Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CÁT BỤI CHÂN AI CỦA TÔ HOÀI - KỲ 2


1      2      3


CHƯƠNG BA

Chuyến tàu hoả từ Phnôm Pênh ra đến Poipet vừa chập tối. Bấy giờ vào mùa thu 1930. Đường sắt tà vẹt tám thước Nôm Pênh vừa hội khánh hành đoạn cuối nối với bên Xiêm ở Poipet còn như chạy thử, vài ngày mới có một chuyến không nhất định. Bên Xiêm vẫn tăng bo một quãng chưa nối thẳng được xuống Vọng các.

- Những chuyến tàu thất thường này xộc xệch, còn thưa khách. Chỉ có người đi buôn hay phu phen rừng cao su ra. Lắm hôm vào ga thị trấn Poipet, chỉ còn vài người trên tàu xuống. Hôm ấy cả một toa hạng tư, có ba người. Một người luống tuổi xách cái bị, mặc áo bà ba xuyến đen đã bạc, râu ria lởm chởm. Dáng như một người ở đây về trong xứ có việc, bây giờ trở lại. Hay một chủ hiệu tạp hoá, một người cai ở đồn điền cao su ra chợ thị trấn cất hàng. 
Đoàn tàu vắng khách dần dần cắt toa bỏ lại ga xép dọn đường. Bác ấy bị dồn ở toa nào mới lên thôi. Chiếc đầu máy kéo vài toa hủn hoen, như con chuồn chuồn cụt đuôi. Bác ấy ngồi một xó đầu góc ghế một bên hàng tàu, lấy trong bị ra một gói giấy và thuốc lá sợi, cắm cúi cuộn thuốc, không để ý ánh mặt trời đã vàng vọt trên những đám lá cao su ken dầy xanh xẫm loáng thoáng ngoài kia. Người đã thông thuộc thổ ngơi này biết tàu sắp vào ga cũng chẳng buồn ngoảnh mặt ra cửa sổ.

Cuối hàng ghế có hai người trẻ tuổi. Chiếc nón cu li đã sờn vành rấp dưới gầm ghế. Chân đi đất, bụi lấm đỏ bám lên cả hai gấu ống quần cháo lòng. Có thể đoán đấy là những phu đồn điền gần đây. Cũng có thể người tỉnh xa, các đồn điền cao su dưới Chúp tận Côngpông Chàm hay bên Batambang. Nhưng họ đi chơi, hay trốn công ta hay mò ra đây rình chạy sang Xiêm, thì không biết. Hai người mặt non choẹt, chưa chắc đã được hai mươi tuổi. Chốc chốc họ lại thấp thỏm nhìn ra. Còi tầu rúc vang động, tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray dồn dập. Tàu sắp vào ga.

Bác đứng tuổi đằng kia ngước lên, điếu thuốc lá quấn cắm vênh trên môi, đăm đăm mắt nhìn sợi khói uốn éo tuôn đằng mũi. Rồi bác đứng dậy, thong thả bước lại chỗ hai anh chàng cũng đương tò mò và hình như ngần ngại nhìn bác phập phèo thở khói thuốc. Một người hỏi trước:

- Thưa ông, có phải qua ga này thì xuống Poipet ạ?

- Phải đấy.

Bác ta bặp môi rít thuốc, nhìn hai người:

- Các cậu xuống Poipet à?

- Thưa vâng.

- Có người nhà ở phố hay các cậu trong đồn điền ra chơi? ở đây nghe nói tiếng Bắc người ta hay hỏi thế. Mới đến Poipet lần này là một à?

Câu hỏi đoán tự nhiên, thân mật và đúng đến thế.

- Thưa thực với ông, chúng cháu làm dưới cao su Lộc Ninh. Nghe nói trên này dễ dàng, có mỏ ngọc Pai Linh kiếm ngày bạc trăm. Chúng cháu rủ nhau lên.

Bác ấy cười khậc khậc, vứt cái đuôi thuốc qua cửa sổ.

- Các cậu này to gan, liều quá. Chẳng biết mô tê mà cũng lang thang đồng đất nước người thế này. Không có xứ nào kiếm ra cái bỏ vào mồm dễ như cái đứa xui khôn xui dại các cậu thế đâu. Lại còn định lên Pai Linh đi đào ngọc à? Có chịu được hai cơn sốt đái ra máu không? Cả trăm người đã chạy chết trên Pai Linh về đấy.

Hai người trai trẻ nọ được một bài học rùng mình càng như từ trên trời rơi xuống. Nhìn nhau phân vân, hốt hoảng, mỗi lúc một đăm chiêu. Họ vừa có ý sợ nhưng cũng lại có phần cố vờ ra như thế một cách vụng về. Chưa chắc họ đã đi Pai Linh. Cứ nói Pai Linh để người ta biết vẫn là trong đất Miên, bởi vì có thẻ căn cước thì đi khắp Đông Dương được. Thật ra, họ đã rắp tâm trốn sang Xiêm.

- Bảo thực, nhưng các cậu có nghe thì mới nói.

- Nhờ ông bảo cho.

- Phải mạnh bạo.

- Chúng cháu đã lần mò lên tận đây.

- ừ, kể ra cũng biết thí mạng đấy.

- Vâng ạ.

Rồi bác ấy nói:

- Này, có dám sang Xiêm không? Sang hẳn Xiêm, mà đến hẳn Vọng Các. ở Vọng Các, ăn mày cũng sướng gấp nghìn đời thằng cu li đồn điền bên ta, ai cũng giàu vù vù lên như đi tàu bay. Tôi đã giúp cho nhiều người sang Xiêm.

- Ông giúp cho chúng cháu.

- Sao bảo đi Pai Linh?

- Pai Linh hay Vọng Các thì cũng thế, đâu kiếm được miếng sống.

- Được, được. Trả công tôi là được. Cứ chẻ hoe ra như thế, ông Khổng Minh, thằng Tào Tháo bây giờ cũng lĩnh lương tháng của Tây chứ không như đời Tam Quốc đâu.

Chẳng biết trả lời thế nào, hai người lúng túng dạ, dạ... vâng...

- Dặn thì nhớ nhé. Đến ga xép này thì xuống. Chứ vào Poipet lính sen đầm nó thộp ngực ngay ở cửa toa, biết không.

- Vâng ạ.

Ba người xuống một ga xép cách Poipet ba cây số. Cũng may, tối lại có trăng. Bác ấy khoác cái bị, điếu thuốc lá phập phèo, hai người đi theo, vắng ngắt, chỉ có bóng cây. Họ vào đường qua rừng cao su.

- Đi tắt, một quãng nữa tới biên giới. Tôi sẽ chỉ chỗ lên tàu bên kia. Sang bên ấy rồi thì dễ, không như cái thằng Tây mắm tôm bên này. Lính Xiêm đi tuần cũng lẩm nhẩm niệm Phật ấy mà. Nếu gặp, cứ dán cho mỗi thằng một tờ giấy bạc vào mồm. Chúng nó cầm bạc rồi lại rì rầm niệm Phật. Hay thế đấy. Các cậu cứ việc đi. Trưa mai thì đến Vọng Các. Có bao nhiêu tiền?

- Chúng cháu còn hơn hai chục.

- Mỗi chuyến thế này người mối phải ăn bạc trăm. Nhưng thôi, giời phật phù hộ các cậu gặp tôi, tôi làm phúc, tôi giúp không các cậu.

- Đội ơn ông.

- Còn bao nhiêu tiền, đưa cả ra đây. Sang bên ấy không tiêu được tiền ta, mà cũng chả cần. Tôi cho các cậu tiền Xiêm, cho vé sẵn đến Vọng Các.

- Ông giúp chúng cháu. Ông có quen...

- Không, không. Tôi không quen ai ở Vọng Các. Mà đến Vọng Các cứ ngửa tay ra là có gạo, có tiền thôi.

- Đội ơn ông.

Xa xa, ánh điện ánh lên một vùng.

- Đấy tàu hoả bên Xiêm đỗ chỗ sang sáng ấy. Cứ trông đèn điện mà qua cánh đồng hoang, không vướng làng mạc phố sá gì đâu. à, cậu nào có đồng hồ đeo tay không, có thì phải để lại. Bên Xiêm, tiền khác, đồng hồ khác.

- Chúng cháu không có đồng hồ.

Bác ấy đưa mấy tờ giấy bạc Xiêm và vé tàu. Hai người lục các túi moi ra số tiền còn lại.

- à, để cái nón đây, vứt đi. Không có sen đầm thấy nón biết người bên này sang. Mà nó có hỏi thì bảo ở Poipet. Hai bên vẫn qua lại mà. Bác ấy còn nhìn theo. Hai người đi rồi mà vẫn nghĩ gặp may, được người tốt chỉ vẽ cho. Nhìn phía ánh điện hẩng sáng, rảo bước.

Hai người trai trẻ vừa qua biên giới sang Xiêm ấy là Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp. Hai cậu học một lớp năm thứ ba trường Ca rô Nam Định. Lại cùng tham gia bãi khoá. Chả là lão giáo Pôn mũi đỏ mới đổi về, động lên lớp là chửi học trò những câu thậm tệ: mẹc xà lù, côsoong san An na mít (Đồ đểu, con lợn, giống An Nam bẩn thỉu). Suốt buổi, Pôn mũi đỏ văng loạn xạ thế. Cả lớp hò hét bỏ ra về, đòi đuổi Pôn mũi đỏ rồi mới học. Rốt cuộc, Pôn mũi đỏ vẫn đến trường và vẫn chửi bới trong lớp. Trong khi nhà trường báo mật thám bắt mấy người học sinh đầu têu đem giam xà lim. Mật thám Tảo gọi bọn Nguyễn Tuân lên bàn giấy đe nẹt rồi cả lũ bị đuổi học.

Cuối năm 1944, tôi bị mật thám Nam Định bắt về vụ Văn hoá Cứu quốc. Vẫn còn phán Tảo ở đấy. Chúng tôi, đôi khi lẩn thẩn điểm lại những mặt người mặt chó, Nguyễn Tuân lại nhớ phán Tảo. Lão phán Tảo nho nhã, trắng trẻo, áo đoạn khăn xếp, ăn nói mềm mỏng. Nhưng quay điện, ống nước, treo xà nhà, các ngón của phán Tảo thì hiểm ác khét tiếng. Cũng như ở ty mật thám Nam Định có tên Đỉnh ác ôn có hạng. Nhưng Đỉnh lại một phép sợ người vợ đồng bóng.

Nguyễn Tuân phải trở về nhà ở Thanh Hoá.

Hai người học trò bãi khoá đã bàn nhau một chuyến phiêu lưu phía tây Cao Miên giáp nước Xiêm La có mỏ hồng ngọc ở Pai Linh Nguyễn Tuân cũng không nhớ ai đã nghĩ ra được cuộc đi mạo hiểm này. Nhưng có thể bởi những uất ức khi bị đuổi học, cuộc sống tinh thần tuổi trẻ tù túng, cùng quẫn. Như cách nghĩ bồng bột tưởng tượng, bước chân đến những nơi xa xôi tên là Pai Linh, là Xiêm, là Vọng Các, là châu Phi, châu Mỹ. Ôi chao mộng lên hương đổi đời. Nhưng cái sự bắt đầu cũng chẳng đẹp đẽ mấy. Bấy giờ, hai cụ đã cho vợ chồng Nguyễn Tuân ra làng Hạc ở riêng. Để làm lộ phí, Nguyễn Tuân đã phải lấy đi hoa tai, khuyên vàng của vợ. Rồi Lương Đức Thiệp và Nguyễn Tuân vào phía Nam, quãng tàu hoả, quãng tăng bo ô-tô đến Sài Gòn. Bỏ đường lớn đi Nôm Pênh, đáp xe lửa lên Lộc Ninh. Lại vòng về Tây Ninh, qua Sa Mát sang Kông Pông Chàm. Bắt chước những nhà thám tử, những nhà cách mạng bí mật đấu trí đấu tài đọc thấy trong sách. Lặn lội, vạ vật đường trường, vừa ngại ngùng vừa háo hức.

Chuyến tàu hoả ấy rầm rập suốt đêm xuống Vọng Các. Họ không chợp mắt được. Hãy còn hồi hộp vì may mắn và tự khen đã khôn ngoan, khéo léo che mắt được mật thám. May mắn, đã bình yên ra khỏi xứ Cao Miên. Đến nửa buổi, tàu vào thành phố Vọng Các. Hai người ngơ ngác đến giữa nơi chưa biết bao giờ. Xung quanh, trong ga lớn, những đám người Xiêm, người Tàu, người Việt hỗn độn, tíu tít. Bốn cảnh sát Xiêm áo quần trắng toát, mũ viền kim tuyến và một đám lính vác súng trường quây đến.

Một người nói tiếng Việt hỏi:

- Chúng mày là thằng Tuân, thằng Thiệp?

Đúng tên cúng cơm. Lính cảnh sát biết rồi, chỉ hỏi làm phép thế. Lúng túng, chưa biết trả lời sao, đã bị thừng trói giật cánh khuỷu cả hai lại. Báng súng thúc vào lưng, đẩy đi bộ qua các phố đông tấp nập.

Đến cả tháng, Nguyễn Tuân và Thiệp bị giam chung với những tội phạm người Xiêm. Không ai vào hỏi, cũng không biết sự tình bị bắt vì sao. Nhà giam, một phòng rộng kín ba phía. Mặt trước không có tường nhưng rấp hai lượt dây thép gai mắt cáo. Một bốt lính gác đổi phiên cách bức ngoài sân xi măng.

Nguyễn Tuân thường kể lại cái cảnh liêu trai quái đản đã trông thấy ngày đêm trên nhà gác trước mặt. Chẳng biết nhà giam hay nhà điên, trong cửa chấn song nhốt toàn đàn bà. Những người đàn bà lùn tròn, trần truồng như nhộng đứng bám song sắt ngó xuống lồng giam rặt đàn ông dưới này. Không hiểu sao không ai có váy áo. Chẳng lẽ bức bối quá, người ta đã cởi hết, xé hết. Chỉ khổ đám đàn ông trong lồng sắt dưới này ngước lên lúc nào cũng thấy trên ấy nồng nỗng trắng phốp, lông lá rậm rạp đen ngòm lượn qua lượn lại Có thằng dưới này chốc chốc lại gào toáng, dứt phăng quần tung lên. Trên dưới hò hét loạn xạ cơ hồ hoá dại cả.

Một hôm, cảnh sát đột ngột mở cửa buồng giam, cầm dùi cui làm hiệu lùa Tuân và Thiệp ra. Hai người bị xích một cánh tay với nhau, trèo lên cái xe bò kéo, có lính ngồi cùng thùng xe. Xe bò lắc lư qua mấy phố dài, xúm xít người chạy theo xem ra tận ga tàu hoả. Cảnh sát đẩy hai người lên một cái toa đen rồi khoá trái cửa lại. Không có người, lỉnh kỉnh những thùng gỗ, bao bố tải, toa bưu kiện của nhà dây thép. Nhìn hàng chữ tiếng Anh quét sơn trắng cửa toa, đoán đoàn tàu chạy Băng Cốc - Poipet.

Đúng, trở lại Poipet. Chỉ có một việc kinh hoàng mà hai chàng thanh niên mơ mộng chưa tưởng tượng ra được. ấy là lúc được dẫn vào đồn biên phòng Poipet trông ngay thấy cái bác tử tế gặp hôm nọ, cũng đương hút thuốc lá quấn, ung dung trong đám quan lính đồn binh. Chỉ khác bác ta hôm nay ăn vận chững chạc. Râu ria nhẵn nhụi, quần áo tây vàng đầu đội mũ cát, đi giày ba ta trắng.

Bác mật thám ấy bước đến, mặt tươi tỉnh như đã quen. Lại làm bộ nắm cánh tay bên không bị xích và hỏi một câu tỉnh bơ:

- Các cậu đến được Vọng Các rồi à?

- Biết nhổ vào mặt hay biết trả lời thế nào?

Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp bị giải về Nôm Pênh trong cái ô-tô tải bịt lưới sắt đằng sau - như con vượn, con đười ươi người ta mới bẫy được trong rừng đem về thành phố. Mà cái xe ấy cũng vừa tới Poipet, bụi đỏ xuộm tận nóc. Nó là cái xe cây của cảnh sát chuyên để bắt nhốt người, nhốt chó. Buổi sáng ở Nôm Pênh và các tỉnh đều có xe cây và những chiếc xe bò kéo đủng đỉnh, cảnh sát rà vào ngõ ngách các phố bắt chó hoang vứt lên xe, ra thả ngoài đồng. Người Miên mộ đạo Phật, không nuôi chó, cũng không thịt chó. Chó hoang ở đường ở chợ lúc nhúc hàng đàn. Ngày lại ngày đội sếp bắt chó đem thả ngoài xa, rồi chó lại lỉnh vào, vẫn lông nhông khắp nơi, ở xó chợ Mới giữa thành phố Nôm Pênh còn nhung nhăng những đàn chó con.

Đến Nôm Pênh, vẫn bị còng tay vào nhau như thế và tống ngay xuống Sài Gòn. Lại cái xe cây khác. Rồi bị giam ở bóp cảnh sát Xóm Chiếu. Đấy gần bến tàu, hôm sau giải ra Hải Phòng, Tuân và Thiệp ngồi trong hầm tàu viễn dương Chantilly. Hãng vận tải biển Đầu Ngựa Năm Sao có nhiều tàu đường Macxây - Sài Gòn. Hai chiếc Đactanhăng và Chantilly chuyên đi về Hải Phòng - Sài Gòn, thỉnh thoảng mới ra đại dương. Hồi xuống Hải Phòng tìm việc làm, tôi hay vơ vẩn ngồi mép nước cảng Sáu Kho xem tàu Đáctanhăng đỗ ở đấy, trắng toát như cái nhà táng. Chàng mã thượng phong lưu Đactanhăng trong tiểu thuyết Ba người ngự lâm pháo thủ hân hạnh được con tàu đồ sộ mang tên. Hình như còn có cả tàu Tốt, tàu Aramit... Tôi không được trông thấy tàu Chantilly bao giờ. Thế mà lại nhớ Chantilly. Bởi vì thế là đã hai lần nghe nói đến con tàu Chantilly. Chỉ trong câu chuyện mà tưởng tượng ra mình cũng đã tận mắt thấy. Tập Thơ say, Vũ Hoàng Chương bỏ tiền in, nhờ nhà xuất bản Cộng Lực phát hành, có bài thơ Tặng con tàu Chantilly, đấy là bông hoa của một chuyện tình cờ gặp gỡ. Thời kỳ này Vũ Hoàng Chương làm sở hỏa xa Đông Dương. Trong một chuyến tàu suốt Sài Gòn - Hà Nội, người thanh tra kiểm soát viên tài hoa đã làm quen với một hành khách toa hạng nhì sang trọng mà Vũ Hoàng Chương bảo gọi tên nàng là Marie, là Juylie, là Vêronica, cũng đều được. Người đầm ra Hà Nội xuống Hải Phòng đáp tàu Chantilly, chẳng rõ nàng trở lại Sài Gòn hay về Pháp chỉ biết mối tình trên tàu hỏa chỉ ngắn ngủi thế. ấy là trang nhật ký thơ Vũ Hoàng Chương kỷ niệm theo con tàu.

Những câu chuyện tình dài tình ngắn thuở ấy. Triền miên những đêm nhà hát Vạn Thái hay Vĩnh Hồ, những tuyệt vọng và những bài thơ, những chuyện có thật và những tô vẽ cho hoa mỹ. Nguyễn Bính thì cố nhân Hương, Hương cố nhân, Đinh Hùng thì em Liên Hàng Bạc, người đẹp biết thổi acmônica như ngọc nữ xuống trần gian thổi sáo gọi nhau. Những búp hoa quỳ trắng này Liên mang đến mùa hạ, giờ đã sang thu, cuống hoa đã héo quắt trong chiếc độc bình mà em thì, Liên thì đã nằm dưới mộ - thời ấy, quả là trai gái hay chết yểu, không mấy người sống lâu như bây giờ. Vũ Hoàng Chương thì Tố Uyển, Tố Uyên. Tàu Chantilly, chỉ là một thấp thoáng chiêm bao, Tố của Hoàng ơi thì vẫn neo lại trong tâm tình. Nhưng những bài thơ còn đấy mà nàng thì đã lấy chồng. Các chàng lạy nhau, tôn nhau lên thành đấng rồi vừa khóc vừa đọc thơ, nghe tiếng trúc Cao Tiệm Ly thổi khi Kinh Kha qua sông Dịch. Những bài thơ tuyệt vọng cứ tưởng tượng ra như thế.

Tôi mới viết truyện ngắn ông giăng không biết nói đăng tuần báo Tiểu thuyết Thứ bảy. Gã yêu em. Em sắp về nhà chồng rồi mà cứ trơ trẽn như không. Đêm hội chèo, tay đôi đưa nhau ra ngoài đồng, bên cái giếng thơi đầu xóm. Gã gặng hỏi. Nhưng em lắc đầu bảo không, rồi khóc. Mọi khi thì chẳng dám nói. Nhưng hôm ấy thong thả phiên chợ tơ, lại có chèo hát sân đình, gã hơi ngà ngà một chút. Gã sửng cồ lên:

- Ông biết thừa ra rồi. Ông hỏi thử chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sau cưới mày. Đồ khốn nạn!

Người con gái vùng chạy. Gã say rượu khát cháy cổ, cúi đầu hớp nước ngã lộn xuống, chết đuối trong giếng. Thế rồi ngày 12 tháng sau, ả nọ về nhà chồng. Từ đấy, mỗi lần về xóm nhà mình không bao giờ ả dám đi tắt cánh đồng qua lối men bờ giếng. Nào ai biết đâu cái chết thương tâm của người con trai. Nông nỗi đêm ấy chỉ có mỗi một ông giăng chứng kiến. Thì ông giăng lại không biết nói.

Trong nhà hát ở Vĩnh Hồ, Vũ Hoàng Chương chắp tay bái tôi:

- Lạy huynh, huynh nhất thiên hạ, huynh đã rõ tâm tình đệ. Ông thử hỏi chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sáu thì cưới mày... Ha ha, lạy huynh...

Tôi bảo:

- Mắt ông viền vải tây hay là chữ in sai đấy.

Câu trong truyện của tôi là mười hai tháng sau, không phải mười hai tháng sáu, không phải....

Vũ Hoàng Chương cãi:

- Không, mười hai tháng sáu mới đúng cái đau của đệ, huynh đã cho đệ nén hương mười hai tháng sáu, không, mười hai tháng sáu..: huynh cứ cho đệ đọc cái ngày tuyệt mệnh ấy là mười hai tháng sáu của đệ.

Làm thế nào cãi, mà cãi làm gì. Chầu hát suông, người ả đào và chú kép xách đàn sang nhà khác đã lâu. Chúng tôi lại uống bia đen, nghe không biết bao nhiêu lần Vũ Hoàng Chương rên rỉ bài thơ Riêng tặng Kiều Thư:

Trăng của nhà ai? Trăng một phương!

Nơi đây rượu đắng m ưa đêm trường

ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ

Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương

Là thế! Là thôi! Là thế đó!

Mười năm thôi thế mộng tan tành

Mười năm, trăng cũ ai nguyền ước

Tố của Hoàng ơi! Tố của anh

Tháng sáu, mười hai, từ đây nhé

Chung đôi từ đây nhé, lìa đôi

Em xa lạ quá, đâu còn phải

Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi

Men khói hôm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu, ghi mười hai

Tình ta, ta tiếc, cuồng, ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của ai

Tay gõ vào bia mười ngón rập

Mười năm theo máu hận trào rơi

Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

Khúc Cổ Bồn ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi!

Ta đương lửa đốt tơi bời mái tây

Hàm ca nhịp gõ khói bay

Hồ, xừ, xang, xế, bàn tay điên cuồng

Kiều Thu hề trọn kiếp thương

Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô

Xừ xang, xế, xứ, xang, hồ

Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên

Kiều Thu hề Tố hỡi em

Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bừng

Xê hồ, xang... khói mờ rung

Nhịp vương sầu toả năm cung ngút ngàn

Cái tàu Chantilly tải tù Nguyễn Tuân và Lương Đức Thiệp từ Sài Gòn ra. Sự đời đưa đẩy, cũng một con tàu mơ mộng Chantilly ấy mà trước kia đã có lần nhốt hai người phiêu đãng ngồi dưới hầm than. Tới Hải Phòng, lên Hà Nội rồi Nguyễn Tuân bị giải về Thanh Hoá. Giam một năm nữa mới được thả, lại bị quản thúc tại gia, đi đâu phải trình báo quan sở tại. Đấy là dư âm cay đắng của chuyến lên đường thứ nhất trong đời thiếu quê hương của Nguyễn.

Nguyễn Tuân viết sớm mà lại cũng là muộn. Những truyện và ký cuối thập kỷ ba mươi in trên các báo Tiểu thuyết Thứ bảy, tạp chí Tao Đàn không phải những bài đầu. Trên báo An Nam Tạp chí của Tản Đà, báo Đông Tây của Hoàng Tích Chu, Nguyễn Tuân đã in những bài ký, những truyện ngắn đầu tay khi còn ở Thanh Hoá làm phóng viên tỉnh lẻ nhặt tin đếm chữ ăn tiền cho báo Trung Bắc Tân văn. Biết đâu, những sáng tác chưa định hình đã thấp thoáng mơ màng từ trường trung học Nam Định. Có thể sớm hơn, khi còn học trường tiểu học Trương Minh Sang phố Hàng Vôi trên Hà Nội. ở những thời kỳ, các cơ quan Nhà Nước đều quần tụ giữa thành phố. Kho bạc ở vườn hoa Nhà Kèn bên hồ Hoàn Kiếm. Sở Tài chính phố Hàng Trống - toà báo Nhân Dân bây giờ. Cả đến nhà lục xì - nhà thương chứa bệnh hoa liễu cho gái điếm và khách làng chơi xây năm 1902 cuối phố Huế, năm 1926, Toà đốc lý cho chuyển nhà lục xì lên phố Trường Thi - bệnh viện C ngày nay. Chỗ cũ thành trường tiểu học Ô Cầu Dền, nhưng người ta vẫn gọi là trường Lục Xì. Trường tư thục Trương Minh Sang mở cuối 1923 nhận học sinh đến lớp 3 đi thi sơ học yếu lược. Năm 1929, một người Pháp mua giấy phép trường này dời lên phố Phủ Doãn, mở mang, đổi tên thành trường trung học Gia Long. Hết lớp ba trường Trương Minh Sang, Nguyễn Tuân về học ở Nam Định. Nay đây mai đó cũng là gia đình theo công việc của cụ tú Hải Văn.

Nguyễn Tuân không khi nào nói lại những sáng tác chập chững mờ nhạt thuở ấy và bạn đọc thực sự làm quen với Nguyễn Tuân khi xuất hiện bài Khóc Vũ Lang trên tạp chí Tao Đàn năm 1936, ký tên độc một chữ Tuân.

Vũ Lang, cây bút mới nổi vài truyện ngắn, mất bệnh năm 24 tuổi. Nguyễn Tuân khóc bạn và Nguyễn Tuân còn thương tiếc một lối văn biền ngẫu diễm lệ của Vũ Lang mà Nguyễn Công Hoan cũng rất chuộng. Truyện ngắn Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ của Vũ Lang, mở đầu những câu thánh thót:

Rằng xưa vốn người Kẻ Chợ... Hàng Châu, Hàng Châu có cảnh Tây Hồ. Phong cảnh Tây Hồ có Tam đàn ấn nguyệt, vài ba tảng đá trên làn nước bập bềnh. Làn nước Tây Hồ bập bềnh trên tảng đá. Khóm trúc đượm hạt mưa xuân trước gió. Hạt sương rơi tơi tả... tơi tả

Những bút ký, truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Tuân liên tiếp trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy, báo Thời vụ, báo Bạn Đường, báo Hà nội Tân Văn, tạp chí Tao Đàn, các tập Giai Phẩm của nhà xuất bản Lượm Lúa Vàng, của Văn đoàn tự lực. Và các tập bút ký, truyện ngắn, truyện dài Vang bóng một thời. Một chuyến đi, Tàn đèn dầu lạc, Tuỳ bút 1, Tuỳ bút 2, Thiếu quê hương (nhà Anh Hoa in bị kiểm duyệt bỏ một chữ thiếu), Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn của các nhà xuất bản Tân Dân, Mai Lĩnh, Cộng Lực, Anh Hoa, Hàn Thuyên, Thời Đại...

Đầu năm 1946, tôi quen Nguyễn Tuân trong một cuộc họp hội Văn hoá Cứu quốc, chỗ nhà Khai Trí Tiến Đức bờ hồ Hoàn Kiếm rồi sau chuyển xuống đầu phố Ôn Như Hầu gần hồ Thiền Cuông. Nguyễn Tuân rủ tôi lên nhà Thuỷ Tạ. Lúc uống bia, Nguyễn Tuân hỏi tôi:

- Có phải Lương Đức Thiệp chết rồi?

- Tôi không biết.

Nguyễn Tuân vẻ không bằng lòng.

- Cậu làm bảo của Việt Minh mà không biết à?

Tôi không biết thật. Một dạo thấy hay đến chơi với Phạm Ngọc Khuê chỗ tôi ở gần chợ Hôm. Nguyễn Tuân dường như không tin. Nguyễn Tuân thường có những nghi ngờ và quyết đoán chủ quan tương tự. Rồi cũng không nói đến việc ấy nữa. Câu hỏi đột ngột và chỉ có thế.

Đêm Nôen 1972 chúng tôi đi dạo phố rồi nửa đêm về nhà thờ Hàng Trống. Nguyễn Tuân và tôi cùng hai bạn nhà văn Liên Xô đương thăm Việt Nam, Eptuchenkô và Marian Tkchôp, giỏi tiếng Việt.

Tôi đã được xem Eptuchenkô đọc thơ ở Bây-rút, thủ đô Li Băng. Người không biết tiếng Nga cũng phải chăm chú - nói là Eptuchenkô biểu diễn thơ thì đầy đủ hơn. Bây giờ gặp lại, có những việc nửa vui nửa buồn. ở khách sạn Thống Nhất một tối hôm sau Eptuchenkô nói đùa:

- Tôi chưa bỏ vợ, mà đêm qua đã phải lấy vợ mới.

ý nói đêm qua Eptuchenkô ngủ chung buồng với Marian. Manan đã ở khách sạn này nhiều lần, đoán được cái phòng ở tầng một ấy loại mấy và thế là biết cách chủ nhà đối đãi với mình. Marian im lặng. Nhưng đến khi chạy cho hai người được hai phòng, lại gặp rắc rối mới. Nhưng rắc rối vui vui. Eptuchenkô cao quá một thước tám mươi. Phải nằm chéo và ghếch chân lên thành giường. Rồi cũng đổi được cho nhà thơ ấy cái buồng giường đôi, anh ta vẫn phải nằm chéo nhưng để được chân xuống. Mấy hôm đầu hầu như không có ai bén mảng đến gõ cửa hai ông khách. Nhưng dần dần thấy trên có vẻ quý trọng, người mới dần dà ùn ùn đến. Rồi sách tặng, sách tặng đầy bàn. Không thể đem đi được, quá cân cước vé máy bay. Marian cẩn thận xé trang đề tặng rồi cho tôi khuân đi có đến mấy chục quyển!

Một đêm, qua phà Rừng về Hải Phòng. Phà đông, chen chúc xe và người. Trong bom đạn, đường xá tấp nập thâu đêm. Chúng tôi đứng bên thành phà. Người làm ca nô soi đèn bão đến tháo xích cho phà rời bờ, sáng loáng qua chỗ chúng tôi. Bỗng sau lưng tôi, một câu chửi réo:

- Tiên sư thằng xét lại

Marian ghé tai, thì thào:

- Nó chửi tôi, ông ạ.

Tôi không biết chui đầu đi đâu được. ở khách sạn Hạ Long rồi khách sạn chuyên gia ở Hải Phòng, tôi còn được nghe những câu đùa nhả, những câu rủa ráy độc ác của những cô nhà bàn, cô căng tin quầy rượu. Tôi thật oán cái sõi tiếng Việt của anh bạn lúc lúc lại làm tôi khổ cực vì xấu hổ từ cầu Hiền Lương ra vịnh Hạ Long, về Hà Nội. Tối qua, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom đêm Nôen. Chúng tôi có thể đi dạo, bớt phải để tai lên trời. Nhưng mới quãng tám giờ tối, tiếng nổ như sám rền dội tới. Nghe như ở chỗ cái túi bom cầu Giẽ, bom lại ném cầu Giẽ. Giữa đồng chiêm Hà Đông - Hà Nam mênh mông, cái cầu Giẽ trơ trọi trên đường số 1, như cầu Hàm Rồng, máy bay Mỹ quyết liệt triệt hạ, quần suốt ngày đêm. Trong nhà thờ Hàng Trống, từ chặp tối, những xóm họ đạo ở quanh cầu Giẽ đã lũ lượt kéo lên. Mấy năm nay các nhà thờ vùng đồng chiêm bị bom phá, đêm Nôen dân đạo dưới ấy phải đi lễ nhờ. Cả nhà người già trẻ con trải ny lông, gói quần áo và những túi cơm nắm lổn nhổn lẫn với người nằm hai bên hành lang nhà thờ đợi chuông dóng nửa đêm.

Các bạn Liên Xô chú ý quang cảnh đường. Phố đông vui, người đi chơi, người đi lễ. Vả chăng, đây đã thật xa Bến Hải đầu cầu Hiền Lương trong kia. Eptuchenkô lại nảy ra một cái lo khác. Eptuchenkô hỏi:

- Có người Trung Quốc đi lễ nhà thờ không?

- Không để ý. Mà cũng khó biết, người Trung Quốc ở đây ăn mặc cũng như người Việt Nam.

Nguyễn Tuân nói:

- Có thể không có. Người Trung Quốc theo đạo Tin Lành, như người Mỹ, như Tưởng Giới Thạch, họ không đến nhà thờ này.

Eptuchenkô chưa yên tâm.

- Cho tôi đi giữa và tôi sẽ bước hơi rụt đầu xuống. Nếu bị đánh cũng chỉ trúng bả vai. Cái lo xa của anh chàng cao quá khổ. Nửa đêm, nhà thờ chen lấn ních người. Eptuchenkô lênh khênh hơn xung quanh hẳn một đầu. Nhưng vào cảnh thanh bình khác thường giữa thành phố đương bị đánh phá anh đã quên cúi cổ xuống. Chúng tôi ngột ngạt len được vào một hàng ghế. Trên đài lễ, ông cố đạo giảng một lúc bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Có nhiều khách nước ngoài đến nhà thờ. Khi trở ra đường, Eptuchenkô đã nhãng hẳn cái lo bị đòn. Eptuchenkô bước nghênh ngang.

Hà Nội. Đêm Nôen. Bom Mỹ. Lạ thật. Nhưng ông linh mục nói tiếng Anh không giỏi. Mùa hạ vừa qua Eptuchenkô đi chặt mía cả tháng ở Cu Ba. ở Việt Nam về, Eptuchenkô sẽ sang Mỹ. Tôi tìm được quyển kịch Người chào hàng của A. Mi-lơ nhà xuất bản Văn Học in năm trước. Eptuchenkô hứa sẽ đưa cho tác giả, khi đến Nữu Uớc.

Cái vui kỳ dị đêm Nôen chưa hết. Chúng tôi lên phố Hàng Giầy. Các tiệm ăn uống quốc doanh và tư nhân sáng đèn suốt đêm quanh Bờ Hồ và ở trung tâm - người ta dựa vào đêm nay không có báo động.

-Chúng ta sẽ ăn Nôen ở một quán người Trung Quốc.

-Thật không?

- Anh đã không bị đánh thì cũng không ai bỏ thuốc độc vào con cá ở đĩa của anh. Đêm Nôen, đức Chúa Trời lòng lành...

Nói vui thôi, Eptuchenkô đã tươi tỉnh tử lâu. Quán Tiểu Lạc viên vẫn mở, nhưng ông có ngay đã nghe bom giật mình chết từ tết năm ngoái. Một người hầu bàn đầu trọc, áo cánh xuyến đen ống tay rộng. Nếu thêm cái nón tu lờ sơn dầu quang mây, thì tưởng vào một cao lâu mới ở Lạng Sơn dọn xuống. Không biết có phải thật Tàu không. Cái năm lắm người Hoa đi, nhiều cửa hàng vằn thắn, chủ quán quấn cái tạp dề xanh đội lốt làm chủ quán Tàu. Mất ông có ngay, cửa hàng nhạt hẳn. Nhưng Eptuchenkô đâu biết cái buồn thiếu vắng ấy. Năm trước, nhà văn Solukhin và tôi vào hàng nem Cát Tần sắp đóng cửa để tránh nạn bị nhòm ngó lên tư sản. Cả gian hàng trống không, cái cốc cũng không có, chúng tôi uống bia bằng bát chiết yêu. Solukhin gật gù khoái rồi về Matxcơva viết trong bút ký Bưu thiếp Việt Nam: lần đầu tiên trong đời, đến Hà Nội tôi được cầm cái bát phương Đông uống bia Đức.

Chúng tôi uống cuốc lủi với chim bồ câu quay. Tôi nói dối đây là chim giẽ, một giống chim mùa lạnh về trú đông ở các cánh đồng nước nhiệt đới. Chim ăn thóc, thịt rất thơm. Marian Tkchốp hóm hỉnh:

- Chim giẻ cũng ngon như chim bồ câu, ông ạ.

Eptuchenkô lại như cắt nghĩa tiếp theo:

- Đừng tưởng chúng tôi không ăn thịt những con chim hoà bình. Cách nói như thế chỉ để hô khẩu hiệu. Khi còn chiến tranh, tôi là cậu bé tám chín tuổi theo bố mẹ tản cư về vùng thảo nguyên taiga ở Trung á. Cân đường, lít sữa cũng mua bằng phiếu như các bạn có sổ mua gạo bây giờ. Người lớn bắt chim bồ câu hầm cho trẻ con ăn. Nhưng bồ câu đàn ngoài vườn thịt tanh lắm. Bồ câu mới nở trong ổ bắt trên các khe mái nhà ăn mới ngon.

Không ai hỏi lại và chế giễu tôi về con bồ câu hay con chim giẽ. Mọi người đều biết là nói đùa và những tưởng tượng vui. Chặp tối hôm sau, sang sân bay. ở Gia Lâm, hay có khi Nội Bài, khách đi và đến vào chặp tối. Xe lửa liên vận biên giới phía bắc ở ga Hàng Cỏ chuyển bánh lúc nhọ mặt người. Qua cái cầu Long Biên giả chết - những nhịp cầu bị đánh gãy vẫn gục đấy, máy bay không người lái chụp ảnh lướt ngang cũng không biết đường sắt, đường ô-tô vẫn sống trong lòng cầu.

Đêm đêm, những đoàn tàu đoàn xe không đèn lẳng lặng qua.

Eptuchenkô ném hai đồng xu Nga xuống sông Hồng. Phong tục ngồi lại giây lát để ước được bình yên trước khi ra đi cũng như ném đồng tiền xuống sông, ấy là mong sự tốt lành và những cái hẹn có ngày trở lại. Năm sau, tôi gặp Eptuchenkô ở Matxcơva, nghe nhà thơ bốc phét kể chuyện tranh luận với tổng thống Mỹ J.Ca-tơ. Ca-tơ nói ông ta rất yêu L.Tônxtôi, nhưng lại dẫn sai một câu của đại văn hào này. Chắc là tay chuyên gia đãng trí nào đã làm sẵn cho lão nói - Eptuchenkô nghĩ thế. Eptuchenkô đã đưa vở kịch Người chào hàng cho A.Mi-lơ. Mi-lơ chảy nước mắt nhận quyển sách nhỏ bé, bìa quăn queo. A.Mi lơ không thể tưởng bom Mỹ ném như thế, Hà Nội vẫn in và diễn kịch A. Mi lơ.

Bao nhiêu năm sau, trong một chuyến thăm Thái Lan, Eptuchenkô đã tạt sang Hà Nội chốc lát. Dẫu sao, đồng tiền Nga vẫn thiêng, người ra đi có trở lại. Tôi không được gặp để hỏi xem khi Khơrutxốp qua đời đám ma thưa thớt, Eptuchenkô đã đi đưa, viếng độc một bông hoa cẩm chướng. Câu chuyện ấy ra sao, tôi đọc tin tức thấy nói thế.

Đôi lần, tôi hỏi Nguyễn Tuân:

- Anh nghĩ thế nào về tờrốtkít thời kỳ ấy?

Nguyễn Tuân đăm chiêu rồi sừng sộ hỏi lại:

- Mày muốn chụp mũ tao hả?

- Ông cứ quá lời...

- Tao đi Vọng Các với thằng Lương Đức Thiệp, vậy thì tao cũng là đệ tứ. Cách suy luận máy móc của chúng mày là như vậy? - BƠ vơ, tôi bỗng bị Nguyễn Tuân trút cơn bực mình. Bấy giờ tao với nó còn là những thằng ranh con, đã biết tam tứ ngũ lục thế nào đâu. Tao đọc hồi ky Đời tôi của Tờrốtkít đấy chứ. Mượn ở thư viện. Thư viện Tràng Thi có cả Tônxtôi, Goocky, Giôn Rít, có tuốt. Tây mật thám ăn mắm tôm, biết sách vở đỏ đen thế nào. Cái đứa viết báo khoe thời Pháp đã tìm đọc chui Lêôn Tônxtôi là nói láo ra vẻ ta đây cũng cách mạng từ bóng tối. Thằng Việt Minh Như Phong nhà chúng mày thỉnh thoảng lại vờ xuống chơi. Chẳng thấy nó giác ngộ gì tao, lại đưa cho tao tiểu thuyết tự truyện của Saclơ Pliniê. Mà Pliniê là thằng đệ tam rồi tờrốtkít. Việc đời lôi thôi lắm. Tao không bài bác, nhưng tao không thích.

- Ông chỉ làm cái gì ông thích thôi.

- Mồm nói thế này, bụng lại nghĩ khác, là thằng đểu. Mày gọi là thằng cơ hội, thì thằng bịp cũng thế. Không ưa mà cứ làm như thích lắm. Tao không sực được các chính khách!

Cứ cái kiểu ấy, một đời còn biết bao gian truân!

ở Thanh Hoá, khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho ra nhân vật nào cũng là nhân vật Tôi. Trong sách cũng tương tự ngoài đời, người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà dư tửu hậu chán chê rồi rời bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà, bấy giờ nhà bác Nguyễn đã dời Thanh Hoá ra ở Ngã Tư Sở trên đất Mọc Thượng Đình quê gốc. Bạch về một gian gác nhỏ ở một phố khuất. Trong buồng mắc chéo cái võng đay. Không bàn ghế, không hoả lò không be lọ, không trai gái. Chỉ độc chai nước lọc mấy quyển sách dưới sàn với hộp cá sácđin và bánh mì. Có khi nằm võng cả tuần không ló ra đường, không cầm bút, không khách khứa nào gõ cửa cái buồng đã khoá trái. Chủ nhân khước từ mọi trò chuyện, chỉ mình với mình, gần như tịch cốc. Rồi bất thần lại biền biệt đi đâu, chìm đắm trong cuộc truy hoan nào rồi lại về náu mình ở cái buồng con trên nóc bếp hay ga ra ô-tô.

Cái gác của Nguyễn trong các tuỳ bút và truyện ngắn, truyện dài cũng na ná cái gác Nguyễn Tuân tá túc ở cuối sân sau một toà nhà bên tay phải phố Hàng Đãy. Bè bạn cho Nguyễn Tuân ở nhờ một buồng gác có thể trước là nơi ở của thằng tài thằng xe, tầng dưới để xe, trông thẳng ra cửa bên. Một cái thang gác gỗ nhấc đi được dựng đứng góc buồng, người trèo lên rồi sập mảnh ván xuống, đóng kín sàn, hệt cái bẫy chuột. Lên thang nghe gió cuốn âm thầm... Gác trọ không đèn nhớ cố nhân... - như câu thơ Trần Huyền Trân. Có một lần, Nguyễn Tuân đã dẫn tôi đến đứng ngoài vỉa hè nhìn vào hoài cổ cái gác xép ấy. Trải mấy chục năm dâu bể, thế mà khi ấy, bên trong một quán chè tươi, cái gác xép vẫn nguyên. Nguyễn Tuân bảo chẳng khác ngày xưa. Ngôi hàng chè tươi ấy của ông Nghi người làng tôi xuống Kẻ Chợ làm ăn. Ông Năm Nghi bảo:

- Chỗ gác ấy là trạm giao thông nội thành, cán bộ thường đến liên lạc. Chẳng biết thành phố có giữ làm bảo tàng không?

Ông Nghi cũng hoạt động cơ sở quận 1 thời kỳ ấy.

Toà nhà nọ, khi Nguyễn Tuân ở nhờ, là nơi tụ tập bí mật của một nhóm người đảng Đại Việt. Các nhà văn nhà báo Đào Trinh Nhất, Nguyễn Triệu Luật, Phùng Bảo Thạch... hay đến, có người bạn, có người chỉ quen, cả Đỗ Xuân Mai chủ nhà xuất bản Mai Lĩnh in phóng sự hai tập Tàn đèn dầu lạc của Nguyễn Tuân. Có thế, Nguyễn Tuân mới ở được cái gác bỏ hoang kia. Họ ra tờ tạp chí Văn Hoá, toà soạn đóng ở đấy. Báo hàng tháng bìa vàng dưới in trang trí hai chữ V và H trên nền một góc mặt trời đỏ toả tia ánh sáng. Chúng tôi xì xào hai chữ này: Đấy là bọn thân Nhật viết tắt chữ Vừng Hồng, mặt trời với tia nắng là vừng hồng đương lên - gần gũi với cái mặt trời tròn đỏ giữa quốc kỳ Nhật. Không hiểu tại sao,

Nguyễn Tuân cực ghét cờ Nhật, mà Nguyễn Tuân bảo là cục mực đỏ trên miếng vải trắng và giễu cờ Tàu Tưởng có cái ru líp xe đạp, bánh xe răng cưa. Hồi ấy tôi đã ở tổ chức Văn hoá Cứu quốc. Tôi để ý tin tức các phe nhóm chính trị thân Nhật, thân Pháp trong thành phố. Nguyễn Tuân cũng biết bọn ấy, Nguyễn Tuân không viết báo Văn Hoá nhưng lại thích cái góc tĩnh mịch hơn, nên đến ở đấy. Chỗ cái sân sau dưới cửa sổ - Nguyễn Tuân kể, tối nào chúng nó cũng tập võ, tập súng khuya lắm. Hình như đánh bốc, đấu gươm, bóp cò tanh tách, ném lựu đạn chai lọ vỡ choang choang. Trên buồng, mình nằm võng mơ màng, rồi ngủ, mặc kệ. Biết có điều phức tạp, nhưng vẫn đi về một minh, coi như không bận tâm. Chúng nó bảo viết bài thì trả lời ậm ừ. Lão xuất bản họ Đỗ lên buồng, rền rẫm lên: ối giời ôi, thời thế này mà ông nằm chỏng vó lên được à? Dậy, dậy. Gươm đây, ka ki may áo, may mũ sẵn cả rồi. Không mau lên thì không ai đợi được ông đâu.

Nguyễn Tuân im lặng, lát sau hỏi câu thân tình với nhà mua sách ấy như thế này: Này, ông chủ xuất bản, ông sẵn tiền đấy không, ông cho tôi tiêu một ít. Và Nguyễn Tuân vẫn nằm võng trong cái gác xép trơ trọi. Mọi sự xung quanh, không động trệ đến mình.

Một hôm, Phùng xuống tìm Nguyễn Tuân dưới nhà ở Ngã Tư Sở. Phùng nói nhỏ:

- Mật thám quây nhà ấy rồi, đừng lên nữa, cho tao ở nhờ mày ít ngày.

Thế là Phùng ẩn náu ở am Sông Tô. Ba chữ Am Sông Tô chỉ là cái bóng đẹp khéo tưởng tượng mà thôi. Nguyễn Tuân thường đề lạc khoản kèm với ngày tháng dưới những sáng tác như thời thượng của người viết. Chứ đâu phải cái am, cái động, cái lều tranh, cái mái trúc mà chỉ có muỗi đêm túa ra táp vào mặt bên con sông Tô xanh rờn những bè rau muống trên dòng nước hôi thối ở các cống thành phố thải ra. Sau bờ rào cúc tần, một ngôi nhà ngói cổ toạ lạc giữa mảnh vườn con, trông sang nhà ga ra tàu điện đường Hà Đông - Cầu Mới. Nguyễn Tuân đã viết tuỳ bút Nhà bác Nguyễn xưng tụng công lao thân mẫu ông vất vả từ Thanh ra trông coi dựng nên nếp nhà ở quê. Đại gia đình về an cư nơi gần đầu làng Mọc sau bao nhiêu năm cụ tú Hải Văn - tú tài khoa thi sau cùng, đã bôn tẩu theo công việc chữ nghĩa và dong chơi khắp Khánh Hoà, Phú Yên, Phai Pho, Turan, Huế, Hà Tĩnh rồi cắm lại Thanh Hoá, đến khi về già mới trở về được nơi chôn rau cắt rốn. Tam đại đồng đường ngụ trong ngôi nhà ngói cũ kỹ ven đường này. Thời bị chiếm, Pháp mở rộng đường Hà Đông, ngôi nhà bị ủi đi biến vào giữa lòng đường Nguyễn Tuân bảo chỉ nhớ áng chừng cái am Sông Tô ấy ở chỗ gần cửa nhà máy cơ khí bây giờ. Nhà bác Nguyễn, nhà bác Trương Tửu mất nhà, không được may như nhà bác Tú Mỡ trên Cầu Giấy, tản cư rồi có người trong họ đến ở nhờ trông nom hộ, khi trở về, nhà cửa vườn tược gần như nguyên.

Phùng luẩn quẩn tránh ở nhà Nguyễn Tuân. Lại còn như trêu ngươi, như không biết là người đương bị mật thám truy lùng, cứ tối đến, hai người thong dong lên tàu điện vào chơi ả đào Khâm Thiên.

Tôi không được cùng thời yên ba sầu xứ trong cái vỏ ốc thành phố này với các vị. Nhưng những khi đôi ba chén rỗi rãi, ngồi nghe kể, lại tưởng ra nguồn cơn vui thú của cái ông trưởng nam mới tý tuổi đầu đã được cụ thân sinh dắt theo đến phố Hàng Giấy thưởng thức đàn ngọt hát hay hẳn cũng có khác người, cho nên bóng dáng và tiếng tơ tiếng trúc xóm yên hoa còn dấu vết xa xưa lại trong tâm tư. Nhưng đến thời buổi nơi hát xướng đã nửa cô đầu nửa nhà thổ, bên tiếng hát bâng khuâng hồng hồng tuyết tuyết, phách róc lấp lánh lưa thưa như hạt ngọc rơi để khách cầm roi chầu gõ ngắt xuyên tâm, lại cộng thêm một lũ đào đĩ hầu rượu giải chiếu mắc màn rồi ngủ với khách, thú thanh tao nọ đã sang một sự vật dục khác cung phụng cho nhiều người khác rồi.

Nguyễn Tuân không chơi như người ta xưa và nay. Nguyễn Tuân trang nhã, thân tình với bà luật sư thượng viện Phước Đại, bà Bảy Nam và cô Kim Cương cả với ca sĩ Hà Thanh, một thời giọng vàng đài Sài Gòn, với Hoàng Oanh mà tôi vừa gặp đã giới thiệu ông quen ở khách sạn Côngtinăngtan hôm đoàn kịch Kim Cương ăn mừng một tuổi, thế mà cứ lưu luyến như rồi còn gặp lại. Nhưng chỉ vậy thôi. Nguyễn Tuân hay xỉ vả thói hoa lá cành của Nguyễn Văn Bổng và tôi. Cách mạng thành công năm 1945, Nguyễn Tuân mới ba mươi tuổi. Thế mà đĩnh đạc, chỉnh tề như đã tuổi tác lắm. Không giăng gió, Nguyễn cũng không thuộc những người liến láu khôn đến rạc cả người mà đàn bà ngại như cách Nguyễn Hữu Đang xếp hạng.

Năm 1975, Nguyễn Tuân vào Sài Gòn đến ở một nhà quen khó ai biết đích xác, kể cả những Phạm Tường Hạnh, Đoàn Minh Tuấn chuyên làm đầu sai mua giò chả các quán Bắc, rượu đế thịt quay chợ Hoóc Môn và chạy tiền để cụ tiêu. Bà chủ nhà kín đáo ấy, bấy lâu trong chỗ riêng tư. ở trong này vẫn nhận thầm với bạn bè lứa tuổi, bà ta là một bóng chị Hoài, tóc chị Hoài. Hôm Nguyễn Tuân trở ra Hà Nội xe về qua bưu điện Bờ Hồ còn tạt vào ghi xê gửi bức điện khẩn cho ai rằng đò giang đã thuận buồm bình yên. Chẳng may, tôi lại cầm đi đánh bức điện ấy nên mới để ý tên người nhận. Bà Nguyễn Thị Thảo. Ôi chắc là cái bà Nguyễn Thị Thảo báo Phụ Nữ ở phố Hội Vũ, trước có Trúc Khê, Lê Thanh cộng tác. Bà Thảo ấy sao? Tôi không hỏi. Tế nhị, người ta đã không muốn nói, thì cũng chẳng nên cố ý thóc mách. Sau chuyến ấy, Nguyễn Tuân thường ra đường, tay cầm gậy song, mặc bộ áo cánh lụa màu cậy dáng nhà Phật, bảo là của người ta cho. Khác nào hai câu thơ hoa viết bút lửa trên mặt đôi guốc mộc của Mộng Tuyết gửi biếu bác Nguyễn, những tình bạn đẹp và buồn phương trời.

Phồn hoa tỉnh mộng sương pha tóc

Mà cố nhân còn vẹn sắc hương

Nhưng khác chuyện bà giáo ở Bến Tre gửi thư cho Nguyễn Tuân - cũng trong cái năm 1975, sau bốn mươi năm Nguyễn Tuân mới trở lại Sài Gòn. Bà giáo Bến Tre giọng buồn giọng vui viết thư cho Nguyễn Tuân biết năm xưa bà đã gặp phải một Nguyễn Tuân dởm như thế nào.

Quãng những năm 1940 thuở ấy tôi cũng đương ở Sài Gòn. Tôi cũng biết chuyện có đứa mạo tên của Nguyễn Tuân đi lừa tiền nhiều nơi. Nguyễn Khánh Đàm, em Nguyễn Tuân, chủ hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm đường Sabuaranh đã kiện chứa mạo danh lên toà án thành phố. Nhưng tên ăn cắp đã lặn mất.

Bà giáo Bến Tre bị tên Nguyễn Tuân dởm ấy lừa tình thì chẳng mấy ai biết. Bây giờ bà giáo tâm sự với ông Nguyễn Tuân thật, rằng bà muốn được gặp ông. Nguyễn Tuân chống batoong, đi đi lại lại trong buồng khách sạn Bến Nghé. Nguyễn Tuân nheo mắt và nụ cười heo héo. Có cái thanh xuân của người ta thì thằng Tuân giả sực tất cả. Bây giờ thằng Tuân thật đầu râu tóc bạc lụ khụ đến. Hai chiếc quan tài sắp hạ huyệt rồi. Cái trang cuối của thiên tiểu thuyết này không thể tái hồi Kim Trọng có hậu như truyện Kiều được. à cậu viết truyện tình được đấy, tớ bán cho cậu cái cốt truyện này. Một chai Macten thôi, trong này sẵn. Nguyễn Tuân không xuống Bến Tre. Cũng không trả lời thư bà cụ giáo.

Thời la cà dưới xóm mà Nguyễn Tuân đặt tên là những cuộc truy hoan, ở giữa nơi ăn chơi Nguyễn Tuân cũng không dăng dện vẩn vơ. Trong các tài danh thuở ấy ở Khâm Thiên mà bây giờ các bà Nguyễn Thị Phúc, Quách Thị Hồ vẫn còn nhắc lại giọng tức tưởi âu yếm:

- Ông Tuân với bà Năm, chỉ một bà Năm thôi, cứ gọi là hết nhẽ. Ngoài kháng chiến, ông đi chỗ nào, trong này bà Năm cũng biết. Thế mới tài chứ. Bà gửi cả vàng ra cho ông tiêu. Lo liệu cho nhau đến thế cơ mà.

Cũng thì chơi bời, Nguyễn Tuân chỉ gắn bó vơi chủ nhà hát và hát hay. Lôi thôi quá, tao định đưa bà Năm về làm bé đấy. Nhân thể rước cả bàn tĩnh về. Đằng nào cũng nghiện, hút ở nhà đỡ tốn đỡ đàn đúm. Cụ ông nhà mình tính cho hai bố con thế. Rồi cách mạng, thế là tung hê cả Cái người nặng tình với Nguyễn không phải đào Hồ, đào Phúc, cũng không phải Mộng Hoàn chị ruột của Vũ Đình Hải trinh thám tư và làm áp phe cho Nhật mở buyarô trên phố Trường Thi, rất thích truyện Chí Phèo, Đôi lứa xứng đôi của Nam Cao. Mà đây là đào Chu Thị Năm, cũng là chủ nhà hát. Tôi hậu sinh, chẳng biết đâu những đào hoa xa xưa của vị bô lão. ở Việt Bắc trở lại, Nguyễn Tuân tìm mua ở chợ Giời được mấy cái đĩa hát của Mộng Hoàn và của Chu Thị Năm. Canh tàn rượu tỉnh, khuya khoắt lắm mới lấy ra nghe như nghe ma hát. Nguyễn Tuân bình: Cùng nhà nòi cả, Mộng Hoàn thì sang, hát hàng hoa bay bướm, nhưng khuôn giọng vào đàn có phần không dụng công bằng Chu Thị Năm. ấy cứ đúng mực với nhau, mà có quá đi nữa, ông sẽ làm như nền nếp thói thường, đưa nó về lạy chị cả - chẳng thể tan hoang đến nỗi nào. Nguyễn Tuân đã nói ra miệng thế. Một bạn chơi cùng thời với Nguyễn Tuân là Vũ Bằng đã viết: Chơi đâu thì chơi, không bao giờ Nguyễn Tuân sao nhãng cửa nhà. Hồi ký về Nguyễn Tuân của Vũ Bằng in báo Văn Học ở Sài Gòn, đến khi đọc tự truyện Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng không thấy câu ấy, thành thử tôi chỉ nhớ ý. Con mắt tinh đời của Vũ Bằng đã nhận xét ra từ ngày ấy và đúng suốt đời với Nguyễn. Năm kháng chiến, Nguyễn Tuân với một đoàn cán bộ bí mật vào hậu địch hạ lưu sông Hồng. Trong công việc chuẩn bị vào tề, Nguyễn Tuân tự đặt bí danh là Tuệ. Tây mà tóm được thì bác Nguyễn là cụ chánh tổng Tuệ, cụ chánh hội Tuệ, tuỳ tình hình. Nghĩ trước tới lúc hiểm nguy, vẫn là nhớ về bác gái nội trợ ở nhà. Tuệ là tên bác gái, bác Tuệ. Cả đời bác gái giúp bác trai làm nhà bếp, nhà bàn, nhà phòng nhà nó Những năm sau này, ít đi xa, Nguyễn Tuân hay khoe đùa:

- Chẳng đâu có ôten tốt hơn cái ôten nhà mình.

Những cái đĩa hát chỉ là những cái đĩa hát, những đĩa hát 78 cũ đã nhạt tiếng rồi mất hẳn. Người hoa khôi nơi yên hoa xưa đã yên giấc nghìn thu từ lâu. Tối ba mươi, tôi hay đến Nguyễn Tuân nghe bà Năm hát, nhưng tục lệ ấy cũng đã tàn tạ nhiều năm rồi.

Những đêm này, Phùng và Nguyễn Tuân thường hát ở nhà bà Năm, hát nhà hát nhà. ở nhà hát ấy đã được miêu tả trong Tuỳ bút 2, có lần bác Nguyễn lưu luyến ở đấy lâu quá, một sớm trở dậy chợt soi gương thấy hai hàng mi dường như đương trắng bệch ra - sắp thành thần Bạch Mi, ông thần cai quản đám ca nhi giang hồ nơi thanh lâu, tửu quán.

Nửa đêm, Phùng về am Sông Tô, Nguyễn Tuân ngủ lại. Mật thám đã rình cửa. Phùng bị còng tay, tông ra xe.

- Thằng Tuân đâu?

Mật thám dẫn Phùng lên đập cửa nhà hát bà Chu. Gà vừa gáy canh một. Nguyễn Tuân chui trong màn ra, tra tay vào còng số tám, về sở liêm phóng. Cùm xà lim cả tháng, Nguyễn Tuân bị gọi lên tra và hỏi dòng dã về những dứa nào, chúng mày làm gì trong toà nhà tạp chí Văn Hoá phố Hàng Đẫy mà Nguyễn Tuân vẫn về nằm võng. Chuyện thật mà mật thám Tây không thể tin. Nguyễn Tuân không đến nỗi nhát sợ khai lung tung, mà thực sự, không biết đổ vấy cho ai. Nguyễn Tuân không biết mảy may chuyện trong nhà ấy. Giữa năm 1941, hai người mật thám dẫn bỏ Nguyễn Tuân lên trại tập trung ở Vụ Bản vùng rừng núi Hoà Bình, Ninh Bình. Việc đi tù này, Nguyễn Tuân ghi một câu gọn lỏn vào lý lịch để ở cơ quan: Đi căng một năm vì chứa chấp Phùng. Chỉ một câu mà đâm nghĩ ngợi. Cả khi có tuổi, Nguyễn Tuân cũng không quên.

- Tao không dây với chúng nó, việc gì nó phải dẫn mật thám đi bắt tao. Mật thám hỏi, nó chỉ nói một câu không biết, thì đã sao?

Thời ấy, Nguyễn Tuân còn một ông bạn, khi cần tiền vẫn giựt nóng mấy đồng mà không mấy khi phải trả. Năm tù ở Vụ Bản về. Nguyễn Tuân cho con cầm thư đến bạn mượn tiền, cũng như báo tin khéo: Tôi đã về. Ông bạn thân mọi khi không đưa tiền, cũng chẳng một chứ trả lời. Đến nay Nguyễn Tuân còn cười nhạt qua chén rượu: à người ta ngại dính đến thằng tù dây. Những đợt chỉnh huấn gay gắt, Nguyễn Tuân ngồi im nghe mọi người giúp đỡ, gợi cho nhớ lại những câu đã chửi ai, đã nói ác ra sao mà Nguyễn Tuân không nhớ nói thế bao giờ. Nhưng nghĩ chắc có nói, không phải chúng nó vu. Chỉ không tưởng được rồi có khi người ta lại đem câu giễu cợt ra chỗ nghiêm chỉnh thành chuyện tày trời. Nguyễn Tuân không tiếp thu', cũng chẳng nói lại, rồi cũng chẳng bao giờ nhìn mặt những người ấy nữa. Bề ngoài, tuồng như ở ngòi bút và trong cuộc sống Nguyễn Tuân chỉ có xô bồ và ngang cành bứa. Không, đối đãi với xung quanh, Nguyễn Tuân vừa thành kiến vừa tình nghĩa nền nếp cũ. Hợp nhau mặt nào thì chan hoà mặt ấy, những cái khác thì không lưu tâm. Cuối năm, cẩn thận, đều đặn, Nguyễn Tuân gửi thiếp chúc năm mới những người quen biết cần gửi. Không bất thường và trễ nải hứng một lúc. Tôi đi Lai Châu hay Hà Giang lâu lâu, thế nào cũng được thư Nguyễn Tuân, khi gửi từ Hà Nội, khi Lào Cai, khi Vĩnh Linh, khi Matxcơva. ở phương này, Nguyễn Tuân nhắm phía chân mây kia mà ông thèm tới.

Đến việc ăn uống thì thật nền nã và cầu kỳ. Hay bảo là cốt làm ra khác thường cũng có thể được. Nguyễn Tuân lên cốt 400 núi Ba Vì. Trên ấy đạo diễn Mai Lộc đương quay một số thước ngoại cảnh phim Vợ chồng A Phủ của tôi. Lưng núi, xa chợ búa, con bò con lợn mổ được phải để ăn dần mươi hôm. Tổ làm phim thịt bò đón khách linh đình. Miếng xách luộc, miếng thịt tái cả da chấm tương gừng. Hồi này nhà mậu dịch gắt gao thu mua da bò da trâu, có ở rừng ăn chui mới được miếng da bò thui quý hiếm. Mấy ông già người Dao ở làng gần cũng xuống vui chung. Nguyễn Tuân khen ở núi hiếm gia vị mà cũng kiếm được rau thơm, ông chỉ nhặt bỏ ra ngoài mâm những lá cỏ dại gọi là lá mùi tàu nhổ ở ven rừng. Nhưng Nguyễn Tuân chén thịt bò có một bữa ấy Những hôm sau, nhờ nhà bếp nắm cho nắm cơm và mở lọ muối vừng, lọ ruốc mang theo từ nhà. Đừng ai nài ông khách kỹ tính ấy ăn thêm miếng thịt kho, một bát nước suýt oi khói hai ba lửa. Nguyên Hồng với Nguyễn Tuân mỗi người ăn uống một khác, thế mà chơi được với nhau. Nguyên Hồng uống tạp, rượu nhắm ổi xanh, hành sống, cà pháo muối xổi... Buổi tối, Nguyên Hồng ngủ lại ở cái gác xép sân sau cơ quan. Chẳng biết cao hứng sao đi tìm tôi rồi ra chợ chiều cạnh bến xe Kim Liên mua miếng thịt bò, mấy nhánh cần tây và mớ rau húng. Thịt xào không mỡ với muối, rau húng chỉ cởi lạt, ngắt ăn cả nhánh. Hàng rau người ta rửa rồi mới đem ra chợ bán chứ ăn cả đất đâu mà lo. Khéo vẽ vệ sinh lôi thôi

Nguyễn Tuân khác hẳn, Nguyễn Tuân uống như các cụ ngày trước, rượu ngữ. Bữa sáng hay chiều có nhắm hay uống suông cũng thế, thành lệ mỗi lần một hai chén, quanh năm không khác. Nguyễn Tuân có thổ mua rượu, ông kỵ rượu chợ. Không nát, không to tiếng, say chỉ lừ đừ và lặng lẽ nằm nghỉ. Tạng Nguyễn Tuân với cách thức hương hoa ấy hợp với các thứ uống hảo hạng Chianti của ý, Rôm Giamaich hay Uýtky và Mao Đài. Mùa hè, làm cốc-tay thêm lát chanh với miếng đá, nhấm nháp cả ngày. Không đụng đến rượu ngọt, dù nặng. Cái xa kê ngòn ngọt của Nhật thì vứt đi. Có lần, đạo diễn Đình Quang ở Nhật về biếu ông bình rượu xa kê to tổ bố. Ông cho chúng tôi uống cả. Những năm ấy, chuốc đâu ra những của quý như thế mà vẫn kiểu cách của ông. Bời vậy nông nỗi còm cõi càng trơ khố tải ra, mỗi khi có đôi chút phong lưu, nhiều cuộc uống tội tội thế nào ấy. Một miếng pho mát, một cốc vôtka Ba Lan trên gác nhà bác sĩ Trần Hữu Tước, cũng khá hiếm hoi. Chủ nhân chỉ ao ước có tủ sách chuyên môn, có tiền mua hàng tháng sách nghề của mình tháng nào chẳng có tạp chí, có sách mới, chỉ đọc báo cũng muốn phát sốt. Mà không có tiền mua ông bác sĩ anh hùng này đã dịch tiếng Pháp bút ký Ngõ tây của tôi với nhiều truyện ngắn khác và những phát biểu, tham luận của tôi mỗi lần tôi đi dự hội nghị nước ngoài. Ông dịch thuê và đọc cổ văn Liêu trai chí dị. ở Pháp ngày trước, ông làm bác sĩ tai mũi họng chuyên cho hoàng gia Anh. Một năm, chỉ vài ca khám đã thừa cái ăn chơi. Thuở ấy, xa rồi. Bây giờ, mỗi lần cho con xách cạp lồng đến phở Khải 202, chủ quán quý khách thái thêm cho mấy miếng gầu đã cám ơn, xuýt xoa khen.

Cái cung cách ăn uống phải tính toán nghèo nghèo này, kể cũng hiu hắt và vất vả. Mỗi khi vớ đâu được một chai ngon, henitxy hay cô nhắc, Nguyễn Tuân thường kéo bạn đến, từng người. Họ được uống vào những lúc khác nhau. Người mở nút đầu tiên và người uống ly chót, chủ nhân đều đã đo đạc cẩn thận. Không biết ai, chỉ biết tôi không mấy khi được vinh dự mở nút chai. Tôi chỉ lĩnh một chén ông dành cho vào lúc nào đấy và đến lúc khoái quá, được Nguyễn Tuân bảo:

- Ông có thể thêm ly nữa, ly nữa.

Tự tay tôi thò vào cái nút be lọ lỉnh kỉnh dưới giá sách lôi ra chiếc chai quý mà lúc nãy rót xong chén cho tôi, Nguyễn Tuân đã lại cất sâu vào phía trong. Ai, thì đãi rượu nào. Có cái này uống được. Ông đến nhé... Được, hiểu là thượng hạng đấy. Trong lúc tôi liếm môi vị cô nhắc thơm cay mà một bạn người Nga của chúng tôi, anh Vlat nghiện rượu quanh năm túng bấn chỉ nốc có rượu trắng, cứ nói xấu lấy được rằng thằng cô nhắc có mùi hôi con rệp, tôi ghét thì Nguyễn Tuân tự rót cho mình một ly cuốc lủi. Nguyễn Tuân xơi cái thường, nhìn khách uống cái sang và hỏi: Thế nào? Tưởng có thèm đến mướt mồ hôi cũng không nỡ nào dám uống thêm, thì Nguyễn Tuân lại tự tay rót ngay ly nữa. Nhưng ông cất lời dạy bảo ngay:

- Uống trâu, mày là thằng uống trâu. Chỉ rượu trắng, người Nga mới hắt vào miệng một tợp chống rét như thế. Rượu có giá phải nhấm nháp và nghĩ để thưởng thức.

Tôi chịu không làm được, tôi cũng không muốn đổi lối người ta nghiền ngẫm vị rượu trên lưỡi, tôi nghĩ về rượu trong cổ lên quỹ đạo lâng lâng theo cách của tôi. Tôi cãi chày cối, Nguyễn Tuân không nói nữa, nhưng có vẻ không bằng lòng... Và nhiều cái. không bằng lòng khác. Có khi cả năm Nguyễn Tuân chán chường tôi, không nhìn mặt. Nhưng ông bạn vong niên ấy với tôi không đến nỗi kiềng nhau như bác Nguyễn và nhân vật Mợi trong tuỳ bút Đôi tri kỷ gượng mà chúng tôi như người nợ nhau, ghét nhau đấy nhưng lâu lâu không được tào lao đôi ba câu, lại thấy văng vắng. Thật khó nhọc, mà lại cứ thật là cần.

Mấy chữ này của Nguyễn Tuân có thể phác hoạ ra những khúc khuỷu trái ngược ấy.

Tô Hoài,

Mình thường ít khen ông - về cả con người, cả nhà văn.

Nhưng đọc Sài Gòn Giải phóng, 13 tháng giêng 1985 bài Một người bạn, mình thấy có một cái gì mơi mới ở ông. Nhưng phải khen cái truyện ngắn khá dài khá sâu rộng này. Người thật việc thật trong chuyện này có thật không, hoặc có thì ở mức nào, đối với tôi không quan trọng. Cái quan trọng là nó như thật. Nó hay đấy. Ông còn khoẻ hơn tôi, cứ làm độ một tập như thế này thì ông sẽ phá kỷ lục của Tô Hoài đó.

Nguyễn

Nhưng việc gì ông phải cho truyện ngắn một người bạndính vào mục dự thi. Không dự thi thì truyện Tô Hoài giảm giá trị đi à? Hay là người ta xui ông đi thi viết!

Nguyễn Tuân vốn mến và chơi với hoạ sĩ Nguyễn Sáng. Nguyễn Sáng đã vẽ Nguyễn Tuân những chân dung thật đặc sắc. Nhưng mà cái hợm trong sáng tác, không coi ai ra gì, ai cũng không bằng mình của Nguyễn Sáng thì Nguyễn Tuân không chịu được. Nguyễn Sáng đến chơi, mùng ba Tết. Hai người uống vui, câu chuyện xoay quanh nghệ thuật. Bốc lên, Nguyễn Sáng hét:

- Chỉ có một thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!

Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa:

- Đi ngay!

Nguyễn Sáng vẫn hăng:

- Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở? Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật, vứt đi?

- Anh ra khỏi đây ngay.

Nguyễn Sáng lập cập xuống thang.

Đến nhà tôi, Nguyễn Sáng nước mắt đầm đìa.

Nguyễn Sáng bảo con gái tôi:

- Người ta vừa đuổi chú. Năm mới mà chú bị người ta đuổi.

Ngồi một lúc coi như uống tiếp lúc nãy, tỷ tê hỏi mới ra câu chuyện những cát tài và cái tai gặp nhau. Nguyễn Sáng nói một câu sắc rợn:

- Nó cũng khinh người bỏ mẹ, lại bảo mình khinh người.

- Lúc nãy có nói thế với Nguyễn không?

- Chưa hết câu, nó đã tống mình đi rồi. Tức quá đi luôn.

Cả sinh hoạt lẫn xử thế, lắm cái như trẻ con.

Buồn cười, Nguyễn Tuân nhiếc tôi:

- Chúa ghét cái thằng bợm bia rượu mà hàng ngày lại uống nước lạnh.

Không mấy khi Nguyễn mời tôi uống chè. Không bao giờ cho tôi thuốc lá.

- Mày hút phí thuốc lá.

Quả là tôi không hút thuốc. Muốn hút chơi thì tôi phải xin ông. Thường nói, ông vừa khôi hài vừa mỉa:

- Chó biết thằng này thế nào là thật? Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày.

Tôi cũng tìm ra cách chọc tức lại. Này ông chửi tôi giả rượu giả thuốc, giả cười, tôi ăn bọ hung, tôi ăn thịt chuột. Ông bảo người ta chỉ thật nhất lúc ngồi với cái chén. Nhưng mà từ thời công nguyên, hai ba nghìn năm nay, thiên hạ thế giới đã luận về cả trăm lối nâng chén đấy, chứ không phải cách riêng của thằng láu cá này đâu.

Tôi chìa trang Sử ký ra trước mặt Nguyễn Tuân.

Tề Uy Vương h ỏi Thuần Vu Khôn:

- Tiên sinh uống bao nhiêu thì say?

Khôn đáp:

- Thần uống một đấu cũng say, mười đấu cũng say

- Một đấu cũng say thì sao uống được một hộc? Sao nói vậy?

Khôn nói:

- Nếu cho uống trước mặt đại vương có quan chấp pháp đứng bên cạnh, quan ngự sử nấp sau lưng thì Khôn sợ hãi cúi đầu uống, chỉ một đấu đã say. Nếu cha mẹ có khách quý, Khôn vén áo khom lưng hầu rượu trước mặt thỉnh thoảng được ban cho mấy giọt thừa, lại phải bưng chén chúc thọ, phải đứng lên hầu rượu luôn như thế thì hai đấu đã say. Còn như bè bạn lâu ngày không gặp, bỗng nhiên gặp gỡ, mừng rỡ kể chuyện cũ, đem chuyện riêng ra nói cùng, như thế uống được năm sáu đấu. Nhưng đến như ngày hội ở quê, trai gái ngồi lẫn lộn, mời rượu dằng dai, đánh lạc, ném hồ, kéo nhau tụm năm túm ba, nắm tay nhau cũng không ai phạt, mắt nhìn nhau cũng không ai cấm. Đằng trước có cái hoa tai đánh rơi đằng sau có cái trâm bị bỏ sót, Khôn trộm lấy thế làm vui, có thể uống tám đấu cũng chỉ say hai phần. Khi trời chiều, tiệc vãn, dồn chén ngồi kề, gái trai cùng chiếu, giày dép lẫn lộn, chén bàn bừa bãi, trên thềm tắt đuốc, chủ nhân giữ một mình Khôn ở lại mà tiễn khách ra, áo là cởi bỏ, thoảng mùi hương thơm phức. Lúc bấy giờ lòng Khôn rất vui, có thể uống được một hộc mười đấu. Vì vậy nói rượu quá hoá loạn, vui quá hoá buồn, muôn việc đều thế. Vua Tề nói: Hay! (*)

(* Hoạt kê liệt truyện. Sử ký Tư Mã Thiên (145 trước CN). Như Thành dịch, lần in thứ tư, Nhà xuất bản Văn Học, 1988)

Chắc chắn Nguyễn Tuân đã ngâm nga đoạn văn này bao nhiêu lần, nhưng tôi cứ đọc lên. Nguyễn Tuân im lặng, không phải để khỏi cụt hứng người đọc mà Nguyễn Tuân nhấp chút chút rồi gật gù:

- Mấy năm trước, chắc tớ cũng bị theo dõi. Nhưng bây giờ thì hẳn là thôi. Mình hay nói, đứa khác đem nói lại, nó bịa ra chuyện mới, lời bình mới, bảo là Nguyễn Tuân nói đấy. Thời buổi sinh ra ca dao hò vè lung tung ấy mà. Nhưng xét cho cùng, Nguyễn Tuân có tò mò đôi chút cũng chỉ nghe hơi chứ phải đâu được mắt thấy, được ngồi bàn bạc mà biết. Cái thằng cầm bút viết được chữ nào bán chữ ấy, sức đâu mà làm ca dao cho không. Mày học làm đầy tớ Thuần Vu Khôn để dạy tao. Tao cũng là thầy đây. Thầy này ghét đứa nào uống rượu để nhắm thằng khác uống rượu. Đấy, lại mất điện. Tiến lên công nghiệp nặng của ông Lê Văn Lương ở thành phố này là phải trữ cái đèn hoa kỳ.

Năm 1954, về Hà Nội, tổng thư ký Hội Văn Nghệ Việt Nam Nguyễn Tuân và thường trực cơ quan Nguyễn Huy Tưởng ưu tiên hai thủ trưởng mỗi người được phát cái xe đạp, số xe công màu biển xanh. Xe đạp, Nguyễn Tuân cũng làm cho hình thù nó khác của người ta. Khung không sơn lại, để loang lổ đen xám, ghi đông vuông, xe cởi truồng không mắc gácđờbu. Nhưng thế không có nghĩa là cẩu thả. Thoáng trông xấu xí, mà xe khung Pháp, phanh tốt, lốp đoonglốp đỏ sẫm.

Nguyễn Tuân đến tiếp khách nước ngoài ở khách sạn Thống Nhất. Đi xe đạp thường ý tứ để xa xa cửa vào, rồi khoá cẩn thận tựa bờ tường bên nhà phát hành sách. chốc nữa, khách có thân tình tiễn ra ngoài cái cửa quay, chủ chỉ việc đi lững thững vài bước. Giả đò như ở cái thành phố xinh xắn yên tĩnh này không cần đi ô-tô và thư thái tản bộ là một thói quen đẹp. Khách vào rồi, ông chủ ra ngách tường để xe đạp đằng kia, mở khoá và thóc đi.

Nguyễn Tuân đến chỗ giấu xe. Cái xe đã biến mất. Mấy hôm sau, thương nghiệp thành phố biết chuyện đã tặng nhà văn một xe Thống Nhất chưa bóc giấy bóng. Tôi không biết cái xe ấy Nguyễn Tuân đã cho hay bán, nhưng không thấy Nguyễn Tuân cưỡi xe đạp nữa. Trong thành phố, ông đi bộ và gọi xế lô. Chẳng mấy lâu, bệnh thấp khớp đã khiến cho đôi chân người phiêu đãng không còn mấy vững, phải có thêm cái gậy đỡ. Nguyễn Tuân vốn chơi gậy, có một ống đựng hàng tá batoong các kiểu. Gậy lim sơn then, gậy lụi. Gậy song Sa pa khắc tên những nơi đã đi qua, Matxcơva, Sôphia, Vácna... Mới thêm một chiếc nạng thương binh. Lần ấy, vào Sài Gòn, bệnh thấp khớp khéo trêu ngươi bỗng nổi lên ở cái đất khô nhẹ, mà những người quê miền Bắc bị khớp, xưa kia cũng như ngày nay, có điều kiện, đều tránh cái rét mùa ẩm vào trú đông trong Nam. Thế mà Nguyễn Tuân bị sưng chân lên đến gối, ngồi một chỗ. Cũng có thể không lạ, sự dị ứng trái ngược. Khi Nam Cao còn trẻ vào làm ăn trong Sài Gòn, bị nề đến phải chống gậy lên tàu ra. Đôi chân thèm đi của Nguyễn Tuân đã được đắp vô vàn cao hổ, có đến mấy chục cái chân con hổ mà đến lúc cũng quỵ. ở quán thịt chó Sinh Hàng Lược, Đoàn Giỏi mách:

- Hai cẳng sau con chó, ở trong Nam người ta chữa được nhiều bệnh, thần hiệu nhất cái bệnh đau xương, bệnh khớp.

Nguyễn Tuân ở bệnh viện về. Mỗi ngày, buổi chiều, đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa xách cặp lồng lên Hàng Lược mua cẳng chân sau con chó, không biết hai hay bốn. Đến bấy giờ Phạm Văn Khoa cũng hoá ra người khổng lồ chân đất sét rồi, nhưng con người cao lớn lực lưỡng ấy lại ngược đời, kém chân thì đi xe đạp thay. Từ hôm Phạm Văn Khoa mất xe đạp, chàng mới chịu cho các nàng đèo xe máy. Phạm Văn Khoa treo cặp lồng chân chó ở đầu thang gác lên nhà Nguyễn Tuân. Xương hổ, xương chó và bè bạn lo cho cái chân người về già. Cũng nhờ vớt vát chịu đựng thế mà khi đã đuối lắm, Nguyễn Tuân vẫn chống gậy với chiếc vai nhỏ đựng sách và hộp chè, khay chén đến bệnh viện lần cuối cùng. Cả cái chai rượu lẹp dẹp trong lườn áo khoác.

Những năm đầu, các cơ quan từ thành phố lên Việt Bắc, chúng tôi ở xóm Chòi làng Yên Dã huyện Đại Từ chân núi Tam Đảo ngoảnh về đằng Thái Nguyên. Ngày quang trời thấp thoáng thấy Khuôn Chu - một làng người Dao trên lưng núi có lối tắt đỉnh núi sang vùng Tam Đảo nghỉ mát bên kia. Vào mùa mưa, những con lũ tràn ra giữa sườn núi xanh im, xa trông như những giải lụa trăng toả xuống. Nam Cao và tôi ở báo Cứu Quốc trên Tuyên Quang cùng đổi công tác về hội Văn Nghệ. Nhưng Nam Cao còn lên Chợ Chu học ba tháng trường Nguyễn ái Quốc - lớp tập trung ba tháng hồi ấy đã là dài và quy mô nhất. Tôi về thẳng xóm Chòi.

Từ khi rời Hà Nội đến đây cơ quan mới ở lại một chỗ ra hồn. Bên báo Cứu Quốc ở nhờ trong làng, lần lần từ Yên Thọ Hoài Đức vào Viên Nội Vân Đình, lên Trung Giáp Phù Ninh trên Phú Thọ. Sang chán núi Tam Đảo, các gia đình đi theo ở quanh trụ sở đông hơn các đoàn văn nghệ kháng chiến trên Nhã Nam bên Bắc Giang, bên Xuân áng Phú Thọ và Quần Tín trong Thanh Hoá. Cơ ngơi ăn ở và làm việc gồm những ngôi nhà nhiều buồng trên lưng đồi. Kiến trúc sư Võ Đức Diên chỉ huy làm nhà kiểu ánh sáng cột vầu mái rơm vách nứa và ở cánh rừng bên ngoài, trường nội trú Văn nghệ Nhân dân của ông đốc Nguyên Hồng, mỗi khoá hàng trăm người nhiều nơi về đây học. Các nhà theo cơ quan thì ở nhờ nhà bà con trong xóm. Tối tối, chúng tôi tụ tập ở căng tin Võ Đức Diên. Chị ấy nấu rượu nếp, có bánh đa. Hôm nào phiên chợ Ký Phú bên kia suối thì làm bánh cuốn, bún thang. Phạm Duy và Thái Hằng ở Thanh Hoá ra. Có một hội nghị quốc tế về âm nhạc ở Rumani, Phạm Duy chuẩn bị đi. Tôi không biết hội nghị hoãn hay vì đường xá cách trở, bấy giờ xe lửa Bằng Tường - Nam Ninh chưa có, cuộc đi lại thôi. Vợ chồng Phạm Duy trở về khu bốn. Chỉ có như vậy, không lắm chuyện như Phạm Duy đã viết trong Hồi ký thời cách mạng, kháng chiến.

Đầu năm 1950, chi bộ Đảng quyết định kết nạp hai đảng viên mới, Nguyễn Tuân và Xuân Diệu. Mỗi người được tổ chức ở một buổi họp khác nhau. Bí thư chi bộ Trọng Hứa phụ trách văn phòng cơ quan. Tôi ở báo Cứu Quốc về, được dự kết nạp Nguyễn Tuân. ở rừng, giản dị như một buổi họp. Chỉ thêm một ống nứa cắm mấy nhánh hoa mua, hoa đơn đỏ ngắt ngoài đồi. Hai người giới thiệu, Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu.

Cái chu đáo của Nguyễn Tuân, theo cách Nguyễn Tuân, nền nếp nho phong, như Nguyễn Tuân giao thiệp với Tố Hữu. Nguyễn Tuân được kết nạp vào Đảng ngày 18 tháng tư năm 1950 - tôi nhớ theo Nguyễn Tuân kể. Có khi, đột nhiên Nguyễn Tuân nhắc đến. Nguyễn Tuân nói: Hôm nay, hai mươi năm trước... hăm hai năm trước... hăm nhăm năm trước... nó quẳng mình xuống tàu Chanilly... Tết năm ấy, năm ấy mình ở Hương Cảng... Rồi nói chuyện sách mới đọc hay có việc đương nghĩ, chúng tôi ngồi yên. Khi bực tức một người, một bài báo, người ta nói thường thốt ra, câu nói ác khẩu mà nhiều người hay kể lại: bao giờ tôi chết thì nhớ chôn theo với tôi một thằng phê bình, theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn nói đùa thêm để dưới ấy trao đổi cho đỡ buồn. Cũng táo tợn như cái câu của P.Môrăng: Ta muốn sau khi ta chết đi, da ta được thuộc làm cái vali mà Nguyễn Tuân đã lấy đặt lên đầu trang tiểu thuyết Thiếu quê hương khi in từng kỳ ở tuần báo Hà Nội Tân Văn. Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân vùng vằng nói:

- Thế này thì tao đem trả thẻ Đảng cho Tố Hữu.

Nhưng chưa bao giờ Nguyễn Tuân làm thế.

Mà chỉ thấy mỗi năm, dịp kỷ niệm ngày vào Đảng, hay tết nhất Nguyễn Tuân đều đến chơi Tố Hữu. Thế nào cũng cầm lên mây bông hồng vàng lòng trứng gà. Trước sau tề chỉnh hầu như đã thành nếp. Cũng là miệng xà thôi...

Không nhớ ở cuộc họp kết nạp Nguyễn Tuân tôi có phát biểu thế nào không, nhưng sổ tay tôi ghi nhật ký ngày 18-4-1950.

Những đám mây xanh mơn mởn đùn lên như mây nổi trên khu rừng già, đâu cũng rừng, cũng rậm rà. Chiều Việt Bắc tối rậm rịt, vướng vít trong cây không biết mờ mờ sương hay khói trải trên lớp núi răng cưa ngang mắt. Con chim bắt cô trói cột kêu trong chiều muộn. Tiếng con cuốc khắc khoải. Hoàng hôn cũng buồn buồn như lòng mình, ngồi đây mà nghĩ đâu đâu. Nghe mọi người nói, tôi nghĩ đến những chuyện khác Buổi kết nạp Nam Cao ở núi Phía Biếc rưng rưng nước mắt. Tiếng súng moochiê của địch từ ngoài Pù giát câu vào. Buổi kết nạp Phúc Mơ, cái dáng Phúc Mơ nhăn nhúm, đăm chiêu lúc giơ tay thề. Những điều mình dặn Phúc Mơ, trước hôm Phúc Mơ sang giữ kho bị Tây đồn Phủ Thông bắt. Những lễ kết nạp các đồng chí Thổ ở Bản Hậu.

Đây nói nhiều tới mình, tới sáng tác quá. Thế mà tôi lại thấy nó bé nhỏ làm sao! Sáng tác là cái quái gì, nêu không lăn lộn, phản ánh được chiến đấu.

Mỗi cuộc đời, mỗi trường hợp đến với cách mạng không giống nhau.

ở Nguyễn Tuân, chắc không phải do sách vở, lý luận hay cuộc sống tối ngày, cũng không phải vì tính toán cơ hội, hoặc đua đả. Có thể cảm kích bời một chén rượu với Tố Hữu ở nhà hàng Thuỷ Tạ. Có thể vì hai người con lớn trong nhà đã là việt Minh từ bóng tối mà Tổng Khởi Nghĩa rồi ông mới biết. Cũng như tấm lòng của ông với Trung đoàn Thủ đô vì ở đấy có con trai ông, có trung đội trưởng trinh sát Két người nhà bàn quen thuộc ở nhà Thuỷ Tạ. Cũng có thể vì một suy nghĩ bất thần nào đó.

Không ai như ai.

Năm 1958, một hôm tôi trông thấy đi ra cổng đại sứ quán ta ở Matxcơva một ông già nhỏ bé, gày guộc như một người Cô-dắc, người Tác-ta ở Trung á hay một lão Di gan lang thang đi xem bói tay thường gặp. Hỏi, mới biết tên ông là Hồng - nhưng ông quên tiếng mẹ đẻ đến đỗi không nói sõi được cả tên mình. Ông từ một vùng thảo nguyên taiga ở Xibêri về chơi sứ quán - đã mấy lần. Ngày trước, ông ở Pháp hoạt động cộng sản rồi trốn sang Liên Xô ông theo phái tờrốtkít bị bắt đày đi Xibêri. Khi đó, đến cả Tưởng Kinh Quốc, con Tưởng Giới Thạch học ở Liên Xô tham gia tờrốtkít cũng phải bắt bỏ tù. May có bố đương trị vì nước Trung Quốc có can thiệp Quốc mới được thả về. Cách đây mấy năm, Tổng thống Tưởng Kinh Quốc trên tám mươi tuổi, chết bệnh ở Đài Loan, có bà vợ Nga già, bà Phaina Varêna lụ khụ, đi đưa đám - người đàn bà mà Quốc lấy ở một thị trấn Viễn Đông từ nơi đi đày đưa theo về. Ông Hồng này cũng lấy vợ ở chỗ cấm cố, mãn hạn tù không trở lại Matxcơva nữa. Bây giờ đã được một lũ con và ông đã già lắm, cũng không có nguyện. vọng trở về Việt Nam. Mỗi lần đến đại sứ quán ta, gặp ai, ông cũng chỉ nói được một câu: Tôi buồn quá và khóc rồi đi. Bây giờ, chắc ông đã mất từ lâu. Một lần kia, đi nghỉ ở Nha Trang. Trên bãi biển, bác sĩ Trần Hữu Tước có kể cho tôi nghe một câu chuyện. Chuyện đời của trăm nghìn người trí thức đã đến hay không đến với cách mạng, quả là không ai giống ai.

Năm 1946, cùng chuyến ở Pa ri về Hà Nội - không kể những người cùng phái đoàn ở Hà Nội đi Pháp, có Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước và một người quê miền Nam tên là Quang, cùng ngành học với giáo sư Trần Đại Nghĩa. Hơn một tháng lênh đênh trên biển, khi lên cảng Hải Phòng, Quang chào Trần Hữu Tước:

- Thôi, vĩnh biệt mày?

Rồi đi mất. Trần Hữu Tước nói:

- Nó là một trí thức giỏi, cả tuổi thanh niên chúi mũi vào sách và phòng thí nghiệm, nó hết sức timide (nhút nhát). Tối nào anh em mình cũng tổ chức giải trí chơi vui với lính trên tàu, cả bọn vào những cuộc hát nhảy lu bù. Nó rất ngại và khó chịu. Có thể nó thất vọng. Có thể nó nghĩ cách mạng không phải thế. Nó biệt tăm suốt kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Bao nhiêu năm rồi, gần đây, nghe nó ở một thành phố miền Trung, đã già lắm, làm nghề chữa mô tô, xe đạp. Không ai biết nó là ai.

- Anh có nghĩ khi nào tìm đến chơi?

- Không. Người ta đã coi như người ta không còn nữa, mình đến làm gì!

Ôi, những mảnh đời khác nhau.

Một tháng sau, chi bộ kết nạp Xuân Diệu. Mùa thu năm 1950, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng và tôi lên Cao Bằng tham gia chiến dịch giải phóng biên giới, chiến dịch lớn đầu tiên của quân chủ lực. Nguyễn Tuân với một đoàn công tác khác về đồng bằng liên khu 3. Ngày 13 tháng hai năm 1951, Nguyễn Tuân được công nhận Đảng viên chính thức ở chi bộ sở tuyên truyền liên khu - tôi lại ghi theo trí nhớ con số tuyệt hảo của Nguyễn Tuân. Không biết khi đó Xuân Diệu đã qua Sơn Dương và những vùng rừng thẳm Bản Ty, Đầm Hồng chưa. Bài thơ đăng tạp chí Văn Nghệ có câu Sớm nay ra khỏi u tỳ quốc Xuân Diệu đã sáng tác ở Yên Dã u tỳ quốc, đây mới là những nếp nhà tranh lưng đồi trung du, đâu bằng mấy năm sau, đi sâu vào cuộc sống gian khổ, chúng tôi ở Động Móc áp núi Là, ở rừng sâu Thượng Yên bờ sông Lô. Trước mặt, thấy con trăn gió nằm trong bụi nứa và những con kỳ đà mốc thếch bò ra nghển đầu rình bắt gà. Đêm nghe hổ về bên suối, tiếng gầm khô rợn.

Rời thành phố, lên đến Yên Dã đã u tỳ quốc lắm rồi. Tôi quen Xuân Diệu trước 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu tiên diễn thuyết bài Thanh Niên với quốc văn ở giảng đường trường đại học Hà Nội. Xuân Diệu nói: Hoài đi ủng hộ Diệu'. Anh Hiến sinh viên mặt tái xanh nhút nhát ra giới thiệu lúng túng. Không sao, Xuân Diệu áo tuýt so lụa mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng xẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút người nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên, Xuân Diệu nói nhịu chữ tâm hồng - như một bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn tiếp tục sang sảng hùng biện, không ai kịp sửng sốt.

Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập Thơ Thơ khổ rộng in ở nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chữ chì sắc gợn, không phải chữ khắc gỗ đẹp đét. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn nhau tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con trai với nhau, rồi trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ, mặt sùi trứng cá chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng cặp đôi với tôi đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh tôi, đánh nhau lung tung. Có đứa xô vào ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học tôi không dám đến sân trường sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới chạy ù đến sắp hàng vào lớp.

Đương cữ mưa rào. Trong thung lũng, có khi cơn nước trắng xoá mù mịt cả ngày. ở Yên Dã, đi chợ Lục Ba, Ký Phú nhỡ gặp con lũ lên, phải ngủ nhờ qua đêm bên này suối. Hết mưa rào xối xả, đến mưa dầm tả tơi, còn buồn hơn. Triền núi Tam Đảo cao ngang đầu đổ bóng tối sẫm. Nước mưa giọt ngắn giọt dài, đêm ngày mái nứa rả rích không lúc nào dứt hạt. Dường như trong trời đất chỉ còn cái xóm núi này sót lại chưa bị nạn hồng thuỷ. Có uống cả vò rượu nếp nhà kiến trúc sư võ Đức Diên cũng không vơi được cái hiu hắt và nỗi nhớ phố phường. Mới xế chiều đã như chập tối, chẳng còn ai thò chân ra đường xóm đá tảng lầy lội. Cơm xong, nhà ăn đóng cửa, mái rạ lẫn vào sườn đồi chơ vơ. Mấy cậu văn phòng ở một mình, xong bữa lại quẳng bát đũa đấy, vào chơi ngủ luôn tại các nhà trong xóm. Có cậu việc gấp, đánh máy đêm một lúc rồi cũng chuồn mất. Dãy buồng ở tập thể không đèn đóm, tối thui. Không nghe tiếng người trở mình, giát giường không ken két, im như đất hoang. Nhà tôi ở ngoài ven gò giữa đồng. Rượu khuya, đường mưa lội tôi ngủ lại.

Chúng nó sợ, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió Xuân Diệu ở u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi đêm ma quái về rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Nghe mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt... Lần này thì tôi lử lả, tôi chuồi ra rên ư ừ, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa.

Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa.

Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong đêm quái quỷ lại thấy mình không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn tởm.

Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ chạy trốn dạt vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả đến thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên im như tờ. Chỉ còn cái màn đã buông sẵn của lão trai già Văn Hiên - một tay bốc trời thường khoe trước kia đã nhẵn mặt ăn chơi xóm Mông-mác bên Pa ri. Không biết lưu lạc ở đâu vào cơ quan, lão Hiến quần nâu vá gối, vá hai bả vai to bằng cái quạt mo, công tác giữ sổ công văn đi đến. Có những đêm quanh đống củi sưởi Trọng Hứa nhún nhẩy gãi ghi ta một ca khúc Phần Lan, Đào Vũ dịch lời Trung Quốc: Đây gió, đây trong rừng... thì lão nghệ sĩ Văn Hiến bỗng trợn mắt uốn tay vờn cái ống quần rách nhảy quanh ánh lửa một mình một điệu vanxơ uyển chuyển tả tơi. Chiếc màn một trơ trọi của lão Hiến, đôi khi cả màn của Kim Lân, của Nguyên Hồng ở Bắc Giang sang, ngủ tạm đấy. Chẳng biết đêm hôm có ông kềnh nào bị bàn tay nhung sờ vào rốn không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo liền hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, nêu hướng sửa chữa và trình bày công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên đồi, màn vẫn mắc sẵn, đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai mọi việc.

Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Không biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy nhưng ai cũng to tiếng, to tiếng gay gắt nghiêm trang phê phán tư tưởng tư sản, tư tưởng tư sản xấu xa phải chừa đi. Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi... tình trai...!' rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả. ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. Và cũng thành một thói quen kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt ở ban thường vụ trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi và viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác.

Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu chỉ buồn thương, buồn cười và đáng yêu, chỉ đáng yêu. Xuân Diệu nhiều nữ tính cẩn thận, từ chi tiêu đến sáng tác nhưng cẩn thận một cách lờ khờ, có khi anh làm gì tưởng kín bưng, kỳ tình ai cũng đoán biết.

Đặt kế hoạch hẳn hoi chứ. Xuân Diệu hay đi nói chuyện văn thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút kỹ lưỡng bảy, tám bài nói, nói khắp nước cũng chuyên tám cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng và nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười. Xuân Diệu xuýt xoa thú vị:

- Nước ta rất chuộng văn học và cũng là cái mốt. Phục vụ không bao giờ xuể được, nói suốt tháng vẫn kín chương trình.

Thời chống Mỹ, tôi đã đi với Xuân Diệu lên nói chuyện ở trường đại học sư phạm Vinh sơ tán trên huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy - Xuân Diệu nói - như thế không làm chủ nhà tốn kém, lại hợp sự cần thiết của mình. Không sang trọng đâu toàn những thứ dễ kiếm, mấy quả trứng, thịt bò hay thịt gà, canh măng hay canh cà chua, canh cà chua hay hơn, cho nhiều hành và nhớ mắm muối đậm một chút. Ngày hai buổi nói, lại tối nữa, phải thế mới có sức. Cả đến viết, Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười. mỗi bài đều có mục đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc bài đăng báo rồi để in sách. Nếu không, không viết. Đã tính trước rồi. Không bao giờ viết bài đăng báo rồi không in vào sách. Xuân Diệu chê tôi viết lung tung, khuyên tôi không nên phí chữ. Năm tháng qua, quyển sách thành hình trong đầu, các bài viết lắp dần vào. Lại từ đấy tính ra sự tiêu pha. ở Yên Dã, cái quần kaki vàng nhạt của Xuân Diệu đã bợt cả hai bên mông. Hỏi sao để trễ tràng thế, sắm quần khác đi. Xuân Diệu nói:

- Không ngờ cái kaki này mau rách, thành thử lỡ kế hoạch. Đáng nhẽ cuối năm mới đến hạn thay quần mới. Chán quá.

Chúng tôi đi công tác thuế công thương ở trung du. Xuống tận Lâm Thao, cách bốt địch ở Việt Trì không mấy chốc. Đã được trên tỉnh dặn gần vùng địch phải gọn. Gọn, nhưng ba lô Xuân Diệu vẫn đủ thứ dự trữ, mỗi chuyến đi đều sắp sắn thế. Lọ nước mắm kem đặc sệt. Một túi củ hành tỏi đã bóc bót vỏ cho nhẹ đem từ khu bốn ra. Hộp thịt bò khô ướp lá sả. Cái thịt bò kho khan ấy xào nấu ở nhà tôi, hôm chúng tôi tạt vào Thinh Cù trước khi xuống Lâm Thao. Lúc đi, tôi chỉ đeo ba lô con cóc, có cái màn và quần áo. Xuân Diệu cằn nhằn: Cậu này, có cái ăn mà cũng ẩu Thế thì cậu quý cái gì? Nói thế, nhưng khi đến bữa vẫn cho tôi miếng thịt kho và củ tỏi, và ăn nữa cũng được. Nhưng cứ phàn nàn, cảu nhảu tôi cẩu thả. Tôi cười và chén tự nhiên.

Xuân Diệu cho tôi là đứa khinh bạc, nhưng lại thương tôi, nên hay bảo ban, nhiều khi từ những việc nho nhỏ. Xuân Diệu khuyên tôi phải biết quý miếng ăn. Xuân Diệu dạy tôi khi nào đứng đái phải cắn chặt hai hàm răng lại, như thế sẽ ăn khoẻ chẳng kém hàng ngày uống vitamin B1. Xuân Diệu bảo bí quyết dưỡng sinh gia truyền ấy, ông thân sinh đã dạy từ khi còn bé. Tôi có cảm tưởng Xuân Diệu ăn uống cũng chẳng bao nhiêu, nhưng anh ăn cố. Không phải Xuân Diệu ăn, mà một người nào khoẻ lắm gắp hộ, nhai hộ, biến Xuân Diệu thành con ma ăn, trông đến thương. Một chuyến chúng tôi cùng nhau thăm nước Lào, ở khách sạn Apôlô. Mỗi sáng Xuân Diệu nhắc: cậu không ăn sữa thì để riêng đấy cho mình, không ăn hết bánh cuốn thì lấy đĩa sẻ ra cho vệ sinh để mình ăn nốt. Cố lên, ăn phất phơ thế không được. Nhà bàn bưng ra nhiều món, Xuân Diệu cứ thong thả vừa nhai vừa ngắm từng miếng và ăn đến hết. Đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu. ở bệnh viện về, Xuân Diệu thở dài:

- Cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn.

Nhưng rồi lại vẫn cứ thong thả quét sạch mâm, như mọi khi.

Tuy vậy, ăn phung phí Xuân Diệu không chịu. Một lần, tôi rủ Xuân Diệu đi nhà hàng Phú Gia, đầu bàn đặt chai bọc rơm rượu ý Chianti. Có cả Nguyễn Tuân và Huy Cận. Tôi nói đùa riêng với Nguyễn Tuân:

- Phải đưa ông ấy lên cao lâu để được xem ông ấy ăn cho thích mắt.

Nhưng Xuân Diệu chỉ gọi có một món bít tết.

Xuân Diệu bảo tôi:

- Đi nhà hàng, có bao nhiêu đứa đứng xung quanh rình chọc tiết cậu, giết tiền của cậu, ăn làm gì! Một món ở đây nó thiến bằng cả tháng thịt chó. Thịt chó bổ nhất các thứ thịt. Thịt chó, nhưng Xuân Diệu không bao giờ đi ăn hàng. Xuân Diệu mua thịt chó sống, mỗi tuần lễ đánh chén hai lần vào ngày nhất định. Trong thành phố nhiều quán thịt cầy, mà không có hiệu bán thịt chó sống. Xuân Diệu bảo thế là Hà Nội kém, Sài Gòn có nhiều hiệu thịt chó, thịt rừng sống. Nhưng ở Hà Nội Xuân Diệu đã có thổ mua quen. Xuân Diệu mách tôi:

- Cái cô bé quang gánh ngồi chỗ cửa sau chợ Hàng Da.

Tôi đã đến mua của cô hàng thịt chó sống bên cái sân bán cua ốc nhớp nháp cạnh nhà vệ sinh khai nồng nặc. Bây giờ chợ Hàng Da mới, cô hàng thít chó phải ra đứng bán rong vỉa hè. Chẳng biết ngày trước cô hàng có biết ông khách quen ấy là nhà thơ của ta không.

Một dạo, tôi làm đối ngoại ở cơ quan. Thỉnh thoảng, Xuân Diệu cho tôi chiếc mùi xoa, đôi bít tất đem đến tận nhà. Tôi cười:

- Hối lộ à?

Xuân Diệu nói:

- Thằng này tinh quái, cái gì cũng đoán được, mà nói ác. ừ, để có gì thì nhớ đến nhau thôi. Làm sao đâu mà tinh quái, chỉ hồn nhiên đến như Xuân Diệu mới lấy làm lạ.

Từ thuở trẻ, cái bắt tay như vồ lấy, trán đụng vào nhau, bốn con mắt vuốt ve nhau nghiêng ngả. ở đâu Xuân Diệu cũng đào hoa mối tình trai. Buổi chiều đi công tác, trong vắng lặng đã hết lo máy bay lên đánh bom, chúng tôi đặt ba lô nghỉ chân ở ấm Thượng, xuống sông tắm táp xong lên dạo phố. Đêm nay thị trấn mời Xuân Diệu nói chuyện thơ. Bọn con trai choai choai kháu khỉnh xúm xít quanh nhà thơ. Tuổi trẻ, trai gái thấy nhau như có điện, dù điện yêu hay điện ghét, điện hút lại hay điện đẩy đi, thái độ hiện ngay ra con mắt, nụ cười, cái bĩu môi, dáng xóc cổ áo, cái nhổ bãi nước bọt. Đằng này, con gái đi ngang mặt, Xuân Diệu cứ dửng dưng như không, nhưng con trai thì xoắn xuýt vòng trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến chơi. Xuân Diệu nhìn dõi vào mắt, nắm cổ tay từng đứa, mân mê như chọn đẵn mía. Các cậu ấy còn đeo ba lô hộ, tiễn chúng tôi một quãng xa.

Chiều hôm ấy ở Viêng Chăn bên cửa sổ buồng khách sạn Apôlô bờ sông Mêkông trông sang lưng phố bến Nong Khai bên kia. Rặng cây may sắc, những chòm hoa đùn lên như dải mây vàng phủ dài. Chúng tôi trầm ngâm cả giờ nhìn sông lũ đỏ ngầu - cách một mảng nước đã là Thái Lan. Mai mốt dòng sông xuống dưới kia thành Cửu Long, chín con rồng qua chín cửa ra biển Đông. Thời gian, xa cách và sông nước lúc nào cũng không cùng.

Tự dưng, Xuân Diệu nắm tay tôi:

- Chúng mình già rồi.

Nhớ lại những đêm man dại ở Yên Dã, nhớ như in hơn bốn mươi năm trước, cũng tay tôi đây, Xuân Diệu vuốt lên, đắm đuối. Bây giờ nhìn nhau lặng yên. Tôi chợt buồn hơn cả câu Xuân Diệu nói. Xuân Diệu không già mà chỉ có tôi mới là ông lão. Xuân Diệu có một tình yêu riêng không khi nào biết tuổi, từ xa xưa đến bây giờ vẫn tơ vương, vẫn thanh xuân, vẫn thiết tha. ở Đan Mạch mới có luật cho người cùng giới lấy nhau. Lão Xen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70 tuổi đã trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà thị chính thủ đô Côpenha làm đăng ký kết hôn. Nhưng tình trai chàng Xuân Diệu không thuỷ chung như hai lão già nước Đan Mạch kia. Xuân Diệu đào hoa và đam mê, cả đời đuổi theo mộng, nhiều mộng, nhiều mối tình trai. Một bài thơ, những bài thơ, những mối tình trai và tình gái. Thơ tình Xuân Diệu gửi một người lính trẻ rời thành phố vào chiến trường chống Mỹ.
  
EM ĐI 

Tặng Hoàng Cát
Em đi, để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào 


Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga

Chưa chi ta đã phải chia xa!

Nụ cười em nở, tay em vẫy
Ôi mặt em thương như đoá hoa! 



Em hỡi! Đường kia vướng những gì

Mà anh mang nặng bước em đi

Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa 



Nhưng bóng em đi đã khuất rồi

Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!

Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời 



Em hẹn sau đây sẽ trở về

Sống cùng anh lại những say mê...

áo chăn em gửi cho anh giữ
Xin gửi cùng em cả hẹn thề 



Một tấm lòng em sâu biết bao

Để anh thương mãi, biết làm sao!

Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe. Anh nhớ, yêu... 1 



(Đêm 11/7/1965 23 giờ 30) 

Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết đẹp đến não nùng của Xuân Diệu, không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ như thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu. Khi nào cũng khát vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu.

BỐN


Những chuyện Nhân Văn và thời kỳ hữu khuynh, tư tưởng bị lũng đoạn tôi chôn vùi đi lâu rồi. Nhưng chưa phải đã được dứt. Chuyến đi Lai Châu ấy cũng là cho khuây khoả mà thôi. Bởi vì cuốn tiểu thuyết Mười năm của tôi - một trong những ấn phẩm cuối cùng của nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Lập tức, các báo mổ xẻ phê bình. Một đòn đánh mạnh và lý lẽ nhất, bài của Như Phong trong ban biên uỷ báo Nhân Dân in trên báo ấy và bài của Trần Độ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đấy cũng là một quyển sách còn sót lại thúc đẩy phải đóng cửa nhanh nhà xuất bản này.


Rồi Võ Hồng Cương thường trực Hội Văn Nghệ tổ chức một trận phê bình miệng. Nhà văn, nhà lý luận phê bình, nhiều cán bộ giáo vụ trường đảng và cả tỉnh uỷ Hà Đông tham dự. Mười năm, một cuốn tiểu thuyết bộ ba của tôi viết về quang cảnh và con người vùng Nghĩa Đô nghề thủ công phía tây bắc thành phố vào ba thời kỳ nối nhau. Tiểu thuyết Quê nhà, nhà xuất bản Tác phẩm mới in khoảng thập kỷ bảy mươi sau này. Sự việc cuối thế kỷ trước qua hai lần quân Pháp đánh Hà Nội, các làng ngoại thành nổi lên. Quê người là cuốn truyện dài đầu tay, quãng 1940 tôi viết cùng thời với những Dế mèn phiêu lưu ký, Giăng thề, O chuột. Quê tôi, lĩnh lụa nghề tổ bị lụi bại, người làng phải bỏ đi tha hương đất khách quê người. Tiểu thuyết Mười năm như một tự truyện viết về một đám thanh niên trong làng tham gia Việt Minh nhen nhóm phong trào cách mạng tiến tới Tổng Khởi Nghĩa.

Mười năm được viết ra, những năm đó tôi về ở trên Nghĩa Đô. Văn Cao làm bìa, Văn Cao đã bắt đầu vẽ bìa để sinh sống. Văn Cao vẽ cái bóng làn nước chảy đìu hiu chân cầu, ý nghĩa thời gian trôi, Mười năm' mười năm nước chảy qua cầu. Có hai người phát biểu gay gắt nhất. Như Phong:

- Mười năm có thể là một cuốn tiểu thuyết khá, vì đấy cũng là thực tế ở làng quê tác giả và chính tác giả đã sống. Nhưng nó đã được chuẩn bị và sáng tác trong thời kỳ Nhân Văn lũng đoạn nên bị ảnh hưởng xấu. Các nhân vật cán bộ cách mạng đã bị bóp méo đến thảm hại.

Tôi không biết Lưu Quyên bấy giờ công tác ở đâu. Nhưng tôi đã gặp Lưu Quyên khi phụ trách báo Cứu Quốc khu Ba. Tôi ở Việt Bắc về qua Vân Đình, đi vùng Mường trên Đà Bắc. Nghe nói Đinh Hùng ở báo Cứu Quốc tôi tìm đến gặp Đinh Hùng ở một xóm đồng chiêm gần Chuôn Tre lối ra Đồng Quan. Những câu ca dao in báo Cứu Quốc và bài thơ Cô du kích... Ngày nào trở lại cố đô. Ôi Thăng Long rợp bóng cờ vinh quang... Đinh Hùng đã làm và in trên báo Cứu Quốc những ngày ở đấy. Sau Đinh Hùng theo Vũ Hoàng Chương xuống Quỳnh Côi dưới Thái Bình, bị Tây quây, rồi về Hà Nội.

Lưu Quyên dõng dạc:

- Tôi là người chịu trách nhiệm phong trào Hà Đông thời kỳ ấy. Hà Đông chúng tôi khi đó không phải như trong tiểu thuyết Mười năm. Tôi phản đối người viết đã xuyên tạc sự thật lịch sử.

Rồi sau cũng nhiều khi Như Phong đi với Nguyên Hồng gặp tôi ở quán bia gốc liễu nhà Thuỷ Tạ. Ông này uống bia pha rượu trắng, tôi để ý thấy màu bia ở cốc ông nhạt hơn các cốc xung quanh. Cái lúc bè nhè vẫn hăng hái lý lẽ nhưng Như Phong làm như quên bữa anh đã cạo tôi. Còn Lưu Quyên về sau cứ từ đằng xa trông thấy tôi là tránh sang vỉa hè bên kia. Chỉ có một cuộc phê bình miệng ấy. Người viết không phải nói tiếp thu và hứa hẹn sửa chữa như chỉnh huấn. Tuy vậy, đi làm hợp tác xã mấy tháng dưới Thái Ninh về tôi vẫn loăng quăng, day dứt.

Tôi đi Lai Châu, cho đỡ bận lòng. Cùng đi có Nguyễn Tuân, Văn Cao.

Giữa trưa, xe lửa chạy Lào Cai. Đường sắt này mói chữa lại năm trước. Nhớ cái lớp 18 ngày, tôi bỏ đi dự khánh thành đường Hà Nội - Lào Cai về bị kiểm điểm. Thoáng nhớ thế thôi. Khách vắng, cả cái toa hạng ba, chỉ có Nguyễn Tuân, Văn Cao với hai két bia mang theo. Người nhà tàu vui tính đội mũ lưỡi trai đã chiều khách, không cho ai lên thêm toa ấy. Và cũng uống bia chan hoà với chúng tôi. Mới đụng cốc đã mặt đỏ găng. Không biết uống, nhưng vì anh thích các ông khách nhà văn quá. Hồi ấy còn kiểu thùng bia hơi xù xì như cái chĩnh đại, chai si rô lựu đỏ gắt đặt trên mặt quầy. Chỉ uống cốc con, pha nước ngọt. Người ta còn nhăn mũi chê bia đắng. Cốc vại nửa lít mới trông đã hãi. Hai két bia hai mươi bốn chai của chúng tôi như hai cái cũi lợn. Người coi toa say bia, đi ngủ từ chặp tối. Nhưng vẫn nhớ công việc, anh khoá trái hai cửa đầu toa rồi nằm chúi đâu không biết. Làm thế nào, buồng vệ sinh lại ở cửa toa, phía ngoài. Mà hai két bia Trúc Bạch thì uống cả đêm nay. Thế mà rồi cũng xong. Bởi vì các cửa sổ toa đều vẫn mở được.

Suốt đêm, tàu qua Phú Thọ - Yên Bái đôi chỗ lấp loáng mặt sông Hồng và ánh trăng. Những đồi cọ như đàn voi phủ phục. Chín năm kháng chiến; người xuôi tản cư lên đồi cắt cỏ tế phơi đun bếp. Lại ngắt từng ôm lá sắn về muối dưa. Nồi cơm sôi lên, khúc sắn trưa cõng hạt cơm - củ sắn ba bốn năm còn sót lại vừa mới bới. Những ngày tản cư trong kháng chiến tưởng tượng xanh trong như trung du vào thu, loáng thoáng qua ngoài cửa sổ sáng trăng. Không rõ tàu tới đâu, nhưng cứ tưởng ra chỗ nào cũng ngỡ đấy là những phố ẻn, rồi ngòi Lửa bên kia Chuế Lưu rồi lên đến ga Đan Thượng... Mỗi khi tôi ở Bắc Cạn, ở Tuyên Quang về nhà, xuống phủ Đoan ra Cát Lem đầu lô hay qua bến Ngọc, chợ Ngà, tắt rừng về Đại Phạm ra Đan Hà. Có khi xuống ngã ba Phú Hộ rồi rẽ sang Thái Ninh ra Vũ ẻn ngược bờ sông lên. Làng xóm và hàng quán những ông bủ bà bủ, đi một dơn, đi một tay dao và gió, gió thì gọi là bão, bão rồi, đò ngược đò xuôi sông Lô, sông Thao...

Ký ức theo con tàu chạy đương nối nhau trở về. Năm 1945, mờ sáng, tôi đi với bộ đội từ Yên Lạc tấn công vào thị xã Vĩnh Yên. Quốc dân đảng đã rút lên Việt Trì đêm trước. Chiếm Phú Thọ rồi truy kích tóm hụt thủ lĩnh Lý Ninh, nhưng cũng bắt được một số đầu xỏ. Đêm, chúng phá trại giam, chạy lên đến Vĩnh Chân bờ sông thì bị bắt lại. Toà án quân sự mặt trận quyết định xử bắn ngay, trong khi các đơn vị vệ quốc đoàn vẫn đuổi theo tàn quân địch dọc đường sắt lên Yên Bái. Một cái đầu tàu chạy quãng này còn lại ở thị xã. Tôi vào bãi bắn ở sân bay. Khói than đỏ hồng trong sương mờ lành lạnh. Sân bay cũ cỏ mọc xanh lút đầu gối. Cái đài nước đổ nghiêng như một tảng đá trắng giữa bụi lau.

Sự tích của đám bị bắt lại cũng lộn xộn, khó hiểu như được thua của một trận đánh. Tư ẩn, một trong ba cụ đầu xỏ bị trói gô lúc đương ngồi xếp bằng uống rượu trong đình Yên Kỳ, xung quanh đã chạy hết. Đặng Văn Mười còn có những tên là Tử Pính, là Hùm Xám. Một lão nhà giáo hơn hai mươi năm trước đã ngồi bảo học ở Phú Thọ. Quái đản nhất, đội Thất, nguyên cai ngục Yên Bái. Đội Thất đã đẩy xe máy chém ra đầu tỉnh, sáng tinh mơ ấy thủ lĩnh quốc dân đảng Nguyễn Thái Học và đồng đội bị rơi đầu. Bây giờ lão theo quốc dân đảng vẫn được gọi là đội Thất. Sáng bạch, bọn tù được dẫn bên đề lao sang, bước loi thoi qua đám cỏ rậm đường băng. Hùm Xám đi bên trung đội trưởng Luân, lý láu hỏi:

- Chốc nữa ông làm coup de grace (*) hả?

(* Phát súng sau cùng (còn gọi phát súng ân huệ) bắn cho chết hẳn người tử hình đã bị bắn)

Nếu cái xích tay Hùm Xám không động lách cách dễ tưởng như hai người đi xem tử tù. Trung đội trưởng không nói, nhưng tỏ vẻ bực mình vỗ vào cái súng lục ổ quay bao da đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Lại hỏi:

- Súng gì thế, thưa ông! Sanh tiên hay poọc học? Cái lão tử tù này mắc bệnh hỏi.

Giữa bãi cỏ, bên cạnh bảy cái cọc tre mới đóng, hai mâm đồng dọn ra giữa những viên gạch vỡ kê làm ghế ngồi. Xôi đỗ xanh, thịt gà luộc chám muối. Cả bát nước suýt. Một nải chuối đặt cạnh những chai rượu trắng. Không hiểu sao những sáu bảy chai - giúp cho người ta quên chết hay còn thừa thì chốc nữa vệ quốc đoàn để rửa tay, để uống nốt? Chỉ một loáng, đám tù đã chén tiệt hai mâm xôi dỡ trên lá chuối. Cả những cái chai không lăn lóc. Từng người đứng ngồi nhấp nhô, ai cũng râu ria xồm xoàm, mặt đỏ phừng, mặt tái ngắt phì phèo tuôn khói thuốc lá cuốn sẵn, thanh thản lạnh lùng như những người xa lạ ngồi đợi tàu ở ga. Hùm Xám lơ láo nhìn quanh, bỗng cong cổ gào: Đời đẹp quá! Đời đẹp quá ít! Lão Tư âm, hai tay xích để trên đầu gối, im lặng. Mặt rượu tím Quan Công, nổi bộ râu ba chòm, con mắt sắc như dao liếc. Lão ngẩng nhìn cái đài nước đổ đằng cuối bãi. Lão giơ ngang tay xích, cười khểnh, nói: Cái đài nước kia to thật lực mà cũng đổ nhỉ?,' Rồi lại trầm ngâm. Hùm Xám ngoái cổ lại hỏi trung đội trưởng Luân: Ông cho coup de grace hả? Nhờ ông cho nhanh một tý. Lão cựu giáo học thì cứ thở hổn hển. Không biết lão say rượu hay lão lên cơn nghiện.

Trung đội trưởng Luân đứng nghiêm, hỏi to:

- Phạm nhân có dặn dò, có nhắn gì nữa không?

Đội Thất, người đã beng đầu Nguyễn Thái Học năm xưa, hét:

- Việt Nam quốc dân đảng vạn tuế, vạn vạn... ối giời ôi!

Bấy giờ ông cố đạo rửa tội, mới đến. Ông quăng vội cái xe đạp giữa bãi cỏ, bánh trước nghênh lên quay tít. Ông ở tận nhà thờ bên phủ Đoan sang, có lẽ đã đạp xe suốt đêm qua. Quần ông xắn cao trên đầu gối. Ông lấy cái áo choàng đen trong ba lô ra mặc, áo trùng buông xuống, ống quần vẫn xoe trên bắp chân bê bết bùn. Ông cố đạo còn trẻ, chẳng nghỉ ngơi nửa phút, ông đến trước mặt từng người tù làm dấu thánh, rì rầm, rì rầm. Lão đội Thất được rửa tội sau cùng. Tự dưng, đội Thất kêu lên: Không, không, tao đéo xưng tội với mày! Rồi giơ hai tay xích nện xuống cái mũ lá của ông cố đạo. Ông cố đạo thản nhiên lùi xa, lại làm dấu thánh, cúi đầu đọc kinh nho nhỏ. Toán cảnh vệ bồng súng chào giữa trời rồi quay lại từ từ quỳ một bên gối xuống mặt cỏ. Cách mấy thước, những người tù đã bị bịt mắt miếng vải đen, trói ngoặt cánh tay, cẳng chân vào cọc. Phút hốt hoảng khủng khiếp bất thần đến. Tiếng kêu la thất thanh trong tiếng súng vang từng chặp. Nghe rõ tiếng lão đội Thất: Chưa trúng tôi? Chưa trúng? ối giời tôi, tôi oan, hay là tôi oan... Nhưng cái đầu lão đã ngoẹo trên cọc, máu tuôn òng ọc. Trong làn sương lẫn khói súng, bác sĩ Triển áo ba đờ xuy dạ đen, kính trắng, như thần chết vác lưỡi liềm ra. Chiếc ống nghe dí vào ngực từng cái xác. Trung đội trưởng Luân bước trước, mỗi cái xác bồi một phát súng lục vào gáy.

Mù sớm loãng dần, nhìn ra đám cỏ xanh eo éo. Ven đồi, những cây cọ bị gió đánh xơ xác rũ rượi, như tốp người nữa đợi đến lượt xử bắn.

Làn sương đêm dày đặc toả vào cửa sổ toa tầu. Chúng tôi ngợp trong sương, ho sặc sụa. Tôi nhớ cảm giác lạnh lẽo u ám sương mù thế này năm trước cái hôm bọn tử tù bị trói trên cọc. Rồi tôi nhớ Nam Cao, Tây đã bắn chết Nam Cao có lẽ cũng tương tự như thế, khi mới chặp tối trên đồng nước Hoàng Đan. Rồi nghe Thôi Hữu kể lúc Trần Đăng và Thôi Hữu bị quân quốc dân đảng Trung Quốc đem bắn ở chân núi Nà Lầu trên biên giới. Rồi ở Tuy Hoà, Ninh Hoà hay Nha Trang, lại Trần Mai Ninh tử nạn.

Đoàn tàu đã qua thị xã Phú Thọ. Vừng trăng mười tư lên giữa trời trong veo.

Ngày ấy nhiều vùng đường xuôi tản cư dần lên ngược, cứ cái tên được đặt cho cũng dễ tìm được đường đi, Hà Nội Đồng Quan, Vân Đình, Hà Nội Phú Thọ, Hà Nội Đại Từ, Hà Nội Bắc Cạn, Hà Nội họp chợ lập phố giữa đường. Trận quân Pháp vận động lớn đánh vu hồi khép gọng kìm Việt Bắc mùa đông 1947, những bèo bọt Hà Nội ấy tan đi hay tụ lại, không biết đâu là chừng. Mặt sông vừa tạnh sương lúc mặt trời hé ra, từng đoàn người các bến về đã đổ lên chợ Mè trong thị xã. Nhộn nhịp chợ búa, người ở xuôi tản cư ra chợ, mua bán, hò hẹn, thề bồi nhất quyết đi nữa hay đành dinh tê về thành. Bao nhiêu nông nỗi không ai biết đấy là đâu. Sân bay Phú Thọ hôm có cuộc xử bắn vẫn đương còn sầm uất. Pháp lên chiếm Việt Trì rồi mấy hôm sau nhảy dù ban ngày xuống ngay chợ Mè giữa thị xã.

Đoàn cải lương Kim Chung tản cư ra đương diễn ở thị xã. Dãy phố cô đầu Chín Gian cửa hé cửa khép như chưa biết Tây đã lên Việt Trì. Chủ nhiệm báo Cứu Quốc mà tôi đương làm phóng viên, Xuân Thuỷ Nguyễn Trọng Nhâm thuở trẻ hoạt động ở Phú Thọ và để có cái độ nhật đã mở hiệu bào chế thuốc bắc Thọ Xuân Đan, lại xin được chân phóng viên nhặt tin vặt cho báo Đông Pháp. Có thể cắt nghĩa được, ở nhà tù Sơn La, trong các dịp vui với bạn tù, Xuân Thuỷ hay đóng vai ả đào óng ả, véo von hát nói, ngâm thơ, có khi lại làm khách làng chơi nghiêng tang trống cầm chầu điệu nghệ. Cũng là nhờ xưa kia ông nhà báo lá cải đi chơi che tàn với các thày thừa, ông lục, ông ký ga, ông chủ sự dây thép. Thỉnh thoảng, lặn lội ở Hạ Giáp trong Phù Ninh ra, Xuân Thuỷ hay đưa tôi đến xóm cô đầu Chín Gian tom chát cùng ông Ba Triệu - một tay buôn và địa chủ có hạng ở ghềnh sông, ghềnh Ba Triệu quãng Lâm Thao lên, giàu có không kém chủ tịch Mặt trận Liên Việt tỉnh Đào Đình Quang ở đồn điền Thái Ninh. Cũng chẳng mới lạ và ham hố chơi bời gì, vẫn vui chân thế thôi. Mới mấy tháng trước, ở Hà Nội, không mấy tối chúng tôi vắng mặt dưới Khâm Thiên. Cả toà soạn đi hát. Văn Tân thọt chân cũng có. Văn Tân với tôi ngồi cùng một xe tay. Xe ghé vỉa hè nhà hát, tôi xuống trước, Văn Tân vịn vai tôi, một tay chống batoong bước ung dung vào như người hai chân đi bình thường. Chùm trò Xuân Thuỷ rồi Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Kha... Roi chầu anh Đan - bí danh của Xuân Thuỷ, sảng khoái, hào hoa lắm. Trần Huy Liệu ở cơ quan Tổng bộ Việt Minh tầng trên toà báo. Trần Huy Liệu giơ tay chào, cười cười, mỗi tối thấy chúng tôi đi chơi. Ông anh thèm đi theo. Nhưng các chức Phó chủ tịch nước và Bộ trưởng Bộ tuyên truyền, lại chủ tịch hội Văn hoá Cứu Quốc không cho phép. Đến hồi thành phố căng thẳng, đề phòng Pháp đánh úp đêm phải rời ra ngủ chùa Thông làng Mọc, xâm xẩm chúng tôi đạp xe qua Khâm Thiên. Trong ánh đèn nhấp nhoáng, các cô ả đào chạy ra nhìn mặt khách quen, gọi ý ới: Anh Mão ơi. Anh Thiên ơi? Anh ơi! Anh ấy ơi? Tối hôm sau phải đạp đi tránh quàng đường Sơn Tây ra Cầu Giấy...

Cho nên, cái khi mới tản cư, tạt qua thị xã Phú Thọ, ông Nguyễn Trọng Nhâm cựu phóng viên báo Đông Pháp có ôn lại mấy ngón roi chầu mà ông ấy và tôi được đi che tàn cụ Ba Triệu, âu cũng là cái thú nghiệp dĩ. Năm 1954, trở về Hà Nội, một dạo ở Khâm Thiên còn có nhà hát. Tiếng tom chát dưới nhà trên gác khêu gợi. Không sợ, cũng chẳng ngại, nhưng tôi không còn hào hứng. Như Nguyễn Tuân hồi ấy lên nằm bàn đèn với ông Hy chả cá. Ông Hy Chả Cá, cũng như ông Mác xen hàng Bạc - những Mạnh Thường Quân của làng báo ngày trước. Ông Hy hút thuốc phiện trong gác xép cạnh gian bán chả cá - sau cái bàn thờ như cây hương. Nguyễn Tuân và tôi nằm ngồi một bên chiếu cạp điều. Nguyễn Tuân nạo sái, hơ thuốc chín nâu sẫm, nhồi vào tẩu, quay dọc tẩu sang mời ông Hy.

Ông Hy trầm ngâm nói:

- Cái tay còn nghề lắm. Vẫn hút hả?

Ông Hy hút rồi nhồi điếu thuốc mới, mời lại:

Nguyễn Tuân lắc đầu. Ông Hy phũ một câu:

- Tiên sư ông, bàn tĩnh tại gia đây, sợ chó gì!

- Không phải, thấy không thích.

Ông Hy thở dài, nghiêng cái đầu hói trên gối, kéo nốt điếu thuốc. Bà Hy ló đầu vào chào rồi hỏi khách: Hồi này các ông anh đóng ở đâu mà lâu không thấy đến? Mấy hôm sau, khối phố gọi ông Hy đi trại cai nghiện. Ông Hy uống một bữa rượu nhắm chả rán, nem Sà Goòng - chứ không phải chả cá, rồi chết trong buồng ấy bên cạnh bàn đèn. Năm vừa rồi, vào Sài Gòn, Nguyễn Tuân cũng chỉ nằm chuyện và tiêm cho Tô Hà hút ở chợ Cũ. Tô Hà là thằng Điều làng tôi, nó hút để chữa đau bụng. Ra về, Nguyễn Tuân xin tiệm hút cái gối sành đem ra Hà Nội làm kỷ niệm. Rồi cái gối sành trắng bóng nghìn năm không vỡ của tiệm hút, Nguyễn Tuân cũng vứt ra ngoài hiên, giữa lũ vỏ chai bia, nước mắm, vang dâu đợi bán đồng nát. Đã bảo không thấy thích nữa thì chối, thế thôi. Một lần, ở phố Kỳ Đồng, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước tổ chức một buổi hát ca trù. Ban tổ chức bày biện như họp hội trường, ghế kê thành từng dãy, không có đánh trống chầu. Xong mỗi khổ hát, người ngồi các ghế đứng lên rào rào vỗ tay hoan nghênh bà Quách Thị Hồ. Nguyễn Tuân lừng lững đi về. Bà ả đào Phúc ra ngoài, nhìn bộ ria đen của Nguyễn, khẽ nói lỡm như ngày xưa: Râu với ria, rõ nỡm. Về hay sao?!' Câu hỏi níu lại tình tứ đấy. Những năm ấy bà Hồ, bà Phúc còn phảng phất đôi nét xoan, chưa phải bà lão tám mươi như bây giờ. Nhưng chúng tôi không thể đủ hứng nán lại ngồi xem hát nhà trò mậu dịch.

Đoàn tàu Lào Cai rầm rập vào khuya. Ngoài cửa sổ, ánh trăng ướt loang loáng trên lưng tàu lá chuối. Hình như đương qua ga Đan Thượng. Tưởng sắp về đến nhà như hồi đi tản cư. Trong bóng tối vườn chuối trong Đại Phạm, mộ bố tôi ở đấy Bố mẹ vợ con tôi đã tản cư ở lâu vùng này. Con gái lớn tôi sinh ra ở Đan Thượng, tên là Đan Hà. Cũng như Nguyên Hồng có cô con gái tên là Nhã Nam, cái Nhã Nam. Các con tôi đều được đặt những tên để nhớ. Đan Thanh nửa đêm mẹ trở dạ ở túp lều nhà ven đồi Phú Thịnh ra Ba Quanh Thanh Cù, Xuân Đán, Xuân áng bên kia sông, nơi có trại văn nghệ kháng chiến, Phan Khôi, Thanh Tịnh, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Quật, Nguyễn Nghi, Nguyễn Khang, Nguyễn Xuân Khoát - xưởng vẽ của Tô Ngọc Vân, tiền thân trường đại học Mỹ Thuật, có Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên... Bố mẹ tôi được Nguyễn Văn Mãi quản lý hội Văn Nghệ về Hà Đông đón lên Vĩnh Chân, rồi sang Xuân áng ở nhờ nhà ông Cầu trong xóm cùng nhà với anh chị Nguyễn Xuân Khoát. Con Sông Thao sinh ở Hà Nội, chúng tôi vẫn giữ hơi hướng những gian nan và thiên nhiên sông Thao. Khổ thì khổ thật, thế mà nhớ lại vẫn nhớ.

Trăng đã xế bên kia. Tiếng bánh rít ghê ghê, tàu lắc lư xốc người lên. Chúng tôi vẫn uống bia. Mọi rác rưởi thừa ứa trong người chốc chốc được đứng lên tống ra ngoài cửa sổ, sạch sẽ cả. Đoàn tàu ào ào trong đêm... Có thể Nguyễn Tuân và Văn Cao đương tưởng lại bệnh viện Thuận Châu giữa đường lên nông trường Điện Biên mà hai người mới đi lao động ở trên ấy về. Mới qua Suối Rút, sáng sớm Văn Cao vừa trở dậy xúc miệng đã thủng dạ dày, ngã ra. Chiếc xe tải của quân đội chở người phải mổ cấp cứu leo các dốc Đá, Hát Lót, Sơn La lên châu Thuận... Mỗi nơi có trạm xá lại được y tá ra xe tiêm cho người sắp chết một phát hồi sức. Suốt ngày đường, xẩm tối mới tới Thuận Châu - phúc bẩy mươi đời, bệnh viện vừa mới được trang bị đồ mổ và bác sĩ chuyên khoa cũng mới ở Hà Nội lên, chưa đụng đến dao kéo. Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân phải là người thay mặt gia đình, theo thủ tục, ký giấy đồng ý cho mổ Văn Cao. Phòng mổ căng vải dù trắng như trạm sơ cứu tiền phương. Một đèn măng xông không đủ sáng. Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân phải đứng cầm đuốc soi cho ca mổ, như Quan Vân Trường đốt đuốc trước xe Cam, My phu nhân. Bác sĩ đánh thuốc mê đến sáu lần, con bệnh mới thiếp đi được. Nguyễn Huy Tưởng kể lại nói chắc là trong máu thằng này từ thuở trẻ đã tích tụ lắm sái, lắm cồn quen thuốc mê quá rồi. Văn Cao nằm lại châu Thuận mấy tháng, đến khi về Hà Nội lại phải mổ ra khâu lại. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý thì vào lao động ở nông trường Điện Biên... Rồi sau Nguyễn Tuân ra ở với đội làm đường ở Xuân Tre. Giữa đêm, cháy lán, Nguyễn Tuân mất sổ tay, lửa lém bỏng cả mu bàn tay: Chắc thấy lửa giữa rừng ma quái quá, con rượu mê mải ngồi xem lơ đãng đến mức lửa bén cả vào tay mà không biết - tôi nói đùa. Bởi không hiểu sao Nguyễn Tuân lại để cháy đến tận màn và mu bàn tay còn sần sùi một vết sẹo bỏng.

Rồi những lần ra biên giới Việt Lào ở Tây Trang, những chuyến lên các làng dân tộc Mông ở trên núi lòng chảo bọc cánh đồng Điện Biên. Con suối Nậm Rôm vắt ngang Mường Thanh chảy ra suối Nậm Mu sang tận ngã ba sông Mêkông - Nậm Mu phía trên cố đô Luang Prabang một quãng không xa. Nguyễn Tuân đã dầm chân trên suối Nậm Rôm. Còn tôi, đã có lần ngồi thuyền qua giữa ngã ba sông Mê Ông - Nậm Mu kia. Một cái thư Nguyễn Tuân viết ở lán làm đường Xuân Tre.

Công trường 426 Xuân Tre - Tuần Giáo

Chủ nhật 20 tháng ba.

Tô Hoài,

Cho đến hôm nay mình mới đọc scenario (kịch bản phim) Vợ chồng A Phủ . Thích đấy. Hơn cái facture (xây dựng, cấu tạo) nouvelle (truyện vừa) được giải thưởng. Có lẽ anh scenario này mới là anh ăn đích cái giải thưởng cũ. Những lúc này mình ước giá có Tô Hoài. ở đây rượu suông cũng uống được nửa cây. Hôm đi Than Uyên cũng gặp người quen Tô Hoài. Hôm ngủ Nậm Din, mậu dịch Khôn cũng cứ hỏi mình sao bác Tô Hoài không lên với ông?

ở Tuần Giáo, hôm mình vừa tới lại gặp cả vợ chồng A Phủ. Mình chưa biết Jeuscenique (khả năng sắm vai) cô Hoàn ra sao, nhưng cũng tin là cô đóng được.

Mấy hôm nay gió Lào nổi lên nhức đầu quá. Hôm ở Than Uyên, gió Than Uyên buốt. Hại tiền cao hổ cốt quá. Ông có thì giờ, nhìn hộ tôi mặt mũi Sông Đà (quyển Sông Đà đang in) nó ra sao?

Nguyễn Tuân

Bao nhiêu đường trường. Chỉ trên đường mới cảm thấy thơ thới, trong thành phố tù túng không tìm đâu ra những thảnh thơi được. ở trên núi xuống, lại vào giới tuyến. Những lần lặn lội ngược xuôi sông Hiền Lương lên thấu cột mốc đầu sông lại xuôi Cửa Tùng, hai bên bờ đồn địch đồn ta đóng đăng đối, những chiếc loa vành rộng hơn bánh xe đạp cứ thi nhau chõ qua mặt nước lúc chửi lúc lại hát, như điên.

Nhớ sao những chiều Nguyễn Tuân, Kim Lân và tôi ra tha thẩn ngoài Cửa Tùng đợi đoàn thuyền đánh cá về. Mặt nước, mặt người vàng xuộm. Trên cửa sông, những cái đồn gác con con lợp mái tôn. Mỗi tuần, tốp lính bên Bắc bên Nam lại đổi phiên bờ này sang bờ kia. Tôi đứng một chỗ thấy cát không lún gót, nhận ra cát bể Đông ở Cửa Tùng hạt vàng thô, không mịn như cát Sầm Sơn, Trà Cổ ngoài Bắc.

Những người lính đổi bốt hai bên cởi trần, lưng đen cháy, cùng nhau chơi bóng rổ trên cát. Không thể tưởng chốc nữa có thể người ta chui vào sau lỗ châu mai ngắm bắn chết nhau. Trên dòng sông óng ánh sóng, những tốp thuyền đánh cá ngoài khơi vào, dần dần mỗi chiếc giạt về một bên. Hai bờ, người tụm lại từng đám. Làm như đi đón thuyền. Không, chỉ là cái cớ ra nhìn sang sông cho thấy mặt những xóm giềng cũ.

Mấy hôm sau trở lên Hiền Lương mà cái cảm tưởng buồn buồn Cửa Tùng ấy vẫn đeo đẳng dai dẳng về một sự cách trở bỗng dưng.

Huyện Vĩnh Linh hay quận Trung Lương, hai bên đều không được phép vào khu giới tuyến. Ra vào phải có giấy chứng là người ở đấy và có uỷ ban quốc tế kiểm soát. Nhưng mà làm luật thế thôi, hầu như ai cũng vào, cũng ra được, cả hai phía. Tôi có cái giấy chứng minh làm cán bộ Bình dân Học vụ huyện. Từ quận Trung Lương phía Nam, đằng xa đã nhìn thấy. Bọn người nước ngoài, quần áo quân sự trông rõ dây tua vàng vắt vai, lố nhố ra giữa cầu. Ta ở bên này vạch vôi trắng nói loa phản đối - tiếng oang oang to quá như nói với ai đằng xa hàng mấy cây số chứ không phải những người ngay trước mặt. Bên ta ra cầu kín đáo hơn. Khách đợi giờ nhất định xe ủy ban quốc tế đi tuần qua rồi mới thong thả vào dưới bóng hàng cây sa mu đến một mái lều ẩn dưới chòm bạch đàn bên cầu. Chúng tôi đi lại dễ hơn, nhưng cũng phải giữ trong người chứng minh thư mới, thay tên khác, là cán bộ bình dân học vụ huyện Vĩnh Linh. Cho phải phép mà thôi. Những cái chứng minh thư giả, cái thông hành giả như thế ai cũng biết là trí trá, thế mà cứ nhan nhản các khu vực nóng trên thế giới. ở Bàn Môn Điếm, ở đảo Síp và trên cao nguyên Gôlan ở Syri bị Itxaren chiếm đóng, ở Đông sang Tây Beclin trước kia, tôi đã cầm những giấy giả ấy, mà chẳng bao giờ bị bên nào hỏi.

Chia tay với Nguyễn Tuân, ngày mai tôi trở ra. Hồi ấy, đương một đợt địch ngừng ném bom. Cờ đỏ sao vàng phấp phới trên Hồ Xá. Thị trấn địa đầu giới tuyến trở lại vui ngay, như chưa bao giờ bị bom, chạy bom. Các hàng quán sáng choang, nhộn nhịp. Đêm trên gác nhà nghỉ Hồ Xá sao mà ngẩn ngơ. Cái đêm thấp thoáng cùng ai dở dang ngậm ngùi chốc lát. Cửa sổ nhìn xuống đường chính chong đèn suốt sáng như đương qua một quãng khác, lẫn lộn trước sau, dòng sông và cửa biển, nhịp cầu nửa xanh nửa cánh gián, tà áo dài trắng với những cây hương, những túp lều, bên kia Trung Lương lau sậy hoang vu, những gặp gỡ và kỷ niệm, tình cảm trong con người cũng sông có khúc người có lúc như chân đi trên đường.

Vĩnh Linh hoà bình bây giờ khác xưa, nhưng mỗi lần qua tôi vẫn một nỗi bâng khuâng ấy. Cuối 1975, chuyến tàu suốt Hà Nội - Sài Gòn vào ga Tiền An cách trên Bến Hải hơn mười cây số. Người đôi bên hàng tàu xôn xao, náo nức vì sắp qua sông Hiền Lương, sắp qua... Những ngọn cỏ sắc lướt rập rờn bên nhịp tàu gập ghềnh, đột nhiên dòng sông trắng mờ hiện ra trước cửa sổ. Sông Hiền Lương đây ư? Những bụi tre mép bờ xoã. cành lá xuống mặt nước phẳng lặng mờ mờ sương chiều. Như mọi con sông miền Trung trong mát trườn trên mặt sỏi không viền cát. Làm sao tôi trở về Hiền Lương, Bến Hải dòng nước bối rối đỏ ngầu chảy năm nao. Có phải cái buồn cứ vẩn vơ ám ảnh mãi?

Rồi thời gian xa đi, mà vẫn nhớ thế. Trước đây vài năm, một lần Nguyễn Văn Bổng và tôi có dịp đi dọc Trường Sơn - với tôi, là lần đầu, còn Nguyễn Văn Bổng thì đã bốn năm lần vượt Trường Sơn trong hai cuộc kháng chiến, khi đi bộ, khi máy bay chở từng quãng. Các nhà lịch sử quân sự đương bàn cãi đường Trường Sơn - đường Trường Sơn theo lịch sử quân sự bắt đầu từ đâu trong vùng rừng Hoà Bình, Ninh Bình hay đèo Mụ Dạ hay nhích ra tận mỏm đầu rặng núi đá vôi rải rác ở Xuân Mai, ở Miếu Môn - nơi đã mọc lên nhiều doanh trại tập luyện vượt Trường Sơn, và vào đến trong kia, đường Trường Sơn xuống Long Thành hay còn xa nữa. Xa đến đâu chẳng được những người chiến sĩ trèo núi vào các chiến trường mịt mù xa. Những con đường thật ấy cũng như nỗi đau đã qua đi, đường Trường Sơn kháng chiến ngày nay chỉ có thể dựng lại làm kỷ niệm một trạm giao liên, một kho đạn, kho lương, một bãi khách ven suối và một mũi tên chỉ vào ngàn cây. Đường lớn Trường Sơn bây giờ nhiều quãng làm theo đường 13 cũ của Pháp rồi Mỹ trải nhựa mở rộng. Không phải người Pháp ngày trước chỉ là tác giả đường số 1 xuyên Việt mỏng manh lượn bên bờ cát bể Đông mà một viên đạn trái phá ngoài biển bắn vào cũng có thể chặt đứt đôi một quãng ven núi. Con đường bộ, đường xe lửa ấy chỉ là đường làm ăn và trưng diện. Mà ý đồ chiến lược của người Pháp làm đường quân sự số 4 chắn biên giới phía bắc, rồi vòng xuống bao quanh Đông Dương. Từ Trà Cổ lên Mường Tè. Quãng Móng Cái tới chấm Cao Bằng qua Bảo Lạc tới Mèo Vạc Hà Giang, sang Lào Cai, sang Lai Châu vào Mường Tè đã được khảo sát và khởi công bắc nhiều cầu.

ở Mường Tè, vắt sang Lào bắt vào đường 13, Luang Prabang xuống Pát Xế, tạt vào Quảng Bình rồi đến Ba Biên Giới mở ra hai đường, một rẽ Stung Treng vào Campuchia, một lên cao nguyên Lang Biang xuống miền đông Nam Bộ. Đường trong đường ngoài song song đường kinh tế và dong chơi với đường quân sự bọc năm xứ Đông Dương lại. Những năm sau cùng - trước khi bị Nhật quật ngã, người Pháp còn có kế hoạch rời thủ đô Đông Dương ở Hà Nội vào Đà Lạt, - cao nguyên trong sâu giữ thế chiến lược lâu dài.

Chúng tôi qua cầu Hiền Lương rồi nghỉ lại. Cây cầu đã long nhịp, những thanh sắt rên rỉ dưới bánh xe. Mới nhớ ra hồi ấy mải để ý quang cảnh thời sự nơi trớ trêu bị chia đôi, quên mất cầu này chỉ là cầu dã chiến, quân đội Pháp lắp vội cho các cuộc hành quân trong chiến tranh 1946-1954. Năm 1946, hơn hai mươi năm trước khi tôi làm phóng viên báo vào mặt trận nam Trung Bộ đây chỉ là cái bến phà. Cái cầu mảnh dẻ bị gánh nặng lịch sử và thời gian đè xuống đã xác xơ, tàn tạ quá. Doanh trại bờ bắc, cỏ xanh om. Phía nam, giữa lau lách chằng chịt ngổn ngang mọc lên một nếp nhà mái ngói ba gian, đấy là cửa hàng bách hoá của hợp tác xã. Chúng tôi mua mỗi người một chiếc quạt giấy. Rồi ra nằm bãi cỏ, quạt nắng chiều. Mấy con bò nhà ai thong thả gặm cỏ quanh trên đầu. Vẻ thản nhiên trơ gan cùng tuế nguyệt của cảnh vật gợi một nỗi buồn thê lương. Ngày trước, trông sang chỗ này cũng cỏ và lau ngập đầu, làng xóm và quận lỵ Trung Lương bị dồn vào trong kia. Cuộc đời và mọi việc đã biến đổi như ánh nắng chiều Hiền Lương đương nhàn nhạt quanh mình.

Thế là đoàn tàu lên Lào Cai chạy thâu đêm.

Chúng tôi cũng thức trắng đêm. Ba người ngồi lim dim mắt. Chai bia thứ hai mươi bốn đã hết lúc nào, tàu lắc, vỏ chai đụng nhau xoang xoảng. Con người và con tàu lư đừ thức với những nhớ lại Hai cửa toa tàu đã bị khoá mà hồn bay ra ngoài kia đêm trăng trắng bời bời. Sáng bạch, tàu vào Cốc Lếu. Bên sông biên giới, rừng cao su của Trung Quốc tốt lá xanh rì. Chúng tôi trọ trên gác ty Bưu điện, hôm sau vào Sa pa.

Người hay đi, những chân đi nhà nghề kiểu kháng chiến Việt Nam từ lâu thường gắn bó với bưu điện. Rong ruổi đường đất, đường ngựa, đường xe đạp rồi tối đến ngủ trọ ở luôn nhà dây thép. Nguyễn Tuân thì dễ chịu vì như thế không phải tìm đến trạm nhờ đóng dấu vào sổ tay và trang viết để được cái thích nhìn dấu ấn nơi đến nơi đi. Tôi đi lên cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc từ hồi chưa có ô-tô đường Hà Giang - Đồng Văn sang Mèo Vạc. Người công tác, người buôn mang vác, gồng gánh đường dài một trăm, hai ba trăm cây: số đèo dốc - từ vùng oi bức thị xã lên thung lũng Quản Bạ dưới dốc Cổng Trời, đầu chợ Quản Bạ còn lại cái bảng xi măng thời Pháp đắp nổi dòng chữ khí hậu Pháp (Climat de France) rồi lên nữa đến những vùng cao nhà trường nghỉ đông không bao giờ biết mùa hạ. Tôi đi và ăn nghỉ theo chặng ngựa bưu điện. Trạm trưởng Hà Văn Môn ở Yên Minh đóng gói cái màn, cái chăn dạ của tôi vào bao tải gắn xi như bưu kiện cẩn thận. Bắt đầu lên núi qua Vằn Chải, Sà Phin đến Phó Bảng. Con ngựa thồ bưu kiện lên dốc, anh bưu tá và tôi thong thả theo ngựa. Người nghề đi đã có ngữ chân, vừa tối thì tới trạm trên. Ngủ cánh đồng Phó Cáo, hôrn sau lên Đồng Văn. Đến khi sang Mèo Vạc tôi về ở Lũng Phin, con ngựa trạm phải đèo thêm cái chăn bông to xù của huyện đưa khách dùng. Chuyến đi Lào Cai này chúng tôi được chung nhau cái thú uống bia suốt đêm trên tàu. Như buổi chiều ngồi gốc liễu bờ hồ bên nhà Thuỷ Tạ. Rồi cũng lại nhờ đường và ở nhờ nhà bưu điện, Nguyễn Tuân với Văn Cao ở lại Sapa. Tôi thì đợi trong Lai Châu ra đón vào Phong Thổ. Cảm thấy chưa hết cái ngột ngạt thành phố, cái buồn nông nỗi tiểu thuyết Mười năm, tôi lại đi nữa.

Vào Sapa nghỉ lại trên gác nhà bưu điện huyện. Vùng nghỉ mát Sapa những năm ấy còn heo hút, hoang tàn. Các nhà trọ tối hun hút ở ngay chợ chứa lái buôn đào, mận và người mua hạt giống su hào, hoa lơ. Nhà nghỉ mậu dịch, một dẫy nhà sàn lửng cuối phố. Khách có công việc về huyện trọ đấy. Trên đỉnh núi, một khách sạn cũ được sửa sang lại bên đài thiên văn. Chuyên gia Ba Lan ngành này ở và đôi khi người du lịch nước ngoài ghé lên. Tôi đã quen ở trọ các cửa hàng bách hoá, các bưu điện huyện, nhà bưu tá xã - những nơi dừng chân cơ động ở vùng núi, nhưng đây lần đầu một chặng trên tỉnh xuống huyện, Nguyễn Tuân và Văn Cao đi theo đường dây kiểu này. Sapa đượm vẻ yêu kiều cho người đến với thiên nhiên, giữa thiên nhiên. Không heo hút như Mẫu Sơn không giống một thứ đồ chơi bé bỏng như Tam Đảo, Ba Vì. Trước mặt, lừng lững ngang mắt triền núi Hoàng Liên trải ra màu tím bao la, đôi khi nắng lên như cơn mưa bóng mây hồng xuống xung quanh đỉnh Phanxipan cao nhất nước. Theo trí nhớ đến nơi đến chốn của Nguyễn Tuân, đỉnh Hoàng Liên đúng 3.142 thước mà năm vừa qua, Nguyễn Tuân đã theo một đoàn cán bộ nghề rừng lên đến chỗ chót vót ấy. ở Sapa, xuống thung lũng có trạm thuỷ điện cũ thời Pháp, trèo vài bước sang khe suối đã vào nương người Mèo, đối diện với bên phố lát đá tảng mà người xuôi lên ở thành phố đã lâu đời. Ngôi nhà thờ nguy nga hiện ra, ngọn tháp rêu phong xanh mướt như đỉnh núi đá: Đầu thế kỷ này, linh mục Savina đã tu ở đấy, cùng thời kỳ cố Hiền người Pháp ở nhà thờ Xoạ Hồ trên núi bên Nghĩa Lộ. Linh mục Savina đã viết quyển Lịch sử dân tộc Mèo và làm bộ Từ điển Pháp Mèo in ở Hồng Công từ 1920. Người Mèo sùng đạo ở Sapa, tôn ông cố Savina là vua Mèo. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918, đế quốc Đức đã xúi giục người Mèo ở tây bắc Việt Nam và bắc Lào nổi dậy. Cố đạo Savina làm cố vấn chính trị trong quân đội Pháp đi dẹp loạn. Năm 1918, Savina mời được tất cả các vua Mèo về họp ở Xiêng Khoảng. Tại hội nghị, toàn quyền Đông Dương đã ký với các thủ lĩnh Mèo những văn bản qui định chế độ chính trị và hành chính cho dân tộc này. Từ đấy, người Mèo ở ba xứ Đông Dương đều trực thuộc chính phủ Pháp mà đại diện là quan công sứ đầu tỉnh. Lại đặt ra chức thống lý thống quán cho người Mèo tự quản nhau. Savina tu ở Sapa cho đến khi qua đời. Tới những nơi sơn cùng thuỷ tận khuất nẻo đến đâu, ai đấy chớ vội nghĩ hôm qua chưa có một bàn chân xa lạ nào đến, mặc dầu con người bao giờ cũng lấy tưởng tượng đó làm một kiêu hãnh.

Suốt chiều, Nguyễn Tuân ngồi ngoài hiên gác nhìn sang Hoàng Liên Sơn. Mơ màng lại chuyến đi năm ngoái, đãng tử đương ngất ngư trong da trời xanh lam, trong mây trắng ngẩn ngơ trên kia. Hay là lại muốn lên chóp núi lần nữa, hay là sao... Đêm ấy sương mù trong thung lũng dâng lên như bông giắt vào trong cửa sổ gác. Chúng tôi được nghe một câu chuyện đời người. Ngoài hai mươi năm trước...

Người ngồi trước mặt chúng tôi, y sĩ Tái Sinh trạm trưởng trạm xã huyện. Tái Sinh có nghĩa là sống lại. Cái tên anh tự đặt cho mình. Anh quê gốc dưới Thái Bình. Nhiều bà con công giáo đường bể đã lên sinh nhai trên này, có khi di chuyển cả làng cả cha cố đi theo, như ở Bản Hẻo bên Nghĩa Lộ.

Anh yêu cô Đào nhà ngoài phố. Một cố đạo Tây cũng mê Đào. Ông cố dê cụ có điều kiện và hoàn cảnh dễ quyến rũ đàn bà. Nỗi đau, nỗi lo của hai người được cắt bỏ bằng cách làm như người đi săn bắn trong núi là phải giết lão cố đạo. Anh đã đâm chết lão rồi trốn lên gác chuông nhà thờ. Nửa đêm, có người đưa anh luồn rừng chạy ra bờ sông Hồng. Anh chặt chuối ken bè, chiếc bè chuối đưa anh trôi xuống Yên Bái - vùng tự do ngoài kháng chiến.

Anh được đi học y tá. Cũng từ đấy, tên anh là Tái Sinh.

Chiến dịch biên giới 1950, Lào Cai được giải phóng. Y sĩ Tái Sinh trở về Sapa. Thì Đào đã lấy chồng. Cuộc chia tay bờ sông xưa đã phai mờ.

Bên Lai Châu điện báo có người sang đón tôi. Nguyễn Tuân và Văn Cao cuốc bộ tiễn tôi một trường đình dài dài. Chẳng lẽ lại đi nữa, đương thuận chân - Nguyễn Tuân nói. Nhưng cũng không trở về Sapa hôm ấy, hai người với tôi ngủ lại ở một lán lâm trường dưới dốc Ô Qui Hồ. Tiếng suối chảy trong đêm mênh mông, tối đen, đôi lúc lẫn với gió rát rào, như sóng biển. Máy bay xuống đêm Simphêrôpôn thủ phủ bán đảo Crưm, nghe ra xung quanh có tiếng sóng biển Hắc Hải, nhưng sáng sớm mới biết đấy là gió rừng bạch dương quanh nhà ở giữa thành phố. Đây chỉ có gió vào sườn núi, cũng tương tự thế.

Nguyễn Tuân nắm tay tôi mà rằng:

- Cái số tao xưa nay cứ phải đi tiễn mày. Thế thì ra làm sao?

Rồi lại nói vui:

- Nhưng mà trường đình xa quá, những một ngày đường, nửa đường rồi. Từ Ô Qui Hồ mà vào Mường So, ba ngày ngựa chứ mấy. Này, nhớ ngắm những cái chỏm Pu Xam Cáp hộ tao.

Quả thật, chúng tôi có cái duyên thường gặp nhau -cũng như chia tay nhau giữa đường. Khi Nguyễn Tuân ở lại Vĩnh Linh tôi về Hà Nội, khi Nguyễn Tuân đến Tuần Giáo rồi vào Điện Biên tôi lên Tủa Chùa, lại cái lần ở đèo Mã Pì Lèng ra, Nguyễn Tuân về xuôi còn tôi lên Đồng Văn, rồi lại đem nhau đoản đình trường đình tận phương trời, tình cờ gặp ở Matxcơva, tôi đi Vacsava... Chú liên lạc ở Lai Châu ra dắt ngựa cho tôi vào Bình Lư, ngày mai qua thác Gió. ở ngã ba Bình Lư, cái cột chỉ đường Pháp xây từ năm tôi mới oe oe chào đời. Dưới con số năm 1920, những dòng chữ chỉ cây số và đường ngựa sang Than Thuộc xuống Tam Đường, đến Thèn Xin, vào Mường So huyện ly Phong Thổ. Dãy Pu Xam Cáp mà Nguyễn Tuân nhờ tôi ngắm hộ suốt ngày lúc nào cũng chập chờn nhấp nhô bên tay trái.

Có đến hai ba tháng sau, khi tôi ở vùng cao Phong Thổ xuống huyện ly ở Mường So, nhận được điện Sapa Nguyễn Tuân đánh vào, tỉnh ủy Lai Châu chuyển. Chắc hôm ấy ông còn ở nhà dây thép, điện đánh nhờ không mất tiền, dài cả trang như thư.

Tôi mới biết sau đấy, Nguyễn Tuân và Văn Cao dọn xuống ở trạm xá với y sĩ Tái Sinh. Câu chuyện tình buồn kia Tái Sinh chỉ kể một lần, nhưng cái day dứt còn lại, hôm nào Tái Sinh cũng hỏi khách: tôi tiêu diệt thằng Tây thế là hành động cách mạng hay là trả thù cá nhân, tôi báo cáo là cách mạng, tổ chức huyện thì nhận xét là không phải, cho nên tôi chưa có huân chương. Các ông thấy thế nào? Nguyễn Tuân bảo tôi thư hay điện trả lời hộ cho hai ông, vì lẽ tôi thành thạo các việc về tổ chức! Nguyễn Tuân đã bảo Tái Sinh thế rồi.

Muốn ở lại ngắm mãi Phanxipăng mà không được Văn Cao ốm sốt. Nguyễn Tuân phải đưa Vua ra Lào Cai, lấy vé tàu cho Vua về Hà Nội một mình. Chúng tôi hay gọi đùa Văn Cao là Vua, là Văn vương. Hợp với cái gã tính thích thú người ngưỡng mộ, ưa ngồi phán và ban phát lời lẽ như sấm ký.

Nguyễn Tuân ở lại một mình làm khách của tỉnh, đợi chuyến vào Bắc Hà.

Gửi đồng chí nhà văn Tô Hoài Lai Châu (Tây Bắc) - nhờ Văn phòng Tỉnh uỷ Lai Châu chuyển hộ.

Simacai (Tân Mã Nhai) 8/6/1965

Ông Tô Hoài

Mình có cái may là gặp liền hai phiên chợ. Chợ Bắc Hà và chợ Simacai. Đông, nhiều màu sắc. Đào, mạn, thắng cố v...v... Simacai cách biên giới có 8 km. Tôi không khoẻ, cho nên tới đây rồi lại quay ra Bắc Hà và về Lao Cai và xuôi Thủ đô, sau khi nói chuyện phục vụ. Định lần sau sẽ tua một vòng Bản Lầu Mường Khươngh Pha Long qua Simacai Bắc Hà rồi Bảo Nhai Phố Lu.

Bắc Hà mát dịu chứ không mát gắt như Sapa. Cảnh Bắc Hà (Pa kha) cũng đẹp hơn Sapa. Anh giao thông bưu điện và đường dây Bắc Hà - Simacai cũng có nhiều đặc điểm vùng núi, viết được. Hôm ông ở công trường 112 Ô Qui Hồ đi Bình Lư thật vẫn còn là may. Ông đi buổi sớm thì đêm ấy mưa to, thác nước xô đá xô cây nghẽn thêm nhiều quãng đường.

Văn Cao sưng phổi từ hôm ấy, về đến Lào Cai phải tiêm một Bérie thuốc và bác sĩ bảo phải vào ngay bệnh viện. Văn Cao sợ quá. Tôi cũng ngại. Liền lấy vé luôn cho ông ấy ra tàu xuôi về Hà Nội, về đấy mà vào Việt Xô - tôi thấy còn hơn là nằm ở Lào Cai. Từ hôm Vua về, tôi vẫn nằm ở phòng khách tỉnh uỷ. Thấy lúc xuất phát Hà Nội, chúng ta là một tổ 3 người. Và nay tổ chỉ còn có một mình lính già này. Hôm qua phải rút luôn một hơi 26 cây số dốc, mỏi chân quá. Nay vẫn còn mỏi và uống gần hết chỗ cao hổ. Chúc ông viết khoẻ và xong. Mong sẽ có dịp đi Lai Châu vào một dịp nào cuối năm. Ông viết thử kể chuyện Ô Qui Hồ Bình Lư Phong Thổ Lai Châu ch o tôi nghe với.

Ng. T.

(Nguyễn Tuân công trường 426 Tuần Giáo khu tự trị Thái Mèo).


1966, chúc mừng năm mới!

Tô Hoài ơi, trên này lạnh quá. Bộ xương đã buốt sẵ n vì tê thấp mùa này, lên đây càng buốt tợn. Chỗ công trường làm đường mình ở chung quanh lại là núi đá (như kiểu núi đá Bắc Sơn Quỳnh Sơn) nên đêm càng buốt tợn. Chỗ mình ở cách Tuần Giáo khoảng 20 cây, cách Điện Biên khoảng 70 cây. Vậy mà từ hôm lên mình chưa ra Tuần Giáo. Mình đã lên từ sớm thứ hai 7/12. Chín giờ sáng cất cánh, 10 giờ 50 đã ở giữa cánh đồng Mường Thanh (không kể nửa giờ đỗ xuống Nà sản, vậy là giờ bay mất có 1 tiếng 20 phút). Vậy là trong năm mình 3 lần đi Tây Bắc, 2 lần vô giới tuyến.

Tình hình làm đường cũng có những thuận lợi và khó khăn mới. Bây giờ vẫn là đánh nhau với núi non sông suối bằng hai bàn tay con người. Kế hoạch đặt lúc đầu cũng có bốc đồng, nên bây giờ nó mới rõ ra là còn phải vài ba năm mới hoàn bị xong. Các thứ máy dũi, máy húc, máy ngoạm không phải là không có nhưng phải có người lái máy, người chữa máy. Mà các ông lái đó không phải là một tuần một tháng là có ngay. Như thế này là con đường chưa xong mà cuốn sách định viết đã phải cắt băng khánh thành đó rồi. Thôi, mùa xuân lên đây một chuyến nữa, rồi về là viết, cuối năm xong.

Ng. T.


Phố Lu Lào Cai 12/6

Anh Tô Hoài,

Thư trước viết từ Simacai một ngày phiên chợ có nắng. Thư này viết sau ba ngày đi bộ liền 70km, dưới mưa, hôm trước mưa lũ to tắc suối phải vòng lên bản Mèo tránh lũ. Hôm trước mưa, hôm sau mưa, hôm sau nữa lại mưa nữa. Từ Simacai ra Bắc Hà, ngủ Bạc Hà vẫn mưa. Hôm sau từ Bắc Hà ra Bảo Nhai, vượt Cổng Giời (vẫn lại Cổng Giời) và qua sông Chảy. Sớm sau, Bảo Nhai về Phố Lu, ngủ Phố Lu, sớm chờ lâu thì đi tham quan lại chiến trường của Trung đoàn Thủ đô cũ. Người mình vẫn đang hâm hấp sốt, mấy hôm đi trong mưa vẫn sốt tiếp. Cao mang đi hết, phải nhờ địa phương tiếp cao cho m ới rút đường được như vậy.

Mệt, khổ, nhưng hình ảnh lượm về giao thông bưu điện cũng không đến nỗi nghèo lắm. Đường dây Lào Cai như thế là căn bản tôi như tóm được đây rồi. Định đi nốt hai huyện Bát Xát và Mường Khương nữa thì tôi hoàn chỉnh đường dây của tôi. Lào Cai có 5 huyện tất cả thì chuyến mùa mưa này, như thế là tôi đi xong được 3 huyện rồi. Một huyện xuôi (Bảo Thắng), một huyện núi nội địa Sapa và một huyện n úi biên giới Bắc Hà - Simacai cách biên giới 2 km chim bay.

Người mệt, chân mỏi, năm hôm chỉ ăn cháo và sữa. Mệt mỏi chân tay, lưng nhưng lòng thì có cái lâng lâng của một người chủ nhân ông đất nước tiến lên, đất nước tiến theo mình và mình theo nước và đất mà tiến lên.

Hôm ở Phố Lu tôi nhớ ông và ông Văn Cao quá (Tội, cái thằng chuyên đi Điện Biên Phủ 1958 nó bị mổ nằm lại Sơn La, chuyến này là cũng tim phổi và phải đưa về, bỏ cuộc).

Tôi định đi nốt giường Mường Khương đây. Mong ông đi được Sìn Hồ và nhất là Mường Tè. Cái quà quý nhất ông sẽ kể cho tôi nghe sau này tôi nghĩ rằng phải là những cảm xúc về huyện Mường Tè biên giới và đầu nguồn Sông Đà!

Nguyễn Tuân

Đ.c Tô Hoài (nhà văn) Tỉnh uỷ Lai Châu (Tây Bắ c) - Nhờ các đ.c văn phòng tỉnh uỷ chuyển thư tiếp nếu đ.c Tô Hoài đã xuống huyện. Văn phòng Tỉnh uỷ chuyển bưu điện Mường Lay: đ. c Tô Hoài đã đi Sìn Hồ, đề nghị chuyển.


28/6/1966

Ông Tô Hoài

Hai thư của ông cùng tới một lúc, đến dăm sáu hôm nay rồi. Nhưng tôi lười, nay đấu tranh tư tưởng mãi mới viết được cho ông. Nhất là cách đây một tuần, tôi lại chơi đằng quý quyến, bà nhà ông cũng cho biết là ông ngã ngựa ở Phong Thổ, trên đường đi Dào San. Theo cách hiểu chủ quan của tôi thì bà ấy vừa lo vì tai nạn thượng du Bắc Kỳ, nhưng cũng có vẻ lý thú vì những sự rơi ngã trữ tình ấy.

Hình như hôm qua trẻ con nhà ông ngồi xe cơ quan sang địa điểm sơ tán (vẫn cái chỗ đường 18 ấy đấy). Tôi cũng vừa nhận thư ông Hồng khoe rằng viết xong rồi cái trang cuối cùng của tiểu thuyết dài của ông ấy vào đầu tháng 7, ông xuống thanh toán contrat (hợp đồng) với Hội. Và mặt khác, chuẩn bị đi khu 4 khói lửa cùng bạn Tế Hanh. Khu Tư, khu Tư anh dũng! - Chao ôi, nếu nó cứ tiếp diễn xâm phạm bầu trời Hà Nội - quãng Xuân Mai, có ngày hai lần cả sớm cả chiều như hôm 25/5 vừa rồi thì Hà Nội là khu Tư chứ gì nữa! Tôi nghe có đến mấy người nói cái câu tôi vừa trích dẫn đó. Như thế thì lúc ấy nên đi đâu? Vẫn vào khu Tư hay đi vào nội ngoại thành anh dũng? Có ý bảo hiện nay Tây Bắc, cụ thể là Sơn La cũng đang không kém gì Vinh, Thanh Hoá. Hầm hào ở Hà Nội độ này làm có vẻ chu đáo hơn. Trần bằng bê tông đúc sẵn lại có ống lỗ thông hơi nữa, xa trông như cái ngoi lên của ống khói nhà máy...

Cầu Ninh Bình thế là hỏng đang chữa. Cầu đường quốc Lộ Gián Khẩu Đoan Vỹ hình như cũng bị. Nghee nói cũng đang chữa. Nay mai, tôi định vẫn đi tiếp cho Tổng cục Bưu điện, đi tuyến duyên hải từ Móng Cái đến huyện Nga Sơn, Hậu Lộc. Thanh Hoá.

Vua hôm nay đi nhổ cái răng hàm. Ông cao lâu nhà thương đau mắt này chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay ở đó, ăn vòi bia theo giờ nhà nước tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút mà không viết bài nào. Quán bia bà cai ách vẫn còn bữa đực bữa cái, nhưng xem ra cũng khó thọ.

Địch ngụy vận tôi đang chuẩn bị viết bài thứ hai. Bài đầu được trả đặc biệt (mười đồng) và bài đó đánh máy ra 5 trang, tôi giao bài trước hôm đi Lào Cai Simacai và đêm 9/6 lại được nghe phát lú c 11 giờ đêm ở giứa Bắc Hà mưa thâm gió núi sau một ngày đi mưa vượt suối tắc. Đêm ấy tôi có những cảm xúc yêu đời lắm. Này ông viết một bài gì cho nó đi. Viết cho nguy vận, tôi thấy rất nên vì nó rõ ràng ra cái efficace immédiate (hiệu quả tức khắc).

Ông cố nhớ hộ nhiều chi tiết Mường Tè - cái nói tôi chưa được đi tới và ông thì đang đi tới.

Chà o hưu hưu gió thổi sông Đà

Ng. T.

Đ.c nhà văn Tô Hoài Hà Giang - Kính nhờ các đ.c Tỉnh uỷ Hà Giang chuyển giúp. Văn phòng Tỉnh uỷ: chuyển Đồng Văn.


Hà Nội 21/11/66.

Tô Hoài.

Tôi vừa nhận thư ông gtn từ Đồng Văn ngày 13/11. Đúng ngày chủ nhật 13/11 ấy chúng tôi mới rời giao tế lúc 14 rưỡi và đi thẳng một hồi về tới Hà Nội lúc 1 giờ 30 đêm ngày 14. Những ngày ở lại chờ xe sao mà dài thế. Mỗi ngày lại cùng uống 10 chai Trúc Bạch.

Tôi đã đặt vấn đề Lào Cai mỏ đồng Bát Xát và bản đồ địa chất Sa pa với phòng chính trị Tổng cục Địa chất. Họ đang bố trí để xong lễ Nôen là đi được Hà Nội vẫn thương. Từ hôm tôi về không có tiếng súng gì. Mãi cho đến chiều nay mới lại nghe cao xạ của ta phía ngoại thành. Tôi cũng định lần sau ra xuân này lên Hà Giang, thế nào tôi cũng phải đi cái tuyến Hoàng Su Phì lại (đi đường Thanh Thuỷ, Sìn Chải, Tả Su Phin tức là men theo sườn Tây Côn Lĩnh 2418 km).

Chắc ông sẽ là đồng hành của tôi. Rồi tôi vẫn vào Bắc Mê cùng ông Nguyên Hồng. Rồi lại phải đi vào Mèo Vạc nữa. Ôi, hai cái xương bánh chè của lão già này còn được một chuyên giối già nữa a!

(Có lẽ trước khi rời Hà Giang ông lại một lần nữa móc tay với ông Thế Kỳ, hẹn cụ thể là cuối giêng sang hai ta, là chúng ta lên ở (ít nhất là một tháng) để làm người Hà Nội mất tích vài dăm tuần).

Chúc ông lượm nhặt nhiều nhân sự để tái tạo.

à, ông nên gặp nhân vật Chúng Thị Phà nhiều lần nữa.

Ng. T.


Ông về, nếu có điều kiện (về thời gian, về hầu bao) mua giùm cho một số cái lặt vặt tôi sẽ xin chuộc sau, như đá lửa (vài chục viên), chè Thông Nguyên loại 1 (3 gói), măng khô (loại măng lưỡi lợn là hay nhất). Có lẽ ông nên tạt qua nhà riêng cửa hàng trưởng (Nà Thai) Phạm Minh Khương thì tay ấy đi tìm được. Khương ở với vợ (hoa kiều) ở số 2 đường Nguyễn Thái Học trên con đường ra chợ tỉnh đầu cầu. Tay Khương này còn nấn ná ở nhà trước khi đi Bắc Mê. Ông có thì giờ tạt qua nhà ảnh cũng vui đấy. Nhân vật tiểu thuyết đấy loại nhân vật tích cực. Hà Nội rau cỏ tép cá đều khó, đã và đang khó. Bia vẫn mở hàng, hoạt động mạnh. Duy chỉ có lạc là kiêu giá hơn. Một hào mười viên phá sáng.

Ông bà Học Trường vừa chiêu đãi nhân dịp mười năm của trăm năm ông bà ấy. Lại một cây Lúa Mới. Vui nhất là lão Hai lại chênh choáng như thương lệ.

Ng. T.


Lai Ch âu 1 4/6/69

Ông Tô Hoài

Từ hôm chia tay với ông tại biệt thự nhân vật Lê Minh, tôi đi ngay một chuyên lên rừng, do lâm nghiệp mời. Và có đăng đàn nói chuyện ở huyện Cẩm Khê, ở châu Yên Lập, ở phố đồn Vàng và ở công trường Thu Cúc, nói cả ở Thạch Kiệt nữa: Rừng Thu Cúc chỉ sang một cái đèo là tới huyện Phù Yên Nghĩa Lộ rồi. Rồi tất cả lại dặn tôi thế nào mùa khô cũng phải trở lại nữa.

Sau đó là đi Lai Châu. Không phải phà phung gì. Ô-tô sang cầu mới. Cái cầu ô-tô đâu tiên trên sông Đà xã hội chủ nghĩa. Sang Bản Chang (le village des anciens serfs de lex vice - roi Đèo Văn Long (Tiếng Pháp: làng của đầy tớ nguyên phó vương Đèo Văn Long) có gặp một ông cụ Thái trắng 83 tuổi. Nói năm 1907 có về chơi Hà Nội, nghỉ trọ ở nhà trọ số 24 phố Hàng Bạc. Bữa cơm có thịt quay, có rượu, có đậu rán phồng mà chỉ mất có 2 hào chỉ. Ông cụ cùng với mình về uống rượu nhắm cá lăng ở nhà đ/c xã đội xong ông phó chủ tịch lấy thuyền đuôi én của hợp tác xã tiễn mình ra bên đò. Rừng trên thượng nguồn, quả vậy, vẫn có nhiều tình hơn rừng văn Hà Nội.

Ng. T.


Ông Tô Hoài (tiếp theo)

Mình vừa đi thác Lay về. Ba xuồng máy ngược lên thác Lay, cách thị xã 9 km. Ngược 45 phú t, xuôi có 15 phút. Sông Đà nước đã to rồi, đỏ lừ. Nhiều người trong các giới am hiểu nói năm nay nước có thể to lắm vì đợt phá rừng Lai Châu đã lên tới điển hình (ví dụ đốt rừng cháy luôn cả Ty y tế trong rừng Tin Tốc v. v... ) Thác Lay là một thác dữ, thuyền xuôi ngược sông Đà tới thác Lay đều bốc rỡ hết hàng hoá, mà kéo thuyền không. Thác dài mà luồng cong, thác dài 54 m. Mùa lũ, mặt nước thác cao hơn mặt nước sông 4 thước, mùa cạn thì cao hơn 2 thước. Định lần sau lên sẽ sống ít ngày với đội phá đá thác của Lai Châu.

Ngày kia, mình lại lộn về với rừng Hà Nội. Hôm trước có đ.c tuyên huấn tỉnh uỷ Lạng Sơn tới rủ mình lên Lạng Sơn đi Mẫu Sơn và có nói ông đang ở Thật Khê. ừ, để xem, ông còn lâu trên ấy thì mình đi ải Nam Quan. Chúc ông không ốm đau gì.

Ng. T.

À buồn cười nhất là trong cái phong bì những bút ký cũ mang theo lên đây để giảng về bút ký của ty văn hoá Lai Châu mở lớp lại lạc vào hai cái thư cũ của ông viết cho tôi cách đây mấy năm, hồi ông đi Dào San và Sìn Hồ. Đọc, có cái cái dư vị khó tả nên lời thư.

Ở huyện ly Phó Bảng ít ngày. Rồi trở xuống Vằn Chải một làng trên núi đầu dốc Yên Minh lên Phó Cáo. Trước kia tôi đã nhiều khi cả tháng liền ở trên Văn Chải rồi. Lần này bí thư huyện Vũ Mỹ Kẻ cùng đi. Lái xe Tiến ở lại với xe dưới ruộng khe núi Phó Cáo.

Những dốc, lại dốc. Nguyễn Tuân đã leo núi nhiều nhiều, nhưng sau chuyến Simacai Bắc Hà năm trước và sông Đà sông tuyến thì đi đường nước, cái lần đi dốc bằng hai chân lên Vằn Chải này, tôi tính ra là chuyến lên núi sau cùng của đôi đầu gối người lão luyện sông hồ. Chuyến ấy chúng tôi còn lên Lũng Cú nơi biên giới phía bắc cao nhất xa nhất, lại cách bức phải tạt một quãng ngang đồn biên phòng bên Trung Quốc. Tuy vậy, không dốc bằng núi Vằn Chải. Nguyễn Tuân chống ba-toong vừa đi vừa nghỉ thế mà rồi cũng tới được dinh cơ nhà thống quán Vàng Vản Ly trên xóm đỉnh núi. Rừng trúc vàng óng bao quanh ngôi nhà ngói cổ. Nguyễn Tuân chống gậy ngước mắt ngắm núi và rừng trúc rồi, như nói cho mình: Mai kia, đây sẽ thành một điểm du lịch, máy bay lên thẳng đưa khách bay nhìn một dải từ Quản Bạ lên đây hạ xuống thì vừa đẹp. Lại có rượu ngô nóng uống chống lạnh. Có lẽ bấy giờ mình sẽ đăng ký mua vé đi chuyến đầu tiên.

Lại một chuyến đi Hà Giang với Nguyễn Tuân, có Hoàng Trung Thông, Trọng Hứa và tôi. Đường đêm qua cầu Việt Trì không yên, chúng tôi lên Liễn Sơn men Tam Đảo sang Đa Năng ra bến Bình Ca, trời vừa sáng. Mưa rào rạt, xe chạy đèn vàng, lao chúi đi như con lợn rừng. ở lại thị xã Hà Giang một đêm đã vất vả. Phố xá đường ngược mà bức bối như ở trong hõm, trưa nắng nóng hầm hập, hơi núi hơi nước đến tận khuya. Lạ, trời sắp chuyển mùa, ở trong cái thung lũng sâu này vẫn có mùa riêng, có khi bên kia sông gió rải đồng man mác, đây vẫn hanh hao gió bấc.

Đêm ấy về cơm rượu ở trụ sở uỷ ban xã Vằn Chải. Rồi một mình Hoàng Trung Thông trèo lên xóm nhà chủ tích Hoà, thổi khèn uống rượu đến tận sáng. Cái vui được đến một nơi chưa hề đến. Tôi sang trường, chơi với các thày giáo cô giáo - hồi ấy công tác diệt dốt và học chữ Mèo đương sôi nổi. Dưới huyện, cán bộ Kinh công tác vùng cao tối nào cũng phải đến lớp học chữ Mèo. Trên núi Vằn Chải, thày Hùng quê bên Thái Nguyên, cô Mai người Tày Bắc Quang với nhiều thày người Mèo trong huyện, các thày Chứ, thày Páo, thày Chúng. Và cô giáo sinh Ly Chờ, cô gái xinh xinh bé bỏng quê Sà Phin.

Ly Chờ năm ấy còn non tuổi, độ mười lăm. Ly Chờ mới võ vẽ đọc được, viết được, đã quyết xa nhà đi làm giáo sinh xoá mù chữ. Tôi cũng chưa bao giờ hiểu được cô con nuôi của tôi tại sao hăng hái như thế. Người Mèo vốn ít ra ngoài, chẳng thiết công tác, nhất là các cô các chị. Đi cán bộ không được ở nhà trồng lanh, thêu cổ áo, nhuộm chàm đắp sáp ong làm hoa viền gấu váy? Đi cán bộ thì không thể dành dụm và lo liệu được váy áo vòng bạc để lấy chồng. Lấy chồng Kinh không phải sắm sửa thế, nhưng lấy chồng người Kinh khác đâu giơ tay bắt con chim bay mà con trai ở làng không lấy vợ đi cán bộ. Cô nào kiên gan lắm cũng chỉ đi dạy, đứng bán mậu dịch bách hoá được ít lâu rồi bỏ về. Các thày giáo thì bụng dạ cũng đại khái như thế. Có lần tôi gặp lại Mùa A Gia ở dốc Pác Xúm. Thày giáo đi với vợ lẽ xuống làm nương dưới yên Minh. Mùa A Gia cười: Lấy vợ lẽ thích hơn đi thày giáo! Người vợ lẽ che ô đứng cạnh, nghe được tiếng Kinh, mặt đỏ lừ. Tôi bùi ngùi nhớ ở Dào San có một cô Dao lan tiền, văn công ca múa khu Tây Bắc. Một địu củi, dây chằng lên trán lằn vết, kéo chịu lưng xuống. Tôi gặp cô như thế. Đi cán bộ thì không lấy được chồng làng. Cô văn công đành bỏ về làm nương.

Cuộc đời Ly Chờ chỉ những gập ghềnh. ở Vằn Chải, cô giáo sinh Ly Chờ đã đưa tôi đi các xóm khắp núi, từ Sìn Chải sang Túng Quá Sử, vận động người đi học. ít lâu sau, Ly Chờ được xuống tỉnh học trường dân tộc ba năm. Trở về dạy cấp hai lớp bổ túc văn hoá trường cán bộ huyện. Mỗi khi được những tin vui, tôi lại nhớ những hôm ở Vằn Chải, giáo sinh Ly Chờ đứng giảng bài. Và khi tôi ở Sìn Chải lâu, thỉnh thoảng Ly Chờ lại xách đến cho tôi miếng thịt lợn, một ống nứa đựng rượu. Cả tháng mới lại trông thấy rượu thịt. Nhưng con người ta tính trước thế nào được những bước rủi may. Ly Chờ yêu một giáo viên người Kinh, quê vùng biển lên núi dạy học. Mối tình chẳng đi đến đâu. Rồi Ly Chờ lấy chồng người Hán bên Mèo Vạc. Không mấy lâu cũng tan vỡ. Năm ấy, Ly Chờ về Hà Nội thăm chúng tôi. Một con gái mẹ dắt theo, lưng địu một cháu nhỏ mới sinh. Ly Chờ lại lập gia đình mới. Tôi đưa Ly Chờ đến chơi nhà bác Nguyễn Tuân, bác Nguyễn Văn Bổng những bạn đã đến Sà Phin. Hai mươi tuổi, đã con giắt con bồng, bao nhiêu gian truân. Cái đẹp sắc sảo mà bạc phận.

Tôi cũng vun trồng tưởng tượng và ước mong không biết bao nhiêu về cuộc sống và tinh thần người con gái dân tộc hăng hái thoát ly đi công tác từ năm mười lăm tuổi tưởng đã vượt được mọi thử thách và ràng buộc. Đến khi tất cả khác đi, tôi chỉ biết ngỡ ngàng. Những dang dở đã nghiêng ngả cả cuộc đời. Người chồng mới này là cán bộ tổ chức của huyện. Người Mông đi công tác không như ở xuôi, ai cũng muốn vào biên chế. ở đây chẳng để ý mấy đến cái trách nhiệm và tổ chức cơ quan ấy. Lấy vợ rồi anh bỏ công tác về làm nương. Vợ bị đổi xuống nhà trường vùng thấp huyện Vị Xuyên - dạy ít lâu rồi cũng bỏ về. Bốn mươi tuổi Ly Chờ về hưu non. Cũng phải chạy mãi mới được cái sổ hưu. Vì chưa đủ hai mươi nhăm năm công tác. Thật ra thì thừa, nhưng không được tính thời gian công tác từ tuổi mười lăm. Bấy giờ Vũ Mỹ Kẻ còn làm phó chủ tịch tỉnh, tôi lại phải nói với anh ấy giúp cho.

Lại đến những rắc rối tức cười và rơi nước mắt. Một lần, tôi có việc đi nước Tandania vùng dưới Đông Phi. Tôi mua một cái mũ dạ ở hàng bán quần áo cũ. Buôn bán quần áo cũ đã thành một công nghiệp lan khắp các nước đương phát triển và cũng tràn ngập các thành phố nước ta. Bố của Ly Chờ thích một cái mũ dạ. Nhờ năm 1952, lần đầu tiên vào các khu du kích người Mèo ở núi 99 bên Phù Yên, thấy những ông già mặc áo bông rộng, thắt lưng đỏ, đội mũ phớt, hệt những người chăn cừu ở Mông Cổ và Trung á. Bố Ly Chờ ao ước có cái mũ phớt. Nhưng thằng con rể cầm cái mũ của tôi lại không gửi ngay mũ về cho bố vợ trên Sà Phin. Nó đem đội nghênh ngang đi chợ. Người ta xì xào cái mũ này chỉ bên Trung Quốc mới có. Thằng này chắc có sự mờ ám sao đây. Thế là bị bắt. Lại phải Vũ Mỹ Kẻ lên tận nơi can thiệp mới xong và rõ ra câu chuyện cái mũ diện.

Bây giờ, Ly Chờ đã có bốn con. Cháu gái ngày nào theo mẹ xuống Hà Nội đã hai mươi tuổi, hơn tuổi mẹ khi mẹ đi làm giáo sinh xoá mù chữ trên Vằn Chải. Vợ chồng và hai con nhỏ trở về Sà Phin. Hai đứa lớn không về, thích ở xuôi và phố xá. Mỗi lần được thư chỉ những buồn là buồn. Lại được Ly Chờ cho biết tin bác Vũ Mỹ Kẻ đã về hưu, cũng về Sà Phin. Bây giờ bác ấy cũng gầy lắm, trồng thuốc phiện cả trong vườn. Chua chát, nhớ Vũ Mỹ Kẻ đã có nhiệm kỳ đại biểu Quốc Hội được công tác sang đến nước Nicaragoa bên nách nước Mỹ.

Làm sao không buồn, bao nhiêu hy vọng rồi lại chỉ như thế. Tại con người hay xã hội, hay còn tại những gì. ảo não thê lương, mỗi khi trở lại những miền hoang vắng đã từng ở xưa kia mà đôi khi đã như nhà mình quê mình, vẫn chỉ thấy bóng người địu củi, vác nước và tiếng gọi lợn, gọi trâu ời ời trong ráng chiều. Năm trước, được tin trên Bắc Cạn, Bàn Văn Quân người Dao đỏ ở Khui Buồn núi Phía Biếc, chết rồi. Quân đồng tuế với tôi, đã đo cánh tay uống rượu ăn sùng nhận nhau làm anh em. Chặp tối, ông lão Quân ra đầu xóm trèo cây lấy tổ ong. Người đi nương về muộn, nhìn nhập nhoạng tưởng con gấu liền giương súng bắn một phát. Ông già Quân rơi xuống như một cành cây gãy. Vẫn thế, sao lại thế?

Chúng tôi đang leo lên dốc Vằn Chải. Dưới kia, người tan chợ Yên Minh về. Từng đám đi lẫn ngựa nhấp nhô loáng thoáng cười nói. Cả các thầy cô giáo cũng đi chợ. Ly Chờ đã lên kịp chúng tôi. Ly Chờ đeo hộ bác Nguyễn cái túi dết. Ngày phiên, cô xuống chơi chợ như người ta thường đi, một tay cầm cái phao đèn hoa kỳ, sợ vỡ nên hai chiếc bóng đã được buộc vào cổ tay. Một cái chai, cái bóng thuỷ tinh từ dưới xuôi lên quý hơn cái phao sắt tây Cô bé nhí nhảnh đeo túi, từng quãng đứng lại chờ bác Nguyễn chống batoong lần bước. Thế mà hôm sau bác còn leo cao nữa. Tận rừng trúc vàng vòng quanh nhà thống quán Vàn Vản Ly. Chúng tôi tạt vào nghỉ chân nhà Sùng Dúng Lù, anh hùng quân đội tiễu phỉ năm trước. Lúc nãy đi qua một cái miếu, mỗi người nhấc trộm đi một cái tượng gỗ con con. Đã hỏi Vũ Mỹ Kẻ rằng lấy được không. Vù Mí Kẻ bảo: cứ lấy. Nhưng lúc vào nhà Sùng Dúng Lù, Vù Mí Kẻ bảo phải vắt các túi ngoài cọc rào nó biết trong túi có tượng nó chửi cho. Mới hay, lúc nãy Vù Mí Kẻ chỉ nể mà ừ. Vù Mí Kẻ cũng sợ. Nhà đất tối om phải lom khom cúi đầu chui vào. Giữa nhà, một đống củi sưởi cháy đùng đùng, mấy người ngồi quanh, hắt bóng nhóng nhánh lên vách nứa. Những cột kèo ám bồ hóng như sắp bắt lửa cháy nhà đến nơi. Dần dần tôi nhìn rõ tấm bằng, cái huân chương anh hùng và những chiếc ảnh được đại hội anh hùng chiến sĩ toàn quốc tặng, tất cả dán rải rác trên vách. Không có khung kính, những cái bằng và ảnh với huân chương ám khói đen xỉn bên chiếc ống tên nỏ bắn chuột và quả bàu lọ đựng hạt giống thuốc phiện treo lủng lẳng cạnh cột bếp. Sùng Dúng Lù lại mới được mời về dự đại hội anh hùng dưới Hà Nội. Nguyễn Tuân hỏi:

- Về Hà Nội mấy lần rồi?

- Hai lần thôi.

- Lần sau có về nhớ đến nhà mình uống rượu. Rượu Hà Nội cũng ngon như rượu ngô nóng trên Phó Bảng.

Khuôn mặt hốc hác khẽ lắc:

- Hà Nội không có rượu đâu.

- Ngày nào mình cũng uống mà.

- Có rượu thật à?

- Thật.

Sùng Dúng Lù nói:

- Thôi, chẳng về nữa!

Vù Mí Kẻ kể: Dúng Lù về dự đại hội vào giữa mùa đông. Người ở núi cao quanh năm giá lạnh, đôi khi sáng sớm tuyết phủ trắng lá rau cải thế mà về thành phố suýt chết rét. Thì ra cái rét buốt ẩm ướt khác cái lạnh hanh hao trên cao. Người anh hùng ở núi, gió hun hút thổi mùa đông về. Không lo, đã có củi gỗ thông vừa ấm vừa thơm. Đêm ngày nằm ngồi xung quanh đống lửa sưởi, không bước chân ra cửa. Xuống Hà Nội, Dúng Lù rét run cầm cập. Đụp vào hai cái áo tả pủ vẫn như cởi trần. Bởi vì trong phòng vắng đống củi. Ban tổ chức cho Dúng Lù cái áo bông bọc vải xanh Sĩ Lâm. Dúng Lù mặc áo rồi vẫn rét quá, đòi về ngay. Đấy, cái áo bông đã rách lòi hai vai đương mặc. Chẳng áo nào chịu được cái dây đeo và cái lù cở cọ vào lưng, vào vai. ở nhà Sùng Dúng Lù ra, Hoàng Trung Thông ngẩng mặt lên đỉnh núi, tức cảnh một câu thơ bốn chữ:

- Nhà thằng ăn mày?

Những cái tượng gỗ bé bằng con chó đá nhét trong ba lô. Vết đẽo thô, sơn chàm loang lổ xanh lét. Thợ bên Vân Nam sang đẽo tượng này đặt ở các cái miếu dọc đường trong rừng. Cũng như những hiệp thợ đá làm máng nước bậc đá lên dinh cơ trên núi nhà Dương Trung Nhân ở Mèo Vạc và toà nhà đá tảng của Vương Chí Sình ở Sà Phin. Tượng gỗ của những tay thợ người Hán. Màu xám chàm hiu hắt, dị dạng. Chẳng biết Hoàng Trung Thông có cất cái tượng nào vào ba lô không. Chuyến ấy về lái xe Tiến ốm lao rồi bệnh đái tháo đường mấy năm trời. Người nhà đi xem bói, nhà thày bảo là ma làm. Thế thì chỉ có ma đường ngược chuyến đi ấy. Nhưng Tiến không lên núi, chỉ nằm trông xe dưới cánh đồng Phó Cáo và chẳng khuân trộm ông tượng nào. Lái xe Tiến khắc khừ, mòn mỏi rồi chết. Chẳng biết từ lúc nào, tôi không thấy những cái tượng quỷ dạ tràng xanh xỉn gớm chết, bày trên giá sách ở buồng Nguyễn Tuân và trên lò sưởi phòng Trọng Hứa nữa.

Chúng tôi ở Lũng Cú trở về Phó Bảng. Cán bộ Mông người Tày Cao Bằng phụ trách Lũng Cú đưa đường. Cái chấm xanh rừng cao nhất trên bản đồ đất nước, ở đấy cũng có trường học, có trạm xá có một xóm người Lô Lô. Dưới khe sâu, nước sông Nho Quế chảy xiết. Bên kia, đất Trung Quốc. Không nhớ chuyến ấy hay chuyến nào, Nguyễn Tuân và tôi có dịp ở lâu Phó Bảng đã vào chơi nhà bà Síu, một nhân vật lịch sử của cao nguyên Đồng Văn. Tôi có quen Quỳnh Anh, công tác dưới tỉnh. Vương Quỳnh Anh và Vương Quỳnh Sơn công tác ở khu Việt Bắc, đều là cháu họ Vương. Bấy lâu, tiếng đồn đại về bà Síu, bây giờ gặp, tuy bà lão đã cao tuổi, nhưng còn một thời tiếng tăm vẫn bóng dáng hoạt bát trong giao tiếp và lời lẽ.

Năm 1948, Thanh Tịnh và Dương Bích Liên đã được lên Phó Bảng, đi với phái đoàn Trần Đăng Ninh. Thời kháng chiến khu vực châu Đồng Văn ở vùng tự do, nhưng phức tạp. Các tầng lớp trên vẫn cầm quyền từ trên châu xuống mỗi xóm, mỗi chòm núi mà sau lưng là đất Trung Quốc còn trong tay chính quyền Tưởng Giới Thạch. Bà Síu quen biết tướng Long Vân tỉnh chính phủ Vân Nam và cả cánh thổ phỉ thế lực Hạ Sào Chúng. Trong châu, Vương Chí Sình đem quân đánh Mèo Vạc, đuổi chúa đất Dương Trung Nhân phải bạt sang Trung Quốc rồi chạy về hàng Tây ở Lạng Sơn, cao nguyên Đồng Văn Mèo Vạc trở thành đất cát cứ riêng một mình họ Vương. Vương vẫn kể lại giữa năm 1946, về Thủ đô được chủ tịch Hồ Chí Minh cho vào gặp, lại đưa cho Vương một thanh kiếm Nhật - đi mít tinh, đi họp châu, Vương đều đeo gươm ấy bên thắt lưng. Vương nói: Cụ Hồ bảo tao rằng gươm này chú đem về giữ đất nhà. Bởi thế, lần ấy Vương được đoàn của chính phủ lên thăm hỏi. Thanh Tịnh kể rằng mụ Síu ra đón, đứng chắp tay vái trước đầu ngựa trưởng đoàn Trần Đăng Ninh.

Bà Síu người Hà Đông, thuở trẻ lưu lạc lên Hà Giang, lấy viên quản đồn Đông Văn, thành me tây. Ông quản chết và không biết vì hiềm khích thế nào, quan ba Đồng Văn tống cổ hai mẹ con bà Síu sang Vân Nam. Những năm rối ren, Nhật đảo chính Tây, bà Síu trở về Phó Bảng. Bà gả cô Đức con gái bà làm vợ lẽ ông Vương. Lẽ mọn nhưng là cả, bởi bà vợ già người Mông suốt năm chỉ quanh quẩn trong toà thành đá ở Sà Phin.

Năm trước, tôi qua Sà Phin vào xem dình cơ nhà Vương, còn gặp bà lão lọm khọm và ông Đức điếc em ông Vương, ông này đã cất công vác được cái xe đạp từ thị xã lên, để bày treo làm cảnh trên trần nhà.

Bà Síu mở quán cà phê ở phố Phó Bảng - hình như cả phở chua, phở vịt. Lấy nơi chốn ấy cho các mối buôn dễ lui tới. Kỳ thực, bà Síu để mắt đến cả vùng. Thế lực và mưu đồ nhà Vương đều trong tay bà. Chỉ có bà Síu mới đủ bạt thiệp đón phái đoàn Trần Đăng Ninh.

Gặp năm ấy, bà Síu đã ngoài tám mươi. Bộ quần áo Hán nhuộm chàm, đi hải xảo, người khô nhăn nheo như gốc cây cháy dở. Nhưng vẻ mặt quắc thước, ánh mắt tinh nhanh. Chúng tôi ngồi bên cái bàn tròn, kiểu bàn ăn cơm mộc mạc. Nguyễn Tuân và bà Síu, khách với chủ trò chuyện tràng giang đại hải, đủ các chuyện, những miếng võ Tàu, các vị thuốc bắc, ở Lào hay Quí Châu thuốc phiện đâu ngon hơn, những hiệu cao lâu nào có tiếng ở Hà Nội, ở Mông Tự, ở Côn Minh, các mánh khoé Tây, Nhật. Quốc dân đảng Ta, Tàu... Đôi lúc, bà Síu nói lẫn tiếng quan hoả với tiếng tây bồi ba mỏ nhá, sểnh sáng à, rồi cười hoe hai hàm răng vàng. Vương làm chủ tịch châu kháng chiến, mà bà Síu vẫn cưỡi ngựa sang Côn Minh rồi đáp máy bay về Hà Nội chơi. Dưới ấy, bà mới tậu ngôi nhà phố Hàng Đường. Kỳ lạ và đến giờ tôi cũng không hiểu ngô khoai thế nào, hồi ấy mỗi lần bà Síu đi Vân Nam về Hà Nội, các hãng thông tấn Ru tơ, Arip của Anh, của Pháp thường đưa tin, - khi làrn báo Cứu quốc tôi đã được đọc những bản tin bí ẩn khó hiểu ấy.

Còn hàng bồ chuyện về bà lão thao lược, lịch lãm này. Các kiểu tinh khôn, ranh ma, những mẹo mực đòn đánh ứng biến của bà Síu, tưởng giá mà gặp thời, chắc chẳng khác các bà ba Đề Thám, Cai Vàng, có khi còn như một tiểu Võ Hậu buông mành trị nước chứ chẳng chơi.

Lần ấy, Thào Mỷ nhắn mời bác Nguyễn Tuân và tôi sang Mèo Vạc. Nhưng chúng tôi không sang được. Mấy năm sau, tôi lên Mèo Vạc, đi với Nguyễn Văn Bổng. Lần đầu tiên, Nguyễn Văn Bổng đặt chân đến Hà Giang. Những năm vừa qua, Nguyễn Văn Bổng đi chiến trường miền Nam, vào hoạt động bí mật trong Sài Gòn. ở Sài Gòn trở ra Bắc đi hộ chiếu giả theo đường bay Nôm Pênh - Quảng Châu - Hà Nội của hãng hàng không Pháp. Lưu lạc đã lắm đường đất thế, nhưng đến Mèo Vạc lại là chuyến xa nhất của anh lên biên giới phía bắc. Thào Mỷ cũng nghỉ hưu đã lâu. Đầu năm 1991 hơn ba mươi năm đã qua. Nguyên Ngọc trở lại cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc. Nguyên Ngọc kể cho tôi biết Thào Mỷ bây giờ mở ngôi hàng nước ở chợ Mèo Vạc. Ôi, thế mà còn nhớ nhau, còn có lời thăm hỏi một thời sôi nổi và sóng gió. Thào Mỷ bị ép lấy chồng từ thuở bé theo phong tục. Khi lớn, Thào Mỷ bỏ về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà Mèo nào dám làm. Trong chiến dịch tiễu phỉ 1954, Thào Mỷ đi dịch tiếng địa phương giúp bộ đội. Gặp Nguyên Ngọc lần ấy trên mặt trận. Cũng chưa có dịp nào hỏi xem cái truyện ngắn Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng của Nguyên Ngọc có dây mơ rễ má với Thào Mỷ thế nào mà trong sổ tay công tác của Thào Mỷ, giữa một trang giấy thấy ghi một câu gọi thật lạ lùng: Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi. Thào Mỷ hỏi thăm tôi về Nguyên Ngọc, về nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Chắc là Thào Mỷ thầm yêu cả hai người một đam mê khác đời của Thào Mỷ, người cầm bút, người cầm đàn ấy đã gặp Thào Mỷ trong trận tiễu phỉ trên núi. Tôi bảo Thào Mỷ ạ, Nguyên Ngọc đương ở chiến trường miền Nam. Thì đôi mắt xanh nâu của người con gái đẹp im lặng..

Rồi Thào Mỷ trở thành cán bộ huyện Mèo Vạc - một phụ nữ dân tộc Mông tiên tiến. Thào Mỷ cũng như cô Mỹ nhân viên cửa hàng bách hoá ở Lũng Phin và con gái nuôi Ly Chờ của tôi. Chao ôi, con đường tình của người ta thì mấy ai biết được rồi ra hướng nào. Như quả báo và ám ảnh truyền kiếp, xưa kia Thào Mỷ ruồng rẫy thằng chồng ranh con, bây giờ Thào Mỷ chỉ đeo đuổi những người trai trẻ ít tuổi. Cái anh chàng mà cô lăn lóc sau cùng là một cảnh vệ ở huyện đội, người Tày quê Chợ Rã bên hồ Ba Bể Bắc Cạn. Chú cảnh vệ lệch với cô đến mười tuổi. Trong khi ấy Thào Mỷ từ chối người ta làm mối cho một cán bộ Kinh mà cả tuổi trẻ đã để vùi vào công tác rừng núi trên này. Nhưng ở thời ấy, một huyện uỷ viên đương phơi phới hứa hẹn như Thào Mỷ, làm sao đoàn thể lại có thể bằng lòng cho cô đẹp duyên với chú cảnh vệ trống choai kia.

Cái ngày tôi lên Mèo Vạc lần đầu, mọi chuyện về Thào Mỷ đương còn bời bời như vừa xẩy ra. Thào Mỷ tháo vát nhanh nhẹn, được làng xóm tin cậy. Thào Mỷ đưa tôi lên những núi trong huyện. Có lần về Nhá Sủa, làng quê Thào Mỷ. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa: cho tôi nhìn cái mặt thằng chồng trẻ con ngày trước. Thào Mỷ nói : Nhìn nó làm gì, nó có trẻ con nữa đâu. Nó đã có vợ mà mình thì chưa được chồng. Rồi Thào Mỷ cúi mặt, dường như thở dài. Sớm mai, trên đường đầu xóm, một người vác cây vầu trong rừng ra. Người ấy đã đi khuất sang núi bên kia. Thào Mỷ nói: Nó đấy. Nó đấy cũng như mọi người tron làng, tôi làm sao biết được. Tôi vẫn thấy trong tưởng tượng cái thằng lỏi con cởi trần, đánh quay chơi trước nhà rồi bị vợ bỏ, ngoe ngoảy khóc thút thít. Kể cả ngày Nguyễn Văn Bổng và tôi lên Mèo Vạc lần ấy, nhiều năm đã qua rồi. Thào Mỷ đã làm phó chủ tịch huyện, phụ trách văn xã. Không ngờ rồi gầy yếu đến thế. Có lẽ vốn người nhỏ nhắn, lại xưa kia khi chê chồng đã ăn lá ngón tự vẫn nhiều lần nhưng được giải độc, không chết. Thào Mỷ đã có chồng. Tôi được tin mừng ấy từ lâu. Lại biết được người chồng ít tuổi hơn Thào Mỷ. Thoả lòng nhé. Nhưng nay mới tường mặt. Anh ấy người dân tộc Lô Lô, công nhân lâm trường, chưa biết chữ. Hôm đầu đến, không gặp. Anh lên quê trên Lũng Cú đã mấy hôm. Tôi hỏi: Hôm nào nó về?. Thào Mỷ sa nước mắt. Tôi không hỏi nữa.

Đêm ấy, chúng tôi uống rượu ngô bằng những cái bát mắt vầu. Nhắm với thịt dê nước suýt thắng cố. Chảo thắng cố bắc giữa gian phòng ban văn xã của huyện. Cái đầu dê nổi lềnh bềnh, nước sôi lăn tăn xung quanh. Thào Mỷ uống rượu từng bát. Rồi khóc. Lại khóc. Khổ lắm. Nó đánh em. Đánh luôn, vừa đánh vừa chửi: tao đánh con mèo già, tao đánh phó chủ tịch huyện. Uỷ ban gọi nó lên. Nó xin chừa, nhưng rượu vào rồi, nó vẫn chửi thế, đánh thế. Biết làm thế nào bây giờ?

Biết làm thế nào? Hôm trở về, Nguyễn Văn Bổng bảo tôi:

- Heo hút, ảm đạm quá. Mình đến đây lần đầu, mà chắc cũng là lần cuối cùng thôi.

Không biết ngọn núi Lão Sơn ở cái đất Mèo Vạc Miêu Vương này lạnh lẽo hoang vắng hay là bởi câu chuyện thương tâm đời người. Nhưng không phải đời người chỉ có nước mắt. Cũng vui, nhiều chuyện vui chứ. Cái người mà trong thư gửi theo giữa đường cho tôi, Nguyễn Tuân đã dặn hãy cố lượm nhặt được nhiều nhân sự để tái tạo. à ông nên gặp nhân vật Chúng Thị Phà nhiều lần nữa.

Chúng Thị Phà người Tày, quê ở Tòng Bá. Còn nhớ đêm ấy, trên đường Phó Bảng xuống Hà Giang. Về thị xã thì quá khuya, mà nghỉ lại ở làng Đán nhà người Nùng, người Hoa đêm hôm đột ngột làm giật mình người ta e không tiện. ở đây gần Thập Đại Sơn, nhiều cánh cướp lẩn quất vùng biên giới. Chú lái xe của tỉnh đã thuộc từng gốc cây đường Đồng Văn, hỏi đùa: Hay ta ngủ lại quán mụ Tèo, ngay trước mặt kia kìa. Quán mụ Tèo chơ vơ lút trong cỏ tranh giữa Pác Xum và làng Đán. Tôi không lạ. Đã có một lần tôi đi xe hàng bị hỏng máy, bác tài phải nhờ xe về thị xã lấy đồ chữa, khách đợi có đến ba hôm. Tôi đã nghỉ ở nhà trọ mụ Tèo. Chú lái xe kể: Cái con mẹ Tèo như cột ki lô mét xi măng, mưa nắng thế nào cũng cứ trơ ra. Tôi biết quán này từ khi làm phụ xe, rồi phụ lái, rồi lái chính, cả chục năm nay mụ vẫn thế. Có xe qua, chẳng hỏng hóc cũng ỳ ra nằm lại. Lúc nào quán cũng có khách. Muỗi Pác Xum, hùm làng Đán cũng chẳng đuổi được những quân quỷ tha ma bắt cố tình lăn ra giữa hùm beo rắn rết, thổ phỉ bên Thập Đại Sơn sang mụ cũng chẳng coi vào đâu. Mụ Tèo chứa tất. Những quân tứ chiếng đã phiêu bạt lên nơi cuối đất cùng trời này đều thần nanh đỏ mỏ, cái mụ Síu ở Phó Bảng và mụ Tèo này. Thời trước mụ Tèo cũng là me, vợ một cai Tây đồn Quản Bạ.

Rồi chú tài lại nói: Mà thôi, đừng dính vào của nợ ấy, ta về Pác Xum cho thoải mái. Cung đường Pác Xum có nhà nghỉ, cô đội trưởng Phà cho ăn nghỉ tốt lắm, khách lỡ đường nửa đêm gà gáy cũng phải khen.

Nguyễn Tuân và tôi biết Chúng Thị Phà ở chuyến ấy. Đội lưu động của tổ trưởng Phà đương tu bổ lại quãng dốc Pác Xum. Năm sau lại gặp lại Chúng Thị Phà ngoài Thanh Thuỷ biên giới, sửa đường ô-tô Thanh Thuỷ sang huyện Thiên Bảo Trung Quốc.

Các cung đường heo hút, nhiều nơi công nhân rặt con gái. Toàn các cô quê Thái Bình, Nam Định lên. Nơi ở lán tựa vách đá, phên vách cũng treo gương ảnh hoa và tây đầm, chó, lâu đài cắt ở họa báo, dán loè loẹt như vách hiệu cắt tóc. Đường qua các vùng núi xa, chỉ thấy một cô công nhân người Tày này. Chúng Thị Phà quần áo chàm thắt lưng gọn gàng, chiếc khăn vuông kín đáo che nắng vẫn lộ đôi mắt sắc, khuôn mặt trắng nõn nà. Nguyễn Tuân lại nhắc tôi: Đề tài đây chứ đâu, mày phải viết đi, Tôi vẫn chưa khi nào theo được lời khuyên của đàn anh. Có thể vì chưa đủ xúc cảm, có thể vì sức nghĩ còn thấp hơn sự thật ngổn ngang. Có khi không muốn viết...

Sau lần gặp phà ở Thanh Thuỷ ngoài biên giới chúng tôi về uỷ ban tỉnh kể chuyện thành tích và tấm gương tháo vát của cô gái Tày làm đường Thế Kỳ, thường vụ tỉnh phụ trách tổ chức, tôi quen ở khoá học 1960-1961 trường Nguyễn ái Quốc. ít lâu sau, Chúng Thị Phà được tỉnh điều về làm cán bộ phụ nữ huyện. ấy thế mà vẫn lắm oan khiên, làng xóm đồn cô đã bỏ thuốc cho chồng ốm chết để được bay nhẩy. Phà buồn lắm. Nhưng rồi những lời thêu dệt đặt điều ấy cũng như gió bay đi...

Một lần nữa, tình cờ Nguyễn Tuân và tôi gặp lại Chúng Thị Phà trên đường vào Bắc Mê - cả ba lần đều không hẹn không đợi mà gặp. Chúng tôi lội qua một con suối, bước lên thấy trước mặt một cô gái Tày mở nón ra cười. Nguyễn Tuân reo to: A cô Phà? Cô Phà! Lại vui đùa lõm bõm mấy tiếng Tày giả cày: Mà lố! Mà lố! Về hả! Về hả? Nguyễn Tuân nắm tay Phà hỏi han như người thân lâu ngày mới gặp. Đi đâu vào đây? Bỏ cung đường, độ đường cho ai? Hồi ấy, chưa có đường xe vào Bắc Mê.

- Em vào Đường Âm công tác.

Chúng Thị Phà đã về huyện hội. Cô cán bộ phụ nữ vào công tác xã Đường Âm. Nguyễn Tuân còn cứ ghê ghê mãi vùng này lắm những chữ Đường Âm, Bắc Mê.

Tôi trở lại Hà Giang, vào nhà Phà ở bên Ngọc Đường. Các cơ quan tránh máy bay đã tản cả sang bên kia sông. Khuya mới trở ra được, cái rượu Dao ở Đường Âm say êm quá. Thì ra chồng cô ấy người Đường Âm cũng công tác ở huyện. Lúc chiều vào huyện đội hỏi thăm mấy cô văn phòng chẳng biết quê xuôi hay ở trên này, nói đùa trắng trợn: Chồng chị ấy hay ghen lắm, anh ạ. Bây giờ tôi hiểu là câu đùa yêu. Mấy ngày ở lại, anh ấy thật vui.

áp tết Nguyên Đán một ngày cuối năm đoàn đại biểu Hà Nội trưởng đoàn Nghiêm Chưởng Châu, Phó chủ tịch ủy ban thành phố lên thăm các chốt bộ đội biên giới huyện Vị Xuyên. Chúng Thị Phà đã là hội trưởng phụ nữ huyện (Và mới đây là đại biểu Quốc hội khoá 8 trong đoàn Hà Giang). Tôi kể lại với Nguyễn Tuân về chuyến đi. Nguyễn Tuân giọng ngà ngà: Có thể chứ,' cuộc đời vẫn sông có khúc, người có lúc. Cái cô Phà ấy mà hay. Nguyễn Tuân cười, nhưng rồi như chợt nhớ, lại buồn buồn: Pác Xúm... Thanh Thuỷ... Bắc Mê... Đường Âm... Nghe cứ rờn rợn. Xa quá... 


1      2      3


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét