là thấy mình bị lợi dụng tài năng, bị bạc đãi, khinh miệt và cuối cùng là ruồng bỏ, và khủng bố. Tâm trạng đó giống hệt tâm trạng một người đàn bà đẹp, bị rơi vào phận lẽ mọn, và bị chồng và vợ cả vùi dập. Nếu ngày xưa Hồ Xuân Hương đã cám cảnh vợ lẽ mà thốt ra câu:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Thì ngày nay cụ Phan Khôi cũng phải ngán cảnh "kháng chiến ngõ ngoài" mà ngâm mấy vần thơ sau đây:
Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Hễ cắt lại dài ra.
Ông Nguyễn Mạnh Tường trong bài diễn văn của ông nói về những sai lầm trong Cải cách ruộng đất cũng phải nêu lên câu hỏi sau đây:
"Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền hay không? Tác dụng ‘hiếu hỉ’ hay ‘cười gật’ thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không? Có quyền nói gì, làm gì không? Quần chúng đã biết và tôi miễn giả lời.”
(Xem trọn bài trong phần tài liệu.)
Trí thức "sống chung" với cộng sản, chỉ được đặt vào địa vị "hầu non" cưới về để tô điểm cho nhà cửa thêm sáng sủa, còn thực quyền thì bao giờ cũng do vợ cả nắm. Vợ cả đây, ai cũng biết là bần cố nông, vì cộng sản chẳng hề giấu diếm điều đó.
Tâm trạng thứ hai của trí thức là thấy sự hy sinh của mình trong chín mười năm trời không đưa lại mảy may hạnh phúc. Trong chế độ "dân chủ cộng hoà" ngày nay vẫn đầy rẫy một lũ chuyên môn nịnh hót để chấm mút và tác oai tác quái.
Hữu Loan đã phải rên rỉ như sau:
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ “Dân chủ Cộng hoà”
Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống...
Rồi ông hô hào mọi người hãy đứng lên làm "tổng vệ sinh" quét sạch lũ chúng, ông hô:
Những người
đã đánh bại
xâm lăng;
Đỏ bừng mặt
vì những tên quốc sỉ
Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta
không ai biết cúi đầu
(Xem trọn bài trong phần tài liệu.)
Vì đỏ bừng mặt, không chịu được sự khinh mạn của cộng sản, nên họ phải vùng dậy. Cụ Phan Khôi phẫn uất quá chừng nên nói liều như sau:
Làm sao cũng chẳng làm sao,
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
Làm chi cũng chẳng làm chi,
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao.
Từ chỗ uất ức đó tiến tới chỗ ra báo để ngang nhiên chống lại Đảng chỉ có một bước.
[1]Nhà hoặc gia nghĩa là một học
phái.
[2]Trong cuốn L’Asie du Sud-Est entre deux Mondes của Tibor Mende, bản dịch tiếng Pháp của René Guyonnet, trang 17, Edition du Seuil, Paris 1954
[3]Con số này trích trong cuốn A Short History of the Chinese People. Revised Edition của L. Carrington Goodrich, Harper and Brothers xuất bản 1951.
[4]Câu của Đào Duy Anh, trong cuốn Trung Hoa sử cương
[5]Câu của Phan Khôi trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”
[6]"Văn công": chữ Tàu, là văn nghệ công tác, nghĩa là công tác biểu diễn văn nghệ
[7]Trong nguyên bản, sau bài thơ này, ở trang 14 có tranh châm biếm “Một cái quái thai nịnh trên nạt dưới” của Trần Hưởng, Vân Tôn vẽ lại, trích báo Trăm hoa ngày 30.12.1956 (chú thích của talawas).
[2]Trong cuốn L’Asie du Sud-Est entre deux Mondes của Tibor Mende, bản dịch tiếng Pháp của René Guyonnet, trang 17, Edition du Seuil, Paris 1954
[3]Con số này trích trong cuốn A Short History of the Chinese People. Revised Edition của L. Carrington Goodrich, Harper and Brothers xuất bản 1951.
[4]Câu của Đào Duy Anh, trong cuốn Trung Hoa sử cương
[5]Câu của Phan Khôi trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”
[6]"Văn công": chữ Tàu, là văn nghệ công tác, nghĩa là công tác biểu diễn văn nghệ
[7]Trong nguyên bản, sau bài thơ này, ở trang 14 có tranh châm biếm “Một cái quái thai nịnh trên nạt dưới” của Trần Hưởng, Vân Tôn vẽ lại, trích báo Trăm hoa ngày 30.12.1956 (chú thích của talawas).
Chương 2: Lịch trình đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Chúng ta đều biết rằng trí thức ở miền Bắc mới nổi dậy tấn công ào ạt vào lãnh đạo từ mùa Xuân 1956, nhưng nếu ta kể cả những cuộc chống đối lẻ tẻ và ngấm ngầm thì ta phải công nhận rằng cuộc đấu tranh giữa Đảng và quần chúng văn nghệ đã có từ lâu. Sở dĩ ta không nghe nói đến là vì trong thời gian kháng chiến, các văn nghệ sĩ không dám đứng lên công khai chống chọi với Đảng, vì hồi đó hơi một tí là Đảng có thể khép vào tội Việt gian phản quốc.
Vả lại, lúc bấy giờ đa số trí thức tham gia kháng chiến cũng chưa muốn công khai chống lại Đảng. Họ vẫn biết Đảng là Đảng Cộng sản, ông Hồ Chí Minh là tên nguỵ trang của Nguyễn Ái Quốc, nhưng vì lòng chân thành ái quốc, và vì chưa ý thức được cái nguy cơ cộng sản, họ vẫn thụ động để cho cộng sản lãnh đạo, vì họ quan niệm rằng, sau khi đánh đuổi được Pháp ra khỏi bờ cõi, thì sẽ quay trở lại chống cộng cũng vừa.
Điển hình của thái độ này là kỹ sư Hồ Đắc Liên, em ông Hồ Đắc Điềm. Ông Liên trong lúc mới tham gia kháng chiến có giơ cao nắm tay trước mặt người bạn thân mà tuyên bố rằng: "Còn phải chống Pháp thì tôi còn đi với chúng (ám chỉ cộng sản), khi nào độc lập rồi thì chúng sẽ biết tay tôi".
Ông Liên là một trí thức du học ở bên Pháp về nên ngây thơ đến mức đó. Những người khác sinh trưởng trong nước, không đến nỗi ngây thơ như ông. Tuy nhiên, ai cũng mắc phải cái lỗi là không ngờ rằng chế độ cộng sản dã man quá mức. Nhiều người đã đọc cuốn Retour de l’ URSS của André Gide, nhưng ai cũng hy vọng rằng cộng sản ở Nga lúc xưa khác, cộng sản ở Việt Nam bây giờ khác.
Nói chung ai cũng nghĩ rằng Việt Minhh tuy là cộng sản, nhưng nhiêm vụ của họ là kháng chiến chống Pháp trước đã, khi nào độc lập rồi mà Việt Minh thực hiện chủ nghĩa cộng sản, lúc bấy giờ họ xoay sở cũng kịp. Ít ai ngờ rằng Cộng sản sẽ phản bội Quốc gia trước khi kháng chiến thành công, vì không mấy người nhớ rằng ngày xưa, khi cộng sản Trung Hoa liên kết với Quốc dân Đảng trong cuộc Bắc phạt, họ đã bị Quốc dân Đảng trở tay trước và tiêu diệt họ.
Ít ai nhớ rằng Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ phải chạy long tóc gáy mới thoát nạn, nên rút kinh nghiệm, lần này họ liên kết với những người kháng chiến có tinh thần quốc gia, họ Hồ phải trở mặt trước. Cũng vì sự xao nhãng đó nên giới trí thức ở miền Bắc, như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, là những người chỉ tham gia kháng chiến vì lý tưởng quốc gia, ngày nay lâm vào tình trạng khó khăn.
Tình hình văn nghệ trong vùng kháng chiến 1956-1954
Thời kỳ ấy là thời kỳ kháng chiến của nước ta, nhưng nếu đem so với lịch cộng sản quốc tế thì có thể gọi thời đại ấy là Triều đại Stalin. Ngay từ thời bấy giờ văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến đã chia làm hai phái. Một phái đảng viên, và một phái không đảng viên. Tuy chưa có xung đột công khai, nhưng hai phái vẫn không ưa nhau.
Phần lớn những văn nghệ sĩ đảng viên như Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu đều tập trung ở Việt Bắc, gần Trung ương, gần Đảng để nắm vai lãnh đạo. Còn quần chúng văn nghệ sĩ thì phần đông đều cố ý muốn tránh Trung ương, tránh Đảng, nên họ vẫn lẩn quất ở miền xuôi, miền đồng bằng, gọi là khu Ba, và sau khi khu Ba bị quân Pháp chiếm cứ thì họ tản cư vào Thanh Hoá.
Lúc bấy giờ các văn nghệ sĩ không Đảng này được Nguyễn Sơn, một thiếu tướng Việt cộng trọng dụng, biệt đãi, nên họ có dịp tụ hội lại một nơi và gây thành một sức mạnh. Ngày nay nói đến vụ án Nhân văn tưởng cũng nên nói đến vai trò của Nguyễn Sơn, vì nhóm Nhân văn coi Nguyễn Sơn như một ân nhân. Chứng cớ là hồi Nguyễn Sơn chết tháng 10 năm 1956, báo Nhân văn có đăng một bài khóc Nguyễn Sơn.
Tuy Nguyễn Sơn là một tay cộng sản đã nổi danh ở bên Trung Quốc, nhưng Nguyễn Sơn vẫn chưa gột hết tinh thần quốc gia. Thấy nước nhà kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Sơn nằng nặc xin với Mao Trạch Đông cho về để giúp nước, và khi về nước thì chỉ chú trọng đến việc đánh Pháp, không chú trọng đến việc bành trướng Đảng. Sau này Nguyễn Sơn ngang nhiên chống lại Đảng vì phản đối chủ trương nhận viện trợ của Trung cộng. Nói cho đúng thì Nguyễn Sơn là một thứ Tito trong hàng ngũ cộng sản Việt Nam.
Khi Nguyễn Sơn làm khu trưởng khu Bốn, ông ta tập trung tất cả các văn nghệ sĩ ở khu Bốn lại một nơi rồi giúp cho họ phương tiện để sinh sống, để sáng tác vì Nguyễn Sơn đề cao văn nghệ, và yêu mến văn nghệ. Nhưng từ 1950 trở đi, sau khi Nguyễn Sơn bị đuổi về Tàu thì cuộc đời của nhóm văn nghệ sĩ khu Bốn bắt đầu đen tốị Họ bị bạc đãi nên họ không chịu sáng tác nữa.
Mỗi lần cấp bộ lãnh đạo đòi hỏi thì họ cứ khất lần, họ nói rằng họ còn "đương thai nghén" chưa sản xuất được, và cuối cùng trong mấy năm, từ 1950 cho đến 1954 chẳng có văn nghệ sĩ nào sản xuất gì hết. Thái độ "đình công tập thể" này được chứng minh bằng một câu của cụ Phan Khôi trong bài: "Phê bình lãnh đạo văn nghệ" của cụ. Nói về Thế Lữ, cụ viết: "Còn Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia. Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh 'chỉnh' được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm". Thái độ này không phải chỉ riêng Thế Lữ. Văn Cao, tác giả bài "Tiến quân ca" cũng đã thốt ra rằng: "Nay Đảng bảo phải, mai Đảng bảo sai, ai còn biết đường nào mà sáng tác".
Nói chung từ 1950 trở đi, nghĩa là từ khi chính sách của Việt cộng thay đổi và các cố vấn Tàu đã sang Việt Nam thì các văn nghệ sĩ không Đảng đã đình chỉ mọi công việc sáng tác. Vì vậy nên từ 1950 trở đi các văn nghệ sĩ kháng chiến không sản xuất được một tác phẩm nào có giá trị, ngoài những bài thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác, của nhóm văn nghệ sĩ thuộc thành phần lãnh đạo viết. Tuy có viết, có xuất bản, nhưng những thơ văn nịnh hót đó cũng chẳng có ai đọc.
Đây là một bài Tố Hữu tán dương Hồ Chí Minh và Sít-ta-lin:
Chúng ta đều biết rằng trí thức ở miền Bắc mới nổi dậy tấn công ào ạt vào lãnh đạo từ mùa Xuân 1956, nhưng nếu ta kể cả những cuộc chống đối lẻ tẻ và ngấm ngầm thì ta phải công nhận rằng cuộc đấu tranh giữa Đảng và quần chúng văn nghệ đã có từ lâu. Sở dĩ ta không nghe nói đến là vì trong thời gian kháng chiến, các văn nghệ sĩ không dám đứng lên công khai chống chọi với Đảng, vì hồi đó hơi một tí là Đảng có thể khép vào tội Việt gian phản quốc.
Vả lại, lúc bấy giờ đa số trí thức tham gia kháng chiến cũng chưa muốn công khai chống lại Đảng. Họ vẫn biết Đảng là Đảng Cộng sản, ông Hồ Chí Minh là tên nguỵ trang của Nguyễn Ái Quốc, nhưng vì lòng chân thành ái quốc, và vì chưa ý thức được cái nguy cơ cộng sản, họ vẫn thụ động để cho cộng sản lãnh đạo, vì họ quan niệm rằng, sau khi đánh đuổi được Pháp ra khỏi bờ cõi, thì sẽ quay trở lại chống cộng cũng vừa.
Điển hình của thái độ này là kỹ sư Hồ Đắc Liên, em ông Hồ Đắc Điềm. Ông Liên trong lúc mới tham gia kháng chiến có giơ cao nắm tay trước mặt người bạn thân mà tuyên bố rằng: "Còn phải chống Pháp thì tôi còn đi với chúng (ám chỉ cộng sản), khi nào độc lập rồi thì chúng sẽ biết tay tôi".
Ông Liên là một trí thức du học ở bên Pháp về nên ngây thơ đến mức đó. Những người khác sinh trưởng trong nước, không đến nỗi ngây thơ như ông. Tuy nhiên, ai cũng mắc phải cái lỗi là không ngờ rằng chế độ cộng sản dã man quá mức. Nhiều người đã đọc cuốn Retour de l’ URSS của André Gide, nhưng ai cũng hy vọng rằng cộng sản ở Nga lúc xưa khác, cộng sản ở Việt Nam bây giờ khác.
Nói chung ai cũng nghĩ rằng Việt Minhh tuy là cộng sản, nhưng nhiêm vụ của họ là kháng chiến chống Pháp trước đã, khi nào độc lập rồi mà Việt Minh thực hiện chủ nghĩa cộng sản, lúc bấy giờ họ xoay sở cũng kịp. Ít ai ngờ rằng Cộng sản sẽ phản bội Quốc gia trước khi kháng chiến thành công, vì không mấy người nhớ rằng ngày xưa, khi cộng sản Trung Hoa liên kết với Quốc dân Đảng trong cuộc Bắc phạt, họ đã bị Quốc dân Đảng trở tay trước và tiêu diệt họ.
Ít ai nhớ rằng Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ phải chạy long tóc gáy mới thoát nạn, nên rút kinh nghiệm, lần này họ liên kết với những người kháng chiến có tinh thần quốc gia, họ Hồ phải trở mặt trước. Cũng vì sự xao nhãng đó nên giới trí thức ở miền Bắc, như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, là những người chỉ tham gia kháng chiến vì lý tưởng quốc gia, ngày nay lâm vào tình trạng khó khăn.
Tình hình văn nghệ trong vùng kháng chiến 1956-1954
Thời kỳ ấy là thời kỳ kháng chiến của nước ta, nhưng nếu đem so với lịch cộng sản quốc tế thì có thể gọi thời đại ấy là Triều đại Stalin. Ngay từ thời bấy giờ văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến đã chia làm hai phái. Một phái đảng viên, và một phái không đảng viên. Tuy chưa có xung đột công khai, nhưng hai phái vẫn không ưa nhau.
Phần lớn những văn nghệ sĩ đảng viên như Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu đều tập trung ở Việt Bắc, gần Trung ương, gần Đảng để nắm vai lãnh đạo. Còn quần chúng văn nghệ sĩ thì phần đông đều cố ý muốn tránh Trung ương, tránh Đảng, nên họ vẫn lẩn quất ở miền xuôi, miền đồng bằng, gọi là khu Ba, và sau khi khu Ba bị quân Pháp chiếm cứ thì họ tản cư vào Thanh Hoá.
Lúc bấy giờ các văn nghệ sĩ không Đảng này được Nguyễn Sơn, một thiếu tướng Việt cộng trọng dụng, biệt đãi, nên họ có dịp tụ hội lại một nơi và gây thành một sức mạnh. Ngày nay nói đến vụ án Nhân văn tưởng cũng nên nói đến vai trò của Nguyễn Sơn, vì nhóm Nhân văn coi Nguyễn Sơn như một ân nhân. Chứng cớ là hồi Nguyễn Sơn chết tháng 10 năm 1956, báo Nhân văn có đăng một bài khóc Nguyễn Sơn.
Tuy Nguyễn Sơn là một tay cộng sản đã nổi danh ở bên Trung Quốc, nhưng Nguyễn Sơn vẫn chưa gột hết tinh thần quốc gia. Thấy nước nhà kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Sơn nằng nặc xin với Mao Trạch Đông cho về để giúp nước, và khi về nước thì chỉ chú trọng đến việc đánh Pháp, không chú trọng đến việc bành trướng Đảng. Sau này Nguyễn Sơn ngang nhiên chống lại Đảng vì phản đối chủ trương nhận viện trợ của Trung cộng. Nói cho đúng thì Nguyễn Sơn là một thứ Tito trong hàng ngũ cộng sản Việt Nam.
Khi Nguyễn Sơn làm khu trưởng khu Bốn, ông ta tập trung tất cả các văn nghệ sĩ ở khu Bốn lại một nơi rồi giúp cho họ phương tiện để sinh sống, để sáng tác vì Nguyễn Sơn đề cao văn nghệ, và yêu mến văn nghệ. Nhưng từ 1950 trở đi, sau khi Nguyễn Sơn bị đuổi về Tàu thì cuộc đời của nhóm văn nghệ sĩ khu Bốn bắt đầu đen tốị Họ bị bạc đãi nên họ không chịu sáng tác nữa.
Mỗi lần cấp bộ lãnh đạo đòi hỏi thì họ cứ khất lần, họ nói rằng họ còn "đương thai nghén" chưa sản xuất được, và cuối cùng trong mấy năm, từ 1950 cho đến 1954 chẳng có văn nghệ sĩ nào sản xuất gì hết. Thái độ "đình công tập thể" này được chứng minh bằng một câu của cụ Phan Khôi trong bài: "Phê bình lãnh đạo văn nghệ" của cụ. Nói về Thế Lữ, cụ viết: "Còn Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia. Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh 'chỉnh' được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm". Thái độ này không phải chỉ riêng Thế Lữ. Văn Cao, tác giả bài "Tiến quân ca" cũng đã thốt ra rằng: "Nay Đảng bảo phải, mai Đảng bảo sai, ai còn biết đường nào mà sáng tác".
Nói chung từ 1950 trở đi, nghĩa là từ khi chính sách của Việt cộng thay đổi và các cố vấn Tàu đã sang Việt Nam thì các văn nghệ sĩ không Đảng đã đình chỉ mọi công việc sáng tác. Vì vậy nên từ 1950 trở đi các văn nghệ sĩ kháng chiến không sản xuất được một tác phẩm nào có giá trị, ngoài những bài thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác, của nhóm văn nghệ sĩ thuộc thành phần lãnh đạo viết. Tuy có viết, có xuất bản, nhưng những thơ văn nịnh hót đó cũng chẳng có ai đọc.
Đây là một bài Tố Hữu tán dương Hồ Chí Minh và Sít-ta-lin:
Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng vô sản
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ cách mạng
Hoan hô Sít-ta-lin
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hoà bình.
Hoặc là:
Chúng ta có Bác Hồ
Thế giới: Sít-ta-lin
Đảng ta phải mạnh to
Thế giới phải đỏ mình.
Ở một chỗ khác, thi sĩ khát máu hô:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin... bất diệt.
Trên đây là thơ của Tố Hữu, còn sau đây là thơ của Xuân Diệu:
Mỗi lần đấu tranh gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm,
Nghe lời Bác dạy khuyên răn,
Chúng con ước muốn theo chân của Người...
Chúng con thề nguyện một lời:
Quyết tâm thành khẩn... lột người từ đây .
Trên đây là thơ Xuân Diệu nịnh Bác, còn sau đây là lời Xuân Diệu nạt nhân dân. Ta hãy nghe lời hò hét:
Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đoạ đày chết thôi...
Đại khái thì từ 1950 cho đến 1954, trong vùng cộng sản kiểm soát chỉ có một lối thơ khát máu như vậy thôi. Là những người văn nghệ sĩ chân chính, còn giữ vững bản tính cao quý của con người, dĩ nhiên ai cũng phải tạm thời gác bút, vì không thể nào hoà điệu được với một hạng người như vậy.
Tóm lại, các văn nghệ sĩ ở vùng kháng chiến đã đình công dài hạn từ 1950 trở đi, để tỏ ý không tán thành đường lối của Đảng, chế độ độc tài của Đảng, và nhất là chính sách "đấu tố" do các cố vấn Trung Quốc nhập cảnh vào Bắc Việt.
Những triệu chứng báo hiệu cuộc nổi loạn
Sau khi Việt cộng về Hà Nội, thì báo chí, sách vở xuất bản ở Hà Nội vẫn đầy rẫy những bài ca tụng Đảng, ca tụng Bác, những bài "anh hùng ca" kêu gọi nông dân đứng dậy tàn sát địa chủ, phản động, lừng chừng. Nhưng hình như từ ngày bác Malenkov bị hạ bệ thì uy tín của Đảng có bị giảm mất một phần. Trên mặt báo giới tuy chưa có bài nào công kích hẳn chế độ, nhưng báo Thời mới, một tờ báo của tư nhân còn sót lại nêu ra nhiều vấn đề để độc giả thảo luận, trong số đó có vấn đề "Yêu nhau có cần tiêu chuẩn hay không?", nghĩa là: Có nhất thiết phải là cán bộ Đảng mới đáng được các cô con gái yêu không? Ngụ ý của người đưa ra vấn đề này là đả phá cái tệ mới phát hiện ở Hà Nội là các cô gái chưa chồng đua nhau lấy cán bộ Đảng, cán bộ "Bốn túi" (Cán bộ bốn túi là cán bộ cao cấp, vì cán bộ cấp dưới chỉ được mặc áo có hai túi). Lúc bấy giờ có khẩu hiệu "Phi bốn túi bất thành phu phụ".)
Những bài này không đả động đến đường lối chính sách của Đảng, nhưng một phần nào cũng đã làm giảm uy tín của cán bộ lãnh đạo.
Thế rồi cụ Phan Khôi xuất đầu lộ diện. Nhà Nho bảy mươi tuổi bắt đầu đả kích chế độ bằng một mưu mẹo mà cán bộ cộng sản mắc ngay tức khắc. Cụ được cán bộ giao cho dịch một cuốn sách có chữ Pháp sang tiếng Việt, trong đó có một chữ "Pomme de terre", cụ dịch ngay ra là "khoai nhạc ngựa". Cuốn sách cụ dịch được xuất bản, và sau đó ít lâu báo Cứu quốc viết một bài phê bình cụ là lẩm cẩm, bảo cụ: "Sao không dịch là 'khoai tây' mà lại dịch là khoai nhạc ngựa. Khoai nhạc ngựa là cái quái gì?" Báo Cứu quốc cứ yên trí rằng cụ Phan đã 70 tuổi đầu nên cụ đã lẩm cẩm. Không ngờ trẻ mắc mưu già. Cụ trả lời ngay bài phê bình đó. Cụ nhận ngay là lẩm cẩm, nhưng cụ phân bua rằng: Cán bộ phụ trách lâu nay cấm cụ dùng chữ "tây". Có lần cụ dùng chữ "đường tây", chúng xoá đi mà thay vào chữ "đường kính". Cụ dùng chữ "chè Tàu" thì chúng chữa là "chè Trung Quốc", chữ "thịt kho tàu" thì chúng chữa là "thịt kho Trung Quốc". Lần này để chiều ý chúng, cái gì cũng phải Trung Quốc mới hay, thì cụ dịch "pomme de terre" ra "khoai nhạc ngựa" vì người Trung Quốc gọi nó là "mã linh thư".
Đấy là lần đầu tiên cụ Phan Khôi mang cái dốt của cán bộ ra giiễu trên mặt báo chí. Việc này chứng tỏ rằng uy tín của cán bộ đã bắt đầu bị suy sụp.
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu
Ngày 20 tháng 2 năm 1956 Khrushchev đọc bài diễn văn hạ bệ Stalin. Tuy bài diễn văn này đọc trong một khoá họp bí mật, nhưng tài liệu đó cũng lọt ra ngoài, và không bao lâu toàn thể thế giới đều biết. Việt cộng cố giấu, nhưng giới văn nghệ miền Bắc vẫn biết được, vì họ đọc một vài tờ báo Pháp lọt vào tay họ. Không khí chống lại Đảng dưới hình thức chống tinh thần Stalin bắt đầu. Vào khoảng tháng 3 năm 1956 nhà xuất bản Minh Đức ở chiến khu về cho ra ngay một cuốn sách nhan đề Giai phẩm 1956. Trong cuốn này có nhiều bài nêu lên những thối nát của chế độ. Phùng Quán viết một bài nhan đề là "Cái chổi quét rác rưởi" trong đó anh nói rằng chệ độ miền Bắc đầy những rác rưởi dơ bẩn và anh, lấy tư cách là nhà văn, tình nguyện làm cái chổi quét cho sạch những rác rưởi đó. Cũng trong số đó Lê Đạt có viết một bài nhan đề là "Ông Bình vôi" [1] , trong đó có câu:
Những kiếp người đã sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Bề ngoài thì bài này chỉ công kích những cán bộ nhiều tuổi Đảng, sống lâu lên lão làng, nhưng kỳ thực người dân Bắc Việt có thể hiểu ngay là ám chỉ ông Hồ Chí Minh, càng sống, càng tồi, vì ngày nay ông Hồ không còn thương nước thương nòi như hồi ông còn là Nguyễn Ái Quốc nữa. Đấy là một thái độ láo xược vô bờ bến, nhưng Việt cộng không dám bắt bẻ, vì nếu nêu bài thơ ấy ra thì mất hết uy tín của ông Hồ. Bài mà họ nêu ra để khủng bố, là bài "Nhất định thắng" của Trần Dần, một nhà thơ trẻ tuổi. Bài thơ dài hơn năm trăm câu, tả sự khổ cực của hai vợ chồng tác giả, thiếu thốn, thất nghiệp, đi trong thành phố Hà Nội mà chỉ thấy "mưa sa và mầu cờ đỏ". Trong bài thơ ấy, tác giả cũng nêu lên sự đau xót khi thấy hàng vạn người cứ tiếp tục bỏ vùng Việt cộng mà di cư vào Nam. Không nói rõ nhưng ngụ ý của tác giả là: chế độ miền Bắc quá dã man nên họ phải xa lánh, chứ chẳng có ai dụ dỗ họ bỏ nhà bỏ cửa vào Nam như là tuyên truyền Việt cộng vẫn thường rêu rao. Tất cả trách nhiệm về cuộc di cư vĩ đại này Việt cộng phải chịu. Trong bài thơ đó có một đoạn như sau:
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm -
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ả -
Chúng phá hiệp thương! -
Liệu có hiệp thương! -
Liệu có tuyển cử? -
Liệu tổng hay chẳng tổng? -
Liệu đúng kỳ hay chậm vài năm?
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn kinh hoàng trước tương lai...
(Xem trọn bài trong phần giới thiệu.)
Vì chữ "Người" trong hai dòng cuối bằng chữ hoa, nên cán bộ lãnh đạo vịn ngay vào cớ đó để buộc cho Trần Dần có ý ám chỉ ông Hồ Chí Minh vì xưa nay chữ Người viết hoa vẫn dành riêng cho ông Hồ. Như vậy là tờ Giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu và Trần Dần bị bắt, bị mang ra đấu trước một cuộc họp đông đảo của toàn thể các văn nghệ sĩ trong "Hội các nhà văn". Trần Dần bị quy vào tội phản động và bị bắt giam. Phẫn uất quá, Trần Dần cứa cổ tự tử, nhưng không chết, sau này vẫn mang một cái sẹo ở cổ. Cái sẹo đó trở thành một dấu hiệu của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ cộng sản miền Bắc.
Giai phẩm mùa Thu ra đời
Nhưng chẳng bao lâu thì Mikoyan sang thăm Hà Nội để giải thích cho ông Hồ về sự cần thiết phải thay đổi chính sách, phải nới lỏng tay. Tiếp theo đó, ngày 26 tháng 5 năm 1956, họ Mao tuyên bố chính sách "Trăm hoa đua nở". Và chỉ một tháng sau, công nhân Ba Lan nổi loạn ở Poznan. Việt cộng lúng túng phái cán bộ đi giải thích về vụ Poznan, nhưng dân chúng Bắc Việt nhất thiết không tin lời giải thích của cán bộ.
Cũng vào dịp này, Đảng Lao động bắt đầu cho nhân dân học tập về chính sách mới của Khrushchev. Trong một bài đăng trong báo Nhân văn số 2 xuất bản ngày 20 tháng 9 năm 1956 có một đoạn nói về buổi họp đó như sau:
"Đợt học tập của giới văn nghệ tháng tám vừa qua đã là một cuộc tranh đấu sôi nổi của trên 300 người công tác văn nghệ. Phát triển sự việc như thế nào, chỉ trích bè phái như thế nào, xây dựng Trung ương Đảng như thế nào, Nguyễn Đình Thi tổng kết quanh co như thế nào, Nguyễn Hữu Đang tham luận mạnh bạo như thế nào, Tố Hữu nhận lỗi qua loa như thế nào, anh chị em đã nghĩ những gì... báo Nhân dân biết rõ. Thế rồi bè phái lãnh đạo văn nghệ vẫn cứ ngoan cố làm thinh... tuyệt nhiên không giải quyết một nguyện vọng nào của anh chị em."
Xem đoạn văn đó thì chúng ta thấy rằng quần chúng văn nghệ đã tấn công mãnh liệt vào "bè phái" lãnh đạo, đã đẩy "bè phái" đó vào chỗ bí, không có đường thoát. Như vậy là quần chúng văn nghệ đã nắm được ưu thế, và họ không bỏ lỡ dịp tấn công luôn và liên tiếp.
Ngày 29 tháng 8, 1956 Giai phẩm mùa Thu tập 1 ra đời. Trong tập này cụ Phan Khôi giáng một chuỳ chí mạng vào đầu giai cấp lãnh đạo. Bài của cụ nhan đề là "Phê bình lãnh đạo văn nghệ". Bài này đã làm nhân dân Hà Nội xôn xao. Có người viết trên báo Thời mới, ví bài của cụ Phan như một "quả bom tạ" thả ngay giữa Hà Nội. Có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới lại nghe thấy tiếng nói "sang sảng" của cụ Phan.
Tờ Nhân văn số 1 ra đời vào ngày 15 tháng 9. Giới sinh viên đại học cũng hưởng ứng sôi nổi và xuất bản một tờ báo chống Đảng lấy tên là Đất mới. Tờ tuần báo Trăm hoa của thi sĩ Nguyễn Bính, trước kia hiền lành, nay cũng hưởng ứng phong trào, ra một loạt mới đả kích Đảng. Phong trào lan rộng đến nỗi giọng công kích lan ra cả tờThời mới là tờ báo hàng ngày, lâu nay vẫn ngoan ngoãn đối với Đảng . Nó thâm nhập cả vào báo chí của Đảng. Báo Cứu quốc, cơ quan của Mặt trận Tổ quốc cũng nêu ra nhiều tệ hại của chế độ trong mục tự phê bình, nhan đề là Cuốn sổ tay. Mà đặc biệt là báo Nhân dân, cơ quan chính thức của Đảng cũng tiết lộ nhiều "sai lầm". Cho đến cả báo Học tập, cơ quan nghiên cứu lý thuyết của Đảng cũng nêu ra nhiều vụ hà lạm của cán bộ đảng viên. Nói chung thì suốt trong ba tháng, nhân phong trào sửa sai, tất cả dư luận và toàn thể báo chí đều phàn nàn về bệnh "quan liêu" của bè phái lãnh đạo. Khác nhau là ở chỗ các báo đối lập thì nói thẳng tay, bổ những nhát búa chí mạng vào đầu giai cấp thống trị, còn các báo chí của Đảng thì bất đắc dĩ, thấy người ta nói nhiều và đúng quá, cũng phải a-dua theo, bộc lộ chút ít sai lầm, để tỏ ra mình không ngoan cố lắm, đó là nhất thời và cá biệt, còn nói chung thì Đảng và Bác bao giờ cũng sáng suốt.
Mọi việc "sai lầm" đáng tiếc đều do cán bộ cấp dưới gây ra, còn cấp trên vẫn nắm vững chính sách. Nhưng các báo chí đối lập không thèm đếm xỉa đến cấp dưới mà lại chĩa mũi dùi vào cấp lãnh đạo, nên cùng kỳ lý, Hồ Viết Thắng phải đứng ra tự đọc bản tự kiểm thảo về những sai lầm về Cải cách ruộng đất, Võ Nguyên Giáp cũng phải thay mặt Đảng công nhận những "khuyết điểm".
Bút chiến với các báo của Đảng
Bị mất hết uy tín, và bị tấn công vào những chỗ yếu, không có cách gì đỡ, các cấp lãnh đạo chỉ có cách là làm thinh. Hồ Chí Minh hoàn toàn không lên tiếng. Tố Hữu sang Bắc Kinh nằm yên trong ba tháng. Bọn "cai văn nghệ" như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư không dám hé răng. Những biến chuyển liên tiếp ở Đông Âu làm cho mấy "ông to" hoang mang, không biết địa vị của họ có còn được vững bền không. Tuy nhiên Đảng cũng phải tìm cách phản ứng bằng cách ra lệnh cho cán bộ chính trị viết những bài phản công trở lại. Bài đầu tiên là của Nguyễn Chương đăng trên mặt báo Nhân dân ngày 25-9-1956. Trong bài này Nguyễn Chương vu cho báoNhân văn là tay sai của địch, vì theo Nguyễn Chương thì báo Nhân văn công kích địch thì ít, mà công kích ta thì nhiều. Báo Nhân văn liền đập lại bằng một bài như búa giáng. Bài đó do ba cây bút cứng của nhóm Nhân văn là Hoàng Cầm, Hữu Loan và Trần Duy viết và mang đầu đề là "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị". Họ đốp chát với Nguyễn Chương từ lý luận một, và sau mỗi lý luận, nhóm Nhân văn lại hạ một câu hài hước như sau: " Bạn cố tình đến thế, chúng tôi còn biết nói sao?".
Mỗi lần bẻ gãy lý luận của Nguyễn Chương, họ lại láy đi láy lại câu nói trên để nêu rõ tính cách "ngoan cố" của bọn cán bộ Đảng. Vừa bị đập mạnh vừa bị chế giễu, Nguyễn Chương cố gắng thanh minh bằng một bài thứ hai đăng trong báo Nhân dân thì bị luôn Chu Ngọc, trong nhóm Nhân văn giáng thêm cho một chuỳ, bằng một bài nhan đề là: "Quần chúng đã chán ghét lối chặn họng đó rồi". Thế là Nguyễn Chương im bặt. Đến lượt Hoàng Xuân Nhị lên võ đài tỷ thí.
Hoàng Xuân Nhị là giáo sư thạc sĩ có sẵn một mớ lý thuyết Mác-xít, mang từ Pháp về nên lôi cả ông Mác và Lê-nin ra để đối phó bằng cách dùng lời Lê-nin và Mác để chứng minh rằng văn nghệ phải có đảng tính và văn nghệ sĩ phải triệt để phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Nhóm Nhân văn liền cử ngay một sinh viên đại học là Bùi Quang Đoài, học trò của ông Nhị lên đo sức với ông Nhị. Bùi Quang Đoài vạch ra rằng ông Nhị xuyên tạc lời nói của Lê-nin. Bùi Quang Đoài viết: "Một là ông Nhị không tiêu hoá được tài liệu, hai là ông Nhị đã lợi dụng tài liệu để xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức". Sau khi bẻ lý luận của vị giáo sư thạc sĩ, và chê vị giáo sư đó còn dốt lắm, Bùi Quang Đoài kết luận: "Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều... cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ, để giữ bản chất trung thực của người trí thức". Từ đấy không thấy Hoàng Xuân Nhị trở lại võ đài nữa. (Xem trọn bài trong phần tài liệu.)
Chiến thuật khủng bố ngầm
Chiến thuật đó lần lượt được Đảng mang áp dụng qua những thủ đoạn như sau :
a. Ra lệnh cho mậu dịch
không bán giấy in báo cho nhóm đối lập. Thủ đoạn này không có kết quả gì vì
nhóm đối lập được nhân dân nhiệt liệt ủng hộ giúp tiền mua giấy ở chợ đen.
b. Khủng bố những người phát
hành. Báo Nhân văn trong
số 4 ra ngày 5-11-56 có tố cáo thủ đoạn đó như sau :
"Một khách hàng vào một hiệu sách ở khu Hồng Quảng. Khách hỏi: ‘Ở đây có bán báo Nhân văn không?’. Ông chủ hiệu vừa vuốt râu mép vừa trả lời: ‘Bán báo Nhân văn có mà chết sớm’."
Thủ đoạn này lại cũng không thành công vì nhóm đối lập huy động sinh viên và học sinh đi bán.
Đảng cũng ra lệnh cho bưu điện không phân phát báo Nhân văn. Số báo Nhân văn kể trên cũng tố cáo hành động đó và viết một câu hài hước: "Biết đâu mấy ông ở bưu điện chẳng thích báo Nhân văn quá nên giữ lấy để đọc một mình".
c.
Khủng bố những người đọc. Hàng loạt cán bộ
được tung ra khắp phố phường Hà Nội, xông vào từng nhà một để giải thích rằng
báo Nhân văn là báo phản động. Báo Nhân văn có
nêu lên một trường hợp rất hài hước là cán bộ đi nói xấu báo Nhân văn vào
nhầm nhà một văn nghệ sĩ trong chính nhóm Nhân văn, và bị vợ nhà
văn đó trả lời cho mấy câu đanh thép làm cho chị cán bộ phải câm miệng.
d. Vận động thợ in không in.
Để thực hiện mưu mô này, Đảng phải huy động đến Hoàng Đạo là tay gián điệp số
một, đã nổi tiếng trong vụ phá hoại chiếc tàu Amyot d’ Inville và trong việc
điều tra "Vụ án Bái Thượng". Hoàng Đạo được tức khắc bổ sang công
đoàn để dùng hệ thống công đoàn uy hiếp công nhân nhà máy in, bắt phải đình
công không in báo "phản động". Tuy nhiên, công nhân vẫn không nghe
theo. Báo vẫn cứ ra đều, không hề bị gián đoạn.
Vu cáo chính trị
Sau khi phá ngầm không kết quả. Đảng chủ trương phá công khai bằng cách vu khống nhóm văn nghệ sĩ là tay sai của địch, của đế quốc. Để chứng minh việc đó, báoNhân dân dựng đứng câu chuyện chính phủ miền Nam triển lãm báo Nhân văn ở Courtinat Sài Gòn (sic). Sự thực thì lúc bấy giờ chính phủ miền Nam chưa có lấy một tờNhân văn trong tay, vì mãi đến tháng 11, khi tờ Nhân văn sắp bị đóng cửa mới có được mấy số lọt vào Sài Gòn, do kiều bào ở Paris gửi về. Báo Nhân dân chỉ được tin phong phanh rằng Bộ Thông tin ở Sài Gòn hồi tháng 6-1956 có tổ chức một cuộc triển lãm những tài liệu chứng tỏ Việt cộng không tôn trọng Hiệp ước Genève, tại Phòng Thông tin Sài Gòn ở đường Catinat. Trong cuộc triển lãm này, ngoài những tài liệu chính trị và quân sự chứng tỏ rằng Việt cộng thực sự có cấu kết với Bình Xuyên, Hoà Hảo để quấy rối miền Nam, cũng có một số báo chí Việt cộng, bắt được trong các hầm bí mật, cùng với cán bộ Việt cộng nằm vùng. Nhưng toàn là các báo chí của Đảng như Nhân dân, Tổ quốc v.v... không hề có Nhân văn, vì lý do tờ Nhân văn lúc đó chưa ra đời. Báo Nhân dân lại chỉ nhớ mang máng nên lầm Catinat thànhCourtinat, một cửa tiệm bán tạp hoá của người Pháp ở cùng phố.
Ngoài cái "chứng cớ" tưởng tượng kể trên, Đảng cũng không nại thêm được chứng cớ gì khác, nhưng cứ nhất định rêu rao rằng nhóm Nhân văn là tay sai của địch, là gián điệp của Phòng Nhì, của Mỹ, là tờ-rốt-kít phá hoại, vân vân… đủ thứ danh từ mà trước kia Đảng đã rộng rãi tặng cho giai cấp địa chủ.
Đóng cửa báo Nhân văn
Sau khi báo Nhân dân vạch tội "gián điệp" của nhóm văn nghệ sĩ đối lập thì Đảng tổ chức học tập ở khắp mọi nơi, và sau kỳ học tập, tất cả các đoàn thể công nông binh, cho đến cả học sinh và dân "Nam bộ tập kết" đều phải ký vào bản kiến nghị lên án nhóm Nhân văn và đòi chính phủ phải có biện pháp trừng trị. Dựa vào kiến nghị của "mọi tầng lớp nhân dân", Đảng ra lệnh cho Uỷ ban Hà Nội ký giấy đóng cửa tờ báo Nhân văn và tịch thu tất cả mọi số đã phát hành kể từ số 1.
Ngày 15 tháng 12-1956, ông Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí và bắt phải phục vụ "công nông binh", phục vụ nền vô sản chuyên chính mệnh danh "chính thể dân chủ cộng hoà". Sắc lệnh cũng doạ phạt tù từ 5 năm đến khổ sai chung thân, kèm theo tịch thu một phần hay toàn bộ gia sản, nếu ai còn phạm vào những điều cấm.
Sau khi sắc lệnh được ban bố, những tờ báo khác như Trăm hoa, Đất mới, Giai phẩm đều chết không có cáo phó.
Sự thực thì những điều cấm trong sắc lệnh ngày 15-12-1956 đã có ban bố trước, ngay từ khi Việt cộng mới về tiếp thu Hà Nội, hồi tháng 10 năm 1954. Nhưng hồi đó tất cả các báo chí đều là báo chí của Đảng, nên Việt cộng chủ quan, chỉ mở một cuộc họp báo ở Phòng Thông tin, phố Tràng Tiền, rồi giao hẹn mồm về mấy điểm cấm đoán . Đại khái có 5 điều:
- Không
được chống chính phủ, chống chế độ;
- Không
được xúi giục nhân dân và bộ đội làm loạn;
- Không
được nói xấu các nước bạn;
- Không
được tiết lộ bí mật quân sự;
- Không
được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục.
Một lý do khác là lúc bấy giờ Việt cộng mới ở chiến khu về Hà
Nội là nơi có tai mắt quốc tế, muốn tỏ ra có thái độ "yêu chuộng tự
do" hơn "phe quốc gia", nên tránh không muốn cấm bằng sắc lệnh,
sợ gây dư luận, nên chỉ đe doạ bằng mồm.
Họ không ngờ rằng "khẩu thiệt vô bằng", sau này nhóm văn nghệ sĩ đối lập cứ làm như quên không nhớ và cứ ra báo một cách rất tự nhiên để chống lại chế độ, chống lại Đảng.
Đảng ra báo Văn
Sau khi đóng cửa tờ báo Nhân văn, và bóp chết mấy tờ báo đối lập khác, Đảng thấy cần thiết phải cho ra một tờ tạp chí văn học để thay thế, vì chả lẽ trong nước không có lấy một tờ báo nào chuyên về văn học. Đảng bèn chỉnh đốn lại Hội Văn nghệ, bắt bầu lại ban chấp hành, gạt những phần tử đối lập ra và đưa toàn những "cai văn nghệ" vào ban chấp hành mới. Lúc bấy giờ một mình trên võ đài, Đảng tha hồ chửi rủa nhóm Nhân văn là phản động, là gián điệp tay sai của địch. Đảng cho phép Hội Văn nghệ xuất bản tờ tạp chí Văn. Chủ bút là Nguyễn Công Hoan, phó là Nguyễn Tuân và Tổng thư ký toà soạn là Nguyên Hồng.
Báo Văn xuất bản mỗi tuần một kỳ. Một nửa số trang dành riêng cho những bài dịch tiểu thuyết Nga, một nửa khác gồm toàn những bài tán tụng văn học Trung Quốc vĩ đại. Kết quả là giá trị văn nghệ rất kém, không ai buồn xem. Lý do là vì các văn nghệ sĩ có tài đều một lòng tẩy chay, bất hợp tác với cơ quan ngôn luận của Đảng.
Báo Văn bị chỉnh
Thấy báo Văn nhạt nhẽo quá, Đảng lấy làm ngượng và tức bực, nên nóng mặt phải lên tiếng. Tờ Học tập, cơ quan nghiên cứu lý thuyết của Đảng viết một bài chê báoVăn là dở. Tác giả bài đó là Thế Toàn, một cán bộ chính trị còn ít tuổi viết:
Họ không ngờ rằng "khẩu thiệt vô bằng", sau này nhóm văn nghệ sĩ đối lập cứ làm như quên không nhớ và cứ ra báo một cách rất tự nhiên để chống lại chế độ, chống lại Đảng.
Đảng ra báo Văn
Sau khi đóng cửa tờ báo Nhân văn, và bóp chết mấy tờ báo đối lập khác, Đảng thấy cần thiết phải cho ra một tờ tạp chí văn học để thay thế, vì chả lẽ trong nước không có lấy một tờ báo nào chuyên về văn học. Đảng bèn chỉnh đốn lại Hội Văn nghệ, bắt bầu lại ban chấp hành, gạt những phần tử đối lập ra và đưa toàn những "cai văn nghệ" vào ban chấp hành mới. Lúc bấy giờ một mình trên võ đài, Đảng tha hồ chửi rủa nhóm Nhân văn là phản động, là gián điệp tay sai của địch. Đảng cho phép Hội Văn nghệ xuất bản tờ tạp chí Văn. Chủ bút là Nguyễn Công Hoan, phó là Nguyễn Tuân và Tổng thư ký toà soạn là Nguyên Hồng.
Báo Văn xuất bản mỗi tuần một kỳ. Một nửa số trang dành riêng cho những bài dịch tiểu thuyết Nga, một nửa khác gồm toàn những bài tán tụng văn học Trung Quốc vĩ đại. Kết quả là giá trị văn nghệ rất kém, không ai buồn xem. Lý do là vì các văn nghệ sĩ có tài đều một lòng tẩy chay, bất hợp tác với cơ quan ngôn luận của Đảng.
Báo Văn bị chỉnh
Thấy báo Văn nhạt nhẽo quá, Đảng lấy làm ngượng và tức bực, nên nóng mặt phải lên tiếng. Tờ Học tập, cơ quan nghiên cứu lý thuyết của Đảng viết một bài chê báoVăn là dở. Tác giả bài đó là Thế Toàn, một cán bộ chính trị còn ít tuổi viết:
"Qua 10 số đầu của tuần báo Văn, chúng tôi nhận thấy nội dung tờ báo còn nghèo nàn. Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng."
Nguyên Hồng, Tổng thư ký toà soạn của báo Văn bị mất mặt nên phải ứng ngay bằng một bài trả lời Thế Toàn, đăng trong báo Văn số 15 ra ngày 16 tháng 8-1957. Sau khi gạt phăng những lời buộc tội của đối phương, Nguyên Hồng phê bình trở lại Thế Toàn là công chức, là quan liêu và "trịch thượng".
Báo Văn quay ra chống Đảng
Sau đó người ta thấy báo Văn thay đổi thái độ. Những bài nịnh Đảng thấy bớt dần, và những bài xược với Đảng thấy mỗi ngày một nhiều thêm. Nhìn đến tên tác giả các bài có ngụ ý chống Đảng, thấy tên các nhà văn trước kia đã viết trong nhóm Nhân văn và Giai phẩm.
Người đầu tiên là Phùng Quán. Phùng Quán là một sinh viên trước kia đã viết bài "Chống tham ô lãng phí" đăng trong Giai phẩm mùa Thu. Lần này Phùng Quán viết bài "Lời mẹ dặn". Bà đó có những câu như sau:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã.
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
Đến tờ Văn số 24, độc giả lại thấy Hoàng Cầm xuất hiện. Hoàng Cầm là một chiến tướng của nhóm Nhân văn. Ở đây Hoàng Cầm viết một vở kịch thơ ngắn, nhan đề là "Tiếng hát", nói về chuyện Trương Chi. Nhưng Hoàng Cầm biến lời hát của Trương Chi thành tiếng gọi của Tự Do. Mỵ Nương tượng trưng cho giới văn nghệ bị kìm hãm trong ngục tù, và ông Quận công, người cha của Mỵ Nương tượng trưng cho uy quyền độc đoán của Đảng.
Tiếng hát của Trương Chi kêu gọi mọi người bị cộng sản hành hạ, đấu tố, hãy đứng dậy. Trương Chi hát:
Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này…
Trong khi đó thì cha của Mỵ Nương (ngụ ý muốn nói Đảng):
… vừa truyền lệnh
khoá kín cửa lầu,
lấp cả sông
Để không còn tiếng hát!
Nhưng mặc dầu ngăn cấm bằng cách nào, tiếng kêu gọi Tự Do vẫn lọt tới lòng người:
... cửa ngoài bằng đá tảng
Tiếng hát đẩy được vào
Vì đó là tiếng gọi của trời cao
Của đất rộng…
Và Mỵ Nương (ý muốn nói giới văn nghệ sĩ) vẫn gan góc:
Ta mở được, ta vượt qua tường đá
Ta chạy ra sông! Đi bốn phương trời
Tìm tiếng hát... ta đi cùng thiên hạ…
(Xem trọn bài trong phần tài liệu)
Tóm lại, ý chính của Hoàng Cầm là nhất định chống lại sự áp bức của Đảng và quyết tâm phá tan mọi gông cùm xiềng xích.
Sau Hoàng Cầm đến lần Trần Duy xuất hiện. Trần Duy vẽ một bức tranh khôi hài chế giễu sự can thiệp thô bạo của Đảng vào văn nghệ. Ông vẽ một bức tranh tả một người hoạ sĩ đang vẽ một đoá hoa. Cán bộ bắt bẻ, bắt phải vẽ thêm hết thức này đến thức khác để cho hợp với đường lối chủ trương của Đảng. Sau khi tuân theo lời cán bộ vẽ thêm mãi vào bức tranh, bức tranh biến thành một thứ hổ lốn, không có nghĩa lỳ mà cũng không còn mỹ thuật. (Xem tranh ở trang sau. [2] )
Cuối cùng là kiện tướng Phan Khôi ra mắt. Cụ viết một truyện ngắn về gia đình cụ, nhan đề là "Ông Năm Chuột". Câu chuyện dài dòng, nhưng ngụ ý của cụ là giai cấp thống trị thuở xưa cũng như giai cấp thống trị ngày nay, đều đầy dẫy những thối nát, nhưng cứ cố tình che đậy. Mặc dù khéo léo che đậy, trong dân gian vẫn có những người ranh mãnh, nhìn thấy hết. Che đậy cũng vô ích. (Xem bài "Ông Năm Chuột" trong phần tài liệu.) Bài đó kết thúc số phận báo Văn. Đảng bắt Hội Văn nghệ phải đình bản tờ báo ngay tức khắc.
Đấu tố văn nghệ sĩ
Lúc mới đóng cửa báo Văn thì Đảng còn hy vọng có thể dàn xếp được, nên Hội Văn nghệ tuyên bố là chỉ tạm đình bản một kỳ, lấy cớ là để sửa soạn số Tết. Nhưng suốt trong ba tháng, Hội không thể tái bản được tờ báo, vì tất cả các văn sĩ đều tẩy chay. Đảng không còn cách gì hơn là khủng bố sắp lượt.
Việc đầu tiên là bắt 304 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn. Như thường lệ, mọi người đi chỉnh huấn đều bị dồn ép, áp bức tinh thần cho đến mức phải bộc lộ những sai lầm và viết bài "tự kiểm thảo".
Có bốn người không chịu đi dự lớp chỉnh huấn: Phan Khôi, Trương Tửu, Thuỵ An và Nguyễn Hữu Đang. Đảng ra lệnh bắt Thuỵ An và Nguyễn Hữu Đang giam vào nhà pha Hoả Lò. (Nguyễn Hữu Đang hình như đã tự tử sau khi bị bắt [3] ). Trương Tửu bị cất chức giáo sư ở trường Đại học Văn khoa, vợ con và cả gia đình nhà vợ bị bao vây kinh tế, nghĩa là rút giấy phép buôn bán (gọi là giấy đăng ký).
Cụ Phan Khôi vì đã 73 tuổi, và vì có nhiều uy tín trong nước, nhất là đối với trí thức ở miền Nam, nên hiện được để yên. Tuy nhiên cụ bị "treo giò" không được giao thiệp với ai mà cũng không ai được lui tới thăm cụ. Mặc dù vậy, cụ nhất định không chịu đầu hàng. Ngồi nhà cụ vẫn viết một cuốn sách nhan đề là Nắng chiều gửi đến ban chấp hành Hội Văn nghệ để chửi cộng sản một cách thậm tệ (Xem phần tài liệu).
Trong khi mấy lãnh tụ của nhóm Nhân văn bị cô lập, hoặc bị bắt thì Đảng mở một chiến dịch chửi rủa họ, rộng lớn hơn tất cả mọi chiến dịch chửi rủa từ xưa tới nay. Chiến dịch này kéo dài mãi đến nay vẫn chưa hết.
Đảng cũng còn nhận thấy "nọc độc Nhân văn" đã thấm nhiều vào đầu óc mọi người, nên bắt tất cả giới trí thức, công chức, cán bộ, học sinh và cả cán bộ bộ đội, phải tẩy não sắp lượt.
Số phận hiện nay của các văn nghệ sĩ đối lập
Sau cuộc chỉnh huấn thì mặc dầu đã thú tội, các văn nghệ sĩ ở miền Bắc đều bị đưa đi "học tập lao động". Mọi người đều phải đi và Đảng nhận thấy rằng trong cuộc "khởi nghĩa hụt" vừa qua, mọi người đều bị ảnh hưởng "xấu" của nhóm Nhân văn, không ít thì nhiều. Tuy vậy sự trừng phạt cũng tuỳ theo tội trạng. Nhẹ thì được lao động ít, phái đi những nơi gần. Nặng thì bị đầy đi nước độc, phải lao động nhiều.
Một đoạn ngắn trong bài "Nắm chắc lấy vũ khí chiến đấu của chúng ta" đăng trong tạp chí Văn nghệ số 7, tháng 7-1958, để lộ chính sách đó:
"Mọi người đều thấy là cần thiết và rất hoan nghênh một việc quan trọng mà ban chấp hành hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật đã đề ra là tất cả các văn nghệ sĩ đều phải cố gắng, tích cực đi vào thực tế đời sống công nông binh ‘tham gia lao động’. Tất nhiên nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm cũng đi với chúng ta, nhưng việc làm của họ hoàn toàn có ý nghĩa khác".
Ý nghĩa khác đó, là không phải đi để "học tập lao động" mà là đi để "an trí", để được giao phó cho chính quyền và chi bộ địa phương quản thúc, để làm như một tên tù khổ sai và để muỗi độc chích thêm cho một liều vi trùng sốt rét, vì Đảng cho rằng 9 năm vừa qua, lá lách của những người anh dũng đó, tuy có sưng nhưng chưa rụng hẳn. Vậy họ bị đưa đi những nơi đâu? Trở lại những nơi hẻo lánh, những nơi "ma thiêng nước độc" mà họ đã từng lặn lội trong chín năm trời. Trong thời gian trước họ không chết, vì họ còn là chiến sĩ, là đảng viên, họ có trợ cấp, có thuốc thang. Khu Việt Bắc âm u, trước kia là trung tâm cách mạng, nay lại trở lại nơi giam cầm chính trị phạm.
Những trại giam được thiết lập ở đâu? Sinh hoạt trong trại ra sao? Và tội nhân khi tới nơi phải làm những công việc gì? Chúng ta hãy nghe Yến Lan, một văn sĩ tập kết kể lại. (Nên nhớ rằng Yến Lan chưa phải là đầu sỏ, chưa được xếp hạng vào loại "tử tù".)
Yến Lan kể: (Trích báo Văn học số 9, ngày 15-8-1958)
"... Đây là một vùng đồi trọc... không một quán, cũng không một mái chùa, một cây đa cổ thụ. Nhà dựng ở chân đồi, lúp xúp một kiểu... Huyện lỵ trông bề ngoài thật là nghèo khổ. Toàn là nhà tranh, lèo tèo, ngắn ngủn... Huyện lỵ cách thôn chúng mình hơn ba trụ số. Đi vào ngang qua những cánh đồng, rìa theo triền đồi và vượt qua sườn đồi. Lên cao xuống thấp, lòng mỗi người lại nghĩ đến một cảnh nào như đã sống quen, hoặc có đi qua, và hái được một số kỷ niệm chiến khu, một cảnh nghỉ chân trên đường phiêu lãng cũ. Riêng Lan, sao mà tha thiết nhớ đến An Khê.
Ba hôm đầu, tổ mình đã đi vào sản xuất, cùng theo xã viên ra đồng làm ruộng. Lan đã bừa trong ruộng nước. Lại cầy và tát nước. Mấy hôm nay cắt lá, vớt bùn ao làm phân xanh.
... Lúc mới về, hỏi ra tình hình sinh hoạt, thấy thừa người lớn, vắng trẻ con (ở đây đẻ nhiều nhưng nuôi được it), nhiều người chân phềnh ra như chân voi..." (Yến Lan)
Và đây là một cảnh khác, do Hoàng Chương, một cán bộ "văn công" khu V tập kết và bị "cưỡng bách lao động" kể lại: (cũng trích trong bài báo kể trên):
"... Từ nhà đến đồng Cống xa chừng ba cây số. Chúng tôi dậy thật sớm tranh thủ gánh phân để tránh bớt nắng trưa. Tôi nhớ năm nào tiếp tế bộ đội ở chiến trường, gánh lúa bốn mươi cân leo dốc, nhờ vui và thích mau gặp bộ đội nên quên mệt. [4] Cô Thu, người Hà Nội, trước chưa quen gánh, hôm nay cũng cố được hai mươi cân. Nhìn Hùng cởi trần gánh thoăn thoắt, ai biết đó là một sinh viên Hà Nội. Cuộc sống vui vẻ thân mật, tôi thấy như sống giữa gia đình, làng xóm của mình ở miền Nam!" (Hoàng Chương, Hội Văn công Liên khu V)
Không bút nào tả được tâm trạng của những con người yêu chuộng Tự Do, đã hy sinh tất cả để theo đuổi kháng chiến, đã vô tình giúp sức cho cộng sản thành công, và khi cùng nhau tới đích, mới sống ở Hà Nội chưa được bao nhiêu ngày lại bị cộng sản đưa trở lại "chiến khu" để sống nốt những ngày tàn. Phong kiến ngày xưa không bao giờ bội bạc với công hầu một cách "tập thể" như vậy.
Chương III: Phương pháp đấu tranh của trí thức ở miền Bắc
Lịch sử loài người đã ghi chép nhiều chế độ tàn bạo: Tần Thuỷ Hoàng, Néro, Hitler, vân vân. Nhưng chưa có một chế độ nào vô nhân đạo bằng chế độ cộng sản. Đây là một điểm cần phải nhận định. Điểm thứ hai là các chế độ bạo tàn từ trước tới nay đều chỉ dùng bạo lực để đàn áp dân chúng, không dùng đến thủ đoạn, do đó, dân chúng còn một lối thoát là dùng mánh lới để lừa dối chính quyền. Trong thời Pháp thuộc chúng ta đã nghe câu chuyện vợ lên huyện tố cáo chồng nấu rượu lậu, để sau khi chồng đi tù, vợ ở nhà yên tâm... nấu rượu lậu. Mưu mô, mánh lới, vốn dĩ là khí giới của kẻ yếu.
Ngày nay, dưới chế độ cộng sản, thì thứ khí giới đó không còn hiệu nghiệm, vì chính quyền cộng sản, mới xuất thân từ nơi dân chúng, không lạ gì thứ khí giới đó, và còn biết dùng nó một cách hiệu nghiệm hơn mọi người vì cộng sản có phương tiện phổ biến kinh nghiệm, có cả một hệ thống tay sai để bố trí lừa bịp đại quy mô.
Vì vậy nên một cuộc cách mạng chống cộng, phát xuất ngay trong lòng cộng sản phải có những chiến thuật tinh vi hơn những chiến thuật đã được áp dụng từ trước tới nay, trong mọi cuộc cách mạng khác.
Trong cuộc nổi dậy vừa qua của trí thức ở miền Bắc, những người tham gia đã áp dụng phương pháp gì, chúng ta là những người ngoại cuộc khó lòng biết rõ. Tuy nhiên, theo rõi tin tức bằng báo chí và nhất là nghiên cứu các bản thú tội của một số nhân vật trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm, chúng tôi tạm ghi ở nơi đây một số ít nhận xét. Chúng tôi tạm phân tách đường lối chống đối của giới trí thức đối lập thành một số chiến thuật.
1. Chiến thuật bất hợp tác
Nói nôm là tẩy chay Đảng, không viết bài do Đảng "com-măng". Hễ cán bộ Đảng, những "cập-rằng văn nghệ" thúc giục thì thoái thác nói rằng chưa nắm được thực chất vấn đề, còn đang tìm cảm hứng, hoặc dây dưa khất lần, nói rằng sắp sửa viết, hoặc còn đương "thai nghén". Nếu bị bức quá, bị doạ cắt sinh hoạt phí, hoặc đuổi ra khỏi trại thì cầm bút viết quấy quá cho xong chuyện, hay dở không cần. Nếu bị khiển trách thì lấy cớ là tại "chưa lột được xác". Đa số văn nghệ sĩ đã áp dụng chiến thuật này trong suốt thời gian kháng chiến. Bà Nguyễn Thị Kim, một điêu khắc gia có tài, nhận ba sào ruộng của chính phủ cấp để cày cấy sinh nhai, nhưng đến khi kiếm tạm đủ ăn thì không nặn tượng nữa. Lãnh đạo hỏi tại sao không nặn, thì bà rêu rao rằng tại cày cấy khó nhọc, tay bị cứng rắn không nặn được tượng nữa.
Cũng vì giới văn nghệ miền Bắc trường kỳ áp dụng chiến thuật đó, nên suốt trong thời gian kháng chiến nền văn nghệ của Việt Minh không phát triển. Trong chín năm liền, trừ một vài bài thơ ca ngợi Bác Hồ, ông Sít-ta-lin, của Tố Hữu, của Xuân Diệu, ngoài ra không có một tác phẩm nào đáng kể, trừ một số thi ca có tính chất lãng mạn bị cấm không cho phát hành.
Chúng ta thấy giới văn nghệ ở miền Bắc chỉ thực lòng sáng tác khi họ cầm bút viết bài chống lại Đảng, trong hai năm 1956 và 1957. Những bài của họ mà chúng tôi sẽ trích trong phần tài liệu đáng được coi là những kiệt tác trong văn chương nước nhà và thế tất sau này phải ghi vào văn học sử. Một số bài được dịch ra ngoại ngữ và phổ biến ở nhiều nơi, đã làm ngoại quốc thán phục. Văn chương chống cộng ở miền Bắc đã được liệt vào hạng hiếm có nhất trên thế giới. Nhưng sau khi tờ Nhân vănvà Giai phẩm bị đóng cửa thì một lần nữa các văn nghệ sĩ ở miền Bắc lại rút lui vào thế tiêu cực. Khi Đảng cho ra tờ báo Văn để thay thế tờ Giai phẩm, họ tẩy chay không viết, cho đến lúc mấy ông cập-rằng văn nghệ phụ trách tờ Văn nổi loạn nốt, mời họ tiếp tay, họ lại cầm bút một lần nữa. Hiện nay chắc họ lại đương "thai nghén", nhưng họ sẽ không đẻ ra một tác phẩm "đề cao cộng" như Đảng mong muốn, mà trái lại, hễ gặp thời cơ thuận tiện họ sẽ đẻ ra những tác phẩm "chống cộng" còn mạnh mẽ hơn những tác phẩm trước.
Sự thực thì cộng sản có thể cưỡng bách mọi người bắt phải lao động chân tay, nhưng không thể nào bắt một nhà văn phải sản xuất theo ý muốn, đúng phẩm, đúng chất, vì sáng tác văn nghệ là một công việc chế biến trong đầu não, không có phương thức gì thôi thúc hoặc lãnh đạo được. Không danh, không lợi, những nhà văn đã từng sống nhiều năm "không một ngọn đèn, không một củ khoai", tất nhiên có thể "đình công thụ động" một cách lâu dài. Chiến thuật "bất hợp tác" của các nhà văn Việt Nam đối với cộng sản cùng một sắc thái giống phong trào "bất hợp tác" của thánh Gandhi đối với thực dân Anh.
2. Chiến thuật "Vờ ca ngợi Đảng để công kích Đảng”
Chiến thuật này rất phổ thông. Không ai không áp dụng, nhưng người áp dụng chiến thuật đó một cách tài tình hơn mọi người là ông Nguyễn Mạnh Tường.
Trong suốt bài diễn văn dài tới 40 trang, [5] ông lên án khắt khao toàn bộ chính sách cộng sản, nhưng ông không để hở một dịp nào khiến Đảng có thể gán cho ông tội "chống Đảng" vì, xen lẫn vào những lời đả kích chính sách, thỉnh thoảng ông lại tỏ lời ca ngợi Đảng và tuyên bố rằng ông vẫn tin tưởng ở Đảng. Khôn ngoan hơn những người khác, ông Tường không mạt sát Trường Chinh, vì ông biết trước rằng Trường Chinh còn có ngày trở lại địa vị lãnh tụ. Trái lại, ông ca ngợi Trường Chinh, thường nhắc lại những lời thú nhận của Trường Chinh để bênh vực cho thái độ của mình. Ý ông muốn nói: "Đây, chính ông Trường Chinh cũng phải công nhận là sai lầm, đâu phải chỉ có mình tôi". Có thể nói là trong tất cả các tài liệu chống cộng sản suốt trong hai năm 1956 và 1957, bài diễn văn của ông Tường có kết quả tai hại nhất đối với cộng sản, được báo chí ngoại quốc chú ý đặc biệt, trích đăng, phê bình, sử dụng làm tài liệu nghiên cứu tình hình Bắc Việt, [6] thế mà Việt cộng không hề làm gì nổi ông Tường, không dám lên tiếng chửi rủa ông như họ đã chửi rủa những người khác, vì không khép ông vào tội gì được. Lẽ dĩ nhiên, ông Tường là luật sư, nên ông có "mồm mép", vừa biết rào trước đón sau như những người không học luật.
Người khôn khéo thứ hai là cụ Phan Khôi. Trong bài "Phê bình lãnh đạo văn nghệ" [7] cụ mạt sát Đảng không nể lời, nhưng cụ vẫn cứ rêu rao là cụ sẵn lòng chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Kế đến những nhà văn đứng tuổi khác như ông Đào Duy Anh, ông Trần Đức Thảo, ông Sỹ Ngọc, ông nào cũng biết dè dặt chỗ cần phải dè dặt. Công kích "quá tả" hoạ chăng chỉ có ông Nguyễn Hữu Đang và mấy ông ít tuổi hơn. Tóm lại, chiến thuật chung là vờ ca ngợi Đảng để công kích lại Đảng. Như vậy mới tránh được sự khủng bố của Đảng. Tránh khủng bố để duy trì lực lượng, để củng cố phong trào và để lôi cuốn một số đảng viên bị nhồi sọ lâu ngày, còn đang quá ư tin tưởng ở Đảng.
Trần Dần đã tả lại chiến thuật của ông bằng mấy lời sau đây:
"Viết bây giờ nên làm lối ‘xôi đỗ’, tức là đả kích xen ca ngợi thì lãnh đạo (Đảng) cũng phải chịu".
Riêng về trường hợp ông Trương Tửu thì cả một nghi vấn đương được nêu lên. Ông công kích chính sách của Đảng một cách gắt gao hơn ai hết, nhưng không đứng trên lập trường "dân chủ" để công kích. Ông mang lý thuyết Mác-Lê chính thống ra để so sánh và kết luận rằng Việt cộng đã đi sai đường lối Mác-Lê, đã phản bội chủ nghĩa Mác-Lê. Nói một cách khác, ông Tửu vẫn đứng trên lập trường Đệ Tứ để công kích Đệ Tam.
Vì vậy mà Việt cộng hiện quy ông Tửu là Trotskiste. Điều đó cũng đúng một phần, vì trước kia ông Tửu ở trong nhóm Hàn Thuyên. Nhưng với một người như ông Tửu, đã kinh nghiệm qua hơn mười năm chung sống với cộng sản, đã bị đấu tố [8] thì khó lòng tin được rằng ông không có dịp để nhận định rằng toàn bộ chủ nghĩa Mác-xít là sai. Biết đâu việc ông đề cao chủ nghĩa Mác-Lê chỉ là một chiến thuật. Ông Tửu xưa nay vẫn có tính thích lập luận một cách độc đáo, khác với mọi người.
3. Chiến thuật giai đoạn
Chia cuộc đấu tranh thành từng giai đoạn và ấn định cho mỗi giai đoạn một mục tiêu hợp với hoàn cảnh chủ quan và khách quan là một chiến thuật do cộng sản Đệ Tam khai sinh và áp dụng một cách thường xuyên. Ngày nay, những người trong hàng ngũ cộng sản được cộng sản đào tạo lại mang chính chiến thuật đó ra để chống lại cộng sản. Bắt chước cộng sản, họ tìm ra những điểm yếu nhất của cộng sản để đả phá trước tiên. Hễ phá vỡ được phòng tuyến của đối phương họ mới tìm cách tấn công rộng ra một chỗ khác, dần dần đi tới chỗ bác bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản.
4. Chiến thuật "nhất điểm lưỡng diện"
Nhất điểm lưỡng diện là một chiến thuật quân sự của tướng Lâm Bưu, đã được mang ra áp dụng tại chiến trường Cao Ly. Lâm Bưu chủ trương không tấn công toàn diện mà dồn hết lực lượng tấn công một nhược điểm, mang trọng pháo đi đầu bắn phá tan hoang, mở lối cho công binh dọn đường vào trước rồi bộ binh kéo theo sau. Khi bộ binh đã đột nhập vào đồn trại của địch thì đánh toả ra hai bên. Hạ xong một đơn vị phòng thủ của địch thì tức khắc phân tán lực lượng, tập trung tại một nơi khác để tấn công một vị trí khác.
Ngày nay nếu chúng ta nghiên cứu phương pháp tấn công của nhóm Nhân văn-Giai phẩm, ta phải công nhận rằng họ đã áp dụng một phương pháp tương tự. Họ kết hợp tất cả các lực lượng chống Đảng, học sinh, sinh viên, cán bộ cũ bị xử trí oan, cán bộ miền Nam tập kết, phối hợp tất cả các lợi khí tuyên truyền, thơ ca kịch, nhạc, truyện ngắn, truyện dài, để đại tấn công vào một điểm yếu của Đảng.
Lấy việc công kích mậu dịch làm tỉ dụ. Chúng ta thấy không biết bao nhiêu tài liệu nhằm đả kích mậu dịch. Nào là thơ trào phúng, truyện ngắn, tranh vẽ đều mang mậu dịch ra chế giễu. Ngay cả trong bài diễn văn của ông Nguyễn Mạnh Tường, chúng ta cũng thấy một đoạn dài nói về những tệ hại của mậu dịch. Các văn sĩ biết rằng công kích mậu dịch thì vừa lôi cuốn thành phần công thương bị mậu dịch bóp chết, vừa hái được sự đồng tình của quảng đại quần chúng (trong đó có cả cán bộ cấp dưới) vì mọi người đều bị điêu đứng mỗi khi phải đến mậu dịch mua hàng. Một mặt khác đánh vào mậu dịch tức là giáng một đòn vào nền kinh tế của Đảng, nên đối với các nhà văn chống Đảng, mậu dịch là phòng tuyến cần phá vỡ trước tiên.
Lê Đạt đã bộc lộ rằng:
"Mậu dịch là chỗ yếu của Đảng, ai cũng biết, đánh vào đấy sẽ được quần chúng ủng hộ đấu tranh với Đảng, và báo chí của Đảng dù có muốn phản công lại cũng chịu."
Câu nói đó chứng minh một chiến thuật.
Về lãnh vực văn nghệ thì các văn nghệ sĩ tập trung mũi dùi vào một người. Người đó là Tố Hữu, trước kia đã được Việt cộng tôn là "thần tượng" của thi ca Việt Nam. Chỗ yếu của Tố Hữu là đã làm nhiều bài thơ ca ngợi Sít-ta-lin quá lời, gọi Sít đại nhân là "ông nội". Ngày nay "ông nội" bị bác Khrushchev quy cho đủ thứ tội, nên Tố Hữu không dám há miệng. Đứng trước tình hình đó, tấn công vào Tố Hữu trước tiên phải là thượng sách. Kẻ thù không có phương thế chống đỡ mà hạ được thần tượng đó tức là gạt bỏ một cục đá tảng ngăn đường tiến thủ của các mầm non trong văn nghệ. Về một mặt khác, Tố Hữu là một trong "thập bát tú" (mười tám Trung ương uỷ viên) nên đánh được Tố Hữu tức là hạ uy thế của Trung ương Đảng.
Tấn công xong Tố Hữu thì mặt trận tấn công lan ra các "cập-rằng văn nghệ" như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, quây quần xung quanh "vị thần tượng" Tố Hữu. Bài "Phê bình lãnh đạo văn nghệ" của cụ Phan Khôi và nhiều bài khác của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, bài "Thi sĩ máy" của Như Mai đều nhằm mục tiêu này. Cứ như vậy rộng dần ra toàn thể "giai cấp mới", giai cấp cán bộ Đảng lộng hành và thối nát, nịnh trên nạt dưới, gây nên biết bao nhiêu tai hoạ trong dân gian. [9]
Về sự áp dụng chiến thuật này, Trần Dần đã bộc lộ rằng: "Viết về Cải cách ruộng đất bây giờ phải đánh Trung ương là chính, thứ nữa mới đánh cán bộ, thứ nữa mới đến cốt cán".
5. Chiến thuật bảo tồn lực lượng
Vì biết phong trào vừa mới manh nha, lực lượng tấn công còn yếu, đối phương còn nắm vững guồng máy cai trị, nên các văn nghệ sĩ đối lập phải thận trọng, vừa tấn công Đảng vừa cố gắng bảo toàn lực lượng. Do đó họ phân công mỗi người mỗi việc. Những nhà văn sẵn có tên tuổi như cụ Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang thì đứng ra công khai để tranh đấu, còn những văn sĩ trẻ tuổi thì nấp sau để phục kích, mỗi lần bị Đảng phản công. Trần Dần viết như sau:
"Nhóm Giai phẩm mùa Xuân hồi đó tạm thời phân tán, người nằm vào hẳn báo Nhân văn, như Hoàng Cầm, Lê Đạt. Người ném đá giấu tay như tôi, Tử Phác,... Còn như Văn Cao, Đặng Đình Hưng thì đứng bên ngoài ủng hộ mà nhân đó hoạt động phối hợp bên Nhạc...”
Ở một đoạn khác trong bài kiểm thảo Trần Dần viết:
"Tôi nghĩ bây giờ cọ lắm sầy vẩy, phải tìm những cách khôn khéo hơn. Văn Cao có đề ra ý kiến: ‘Bây giờ cứ nắm cơ sở, tức là nắm các nhóm sáng tác, lâu dần nhân tâm sẽ hướng về mình’. Từ đó tôi áp dụng một cái jeu serré (nước bài chặt chẽ) hơn trước. Tôi hay nói với anh em: ‘Võ phải cho kín mới được’. Trước hở quá rồi, đấu tranh bộ đội, Giai phẩm mùa Xuân, Nhân văn dều manh động, vaines agitations cả. Chỉ có chui vào sáng tác tức là cái giáp trụ rắn nhất (Đảng) đánh cũng không chết.”
Đến khi nhận thấy phong trào đi quá nhanh, Đảng bắt đầu dùng bạo lực để khủng bố, thì các văn nghệ sĩ đối lập phải tìm cách ghìm bớt phong trào lại để tránh tổn thất. Chúng ta hãy nghe Trần Dần kể lại:
"Khoảng số 2 Nhân văn. Lê Đạt lên trại Cải cách ruộng đất tìm tôi, tôi bảo trước sau phong trào cũng bị đổ vỡ thôi. Tôi xui Lê Đạt tham gia ghìm Nguyễn Hữu Đang lại và nói: ‘Mày làm như Các Mác với Ba Lê Công xã ấy’, biết là thất bại nhưng cứ xông vào giải bớt thất bại đi".
Cũng vì áp đụng chiến thuật mềm dẻo này mà đa số các văn nghệ sĩ, sau khi phong trào chống đối bị tan vỡ, đều chịu đi chỉnh huấn và công khai bộc lộ. Họ áp dụng câu phương ngôn "tránh voi chẳng hổ mặt nào", để một lần nữa tránh tổn thất. Không phải là họ "ham sống sợ chết", nhưng nếu để cho cộng sản khủng bố rùng rợn quá thì thế hệ sau sẽ một phần nào nhụt mất nhuệ khí. Những người được cộng sản Đệ Tam đào luyện không có thái độ như Nguyễn Thái Học, chủ trương "không thành công cũng thành nhân".
Có nhiều người ở miền Nam không tán đồng thái độ này. Họ cho rằng đầu hàng kẻ thù như vậy là không có "khí phách", không đủ tiết tháo. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng đối với cộng sản thì không thể nào dựa vào khí phách và tiết tháo mà thắng được. Càng tỏ ra có khí phách chúng càng giết không nể tay. Hàng vạn người trước đây bị quy là địa chủ, chỉ vì khí phách không chịu đầu hàng, nên bị chúng giết từng loạt. Hiện nay vấn đề chính không phải là nêu cao khí phách để cổ võ tinh thần quần chúng, giác ngộ quần chúng vì toàn thể nhân dân đã sẵn có tinh thần chống cộng. Vấn đề chính trong hiện tại là đấu tranh bền bỉ. Mỗi lần thất bại là phải cố gắng bảo tồn lực lượng để trù tính một cuộc đấu tranh kế tiếp. Cộng sản thắng lợi vì áp dụng đường lối đó. Trong tương lai cộng sản tất nhiên sẽ bị thất bại cũng vì đối phương biết áp dụng phương pháp đó.
Một mặt khác, sau khi tất cả các báo chí đối lập đã bị bóp chết, thì chỉ còn một cách là công khai bộc lộ để nhờ báo chí của Đảng trích đăng tâm sự của mình, hòng để lại cho lớp sau một kinh nghiệm mà lịch sử chưa từng ghi chép.
Trên đây là ý kiến riêng của chúng tôi, vì chúng tôi so sánh việc "đầu hàng" của nhiều địa chủ với việc "đầu hàng" của các văn nghệ sĩ. Đảng bắt phải đầu hàng để Đảng lên mặt với nhân dân, vậy thì cứ "đầu hàng" vì qua những vụ đấu tố địa chủ, phú nông, toàn thể nhân dân đều biết rằng những trò đó chỉ là một tấn đại bi hài kịch mà mọi người phải lần lượt lên sân khấu đóng vai trò Đảng đã ấn định cho mình. Chúng tôi tin rằng những người như Trần Dần đã viết bài “Hãy đi mãi” (xem phần tài liệu) hay Phùng Quán đã viết bài “Lời mẹ dặn” (xem phần tài liệu) là những người có dư thái độ bất khuất và có đủ gan dạ bền bỉ.
Ý kiến chúng tôi có đúng hay không, chỉ có tương lai mới có thể trả lời.
Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy tin rằng Người là Người mà Vật là Vật. Không có thế lực nào có thể biến con người thành con vật. Người hơn vật ở chỗ biết nói, nên hễ biết nói là phải nói theo ý mình. Người bao giờ cũng tranh đấu đòi cho được tự do ngôn luận, bảo đảm cho mọi thứ do khác.
Mạc Đình
Sài Gòn, ngày 8-12-1958
[1]Thực
ra đây là bài "Mới", tin trong Giai phẩm mùa Xuân 1956
(talawas)
[2]Bức tranh của Trần Duy nhan đề "Một phương pháp xây dựng văn nghệ" trên báo Văn số 30, ngày 29.11.1957, in lại trong sách này ở trang 35 (talawas)
[3]Thông tin này đã được chứng tỏ là không đúng. Ông Nguyễn Hữu Đang mất tại Hà Nội ngày 08.02.2007 tại Hà Nội (talawas).
[4]Ngụ ý bây giờ thì không vui như vậy.
[5]Xem bài "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất" trong phần tài liệu.
[6]Giữa hôm ông Hồ sang Rangoon, báo The Nation là tờ báo lớn nhất của Miến Điện trích đăng bài diễn văn của ông Tường dưới đề: "Đây, hiện tình Bắc Việt".
[7]Xem bài trong phần tài liệu.
[8]Tháng hai năm 1953 ông bị cán bộ làng Quần Tín là nơi ông tản cư mang ông ra đấu, bắt ông phải quỳ và đánh ông mấy cái bạt tai.
[9]Xem bài "Cũng những thằng nịnh hót" của Hữu Loan trong phần tài liệu và bức hí hoạ ở trang 14.
[2]Bức tranh của Trần Duy nhan đề "Một phương pháp xây dựng văn nghệ" trên báo Văn số 30, ngày 29.11.1957, in lại trong sách này ở trang 35 (talawas)
[3]Thông tin này đã được chứng tỏ là không đúng. Ông Nguyễn Hữu Đang mất tại Hà Nội ngày 08.02.2007 tại Hà Nội (talawas).
[4]Ngụ ý bây giờ thì không vui như vậy.
[5]Xem bài "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất" trong phần tài liệu.
[6]Giữa hôm ông Hồ sang Rangoon, báo The Nation là tờ báo lớn nhất của Miến Điện trích đăng bài diễn văn của ông Tường dưới đề: "Đây, hiện tình Bắc Việt".
[7]Xem bài trong phần tài liệu.
[8]Tháng hai năm 1953 ông bị cán bộ làng Quần Tín là nơi ông tản cư mang ông ra đấu, bắt ông phải quỳ và đánh ông mấy cái bạt tai.
[9]Xem bài "Cũng những thằng nịnh hót" của Hữu Loan trong phần tài liệu và bức hí hoạ ở trang 14.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét