“Đấu chính trị”
Giữa lúc bàn dân thiên hạ đương thất điên bát đảo về thuế nông nghiệp và công thương nghiệp, hai thứ thuế mà dân chúng gọi là “thuế thất nghiệp” thì Việt cộng sửa soạn bí mật và bất thình lình phát động một chiến dịch đại quy mô chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam. Bắt đầu vào giữa tối 23 tháng Chạp Âm lịch, ngày lễ ông Táo lên chầu trời, vào đầu tháng Hai Dương lịch năm 1953, cuộc khủng bố này có thể ví với cuộc tàn sát Saint Barthélémy trong lịch sử Pháp. Vì Việt cộng sửa soạn rất bí mật và phát động rất bất thình lình nên ngoài đảng viên cao cấp không một ai biết trước kể cả viên chức ngạch trung ương trong chính quyền kháng chiến. Vì cuộc khủng bố này có tính cách hoàn toàn chính trị, nên sau này được dân chúng mạnh danh là “Đấu chính trị”. Chữ đấu bắt nguồn từ danh từ “đấu tranh”, vì Việt cộng giải thích đấy là một cuộc đấu tranh của dân chúng.
Hồi ấy máy bay Pháp thường oanh tạc ban ngày nên mọi cuộc họp đều triệu tập vào ban tối và đúng vào ban tối 23 tháng Chạp Âm lịch, 1954, tất cả các xã đều triệu tập nhân dân đến hội trường để bàn về thuế nông nghiệp và công thương nghiệp. Chương trình nghị sự chỉ có một câu: Tại sao nhiều người ngoan cố không chịu nộp thuế, hoặc không nộp đủ.
Sự thực thì mọi người đều đã biết tại sao. Chỉ tại sau hai năm liền, giàu cũng như nghèo, không ai còn có thể chạy đâu ra tiền, thóc lúa, để tiếp tục đóng mãi hai thứ thuế “thất nghiệp” ấy được nữa. Nhưng cộng sản đặt ra câu hỏi, không phải vì muốn tìm hiểu sự thực, mà cốt để thực hiện một âm mưu không dính dáng gì đến thuế.
Trước giờ họp, trong hội trường đã có sẵn thừng, hèo, gậy, và nhiều dụng cụ tra tấn khác. Những người thiếu thuế không kể ít hay nhiều, đều bị bắt, điệu ra trước hội nghị và tra khảo không phải để biết tại sao không nộp được thuế, mà chỉ cần biết kẻ nào đã xúi giục không nộp thuế. Chủ tịch cuộc họp không hỏi lơ mơ “ai xui mày không nộp thuế?”, mà hỏi một cách rất rõ ràng “có phải thằng Ất (hoặc thằng Giáp) xui mày không nộp thuế, phải không? Nói mau!” Và tức khắc đánh đập, kìm kẹp, tra tấn cho đến lúc nạn nhân chịu không nổi, đuối sức, chỉ khẽ gật đầu. Nếu không gật đầu, nạn nhân có thể bị tra tấn suốt đêm cho đến chết. Hễ nạn nhân gật đầu, tỏ ý là Giáp hoặc Ất nào đó quả có xui không nộp thuế thì những người này bị bắt tức khắc. Sự thực thì những người này đã được Việt cộng ghi tên trong sổ đen; chủ tịch buổi họp chỉ việc lần lượt chọn từng tên một rồi tra tấn những người thiếu thuế bắt phải khai đúng tên những người trong sổ, để sẵn trước mặt. Một khi người thiếu thuế đã khai đúng như ý muốn của cộng sản thì tức khắc được tha về, không cần hỏi đến nữa.
Những người bị khai - nói đúng hơn là bị buộc vào tội xui không nộp thuế - bị tra tấn một mức độ gắt hơn và phải trả lời hai câu hỏi: Mày ở trong tổ chức phản động nào? Và: Trong tổ chức phản động của mày có thằng… (Bính, Đinh) không? Về câu hỏi thứ nhất thì người bị tra có thể bịa ra bất cứ đảng phái nào, khai là đảng hươu đảng vượn gì cũng được. Có người tự nhận là đảng Bảo Đại, đảng Việt gian, và có một nông dân cuống quá, nghĩ không ra đảng, khai ngay “Đảng Cộng sản” vì từ bé anh ta chỉ nghe nói lờ mờ có Đảng Cộng sản không rõ là cách mạng hay phản động. Về câu hỏi thứ hai thì người bị tra không được phép khai lung tung, phải khai đúng tên mà chủ tịch hội nghị đã mớm cho. (Tuy nhiên đây chỉ là quang cảnh trong những ngày đầu, sau này sẽ có nhiều sai lạc mà chúng tôi sẽ trình bày ở đoạn sau).
Tất cả những người “phản động” có tên trong sổ đen lần lượt “bị khai”, bị bắt và tra tấn. Họ thuộc đủ thành phần, không cứ giầu nghèo, và sự thực thì cũng không phải là “phản động”. Nói cho đúng thì phần đông là những người có thái độ lừng chừng, vì những người thật sự chống đối với Việt cộng thì, hồi năm 1953, hoặc đã bị tiêu diệt, hoặc đã bỏ chạy vào vùng Pháp chiếm đóng. Đối với cộng sản thì lừng chừng cũng nặng tội như phản động. Bài thơ sau đây của Xuân Diệu, nhà thơ bồi bút của cộng sản chứng tỏ điều đó.
Anh em ơi, quyết chung lưng đấu cật.
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tủ thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Tất nhiên khi thảo mấy vần thơ trên, không phải là “nàng thơ” đã gợi ý cho Xuân Diệu, mà chính là Đảng đã ra lệnh, vì Đảng quyết tâm đánh tan xương những phần tử phản động hoặc lừng chừng không chịu theo giặc mà cũng không tích cực theo Đảng. Quả thực là nhiều người đã bị tan xương, đúng như lời của nhà thơ Xuân Diệu, vì hài cốt họ không còn nguyên vẹn sau khi bị đánh chết. Nói về lối tra tấn thì thường có mấy phương pháp điển hình, xã nào cũng áp dụng. Đại để như sau:
Nạn nhân phải quỳ, hai tay giơ lên đỡ một thùng đá nặng đặt ngay trên đầu.
Nạn nhân bị treo hai chân, hoặc hai tay vào một sợi thừng vắt qua xà nhà. Một lúc lại kéo lên, kéo xuống, vừa đánh vừa hỏi, thỉnh thoảng buông rơi “cái bịch” xuống đất.
Quấn giẻ tẩm dầu vào hai ngón tay cái và đốt.
Vì mấy hình thức tra tấn này được áp dụng trong toàn thể vùng Việt Minh kiểm soát, nên dư luận ngờ rằng Đảng đã quy định như vậy. Có người nói rằng những cực hình này đã áp dụng trong các cuộc đấu tố bên Trung Quốc và do các cố vấn Trung cộng nhập cảng vào Việt Nam.
Trên đây chỉ là những kiểu tra tấn “phổ thông” khắp mọi xã, nhưng cũng có nhiều xã áp dụng những kiểu tra tấn “đặc biệt” do sáng kiến địa phương nghĩ ra. Ở một làng nọ, nạn nhân bị bỏ vào rọ dìm xuống nước một vài phút, lôi lên để hỏi, chưa chịu nhận tội, lại dìm nữa cho kỳ nhận mới thôi. Ở một làng khác, cán bộ mượn một cái “ê-tô” của một hiệu chữa xe đạp, kẹp ngón tay người bị tra vào giữa hai má ê-tô, và cứ hỏi một câu mà chưa chịu trả lời lại quay một vòng.
Điều đáng chú ý là đảng viên và cán bộ Đảng không trực tiếp nhúng tay vào các vụ tra tấn này. Họ giao công việc cho “cốt cán”, vì cốt cán không phải là người của Đảng và Chính phủ. Như vậy là cốt để sau này, Đảng có thể ngang nhiên phủ nhận mọi trách nhiệm và, hơn nữa, đổ hết cả tội lỗi vào đầu nhân dân. Câu chuyện sau đây có giá trị điển hình về thái độ kể trên.
Một cô giáo “cấp 1” ra cho trẻ em trong lớp một bài luận, đề như sau: “Các em hãy tả một “đấu” trong xã các em. Lũ trẻ em cứ thực tình tả nào là bắt người, đánh, trói và tra tấn, và không quên kết luận bằng những câu ca tụng đường lối sáng suốt đúng đắn của Đảng và của “Bác Hồ”. Nhưng mấy ngày sau Đảng đã chính thức tuyên bố là Đảng không dính dáng đến những vụ tra tấn này và đấy chỉ là “nhân dân tự động đấu tranh chống phản động”. Vì Đảng đã phủ nhận vai trò của mình, nên hôm trả bài, cô giáo phải làm bộ phê bình học sinh là tả không đúng sự thực. Cả lớp bị mắng là “nói điêu” đã ráng gân cổ cãi lại cô giáo, nói chúng đã trông thấy tận mắt và một vài em lại kể rành mạch là đã thấy cán bộ chặt tre làm gậy và mang thừng chão đến hội trường từ buổi chiều, trước khi triệu tập cuộc họp.
Vụ “đấu” này kéo dài nửa tháng và đêm nào, làng nào cũng có người bị đánh chết. Bắt đầu đêm hôm 23 tháng Chạp, nghĩa là một tuần trước Tết, vào giữa lúc thiên hạ đương lo cúng ông bà ông vải và đón mừng năm mới. Vì vậy nên mọi cuộc sửa soạn đều bị bỏ dở, và nhà nào nhà nấy im hơi lặng tiếng, tối đến cũng không dám thắp đèn. Có người nhận xét, súc vật thấy người sợ cũng sợ lây; gà không gáy chó không sủa.
Trong mấy ngày đầu, mọi việc đều tuần tự như tiến, theo đúng kế hoạch của Đảng đã vạch sẵn, những người có tên trong sổ đen đều lần lượt bị “khai” và tra tấn. Nhưng một khi phong trào đã được “đẩy mạnh”, cán bộ trở thành say sưa với quyền sinh quyền sát nên coi nhẹ cuốn sổ đen, vì vậy nên hễ khai ai bắt nấy, đưa đến tình trạng bất cứ ai cũng có thể bị bắt và bị tra tấn. Đảng không kìm hãm nổi và khắp mọi nơi cuộc khủng bố trở thành “lung tung”. Những giới hạn mà Đảng đã quy định trở thành vô giá trị và khắp nơi khắp chốn chỉ nghe nói đánh đập, tra tấn, chết chóc. Sở dĩ phong trào trở nên hỗn loạn là tại hai nguyên nhân sau:
1. Theo lời Đảng dặn, cán bộ giao việc đánh đập, tra tấn cho cốt cán. Nhưng trong mỗi xã chỉ có một số ít cốt cán, mà nhiều người trong bọn họ ngần ngại không muốn thẳng tay đánh đập bà con trong thôn xóm, đôi khi là anh em, chú bác, cô dì. Hơn nữa đánh lắm cũng mỏi tay, nên cốt cán phải tuyển mộ người khác giúp bớt phần việc. Nhưng trong xã hội Việt Nam tìm được những người tình nguyện làm những việc ác đức này không phải là chuyện dễ, nên rốt cuộc, những người sẵn sàng tiếp tay cho cốt cán đều là những lưu manh vô lại trong nông thôn. Vì là lưu manh nên phần đông có “thành tích bất hảo”, hoặc đã trốn “dân công” [4] hoặc đã ăn trộm lúa kho hoặc có phạm một tội nào tương tự mà chính quyền chưa hỏi đến. Bây giờ “cờ đã đến tay” nên chúng ra sức “phất” rất mạnh, đánh đập bất cứ ai để ra oai với nhân dân và để chuộc tội với Đảng. Bỗng nhiên đương “thằng” trở thành “ông” chúng ra tay đánh đập “phản động” để không còn ai có thể quy chúng là phản động được nữa. Đánh phản động tàn nhẫn như vậy, tất nhiên là căm thù với phản động, và không phải là phản động. Hồi mấy “thằng” lưu manh trở thành “ông” có người đặt mấy câu vè như sau:
Trời làm một hội lăng nhăng
Thằng hoá ra ông, ông hoá ra thằng.
Trời làm một hội lông nhông.
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông.
Tình trạng trở nên hoàn toàn hỗn loạn vì bất cứ nạn nhân khai ra ai chúng cũng bắt đánh. Chúng chỉ cần đánh để lấy lòng Đảng và “lấy le” với nhân dân, làm cho mọi người sợ chúng, không dám khai ra chúng. Vì thất học nên chúng chẳng hiểu “tư bản”, “đế quốc” là gì, và đối với chúng, mọi người lương thiện thường khinh rẻ chúng đều có thể coi là “phản động” cả.
2. Nguyên nhân thứ hai chỉ là hậu quả của nguyên nhân thứ nhất. Trong thời kỳ đầu người bị tra không phải tốn công nghĩ ra tên người khác để khai là đồng đảng vì hồi ấy cốt cán còn lãnh đạo công việc tra tấn nên lúc nào cũng sẵn sàng “mớm” tên cho mà khai. Trái lại đến lúc lưu manh xông ra đánh đập thì không còn ai lưu ý đến sổ đen và bất cứ ai bị “khai” cũng bị đòn như mọi người. Mọi người đều nhận thấy hai điều: khai sớm càng đỡ đòn và khai ra bất cứ ai cũng được.
Không ai bảo ai, mọi người đều tự đặt câu hỏi: “Nếu đêm nay mình bị đánh thì nên khai ra ai, cho đỡ bị ăn đòn?”. Có người lý luận rằng muốn cho Đảng chóng đình chỉ cuộc “đấu” thì nên lợi dụng tình trạng, khai ngay cán bộ hoặc bà con thân thích của cán bộ và đảng viên. Quả nhiên những đảng viên bị khai cũng bị bắt và tra tấn như các “phản động thường”. Các chi bộ cộng sản không thể can thiệp vì khẩu hiệu Đảng đã nêu ra là: Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh chống phản động. Đảng cũng ra lệnh cấm không một cá nhân nào hoặc một cấp nào được phép can thiệp. Thế là đảng viên trở thành nạn nhân, đúng câu thành ngữ Việt Nam “âm binh quật lại phù thuỷ”.
Trong một cuộc “đấu” người ta bị tra hoảng quá, mất hết tinh thần. Khi bị hỏi “Trong tổ chức phản động của mày có những ai?” Giơ tay chỉ ngay ông chủ toạ phiên họp. Ông chủ toạ bị lôi xuống và bị đánh tức khắc. Sau đó hội nghị tạm ngưng vì không ai nhận làm chủ toạ buổi họp.
Đến ngày thứ 15 thì Đảng nhận thấy tình hình trở lên quá nghiêm trọng và điện từ trung ương về các tỉnh ra lệnh đình chỉ ngay tức khắc. Nhưng điện văn cũng nói rõ phải giam giữ những người mà “quần chúng sáng suốt” đã tố cáo là “phản động”.
Lệnh giam giữ những nạn nhân của cuộc “đấu” chứng tỏ Đảng đã có dụng tâm từ trước. Đảng muốn tạm thời gạt bỏ ra ngoài xã hội những phần tử mà Đảng ngờ có thể chống đối chính sách sau này của Đảng: chính sách Cải cách ruộng đất. Quả thực, những người bị khai là phản động bị giam trong các trại tập trung mãi đến phong trào Sửa sai, năm 1956 mới được tha.
Trong vụ “Đấu chính trị” trung bình mỗi xã có từ ba đến năm người bị đánh chết, hoặc vì uất ức phải tự tử trong số có một bộ trưởng chính phủ là ông Đặng Văn Hướng. Ông Đặng Văn Hướng nghỉ phép về thăm nhà thì gặp phải vụ “đấu”. Vì “bụt chùa nhà không thiêng” nên cán bộ xã không nhận thấy ông là “bộ trưởng” chỉ thấy ông là “một tên phản động” nên mang ra “đấu”. Trong khi ấy thì từ ông Hồ cho đến các bộ trưởng khác không ai đoái hoài đến số phận của ông. Ông không bị đánh chết nhưng ông anh ruột bị, và sau đó cả hai ông bà thắt cổ tự tử. Việc đáng chú ý là ông Hướng lại là thân phụ của đại tá Đặng Văn Việt nổi tiếng là “anh hùng đường số 4” vì mấy năm trước đại tá Việt đã chiến thắng quân đội Pháp trong trận Cao Bằng - Lạng Sơn.
Trong khi cuộc “đấu” diễn ra ở khắp thôn xã thì ở các thị trấn cũng có “đấu” nhưng với hình thức nhẹ hơn. Lý do là vì những người buôn bán ở các thị trấn mới thành lập là người tứ xứ, không quen biết nhau nên không có hận thù. Những thị trấn này chỉ là những chỗ buôn bán nhỏ, vì những thành phố lớn đã bị cộng sản phá trụi, theo chính sách tiêu thổ kháng chiến chống Pháp. Việt cộng lấy cớ là phá huỷ thành phố để không cho Pháp chiếm đóng và lập căn cứ nhưng chủ tâm của Việt cộng là muốn phá sản giai cấp “tư sản thành thị” mà cộng sản coi là khó cai trị. Chủ nhân là những người trước kia sinh nhai ở thành phố, nay mất hết cơ nghiệp phải tản cư về thôn quê, nhưng không làm ruộng quen nên phải dựng lên một túp lều nhỏ để buôn bán chút đỉnh, một vài thứ hàng lặt vặt, mong qua ngày đoạn tháng.
Nói chung thì dân thôn quê phải mất một tuần mới vỡ lẽ là ngày càng nhận tội sớm bao nhiêu thì càng đỡ đòn bấy nhiêu. Trái lại, dân thành thị vì “láu” hơn, nên ngay buổi đầu họ đã tìm ra mánh lới này. Vì vậy nên ở các thị trấn có nhiều người chưa bị một cái bạt tai đã vội vàng quỳ gối thú tội vanh vách, nhưng họ cũng được may mắn là những “tội” họ buộc lẫn nhau đều là những tội không lấy gì làm “phản động” lắm. Vì thiếu “phản động” nên chi bộ Đảng ở các thị trấn không thể “đào” đâu cho đủ “phản động” để kéo dài cuộc “đấu” cho trọn hai tuần. Kết quả là cuộc lùng bắt “phản động” trở thành cuộc truy nã những kẻ ưa dùng xa xí phẩm, hàng ngoại. Ăn mặc tươm tất, hoặc dùng sáp bôi đầu chẳng hạn, cũng bị quy là “trọng tội”. Cán bộ đón các đầu đường, hễ ngửi thấy mùi sáp thơm là bắt phải gội ngay tại chỗ, bằng nước rửa bát để sẵn gần đấy. Nhiều anh trông thấy quang cảnh như vậy, vội vàng “xung phong” xin gội đầu bằng nước rửa bát ngay để tránh khỏi bị đòn. Nhiều người ưa ăn sang mặc đẹp như mấy bà vợ bác sĩ (Bác sĩ Nguyễn Bát Can, trước kia là Dr. Pascal Nguyễn) cũng bị mang ra "đấu" và hưởng mấy bạt tai.
Cuộc đấu ở nông thôn và ở thành thị phát triển theo hai hướng trái ngược nhau. Trong khi ở nông thôn, cuộc khủng bố cứ mỗi ngày một kịch liệt hơn cho đến khi tình trạng trở thành hoàn toàn hỗn loạn, thì ở thành phố chẳng mấy chốc cuộc “đấu tranh phản động” biến thành một chiến dịch vớ vẩn là “đấu tranh chống lề lối sinh hoạt tiểu tư sản”. Nhận thấy như vậy nên thực tế đã có người nhanh chân bỏ nông thôn chạy vội ra thành phố náu ẩn. Cũng vì ở thành phố thường ít tính chất bạo động hơn ở nông thôn, nên dưới chế độ cộng sản, dân chúng luôn luôn tìm cách “chuồn” ra thành phố và do đó chúng ta thường thấy chính quyền cộng sản ở Bắc Việt và ở Trung cộng chẳng hạn, thỉnh thoảng lại “giải về nguyên quán” những người tản cư trái phép từ nông thôn ra thành thị.
Sau cuộc “Đấu chính trị”, ông Hồ có viết một bức thư “xin lỗi đồng bào” gửi cho tất cả các xã và mọi người đều phải học tập. Trong thư, ông nhận chính phủ và Đảng đã thiếu sót trong việc lãnh đạo khiến nhiều nơi quần chúng đã khinh thường luật pháp, có nhiều hành động trái với chủ trương nhân đạo và khoan hồng của chính phủ và Đảng. Cán bộ kể chuyện cho dân chúng nghe là khi viết bức thư “xin lỗi đồng bào” ông Hồ bực quá, chẩy nước mắt. Có lẽ câu chuyện không đến nỗi hoàn toàn bịa đặt vì mọi người đều biết ông Hồ đóng trò rất tài tình, muốn cười, muốn khóc và ngay cả muốn hôn lúc nào cũng được. Hồi viếng thăm Ấn Độ và Indonesia, những nơi mà nam nữ còn đương “thụ thụ bất thân”, ông Hồ cứ tự nhiên ôm các bà các cô hôn đại. Vì vậy nên năm 1959, báo chí Djakarta tặng ông biệt hiệu “Vị chủ tịch thích hôn” (President Pentjium).
Sau khi xin lỗi đồng bào, ông Hồ ra lệnh cho các Uỷ ban xã báo cáo lên cấp trên những vụ quá đáng. Đồng thời các Uỷ ban cũng phải lập danh sách những người sáng suốt đã nhận thấy những điểm sai trong chiến dịch và đã cố gắng ngăn cản.
Có nhiều người, phần đông là Đảng viên cấp dưới, quả thực đã xa lánh phong trào, và có một số đã chạy lên huyện lên tỉnh, tìm cách cứu gỡ cho thân nhân. Sau khi lập thành danh sách đưa lên tỉnh, những người này được tỉnh uỷ mời lên để ban khen, nhưng lên đến nơi họ được tống đi các trại “quản huấn” để vừa lao động vừa học tập những nguyên tắc bất khả sai lạc của chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít. Mãi ba năm sau, nhân dịp chiến dịch Sửa sai, tiếp sau chiến dịch Cải cách ruộng đất họ mới được tha về. Đây là một thí dụ điển hình chứng tỏ chủ trương của Đảng là bắt nhốt ngay cả những đảng viên mặc dầu trung thành với Đảng, nhưng không tán thành chính sách khủng bố của Đảng.
Một tháng sau khi ông Hồ đã khóc và xin lỗi đồng bào thì những cán bộ đã phát động chiến dịch ở Bắc Việt lên đường vào khu V (miền Nam Trung Việt) để phát động một phong trào in hệt. Đi theo bọn họ vẫn có mấy cố vấn Trung Quốc ở Hồ Nam.
Ảnh hưởng trực tiếp của cuộc “đấu sơ bộ” này là tất cả các thành phần trong nhân dân đều sợ oai của Đảng. Sự thực, trước cuộc “đấu” Đảng đã mất rất nhiều uy tín. Nhiều nông dân bị bom đạn của Pháp tiêu huỷ nhà cửa đã ngang nhiên oán trách “cụ Hồ”, và hàng ngàn dân công gánh gạo tiếp tế bộ đội đã làm reo bỏ về, quẳng gạo ra hai bên đường. Hồi Đảng còn rút lui vào bóng tối sau khi tuyên bố tự giải tán, dân quân một xã nọ đã vây bắt một chi bộ cộng sản đang hội họp, lấy cớ là hội họp trái phép.
Sau chiến dịch khủng bố, tình trạng thay đổi hẳn. Không những không ai dám từ chối không đi dân công, mà trái lại, hàng ngàn người xung phong đi ngay. Thuế khoá cũng chỉ thu trong vài giờ là xong ngay.
Nhiều người nhận thấy như vậy cho rằng Đảng đã áp dụng chính sách khủng bố để thu thuế cho nhanh và bắt dân công cho dễ. Nhưng thực ra như chúng tôi sẽ trình bày về sau, cộng sản phát động chiến dịch khủng bố với hai mục đích khác. Một mục đích dài hạn là dọn đường cho chiến dịch Cải cách ruộng đất sắp tới và một mục đích tức thời là thị uy với toàn thể nhân dân, không kể giàu nghèo và thanh trừng những phần tử mặc dầu tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng tình nghi là không chấp nhận chế độ cộng sản.
Cuộc “đấu chính trị” do Trung ương Đảng phát động, kéo dài trong nửa tháng, gây không biết bao nhiêu tang tóc, nhưng sau khi ông Hồ đã viết thư “xin lỗi đồng bào” thì tình hình ở nông thôn lại tương đối được ổn định. Những người chạy trốn ra thành phố lần lượt trở về làng. Cán bộ làm ngơ không hỏi tới và để yên cho tự do sinh hoạt trong khoảng vài tháng.
Nhưng “đấu” rồi, Đảng còn một công tác khác cần phải làm. Tức là chứng tỏ trước nhân dân là dù sao lời dạy của Bác Mao vẫn đúng. Bác Mao đã nói: “Quần chúng bao giờ cũng sáng suốt” và “Nông dân có thể lãnh đạo được cách mạng vô sản”.
Nhưng cuộc “Đấu chính trị” quả đã gây nên nhiều ảnh hưởng tai hại. Nhiều người trước kia nhiệt liệt ủng hộ cộng sản, nay bỗng nhiên hết tin tưởng. Họ nhận thấy ông Hồ quá lệ thuộc vào ông Mao đã nhập cảng vào Việt Nam nhiều hành động dã man mà từ ngàn xưa sử sách Việt Nam chưa từng chép, và hiện nay không một dân tộc văn minh nào có thể dung thứ được. Họ cũng nhận định là cộng sản, mặc dầu đã nắm trọn quyền trong tay mà còn dùng mánh lới “phát động quần chúng” để trừng trị đối phương thì thể tất sau này không bao giờ cộng sản có thể áp dụng những biện pháp công bằng và nhân đạo để trị dân. Những người còn giữ được lý trí - mà thực sự thì nhiều người đã mất vì “học tập chính trị” quá nhiều - bắt đầu so sánh chế độ cộng sản với chế độ thực dân ngày xưa. Họ công nhận dưới chế độ thực dân tuy không có công bằng và tự do nhưng ít ra cũng có một hình thức pháp lý nào đó. Chính quyền thuộc địa cũng giết, nhưng giết bằng máy chém, không giết bằng “phát động quần chúng”.
Ngay những đảng viên trung thành cũng bắt đầu ngờ vực khả năng lãnh đạo của nông dân. Họ tự hỏi nếu gây căm thù rồi “phóng tay phát động nông dân” thì liệu nông dân sẽ đưa cách mạng tới đâu? Họ vẫn biết một xã hội mà người giàu đá đít người nghèo là một địa ngục, nhưng họ không tin rằng những kẻ kẹp tay thiên hạ vào “ê-tô” để vặn có thể xây dựng được thiên đường trên mặt trái đất.
Để đánh tan luồng tư tưởng nguy hại này, cộng sản áp dụng hai biện pháp, một cho những người có học, và một cho dân chúng thiếu học:
1. Ở mỗi tỉnh đều thành lập toà án quân sự để xử tội những “Việt gian” bị bắt trong vụ “Đấu chính trị”. Mục đích của cộng sản là để chứng minh cho dân chúng trông thấy rằng mặc dầu “quần chúng đã tự động”, nhưng sự thực quần chúng vẫn sáng suốt, vì trong số những người họ “tố”, quả thực có nhiều “Việt gian” lợi hại, làm tay sai đắc lực cho Pháp.
2. Đảng tổ chức một chiến dịch cải tạo tư tưởng cho toàn thể đảng viên và cán bộ để giải thích cho họ hiểu là “phóng tay phát động quần chúng”, mặc dầu có nhiều sai lầm, nhưng tựu trung vẫn là một chính sách rất “hợp tình, hợp lý”. Vì hai biện pháp kể bao gồm trong “chiến thuật Mao Trạch Đông”, nên chúng tôi sẽ cố gắng trình bày cặn kẽ trong những chương sau.
Chương VIII
Danh sách Việt gian
Những người bị bắt và bị đấu tố trong cuộc “Đấu tranh chính trị” mà may mắn còn sống sót thì bị đưa vào trại giam để công an điều tra thêm. Vài tuần sau công an tuyên bố là trong số những người này quả có nhiều “Việt gian” lợi hại, có chân trong một tổ chức bí mật, làm gián điệp cho Pháp.
Trong năm 1951, nghĩa là hai năm về trước, Pháp có bỏ bom phá tan hệ thống dẫn thuỷ nhập điền trong vùng Việt Minh kiểm soát. Nhớ lại vụ oanh tạc này, Đảng được dịp tuyên bố là chính những “Việt gian” mà nhân dân đã “lột mặt” đã xui Pháp ném bom phá huỷ các đập nông giang. Đảng còn nói rằng bọn họ đã vẽ địa đồ các đập nước và các cầu cống và chuyển giao cho Pháp. Rõ ràng là một sự vô cùng phi lý vì không có một người Việt Nam nào không hiểu rằng những cống và đập đó đều do Pháp xây dựng và toàn bộ bản đồ Việt Nam và Đông Dương đều do Pháp vẽ. Nói rằng Pháp quên không biết đập ngăn nước khổng lồ họ xây ngày trước bây giờ nằm vào chỗ nào và phải nhờ “Việt gian” chỉ điểm mới nhớ ra thì cực kỳ khôi hài. Nhưng đối với cộng sản thì phi lý không phải là một trở ngại cho tuyên truyền. Họ kinh nghiệm rằng đối với nông dân chỉ việc nhắc đi nhắc lại một lý luận thô sơ dễ hiểu thì dù phi lý đến đâu cuối cùng nông dân cũng nhập tâm cho là thực. Đặc biệt là nói về thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thì kể hươu kể vượn thế nào cũng được, vì nhiều nông dân suốt đời không hề thấy một người Pháp hoặc một người Mỹ. Một trung đội trưởng Việt Minh sau khi thắng trận Điện Biên Phủ về Hà Nội hỏi dân thủ đô có phải người Mỹ da đỏ hồng hào không. Ý hẳn anh ta chỉ nghe nói bên Mỹ có một chủng tộc thường gọi là Peaux Rouges. Đối với trình độ kiến thức như vậy thì dĩ nhiên càng lý luận giản dị bao nhiêu, dân chúng càng ưa nghe bấy nhiêu.
Mỗi tỉnh đều đệ lên trung ương một danh sách những kẻ “phản động” và sửa soạn xử án công khai. Trong mỗi danh sách đều có những “thành phần điển hình”: một địa chủ giầu nhất, một vị hoà thượng, một vị linh mục, một vị khoa cử và một cựu quan lại.
Trong khi chờ phiên toà xử thì các can phạm phải điệu đi từ trại giam này đến trại giam khác, qua hết ngày này sang ngày khác, như kiểu một gánh “xiếc” mang thú dữ đi quảng cáo trước khi biểu diễn buổi đầu. Chân họ bị xiềng và tay họ bị trói bằng một chiếc thừng dài, buộc cánh tay người đầu đoàn cho tới cánh tay người cuối cùng. Họ khạng nạng đi giữa ban ngày, dưới mặt trời tháng Năm, tay bị xích nhưng cũng cố nâng xiềng khỏi mặt đất cho dễ đi. Tiếng xiềng chạm nhau kêu “leng keng” rất xa và rất rùng rợn vì là một thứ tiếng mà thiên hạ chưa từng nghe bao giờ.
Phiên toà đã xếp đặt gần xong và các vị thẩm phán đã được cấp trên chỉ định thì bỗng nhiên có lệnh đình lại. Sau đó có tin đồn là các “cố vấn Trung Quốc” xét thấy danh sách phản động chưa được đầy đủ. Họ nói danh sách còn thiếu một loại đại phản động mà bên Trung Quốc gọi là “tư sản mại bản”.
Theo lý thuyết của ông Mao Trạch Đông, một lý thuyết mà các đồ đệ của ông coi là một cống hiến vĩ đại, giai cấp tư sản ở các nước kém mở mang chia làm hai loại: tư sản dân tộc, tức là những người sản xuất, và tư sản mại bản tức là những người xuất nhập cảng. Hai loại tư sản này có hai thái độ chính trị khác nhau, vì cách thức kinh doanh của họ khác nhau.
Tư sản dân tộc hay công nghệ bản xứ chế tạo hàng nội nên phải cạnh tranh gắt gao với tư sản ngoại quốc. Vì vậy, nên họ có tinh thần yêu nước một phần nào, và sẵn sàng hợp tác với cộng sản để tranh đấu giành độc lập. Cộng sản để yên cho họ sống từ thời kỳ Cải cách ruộng đất cho đến thời kỳ Hợp tác hoá nông nghiệp. Trong khi ấy họ vẫn làm chủ nhà máy của họ, dưới sự kiểm soát nửa kín nửa hở của công đoàn. Ở Trung Hoa và ở Bắc Việt chế độ này được duy trì trong hai năm.
Thành phần tư sản mại bản thì ngược lại sống nhờ vào tư sản ngoại quốc nên không có mảy may tinh thần yêu nước. Quyền lợi của họ bị ràng buộc vào quyền lợi của tư sản ngoại quốc nên họ chỉ là tay sai của đế quốc. Vì vậy nên họ bị xếp là “Kẻ thù số hai của nhân dân” (địa chủ là kẻ thù số một).
Nhưng muốn quy một người này là tư sản mại bản, theo đúng nghĩa của ông Mao Trạch Đông thì phải tìm thấy ở người ấy hai điểm. Một là tư sản và hai là mại bản, tức là buôn bán xuất nhập cảng. Vì vậy, nên khi Trung ương bắt các Uỷ ban tỉnh phải lập danh sách tư bản mại bản, Uỷ ban tỉnh phải kê khai một số người trong địa phương có thể tạm gọi là “tư sản” và có buôn bán hàng ngoại. Nhưng kiếm được những người đầy đủ hai điều kiện kể trên là một việc rất khó vì hồi ấy chẳng còn ai ở hậu phương có thể tạm gọi là tư sản mà xuất nhập cảng cũng hoàn toàn không có. Từ trước Việt Nam vốn dĩ đã chẳng có bao nhiêu tư sản, mà nếu có một vài người thì họ đều ở tại Hà Nội với Pháp. Thật đúng như lời ông Mao, hạng người này quả là tay sai của tư sản ngoại quốc và luôn luôn cấu kết với thực dân đế quốc. Một vài tư sản vào loại kém, lúc đầu có chạy ra hậu phương nhưng chỉ ít lâu sau họ cũng trở về thành. Chỉ có một số “phú thương” chịu khó ở lại hậu phương, thường khi vì lý do gia đình hơn là kháng chiến yêu nước, nhưng tất cả đều bị khánh kiệt từ mấy năm trước. Vì ở hậu phương thiếu hàng hoá, thiếu giao thông và khả năng tiêu thụ của nhân dân quá kém cỏi, nên họ chẳng kiếm chác được bao nhiêu. Lấy cớ là tránh nạn Pháp nhảy dù, cứ ba hoặc sáu tháng một họ lại phải di chuyển tiệm buôn từ nơi này sang nơi khác, phá nhà cũ làm nhà mới. Nạn lạm phát (một nghìn đồng năm 1945 trị giá bằng một đồng năm 1946) và cuối cùng là thuế công thương nghiệp đã khiến họ trở thành tay trắng, buôn đi bán lại lấy công làm lãi.
Tuy nhiên, việc tìm kiếm tư sản cũng không khó là vì danh từ “tư sản” cũng như danh từ “địa chủ” hết sức co giãn. Một người sống “trên mức bình thường” cũng có thể tạm xếp vào loại tư sản, vì chính quyền có thể chứng minh trước dân chúng là quả họ có một “tư sản nào đó”. Trái lại việc lùng kiếm những người mại bản thì thật quả là khó. Những cố vấn Trung quốc thực sự đã lầm to khi họ hạch sách bắt kiếm cho kỳ được tư sản mại bản. Có lẽ họ yên trí rằng ở Việt Nam loại người này cũng đông đảo như ở Trung Hoa Quốc dân Đảng. Sự thực thì ở Thượng Hải, dưới chế độ Tưởng, có rất nhiều tư sản mại bản, nhưng ở Việt Nam thì thuở ấy hoàn toàn không có, vì trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, mọi việc xuất nhập cảng đều thuộc độc quyền một vài công ty tư bản Pháp.
Nói rằng dưới chế độ thuộc địa có tư sản mại bản Việt Nam đã là hài hước, mà cho rằng trong vùng kháng chiến có tư sản mại bản lại là vô lý hết chỗ nói. Tuy nhiên, Bác Mao nói thì phải nghe và lệnh trên ban xuống thì phải thi hành, và muốn cho danh sách có đủ các thành phần như cấp trên đòi hỏi, các Uỷ ban tỉnh liền bắt mấy cán bộ mậu dịch của Đảng, lâu nay phụ trách buôn lậu xe đạp, thuốc tây, dầu lửa, và một vài thứ cần thiết cho kháng chiến từ vùng tề vào. Lý luận của cộng sản rất đơn sơ. Nếu không có xuất nhập khẩu thực sự, thì việc buôn lậu qua giới tuyến cũng có thể tạm coi là xuất nhập khẩu. Kết quả là mấy người trước kia được Đảng tín nhiệm giao cho công việc nguy hiểm là buôn bán với “tề” bỗng nhiên bị quy là “Việt gian” và đưa vào trại giam.
Sau khi danh sách được Trung ương chấp nhận, một toà án quân sự được lập trong mỗi khu và di chuyển từ tỉnh nọ sang tỉnh kia để xử án “Việt gian” ở mỗi tỉnh. Chánh án khu Tư là ông Hồ Đắc Điềm, trước kia là tổng đốc Hà Đông và giáo sư trường Luật Hà Nội. Thẩm phán và công tố viện đều là đảng viên Đảng Lao động. Không có trạng sư, chỉ có “biện hộ viên”. Họ không phải là luật gia xuất thân, mà chỉ là người thường, có thể là một người làm nghề đỡ đẻ và nhiệm vụ của họ là bênh vực quyền lợi của nhân dân, không phải là quyền lợi của bị can. Họ có xin toà khoan hồng cho một số “cò mồi” bị bắt để lấy cớ khai ra “đầu xỏ”. Nhưng họ yêu cầu toà thẳng tay trừng trị “Việt gian phản động”.
Toà xử công khai, nghĩa là có hai đoàn đại biểu đi dự. Một đoàn do mỗi xã cử một người và một đoàn do mỗi xí nghiệp cử một người. Tất nhiên những người được cử đi dự đều là đảng viên trung kiên. Những đại biểu đi dự được sửa soạn hai tuần lễ trước, học thuộc lòng những khẩu hiệu cần phải hô, và hô vào những lúc nào cho đúng lúc.
Việc sửa soạn thì rất rầm rộ, nhưng đến khi toà xử thì tương đối rất khoan hồng. Chiến lược cộng sản là tỏ thái độ công bình và khoan hồng trong những vụ án có ảnh hưởng lớn đối với nhân dân. Ở Thanh Hoá, chẳng hạn, chỉ có địa chủ số một là ông Nguyễn Hữu Ngọc và một vị hoà thượng là Tuệ Chiếu bị kết án tử hình, còn linh mục Mai Bá Nhạc cùng hai tư sản mại bản chỉ bị phạt 20 và 15 năm khổ sai. Cựu quan lại là ông Hà Văn Ngoạn và cựu khoa bảng là cụ Cử Lê Trọng Nhị không hầu toà vì đã chết từ mấy tháng trước trong trại giam. Trong gần một năm, không thấy những người bị án tử hình mang ra hành hình nên nhiều người yên trí là họ được ân giảm, nhưng đột nhiên đêm trước hôm trao đổi tù binh giữa Pháp và Việt Nam, hai người bị đưa ra bắn. Vụ hành hình này rất đơn giản, không có dân chúng xếp hàng vỗ tay và hô đả đảo như thường lệ. Sáng hôm sau, những “Việt gian” khác được trả lại tự do.
[1]Cốt cán
là những nông dân theo Đảng và làm việc cho Đảng, chưa được thu nhận vào Đảng.
[2]Chi đội – Chị nữ đội trưởng “Đội cải cách ruộng đất”
[3]Bồi dưỡng – Bồi dưỡng lý luận, giải thích chính sách, xui nghe theo đường lối của Đảng.
[4]Đi dân công tức là đi làm khuân vác, đào sông, đắp đường, không khác đi làm “cỏ vê” ngày trước.
[2]Chi đội – Chị nữ đội trưởng “Đội cải cách ruộng đất”
[3]Bồi dưỡng – Bồi dưỡng lý luận, giải thích chính sách, xui nghe theo đường lối của Đảng.
[4]Đi dân công tức là đi làm khuân vác, đào sông, đắp đường, không khác đi làm “cỏ vê” ngày trước.
Phần 4 - Cải tạo tư tưởng
“Thiên hạ thường tin những câu chuyện bịa đặt nhưng giản dị, hơn là những câu chuyện có thực, nhưng lại rắc rối, khó hiểu.”
(De Tocqueville)
Chương 9
Giới trí thức hợp tác với Việt Minh và tham gia kháng chiến không thể nào công nhận Pháp có gián điệp hoạt động trong khắp xóm làng, và chỉ có những kẻ ngớ ngẩn vào bậc nhất mới tin câu chuyện Pháp nhờ mấy ông sư vẽ bản đồ hướng dẫn phi công Pháp trong các vụ oanh tạc. Trong cuộc “Đấu chính trị” không ai là không thấy bàn tay Đảng giật dây và mọi người đều xác định là Đảng dùng cả phương tiện hợp pháp lẫn bất hợp pháp để loại trừ những người không cộng sản ra khỏi hàng ngũ kháng chiến. Vì tin có Trung cộng viện trợ để thắng Pháp nay mai, nên Việt cộng cho rằng cơ hội cộng sản hoá toàn cõi Việt Nam đã đến nơi, và muốn cộng sản hoá thì việc đầu tiên là tiêu diệt những phần tử sau này sẽ chống đối.
Có người cho rằng ông Hồ đã trở tay diệt trừ những người kháng chiến có xu hướng quốc gia vì ông không quên kinh nghiệm bản thân hồi hai mươi bốn năm về trước, Tưởng Giới Thạch trở tay diệt cộng. Hồi ấy Quốc dân Đảng và cộng sản Trung Hoa liên kết trong cuộc Bắc phạt đánh Trương Tác Lâm. Liên quân quốc-cộng chiếm được Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch bắt nhân dân phải nộp khí giới và đột nhiên bắn hết cộng sản.
Hồi đó, ông Hồ đang ở Quảng Châu, và nhờ sự che chở của phái bộ Nga nên ông về được Mousou cùng với phái đoàn, còn Mao Trạch Đông và đồng đảng phải mở một con đường máu vừa đánh vừa chạy trong hơn hai năm, cuối cùng là cuộc “Vạn lý trường chinh” (1934-1936) đưa Trung cộng lên Diên An, định cư ở đấy cho đến 1949.
Vì Tưởng trở tay bất ngờ nên cả ông Hồ lẫn ông Mao đều bị lao đao. Từ ngày ấy cả hai đều luôn luôn cảnh giác các đảng viên mới là nếu hợp tác với quốc gia thì chớ nên quên “cầm dao đằng cán” hoặc ít nhất cũng phải luôn luôn phòng bị. Nguyễn Sơn kể chuyện ông Mao rất ưa giảng Tam quốc chí, và ông thường đề cao Tào Tháo. Theo Tam quốc chí thì phương châm xử thế của Tào Tháo là: “Thà phụ người, chớ để người phụ ta”.
Giới trí thức hợp tác với Việt Minh không bao giờ ngờ rằng Đảng có thể trở mặt vì không hề nghe nói vụ Tưởng trở tay ở Thượng Hải và cũng không nghiên cứu triết lý phụ người và người phụ. Họ chỉ biết tích cực tham gia kháng chiến và nhẫn nhục chịu đựng sự lãnh đạo của cộng sản để tranh đấu cho độc lập của xứ sở. Họ tin rằng sự hy sinh của họ sẽ mang lại tự do và công bằng cho tổ quốc thân yêu. Nhưng họ bừng tỉnh giấc mơ khi họ thấy trong cuộc “Đấu chính trị” Đảng đã tàn sát không biết bao nhiêu người lâu nay vẫn ngoan ngoãn theo Đảng, rồi vờ vịt nói là tại “quần chúng tự động”. Câu hỏi được đặt ra là một đảng “bá đạo” như vậy thì làm sao có thể thực hiện được thế giới đại đồng. Họ thắc mắc và bỗng nhiên nhớ lại thuyết hoài nghi của Montaigne. “Cái gì bên này coi là chân lý thì bên kia coi là tà thuyết”, độc tài được gọi là dân chủ, độc lập nghĩa là phụ thuộc Nga-Tàu, và tự do đã trở thành “bệnh”. Chính sách cứ thay đổi xoành xoạch, nên giới trí thức chẳng biết đâu là cách mạng, đâu là phản động. Mớ kiến thức hấp thụ của Tây phương trở thành vô dụng. Triết học Đông, Tây, và ngay cả lý thuyết Mác-xít cũng chẳng ăn nhằm vì cụ Mác nói một đường mà các lý thuyết gia Trung cộng lại giảng một nẻo. Bị hoang mang, họ chẳng còn biết ai là kẻ thù chính: thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, địa chủ Việt Nam, tư sản mại bản, hay là chính bản thân họ, là trí thức tiểu tư sản.
Nhiều đảng viên cũng cảm thấy ai oán trong lòng. Họ nghiên cứu chủ nghĩa Mác và chấp nhận nguyên tắc vô sản chuyên chính vì họ quan niệm nông dân và công nhân cũng có thể “trị quốc” một cách công bình nhân đạo, vì dù ít học cũng là những người “phải chăng”. Nhưng giờ họ đã nhận thấy nông dân và công nhân ngay thẳng chẳng có mảy may quyền hành dưới cái chế độ mệnh danh là công nông chuyên chính. Trong các cuộc đấu tố chỉ có bọn lưu manh là có toàn quyền đánh đập. Sau này Đảng giải thích là thành phần không quan trọng, chỉ có lập trường mới đáng kể. Năm 1952 ông Trần Đức Thảo đỗ thạc sĩ triết học ở Paris về nước phục vụ kháng chiến, nhưng bốn năm sau, trong phong trào Trăm hoa đua nở (sẽ trình bày ở Chương 17), ông viết: “Tổ chức ở huyện và tỉnh phát triển theo một thứ chủ nghĩa nông dân lưu manh hoá”.
Xem những văn thơ đăng trong Giai phẩm và Nhân văn, xuất bản trong phong trào Trăm hoa đua nở, chúng ta thấy rõ trí thức trong hàng ngũ kháng chiến hết sức chán nản đối với đường lối chính sách của Đảng. Mặc dầu thiểu số, trí thức đã đóng góp rất nhiều cho kháng chiến và cho Đảng. Đảng vẫn còn cần đến họ, nhưng càng ngày họ càng bị khinh rẻ.
Đảng đã cử hàng nghìn thanh niên sang Nga, sang Tầu và sang Đông Âu để học tập, nhưng hồi ấy họ chưa thành tài nên Đảng vẫn còn cần những cán bộ và chuyên viên thuộc thành phần “phong kiến” và đã hấp thụ giáo dục “thực dân”. Ông Mao đã từng tuyên bố là trí thức không giác ngộ chủ nghĩa Mác-xít thì không ích lợi bằng một cục phân, vì phân còn có thể dùng để bón ruộng. Chỉ vì chưa đào tạo được lớp người mới nên bất đắc dĩ Đảng vẫn phải dùng người cũ trong ít lâu. Do đó Đảng thấy cần phải cải tạo lại tư tưởng cho họ. Công cuộc giáo dục trí thức được cộng sản mệnh danh là “công tác tư tưởng”, một thứ công tác mà cộng sản coi là quan trọng vào bực nhất. Nó là một thứ tâm lý chiến, không phải nhằm vào địch, mà nhằm đả phá ảnh hưởng tư tưởng địch ăn sâu trong đầu óc trí thức.
Theo sát công tác quân sự, kinh tế chính trị và xã hội và ngay cả trong thời kỳ xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, công tác tư tưởng được chia thành nhiều đợt, mỗi đợt chỉ nhằm tiêu diệt “một kẻ thù”. Y hệt ba anh em Horac trong tuồng của Corneille, giết ba địch thủ mỗi người một lúc, công tác tư tưởng cũng nhằm tiêu diệt mỗi lần một tư tưởng phi vô sản.
Trong giai đoạn đầu, 1946-54 (tức là trong thời gian kháng chiến) công tác tư tưởng nhằm đả phá “ảnh hưởng văn hoá Pháp”, duy tâm, hoài nghi, lãng mạn, cá nhân chủ nghĩa, nghệ thuật vị nghệ thuật, vân vân.
Trong giai đoạn thứ hai (trong Cải cách ruộng đất) công tác tư tưởng nhằm đả phá quan niệm phong kiến về tư hữu và trật tự xã hội, đạo lý nhà nho, thái độ khinh rẻ “dân ngu khu đen”, vân vân.
Trong giai đoạn thứ ba (sau vụ Trăm hoa đua nở): chống tư tưởng tư sản tự do kinh doanh, hâm mộ kỹ thuật Tây phương và chính thể đại nghị của Tây phương, luyến tiếc những “tự do tản mạn” (tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do đi lại) v.v.
Trong giai đoạn cuối, từ 1959 trở đi (sau khi sung công hết xí nghiệp tư nhân): chống tư tưởng “tiểu tư sản” mà trong bản báo cáo đọc trước Đại hội Đảng Lao động lần thứ ba, ông Trường Chinh đã định nghĩa đại khái như sau:
… “Lập trường bấp bênh, chủ quan, hay lạc quan và bi quan tếu, hẹp hòi, thiển cận, do dự, bảo thủ, thiếu tinh thần kỷ luật, không tôn trọng kỷ luật lao động, không tích cực đi vào con đường tập thể, không chịu sống cuộc đời mới, luyến tiếc lối sản xuất cá thể, không mạnh dạn cải tiến kỹ thuật và tổ chức, không dám tìm cái mới, sợ nghĩ và sợ hành động, không quyết tâm thu mua lương thực của nhân dân, thu thuế và thu nợ, không quyết tâm đàn áp phản động hiện hành”.
Trong khi đả phá những tư tưởng phản động thì đồng thời Đảng cũng tích cực giáo dục tư tưởng Mác-xít. Công tác giáo dục này cũng chia thành nhiều đợt để đảng viên và cán bộ quần chúng có thể leo dần lên lâu đài Mác-xít cao chót vót mà không bị chóng mặt. Việc chia công tác tư tưởng thành nhiều đợt có những nguyên do như sau:
1. Giảng lý thuyết Mác-xít
cho một người trong trắng là chuyện rất khó, và một bài học, một khoá học, có
khi một năm cũng không đủ. Không khác hình học Euclide, lý thuyết Mác-xít cũng
bắt nguồn từ một định đề rồi từ định đề ấy rút ra một số định lý và hệ luận, để
dẫn tới một kết quả cụ thể. Đối với lý thuyết Mác-xít thì định đề là: Mâu thuẫn
nội bộ, và kết luận cụ thể là: đời sống cộng sản là đời sống hợp lý nhất. Học
sinh nghiên cứu lý thuyết Mác phải chia thành nhiều lớp, trên, dưới và tiến
tuần tự từ dưới lên trên.
2. Chủ nghĩa Mác-xít giống
hoá học ở một điểm là cả hai đều là khoa học thực nghiệm, phát xuất từ những
nhận xét thực tế rồi giải thích bằng lối suy trắc thuyết. Nếu không ai có thể
chỉ đọc sách hoá học mà trở thành một hoá học gia thì cũng không ai có thể chỉ
đọc sách Mác-xít hoặc nghe giảng Mác-xít mà trở thành một đảng viên cộng sản
tốt, hoặc thậm chí thấm nhuần lý thuyết Mác-xít. Thực tế hành động là tối cần
vì chỉ có hoạt động thực tế thì chất Mác-xít mới thấm vào cơ thể của mỗi người.
Vì vậy nên sau mỗi khoá “công tác tư tưởng”, học sinh nghiên cứu chủ nghĩa Mác
cần phải trải qua một thời kỳ thực tập.
3. Cộng sản hình dung những
tư tưởng phản động như những vi trùng độc đột nhập vào cơ thể, và cả hai đều
gồm nhiều loại, mỗi loại gây thành một thứ “bệnh” đặc biệt. Những tư tưởng
phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, và hàng chục tư tưởng “phi vô sản” khác -
thường gọi là “bệnh” - đều có tác hại và cần phải chữa chạy. Muốn chữa cho khỏi
bệnh, bác sĩ phải kê nhiều “toa” liên tiếp. Liều thuốc “yêu nước” chẳng hạn có
thể dùng để chữa bệnh “văn hoá suy đồi của Pháp”, mà triệu chứng là hoài nghi,
lãng mạn, cá nhân chủ nghĩa, vân vân; còn liều thuốc “giác ngộ xã hội chủ
nghĩa” thì hiện nay đương dùng chữa bệnh “tiểu tư sản”.
4. Chủ nghĩa Mác-xít
Lê-nin-nít là một thứ thuốc dùng để chữa bệnh, nên in hệt các thứ thuốc khác nó
cũng cần phải “tiêm” rất từ từ. Nếu phát tiêm đầu tiên mạnh quá, hoặc cách ít
ngày quá, bệnh nhân có thể “phản ứng” một cách mãnh liệt. Muốn “nhồi” chủ nghĩa
Mác-xít thì đại khái cũng phải như vậy; mỗi ngày một ít, và sau mỗi lần “nhồi”
lại phải nghỉ một thời gian.
5. Nhưng lý do quan trọng
nhất khiến công tác tư tưởng bắt buộc phải chia ra thành nhiều đợt, đã được ông
Trường Chinh chính thức giải thích trong bản báo cáo ông đọc trước Hội nghị lần
thứ ba của Đảng Lao động như sau:
“Công tác chính trị quyết định công tác tư tưởng, và công tác tư tưởng phải phụ thuộc công tác chính trị. Hai công tác kể trên không thể tách rời nhau và nhất là đối lập với nhau”. (Văn học, số 113, tháng 9, 1960).
Ý ông Trường Chinh muốn nói là mỗi lần Đảng thay đổi chính sách là một lần Đảng phải mở một chiến dịch cải tạo tư tưởng.
“Công tác chính trị quyết định công tác tư tưởng, và công tác tư tưởng phải phụ thuộc công tác chính trị. Hai công tác kể trên không thể tách rời nhau và nhất là đối lập với nhau”. (Văn học, số 113, tháng 9, 1960).
Ý ông Trường Chinh muốn nói là mỗi lần Đảng thay đổi chính sách là một lần Đảng phải mở một chiến dịch cải tạo tư tưởng.
Tổ chức cải tạo tư tưởng cho toàn dân có thể ví với một
trường học khổng lồ mà cả nước là học trò. Chương trình huấn luyện gồm có nhiều
đợt mà học sinh cũng chia thành hai hạng. Đảng viên tương đối có nhiều kiến
thức chính trị hơn thì học lớp trên, còn cán bộ không đảng thì học lớp dưới.
Nhưng trên hay dưới cũng học một môn là chủ nghĩa Mác-xít. Vì đảng viên sở
trường về chính trị nhiều hơn nên mức huấn luyện có cao hơn. Trong mấy năm gần
đây Đảng có soạn hai chương trình huấn luyện riêng biệt, một cho đảng viên và
một cho cán bộ không đảng. Ông Trường Chinh trình bầy mục đích của hai chương
trình ấy như sau:
Chương trình cho cán bộ: Mục tiêu của cuộc đấu tranh giáo dục và tư tưởng là sự hiểu biết mỗi ngày một rộng về ý chí muốn thống nhất quốc gia và tinh thần nhân dân làm chủ cả nước. Phải huấn luyện học viên chống lại mỗi hiện tượng của tư tưởng tư sản và phê bình tư tưởng tiểu tư sản. Cần phải kiên trì gột bỏ mọi tàn tích tư tưởng phong kiến và những tư tưởng phi vô sản khác.
Chương trình đảng viên: Đối với đảng viên thì chương trình huấn luyện nhằm mục đích tăng cường tư tưởng vô sản bằng cách huấn luyện kỹ càng chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít. Phải khuyến khích các đảng viên đấu tranh chống ảnh hưởng tư sản và tư tưởng tiểu tư sản, và phải tiếp tục tẩy trừ mọi vết tích tư tưởng phong kiến và những tư tưởng phi vô sản khác (ibid).
Đọc kỹ hai chương trình, một dành riêng cho đảng viên, và một cho cán bộ không đảng, chúng ta có thể nhận thấy nhiều điểm đặc biệt. Tinh thần quốc gia (nguyện vọng thống nhất quốc gia) nằm trong chương trình công tác tư tưởng cán bộ không đảng, nhưng loại trừ ra khỏi chương trình dành cho đảng viên, vì đã là đảng viên cộng sản thì phải đặt sự lãnh đạo của Mosou hoặc của Bắc Kinh lên trên tinh thần quốc gia. Thái độ của mỗi loại đối với những tư tưởng “sai lầm” cũng phải khác nhau. Theo quan niệm cộng sản tư tưởng tiểu tư sản dù sai, nhưng không tác hại nhiều như tư tưởng tư sản, và “phê bình” là một hình thức nhẹ hơn “đấu tranh”. Những danh từ này đều có nghĩa tương đối.
Ý ông Trường Chinh muốn nói, thứ nhất, đảng viên cũng như cán bộ ngoài đảng phải đấu tranh diệt trừ tư tưởng tiểu tư sản và hai là, trong khi cán bộ ngoài đảng bị “phê bình” nếu có tư tưởng tiểu tư sản, các đảng viên phải “đấu tranh” chống tư tưởng tiểu tư sản. Một cán bộ ngoài đảng mà để lộ tư tưởng tiểu tư sản thì chỉ bị phê bình qua loa, mà nếu đảng viên cũng có tư tưởng ấy thì sẽ bị trừng phạt. Tóm lại, Đảng còn dung thứ cho tư tưởng tiểu tư sản hoành hành một phần nào trong đám cán bộ không đảng, nhưng tuyệt đối quét sạch tư tưởng ấy trong hàng ngũ đảng viên.
Chương trình cải tạo tư tưởng chia làm ba đợt. Đợt thứ nhất (cho tới 1960) Đảng làm ngơ tư tưởng tiểu tư sản trong hàng ngũ cán bộ ngoài đảng, và Đảng chỉ phê bình những đảng viên có tư tưởng ấy. Trong đợt thứ hai (mà ông Trường Chinh trình bày) cán bộ ngoài đảng có tư tưởng tiểu tư sản thì bị phê bình, đảng viên thì bị đấu tranh. Đối với tư tưởng tư sản thì cả hai loại đều bị đấu tranh. Đến đợt thứ ba (để tiến tới trình độ hoàn hảo) cả cán bộ ngoài đảng và đảng viên đều phải đấu tranh chống cả hai thứ tư tưởng tiểu tư sản và tư sản.
Nói chung thì đối với loại tư tưởng nào Đảng cũng có ba thái độ. Đầu tiên làm ngơ, sau là phê bình, và sau nữa là đấu tranh. Toàn dân, đảng viên, cán bộ và quần chúng lần lượt phải bước qua ba giai đoạn kể trên, nhưng kẻ bước trước, người theo sau.
Liều thuốc chích cho đảng viên dĩ nhiên nặng hơn liều chích cho cán bộ ngoài đảng, nhưng sang giai đoạn sau thì liều thuốc chích cho cán bộ ngoài đảng nặng thêm, và cho đảng viên lại nặng thêm nữa. Như vậy là đảng viên, trí thức ngoài đảng, nông dân, công nhân, mọi người cứ như leo thang, bước dần lên tình trạng chí thiện, mà ông Trường Chinh mô tả như sau:
“Mục đích của cuộc cách mạng hiện nay là toàn thể nhân dân và đặc biệt là nhân dân lao động phải quán triệt tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phải gột rửa những nhân sinh quan và thế giới quan cũ bằng quan điểm Mác-xít. Chủ nghĩa Lê-nin-nít sẽ hướng dẫn nếp sống đạo đức cho cả nước và là cái khung chứa đựng tư tưởng của toàn thể dân tộc. Nó sẽ là nền tảng xây dựng đạo đức cho nhân dân ta. (Ibid).
Đoạn văn kể trên chứng tỏ rằng chủ nghĩa Mác-xít là một tôn giáo theo đúng nghĩa của danh từ “tôn giáo”, một tôn giáo đang đấu tranh để thay thế hết thảy các tôn giáo khác và không chịu mảy may dung túng chủ nghĩa “vô thần” hoặc “đa thần” trong đám quần chúng dưới sự kiểm soát của họ.
Để đạt tới tình trạng chí thiện này (na ná như Đạo của Lão giáo, hoặc Niết bàn của Phật giáo) giáo hội Đông phương của Mác-xít giáo đã dùng hai biện pháp thẩm sát là “Kiểm thảo” và “Chỉnh huấn” mà chúng tôi sẽ trình bầy trong các chương sau.
Chương 10 - Kiểm thảo
Từ năm 1946 đến năm 1950, Việt cộng thường tổ chức những buổi “phê bình và tự phê bình” rất bí mật dành riêng cho đảng viên. Hồi ấy đảng tự ý giải tán và rút lui vào bí mật, bề ngoài vẫn có vẻ dân chủ. Vì chỉ giới hạn trong một số ít đảng viên, và trước khi “phê và tự phê” bao giờ cũng điều tra cặn kẽ, nên kết quả khả quan. Nhiều khi đảng viên bị “phê” thành thật nhận lỗi, không cần đến sự “bồi dưỡng” của tập thể.
Nhưng từ năm 1950 trở đi, sau khi liên lạc trực tiếp với Trung Quốc, Việt cộng thường tổ chức những buổi kiểm thảo cho cả đảng viên lẫn cán bộ ngoài đảng. Phương pháp này từ Hoa Nam chứ không phải từ Bắc Kinh tràn sang Việt Nam và “khốc liệt” hơn phương pháp “phê và tự phê” nhiều lần. Người bị “phê” khoanh tay đứng trước hội nghị trong khi mỗi người lần lượt đứng lên nêu khuyết điểm của anh ta. Mọi người đã biên sẵn những khuyết điểm nhận thấy nơi anh và giở sổ ra đọc. Sau đó hội nghị phân tách ra và suy luận để đạt tới kết luận là anh chàng bị “phê” quả có những tư tưởng phản động rồi dùng “áp lực tập thể” bắt anh ta phải thú nhận khuyết điểm đã nêu ra.
Kiểm thảo thường áp dụng một số chiến thuật rất đặc biệt mà nhân dân đặt tên như sau:
Chương trình cho cán bộ: Mục tiêu của cuộc đấu tranh giáo dục và tư tưởng là sự hiểu biết mỗi ngày một rộng về ý chí muốn thống nhất quốc gia và tinh thần nhân dân làm chủ cả nước. Phải huấn luyện học viên chống lại mỗi hiện tượng của tư tưởng tư sản và phê bình tư tưởng tiểu tư sản. Cần phải kiên trì gột bỏ mọi tàn tích tư tưởng phong kiến và những tư tưởng phi vô sản khác.
Chương trình đảng viên: Đối với đảng viên thì chương trình huấn luyện nhằm mục đích tăng cường tư tưởng vô sản bằng cách huấn luyện kỹ càng chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít. Phải khuyến khích các đảng viên đấu tranh chống ảnh hưởng tư sản và tư tưởng tiểu tư sản, và phải tiếp tục tẩy trừ mọi vết tích tư tưởng phong kiến và những tư tưởng phi vô sản khác (ibid).
Đọc kỹ hai chương trình, một dành riêng cho đảng viên, và một cho cán bộ không đảng, chúng ta có thể nhận thấy nhiều điểm đặc biệt. Tinh thần quốc gia (nguyện vọng thống nhất quốc gia) nằm trong chương trình công tác tư tưởng cán bộ không đảng, nhưng loại trừ ra khỏi chương trình dành cho đảng viên, vì đã là đảng viên cộng sản thì phải đặt sự lãnh đạo của Mosou hoặc của Bắc Kinh lên trên tinh thần quốc gia. Thái độ của mỗi loại đối với những tư tưởng “sai lầm” cũng phải khác nhau. Theo quan niệm cộng sản tư tưởng tiểu tư sản dù sai, nhưng không tác hại nhiều như tư tưởng tư sản, và “phê bình” là một hình thức nhẹ hơn “đấu tranh”. Những danh từ này đều có nghĩa tương đối.
Ý ông Trường Chinh muốn nói, thứ nhất, đảng viên cũng như cán bộ ngoài đảng phải đấu tranh diệt trừ tư tưởng tiểu tư sản và hai là, trong khi cán bộ ngoài đảng bị “phê bình” nếu có tư tưởng tiểu tư sản, các đảng viên phải “đấu tranh” chống tư tưởng tiểu tư sản. Một cán bộ ngoài đảng mà để lộ tư tưởng tiểu tư sản thì chỉ bị phê bình qua loa, mà nếu đảng viên cũng có tư tưởng ấy thì sẽ bị trừng phạt. Tóm lại, Đảng còn dung thứ cho tư tưởng tiểu tư sản hoành hành một phần nào trong đám cán bộ không đảng, nhưng tuyệt đối quét sạch tư tưởng ấy trong hàng ngũ đảng viên.
Chương trình cải tạo tư tưởng chia làm ba đợt. Đợt thứ nhất (cho tới 1960) Đảng làm ngơ tư tưởng tiểu tư sản trong hàng ngũ cán bộ ngoài đảng, và Đảng chỉ phê bình những đảng viên có tư tưởng ấy. Trong đợt thứ hai (mà ông Trường Chinh trình bày) cán bộ ngoài đảng có tư tưởng tiểu tư sản thì bị phê bình, đảng viên thì bị đấu tranh. Đối với tư tưởng tư sản thì cả hai loại đều bị đấu tranh. Đến đợt thứ ba (để tiến tới trình độ hoàn hảo) cả cán bộ ngoài đảng và đảng viên đều phải đấu tranh chống cả hai thứ tư tưởng tiểu tư sản và tư sản.
Nói chung thì đối với loại tư tưởng nào Đảng cũng có ba thái độ. Đầu tiên làm ngơ, sau là phê bình, và sau nữa là đấu tranh. Toàn dân, đảng viên, cán bộ và quần chúng lần lượt phải bước qua ba giai đoạn kể trên, nhưng kẻ bước trước, người theo sau.
Liều thuốc chích cho đảng viên dĩ nhiên nặng hơn liều chích cho cán bộ ngoài đảng, nhưng sang giai đoạn sau thì liều thuốc chích cho cán bộ ngoài đảng nặng thêm, và cho đảng viên lại nặng thêm nữa. Như vậy là đảng viên, trí thức ngoài đảng, nông dân, công nhân, mọi người cứ như leo thang, bước dần lên tình trạng chí thiện, mà ông Trường Chinh mô tả như sau:
“Mục đích của cuộc cách mạng hiện nay là toàn thể nhân dân và đặc biệt là nhân dân lao động phải quán triệt tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phải gột rửa những nhân sinh quan và thế giới quan cũ bằng quan điểm Mác-xít. Chủ nghĩa Lê-nin-nít sẽ hướng dẫn nếp sống đạo đức cho cả nước và là cái khung chứa đựng tư tưởng của toàn thể dân tộc. Nó sẽ là nền tảng xây dựng đạo đức cho nhân dân ta. (Ibid).
Đoạn văn kể trên chứng tỏ rằng chủ nghĩa Mác-xít là một tôn giáo theo đúng nghĩa của danh từ “tôn giáo”, một tôn giáo đang đấu tranh để thay thế hết thảy các tôn giáo khác và không chịu mảy may dung túng chủ nghĩa “vô thần” hoặc “đa thần” trong đám quần chúng dưới sự kiểm soát của họ.
Để đạt tới tình trạng chí thiện này (na ná như Đạo của Lão giáo, hoặc Niết bàn của Phật giáo) giáo hội Đông phương của Mác-xít giáo đã dùng hai biện pháp thẩm sát là “Kiểm thảo” và “Chỉnh huấn” mà chúng tôi sẽ trình bầy trong các chương sau.
Chương 10 - Kiểm thảo
Từ năm 1946 đến năm 1950, Việt cộng thường tổ chức những buổi “phê bình và tự phê bình” rất bí mật dành riêng cho đảng viên. Hồi ấy đảng tự ý giải tán và rút lui vào bí mật, bề ngoài vẫn có vẻ dân chủ. Vì chỉ giới hạn trong một số ít đảng viên, và trước khi “phê và tự phê” bao giờ cũng điều tra cặn kẽ, nên kết quả khả quan. Nhiều khi đảng viên bị “phê” thành thật nhận lỗi, không cần đến sự “bồi dưỡng” của tập thể.
Nhưng từ năm 1950 trở đi, sau khi liên lạc trực tiếp với Trung Quốc, Việt cộng thường tổ chức những buổi kiểm thảo cho cả đảng viên lẫn cán bộ ngoài đảng. Phương pháp này từ Hoa Nam chứ không phải từ Bắc Kinh tràn sang Việt Nam và “khốc liệt” hơn phương pháp “phê và tự phê” nhiều lần. Người bị “phê” khoanh tay đứng trước hội nghị trong khi mỗi người lần lượt đứng lên nêu khuyết điểm của anh ta. Mọi người đã biên sẵn những khuyết điểm nhận thấy nơi anh và giở sổ ra đọc. Sau đó hội nghị phân tách ra và suy luận để đạt tới kết luận là anh chàng bị “phê” quả có những tư tưởng phản động rồi dùng “áp lực tập thể” bắt anh ta phải thú nhận khuyết điểm đã nêu ra.
Kiểm thảo thường áp dụng một số chiến thuật rất đặc biệt mà nhân dân đặt tên như sau:
1. Chụp mũ: nghĩa là dùng áp
lực hoặc đe doạ bắt buộc người bị “phê” phải nhận những tội lỗi mà anh ta không
hề phạm, và anh ta không được phép tự bào chữa. Không khác gì một người không
muốn đội mũ mà người khác cứ cầm mũ chụp đại lên đầu.
2. Truy kích: nghĩa là chất vấn
người bị phê theo kiểu công an lấy cung một người bị can, càng chối càng hỏi
vặn, không để cho thoát. Danh từ truy kích gợi ý nghĩa đuổi bắt một tư tưởng
phản động như săn một thú dữ, hoặc đuổi bắt một tên sát nhân. Đôi khi cuộc kiểm
thảo kéo dài đến mấy ngày liền vì đương sự “ngoan cố” không chịu nhận
lỗi.
3. Suy luận xốt xí: nghĩa là căn cứ vào
một hiện tượng rất nhỏ mọn rồi cứ suy luận dần dần để kết thúc là người bị phê
quả là một tên phản động lợi hại. Sau đây là một số tỷ dụ của lối suy luận xốt
xí do một hiệu trưởng trường trung học kể lại.
Trong một buổi kiểm thảo do học sinh tổ chức, một giáo sư bị nêu “hiện tượng” là đã cho một học sinh một điểm quá cao. Bản kết án vị giáo sư phạm tội đại khái như sau:
Hiện tượng: Anh chấm bài của anh X và cho anh ấy một điểm quá cao.
Suy luận: (1) Anh tâng bốc anh X để cốt ý gây chia rẽ giữa anh X và các học sinh khác trong lớp; (2) học sinh đã chia rẽ thì chỉ có là cãi lộn, không chịu học hành; (3) vì không lo học nên trình độ kém; (4) trình độ học sinh kém thì phụ huynh học sinh không bằng lòng; (5) họ sẽ bảo giáo dục dưới chế độ cụ Hồ không bằng giáo dục thời Pháp thuộc; (6) và họ sẽ cho rằng chế độ thực dân tốt hơn chế độ dân chủ cộng hoà, (7) khi anh cho anh X một điểm quá cao, anh có dụng ý làm tay sai cho thực dân Pháp.
Kết luận: Anh là tay sai đắc lực của thực dân Pháp và của đế quốc Mỹ.
Những cuộc xỉ vả thầy giáo như vậy có thể nói là thường xuyên và không mấy thoát khỏi. Vì vậy nên hồi năm 1950-51 vô số giáo sư hậu phương chạy vào thành.
Trong một buổi kiểm thảo do học sinh tổ chức, một giáo sư bị nêu “hiện tượng” là đã cho một học sinh một điểm quá cao. Bản kết án vị giáo sư phạm tội đại khái như sau:
Hiện tượng: Anh chấm bài của anh X và cho anh ấy một điểm quá cao.
Suy luận: (1) Anh tâng bốc anh X để cốt ý gây chia rẽ giữa anh X và các học sinh khác trong lớp; (2) học sinh đã chia rẽ thì chỉ có là cãi lộn, không chịu học hành; (3) vì không lo học nên trình độ kém; (4) trình độ học sinh kém thì phụ huynh học sinh không bằng lòng; (5) họ sẽ bảo giáo dục dưới chế độ cụ Hồ không bằng giáo dục thời Pháp thuộc; (6) và họ sẽ cho rằng chế độ thực dân tốt hơn chế độ dân chủ cộng hoà, (7) khi anh cho anh X một điểm quá cao, anh có dụng ý làm tay sai cho thực dân Pháp.
Kết luận: Anh là tay sai đắc lực của thực dân Pháp và của đế quốc Mỹ.
Những cuộc xỉ vả thầy giáo như vậy có thể nói là thường xuyên và không mấy thoát khỏi. Vì vậy nên hồi năm 1950-51 vô số giáo sư hậu phương chạy vào thành.
4. Đao to búa lớn: nghĩa là dùng những
chữ rất thậm tệ và đôi khi rất tục tĩu để xỉ vả người bị phê, lấy cớ là để tiêu
từ những tư tưởng phản động nằm sâu trong đầu óc anh ta. Câu chuyện sau đây là
một điển hình.
Một cơ quan chính quyền mở cuộc kiểm thảo trong nhà một nông dân và hò hét om sòm. Bà chủ nhà thấy nhiều người to tiếng vội vã chạy vào, thấy một người lặng yên khoanh tay trong khi nhiều người khác đỏ mặt tía tai xỉ vả thậm tệ. Bà sợ họ có thể đánh nhau và không khéo xẩy ra án mạng nên bà ta ôn tồn can: “Xin các ông bớt giận làm lành, ai mà chả có điều không hay không phải. Cùng là đồng bào với nhau và cùng làm một sở cả, xin các ông chín bỏ làm mười cho nó vui vẻ cả!” Bà chủ nhà có ngờ đâu đấy chỉ là một cuộc kiểm thảo hàng tuần mà luân phiên mỗi người phải phê bình và để người khác phê bình mình.
Cuộc đời thân ái, đề huề với anh em cùng sở trong suốt một tuần rồi lại một lần mắng mỏ nhau thậm tệ mang lại cho nhiều người cảm tưởng sống một lúc hai cuộc đời đại khái giống nhân vật trong phim kinh dị “Bác sĩ Jerkins và ông Hyde”.
Một cơ quan chính quyền mở cuộc kiểm thảo trong nhà một nông dân và hò hét om sòm. Bà chủ nhà thấy nhiều người to tiếng vội vã chạy vào, thấy một người lặng yên khoanh tay trong khi nhiều người khác đỏ mặt tía tai xỉ vả thậm tệ. Bà sợ họ có thể đánh nhau và không khéo xẩy ra án mạng nên bà ta ôn tồn can: “Xin các ông bớt giận làm lành, ai mà chả có điều không hay không phải. Cùng là đồng bào với nhau và cùng làm một sở cả, xin các ông chín bỏ làm mười cho nó vui vẻ cả!” Bà chủ nhà có ngờ đâu đấy chỉ là một cuộc kiểm thảo hàng tuần mà luân phiên mỗi người phải phê bình và để người khác phê bình mình.
Cuộc đời thân ái, đề huề với anh em cùng sở trong suốt một tuần rồi lại một lần mắng mỏ nhau thậm tệ mang lại cho nhiều người cảm tưởng sống một lúc hai cuộc đời đại khái giống nhân vật trong phim kinh dị “Bác sĩ Jerkins và ông Hyde”.
5. Khóc đám ma: Ngay từ hồi đầu đã
có lệ người bị kiểm thảo rơm rớm nước mắt để tỏ cho hội nghị biết là nhờ sự phê
bình của tập thể mà mình đã giác ngộ tội lỗi và vô cùng ân hận. Nhưng đôi khi,
thường xảy ra trong đám học sinh, có người đã bộc lộ rồi nhưng cũng có mặt để
“viện trợ” anh em bằng cách khóc nức nở, phần đông họ là những thanh niên mới
“ngộ đạo” muốn truyền “đạo” cho kẻ khác để “cứu nhân độ thế”. Họ có cảm tưởng
là sứ mạng trên thế gian sẽ không thành, nếu họ không cải hoán được một người
theo chân lý Mác-xít. Vì vậy nên họ rán sức làm cho những người phạm khuyết
điểm phải đấm ngực xưng tội và phải chấp nhận lời dạy của Bác Mao và Bác Hồ. Có
lúc họ vừa khóc nức nở, vừa than thân trách phận là nhiệm vụ Đảng đã giao phó
mà làm không thành. Họ tiếc là Đảng đã tận tình giáo huấn mà nhiều người cứ như
“nước đổ đầu vịt”. Họ khóc một cách thiết tha vì hơi một chút là oà ra khóc vì
tinh thần họ lúc nào cũng quá căng thẳng. Có lẽ thiếu thốn về sinh lý và học
tập chính trị suốt ngày đêm đã khiến những thanh niên mới lớn lên dễ dàng xúc
động và cuồng tín đến tột bực. Sự thực đã có nhiều người điên thực. Ở trường
chính trị quân sự Việt Bắc, chỉ riêng một khoá 1952 đã có đến tám học viên hoá
điên. Ngay bà Phạm Văn Đồng, mới hơn 20 tuổi và bị kẹt ở khu Năm trong mấy năm,
hồi ông Đồng được triệu lên Việt Bắc làm thủ tướng, cũng đã bị điên thực
sự.
Lúc đầu thì hoạ hoằn mới có người khóc, nhưng về sau khóc trở thành thông lệ của mọi cuộc kiểm thảo. Có người nói là Đảng có phép mầu nhiệm làm người lớn trở thành con nít trở lại. Sau cùng “khóc tập đoàn” trở thành một phương tiện - một áp lực tập thể - để thúc đẩy người bị kiểm thảo mau mau bộc lộ. Có một lần nguyên cả một lớp học trường Nguyễn Thượng Hiền kéo đến đông đủ để “viện trợ” một học sinh viết bản kiểm thảo, và vừa vào đến ngõ họ đã bắt đầu khóc “hu hu” từ ngoài vào, khiến chủ nhà hoảng hốt tưởng có chú học sinh nào tản cư chết trong nhà mình. Khóc theo lối “viếng đám tang” như vậy thực ra chẳng có hiệu quả chút nào và trông thấy không thể nhịn cười được; nhưng không ai dám cười trước mặt những người khóc vì trông thấy dáng điệu uy nghi của họ, mọi người đều biết là họ đương “hành lễ” theo một tập tục mới của họ. Cười trước mặt họ, có thể coi là “báng đạo” của họ. Mà cũng vì không ai dám cười, nên thông lệ “khóc” kéo dài trong luôn mấy năm từ 1951 đến 1953.
Lúc đầu thì hoạ hoằn mới có người khóc, nhưng về sau khóc trở thành thông lệ của mọi cuộc kiểm thảo. Có người nói là Đảng có phép mầu nhiệm làm người lớn trở thành con nít trở lại. Sau cùng “khóc tập đoàn” trở thành một phương tiện - một áp lực tập thể - để thúc đẩy người bị kiểm thảo mau mau bộc lộ. Có một lần nguyên cả một lớp học trường Nguyễn Thượng Hiền kéo đến đông đủ để “viện trợ” một học sinh viết bản kiểm thảo, và vừa vào đến ngõ họ đã bắt đầu khóc “hu hu” từ ngoài vào, khiến chủ nhà hoảng hốt tưởng có chú học sinh nào tản cư chết trong nhà mình. Khóc theo lối “viếng đám tang” như vậy thực ra chẳng có hiệu quả chút nào và trông thấy không thể nhịn cười được; nhưng không ai dám cười trước mặt những người khóc vì trông thấy dáng điệu uy nghi của họ, mọi người đều biết là họ đương “hành lễ” theo một tập tục mới của họ. Cười trước mặt họ, có thể coi là “báng đạo” của họ. Mà cũng vì không ai dám cười, nên thông lệ “khóc” kéo dài trong luôn mấy năm từ 1951 đến 1953.
Có hai giả thuyết về vấn đề phát sinh ra phương pháp kiểm
thảo. Có người cho kiểm thảo là một hình thức sai lạc của Chỉnh huấn, hồi
ấy đã áp dụng ở Bắc Kinh nhưng chưa phổ biến xuống Hoa Nam. Theo phương pháp
của ông Mao thì mọi chính sách mới đều phải phổ biến từ từ, theo kiểu vết dầu
loang. Như vậy có hơi chậm chạp nhưng lúc nào Đảng cũng nắm vững tình hình và
phương pháp áp dụng có thể đồng đều cho cả nước. Vì vậy nên có người cho rằng
trong khi phương pháp kỳ diệu của ông Mao chưa xuống đến Hoa Nam thì đã có cán
bộ ở Hoa Nam chỉ nghe nói đại khái đã hăng hái muốn áp dụng ngay nên phát sinh
ra phong trào kiểm thảo. Lại có thuyết nói rằng kiểm thảo đích thực phát xuất ở
Hoa Nam và đã được thịnh hành ở Hồ Nam hồi ông Mao mới dấy nghiệp ở đấy. Rồi từ
Hoa Nam, phương pháp kiếm thảo tràn qua Bắc Việt, với hình thức còn đang thô sơ
và ấu trĩ, trong khi ở Bắc Kinh, Trung cộng đã phát triển một hình thức mới,
tinh vi gấp bội và đã được tu sửa trong gần hai mươi năm ở Diên An.
Kể ra thì chẳng biết giả thuyết nào đúng, nhưng có thể là trong khi nóng lòng chờ đợi phương pháp tinh vi ở Bắc Kinh, một số cựu cán bộ ở Hoa Nam đã tạm thời áp dụng phương pháp cổ điển mà họ đã kinh nghiệm từ ba mươi năm về trước. Kiểm thảo và chỉnh huấn thực ra chỉ khác nhau về phương diện kỹ thuật và sự khác biệt giữa hai phương pháp mới và cũ, chứng tỏ Trung cộng đã tiến bộ rất nhiều về tâm lý nhân dân trong vòng ba mươi năm. Họ tiến bộ nhanh một phần cũng tại họ được thừa hưởng một nền văn hoá sáng láng của tổ tông đã để lại.
Nhưng mặc dầu không biết giả thuyết nào đúng và mặc dầu có nhiều khuyết điểm, mọi người đều phải công nhận phong trào kiểm thảo đã thay đổi rất nhiều tính cách của người Việt, trước kia niềm nở, cởi mở bao nhiêu thì bây giờ kín đáo, dè dặt bấy nhiêu. Gặp nhau ở quán cơm hay ở nhà ăn công cộng, mọi người cứ cúi mặt xuống, và nếu gặp nhau ngoài đường, chỉ liếc mắt mỉm cười. Có quan điểm cho rằng người Việt bây giờ “phớt hơn cả người Anh” và “kín đáo hơn người Nhật”. Sự thực thì không khác người Anh và người Nhật, người Việt đã trở thành dân “đảo quốc”, nhưng với ý nghĩa là mỗi người tự coi mình như một đòn đảo, sống riêng trong “hòn đảo” của mình, không liên hệ với những “hòn đảo” chung quanh, tức là bạn bè, hàng xóm láng giềng. Người nào cũng chỉ sống với nội tâm và chỉ giao thiệp với người khác trong trường hợp bất đắc dĩ. Mỗi người, ngay cả cán bộ cao cấp, đều phải kín đáo sắp xếp thân thuộc, bạn hữu, đồng nghiệp thành hai loại: loại có thể tâm sự được vì dò dẫm trong một thời gian thấy họ không mang những ý kiến không chính thống của mình hót với người khác, và một loại cần phải coi chừng. Trong trường hợp bắt buộc phải phát biểu ý kiến trước công chúng thì phương pháp an toàn nhất là cứ nói y hệt như Đảng mới nói trong những số báo mới nhất. Chính vì vậy mà mặc dầu ai nấy đều túng thiếu, báo chí của Đảng vẫn bán chạy như tôm tươi và cũng vì vậy mà ai nấy bận bịu suốt ngày, tối đến vẫn phải chịu khó đi họp, không dám sót một buổi. Hồi ấy mọi người cho rằng “bỏ một buổi họp là đủ lạc hậu”, nghĩa là có thể ăn nói sai với chính sách mới nhất của Đảng.
Phải thành thực công nhận là ăn cơm nắm, muối vừng, không khổ, mà chỉ khổ nhất là phải phân chia bà con, bạn bè thành hai loại riêng biệt, phải nghiên cứu báo chí của Đảng viết theo lối “chách chách vào rừng” (lời ông Hồ phê bình văn chương cộng sản) và phải năng đi họp nghe thảo luận chính trị rức đầu rức óc, mà vẫn không hiểu cán bộ nói lảm nhảm những gì.
Chương 11 - Chỉnh huấn
Người đầu tiên muốn mang phương pháp chỉnh huấn của Trung cộng áp dụng tại Việt Nam là thiếu tướng Nguyễn Sơn, hồi 1948, làm khu trưởng khu 5 (từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên). Trong khoảng hai mươi năm về trước, Nguyễn Sơn là cán bộ quân sự cao cấp của Hồng quân Trung Hoa. Ông là người tính khí rất đặc biệt và đã sống một cuộc đời vô cùng gian lao. Nhờ vậy mà ông đã được Trung cộng suy tôn là “anh hùng dân tộc” của Trung quốc và suýt nữa ông đã trở thành Tito của Việt Nam. Nhắc đến nhân vật kỳ lạ này, chúng tôi tưởng nên nói qua về đời sống rất “Từ Hải” của ông ta.
Nguyễn Sơn, tên thật là Vũ Văn Bác, sinh tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nhưng ở bên Tầu ông lấy tên là Hồng Thuỷ. Con một nhà nho có tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ông được vào học trường Sư phạm Hà Nội và đang học dở, năm 1925, ông tham gia phong trào bãi khoá năm 1925. Bị mật thám tầm nã, ông trốn sang Tàu và được thu nhận vào Trường Chính trị Quân sự Trung ương tại Hoàng Phố. Vừa tốt nghiệp xong thì xảy ra vụ Quảng Châu công xã. Ông là người Việt Nam duy nhất tham gia phong trào này và từ ngày ấy trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Trung Hoa. Ông được nổi tiếng về tài lãnh đạo quân sự trong cuộc Vạn lý trường chinh (1934 - 36) và sau đó, ông được bổ nhiệm là tùy tướng cho Bành Đức Hoài, chỉ huy trưởng Đệ Bát Lộ Quân của Trung cộng. Nguyễn Sơn là một trong bảy tướng còn sống sót của Quảng Châu công xã và một trong mười tám tướng còn lại của Vạn lý trường chinh. Vì vậy nên năm 1949, sau khi Trung cộng toàn thắng, ông được tuyên dương là “anh hùng dân tộc” của Trung Quốc.
Cuối năm 1945, Nguyễn Sơn còn đang ở Diên An thì một hôm, ông gặp một ký giả người Canada tới đấy, sau khi nhé qua Hà Nội. Người này báo tin là Việt Nam đã tuyên bố độc lập, nhưng vì Pháp đang tấn công, âm mưu chiếm lại, nên toàn quốc đương có phong trào kháng chiến chống Pháp. Nhà báo Canada cũng thuật chuyện có gặp vị chủ tịch của Chính phủ lâm thời, một ông già biết nói tiếng Anh tên là Hồ Chí Minh. Đoán chắc Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Sơn bèn xin các lãnh tụ Trung cộng cho phép hồi hương giúp đất nước mình chống Pháp. Ông Mao Trạch Đông khuyên Nguyễn Sơn nên gắn liền với sự thành bại của cách mệnh Trung Hoa. Nhưng vì Sơn cứ nằng nặc đòi về nên cuối cùng các lãnh tụ Trung cộng cũng chấp thuận cho về. Họ làm giấy tờ chứng nhận Nguyễn Sơn và cả Nguyễn Khánh Toàn là nhân viên phái đoàn Trung cộng từ Diên An xuống Trùng Khánh để điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, rồi nhân dịp trốn xuống Hoa Nam, về Việt Nam.
Vì quyết tâm bỏ hàng ngũ Trung cộng để về nước kháng chiến giành độc lập, nên ngay từ khi ra về Nguyễn Sơn đã bị Trung cộng phê bình là nặng về tinh thần quốc gia, nhẹ về tinh thần quốc tế. Có lẽ ông Hồ Chí Minh cũng phê bình Nguyễn Sơn như vậy nên đầu năm 1946, khi Nguyễn Sơn về tới Hà Nội, ông Hồ không thể tiếp và các lãnh tụ Việt cộng khác cũng tỏ vẻ lạnh nhạt. Nhưng vì Pháp tấn công mỗi ngày một mạnh ở miền Nam và một mặt khác, vì cộng sản ở tỉnh Quảng Ngãi bất chấp lệnh trên cứ giết tróc bừa bãi, nên ông Hồ phái Sơn vào khu Năm (miền Nam Trung Việt) với nhiệm vụ đình chỉ cuộc chém giết lung tung và điều khiển công cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau đó ít lâu, Sơn được đổi ra khu Bốn (miền Bắc Trung Việt) làm “khu phó” phụ trách huấn luyện quân đội. Chẳng bao lâu, khu trưởng là Thiết Hùng bị mất chức vì liên can vào một vụ buôn thuốc phiện lậu nên Nguyễn Sơn được cử thay thế. Vì có hai mươi năm kinh nghiệm hành quân, nên Nguyễn Sơn được quân đội khu Bốn hết sức mến phục. Đồng thời vì có tâm hồn nghệ sĩ và tận tâm giúp đỡ văn nghệ sĩ, nên Nguyễn Sơn cũng được giới văn nghệ hết sức hâm mộ. Nói chung vì có thành tâm yêu nước và có thực tài, rộng rãi và thân mến mọi người, nên Nguyễn Sơn được mọi người quý trọng. Năm 1948, ông Hồ phong Võ Nguyên Giáp làm đại tướng và Nguyễn Sơn là thiếu tướng, khiến Sơn khó chịu, vì Sơn vẫn chê Giáp “i tờ” về quân sự. Sự thực thì Giáp chỉ là một sinh viên trường Luật, được huấn luyện qua loa về chiến tranh du kích trong một khoá do quân đội Mỹ mở ở Tĩnh Tây, hồi Thế chiến thứ hai. Giáp được địa vị cao chỉ vì Giáp được ông Hồ tin yêu, không phải vì Giáp có thực tài về quân sự.
Tuy nhiên mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh tụ Việt cộng không phải là vấn đề kèn cựa địa vị, mà là vấn đề bất đồng ý kiến đối với chính sách yêu cầu Trung cộng viện trợ. Nguyễn Sơn hết sức phản đối việc yêu cầu Trung cộng viện trợ vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung cộng thì sẽ mất hết chủ quyền. Sơn viện lẽ rằng hồi chiến tranh chống Nhật, ông Mao không thèm yêu cầu Nga viện trợ và để mặc Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo Sơn thì nên tự lực kháng chiến chống Pháp, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao hơn nhưng không bị phụ thuộc vào bất cứ một ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình nhắm phía bắc, đi thẳng sang Trung Quốc. Vì được tôn là “anh hùng dân tộc” của Trung Quốc nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, đi qua tỉnh nào, Sơn cũng được đón tiếp trọng thể. Nhưng ông Hồ đã đánh điện sang Bắc Kinh, báo cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và đồng thời Võ Nguyên Giáp cũng bắt toàn thể quân đội Việt Minh phải học tập một tài liệu đặc biệt, trong đó tả Sơn là một cán bộ “điển hình xấu”. Vì bị ông Hồ báo cáo lên tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay tức khắc. Sau khi chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học đại học quân sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dày và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội thì Sơn chết, và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người đã từng quen biết Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản. Nếu không chết sớm, Nguyễn Sơn có thể là một Tito Việt Nam.
Hồi còn làm khu trưởng khu Bốn, Sơn có viết và xuất bản mấy cuốn sách nhỏ, nói về chỉnh quân, chỉnh phong và chỉnh đảng. Chỉnh nghĩa là chỉnh đốn tư tưởng và tác phong. Chỉnh quân dành riêng cho quân đội; Chỉnh đảng dành riêng cho đảng viên và chỉnh phong dành cho cán bộ ngoài đảng. Nhưng vì hồi ấy Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp ghét Nguyễn Sơn nên đã không chịu nghe theo. Họ chỉ bắt chước những nét đại cương để lập nên phong trào Rèn cán chỉnh cơ (Rèn luyện cán bộ và Chỉnh đốn cơ quan). Mãi sau này, sau khi Nguyễn Sơn đã sang Tầu, và cố vấn Tầu sang Bắc Việt bày vẽ, Việt cộng mới chịu áp dụng phương pháp “cải tạo tư tưởng” theo kiểu Trung cộng nhưng bao gồm cả chỉnh phong và chỉnh đảng dưới hình thức mới, gọi là Chỉnh huấn, nghĩa là cán bộ và đảng viên đều học chung một khoá, mặc dầu có những bài chỉ giảng riêng cho đảng viên.
Người ngoài cuộc thường hay nói đến danh từ “tẩy não” và thường không biết có nhiều loại “tẩy não” khác nhau, nặng nhẹ tuỳ theo thành phần của đương sự. Hình thức nặng nhất là “quản huấn” dành riêng cho “địa chủ ngoan cố”, hình thức vừa vừa, gọi là “cải tạo” dành cho tù binh ngoại quốc. Các hình thức này đều nặng về khủng bố tinh thần, và nhẹ về thuyết phục. Chỉnh huấn thì trái lại, nặng về thuyết phục và tương đối nhẹ về khủng bố, vì mục đích chính của chỉnh huấn là “thêm bạn bớt thù”. Với phương pháp chỉnh huấn, cộng sản mưu đồ cải tạo tư tưởng và tác phong của cán bộ với dụng tâm lôi kéo những phần tử còn hi vọng lôi kéo được.
Chỉnh huấn bắt đầu trở thành “quốc sách” năm 1949, sau khu Trung cộng thành lập chế độ Dân chủ Nhân dân. Theo thường lệ, từ ngày ấy trở đi, mỗi lần cộng sản thay đổi đường lối là một lần tất cả cán bộ chính quyền và đảng viên, từ bộ trưởng xuống để thư ký hạng bét, phải đi chỉnh huấn để học tập chính sách mới của Đảng.
Như Trường Chinh đã nói rõ: “Mỗi công tác tư tưởng đều nhằm một mục tiêu chính trị”. Như vậy nghĩa là chỉnh huấn nhằm sửa soạn tinh thần cán bộ trước khi thực hiện một chính sách mới, để đến khi thực hiện, cán bộ không phản ứng và mọi việc được êm đềm. Nói chung thì chiến lược chỉnh huấn không khác một cuộc hoà nhạc, nhạc trưởng là Đảng còn các nhạc công là đảng viên và cán bộ. Y hệt các nhạc công phải theo sát điệu bộ của nhạc trưởng, các cán bộ công tác cũng phải theo sát đường lối của Đảng để hoạt động cho đúng nhịp. Những cán bộ khác không có trách nhiệm trực tiếp, cũng phải có thái độ lịch sự của thính giả, nghĩa là yên lặng ngồi nghe, không được la ó, chỉ trích.
Thực hiện một đường lối mới là một việc phức tạp, khó khăn, nhất là ở các nước chậm tiến, vì trình độ văn hoá và giác ngộ chính trị không đồng đều, nên thường có những phản ứng khác nhau, tuỳ theo trường hợp, hoàn cảnh và địa phương. Vì vậy nên cộng sản bao giờ cũng nhắc nhở cán bộ nên hết sức linh động. Linh động nghĩa là không được áp dụng chính sách một cách máy móc cứng rắn, mà trái lại phải biết dò trước đón sau, tuỳ cơ ứng biến. Vì cần phải linh động, nên Đảng không thể gò ép, áp dụng một thứ kỷ luật quân sự đối với cán bộ phụ trách. Trái lại, Đảng áp dụng một chính sách tự nguyện tự giác, coi nhiệm vụ Đảng giao phó như một nhiệm vụ thiêng liêng. Muốn gây cho cán bộ một tinh thần như vậy, Đảng phải giảng giải cho cán bộ thấy rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác họ phụ trách. Cán bộ phải tuyệt đối tin tưởng ở sự đúng đắn của chính sách và ở tài năng của giới lãnh đạo. Đảng tổ chức chỉnh huấn cốt để thuyết phục cán bộ và đảng viên, làm cho họ đinh ninh rằng chính sách của Đảng hoàn toàn đúng và bao giờ cũng đúng. Đôi khi Đảng cũng phải thú nhận một vài sai lầm, nhưng mặc dù sai lầm Đảng cũng cố gắng chứng minh rằng chủ nghĩa Mác Lê vẫn đúng và bao giờ cũng đúng. Chỉnh huấn còn nhằm mục đích giải thích cho cán bộ thấy rõ thay đổi đường lối là sự rất cần thiết. Đảng lý luận rằng nếu không thay đổi, cách mạng sẽ thất bại, và thực dân đế quốc sẽ trở lại.
Nhưng có nhiều cán bộ, tuy vẫn thiết tha muốn học, nhưng không thể chấp nhận lối giải thích của Đảng, vì trước đây không bao lâu, cũng một sự việc ấy, mà Đảng đã giải thích một cách hoàn toàn khác và đề ra một chính sách khác hẳn. Tỷ dụ, hồi cách mạng mới bùng nổ, Đảng hứa rằng chính quyền sẽ do bốn giai cấp lãnh đạo: là công, nông, tiểu tư sản và địa chủ yêu nước; và sau cùng Đảng lại nói chỉ có công, nông mới đủ tư cách nắm chính quyền, còn các thành phần khác đều là phản động hoặc không đủ khả năng.
Vì Đảng cứ đưa ra rồi lại dìm đi những lời tuyên bố về đường lối chính sách, và thỉnh thoảng lại thay đổi nội dung những danh từ thường dùng, nên nhiều cán bộ đâm ra thắc mắc, nghi ngờ sự thành thực của đảng. Vì vậy nên mỗi lần đảng giải thích một chính sách mới, cán bộ vẫn ngờ rằng đấy chưa phải là lời giải thích cuối cùng. Khi có một cán bộ đi dự chỉnh huấn mà tỏ vẻ thắc mắc về chính sách của Đảng thì Đảng thấy cần phải “đả thông tư tưởng” cho họ. Đấy là nhiệm vụ thứ hai của chỉnh huấn.
Y hệt một người thợ thông ống nước, việc đầu tiên của Đảng là phải tìm xem cán bộ “tắc” ở chỗ nào. Muốn biết chỗ “tắc” đảng khuyến khích cán bộ thành thật nói lên những thắc mắc, thành thật phê bình chính sách của Đảng. Học viên các lớp chỉnh huấn được phép nói “toạc” tất cả những khổ tâm từ lâu nay vẫn ủ ấp trong lòng. Đảng trịnh trọng tuyên bố sẽ hoàn toàn tha thứ và nhất thiết không mượn cớ để trừng trị. Sau khi mọi người phơi bày hết thảy mọi thắc mắc, ban giáo uỷ mới lần lượt trả lời từng điểm mà học viên đã nêu ra, không khác thủ tướng một nước tự do ra trước nghị viện trả lời những câu chỉ trích của phe đối lập. Không khí trong lớp chỉnh huấn khác hẳn không khí hàng ngày ở ngoài đời, vì chỉ có trong lớp chỉnh huấn mỗi người mới được tự do phê bình chính sách và hành động của Đảng và chính phủ. Đảng cho phép cán bộ và đảng viên nói lên những thắc mắc của họ để Đảng biết chỗ mà “đả thông”, hòng cứu vớt những linh hồn còn có thể cứu vớt được. Sự thực thì có nhiều “linh hồn” mà Đảng đã coi là hoàn toàn không thể cứu vớt được, nên Đảng không gọi đi chỉnh huấn. Đấy là những người mà Đảng đã quy là “kẻ thù” mặc dầu trước đó mấy năm, Đảng còn coi là “bạn”. Vì vậy, nên người nào nhận được giấy gọi đi chỉnh huấn cũng đều vui mừng, vì họ cảm thấy họ còn được coi là “bạn”. Họ hiểu rằng, nếu họ “chỉnh huấn thành công” thì họ sẽ được tiếp tục coi là bạn trong một thời gian nữa, ít nhất cũng tới kỳ chỉnh huấn sau.
Để độc giả có ý niệm rõ ràng hơn về chính sách chỉnh huấn, chúng tôi xin lược thuật cuộc chỉnh huấn năm 1953. Mục đích cuộc chỉnh huấn này là sửa soạn tinh thần cán bộ để đón tiếp chiến dịch Cải cách ruộng đất năm 1954 - 56.
Tổ chức một khoá chỉnh huấn
I. Phân chia học viên
Những người được tham gia chỉnh huấn đều là “bạn”: đảng viên, cán bộ và một số “nhân sĩ tiến bộ”. Tất cả đều học một chương trình, nhưng tuỳ theo cấp bực công vụ và tuỳ theo trình độ hiểu biết chính trị, họ được chia thành nhiều loại.
Kể ra thì chẳng biết giả thuyết nào đúng, nhưng có thể là trong khi nóng lòng chờ đợi phương pháp tinh vi ở Bắc Kinh, một số cựu cán bộ ở Hoa Nam đã tạm thời áp dụng phương pháp cổ điển mà họ đã kinh nghiệm từ ba mươi năm về trước. Kiểm thảo và chỉnh huấn thực ra chỉ khác nhau về phương diện kỹ thuật và sự khác biệt giữa hai phương pháp mới và cũ, chứng tỏ Trung cộng đã tiến bộ rất nhiều về tâm lý nhân dân trong vòng ba mươi năm. Họ tiến bộ nhanh một phần cũng tại họ được thừa hưởng một nền văn hoá sáng láng của tổ tông đã để lại.
Nhưng mặc dầu không biết giả thuyết nào đúng và mặc dầu có nhiều khuyết điểm, mọi người đều phải công nhận phong trào kiểm thảo đã thay đổi rất nhiều tính cách của người Việt, trước kia niềm nở, cởi mở bao nhiêu thì bây giờ kín đáo, dè dặt bấy nhiêu. Gặp nhau ở quán cơm hay ở nhà ăn công cộng, mọi người cứ cúi mặt xuống, và nếu gặp nhau ngoài đường, chỉ liếc mắt mỉm cười. Có quan điểm cho rằng người Việt bây giờ “phớt hơn cả người Anh” và “kín đáo hơn người Nhật”. Sự thực thì không khác người Anh và người Nhật, người Việt đã trở thành dân “đảo quốc”, nhưng với ý nghĩa là mỗi người tự coi mình như một đòn đảo, sống riêng trong “hòn đảo” của mình, không liên hệ với những “hòn đảo” chung quanh, tức là bạn bè, hàng xóm láng giềng. Người nào cũng chỉ sống với nội tâm và chỉ giao thiệp với người khác trong trường hợp bất đắc dĩ. Mỗi người, ngay cả cán bộ cao cấp, đều phải kín đáo sắp xếp thân thuộc, bạn hữu, đồng nghiệp thành hai loại: loại có thể tâm sự được vì dò dẫm trong một thời gian thấy họ không mang những ý kiến không chính thống của mình hót với người khác, và một loại cần phải coi chừng. Trong trường hợp bắt buộc phải phát biểu ý kiến trước công chúng thì phương pháp an toàn nhất là cứ nói y hệt như Đảng mới nói trong những số báo mới nhất. Chính vì vậy mà mặc dầu ai nấy đều túng thiếu, báo chí của Đảng vẫn bán chạy như tôm tươi và cũng vì vậy mà ai nấy bận bịu suốt ngày, tối đến vẫn phải chịu khó đi họp, không dám sót một buổi. Hồi ấy mọi người cho rằng “bỏ một buổi họp là đủ lạc hậu”, nghĩa là có thể ăn nói sai với chính sách mới nhất của Đảng.
Phải thành thực công nhận là ăn cơm nắm, muối vừng, không khổ, mà chỉ khổ nhất là phải phân chia bà con, bạn bè thành hai loại riêng biệt, phải nghiên cứu báo chí của Đảng viết theo lối “chách chách vào rừng” (lời ông Hồ phê bình văn chương cộng sản) và phải năng đi họp nghe thảo luận chính trị rức đầu rức óc, mà vẫn không hiểu cán bộ nói lảm nhảm những gì.
Chương 11 - Chỉnh huấn
Người đầu tiên muốn mang phương pháp chỉnh huấn của Trung cộng áp dụng tại Việt Nam là thiếu tướng Nguyễn Sơn, hồi 1948, làm khu trưởng khu 5 (từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên). Trong khoảng hai mươi năm về trước, Nguyễn Sơn là cán bộ quân sự cao cấp của Hồng quân Trung Hoa. Ông là người tính khí rất đặc biệt và đã sống một cuộc đời vô cùng gian lao. Nhờ vậy mà ông đã được Trung cộng suy tôn là “anh hùng dân tộc” của Trung quốc và suýt nữa ông đã trở thành Tito của Việt Nam. Nhắc đến nhân vật kỳ lạ này, chúng tôi tưởng nên nói qua về đời sống rất “Từ Hải” của ông ta.
Nguyễn Sơn, tên thật là Vũ Văn Bác, sinh tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nhưng ở bên Tầu ông lấy tên là Hồng Thuỷ. Con một nhà nho có tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ông được vào học trường Sư phạm Hà Nội và đang học dở, năm 1925, ông tham gia phong trào bãi khoá năm 1925. Bị mật thám tầm nã, ông trốn sang Tàu và được thu nhận vào Trường Chính trị Quân sự Trung ương tại Hoàng Phố. Vừa tốt nghiệp xong thì xảy ra vụ Quảng Châu công xã. Ông là người Việt Nam duy nhất tham gia phong trào này và từ ngày ấy trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Trung Hoa. Ông được nổi tiếng về tài lãnh đạo quân sự trong cuộc Vạn lý trường chinh (1934 - 36) và sau đó, ông được bổ nhiệm là tùy tướng cho Bành Đức Hoài, chỉ huy trưởng Đệ Bát Lộ Quân của Trung cộng. Nguyễn Sơn là một trong bảy tướng còn sống sót của Quảng Châu công xã và một trong mười tám tướng còn lại của Vạn lý trường chinh. Vì vậy nên năm 1949, sau khi Trung cộng toàn thắng, ông được tuyên dương là “anh hùng dân tộc” của Trung Quốc.
Cuối năm 1945, Nguyễn Sơn còn đang ở Diên An thì một hôm, ông gặp một ký giả người Canada tới đấy, sau khi nhé qua Hà Nội. Người này báo tin là Việt Nam đã tuyên bố độc lập, nhưng vì Pháp đang tấn công, âm mưu chiếm lại, nên toàn quốc đương có phong trào kháng chiến chống Pháp. Nhà báo Canada cũng thuật chuyện có gặp vị chủ tịch của Chính phủ lâm thời, một ông già biết nói tiếng Anh tên là Hồ Chí Minh. Đoán chắc Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Sơn bèn xin các lãnh tụ Trung cộng cho phép hồi hương giúp đất nước mình chống Pháp. Ông Mao Trạch Đông khuyên Nguyễn Sơn nên gắn liền với sự thành bại của cách mệnh Trung Hoa. Nhưng vì Sơn cứ nằng nặc đòi về nên cuối cùng các lãnh tụ Trung cộng cũng chấp thuận cho về. Họ làm giấy tờ chứng nhận Nguyễn Sơn và cả Nguyễn Khánh Toàn là nhân viên phái đoàn Trung cộng từ Diên An xuống Trùng Khánh để điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, rồi nhân dịp trốn xuống Hoa Nam, về Việt Nam.
Vì quyết tâm bỏ hàng ngũ Trung cộng để về nước kháng chiến giành độc lập, nên ngay từ khi ra về Nguyễn Sơn đã bị Trung cộng phê bình là nặng về tinh thần quốc gia, nhẹ về tinh thần quốc tế. Có lẽ ông Hồ Chí Minh cũng phê bình Nguyễn Sơn như vậy nên đầu năm 1946, khi Nguyễn Sơn về tới Hà Nội, ông Hồ không thể tiếp và các lãnh tụ Việt cộng khác cũng tỏ vẻ lạnh nhạt. Nhưng vì Pháp tấn công mỗi ngày một mạnh ở miền Nam và một mặt khác, vì cộng sản ở tỉnh Quảng Ngãi bất chấp lệnh trên cứ giết tróc bừa bãi, nên ông Hồ phái Sơn vào khu Năm (miền Nam Trung Việt) với nhiệm vụ đình chỉ cuộc chém giết lung tung và điều khiển công cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau đó ít lâu, Sơn được đổi ra khu Bốn (miền Bắc Trung Việt) làm “khu phó” phụ trách huấn luyện quân đội. Chẳng bao lâu, khu trưởng là Thiết Hùng bị mất chức vì liên can vào một vụ buôn thuốc phiện lậu nên Nguyễn Sơn được cử thay thế. Vì có hai mươi năm kinh nghiệm hành quân, nên Nguyễn Sơn được quân đội khu Bốn hết sức mến phục. Đồng thời vì có tâm hồn nghệ sĩ và tận tâm giúp đỡ văn nghệ sĩ, nên Nguyễn Sơn cũng được giới văn nghệ hết sức hâm mộ. Nói chung vì có thành tâm yêu nước và có thực tài, rộng rãi và thân mến mọi người, nên Nguyễn Sơn được mọi người quý trọng. Năm 1948, ông Hồ phong Võ Nguyên Giáp làm đại tướng và Nguyễn Sơn là thiếu tướng, khiến Sơn khó chịu, vì Sơn vẫn chê Giáp “i tờ” về quân sự. Sự thực thì Giáp chỉ là một sinh viên trường Luật, được huấn luyện qua loa về chiến tranh du kích trong một khoá do quân đội Mỹ mở ở Tĩnh Tây, hồi Thế chiến thứ hai. Giáp được địa vị cao chỉ vì Giáp được ông Hồ tin yêu, không phải vì Giáp có thực tài về quân sự.
Tuy nhiên mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh tụ Việt cộng không phải là vấn đề kèn cựa địa vị, mà là vấn đề bất đồng ý kiến đối với chính sách yêu cầu Trung cộng viện trợ. Nguyễn Sơn hết sức phản đối việc yêu cầu Trung cộng viện trợ vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung cộng thì sẽ mất hết chủ quyền. Sơn viện lẽ rằng hồi chiến tranh chống Nhật, ông Mao không thèm yêu cầu Nga viện trợ và để mặc Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo Sơn thì nên tự lực kháng chiến chống Pháp, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao hơn nhưng không bị phụ thuộc vào bất cứ một ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình nhắm phía bắc, đi thẳng sang Trung Quốc. Vì được tôn là “anh hùng dân tộc” của Trung Quốc nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, đi qua tỉnh nào, Sơn cũng được đón tiếp trọng thể. Nhưng ông Hồ đã đánh điện sang Bắc Kinh, báo cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và đồng thời Võ Nguyên Giáp cũng bắt toàn thể quân đội Việt Minh phải học tập một tài liệu đặc biệt, trong đó tả Sơn là một cán bộ “điển hình xấu”. Vì bị ông Hồ báo cáo lên tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay tức khắc. Sau khi chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học đại học quân sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dày và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội thì Sơn chết, và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người đã từng quen biết Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản. Nếu không chết sớm, Nguyễn Sơn có thể là một Tito Việt Nam.
Hồi còn làm khu trưởng khu Bốn, Sơn có viết và xuất bản mấy cuốn sách nhỏ, nói về chỉnh quân, chỉnh phong và chỉnh đảng. Chỉnh nghĩa là chỉnh đốn tư tưởng và tác phong. Chỉnh quân dành riêng cho quân đội; Chỉnh đảng dành riêng cho đảng viên và chỉnh phong dành cho cán bộ ngoài đảng. Nhưng vì hồi ấy Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp ghét Nguyễn Sơn nên đã không chịu nghe theo. Họ chỉ bắt chước những nét đại cương để lập nên phong trào Rèn cán chỉnh cơ (Rèn luyện cán bộ và Chỉnh đốn cơ quan). Mãi sau này, sau khi Nguyễn Sơn đã sang Tầu, và cố vấn Tầu sang Bắc Việt bày vẽ, Việt cộng mới chịu áp dụng phương pháp “cải tạo tư tưởng” theo kiểu Trung cộng nhưng bao gồm cả chỉnh phong và chỉnh đảng dưới hình thức mới, gọi là Chỉnh huấn, nghĩa là cán bộ và đảng viên đều học chung một khoá, mặc dầu có những bài chỉ giảng riêng cho đảng viên.
Người ngoài cuộc thường hay nói đến danh từ “tẩy não” và thường không biết có nhiều loại “tẩy não” khác nhau, nặng nhẹ tuỳ theo thành phần của đương sự. Hình thức nặng nhất là “quản huấn” dành riêng cho “địa chủ ngoan cố”, hình thức vừa vừa, gọi là “cải tạo” dành cho tù binh ngoại quốc. Các hình thức này đều nặng về khủng bố tinh thần, và nhẹ về thuyết phục. Chỉnh huấn thì trái lại, nặng về thuyết phục và tương đối nhẹ về khủng bố, vì mục đích chính của chỉnh huấn là “thêm bạn bớt thù”. Với phương pháp chỉnh huấn, cộng sản mưu đồ cải tạo tư tưởng và tác phong của cán bộ với dụng tâm lôi kéo những phần tử còn hi vọng lôi kéo được.
Chỉnh huấn bắt đầu trở thành “quốc sách” năm 1949, sau khu Trung cộng thành lập chế độ Dân chủ Nhân dân. Theo thường lệ, từ ngày ấy trở đi, mỗi lần cộng sản thay đổi đường lối là một lần tất cả cán bộ chính quyền và đảng viên, từ bộ trưởng xuống để thư ký hạng bét, phải đi chỉnh huấn để học tập chính sách mới của Đảng.
Như Trường Chinh đã nói rõ: “Mỗi công tác tư tưởng đều nhằm một mục tiêu chính trị”. Như vậy nghĩa là chỉnh huấn nhằm sửa soạn tinh thần cán bộ trước khi thực hiện một chính sách mới, để đến khi thực hiện, cán bộ không phản ứng và mọi việc được êm đềm. Nói chung thì chiến lược chỉnh huấn không khác một cuộc hoà nhạc, nhạc trưởng là Đảng còn các nhạc công là đảng viên và cán bộ. Y hệt các nhạc công phải theo sát điệu bộ của nhạc trưởng, các cán bộ công tác cũng phải theo sát đường lối của Đảng để hoạt động cho đúng nhịp. Những cán bộ khác không có trách nhiệm trực tiếp, cũng phải có thái độ lịch sự của thính giả, nghĩa là yên lặng ngồi nghe, không được la ó, chỉ trích.
Thực hiện một đường lối mới là một việc phức tạp, khó khăn, nhất là ở các nước chậm tiến, vì trình độ văn hoá và giác ngộ chính trị không đồng đều, nên thường có những phản ứng khác nhau, tuỳ theo trường hợp, hoàn cảnh và địa phương. Vì vậy nên cộng sản bao giờ cũng nhắc nhở cán bộ nên hết sức linh động. Linh động nghĩa là không được áp dụng chính sách một cách máy móc cứng rắn, mà trái lại phải biết dò trước đón sau, tuỳ cơ ứng biến. Vì cần phải linh động, nên Đảng không thể gò ép, áp dụng một thứ kỷ luật quân sự đối với cán bộ phụ trách. Trái lại, Đảng áp dụng một chính sách tự nguyện tự giác, coi nhiệm vụ Đảng giao phó như một nhiệm vụ thiêng liêng. Muốn gây cho cán bộ một tinh thần như vậy, Đảng phải giảng giải cho cán bộ thấy rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác họ phụ trách. Cán bộ phải tuyệt đối tin tưởng ở sự đúng đắn của chính sách và ở tài năng của giới lãnh đạo. Đảng tổ chức chỉnh huấn cốt để thuyết phục cán bộ và đảng viên, làm cho họ đinh ninh rằng chính sách của Đảng hoàn toàn đúng và bao giờ cũng đúng. Đôi khi Đảng cũng phải thú nhận một vài sai lầm, nhưng mặc dù sai lầm Đảng cũng cố gắng chứng minh rằng chủ nghĩa Mác Lê vẫn đúng và bao giờ cũng đúng. Chỉnh huấn còn nhằm mục đích giải thích cho cán bộ thấy rõ thay đổi đường lối là sự rất cần thiết. Đảng lý luận rằng nếu không thay đổi, cách mạng sẽ thất bại, và thực dân đế quốc sẽ trở lại.
Nhưng có nhiều cán bộ, tuy vẫn thiết tha muốn học, nhưng không thể chấp nhận lối giải thích của Đảng, vì trước đây không bao lâu, cũng một sự việc ấy, mà Đảng đã giải thích một cách hoàn toàn khác và đề ra một chính sách khác hẳn. Tỷ dụ, hồi cách mạng mới bùng nổ, Đảng hứa rằng chính quyền sẽ do bốn giai cấp lãnh đạo: là công, nông, tiểu tư sản và địa chủ yêu nước; và sau cùng Đảng lại nói chỉ có công, nông mới đủ tư cách nắm chính quyền, còn các thành phần khác đều là phản động hoặc không đủ khả năng.
Vì Đảng cứ đưa ra rồi lại dìm đi những lời tuyên bố về đường lối chính sách, và thỉnh thoảng lại thay đổi nội dung những danh từ thường dùng, nên nhiều cán bộ đâm ra thắc mắc, nghi ngờ sự thành thực của đảng. Vì vậy nên mỗi lần đảng giải thích một chính sách mới, cán bộ vẫn ngờ rằng đấy chưa phải là lời giải thích cuối cùng. Khi có một cán bộ đi dự chỉnh huấn mà tỏ vẻ thắc mắc về chính sách của Đảng thì Đảng thấy cần phải “đả thông tư tưởng” cho họ. Đấy là nhiệm vụ thứ hai của chỉnh huấn.
Y hệt một người thợ thông ống nước, việc đầu tiên của Đảng là phải tìm xem cán bộ “tắc” ở chỗ nào. Muốn biết chỗ “tắc” đảng khuyến khích cán bộ thành thật nói lên những thắc mắc, thành thật phê bình chính sách của Đảng. Học viên các lớp chỉnh huấn được phép nói “toạc” tất cả những khổ tâm từ lâu nay vẫn ủ ấp trong lòng. Đảng trịnh trọng tuyên bố sẽ hoàn toàn tha thứ và nhất thiết không mượn cớ để trừng trị. Sau khi mọi người phơi bày hết thảy mọi thắc mắc, ban giáo uỷ mới lần lượt trả lời từng điểm mà học viên đã nêu ra, không khác thủ tướng một nước tự do ra trước nghị viện trả lời những câu chỉ trích của phe đối lập. Không khí trong lớp chỉnh huấn khác hẳn không khí hàng ngày ở ngoài đời, vì chỉ có trong lớp chỉnh huấn mỗi người mới được tự do phê bình chính sách và hành động của Đảng và chính phủ. Đảng cho phép cán bộ và đảng viên nói lên những thắc mắc của họ để Đảng biết chỗ mà “đả thông”, hòng cứu vớt những linh hồn còn có thể cứu vớt được. Sự thực thì có nhiều “linh hồn” mà Đảng đã coi là hoàn toàn không thể cứu vớt được, nên Đảng không gọi đi chỉnh huấn. Đấy là những người mà Đảng đã quy là “kẻ thù” mặc dầu trước đó mấy năm, Đảng còn coi là “bạn”. Vì vậy, nên người nào nhận được giấy gọi đi chỉnh huấn cũng đều vui mừng, vì họ cảm thấy họ còn được coi là “bạn”. Họ hiểu rằng, nếu họ “chỉnh huấn thành công” thì họ sẽ được tiếp tục coi là bạn trong một thời gian nữa, ít nhất cũng tới kỳ chỉnh huấn sau.
Để độc giả có ý niệm rõ ràng hơn về chính sách chỉnh huấn, chúng tôi xin lược thuật cuộc chỉnh huấn năm 1953. Mục đích cuộc chỉnh huấn này là sửa soạn tinh thần cán bộ để đón tiếp chiến dịch Cải cách ruộng đất năm 1954 - 56.
Tổ chức một khoá chỉnh huấn
I. Phân chia học viên
Những người được tham gia chỉnh huấn đều là “bạn”: đảng viên, cán bộ và một số “nhân sĩ tiến bộ”. Tất cả đều học một chương trình, nhưng tuỳ theo cấp bực công vụ và tuỳ theo trình độ hiểu biết chính trị, họ được chia thành nhiều loại.
1. Đảng viên cao cấp, cán bộ
trung ương và một số nhân sĩ quan trọng, lên Việt Bắc học. Địa điểm dạy gần nơi
chính phủ trung ương để ông Hồ và ông Trường Chinh có thể thân hành đến
dạy.
2. Đảng viên, cán bộ cấp
giữa và một số nhân sĩ địa phương, học tại khu, do khu uỷ phụ trách giảng
dạy.
3. Đảng viên và cán bộ cấp
dưới học ở tỉnh, do tỉnh uỷ giảng dạy.
4. Công nhân và nhân viên
cấp dưới học ngay tại chỗ. Đảng cử một phái đoàn tới dạy ngoài giờ làm việc,
buổi chiều hoặc buổi tối.
Vì tất cả mỗi cấp bậc đều phải đi học, nên chỉnh huấn phải
chia thành nhiều đợt liên tiếp để mọi người có thể lần lượt nghỉ việc đi học.
Mỗi đợt một phần ba nhân viên đi học, trong khi hai phần ba ở lại đảm bảo phần
việc của họ. Sau khi nhóm thứ nhất chỉnh huấn xong, thì đến lượt nhóm thứ nhì
lên đường và cuối cùng là nhóm thứ ba. Mỗi khoá chỉnh huấn kéo dài trong ba
tháng, công việc bố trí phòng ốc và thu xếp chỗ ăn ở hết chừng một tháng nữa.
Như vậy là ít nhất cũng phải trọn một năm mới thực hiện xong một chiến dịch
chỉnh huấn, nhưng sự thực thì phải mất 18 tháng, vì trước hết còn phải chờ một
số cán bộ cao cấp đi chỉnh huấn trước rồi về mới dạy học viên khoá đầu.
II. Tổ chức về phương diện vật chất
Địa điểm chỉnh huấn bao giờ cũng đặt sâu trong chiến khu ở những nơi rất hẻo lánh. Học viên tạm trú trong nhà nhân dân địa phương, còn giảng đường thì do học viên xây cất lấy, sán gỗ và tre nứa trốn trong rừng. Chủ nhật, học viên phải vào rừng đốn củi cho nhà bếp nấu cơm. Công tác lao động nằm trong chương trình huấn luyện vì Đảng muốn trí thức phải lao động để hiểu rõ hơn về đời sống của nhân dân lao động. Mỗi người đi dự chỉnh huấn phải mang theo quần áo, chăn mùng, một cái bát, một đôi đũa, và một số tiền tương đương với giá một trăm cân gạo. Số tiền này để chi mọi khoản trong thời gian ba tháng học tập, tính như sau: Tiền ăn 75 cân (mỗi tháng 25 cân), tính mỗi người ăn hết 15 cân gạo, còn mắm muối hết 10 cân. Số tiền tương đương với 25 cân còn lại tính vào phí tổn giấy bút, dầu đèn, và tài liệu quay bằng rô-nê-ô.
Học viên chia thành từng tổ, mỗi tổ ba người: tổ trưởng là một đảng viên có trách nhiệm điều tra và kiểm soát hai tổ viên khác không đảng. Mỗi tổ ở nhờ một gia đình nông dân và mỗi ngày hai lần cử một tổ viên đến ban “cấp dưỡng” (nhà bếp) lĩnh thức ăn do các “anh nuôi” (đầu bếp) cấp phát. Mỗi lần đi mang theo một cái rổ và một cái nồi đất mượn của chủ nhà, rổ để đựng cơm và nồi để đựng canh. Cơm nấu bằng gạo “mậu dịch” để lâu trong kho nên thường mốc, và thức ăn là rau nấu với muối. Mỗi tuần lễ được ăn thịt một lần nhưng thịt cắt thành từng miếng nhỏ nấu lẫn với rau. Thịt hiếm đến nỗi người phụ trách lĩnh cơm thường phải vớt ra chia từng miếng cho đều để khỏi hơn thiệt. Những người có tiền mang theo cũng bắt buộc phải ăn uống như vậy vì trước khi tới trại, đảng uỷ đã ra lệnh cấm dân địa phương không được mua bán thức ăn cho các học viên. Chỉ trong trường hợp thiếu sức khoẻ mới được phép mua thêm một vài quả trứng hoặc vài miếng thịt để tẩm bổ. Đơn phải gửi qua tổ trưởng đưa lên đảng uỷ..
Học viên không được phép ra khỏi một khu vực nhất định, không được liên lạc với xã hội bên ngoài; được phép viết thư về nhà (qua kiểm duyệt), nhưng không được nhận thư ở ngoài gửi đến. Tất cả thư từ gửi đến đều bị giữ lại, chờ khi nào mãn khoá mới được nhận, vì đảng muốn mọi người yên tâm học tập, không bận tâm đến công việc gia đình. Có trường hợp một bác sĩ (Trịnh Đình Cung) chỉnh huấn xong, mới nhận được thư báo vợ chết, từ hai tháng trước.
Kỷ luật trong trại chỉnh huấn cũng đại khái như trong trại lính. Sáng dậy từ 6 giờ, tập thể thao nửa giờ. Học từ 7 đến 11 giờ. Về nhà ăn cơm và nghỉ từ 11 giờ đến 1 giờ, rồi lại học từ 1 giờ đến 5 giờ, ăn cơm tối và làm bài vở từ 7 đến 10 giờ tối. Mười lăm phút trước khi đi ngủ dành cho “hội thảo” tức là trong tổ kiểm thảo lẫn nhau qua loa về hành vi trong ngày. Chủ nhật ra suối tắm và cộng tác lao động như vào rừng kiếm củi cho nhà bếp, hoặc đào hầm trú ẩn để tránh máy bay. Tối thứ Bẩy có biểu diễn văn nghệ do học viên trình bày. Trong một khoá được xem chiếu bóng một lần, phim Nga hoặc phim Tầu.
III. Phương pháp giảng dạy
Mỗi khoá chỉnh huấn gồm một số bài sắp xếp như thế nào đó để tuần tự đưa học viên đến một mục đích nhất định. Mỗi bài phải học chừng nửa tháng, mất tất cả chừng 150 giờ. Cách thức giảng dạy đã được nghiên cứu rất tỉ mỉ và gồm có những hoạt động như sau:
II. Tổ chức về phương diện vật chất
Địa điểm chỉnh huấn bao giờ cũng đặt sâu trong chiến khu ở những nơi rất hẻo lánh. Học viên tạm trú trong nhà nhân dân địa phương, còn giảng đường thì do học viên xây cất lấy, sán gỗ và tre nứa trốn trong rừng. Chủ nhật, học viên phải vào rừng đốn củi cho nhà bếp nấu cơm. Công tác lao động nằm trong chương trình huấn luyện vì Đảng muốn trí thức phải lao động để hiểu rõ hơn về đời sống của nhân dân lao động. Mỗi người đi dự chỉnh huấn phải mang theo quần áo, chăn mùng, một cái bát, một đôi đũa, và một số tiền tương đương với giá một trăm cân gạo. Số tiền này để chi mọi khoản trong thời gian ba tháng học tập, tính như sau: Tiền ăn 75 cân (mỗi tháng 25 cân), tính mỗi người ăn hết 15 cân gạo, còn mắm muối hết 10 cân. Số tiền tương đương với 25 cân còn lại tính vào phí tổn giấy bút, dầu đèn, và tài liệu quay bằng rô-nê-ô.
Học viên chia thành từng tổ, mỗi tổ ba người: tổ trưởng là một đảng viên có trách nhiệm điều tra và kiểm soát hai tổ viên khác không đảng. Mỗi tổ ở nhờ một gia đình nông dân và mỗi ngày hai lần cử một tổ viên đến ban “cấp dưỡng” (nhà bếp) lĩnh thức ăn do các “anh nuôi” (đầu bếp) cấp phát. Mỗi lần đi mang theo một cái rổ và một cái nồi đất mượn của chủ nhà, rổ để đựng cơm và nồi để đựng canh. Cơm nấu bằng gạo “mậu dịch” để lâu trong kho nên thường mốc, và thức ăn là rau nấu với muối. Mỗi tuần lễ được ăn thịt một lần nhưng thịt cắt thành từng miếng nhỏ nấu lẫn với rau. Thịt hiếm đến nỗi người phụ trách lĩnh cơm thường phải vớt ra chia từng miếng cho đều để khỏi hơn thiệt. Những người có tiền mang theo cũng bắt buộc phải ăn uống như vậy vì trước khi tới trại, đảng uỷ đã ra lệnh cấm dân địa phương không được mua bán thức ăn cho các học viên. Chỉ trong trường hợp thiếu sức khoẻ mới được phép mua thêm một vài quả trứng hoặc vài miếng thịt để tẩm bổ. Đơn phải gửi qua tổ trưởng đưa lên đảng uỷ..
Học viên không được phép ra khỏi một khu vực nhất định, không được liên lạc với xã hội bên ngoài; được phép viết thư về nhà (qua kiểm duyệt), nhưng không được nhận thư ở ngoài gửi đến. Tất cả thư từ gửi đến đều bị giữ lại, chờ khi nào mãn khoá mới được nhận, vì đảng muốn mọi người yên tâm học tập, không bận tâm đến công việc gia đình. Có trường hợp một bác sĩ (Trịnh Đình Cung) chỉnh huấn xong, mới nhận được thư báo vợ chết, từ hai tháng trước.
Kỷ luật trong trại chỉnh huấn cũng đại khái như trong trại lính. Sáng dậy từ 6 giờ, tập thể thao nửa giờ. Học từ 7 đến 11 giờ. Về nhà ăn cơm và nghỉ từ 11 giờ đến 1 giờ, rồi lại học từ 1 giờ đến 5 giờ, ăn cơm tối và làm bài vở từ 7 đến 10 giờ tối. Mười lăm phút trước khi đi ngủ dành cho “hội thảo” tức là trong tổ kiểm thảo lẫn nhau qua loa về hành vi trong ngày. Chủ nhật ra suối tắm và cộng tác lao động như vào rừng kiếm củi cho nhà bếp, hoặc đào hầm trú ẩn để tránh máy bay. Tối thứ Bẩy có biểu diễn văn nghệ do học viên trình bày. Trong một khoá được xem chiếu bóng một lần, phim Nga hoặc phim Tầu.
III. Phương pháp giảng dạy
Mỗi khoá chỉnh huấn gồm một số bài sắp xếp như thế nào đó để tuần tự đưa học viên đến một mục đích nhất định. Mỗi bài phải học chừng nửa tháng, mất tất cả chừng 150 giờ. Cách thức giảng dạy đã được nghiên cứu rất tỉ mỉ và gồm có những hoạt động như sau:
1. Tất cả học viên (vào
khoảng 500) họp tại giảng đường. Mỗi người được phát một tài liệu quay rô-nê-ô.
Một đại diện Đảng giảng bài và các học viên ghi chép lớp giảng.
2. Học viên về tổ thảo luận
về nội dung các danh từ dùng trong bài học, người biết nhiều giảng cho người
biết ít. Sau đó thảo luận về ý nghĩa từng đoạn văn một nếu có đoạn nào tối
nghĩa quá, cả tổ không ai hiểu thì tổ trưởng báo cáo với ban giáo uỷ.
3. Sau khi nhận được báo cáo
các tổ gửi đến, ban học uỷ giải thích lại cho toàn thể lớp học. Đôi khi ban học
uỷ chấp nhận ý kiến học viên đề nghị sửa chữa một vài danh từ cho rõ nghĩa
hơn.
4. Học viên lại trở về tổ để
thảo luận từng đoạn một, tất cả ý nghĩa trong bài. Mỗi học viên lần lượt phát
biểu ý kiến của mình. Đảng khuyến khích mọi người thẳng thắn nói lên ý kiến của
mình, dù không đồng ý với tác giả bài học. Nếu không đồng ý cứ việc nêu “thắc
mắc” và theo thường lệ mỗi người đều nêu lên một vài thắc mắc, vì nếu không nêu
thắc mắc tức là giấu kín ý nghĩ của mình. Càng thắc mắc bao nhiêu càng có vẻ thành
khẩn bấy nhiêu. Sau khi một tổ viên nêu thắc mắc, thì hai tổ viên khác tìm cách
đả thông. Nhưng nếu trong tổ không đả thông nổi thì tổ trưởng lập tức báo cáo
lên ban học uỷ..
5. Sau khi tập trung tất cả
thắc mắc của cả lớp, ban học uỷ triệu tập tất cả học viên tới giảng đường để đả
thông. Đại diện Đảng đọc lên từng thắc mắc một và lần lượt đả thông cho cả lớp
nghe. Có được nghe tất cả các thắc mắc (nhiều người công kích Đảng một cách
thậm tệ) mới rõ là phần đông cán bộ và đảng viên vẫn uất ức với chính sách của
Đảng.
6. Học viên lại trở về tổ để
thảo luận về những câu giải thích của đại diện Đảng. Nếu mọi người đồng ý chấp
nhận thì thông qua nhưng đôi khi có người vẫn nhất định không chấp nhận. Trong
trường hợp ấy, đảng uỷ cử một giáo viên đến tận nhà để đả thông tư tưởng cho
học viên kể trên. Nếu giáo viên đả thông không nổi thì ông Trường Chinh, tổng
bí thư Đảng đến. Nếu ông Trường Chinh cũng không thuyết phục nổi thì ông Hồ
thân hành đến để thuyết phục cho kỳ được. Theo sự hiểu biết của tác giả thì
chưa có thắc mắc nào mà ông Hồ không đả thông nổi.
7. Trong thời gian ấy ban
giáo ủy tổ chức một vài buổi thực nghiệm. Thí dụ, trong khi học bài về chế độ
thực dân thì Đảng mời một cán bộ trước kia đã bị giam ở Sơn La hoặc Lao Bảo đến
kể chuyện cho cả lớp nghe ngày trước họ bị hành hạ dã man như thế nào. Trong
khi học bài nói về Cải cách ruộng đất, thì cả lớp được đi dự một cuộc đấu tố
gần đấy.
8. Sau khi học xong một bài,
nghĩa là tất cả học viên đã hoàn toàn công nhận quan điểm của Đảng đối với vấn
đề trình bày trong bài, thì mỗi người bắt đầu viết một bài “Kiểm thảo sơ bộ”.
Mỗi học viên phải căn cứ vào những điểm mới học được để tự xét mình và nói ra
những hành động và tư tưởng mà bây giờ, nhờ sự giáo dục của Đảng, mình nhận
thấy là sai. Thí dụ, sau khi học xong bài về chế độ thực dân thì học viên phải
bộc lộ thái độ của mình đối với Pháp trước kia, những ý nghĩ hoặc cử chỉ xét
thấy có thể có lợi cho chính quyền thực dân. Nếu học viên không hề làm công
chức cho Pháp thì ít ra cũng phải “bộc lộ” những tư tưởng hoặc ý nghĩ “không
yêu nước”. Tỉ dụ, một người ngắm một máy bay Pháp đang lồng lộn bắn phá mà
trong lòng hâm mộ tài nghệ của viên phi công khéo lái chiếc máy bay. Nếu thành
thật yêu nước thì đúng lý, chỉ căm thù đối với viên phi công ấy, không được
phép cảm phục. Để giúp các học viên nhớ lại các “tội lỗi” cũ, ban giáo uỷ đọc
cho cả lớp nghe một bản lược kê những “tội lỗi” mà học viên mấy khoá trước đã
bộc lộ. Ban giáo uỷ cũng đọc cho nghe những bản bộc lộ điển hình của mấy nhân
vật có tiếng tăm, nghệ sĩ, văn sĩ, như Nguyễn Tuân chẳng hạn.
9. Sau khi mọi người đã viết
xong bản “Kiểm thảo sơ bộ” thì tổ trưởng mang nộp cho ban giáo uỷ. Ban giáo uỷ
đọc qua và chọn những bản xuất sắc nhất, nghĩa là những bản kê khai những tội
ghê gớm nhất, rồi mời tác giả mấy bản kiểm thảo này ra trước lớp học bộc lộ
công khai cho mọi người thưởng thức. Cả lớp chăm chú nghe thỉnh thoảng hô “đả
đảo” (tội lỗi nào đó), nhưng cấm không được ghi chép. Có người công khai thú
nhận đã làm Việt gian cho Pháp; có người vừa khóc nức nở vừa bộc lộ là đã gian
dâm với em gái. Không ai hiểu họ nói thực hay họ bịa để tâng bốc Đảng, ra vẻ
nhờ Đảng đã giáo dục mà nay quyết tâm lột bỏ cái “xác” dơ bẩn thuở trước. Nhưng
nói chung thì người nghe có cảm tưởng thanh niên có vẻ thành thực hơn mấy người
đứng tuổi.
10.
Sau khi học hết chương trình mỗi học viên phải
viết một bản lý lịch và một “Tổng kiểm thảo”. Nhà trường dành riêng cho hai
tuần để viết hai bản này, mỗi bản viết vào một quyển vở 60 trang, và viết hai
lần, tức là bốn quyển vở tất cả.
Bản lý lịch ghi đủ tên, họ,
nơi và ngày sinh, lịch trình học vấn, nghề nghiệp, chức vụ, khả năng về ngoại
ngữ, bằng cấp, thành tích công tác, khen thưởng, v.v. Điểm đặc biệt là phải
khai mọi khoản rất tỷ mỷ. Tỉ dụ về thành phần phải khai rõ ba họ: họ nội, họ
ngoại và họ nhà vợ (hoặc nhà chồng) cho đến tam đại. Phải nêu rõ ảnh hưởng tốt
hoặc xấu của những người trong gia đình và trong ba họ. Học viên cũng phải khai
ảnh hưởng của thầy hoặc cô giáo, của bạn học, của đồng nghiệp, ảnh hưởng của
các sách vở đã học, của các tác giả, các nhà văn, những triết lý nào đã ảnh
hưởng đến tính tình và tư tưởng của mình. Sau đấy phải ghi rõ những tư tưởng và
hành động chính trị, giải thích cặn kẽ lý do tại sao đã thay đổi tư tưởng. Cuối
cùng học viên phải trả lời những câu hỏi như: công tác hiện thời? Lương bổng?
Tài sản? Gia cảnh? Đời sống gia đình? Tình hình tài chính? v.v.
Bản lý lịch đầy đủ tới mức bất cứ ai đọc cũng biết ngay hoàn cảnh và thành phần của đương sự, có thể nhận định đương sự là hạng người như thế nào.
Viết bản “Tổng kiểm thảo” là công việc khó khăn và cực nhọc nhất, mặc dầu mọi người đã từng hơi quen với công việc bằng cách viết các bản “Kiểm thảo sơ bộ”, sau mỗi bài học. Thú nhận các tội lỗi không phải là việc khó, mà chỉ khó ở chỗ không “moi” đâu ra cho đủ tội lỗi sai lầm, thiếu sót, để viết cho đầy 60 trang giấy và kết quả là những người càng trong trắng bao nhiêu càng thấy khó bấy nhiêu. Tuy nhiên khó dễ cũng tuỳ thành phần xã hội và hoàn cảnh sinh hoạt của mỗi người. Đối với văn sĩ chẳng hạn thì bộc lộ sai lầm tương đối dễ. Họ chỉ việc điểm lại tất cả các phẩm họ đã từng viết, nêu lên những đoạn sai lầm, công nhận là đã bị ảnh hưởng của phong kiến thực dân, “tán” rộng ra một chút là đủ 60 trang. Các nhà văn phần nhiều là người thành thị tản cư vào vùng kháng chiến nên không có liên hệ với địa chủ. Do đó họ không lo ngại về vấn đề cải cách ruộng đất và không cần phải bộc lộ những trọng tội đối với nông dân. Văn nghệ sĩ chỉ cần phải “tự phê” một cách nghiêm khắc, “đấm ngực xưng tội và từ bỏ” tất cả các sáng tác cũ, dù là tác phẩm hay nhất của mình. Nhưng về phần kết luận các văn nghệ sĩ vẫn phải tỏ ý tán thành chính sách cải cách ruộng đất mặc dầu không có liên hệ trực tiếp.
Trái lại, viết bản “Tổng kiểm thảo” quả là gay go đối với những học viên thuộc thành phần địa chủ, vì họ bị lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan: hoặc phải tự gán cho mình đủ thứ tội lỗi đối với nông dân, hoặc để mặc nông dân quy mình là địa chủ gian ác khi nào chiến dịch Cải cách ruộng đất lan đến làng mình. Họ bị kẹp ở giữa hai gọng kìm: một bên là tam đoạn luận “Địa chủ là gian ác, anh là địa chủ, vậy thế tất anh phải gian ác” và một bên là lời cảnh cáo rất nhẹ nhàng “Nếu anh không chịu bộc lộ hết tội lỗi nông dân bộc lộ hộ anh”.
Trước khi khai giảng lớp chỉnh huấn thì ở một vài nơi, gọi là thí điểm, chiến dịch Cải cách ruộng đất bắt đầu, và các học viên đều biết nông dân không được tự do muốn tố gì thì tố (nếu họ tự ý tố, Đảng không chấp nhận), mà trái lại bao giờ họ cũng tố theo lời chỉ dẫn của Đảng. Người kém thông minh nhất cũng hiểu rằng chỉnh huấn là cơ hội cuối cùng để thoát thân, bằng cách thú cho thật nhiều tội và tỏ cho Đảng thấy là mình đã hoàn toàn “lột xác”. Nếu chỉnh huấn “thành công” thì Đảng sẽ không coi là ngoan cố, và sẽ chỉ thị cho địa phương xếp đặt vào thành phần khác, không phải là địa chủ.
Mọi người đều phải tự đặt một câu hỏi: “Moi đầu moi óc mà tìm mãi không ra tội, vậy có nên sáng tác ra một vài tội không? Một số người quả thực đã “sáng tác” rất nhiều tội, nhưng không chắc là đã thành công vì muốn vừa lòng Đảng phải bộc lộ cho đúng những tội lỗi mà Đảng đương chờ nơi mình. Ngay hôm lớp học mới khai giảng, mỗi học viên đã phải khai rõ những nơi trú ngụ từ trước tới nay, và những cơ quan đã từng hoạt động, và tức khắc đảng uỷ sẽ đánh điện hỏi về tính nết và hành vi của đương sự. Vì vậy nên Đảng chỉ thực sự tin tưởng là đương sự đã hoán cải, khi nào đương sự thú nhận đúng những tội trạng có ghi trong hồ sơ bí mật của đảng. Một việc khác cũng khó lường là rất có thể một học viên nào đó, trong khi thú nhận một tội lỗi nào đó đã khai mình là chính phạm mà hắn chỉ tòng phạm. Tóm lại, vấn đề nan giải là phải tìm ra những tội nào mà Đảng đương trông chờ nơi mình. Bộc lộ một tội A sẽ không ăn nhằm, nếu trong hồ sơ của Đảng tội mình lại là B, chẳng hạn. Tuy nhiên, nếu bộc lộ những tội có tính cách “phổ thông” như chiếm đoạt của nông dân một vài thứ gì đó hoặc hiếp dâm một vài cô gái quê cũng chẳng tội vạ gì, mà may ra lại trúng ý Đảng, vì lẽ thứ nhất là toàn thể giai cấp địa chủ không ai không bị “tố” những tội kể trên và lẽ thứ hai là Đảng đã trịnh trọng tuyên bố rằng “bất cứ tội gì, hễ thành thật bộc lộ sẽ được tha thứ”.
Tuy nhiên cũng có một số học viên, vì khí khái “tiểu tư sản” không chịu “sáng tác” tội lỗi để viết cho đầy trang, mà trái lại chỉ ngồi ngậm bút hoặc kê khai những “thiếu sót” vớ vẩn không đáng kể là “tội”, không vừa ý Đảng. Như vậy là hễ chiến dịch Cải cách ruộng đất lan tới làng họ, những học viên kể trên thế tất sẽ bị quy là “địa chủ cường hào gian ác” và sẽ bị “tố” vô số tội lội tầy trời.
Chỉnh huấn quả thực là một nơi luyện tội để những linh hồn không được trong sạch lắm, nhưng còn có thể cứu vớt được, trút rửa tất cả những tư tưởng phản động để thoát khỏi địa ngục “kẻ thù của nhân dân”. Số phận những người bị rơi vào địa ngục này sẽ trình bày ở Chương 14 và 15.
Bản lý lịch đầy đủ tới mức bất cứ ai đọc cũng biết ngay hoàn cảnh và thành phần của đương sự, có thể nhận định đương sự là hạng người như thế nào.
Viết bản “Tổng kiểm thảo” là công việc khó khăn và cực nhọc nhất, mặc dầu mọi người đã từng hơi quen với công việc bằng cách viết các bản “Kiểm thảo sơ bộ”, sau mỗi bài học. Thú nhận các tội lỗi không phải là việc khó, mà chỉ khó ở chỗ không “moi” đâu ra cho đủ tội lỗi sai lầm, thiếu sót, để viết cho đầy 60 trang giấy và kết quả là những người càng trong trắng bao nhiêu càng thấy khó bấy nhiêu. Tuy nhiên khó dễ cũng tuỳ thành phần xã hội và hoàn cảnh sinh hoạt của mỗi người. Đối với văn sĩ chẳng hạn thì bộc lộ sai lầm tương đối dễ. Họ chỉ việc điểm lại tất cả các phẩm họ đã từng viết, nêu lên những đoạn sai lầm, công nhận là đã bị ảnh hưởng của phong kiến thực dân, “tán” rộng ra một chút là đủ 60 trang. Các nhà văn phần nhiều là người thành thị tản cư vào vùng kháng chiến nên không có liên hệ với địa chủ. Do đó họ không lo ngại về vấn đề cải cách ruộng đất và không cần phải bộc lộ những trọng tội đối với nông dân. Văn nghệ sĩ chỉ cần phải “tự phê” một cách nghiêm khắc, “đấm ngực xưng tội và từ bỏ” tất cả các sáng tác cũ, dù là tác phẩm hay nhất của mình. Nhưng về phần kết luận các văn nghệ sĩ vẫn phải tỏ ý tán thành chính sách cải cách ruộng đất mặc dầu không có liên hệ trực tiếp.
Trái lại, viết bản “Tổng kiểm thảo” quả là gay go đối với những học viên thuộc thành phần địa chủ, vì họ bị lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan: hoặc phải tự gán cho mình đủ thứ tội lỗi đối với nông dân, hoặc để mặc nông dân quy mình là địa chủ gian ác khi nào chiến dịch Cải cách ruộng đất lan đến làng mình. Họ bị kẹp ở giữa hai gọng kìm: một bên là tam đoạn luận “Địa chủ là gian ác, anh là địa chủ, vậy thế tất anh phải gian ác” và một bên là lời cảnh cáo rất nhẹ nhàng “Nếu anh không chịu bộc lộ hết tội lỗi nông dân bộc lộ hộ anh”.
Trước khi khai giảng lớp chỉnh huấn thì ở một vài nơi, gọi là thí điểm, chiến dịch Cải cách ruộng đất bắt đầu, và các học viên đều biết nông dân không được tự do muốn tố gì thì tố (nếu họ tự ý tố, Đảng không chấp nhận), mà trái lại bao giờ họ cũng tố theo lời chỉ dẫn của Đảng. Người kém thông minh nhất cũng hiểu rằng chỉnh huấn là cơ hội cuối cùng để thoát thân, bằng cách thú cho thật nhiều tội và tỏ cho Đảng thấy là mình đã hoàn toàn “lột xác”. Nếu chỉnh huấn “thành công” thì Đảng sẽ không coi là ngoan cố, và sẽ chỉ thị cho địa phương xếp đặt vào thành phần khác, không phải là địa chủ.
Mọi người đều phải tự đặt một câu hỏi: “Moi đầu moi óc mà tìm mãi không ra tội, vậy có nên sáng tác ra một vài tội không? Một số người quả thực đã “sáng tác” rất nhiều tội, nhưng không chắc là đã thành công vì muốn vừa lòng Đảng phải bộc lộ cho đúng những tội lỗi mà Đảng đương chờ nơi mình. Ngay hôm lớp học mới khai giảng, mỗi học viên đã phải khai rõ những nơi trú ngụ từ trước tới nay, và những cơ quan đã từng hoạt động, và tức khắc đảng uỷ sẽ đánh điện hỏi về tính nết và hành vi của đương sự. Vì vậy nên Đảng chỉ thực sự tin tưởng là đương sự đã hoán cải, khi nào đương sự thú nhận đúng những tội trạng có ghi trong hồ sơ bí mật của đảng. Một việc khác cũng khó lường là rất có thể một học viên nào đó, trong khi thú nhận một tội lỗi nào đó đã khai mình là chính phạm mà hắn chỉ tòng phạm. Tóm lại, vấn đề nan giải là phải tìm ra những tội nào mà Đảng đương trông chờ nơi mình. Bộc lộ một tội A sẽ không ăn nhằm, nếu trong hồ sơ của Đảng tội mình lại là B, chẳng hạn. Tuy nhiên, nếu bộc lộ những tội có tính cách “phổ thông” như chiếm đoạt của nông dân một vài thứ gì đó hoặc hiếp dâm một vài cô gái quê cũng chẳng tội vạ gì, mà may ra lại trúng ý Đảng, vì lẽ thứ nhất là toàn thể giai cấp địa chủ không ai không bị “tố” những tội kể trên và lẽ thứ hai là Đảng đã trịnh trọng tuyên bố rằng “bất cứ tội gì, hễ thành thật bộc lộ sẽ được tha thứ”.
Tuy nhiên cũng có một số học viên, vì khí khái “tiểu tư sản” không chịu “sáng tác” tội lỗi để viết cho đầy trang, mà trái lại chỉ ngồi ngậm bút hoặc kê khai những “thiếu sót” vớ vẩn không đáng kể là “tội”, không vừa ý Đảng. Như vậy là hễ chiến dịch Cải cách ruộng đất lan tới làng họ, những học viên kể trên thế tất sẽ bị quy là “địa chủ cường hào gian ác” và sẽ bị “tố” vô số tội lội tầy trời.
Chỉnh huấn quả thực là một nơi luyện tội để những linh hồn không được trong sạch lắm, nhưng còn có thể cứu vớt được, trút rửa tất cả những tư tưởng phản động để thoát khỏi địa ngục “kẻ thù của nhân dân”. Số phận những người bị rơi vào địa ngục này sẽ trình bày ở Chương 14 và 15.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét