Giới thiệu tác giả tác phẩm
Các bạn đọc có thể ngạc nhiên khi thấy một cuốn sách tiếng Việt,
tác giả là người Việt, mà lại là bản dịch. Trường hợp có hơi bất thường nhưng
lý do là tại tác giả, ông Hoàng Văn Chí đã viết nguyên bản bằng tiếng Anh, xuất
bản ở ngoại quốc để trực tiếp trình bày vấn đề Việt Nam với độc giả quốc tế và
phổ biến kinh nghiệm Việt Nam rộng ra khắp thế giới tự do.
Ông Hoàng, hiện còn bôn ba ở hải ngoại, đã tự giao cho mình
trọng trách này vì trước khi rời khỏi Bắc Việt, năm 1955, ông đã hứa với các
bạn bè trong hàng ngũ trí thức kháng chiến là ông sẽ cố gắng nói lên tâm trạng
đau thương của họ và của toàn thể nhân dân miền Bắc đương quằn quại dưới chế độ
cộng sản. Sau mười năm cặm cụi theo đuổi mục đích, ông Hoàng đã hoàn tất một
phần lớn nhiệm vụ tinh thần kể trên vì như ông P. J. Honey, giáo sư đại học
đường ở Luân Đôn đã công nhận, chính nhờ ở các tác phẩm của ông Hoàng mà thế
giới bên ngoài đã biết nhiều về nội tình Bắc Việt và chiến thuật Mao Trạch
Đông. Thực sự, không một tác phẩm nào của ông không được phổ biến khắp thế giới
tự do, dịch ra năm bảy thứ tiếng, từ tiếng Đan Mạch đến các thổ ngữ Ấn Độ, từ
các tiếng Á Đông đến tiếng I-pha-nho ở Nam Mỹ. Hiện nay ông là nhà văn Việt Nam
có nhiều độc giả nhất ở ngoại quốc.
Sinh tại Thanh Hoá năm 1913 trong một gia đình Nho giáo có
truyền thống cách mạng, ông đã từng tham gia cuộc bãi khoá năm 1926, phong trào
“Le Travail” năm 1936, hoạt động trong Đảng Xã hội SFIO năm 1937–39, và tham
gia kháng chiến chống Pháp từ đầu đến cuối (1946-54). Ông giúp chính phủ kháng
chiến với chức vụ một chuyên viên, phụ trách đúc tiền, làm giấy in bạc, chế tạo
hoá chất cho quốc phòng. Nhưng sau Hiệp định Genève, mặc dù đã được ông Hồ Chí
Minh tuyên dương công trạng trong toàn quốc, ông quyết tâm rời bỏ Bắc Việt, di
cư vào Nam. Trong bốn năm ở Sài Gòn, ông đã để lại nhiều bài báo bằng tiếng
Việt, Anh, Pháp, Hoa và đặc biệt là tập truyện ngắn, vừa hài hước vừa chua
chát, nhan đề Phật rơi lệ, và một thiên khảo cứu về phong tục
học nhan đề Đính chánh một định kiến sai lầm về nguồn gốc dân tộc Việt
Nam đăng trong báo Ngày mới xuất bản tại Sài Gòn năm
1958. Vì một sự nhầm lẫn nào đó, bài này đã được dịch ra Anh văn và đăng trong
tạp chí Asian Culuture của Hội Liên lạc Văn hoá Á châu, năm
1961, ký tên ông Nguyễn Đăng Thục, Hội trưởng Hội Văn hoá kể trên.
Chúng tôi được quen ông Hoàng Văn Chí hồi chúng tôi nhờ ông đề
tựa cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, do chúng tôi
soạn năm 1959. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông tình nguyện đi Ấn Độ, giữ chức phó
lãnh sự tại New Delhi. Ra sân bay, ông có tâm sự với chúng tôi là mục đích của
ông không phải là làm ngoại giao mà là để có dịp nói lên sự thực của cả hai chế
độ: Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Quả nhiên ông chỉ ở Ấn Độ đúng một năm, đủ
thì giờ để kết giao với một số nhà báo, nhà văn Ấn Độ. Năm 1960, ông sang Thuỵ
Sĩ, sang Anh và lưu trú 5 năm tại Paris, nơi mà ông viết cuốn sách này. Sách
đồng thời xuất bản ở Luân Đôn, Nữu Ước, New Delhi, bản dịch tiếng I-pha-nho
xuất bản ở Buenos Aires và có nhà xuất bản đã mua bản quyền tiếng Nhật, Triều
Tiên, Thái, Mã Lai, v.v. Nhận thấy không lẽ một tác phẩm hoàn toàn bằng tiếng
Việt phát hành khắp thế giới mà nhân dân Việt Nam không có dịp thưởng thức, nên
chúng tôi yêu cầu tác giả cho phép dịch ra tiếng Việt. Bản dịch này được tác
giả duyệt lại, sửa chữa một vài sơ suất trong bản tiếng Anh in tại Luân Đôn và
thêm bớt một vài câu cho bớt tính chất văn dịch.
Sau cùng chúng tôi xin lưu ý các bạn đọc về một điểm sau đây: Vì
mục đích của cuốn sách là trình bày chiến thuật Mao Trạch Đông áp dụng tại Bắc
Việt, hướng về các độc giả ngoại quốc, nên phần nhắc lại lịch sử dân tộc và
lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ tóm tắt qua loa, vừa đủ để người ngoại quốc chưa
hề biết đến nước ta có thể nắm được đại cương vấn đề. Vì tóm tắt nên không thể
trình bày đầy đủ chi tiết, do đó độc giả trong nước có thể có cảm tưởng là quá
sơ sài và thiếu chính xác. Về điểm này, thay lời tác giả, chúng tôi xin thành
thực xin lỗi các bạn đọc.
Mạc Định
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh nhan đề: From Colonialism
to Communism, xuất bản năm 1964 đồng thời tại: Anh (The Pall Mall Press
Ltd. 77–79 Charlotte Street, London W.I.), Hoa Kỳ (F. A. Praeger inc, Publisher
III, 4th Ave. New York, N.Y.), Ấn Độ (The Allied Publishers,
13-14 Asaf Road, New Delhi). Cùng với bản tiếng Việt này đã có những bản dịch sau
đây: Tiếng Bồ Đào Nha (Nhà xuất bản GRD, Rio de Janeiro, Brésil), tiếng
I-pha-nho (Nhà xuất bản Editorial SUR, Buenos Aires, Argentine), tiếng Pháp
(Nhà xuất bản MAME, Tours, Pháp).
Lời chú thích của dịch giả
Tất cả các đoạn văn trích trong báo chí Bắc Việt đều là nguyên
văn, trừ hai bản báo cáo của Trường Chinh, vì không có nguyên bản tiếng Việt
nên tác giả đã dịch ra Anh văn từ bản tiếng Pháp do Bắc Việt xuất bản. Chúng
tôi cũng dịch theo bản tiếng Pháp ấy.
Do lời yêu cầu của chúng tôi, cũng như của nhà xuất bản tiếng
Pháp và tiếng I-pha-nho, tác giả đã viết lại Chương 18 (Chương cuối) để trình
bày thêm về tình hình Bắc Việt từ 1962 đến 1965.
*
Lời giới thiệu của giáo sư P. J. Honey
Trước Thế chiến thứ Hai, không mấy ai ở thế giới bên ngoại biết
đến nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam và hoạ chăng chỉ nghe nói đến Đông Pháp,
trong đó có xứ “An Nam”. Ngoại trừ người Pháp, không mấy người Tây phương biết
đến Việt Nam là một quốc hiệu, và số du khách có dịp ghé qua Việt Nam lại càng
hiếm hơn. Vì vậy, năm 1945, dư luận thế giới rất đỗi ngạc nhiên khi báo chí
loan tin có một chính phủ mệnh danh là “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” tuyên bố độc
lập đối với Pháp. Nhưng vì đồng thời, việc chấm dứt chiến tranh với Nhật Bản
gây nên nhiều biến cố khác, nên dư luận thế giới lại lãng quên vấn đề Việt Nam,
cho mãi đến cuối năm 1946, khi chiến tranh bùng nổ giữa Pháp và Việt Nam, báo
chí thế giới một lần nữa lại nói đến Việt Nam. Nhưng dư luận hồi ấy cho rằng
quân đội Việt Nam thiếu luyện tập và chỉ có những vũ khí thô sơ, nên không thể
kháng cự nổi với đội quân viễn chinh hùng hậu của Pháp, và chẳng bao lâu sẽ bị
dẹp tan.
Nhưng chiến cuộc mỗi ngày một lan rộng, vì Pháp tỏ ra bất lực
không dẹp nổi phong trào kháng chiến Việt Nam, hồi đó thường gọi là Việt Minh.
Nhiều người Tây phương, và đặc biệt những người Mỹ quan tâm đến thời cuộc Viễn
Đông, cho rằng chiến tranh ở Việt Nam là do những phần tử quốc gia lãnh đạo,
với mục đích giành lại độc lập cho quốc gia họ. Hoa Kỳ không trực tiếp can
thiệp, nhưng một phần nào, có thiện cảm với Việt Minh. Vì chiến tranh “lạnh”
mỗi ngày một bành trướng nên dần dần các quốc gia Tây phương mới thấy rõ âm mưu
sâu rộng của cộng sản. Lúc bấy giờ Hoa Kỳ mới ngả theo quan điểm của Pháp, nhận
định Việt Minh không phải là một phong trào thuần tuý quốc gia, mà thực sự là
một phong trào cộng sản chiến đấu với mục đích thiết lập chế độ cộng sản trên
một phần đất Á châu. Vì vậy nên Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ mỗi ngày một nhiều cho
quân đội Pháp và quân đội Quốc gia Việt Nam mới thành lập. Mặc dù vậy, Việt
Minh vẫn thắng trận. Trận Điện Biên Phủ kết thúc chiến cuộc, và hội nghị quốc
tế họp ở Genève, đầu năm 1954, mang lại hoà bình ở Việt Nam.
Chiếu theo hiệp định Genève thì Việt Nam bị chia đôi dọc theo vĩ
tuyến 17, miền Bắc đặt dưới quyền kiểm soát của cộng sản, và miền Nam vẫn thuộc
quyền phe quốc gia. Đây là lần đầu tiên một quốc gia cộng sản xuất hiện ở Đông
Nam Á ,và sự kiện này vô cùng quan trọng. Từ ngàn xưa con đường từ Đông Á xuống
Đông Nam Á vẫn xuyên qua Việt Nam, và trong lịch sử hiện đại, chính vì Nhật Bản
chiếm cứ được miền này năm 1941, nên trong chớp nhoáng Nhật Bản đã thôn tính
được toàn thể Đông Nam Á. Không ai không nhìn thấy âm mưu của khối Cộng sản là
sử dụng Bắc Việt như một bàn đạp để tràn xuống phía Nam. Hoa Kỳ đã phải rút
khỏi nước Lào, và chiến tranh hiện nay đương tiếp diễn tại Nam Việt. Chiến cuộc
ở Việt Nam có thể mở đầu cho một cuộc xâm lăng rộng lớn của cộng sản.
Muốn ngăn cản cuộc xâm lăng kể trên một cách hữu hiệu, công việc
đầu tiên là phải tìm hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản thì mới có thể
dự đoán được kế hoạch của họ và dự trù biện pháp đối phó. Nhưng vì cộng sản
Việt Nam rất ít sáng kiến về quân sự và chính trị, nên thực sự việc ấy không khó
khăn như thoạt đầu nhiều người tưởng tượng. Họ chỉ ưa bắt chước và áp dụng
những chiến thuật đã được thử thách ở các nước đàn anh. Bác sĩ Nguyễn Ngọc
Bích, một nhà học giả Việt Nam rất uyên thâm, đã phê bình cộng sản Việt Nam như
sau: “Bất cứ sau một biến cố hay một hành động nào, Việt cộng cũng tổ chức
kiểm thảo để tìm ưu khuyết điểm. Mục đích của kiểm thảo là để tránh những sai
lầm cũ, không phải để hoạch định kế hoạch cho tương lai. Nhưng vì thiếu sáng
kiến nên mỗi lần hoạch định kế hoạch cho tương lai, Việt cộng thường ưa áp dụng
những biện pháp đã từng mang lại thắng lợi trong quá khứ. Họ không đủ sáng suốt
để nhận định rằng mỗi tình hình mới đòi hỏi một kế hoạch thích ứng và hoàn toàn
mới. Chính vì vậy mà Việt cộng thường bị phê bình, mặc dù có đôi khi quá đáng,
là chỉ ưa bắt chước và áp dụng những chiến thuật cũ kỹ, không hề sáng tác được
chiến thuật nào có thể gọi là mới”.
Chỉ có những lãnh tụ cộng sản mới biết rõ những giai đoạn họ đã
vượt qua để lên nắm chính quyền ở Bắc Việt, và cũng chỉ có họ mới biết rõ họ đã
trù tính và ấn định mỗi giai đoạn phải như thế nào. Tuy nhiên những người trong
hàng ngũ kháng chiến họ có đủ kiến thức và óc quan sát để nhận định những sự
việc xảy ra xung quanh họ, phân tích chính sách, đường lối từ trên ban xuống,
rất có thể nghiên cứu và trình bày những sự việc đã qua với một độ chính xác
rất cao.
Với hoài bão tranh đấu cho nền độc lập của xứ sở, ông Hoàng Văn
Chí, tác giả cuốn sách này, đã tham gia kháng chiến ngay từ phút đầu. Mặc dù
ông không phải là môn đồ của chủ nghĩa Mác-xít, và ông thừa biết phong trào
kháng chiến đã bị Việt cộng lũng đoạn, ông vẫn tích cực tham gia, vì ông cho
rằng, nếu những phần tử quốc gia không tham gia kháng chiến sẽ thất bại, và
Pháp sẽ có cơ hội đặt lại nền đô hộ trên đất nước Việt Nam. Nhưng sau khi Pháp
đã thất bại, ông Hoàng Văn Chí không do dự đứng về phe quốc gia để chống cộng
sản.
Trong thời gian kháng chiến, ông Hoàng có điều kiện thuận tiện
để nghiên cứu chiến thuật và lập luận của cộng sản. Ông đã chứng kiến việc cán
bộ Trung Quốc bắt buộc Bắc Việt phải tuân theo đường lối của họ Mao, và ông đã
dự nhiều cuộc đấu tố trong dịp “Cải cách ruộng đất” mà vô số nhân dân Bắc Việt
đã bị giết chóc một cách tàn khốc.
Phần lớn những sự việc tường thuật trong cuốn sách này do chính
ông Hoàng, nghe tận tai, thấy tận mắt. Phần còn lại là kết quả một công cuộc
sưu tầm sâu rộng của ông. Trong suốt cuốn sách, tác giả tường thuật một cách
cặn kẽ cộng sản đã lợi dụng và thao túng phong trào ái quốc giành độc lập như
thế nào, và đã thành lập chế độ cộng sản ở Bắc Việt như thế nào. Chỉ riêng về
phương diện này cuốn sách cũng đã là một công cuộc khảo cứu hết sức quan trọng
về chiến thuật hiện đại của cộng sản. Nhưng, hơn nữa, là vì chính những chiến
thuật ấy lại đương được áp dụng ở Nam Việt, và rất có thể trong tương lai, ở
nhiều nước khác thuộc Đông Nam Á, nên chắc chắn tác phẩm của ông Hoàng sẽ trở
thành một cuốn sách giáo khoa mà mọi người có ít nhiều trách nhiệm chống cộng ở
Á châu đều cần phải nghiên cứu.
Bằng những tác phẩm Anh văn đã từng xuất bản, ông Hoàng Văn Chí
đã cống hiến cho thế giới bên ngoài rất nhiều kiến thức về cộng sản Việt Nam,
và gần đây, trong bài báo mới nhất của ông, nhan đề “Sản xuất lúa gạo dưới chế
độ nông nghiệp tập thể”, đăng trong tạp chí China Quarterly, số 9, tháng 2 năm
1962, ông đã giải thích tại sao nông nghiệp không những thất bại ở Bắc Cao.
Theo thiển ý của tôi thì tác phẩm này sẽ là một trong những tác phẩm tiêu chuẩn
về cộng sản Á châu.
P. J. Honey
Giáo sư trường nghiên cứu Á Phi của Luân Đôn đại học đường
*
Lời tựa của tác giả
Tường thuật giai đoạn cuối cùng của cuộc cách mạng phản đế quốc
ở Việt Nam, cuốn sách này chuyên nghiên cứu một chiến thuật thường được mệnh
danh là “Cải cách ruộng đất”, một chiến thuật mà các lãnh tụ cộng sản Bắc Việt
đã áp dụng để biến cuộc chiến đấu ái quốc giành độc lập thành một công cuộc
thiết lập chế độ vô sản chuyên chính. Đấy là một chiến thuật tinh vi, lợi dụng
tâm lý quần chúng đến triệt để, có thể coi là phần đóng góp lớn nhất của Mao
Trạch Đông đối với lý thuyết Mác-xít-Lê-nin-nít. Theo thiển ý của tác giả thì
“Cải cách ruộng đất” là một trong những sáng kiến quan trọng nhất trong lịch sử
hiện đại.
Bắt nguồn từ chủ trương căn bản của họ Mao là cách mạng vô sản
có thể dùng nông dân làm lực lượng căn bản, “Cải cách ruộng đất” đã được mang
ra thử thách lần đầu tiên, dưới một hình thức thô sơ, trong cuộc nông dân bạo
động ở Hồ Nam năm 1926. Sau khi cuộc bạo động này thất bại và cộng sản Trung
Hoa phải ấn náu ở Diên An, trong hơn mười năm, họ Mao đã nhân đó mà sửa chữa
lại đường lối và kiện toàn lại toàn bộ chiến thuật của ông ta. Nhờ vậy mà sau
khi nắm được chính quyền ở Trung Hoa lục địa, ông Mao đã tiêu diệt được tất cả
các phong trào chống đối, và những thất bại liên tiếp trong các phong trào
“nhảy vọt”, hoặc tiến, hoặc thoái, không lay chuyển nối chế độ do ông thành
lập.
Chiến thuật “Cải cách ruộng đất” mà ông Mao áp dụng trên toàn
thể lãnh thổ Trung Hoa lục địa ngay sau khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được
thành lập là dựa theo hoàn cảnh xã hội và tinh thần của nhân dân Trung Hoa. Chỉ
vài năm sau là chiến thuật ấy được mang áp dụng ở Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo
của một số cố vấn Trung cộng.
Nhân sống ở khu Bốn, là miền cộng sản kiểm soát từ đầu đến cuối,
tôi được dịp chứng kiến phong trào “Cải cách ruộng đất”, vừa thán phục vừa kinh
hoàng.
Trong những trang sau đây tôi cố gắng diễn tả những gì tôi đã
thấy - hoặc đôi khi đã tham dự - với mục đích nhỏ mọn là đóng góp chút ít vào
công cuộc phát triển khoa học xã hội, và đồng thời cống hiến cho các tác giả
ngoại quốc thường viết về Việt Nam hoặc về Á Đông, một vài chi tiết mà từ trước
tới nay họ chưa từng biết.
Toàn bộ vấn đề không thể thu gọn trong một cuốn sách nhỏ, nên ở
đây tôi chỉ nêu lên một cách hết sức khách quan một vài yếu tố chính của vấn đề
Việt Nam. Tôi cũng muốn nhấn mạnh là tôi không định tâm bênh vực hoặc đả phá
một lý thuyết hay một chế độ chính trị nào, vì tôi quan niệm tất cả đều lỗi
thời. Tôi không có hoài bão nào khác là trình bày đúng đắn những kinh nghiệm
xưa và nay của Việt Nam để góp phần xây dựng cho mai hậu, một triết lý hoàn
toàn mới, phù hợp với những phát minh mới nhất của khoa học và kỹ thuật hiện
đại.
Paris, tháng 6, 1962
Hoàng Văn Chí
*
Phần 1 - Cái vinh và cái nhục của một tiểu nhược quốc
“Một việc phi thường mà không một sử gia nào có thể giải
thích một cách thoả đáng - mặc dầu đã nghiên cứu rất nhiều - là: tại sao, sau
hàng ngàn năm đô hộ, dân tộc Việt Nam vẫn không bị đồng hoá, và Việt Nam vẫn
còn là một quốc gia biệt lập.”
Joseph Buttinger (The Smaller Dragon)
Chương 1 - Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một phần đất của Á châu. Vị trí địa lý của Việt Nam
đối với lục địa Á châu quyết định một phần lớn tiền đồ cũng như sứ mạng mà lịch
sử đã giao phó cho dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm nay.
Chúng ta hãy so sánh Âu châu. Âu châu là một đơn vị địa lý duy
nhất, không núi cao, sông không rộng nên trong nội địa Âu châu văn hoá thường
được trao đổi và các nòi giống thường được pha trộn một cách tương đối dễ dàng.
Địa lý Á châu có một điểm trái ngược với Âu châu. Lục địa Á châu bị dãy núi
Hi-ma-lay-a, và tiếp theo là dãy Trường Sơn phân chia thành hai đơn vị địa lý
văn hoá riêng biệt. Đơn vị phía Bắc thuộc ảnh hưởng Trung Quốc, đơn vị phía Nam
chịu ảnh hưởng Ấn Độ.
Việc phân chia địa lý này có rất nhiều ảnh hưởng. Trong khi một
vài tư tưởng và đạo lý có thể truyền bá từ Nam lên Bắc và một vài bộ lạc có thể
từ từ di chuyển từ Bắc xuống Nam, qua dẫy Hi-ma-lay-a, dãy núi này vẫn là một
“Vạn lý trường thành” chặn đứng không cho bên nào tấn công quân sự bên nào.
Chính nhờ vậy mà Ấn Độ và các quốc gia khác thuộc Nam Á đã duy trì được nền văn
hoá, tổ chức xã hội và chính trị riêng của họ, không bị văn hoá Hán tộc xâm
nhập và không hề bị binh mã của “Thiên triều” quấy nhiễu. Ngay cho tới ngày
nay, dãy trường thành này vẫn đóng một vai trò tối quan trọng. Nếu một ngày kia
Ấn Độ và Trung cộng có thể thoả thuận công nhận giới tuyến Mac Mahon là biên
giới thiên nhiên giữa hai nước, và nếu Hoa Kỳ đủ sức bảo vệ Việt Nam Cộng hoà
và duy trì một nền trung lập chân chính ở Lào thì dãy Hi-ma-lay-a-Trường Sơn,
chạy dài từ Kashmir ở phía Tây đến Việt Nam ở phía Đông, sẽ là bức bình phong
đứng giữa hai khối: khối Cộng sản và khối Không cộng sản trên lục địa Á châu.
Chỉ vị kỵ binh của Hán, Nguyên, và Thanh triều không hề vượt qua dãy núi này,
vì không vượt nổi, nên nhiều chính khách ở Nam và Đông Nam Á đã nhẹ dạ tin
tưởng ở cái mà họ mệnh danh là “tình hữu nghị cổ truyền với Trung Quốc”. Khi họ
đề ra thuyết trung lập và sống chung hoà bình, họ đã trông cậy quá nhiều vào dãy
núi này coi như một cái mốc che chở cho xứ sở của họ.
Nhưng những biến cố gần đây đã chứng tỏ rằng bức trường thành
thiên tạo này không còn hiệu nghiệm như xưa, không chặn nổi sự xâm nhập và cả
những cuộc tấn công quân sự của cộng sản. Về phía Tây thì Ấn Độ hiện đương lo
phòng thủ biên thuỳ Ấn-Hoa, còn về phía Đông, Hoa Kỳ đương ra sức bảo vệ Việt
Nam Cộng hoà và Thái Lan khỏi bị rơi vào tay cộng sản. Nhưng so sánh thì các
nước ở phía Đông bị đe doạ nhiều hơn các nước ở phía Tây, vì dãy Trường Sơn phân
cách Lào và Việt không cao và hiểm trở bằng dãy Hi-ma-lay-a phân cách Ấn Độ và
Tây Tạng. Hơn nữa, Bắc Kinh nối liền với Hà Nội bằng một đường xe lửa, mà trái
lại, đường bộ từ Bắc Kinh đến Lhasa, thủ đô Tây Tạng, thì khó khăn, hiểm trở.
Vì vậy nên hiện nay cũng như từ ngàn xưa, Trung Quốc vẫn coi Việt Nam là con
đường thuận tiện nhất cho mọi cuộc Nam tiến.
Nhìn vào bản đồ hai nước (trang 16), chúng ta có thể ví Trung
Quốc với một cái loa phễu khổng lồ, mà Việt Nam là cái cuống phễu vừa hẹp vừa
dài. Hình ảnh cái phễu khổng lồ trên đây có thể giải thích một phần lớn đặc
điểm của nền bang giao Hoa-Việt, nếu chúng ta hình dung Trung Hoa như một chất
lỏng chứa đựng trong loa phễu, và suốt trong lịch sử lúc nào cũng muốn chảy dọc
theo cái cuống phễu để tràn xuống những miền đồng bằng phì nhiêu thuộc Đông Nam
Á. Lịch sử đã giao phó cho Việt Nam nằm ở đầu cuống phễu, một trách nhiệm nặng
nề: ngăn chặn không cho quân lực Trung Hoa tràn qua để xuống tới các đồng bằng
kể trên. Dân tộc Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ ấy, và đã đánh bật trở lại tất
cả các cuộc chinh phạt liên tiếp của các triều đại, Hán, Nguyên, Minh, Thanh,
đặc biệt nhất là các đoàn kỵ binh hùng hậu của Hốt Tất Liệt mà từ Đông sang Tây
không một quốc gia nào kháng cự nổi. Hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử kể trên,
dân tộc Việt Nam không những đã bảo toàn được nền tự chủ của mình, mà còn giữ
cho tất cả các dân tộc khác ở Đông Nam Á khỏi bị Hán hoá.
Theo Hán sử thì ngày xưa, ở phía Nam sông Dương Tử có một trăm
bộ lạc, gọi là Bách Việt. Các bộ lạc này đều bị Hán hoá hoàn toàn, bắt đầu từ
cuộc chinh phạt của Tần Thuỷ Hoàng, thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Theo nhiều học
giả chuyên về nhân chủng và phong tục học thì phần lớn các bộ lạc này thuộc
chủng tộc Inđônêsia. Dân tộc Việt Nam cũng thuộc về khối này. Theo một truyền
thuyết - một truyền thuyết đã trở thành định kiến - nhiều người Việt Nam hiện
còn tin rằng tổ tiên của họ ngày xưa cũng là một trong các bộ lạc Bách Việt,
nhưng đã may mắn thoát khỏi nạn Hán hoá mà tất cả các bộ lạc khác phải
chịu.
Về truyền thuyết này, có một câu chuyện khá lý thú đáng được ghi
lại. Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), và sau khi nhường chức Tổng thống cho
Viên Thế Khải. Ông Tôn Văn sang viếng thăm Nhật Bản, với tư cách là đảng trưởng
Quốc dân Đảng Trung Hoa, và được ông Khuyển Dương Nghị, đảng trưởng Quốc dân
Đảng Nhật, thết tiệc khoản đãi. Giữa bữa tiệc, lừa khi ông Tôn Văn bất ý, ông
Khuyển Dưỡng Nghị đột nhiên hỏi: “Tôi được biết tiên sinh đã có dịp qua Hà Nội,
xin tiên sinh cho biết tôn ý về dân tộc Việt Nam?” Bị hỏi một cách bất thình
lình, ông Tôn Văn đáp: “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng
tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có tương lai”.
Được dịp, ông Khuyển Dưỡng Nghị nói tiếp: “Về điểm này tôi xin phép không đồng ý
với tiên sinh. Ngày nay họ thua người Pháp, vì họ thiếu khí giới tối tân, nhưng
cứ xét lịch sử thì trong số Bách Việt chỉ có họ là thoát khỏi, không bị Hán
hoá. Tôi tin rằng một dân tộc đã biết tự bảo vệ một cách bền bỉ như vậy thì thể
nào sớm muộn cũng sẽ lấy lại được quyền tự chủ”. Ông Tôn Văn đỏ mặt không trả
lời vì biết mình đã nói hớ. Ông hiểu ý ông Khuyển Dưỡng Nghị muốn châm chọc,
cho rằng ông là người Quảng Đông, tổ tiên cũng là “Việt” nhưng kém xa dân tộc
Việt Nam vì đã bị đồng hoá hoàn toàn, không còn chút gì là “Việt” nữa. Sau buổi
tiệc, ông Khuyển Dưỡng Nghị gọi dây nói mời mấy học sinh Việt Nam tị nạn ở Nhật
đến kể chuyện cho nghe tỏ ý hớn hở đã thắng nhà chính khách Trung Hoa trong
cuộc đối thoại. Trong số những người được ông Khuyển Dưỡng Nghị mời đến và
thuật lại câu chuyện có cụ Lê Dư. Chính cụ Lê Dư đã kể lại câu chuyện này cho
tác giả.
Trong hơn hai ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã giữ một vai trò y
hệt dân Sparte ở ải Thermopile. Công nghiệp của dân tộc Việt Nam đối với các
lân bang ở Đông Nam Á chưa được các sử gia công nhận một cách đầy đủ. Có một
điểm cần nêu lên là những Hoa kiều hiện nay đang sống đông đảo ở Singapore,
Malaysia và Inđônêsia đều tới định cư ở những nơi này bằng đường biển, và mới
gần đây. Họ được di cư tới các xứ này một cách dễ dàng vì các chính quyền thực
dân Anh, Pháp, Hà Lan thấy họ cần cù và khéo hơn dân bản xứ.
Trở lại hình ảnh cái phễu khổng lồ, chúng ta có thể hình dung
dân tộc Việt Nam như một cái nút bông ngăn chặn quân lực Trung Hoa không cho
tràn qua, nhưng vẫn để văn hoá Trung Quốc, ví như nước trong, thấm dần qua cái
cuống phễu. Dân tộc Việt Nam thấm nhuần nền văn hoá phong phú này và sử dụng nó
như một lợi khí để tự bảo vệ, và đồng thời Nam tiến chinh phục Chiêm Thành.
Nước này bị xâm chiếm theo kiểu tằm ăn lá dâu và biến khỏi lịch sử năm 1697.
Sau khi đã tiến đến miền cực nam của bán đảo Đông Dương, dân tộc Việt Nam bắt
đầu vòng quanh dãy núi Trường Sơn để tiến vào nội địa Cam-bốt, nhưng muộn quá,
vì người Pháp đã tấn công và chặn lại bắt đầu từ năm 1858. Mặc dầu là nạn nhân
của đế quốc Trung Hoa, người Việt đã có tinh thần đế quốc không kém ai, và dân
Cam-bốt thực sự đã chịu ơn người Pháp cứu họ khỏi bị Việt hoá, mãnh liệt không
kém Hán hoá.
Về ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, có hai điểm đáng được nêu
lên một cách khách quan: đấy là thái độ của thượng lưu trí thức Việt Nam đối
với Trung Hoa và nền văn hoá Hán tộc.
Nói chung thì người Việt vẫn coi người Tầu là kẻ thù lịch sử
(mười lăm cuộc xâm chiếm trong hai ngàn năm, và một ngàn năm Bắc thuộc), nhưng
mỗi khi có nội biến hay ngoại xâm, thường có nhiều người vội vã chạy sang Trung
Quốc để khẩn cầu ngoại viện; và mỗi lần như vậy là một lần đại binh mã Trung
Quốc kéo sang và ngang nhiên chiếm đóng cho tới khi bị đánh bật ra khỏi.
Gần đây, ông Hồ Chí Minh có nhận viện trợ của ông Mao, nhưng, để
bào chữa thái độ của ông, ông nói: “Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc
bao giờ cũng coi nhau như anh em. Chỉ có phong kiến Trung Quốc là kẻ thù của cả
hai”, lý luận của ông Hồ rất thông, nhưng giới trí thức kháng chiến thường
không chấp nhận. Họ phê bình là nguỵ biện.
Một điểm thứ hai đáng được nêu lên là từ ngàn xưa sĩ phu Việt
Nam thường ngưỡng mộ văn hoá Trung Quốc một cách quá mức. Ngay trong thời kỳ tự
chủ, các nho sĩ Việt Nam thường học thuộc lòng từng câu, từng chữ, trong các
kinh, các sách của các vị “thánh hiền” Trung Quốc mà không hề suy luận, phê
phán. Họ sùng bái văn học Trung Quốc đến nỗi họ gọi “chữ Nho” - chữ của người
Tầu - là “chữ ta”, mà chính tiếng Việt, họ lại gọi là “tiếng nôm”. Vì quá lệ
thuộc vào nền văn hoá Trung Quốc nên ngay trong thời đại tự chủ, Việt Nam vẫn
là một chư hầu văn hoá của nước láng giếng phương Bắc. Cũng vì vậy mà số phận
Việt Nam bị gắn liền vào số phận Trung Quốc. Cả hai đều bị phá sản trước sự tấn
công của các học thuyết Tây phương và Mác-xít.
Để sáng tỏ thêm vấn đề, chúng ta có thể đối chiếu Việt Nam với
Nhật Bản. Trước kia cả hai đều là đệ tử của nền văn hoá Trung Quốc, nhưng dù
vậy, thái độ của mỗi nước đối với Trung Hoa có khác. Trong khi các sĩ phu Việt
Nam coi trọng văn học Trung Quốc như chính của nước mình thì người Nhật, vì là
dân đảo quốc, vẫn coi Trung Quốc là ngoại bang và triết học Trung Quốc là một
thứ hàng nhập cảng. Vì vậy mà người Nhật duy trì được tinh thần phê phán, có
thể lựa chọn và hấp thụ một số học thuyết cũng xuất xứ từ Trung Quốc, nhưng bị
Trung Quốc coi là tà thuyết và bác bỏ. Trong số những học thuyết này có học
thuyết Lương tri của Vương Dương Minh (1472-1528) mà các triết gia cận đại coi
là một giải thích Khổng giáo hướng theo thực tế.
Học thuyết này được truyền sang Nhật vào thế kỷ thứ 17. Chính vì
đã hấp thụ được học thuyết Lương tri mà nho sĩ Nhật giữ được một phần nào sáng
suốt, không đến nỗi quá hủ lậu như giới Tống nho Trung Quốc và Việt Nam, và do
đó, họ dễ dàng công nhận giá trị của kỹ thuật Tây phương. Nhờ sự phản ứng kịp
thời của sĩ phu Nhật Bản mà các lãnh chúa Nhật phải thay đổi chính sách, giao
thương với Tây phương và thực hiện cuộc cách mạng Minh Trị (1876) tiến đến công
cuộc canh tân toàn bộ đời sống.
Cũng nên nhắc lại là cũng vào thời kỳ này, học thuyết Lương tri
đã có cơ truyền sang Việt Nam nhưng không thành. Hồi đó một môn đệ của Vương
Dương Minh là Chu Chi Dư hiệu là Thuần Thuỷ, trốn khỏi Trung Quốc sau khi Trung
Quốc bị Mãn Thanh chiếm đóng, và sang tị nạn ở Hội An. Chúa Hiền biết ông là
người hay chữ nên thường mời ông vào cung đàm đạo về văn chương chữ nghĩa. Đấy
là một dịp rất tốt cho nhà triết học Trung Hoa truyền bá học thuyết của mình,
nhưng điều rất không may là chúa Hiền không đủ học vấn đề nhận định những sai
lầm của học thuyết Chu Hy và công nhận những điểm hay của học thuyết Lương tri,
và trong khi đó thì các triều thần, thấy chúa coi trọng ông Chu, cũng tìm cách
làm thân, nhưng chỉ hỏi ông về lý số. Sau khi trú ngụ trên đất Việt Nam trong
mười năm mà không truyền bá được tư tưởng của mình, Chu tiên sinh bèn nghe lời
một lái buôn Nhật, lên thuyền của họ di cư sang Nhật. Ông là một trong những
người đã có công truyền bá học thuyết Vương Dương Minh trên đất Nhật.
Chỉ vì tôn sùng văn hoá Hán tộc một cách quá đáng mà mãi cho tới
khi mất nước hàng chục năm rồi, các nho gia Việt Nam mới nhận thấy Tây phương
cũng có một nền văn hoá không kém và đáng được noi theo. Cho đến cuối thế kỷ
thứ 19, họ nhất định không chịu quan sát thế giới bên ngoài và không bận tâm
đến những phát minh khoa học và kỹ thuật của Tây phương. Trong khi dân tộc Phù
tang hối hả canh tân đảo quốc của họ thì vua Tự Đức vẫn điềm nhiên xướng hoạ
với mấy vị đại thần. Tám bản “điều trần” của Nguyễn Trường Tộ (1853-1871) lần
lượt bị bác bỏ, mà trong khi ấy thì Pháp chiếm Hội An (1858), Nam Việt
(1862-1867), Hà Nội (1873-1882) và hoàn thành cuộc đô hộ năm 1884.
Nhìn lại lịch trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam chúng ta phải
công nhận với sử gia Trần Trọng Kim là sở dĩ Việt Nam giành lại được quyền tự
chủ và xây dựng được một cơ cấu xã hội, chính trị, có nền tảng vững chắc, là
nhờ ở sự hấp thụ và tiêm nhiễm văn hoá Hán tộc, mà bộ phận chính là Khổng giáo
với tinh thần duy lý. Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận định thêm rằng Việt Nam
chỉ thực sự phú cường dưới triều đại Lý, Trần, là thời kỳ mà Phật giáo được coi
là quốc giáo; và trái lại, Việt Nam bắt đầu suy nhược từ cuối Trần, sau khi
Khổng giáo đã chiếm địa vị độc tôn, đánh bật Phật giáo ra ngoài vòng chính trị.
Theo thiển ý của tác giả thì có hai nguyên nhân chính. Một là từ Tống trở đi,
học phái Chu Hy được coi là học phái chính thống đã đưa Khổng giáo vào một
khuôn khổ chật hẹp, hủ lậu và hai là chế độ thi cử dành cho Khổng giáo không đủ
sức hấp dẫn để huy động quảng đại quần chúng tham gia kháng chiến. Vì vậy nên
những vị anh hùng cứu quốc từ Lê Lợi đến Nguyễn Huệ, đều không phải là những
người xuất thân ở cửa Khổng sân Trình. Nói về lịch sử hiện đại thì mất nước với
Pháp vào cuối thế kỷ trước, và đất nước tan tành trong hoàn cảnh hiện nay cũng
chung một nguyên nhân: Tinh thần nô lệ đối với “Trung Hoa vĩ đại”. Về điểm này
sử gia Trần Trọng Kim đã phê bình như sau:
“… Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã
là của Tầu là hay, là tốt hơn cả: từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì
mình cũng lấy Tầu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tầu là giỏi, không bắt chước
được là dở”.
Những sự việc trình bày sau đây sẽ chứng minh hậu quả tai hại
của tinh thần hướng ngoại kể trên.
Nguồn: Nhà xuất bản Chân Trời
Mới, Sài Gòn 1964. Bản điện tử do talawas thực hiện, với một số sửa đổi theo
quy định chính tả của talawas, từ văn bản do ông Nguyễn Quang Duy cung cấp,
từng được công bố trên mạng www.thuvienvn.com, nay không còn tồn tại.
(Tiếp phần 1) Chương 2 -Việt Nam trong lịch sử hiện đại
Mất nước với Pháp
Nghe theo mưu kế của một giáo sĩ đạo Gia tô tên là Pigneau de
Béhaine, thường gọi là Bá Đa Lộc, Pháp bắt đầu can thiệp vào nội tình Việt Nam,
năm 1787, dưới hình thức một giao ước ký với vị giáo sĩ này, đại diện cho
Nguyễn Ánh, hứa việc viện trợ cho Nguyễn Ánh một số thuyền bè và vũ khí để
kháng cự với Tây Sơn. Điều kiện bắt buộc là nếu thắng, Nguyễn Vương sẽ phải
cống nạp hàng năm, giúp Pháp khuyếch trương buôn bán, chinh phục thêm đất đai ở
Viễn Đông và nhường đứt cho Pháp cửa Hội An và quần đảo Côn Lôn. Nhưng ngay sau
khi ký, Pháp ngần ngại không viện trợ và chỉ hai năm sau cuộc đại cách mạng
Pháp bùng nổ, Pháp đình bị lật đổ nên tờ giao ước “bán nước” trở thành giấy
lộn. Suốt trong nửa thế kỷ sau không một chính phủ Pháp nào dám chủ trương
chinh phục Việt Nam vì sợ quá mạo hiểm. Cuộc thôn tính Việt Nam sau này một
phần lớn là do sự vận động của một số võ quan “hiếu động” và của các giáo sĩ
Gia tô muốn mượn gươm súng để khuyếch trương địa vực của Cơ đốc giáo.
Vì vậy nên cuộc xâm chiếm của Pháp có tính cách chập chờn, xúc
tiến trong những lúc tình hình chính trị và kinh tế của Pháp tương đối ổn định,
và tạm thời trì hoãn mỗi khi Pháp có nội biến hoặc ngoại xâm. Mãi đến năm 1880,
vì uy tín quốc gia và vì muốn đua tranh với các liệt cường khác, Pháp mới ấn định
một chương trình cướp đất có quy củ và quyết tâm thôn tính nốt toàn cõi Việt
Nam.
Nhưng Pháp chiếm Việt Nam không phải chỉ vì Việt Nam mà dụng tâm
của Pháp là dùng Việt Nam như chiếc bàn đạp để bành trướng thế lực ở Viễn Đông,
chờ dịp cấu xé Trung Hoa là miếng mồi ngon hơn. Pháp bắt đầu chiếm đóng Nam Kỳ
với chủ tâm ngược sông Cửu Long để tiến lên phía Bắc, nhưng vì sông Cửu Long
không lưu thông được nên Pháp chiếm Bắc Kỳ, hy vọng sẽ tới được Vân Nam bằng
sông Nhị Hà. Cuối cùng Pháp chiếm nốt Trung Kỳ để nối liền Nam, Bắc, và chiếm
luôn cả Lào và Cam-bốt mà Pháp coi là thuộc quốc của Việt Nam.
Từ ngàn xưa, Trung Hoa vẫn mưu tràn qua Việt Nam để Nam tiến.
Lần này, ngược lại, Pháp chủ trương Bắc tiến bằng cách chui qua cái cuống phễu
Việt Nam để thông lên cái loa phễu Trung Hoa. Nhưng tuy không đủ sức để kháng
cự quân đội viễn chinh Pháp, nhân dân Việt Nam cũng nổi loạn liên miên khiến
Pháp phải hao binh tổn tướng, mất nhiều thì giờ vào công cuộc bình định và đặt
nền cai trị, nên Pháp lỡ mất cơ hội Bắc tiến. Trung Hoa đã bừng tỉnh giấc mơ và
thực hiện cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), và Nhật bản, với oai phong một đại
cường quốc đã coi toàn thể Đông Nam Á là “Khối Thịnh vượng chung” của mình. Năm
1940 quân đội Nhật Hoàng tiến vào Đông Dương và tháng 3, 1945, Nhật lật đổ
Pháp, kết thúc 80 năm đô hộ của Pháp ở Đông Dương.
Liên bang Đông Pháp
Trước khi hoàn toàn mất nước, 1884, Việt Nam đã lập ngoại giao
với nhiều cường quốc như Anh, Pháp, I-pha-nho, Hà Lan, Hoa Kỳ, Nhật Bản, v.v.
nhưng sau khi mất nước, thế giới bên ngoài quên đứt hai chữ Việt Nam, vì Pháp
đã cố ý cắt đứt quốc gia Việt Nam thành ba “Kỳ” riêng biệt. Người Việt sinh đẻ
ở mỗi “kỳ” mang theo một “quốc tịch” và bị đặt dưới một chế độ cai trị khác
nhau. Dân “Nam Kỳ” được coi là “thuộc dân” và được hưởng chế độ “thuộc địa”
tương đối rộng rãi hơn chế độ “trực tiếp bảo hộ”, hoặc “gián tiếp bảo hộ” dành
cho Bắc Kỳ và Trung Kỳ.Toà án Nam Kỳ xử theo bộ luật “Dân luật Giản yếu 1883”
do Pháp soạn thảo, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ vẫn theo luật vừa lạc hậu, vừa nghiêm
khắc bội phần. Thực dân Pháp duy trì luật cũ của Nam triều và bộ máy quan lại
để dùng làm công cụ đàn áp gián tiếp, với dụng tâm lẩn tránh trách nhiệm trước
dư luận. Dĩ nhiên các cấp bậc quan lại và triều đình Huế chỉ là cái bung xung
để che đậy cho chính quyền thực dân nấp sau lưng, nắm trọn quyền cai trị. Năm
“xứ” Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Ai-lao và Cam-bốt gộp lại thành Liên bang Đông
Pháp, đặt dưới quyền cai trị của một viên toàn quyền Pháp, vì Pháp nhận thấy
Việt, Miên, Lào, mặc dầu có điểm dị đồng về chủng tộc và văn hoá vẫn có thể hợp
thành một khối địa lý chiến thuật duy nhất. Và quả thực, nếu so sánh Đông Pháp
với thân thể một con người thì, trên bản đồ, dẫy Trường Sơn in hệt xương sống,
và sông Cửu Long, nếu chế ngự được, sẽ là động mạch chính của toàn thể bán đảo.
Bao gồm trong Liên bang Đông Pháp, ba nước đã có dịp trao đổi văn hoá và kinh
tế, và cả ba đã đồng đều phát triển.
Có một điểm chúng ta nên khách quan công nhận là mặc dầu đã gây
nên nhiều tai hoạ không cần phải nhắc tới, đế quốc chủ nghĩa cũng có lưu lại
một công trình hữu ích. Đế quốc đã gộp nhiều tiểu quốc hoặc nhiều bộ lạc nhỏ
thành những đơn vị rộng lớn hơn. Liên bang Xô viết là nước rộng nhất thế giới
chẳng qua là con đẻ của đế quốc Nga-la-tư, và nếu họ Mao tự cho mình quyền mang
quân đội chiếm đóng Tây Tạng và đòi “thu hồi” cả Đài Loan, chẳng qua là vì họ
Mao đã tự nhận là kẻ “thừa tự” của các đấng “Thiên Tử” thuở xưa. Một số khá
đông các quốc gia hiện nay có chân trong Liên hiệp quốc đã được hình thành dưới
chế độ thực dân của các đế quốc Tây phương.
Nhưng ngay về điểm này Liên bang Đông Pháp cũng không được may
mắn như các cựu thuộc địa khác vì ngay sau khi chính quyền thực dân bị lật đổ
thì ba quốc gia liên hiệp lập tức ly khai. Sở dĩ như vậy, một phần lớn là tại
chính quyền thực dân chỉ liên kết ba nước để tiện việc hành chính và quân sự,
trong khi vẫn ngấm ngầm chia rẽ và gây thù oán giữa người Việt, Miên, Lào và
ngay cả giữa người Nam Việt và Bắc Việt. Tuy nhiên, lỗi không phải hoàn toàn ở
người Pháp, vì đứng vào địa vị thống trị, họ phải áp dụng phương ngôn “chia để
trị” và nhân danh là nước “bảo hộ” họ phải ngăn chặn không cho người Việt tràn
vào Miên, Lào. Pháp tìm mọi cách khó dễ không cho dân Trung, Bắc Kỳ di cư sang
Miên, Lào và ngay cả vào Nam Kỳ. Trái lại, để giải quyết nạn nhân mãn ở Bắc kỳ,
họ có ý định đưa bớt dân Bắc Kỳ sang tận một nơi không ai nghĩ đến là xứ
Cameroun thuộc Phi châu. Để thực hiện chương trình này, năm 1938, Pháp cử một
phái đoàn sang thăm dò điều kiện định cư ở Cameroun, nhưng chẳng may vừa mới
tới, một nhân viên phái đoàn là bác sĩ Trần Văn Lai đã mắc ngay bệnh “sốt rét
vàng”, nên toàn bộ kế hoạch phải gác bỏ.
Chỉ vì chính sách “chia để trị” mà sự nghiệp to lớn nhất của
Pháp ở Viễn Đông tức là Liên bang Đông Pháp đã bị tan rã. Bây giờ thêm nạn cộng
sản đã nắm chính quyền ở Bắc Việt, xâm nhập Ai-lao và đang muốn thôn tính Nam
Việt, nền tự chủ của các quốc gia trên bán đảo Đông Dương đương bị đe doạ một
cách trầm trọng.
Sát nách sáu, bảy trăm triệu người Tàu, hiện nay hung hăng hơn
bao giờ hết, hai trăm triệu nhân dân vùng Đông Nam Á khó tránh nạn diệt vong,
nếu họ không đồng tâm nhất trí tìm cách tự vệ. Muốn như vậy, họ phải trông thấy
nguy trước mắt, gác bỏ những tị hiềm cũ và liên kết dưới một hình thức nào đó.
Nhưng khốn thay việc này rất khó thực hiện vì các dân tộc tản mát ở vùng này
không chịu quên những xích mích cũ và vẫn đương đố kỵ lẫn nhau. Vì tình trạng
ấy nên lửa chiến tranh vẫn đang âm ỉ ở Đông Dương, nơi mà nhiều người coi là
gót chân Achille của Thế giới Tự do.
Công cuộc chống Pháp
Suốt trong thời kỳ đô hộ, không lúc nào phong trào chống Pháp ngừng
hẳn và ngay trong những khoảng thời kỳ không có vũ trang kháng cự, cuộc tranh
đấu cũng vẫn tiếp tục dưới hình thức công khai. Thời kỳ ổn định nhất là từ 1918
đến 1929, cũng là thời kỳ mà việc kinh doanh của thực dân phát triển đến mức
cao độ nhất. Mặc dầu, giữa thời đại “hoàng kim” này của chế độ thực dân, một
liệt sĩ Việt Nam là Phạm Hồng Thái cũng ném được một quả bom, mưu giết viên
toàn quyền Merlin trong một bữa tiệc ở Sa Diện, hồi viên toàn quyền này viếng
thăm Quảng Châu, năm 1924.
Ngoại trừ phong trào cộng sản (1925-45) tất cả các phong trào
chống Pháp khác đều theo tôn chỉ quốc gia. Theo thứ tự thời gian, chúng ta có
thể liệt kê mấy phong trào chính như sau: phong trào Cần Vương (1885-1912),
phong trào Văn Thân (1907-08), phong trào Đông Du (1905-39) và Việt Nam Quốc
dân Đảng (1925-22 và 1945-46).
Trong những trang sau đây chúng tôi xin lược qua mấy phong trào
quốc gia, còn phong trào cộng sản sẽ xin kể riêng trong Phần 2.
Phong trào Cần Vương
Phong trào Cần Vương bao gồm nhiều vụ nổi loạn liên tiếp hoặc
đồng thời, nhưng rời rạc không liên kết, như vụ Tôn Thất Thuyết chống Pháp và
mang vua Hàm Nghi ra khỏi kinh thành (1885-88), vụ Phan Đình Phùng khởi nghĩa
(1885-95), vụ Bãi Sậy (1885-89), vụ Hoàng Hoa Thám xưng hùng ở Yên Thế
(1890-1913). Tất cả những vụ nổi loạn kể trên có thể coi là tiếp tục võ trang
chống Pháp và đã lần lượt thất bại vì những người cầm đầu là vua quan hoặc nho
sĩ, không hiểu biết về quân sự tối tân. Một yếu tố thất bại là dưới chế độ Nho
giáo phong kiến người dân không hề được tham gia quốc sự. Đối với họ, sơn hà
Việt Nam là của riêng của vua chúa nhà Nguyễn và việc phòng giữ đất nước là
nhiệm vụ riêng của triều đình. Quan lại xuất thân trong Nho giáo quen thói sống
xa nhân dân hống hách khinh miệt quần chúng nên gặp lúc quốc gia lâm nguy không
khai thác được lực lượng hùng hậu của nhân dân. Vì vậy nên tinh thần yêu nước
của nhân dân không trỗi dậy và chỉ riêng giới sĩ phu thức thời mới nhận thấy
mối hiểm hoạ của nền đô hộ ngoại bang.
Phong trào Văn Thân
Trong mấy chục năm đầu dưới chế độ cai trị của Pháp, nho sĩ Việt
Nam, không khác nho sĩ Trung Quốc, vẫn đinh ninh văn hoá Tây phương kém xa văn
hoá Trung Quốc. Vì vậy nên họ nhất định không cho con cái theo học Pháp văn. Về
phía người Pháp, họ thấy cũng chẳng cần phải khuyến khích, vì quan lại họ tiếp
tục tuyển mộ theo lối khoa cử vẫn có thể cai trị đắc lực dưới sự điều khiển của
họ, qua việc thông dịch của một vài thông ngôn. Pháp chỉ lo đào tạo một số ít
nhân viên tòng thuộc cần thiết cho một vài cơ quan chuyên môn.
Nên nhắc lại là thời kỳ ấy chính quyền thuộc địa hết sức giấu
kín những tư tưởng dân chủ do các triết gia Pháp, như Rouseeau, Voltaire,
Montesquieu đề xướng. Đồng thời trong mấy cuốn sách giảng dạy ở các trường Pháp
Việt những đoạn nói về cuộc đại cách mạng Pháp 1789 cũng chỉ phớt qua. Mãi về
sau, vì đọc những bản dịch sang chữ Hán, xuất bản ở Thượng Hải, các nho gia
Việt Nam mới nhận thấy triết học Tây phương cũng có nhiều điểm thiết thực hơn
triết học Đông phương. Bừng mắt tỉnh dậy, các cụ bèn đốc thúc con cái nộp đơn
xin vào các trường Pháp Việt mà trong suốt một thế hệ các cụ đã tích cực tẩy
chay. Vì trường ốc quá ít ỏi mà chính quyền thuộc địa không muốn mở thêm, nên
các cụ tự ý mở trường để phổ biến kiến thức Tây phương, kể cả các lý thuyết về
kinh tế chính trị (1907). Chính quyền thuộc địa ra lệnh đóng cửa trường và bỏ
tù những người đứng ra tổ chức. Sang năm sau, các cụ Văn Thân bèn mở rộng diện
đấu tranh, huy động nông dân biểu tình trước dinh công sứ các tỉnh, đòi giảm
thuế và mở thêm trường học. Cuộc biểu tình ở Quảng Nam bị đàn áp đẫm máu: nhiều
nho sĩ bị hành quyết tù đầy.
Mãi sau thế chiến thứ nhất, Pháp mới cảm thấy phải thực hiện
chút ít nhiệm vụ “khai hoá” của mình. Họ mở thêm nhiều trường Pháp Việt, tuyển
lựa một số học sinh con nhà quyền quý vào trường Trung học Albert Sarraut ở Hà
Nội, bãi bỏ thi cử khoa bảng (1917) và mở trường Cao đẳng Hà Nội (1918). Việc
phát triển giáo dục cần thiết cho sự phát triển kinh doanh của Pháp, làm cho
một số sĩ phu Việt Nam tin rằng, bằng cách đề huề hợp tác với Pháp cũng có hi
vọng canh tân được xứ sở và dân chủ hoá được chế độ. Người chủ xướng phong trào
là cụ Phan Chu Trinh bị đày ra Côn Đảo, nhưng sau được Hội Nhân quyền can thiệp
và đưa sang Paris năm 1911. Cụ truyền bá lý tưởng dân chủ và kịch liệt lên án
Nam triều, nhưng mặc dầu lời kêu gọi của Cụ được giới trí thức nhiệt liệt hoan
nghênh, cuộc đấu tranh của Cụ vẫn chẳng mang lại được mảy may thay đổi về chính
sách cai trị của người Pháp. Cụ về nước và mất ở Sài Gòn tháng 3 năm 1926. Được
tin cụ Phan từ trần, học sinh trong toàn quốc mặc tang phục để tang Cụ. Pháp ra
lệnh khủng bố, học sinh bãi khoá để phản kháng, nên Pháp lại càng khủng bố
thêm.
Phong trào Đông Du
Cũng vào khoảng đầu thế kỷ, một số các nhà nho khác lại cho rằng
không thể nào đề huề hợp tác được với thực dân Pháp mà phải đấu tranh bằng vũ
khí để giành lại chủ quyền, mới có cơ hội canh tân xứ sở. Hồi đó phong trào
cách mạng đang sôi nổi ở Hoa Nam và tin Nhật Bản chiến thắng Nga-la-tư làm cho
giới nho sĩ Việt Nam tin tưởng ở tinh thần đoàn kết Á châu và mang lại cho họ
hoài bão Á châu sẽ tự giải phóng dưới sự lãnh đạo của Nhật Bản. Cụ Phan Bội
Châu trốn sang Tầu, sang Nhật và cổ động thanh niên bí mật xuất dương. Cụ tổ
chức Việt Nam Quang phục Hội, đặt trụ sở ở Quảng Châu, và thiết lập một hệ
thống bí mật từ Nam chí Bắc. Cụ bôn ba khắp Viễn đông và cùng mấy vị lãnh tụ Á
châu khác thành lập Đông Á Đồng minh Hội.
Cụ có dịp giao du với Tôn Văn, Khuyển Dưỡng Nghị, và nhiều lãnh
tụ Trung, Nhật khác, cùng lý tưởng như cụ và quyên được nhiều tiền cho hội
không kể tiền quyên trong nước, nhiều nhất là ở Nam Việt gởi qua. Cụ xin được
học bổng cho một số đông thanh niên Việt Nam sang nghiên cứu quân sự và chính trị
ở Nhật và ở Tàu. Cụ đưa được chừng bốn chục người vào đại học quân sự Nhật và
một số khác, tác giả chỉ được biết có hai người là cụ Lê Dư và cụ Bùi Uyên vào
đại học Waseda ở Tokyo, và vài chục người khác vào trường Trung ương chính trị
quân sự Hoàng phố. Về sau, những học sinh tốt nghiệp các trường này về nước tổ
chức cuộc bạo động ở Nam kỳ vào năm 1913, tấn công đồn Tà Lùng với khí giới
nhận được của lãnh sự Đức ở Bangkok, xúi giục binh sĩ nổi loạn ở Thái Nguyên,
và cuối cùng là cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn năm 1940.
Giữa lúc phong trào Quang phục Hội đang gặp khó khăn nhưng chưa
tan rã hẳn thì cụ Phan bị ông Nguyễn Ái Quốc lập mưu bán cho Pháp lấy 10 vạn
đồng (hồi ấy một con trâu trị giá 5 đồng). Cụ Phan vốn biết ông Nguyễn Ái Quốc
là cộng sản, nhưng Cụ cho rằng cộng sản cũng nhiệt tình yêu nước như quốc gia,
nên Cụ quý trọng và hoàn toàn tín nhiệm ông Nguyễn. Cụ theo lời ông đến một địa
điểm ở Thượng Hải mà Cụ không biết là thuộc tô giới Pháp. Cụ bị cảnh sát Pháp
bắt và đưa về Việt Nam để xử tội. Giới cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc đều biết
rõ việc này, và một người đồ đệ của ông Nguyễn Ái Quốc đã thuật lại với chúng
tôi rằng sau vụ này ông đã giải thích hành động của ông như sau: Cụ Phan đã già
lẫn, không còn ích lợi cho cách mạng; việc Pháp bắt Cụ và xử án Cụ tất nhiên sẽ
gây phong trào phản đối trong quốc nội, rất có lợi cho tinh thần cách mạng; sau
hết, tiền nhận được của Pháp sẽ dùng để đưa thêm thanh niên trong nước xuất
ngoại.
Việc này ông Nguyễn Ái Quốc đồng mưu với Lâm Đức Thụ [1] (tên
thật là Nguyễn Công Viễn) một thời là đại diện cho cụ Phan ở Hồng Kông và sau
theo cộng sản. Hai người chia đôi số tiền nhận được của Pháp. Về phần ông
Nguyễn Ái Quốc thì quả thật ông dùng tất cả phần tiền của ông để chi phí cho
Thanh niên Cách mệnh Đồng chí Hội do ông tổ chức ở Quảng Châu, nhưng còn Lâm
Đức Thụ thì hắn tiêu xài hết phần tiền của hắn vào cuộc đời sa đoạ ở Hồng
Kông.
Việc buôn bán cách mạng này tiếp tục trong nhiều năm. Mỗi thanh
niên Quang phục Hội đưa sang Tàu phải nộp cho Lâm Đức Thụ ở Hồng Kông hoặc cho
đại diện của hắn ở Quảng Châu hai bức hình nói là để lập hồ sơ xin vào trường
Hoàng Phố. Đến ngày những sinh viên này tốt nghiệp, sẵn sàng lên đường về nước
để hoạt động cách mạng thì số phận của mỗi người đã được định sẵn. Những người
đã nghe theo tuyên truyền cộng sản và đã gia nhập Thanh niên Cách mệnh Đồng chí
Hội thì được an toàn trở về quê hương để hoạt động bí mật. Còn những người vẫn
khăng khăng giữ vững lập trường quốc gia thì hễ qua khỏi biên giới là bị mật
thám Pháp đón bắt, theo ám hiệu của cộng sản, vì họ không thu phục được. Những
thanh niên này bị bắt và đưa dần vào tù, khiến phong trào quốc gia ở Việt Nam
mất liên lạc với trụ sở ở Quảng Châu. Những người trong nước phái ra liên lạc
với bên ngoài cũng hoặc bị cộng sản thu hút, hoặc bị Pháp bắt vào tù. Tình
trạng cứ tiếp diễn đến nỗi những sinh viên tốt nghiệp Hoàng Phố mà không chịu
theo cộng sản thường không dám về nước và chỉ còn cách là gia nhập quân đội
Quốc dân Đảng Tàu. Dần dà phong trào quốc gia mỗi ngày mỗi suy sụp và phong
trào cộng sản mỗi ngày một bành trướng.
Vì đưa thanh niên ra ngoài để sau ít năm bán cho Pháp nên Lâm
Đức Thụ được mệnh danh là “lái thanh niên”. Hắn trở nên cực kỳ giàu có và sống
rất sa hoa ở Hồng Kông. Nhưng chỉ mấy năm sau, vì không còn thanh niên để bán
nên Thụ hết tiền, không còn phương tiện sinh nhai, phải xin Pháp trợ cấp và che
chở cho về Nam Vang, và sau cùng về sinh quán ở Thái Bình. Gặp cuộc khởi nghĩa
Việt Minh, Thụ hoảng sợ, nhưng để thoát thân, hắn bí mật đến yết kiến ông Hồ,
lúc ấy đã trở thành Chủ tịch chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông Hồ hứa
che chở cho Thụ, nhưng bảo Thụ phải về sống yên ổn ở làng, không được tiết lộ
những hoạt động của hai người lúc còn ở Hồng Kông. Thụ về Kiến Xương sống yên
ổn trong mấy năm liền, nhưng vào khoảng năm 1950, khi quân đội Pháp tiến gần
đến huyện, thì cán bộ Việt Minh theo cẩm nang của Đảng đã giao sẵn từ trước, bỏ
Lâm Đức Thụ vào rọ mang trôi sông. Thụ để lại một người vợ Tàu và mấy đứa con
lai.
Nói về cụ Phan, thì sau khi cụ bị bắt, cụ bị mang ra xử ở Hà
Nội, và kết án tử hình. Đúng theo lời tiên đoán của ông Nguyễn Ái Quốc, tin cụ
bắt và bị kết án làm sôi sục dư luận từ Bắc chí Nam. Nhờ phong trào phản đối,
và cũng nhờ chính phủ Cartel de Gauche lên cầm quyền ở Pháp, viên Toàn quyền
Alexandre Varenne, đảng viên Đảng Xã hội Pháp, ân xá cho cụ, nhưng bắt cụ phải
cấm cố tại Huế. Cụ mất ngày 20 tháng 10 năm 1940, vài ngày sau khi quân đội
Nhật đổ bộ vào Việt Nam, việc mà cụ Phan vẫn ước mong trong suốt đời bôn ba của
Cụ. Cụ tin tưởng Nhật Bản sẽ thực tình giúp Việt Nam giành lại độc lập.
Nhật Bản bắt đầu tấn công Pháp ở Lạng Sơn tháng 9 năm 1940 và
giúp nhóm cựu đảng viên Quang phục Hội nổi lên chống Pháp. Nhưng chỉ vài ngày
sau, vì chính phủ Pháp ở Vichy nhượng bộ Nhật, nên Nhật giao trả Lạng Sơn cho
Pháp và sau đó, Pháp triệt hạ những người thân Nhật chống Pháp. Cuộc chiến
tranh Trung-Nhật đã làm cho cụ Phan thất vọng từ mấy năm trước, nhưng trong khi
Cụ nằm trên giường bệnh, tin những đồ đệ cuối cùng của Cụ bị Nhật bỏ rơi và
Pháp xử bắn ở Lạng Sơn hình như hối hả cái chết của Cụ. Mấy ngày trước khi Cụ
từ trần, viên khâm sứ Pháp đến tán tỉnh Cụ và đưa Cụ ký một bức thư cổ vũ
Pháp-Việt đề huề. Không ai rõ vì Cụ đã phủ nhận đường lối đấu tranh của Cụ hay
vì ốm đau mà Cụ mất minh mẫn, nhưng dù sao nhân dân Việt Nam vẫn coi Cụ là một
anh hùng dân tộc trong lịch sử hiện đại.
Phong trào Việt Nam Quốc dân Đảng
Ba phong trào kể trên bao gồm những thế hệ ra đời trước khi mất
nước, hoặc khi mới mất nước. Các nhân vật lãnh đạo đều xuất thân trong Nho giáo
và không biết hoặc biết rất ít về Tây học. Phong trào thứ tư khác hẳn mấy phong
trào trước ở điểm các nhân vật tham gia đều sinh vào đầu thế kỷ, được đào tạo ở
các trường Pháp Việt và có tiêm nhiễm chút ít Tân học. Thế hệ mới này đứng giữa
thế hệ cựu học và thế hệ Tân học hiện nay. Họ giống thế hệ trước về tinh thần
bài Pháp và giống thế hệ sau về tinh thần dân chủ. Nhưng trái lại họ vẫn không
khác các bực tiền bối ở chỗ họ không vọng ngoại, và lập trường của họ không
khác lập trường của phong trào “Tự lập” (Sein-Fein) ở Ái Nhĩ Lan.
Nhưng vì thiếu kiến thức chính trị và kinh nghiệm cách mạng nên
họ không thắng nổi đối thủ là cộng sản và kẻ thù là thực dân. Hồi ấy cộng sản
đã lôi kéo được phân nửa các phần tử yêu nước, và thực dân, với màng lưới mật
thám dầy đặc, đã thừa sức đàn áp. Chung quy, phong trào quốc gia có thể coi là
hậu quả của cuộc đàn áp thanh niên hồi cụ Phan Bội Châu bị bắt và cụ Phan Chu
Trinh từ trần. Phong trào quốc gia phát sâu từ lòng căm hờn cao độ bộc phát
trong tâm hồn giới tiểu trí thức đã giác ngộ chính trị nhân dịp sinh viên bãi
khoá. Sinh viên bắt đầu bãi khoá năm 1925 khi cụ Phan Bội Châu bị bắt. Bị đàn
áp, phong trào lại trỗi dậy vào dịp để tang cụ Phan Châu Trinh. Nhiều học sinh,
sinh viên bị đuổi khỏi trường và cấm không được thi cử. Phần lớn thuộc giai cấp
trung lưu, họ là từng lớp thanh cao nhất của xã hội Việt Nam thuở ấy. Sau Thế
chiến thứ nhất, giai cấp thượng lưu (quan lại và tư sản) đã mất tiết tháo vì bị
sa vào vòng quyền lợi của thực dân ban bố, và lối sống sa đoạ của Tây phương
mang lại. Họ không còn đủ chí khí để hi sinh cho cách mạng. Tuy nhiên một số
con cháu họ có tâm hồn lý tưởng như phần lớn con nhà giàu có hướng theo một tín
ngưỡng mới là chủ nghĩa Mác và lãnh đạo cuộc cách mạng cộng sản sau này.
Người chủ xướng và lãnh đạo phong trào quốc gia là Nguyễn Thái
Học, một cựu sinh viên trường Sư phạm. Những đảng viên khác phần đông là tiểu
thương, tiểu công chức, tư chức và hạ sĩ quan trong quân đội. Một thiểu số là
công nhân và phụ nữ cũng đóng một vai trò quan trọng.
Điều đáng chú ý là Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông có
phần gần vô sản hơn là các lãnh tụ cộng sản. Sự thực thì không một đại điền
chủ, đại tư sản, hay một đại trí thức nào gia nhập phong trào quốc gia, mà trái
lại, phần lớn các lãnh tụ cộng sản đều là con cái quan lại hoặc đại địa chủ.
Nhiều ông là cựu sinh viên trường Cao đẳng Hà Nội hoặc đã từng du học tại
Pháp.
Phần lớn những người tham gia phong trào quốc gia năm 1930 thuộc
thành phần trung lưu. Họ là những người trực tiếp bị thực dân bạc đãi hoặc đàn
áp nên nóng lòng muốn lật đổ chế độ. Trái lại, những người theo cộng sản là con
nhà khá giả, có học thức, có điều kiện để chờ đợi, đủ kiến thức để nhìn rộng
trông xa, nên họ tin tưởng ở một “lý thuyết khoa học” mà họ cho rằng tất nhiên
phải toàn thắng.
Năm 1927, Nguyễn Thái Học và mấy người bạn của ông thành lập Nam
Đồng Thư xã, một nhà xuất bản ở Hà Nội với định ý kiếm lợi để hoạt động chính
trị và đồng thời giác ngộ nhân dân Việt Nam về chính trị quốc tế, truyền bá tư
tưởng dân chủ bằng sách vở báo chí. Chẳng bao lâu Nam Đồng Thư xã bị nhà cầm
quyền ra lệnh đóng cửa nhưng căn nhà vẫn dùng làm nơi tụ họp và rốt cuộc, toàn
nhóm quyết định thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng.
Vì thiếu kiến thức chính trị nên họ chỉ biết theo gương cách
mạng Trung Quốc. Bắt đầu bằng cách dùng ba chữ Quốc dân Đảng và dựa theo chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên.
Để đánh lạc hướng mật thám Pháp, Nguyễn Thái Học có một mưu mẹo
sau này tỏ ra khá có hiệu lực. Ông chia Quốc dân Đảng thành hai nhóm riêng
biệt, một nhóm bán công khai và một nhóm hoàn toàn bí mật. Nhóm bán công khai
gồm nhiều nhân vật mà mật thám Pháp vừa biết mặt vừa quen tên, chỉ có nhiệm vụ
là gây nhiệt khí trong nhân dân. Họ thường xuyên lai vãng Việt Nam Hotel, một
quán cơm của Đảng thành lập ngay giữa phố Hàng Bông, Hà Nội.
Hoạt động ngay trước mặt mật thám Pháp và không làm gì trái pháp
luật, họ làm chiếc bình phong che đậy cho nhóm thứ hai hoạt động bí mật. Vì
chiến thuật này nên Việt Nam Quốc dân Đảng bành trướng rất nhanh. Ở Hà Nội
không ai không biết Việt Nam Hotel và đến tháng Giêng năm 1929. Đảng có tới 120
tiểu tổ bí mật, gồm 1500 đảng viên, trong số có hơn một trăm binh lính. Nguyễn
Thái Học và các lãnh tụ Việt Nam Quốac dân Đảng hi vọng tiếp tục như vậy trong
ít năm nữa, vừa bán công khai vừa bí mật, để chờ thời cơ, đủ lực lượng khởi
nghĩa trước khi có đủ thì giờ sửa soạn.
Tối hôm mùng 9 tháng 2 năm 1929, tên trùm thực dân Pháp là René
Bazin, chuyên việc mộ phu Bắc Kỳ cho các đồn điền cao su Nam kỳ, bị một thanh
niên Việt Nam bắn chết ngay trước nhà hắn.
Vụ này hiện còn là một bí mật. Chàng thanh niên đón Bazin trước
cửa và khi hắn xuống xe thì giao cho hắn một bức thư. Trong khi Bazin đương
loay hoay mở bao thư thì chàng thanh niên rút súng sáu bắn chết tại chỗ. Bazin
lăn quay ra giữa đường, nằm trong tay một mảnh giấy có mấy dòngg chữ “mày là
tên thực dân hút máu Việt Nam”. Mật thám Pháp không tìm ra hoặc tìm ra nhưng
không công bố đích danh thủ phạm. Về vụ này một sử gia Mác-xít là ông Lê Thành
Khôi ghi rằng (trong cuốn Le Việt Nam, Paris 1955,
tr.439) thủ phạm là một tay sai (agent provocateur, của sở mật thám Pháp. Lối
giải thích của ông Khôi có hơi khó tin vì lẽ dưới chế độ Pháp thuộc, và hồi đó
thực dân vẫn nắm trọn quyền cai trị, không lẽ nào bè lũ thực dân phải hi sinh
tính mạng một phần tử trong bọn để kiếm cớ đàn áp. Có một giả thuyết nghe xuôi
hơn là vụ ám sát này do cộng sản chủ trương, vì cộng sản nhắm hai mục tiêu. Một
là làm tan vỡ chương trình của Quốc dân Đảng, hai là gây ảnh hưởng đối với công
nhân các đồn điền cao su của Pháp.
Pháp phản ứng tức khắc bằng cách bắt bớ tất cả những phần tử bán
công khai của Việt Nam Quốc dân Đảng và đưa một số đi Côn Đảo. Nhưng về sau, vì
thiếu bằng cớ nên chừng hai trăm người được tha về. Nguyễn Thái Học vẫn không
bị bắt, nhưng về sau vụ án Bazin, mật thám Pháp biết có nhóm Quốc dân Đảng bí
mật và sợ rằng không hành động ngay thì quá muộn, nên Nguyễn Thái Học ra lệnh
tích cực sửa soạn tổng khởi nghĩa.
Một trong những việc sửa soạn là chế tạo bom, nhưng vì giao phó
công việc pha chế chất nổ cho một học sinh trường Bưởi mới 17 tuổi [2] ,
nên nhiều vụ nổ đã xẩy ra, khiến Mật thám Pháp biết rõ công cuộc đang tiến
hành. Nhiều đảng viên quan trọng bị bắt và Nguyễn Thái Học cũng bị theo rõi.
Trong tình thế bắt buộc, “không thành công cũng thành nhân”, Nguyễn Thái Học ra
lệnh tổng khởi nghĩa và ngày 10/2/1930. Nhưng sau ông lại ra lệnh hoãn đến 15 tháng
2. Vì giao thông khó khăn nên lệnh hoãn không tới kịp đồn Yên Bái. Kết quả đồn
này khởi nghĩa đúng ngày 10 tháng 2.
Dĩ nhiên là Pháp thẳng tay đàn áp. Làng Cổ Am là nơi các lãnh tụ
họp bị ném bom, và chỉ trong vài tuần là tất cả guồng máy lãnh đạo bị bắt gần
hết. Ngày 17/7/1930 mười ba chiếc đầu rơi ở Yên Bái, trước khi hô to “Việt Nam
muôn năm”. Cô Giang, ý trung nhân của Nguyễn Thái Học, trà trộn vào đám đông để
chứng kiến vụ hành quyết. Sau đó cô về làng họ Nguyễn, ngồi dưới gốc cây đa đầu
làng và dùng súng lục tự vẫn [3] .
Nhưng một số đảng viên cũng trốn thoát sang Tàu và thành lập lại
Việt Nam Quốc dân Đảng. Nhân dịp Nhật đầu hàng, họ trở về nước và cùng một lúc
chiến đấu chống Việt Minh mới nhanh tay cướp chính quyền, và chống Pháp đương
ra sức chiếm lại Việt Nam. Họ chiến đấu với một tinh thần vô cùng anh dũng
nhưng vì cấp lãnh đạo thiếu đường lối chính trị nên không được đa số nhân dân
ủng hộ. Họ được quân đội Lư Hán tích cực giúp đỡ nhưng sau khi quân đội này đột
nhiên rút khỏi Việt Nam, họ bị cộng sản tức khắc tấn công và tiêu diệt. Theo
lời ông J. H. Brimmel, tác giả cuốn Communism in South East Asia,
trang 181, thì Pháp không những để mặc mà còn giúp cộng sản phương tiện để tấn
công phe quốc gia vì cộng sản đã thoả thuận nhường cho Pháp một vài thuận lợi
nào đó.
Bị đánh bật sang Tàu, nhóm Việt Nam Quốc dân Đảng lại tổ chức
lại, nhưng chẳng bao lâu Hồng quân của họ Mao đã tràn qua sông Dương Tử tiến
xuống Hoa Nam. Vị lãnh tụ mới là Vũ Hồng Khanh mang một vạn quân, phần lớn là
người Tàu, trở về Việt Nam. Việt Minh tránh đường cho toán quân này kéo qua,
nhưng Pháp mang lục quân và không quân ngăn chặn, bắt họ phải thừa nhận uy
quyền của chính phủ Bảo Đại. Từ đó Việt Nam Quốc dân Đảng không còn là một đảng
chính trị có tổ chức [4].
*
Phần 2 - Nước mất lại còn
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
("Bình Ngô đại cáo", 1427)
Chương 3 - “Bác Hồ, vị cứu tinh của dân tộc”
Nhìn một cách tổng quát thì có thể nói Cách mạng Việt Nam bắt
đầu bằng phong trào quốc gia và kết thúc với chế độ cộng sản. Trong hai thế hệ
liên tiếp những người Việt Nam yêu nước đã đấu tranh giành độc lập quốc gia. Họ
không thành công nhưng họ giữ ngọn lửa cách mạng không lúc nào tắt hẳn, và
những kinh nghiệm xương máu của họ đã giúp cho cộng sản chiến thắng với danh
nghĩa giải phóng quốc gia, sau một thời kỳ hoạt động trong bóng tối tương đối
ngắn hơn. So với phe quốc gia, cộng sản ít bị thiệt hại hơn, và đã thành công
tương đối dễ dàng vì nhiều lý do. Trước hết là nhờ sự lãnh đạo khôn khéo của Đệ
Tam Quốc tế và hai là nhờ lòng quả cảm của các đảng viên cộng sản. Hơn nữa, vì
chủ nghĩa Mác-xít có tính cấp tiến nên cộng sản đã thu hút được những phần tử
trí thức có lý tưởng, đồng thời huy động được đông đảo quần chúng bằng cách hứa
hẹn một con đường tắt đưa tới mức sống cao hơn. Vì tất cả những yếu tố này mà
cộng sản mỗi ngày một mạnh thêm, trong lúc phong trào quốc gia mỗi ngày một suy
yếu dần. Nhưng cuối cùng sở dĩ cộng sản đã thành công, phần lớn là nhờ những
chiến thuật hết sức biến ảo, lúc thì hiện hình là cộng sản, lúc thì tự nhận là
quốc gia, tuỳ theo tình thế đổi thay mà vẫn giữ kín mục tiêu chiến lược bất di
bất dịch của mình.
Cộng sản bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ 1925, là năm ông Hồ Chí
Minh thành lập Thanh niên Cách mệnh Đồng chí Hội, tuyển mộ các đảng viên đầu
tiên trong nhóm thanh niên Việt Nam mà phe quốc gia đã đưa sang Trung Hoa. Hai
mươi năm sau, khi lên nắm chính quyền ở Hà Nội, năm 1945, dưới ngọn cờ Việt
Minh, Hồ Chí Minh vẫn còn đội lốt một nhà lãnh tụ quốc gia.
Đối với Việt cộng, chiêu bài đấu tranh giai cấp chỉ mang lại cho
họ một chút ảnh hưởng trong quần chúng mà không giúp cho họ đạt được thắng lợi
to lớn nào cả. Chỉ những khi họ đội lốt quốc gia đấu tranh chống thực dân Pháp
mới đạt được những thắng lợi quan trọng, chứng cớ là trong khoảng thời gian từ
năm 1946 đến năm 1951 Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải tuyên bố tự giải tán và
rút lui vào bóng tối, mặc dầu họ vẫn kiểm soát nhân dân và quân đội. Ở một nước
bán khai như Việt Nam không có lấy một người xứng danh là tư bản thì dĩ nhiên
đấu tranh giai cấp chẳng có lợi mấy cho cộng sản, còn giai cấp vô sản vì quá ít
ỏi nên thực ra chẳng đóng một vai trò nào đáng kể trong sự xuất hiện của chủ
nghĩa cộng sản. Những yếu tố sau này đã giúp cho cộng sản nhiều nhất chính là
những yếu tố mà trong hoàn cảnh bình thường đáng lẽ đã đưa đến một cuộc cách
mạng thuần tuý quốc gia. Những yếu tố đó là chế độ thuộc địa của Pháp, đặt trên
nền móng bất bình đẳng dân tộc, và tính chất hà lạm của quan lại phong kiến gây
bất mãn trong nhân dân và tiêu huỷ mọi hy vọng canh tân và dân chủ hoá chế độ.
Cộng sản thành công chỉ vì quốc gia bất lực không hoàn thành nổi sứ mạng lịch
sử của mình. Thẳng thắn mà nói, phong trào quốc gia thất bại một phần vì không
đủ sức chống lại sự đàn áp của thực dân, nhưng một phần cũng vì bị cộng sản xâm
lấn và làm cho tiêu hao lực lượng bằng mọi mánh khoé và cuối cùng bị tiêu diệt
bằng võ lực.
Trong hoàn cảnh ấy lãnh đạo cộng sản Việt Nam không cần phải là
một lý thuyết gia uyên thâm mà là một nhà “xách động chuyên nghiệp” có đủ tài
ba để giả dạng làm một lãnh tụ quốc gia. Năm 1926, Đệ tam Quốc tế đã giao cho
ông Hồ Chí Minh công tác khó khăn này, và ông đã thành công vì ông có đủ những
đức tính cần thiết để đóng vai một lãnh tụ nửa cộng sản nửa quốc gia.
Nhân dân Việt Nam bắt đầu nghe tên Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm
1945. Ngày 28 tháng 8 năm đó (nghĩa là ngay sau ngày Việt Minh cướp chính
quyền) báo chí Hà Nội công bố thành phần Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà mới thành lập do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Trước đấy, chưa ai nghe
đến tên Hồ Chí Minh bao giờ, và mọi người đều thắc mắc về cái tên hơi kỳ lạ đó.
Nhiều người cho rằng cái tên đó văn hoa quá không phải là tên thật mà chỉ là
tên hiệu.
Dư luận bàn tán về lý lịch ông Hồ Chí Minh, nhất là các nhân
viên trong tân chính phủ hồi ấy lại càng băn khoăn hơn, và tất cả đều nóng lòng
muốn biết rõ ông Hồ là ai và tên thật là gì. Nhưng rồi cũng chẳng phải chờ lâu,
vì chỉ mấy hôm sau bắt đầu có tin đồn Hồ Chí Minh là tên mới của Nguyễn Ái
Quốc, con người bí mật đã từng “khai sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Khi nghe tin đồn này, sở Mật thám Pháp đã lập tức lục lại hồ sơ
để tìm ảnh Nguyễn Ái Quốc. Theo hồ sơ chính thức thì Nguyễn Ái Quốc đã chết ở
Hồng Kông năm 1933. Khi đem so sánh bức ảnh đã phai nhạt của Nguyễn Ái Quốc với
những tấm ảnh của ông Hồ bán đầy đường Hà Nội, sở Mật thám Pháp mới biết họ
Nguyễn vẫn còn sống, và sau 10 năm ẩn náu trong bóng tối đã trở lại chính
trường dưới cái tên Hồ Chí Minh. Các chuyên viên sở Mật thám Pháp quyết đoán Hồ
Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc mặc dầu sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét
mặt họ Nguyễn có thay đổi rất nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh
đều nhọn, trong khi tai bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông Hồ cứ chối như Cuội,
nói rằng mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện
Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, ông vẫn một mực chối
cãi.
Riêng đối với người Việt thì ông Hồ không chối thẳng nhưng cứ
trả lời loanh quanh. Thí dụ như trong năm 1946, ông đáp tầu Dumont D'Urville
trở về Hải Phòng sau hội nghị Fontainebleau. Cùng đi trên chuyến tàu này có bốn
chuyên gia Việt Nam mà ông Hồ đón từ Paris về nước. Một trong bốn ông là ông Võ
Quý Huân, có hỏi ông Hồ: “Thưa chủ tịch, chủ tịch có biết ông Nguyễn Ái Quốc
hiện nay ở đâu không ạ?” Ông Hồ chỉ mỉm cười và đáp: “Chú tìm ông ấy mà hỏi,
tôi đâu biết”.
Không những ông Hồ chỉ giữ kín lý lịch của ông mà đến quê quán
gốc tích của ông, ông cũng hết sức bí mật. Trong một bản danh sách ứng cử quốc
hội năm 1946, ông khai sinh quán ở Hà Tĩnh; nhưng hiện nay ai cũng biết rõ ông
sinh quán ở Nghệ An. Việc này được phơi bày công khai năm 1958 khi một phái
đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ.
Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã thú nhận ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn
Ái Quốc. Tạp chíTranh ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Việt Nam
Thông tấn xã (Bắc Việt) ấn hành, trong số tháng 8 năm 1960, có đăng bức ảnh
Nguyễn Ái Quốc với dòng chữ chú thích “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh)
năm 30 tuổi, đang bôn ba hoạt động ở hải ngoại”.
Mặc dầu lý lịch của ông Hồ đã được xác định rõ rệt, thế giới tự
do vẫn không biết mấy về con người kỳ lạ ấy, và phần lớn những hoạt động của
ông Hồ vẫn chỉ có Đệ Tam Quốc tế biết rõ mà thôi. Tất cả những điều ghi chép về
ông Hồ chỉ là dựa vào tập hồ sơ mong manh của mật thám Pháp, Anh và những lời
thuật lại của một vài người đã có dịp gặp ông.
Trong lúc người Pháp đang ngắm nghía những bức ảnh của ông Hồ và
dùng kính viễn vọng để nhìn mặt ông mỗi khi ông ra mắt công chúng thì tất cả
nhân dân Việt Nam đều nhất nhất coi ông Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc vì họ
không tin được rằng trong cùng một thời đại mà một nước lại có thể sinh ra hai
người có tài trí như ông Hồ. Ông Hồ nói lưu loát hàng chục thứ tiếng và đã từng
chu du khắp thế giới dưới nhiều biệt danh, nửa đời sống trong khám đường - có
thể cả khám đường Xô-viết - và nửa đời hoạt động chính trị trong bóng tối. Ông
hơn hẳn các đối thủ chính trị của ông về cả chiến thuật cách mạng lẫn kinh nghiệm
chính trị. Hồi thiếu thời ông đã đọc rất nhiều cổ thư Trung Hoa và sau đó tiếp
tục tự học trong khi bôn ba khắp châu Âu và châu Mỹ. Suốt trong thời kỳ ấy, ông
hoạt động quan sát và học hỏi ở bạn bè cũng như trong sách báo. Cuối cùng ông
đã được Đệ Tam Quốc tế huấn luyện một cách kỹ lưỡng và có quy củ: do đó ông đã
hấp thụ được ba nguồn văn hoá khác nhau nhưng có giá trị tương đương; văn hoá
Đông phương, Tây phương và Mác-xít. Ông nói chuyện lưu loát với bất cứ ai, dù
là nông dân Việt Nam, quân phiệt Trung Hoa, triết gia Ấn Độ hay là nhà báo Tây
phương.
Trong suốt thời kỳ hoạt động chính trị trong bóng tối ông Hồ đã
phải dùng nhiều mánh khoé, mưu mẹo, để trốn tránh cạm bẫy của công an và phá
hỏng kế hoạch của kẻ thù. Nhờ sự tập dượt ấy mà ông Hồ đã trở lên một địch thủ
vô song, vì qua bao nhiêu năm trời, ông đã học được cái tài đánh lạc hướng bất
cứ ai muốn theo dõi ông. Ông đã nhiều lần trốn thoát khỏi tay quốc gia Việt
Nam, Trung Hoa Quốc dân Đảng và các cơ quan tình báo Anh, Mỹ.
Ngoài trí thông minh xuất chúng, ông Hồ còn có một nhân phẩm rất
cao. Nói tóm lại, ông có đủ những đức tính cần thiết của một nhà lãnh tụ. Nếp
sống thanh bạch, lòng nhẫn nại, ý chí sắt đá và sự tận tâm của ông đối với cách
mạng là một nguồn phấn khởi cho tất cả những ai đã làm việc dưới quyền ông và
phụng sự đất nước nói chung. Nhiều người cho rằng ông Hồ đã thừa hưởng tinh
thần cách mạng của tổ phụ và của những người đồng hương. Nhẫn nại, thanh đạm và
cần cù là những đức tính thường thấy ở người dân Nghệ An, nơi sinh quán của ông
Hồ. Ông Hồ đã phát huy những đức tính người Nghệ, gần giống đức tính của người
Nhật Bản, nhưng khác ở chỗ là nói chung người Nhật hết sức có kỷ luật, còn
người Nghệ An thì thường có khuynh hướng chống lại tất cả mọi chính quyền.
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Nghệ An vẫn là đất cách mạng, và cách đây chưa
đầy 10 năm, vào năm 1956. Nghệ An đã là trung tâm cuộc khởi nghĩa của nông dân
chống lại chính chế độ của ông Hồ.
Nhờ tuyên truyền khôn ngoan và những câu chuyện truyền kỳ thêu
dệt, mà trong những năm kháng chiến, trước khi xảy ra những vụ đấu tố trong
phong trào “Cải cách ruộng đất”, ông Hồ Chí Minh đã được dân chúng coi là thánh
sống. Trên bàn thờ gia đình nào cũng có ảnh của ông Hồ, và riêng ở một vài nơi
như ở Quảng Ngãi chẳng hạn, nông dân thường vái chân dung ông Hồ mấy cái vái
trước khi ra đồng làm việc.
Ông Hồ sống rất thanh đạm, những gì là xa xỉ không cần thiết
không bao giờ ông dùng đến. Ông chỉ có mỗi tật là nghiện thuốc lá Mỹ và ông hút
luôn mồm. Trong nhiều năm trời, ông ăn mặc in hệt một nông dân, bên ngoài khoác
một chiếc “Blouson” Gia-nã-đại và đi dép cao su lốp ô tô. Nhìn cách ăn mặc của
ông, ai cũng biết ông đã hiến cuộc đời của ông để phục vụ nhân dân. Ông Hồ đã
bỏ nhà ra đi từ ngày trẻ tuổi, và không có vợ con, cho nên không ai có thể gán
cho ông chủ trương gia đình trị hoặc tệ tham nhũng được. Ông Paul Mus, sứ giả
của chính phủ Pháp đến gặp ông Hồ vào năm 1947 để đàm phán ngưng chiến, đã có
nói như sau: “Ông Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng cương trực và thanh liêm
không khác Saint Just”.
Câu so sánh này là một lời khen vàng ngọc đối với bất cứ một
chính khách nào, vì trong thời đại này, nhất là ở cái nước kém mở mang, hiếm có
những chính trị gia hoàn toàn thanh liêm. Thành thử, riêng về phương diện đạo
đức, ông Hồ đã được toàn dân Việt Nam kính mến trọng vọng. Ông thành công phần
lớn là nhờ nổi tiếng cần kiệm liêm chính, vì ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước
khiếm khai thác, quần chúng thường tin tưởng ở nhân phẩm và tác phong của vị
lãnh tụ, hơn là ở chương trình chính trị của các đảng phái.
Nhìn lại quá khứ, ta thấy không một đối thủ nào của ông Hồ có cơ
thắng ông cả. Ông Nguyễn Hải Thần, đồng chí và là người kế vị của Phan Bội
Châu, là một nhà ái quốc chân chính, nhưng trong 40 năm lưu vong ở Trung Quốc,
ông không may đã bị nghiện thuốc phiện. Cựu hoàng Bảo Đại, mà người Pháp tái
phong làm “Quốc trưởng” năm 1949 đã mang tiếng là một người chơi bời, sống một
cuộc đời truỵ lạc trong hơn 20 năm. Sau chót là ông Ngô Đình Diệm, nhờ áp lực
của Mỹ mà cầm quyền ở Miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1963. Ông Diệm và ông Hồ
khác nhau về mọi mặt. Trong lúc ông Hồ từ bỏ gia đình từ hồi thanh niên thì
trái lại, ông Diệm lúc nào cũng đùm bọc anh em và họ hàng thân thích, giao cho
họ quyền cao chức trọng trong chính phủ và trong quân đội. Trong khi ông Hồ
chuyện trò thân mật với thợ thuyền và dân quê thì ông Diệm ngồi bảnh choẹ trên
chiếc ghế mạ vàng, thò chân cho các tù trưởng dân tộc thiểu số hứng lấy để rửa,
y hệt vua chúa thuở xưa nhận lễ quy thuận của người Thượng.
Một điểm quan trọng mà các quan sát viên ngoại quốc thường không
để ý đến là sự phẫn nộ của nhân dân Việt Nam trước nạn tham nhũng của quan lại
mà chính quyền thực dân vẫn hay dung túng. Chỉ riêng nạn quan lại tham nhũng
cũng đủ là một động cơ thúc đẩy nhiều người hướng theo cách mạng. Bất cứ người
nào mưu loạn, không cần biết họ theo tôn chỉ, lý thuyết nào, cũng được nhân dân
Việt Nam hâm mộ “coi là một đấng trượng phu quả cảm đứng ra bênh vực lẽ phải và
công lý”. Đối với nhân dân Việt Nam, bọn quan lại làm tay sai cho thực dân để
lên xe xuống ngựa, “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” sống xa hoa giữa một xã hội
đói rách, không những có tội “mãi quốc cầu vinh” mà còn làm gai mắt thiên hạ vì
thói “no lưng ấm cật”. Có nhiều nguyên nhân gây lên cách mạng, nhưng ở Việt
Nam, nguyên nhân chính là lòng dân khao khát muốn diệt trừ quan lại tham nhũng
và cường hào ác bá. Theo sự suy xét của người thường dân Việt Nam thì cách mạng
là đấu tranh giữa “liêm” và “vô liêm”, giữa “chính” và “bất chính”, còn vấn đề
chủ nghĩa mà sau này cộng sản gài thêm vào chỉ là yếu tố phụ. Cứ xét theo điểm
này, cũng đủ biết viên cựu hoàng đế Bảo Đại cũng như viên cựu quan lại Ngô Đình
Diệm không tài nào địch nổi Hồ Chí Minh, con người cách mạng thuần tuý, điển
hình đạo đức, hay theo lời Paul Mus: Saint Just của thế kỷ thứ 20.
Ông Hồ sinh tại làng Kim Liên huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, vào
ngày tháng nào không ai biết mà có lẽ cũng không nhớ, nhưng sau khi làm chủ
tịch, ông nhận đại là ngày 19 tháng 5 năm 1890, vì năm 1946, đúng ngày 19/05
Cao uỷ của Pháp là D'Argenlieu tới Hà Nội. Ông Hồ lấy cớ là ngày sinh nhật của
ông để buộc D'Argenlieu phải thân hành đến chúc thọ ông trước. Theo tục lệ ngày
xưa ông Hồ được cha mẹ lần lượt đặt cho hai tên. Một tên “cúng cơm” lúc nhỏ và
một tên “bộ” khi đến tuổi đi học. Tên cúng cơm của ông là “Côông”. Sự thực là
Cung, nhưng vì muốn sau này con cháu khỏi phải kiêng chữ “cung” nên đặt chệch
ra là “Côông”. Tên “bộ” của ông là Nguyễn Tất Thành. Sau này, ông còn tự đặt
nhiều tên, nào là Nguyễn Ái Quốc, Lý Thuỵ, Victor, Song Man Tcho, Vương Sơn Nhi,
Hồ Chí Minh, v.v., cốt để thay hình đổi dạng tuỳ theo công tác bí mật của
ông.
Ông xuất thân trong một gia đình Nho giáo, tiểu địa chủ và tiểu
quan lại như đa số những người có chữ nghĩa thời ấy. Ông nội đỗ cử nhân được bổ
làm tri huyện triều Tự Đức nhưng vì gàn bướng nên bị cách chức. Thân phụ ông
đậu phó bảng, tên là Nguyễn Sinh Huy, sau đổi là Nguyễn Tất Sắc, thường gọi là
cụ Bảng Sắc. Cụ không làm quan và tham gia phong trào Văn Thân. Bị đày ra Côn
Đảo vài năm rồi đưa về cầm cố ở Sài Gòn. Trong thời kỳ này cụ làm nghề bồi
thuốc, và theo nhiều người kể lại thì cụ không lấy tiền, chỉ cần một ngày hai
bữa do gia đình bệnh nhân cung phụng, như tục lệ bấy giờ. Sáng sớm cụ thường
ngồi trước cửa chợ Bến Thành, chờ người mời đi chữa bệnh. Nhưng một hôm cụ ngồi
suốt từ sáng đến chiều mà không được ai mời cả. Mãi gần tối, một ông bạn đi qua
thấy cụ vẫn cứ ngồi yên, mới nhắc cụ là Mồng một Tết, không ai rước thầy lang
về nhà. Cụ mới nhớ ra và nhận lời ông bạn mời về nhà dùng cơm.
Ông Hồ là con út trong gia đình. Khác các anh chị, ông Hồ được
theo học trường Pháp Việt vì một ông cố đạo khuyên cụ Bảng như vậy. Ông đậu
bằng Cơ Thuỷ năm 1907 và được bổ làm hương sư nên thường gọi là cậu giáo Thành.
Phong trào Văn Thân thức tỉnh lòng ái quốc của ông và sau khi nghe nói cụ Bảng
được đưa về Sài Gòn, ông bỏ việc vào thăm cụ.
Bà chị ông Hồ là Bạch Liên, cũng nổi tiếng là một phụ nữ có khí
phách cách mạng. Hồi còn trẻ bà đính hôn với Mai Ngọc Ngôn, người đã đỗ tú tài,
nhưng chưa kịp cưới thì vị hôn phu của bà bị bắt đưa ra Côn Đảo và chết ngoài
đó. Bà ở vậy, không lấy chồng và mất vào khoảng năm 1953.
Anh ruột ông Hồ là Nguyễn Tất Đạt, thường gọi là ông Cả Đạt. Ông
học tài thi phận nên kiếm ăn bằng nghề gõ đầu trẻ. Năm 1946, nghe tin ông Hồ đã
trở thành chủ tịch chính phủ, hay nói đúng hơn, chủ tịch Hồ Chí Minh chính là
em ruột ông, ông đáp tàu ra Hà Nội mong gặp em sau hơn 30 năm xa cách. Nhưng
hồi ấy ông Hồ còn đang dấu tung tích nên không dám tiếp ông anh ở Bắc Bộ phủ.
Ông gửi ông Đạt ở nhà một người đồng hương là ông Mai Ngọc Thiệu, và tối ông
đến thăm. Hai anh em trò chuyện hồi lâu, sau đó ông Đạt lẳng lặng về Nghệ.
Chừng hai năm sau ông Đạt mất, không có dịp gặp ông Hồ trở lại.
Sau khi ông Hồ vào Sài Gòn thăm cha, cụ Bảng Sắc bàn bạc với mấy
cụ cách mạng khác và quyết định tìm cách cho ông Hồ sang Pháp. Mấy cụ thu xếp
cho ông Hồ xuống làm “bồi” dưới tàu La Touche - Treville chạy đường Sài Gòn -
Marseille. Năm 1912 ông Hồ xách khăn gói xuống tàu, mang theo một bức thư cụ
Bảng viết cho cụ Phan Chu Trinh, hồi đó ở Paris, mà cụ quen ngày ở Côn Đảo. Cụ
Bảng ngỏ ý muốn nhờ cụ Phan dìu dắt ông, lúc bấy giờ còn là một thiếu niên mới
lớn lên. Cụ cũng căn dặn ông Hồ phải hết sức nghe lời cụ Phan.
Tới Paris, ông Hồ đưa trình cụ Phan bức thư giới thiệu của cụ
Bảng, và ở với cụ Phan trong một thời gian. Nhưng ít lâu sau ông Hồ không tán
thành chính kiến của cụ Phan, nhất là chủ trương đề huề hợp tác với Pháp. Thất
vọng, ông Hồ trở lại làm “bồi tàu”, bôn ba khắp năm châu bốn bể, trước khi dừng
chân ở Luân Đôn. Trong một chuyến đi ông Hồ có ghé qua Sài Gòn thăm cha là cụ
Bảng. Hai cha con chưa kịp hàn huyên thì cụ Bảng đã vác gậy rượt đuổi theo ông
Hồ, vì từ trước cụ Phan đã biên thư cho cụ Bảng kể chuyện bất đồng chính kiến
giữa cụ và ông Hồ ở Paris. Ông Hồ bèn trở xuống tàu, và từ đây ông không gặp cụ
Bảng một lần nào nữa. Có thể vì câu chuyện này mà một phần nào ông Hồ đã quyết
tâm cắt đứt mọi liên hệ với gia đình. Ngày nay dòng dõi cụ Bảng sắc chỉ còn một
mình ông Hồ, vì ông Cả Đạt có lấy vợ nhưng không có con [5] .
Ông Hồ ở Luân Đôn từ 1913 đến 1917, làm phụ bếp cho khách sạn
Carlton dưới quyền một người đầu bếp Pháp nổi tiếng, tên là Escoffier. Ngoài
giờ làm việc ở khách sạn ông hoạt động cho Liên hiệp Công nhân Hải ngoại, một
tổ chức bí mật chống thực dân do công nhân Hoa kiều và Ấn kiều thành lập ở Luân
Đôn. Hồi Thế chiến thứ nhất sắp kết thúc, bạn bè ở Luân Đôn khuyên ông nên sang
Pháp tổ chức một phong trào tương tự vì ở Pháp hồi đó có 60.000 Việt kiều cư
ngụ (hoặc đi lính Pháp). Tại Paris, ông gặp Nguyễn Thế Truyền, một kỹ sư hoá
học. Ông Truyền giới thiệu ông Hồ với một nhóm ái quốc thuộc các thuộc địa khác
của Pháp hồi ấy cũng đang lưu vong ở Ba Lê. Nhóm này thành lập một hội mệnh
danh là “Liên hiệp Thuộc địa”, xuất bản một tờ báo lấy tên là Le Paria;
đồng thời ông Hồ và ông Truyền cũng bí mật xuất bản tờ Việt Nam hồn,
nhờ những người Việt Nam “làm tàu” lén đưa về Việt Nam. Một mặt khác, dựa vào
những tài liệu do Liên hiệp Thuộc địa cung cấp, ông Hồ viết cuốn Le
Procès de la Colonisation Franciaise (Bản án chế độ thực dân Pháp).
Nguyễn Thế Truyền đề tựa cuốn sách, hồi ấy ông Truyền đã nổi tiếng trong giới
khuynh tả ở Pháp. Ông Truyền còn giúp ông Hồ soạn thảo bản “Chương trình 8
điểm” mà ông Hồ mang vào Versailles, định đưa cho tổng thống Woodrow Wilson,
nhân dịp ông này đến Versailles để ký hoà ước với Đức. Trong “Chương trình 8
điểm” ông Hồ đòi tự trị, tự do dân chủ, ân xá các chính trị phạm, bình đẳng
Pháp-Nam, và bãi bỏ chế độ “làm xâu”, thuế muối và chính sách bắt dân tiêu thụ
rượu ty. Nhưng lính Pháp không cho ông Hồ vào gặp tổng thống Wilson. Do đó ông
không có dịp vận động Hoa Kỳ ủng hộ cách mạng Việt Nam. Về Paris, ông Hồ đăng
“Chương trình 8 điểm” trên tờ Việt Nam hồn, làm chấn động dư luận ở
Việt Nam khi tờ báo về tới nới. Những bài ông viết ông đều ký tên Nguyễn Ái
Quốc, cái tên rất nhiều người biết cho đến ngày ông đổi thành Hồ Chí
Minh.
Ông Nguyễn Thế Truyền cũng giới thiệu ông Hồ với nhiều nhân vật
khuynh tả ở Paris, như Léon Blum, Marcel Cachin, Marius Moutet v.v. Chịu ảnh
hưởng của mấy người này, ông Hồ gia nhập đảng Xã hội Pháp, và viết bài báo cho
tờ Le Populaire, cơ quan ngôn luận của Đảng. Được tham dự đại hội
đảng ở Tours năm 1920, ông Hồ bỏ phiếu tán thành việc thành lập Đệ tam Quốc tế
và chủ nghĩa cộng sản. Và ngay từ lúc ấy ông ly khai với Nguyễn Thế Truyền và
mấy người quốc gia khác ở Paris. Những người này vẫn tiếp tục đấu tranh cho quốc
gia dân tộc, còn riêng ông Hồ, ông hiến hẳn đời ông cho cộng sản quốc tế.
Năm 1960, nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, và sau khi đã tự
nhận là Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ có giải thích sự biến chuyển tư tưởng của ông
như sau:
“Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế Thứ ba. Từng bước một,
trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lê, vừa làm công tác thực tế,
dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ.
Ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa có chuyện cẩm nang thần kỳ. Hễ
gặp khó khăn chỉ việc mở cẩm nang ra là biết cách xử trí. Đối với cách mạng
Việt Nam và dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lê không những là một cẩm nang thần
kỳ, một địa bàn chỉ hướng, mà còn là mặt trời soi sáng con đường thẳng tới
thắng lợi cuối cùng, tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
Xem giọng văn kể trên, ta thấy rõ thoạt tiên ông Hồ chỉ coi chủ
nghĩa cộng sản như một lợi khí dùng để tranh đấu cho nền độc lập quốc gia;
nhưng sau khi “ăn phải bả” ông bèn coi chủ nghĩa cộng sản là một cứu cánh. Đây
là trường hợp thông thường của những người say mê chủ nghĩa cộng sản, nhưng
những danh từ ông dùng như “cẩm nang thần kỳ” và “mặt trời soi sáng” chứng tỏ
ông tin ở chủ nghĩa Mác-Lê một cách cuồng tín, y hệt tín đồ tin ở đấng “chí
tôn” của mình.
Ông Hồ sang Nga lần thứ nhất năm 1922 với tư cách đại biểu thuộc
địa lần đầu tiên tham dự Đại hội Thứ tư của Đệ tam Quốc tế.
Năm 1923, ông Hồ lại sang Nga, tham dự Đại hội Nông dân Quốc tế,
và đến năm 1924, ông trở lại lần nữa để theo học tại trường đại học Công nhân
Đông phương. Lần này, ông ở lại Nga hơn một năm trời, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác-Lê và các chiến thuật Bônsêvich. Hồi ấy muốn sang Nga các đảng viên cộng
sản Việt Nam ở Pháp thường mua giấy thông hành của sứ quán Trung Hoa ở Paris,
bằng giá rất rẻ, giả dạng là Hoa kiều muốn hồi hương qua đường Moscou và Hải
Sâm Uy.
Năm 1925, ông Hồ được phái sang Quảng Châu với công tác truyền
bá chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Ngày ông lên đường sang Trung Quốc chính là
ngày bắt đầu một giai đoạn khác trong sự nghiệp cách mạng của ông. Sự nghiệp
này kết thúc khi ông biệt tăm trên chính trường Á Đông vào năm 1933. Vì tất cả
những hoạt động của ông Hồ trong khoảng thời gian này đều trực tiếp và mật
thiết liên hệ với các biến cố ở Việt Nam, nên chúng tôi sẽ đề cập đến trong
Chương 4 nhân dịp trình bày sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam.
[1]Có hai người nữa cùng bị tình nghi về
vụ này là Nguyễn Thượng Huyền con cụ Nguyễn Thượng Hiền và Tổng Oánh, rể cụ
Phan, nhưng Tổng Oánh hết sức chối cãi.
[2]Ông Trịnh Văn Yên, sau này có công
chế tạo thuốc nổ và nhiều hoá chất cho chính quyền Việt Minh.
[3]Sở dĩ cô Giang về tận quê nội Nguyễn
Thái Học để tự tử vì cô muốn bắt buộc các nhà chức trách địa phương phải chôn
cất cô ngay tại đây, gần nghĩa địa của họ Nguyễn. Cô tự coi là vợ chính thức
của Nguyễn Thái Học, tức là con dâu họ Nguyễn nên cô muốn “sống không có dịp
làm dâu thì chết cũng nhất thiết làm dâu” họ Nguyễn. Điều đáng tiếc là khi chép
vụ này, sứ gia Lê Thành Khôi đã dựng đứng câu chuyện là cô Giang đã tự tử dưới
gốc cây đa, vì trước kia hai người đã tình tự nơi đây. Ông Khôi sinh sau đẻ
muộn nên không biết Nguyễn Thái Học quê ở Vĩnh Yên và cô Giang quê ở Bắc Giang,
đã gặp nhau ở Hà Nội trong dịp cùng hoạt động cách mạng. Dựng nên câu chuyện
“tình tự dưới gốc cây đa” hình như nhà viết sử Mác-xít muốn hạ giá cô Giang từ
một liệt nữ xuống hạng một cô giáo lãng mạn.
[4]Sự kiện này được rút ra trong
quyển Forces politiques du Vietnam của Pierre Dabezies, quyển
này chỉ mới in Ronéo chưa xuất bản.
[5]Theo nhiều nguồn tin thì, hồi ở Hồng
Kông, ông Hồ có một người vợ Tàu, sinh được một người con gái. Hồi năm 1950,
ông có nhờ đảng bộ Đảng Cộng sản ở Hồng Kông tìm giùm nhưng không thấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét