Theo lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được... Nhưng viết thế nào để có thể gọi là " hách"? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Hơn nữa, danh vọng của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Bao nhiêu năm làm văn nghệ, cũ như Lê Văn Trương, Đinh Hùng, mới như Quách Thoại, đến khi chết đi thì cũng chẳng còn gì - Thế Phong đó - anh chàng làm văn nghệ như một gã tiền phong, "Nửa đường đi xuống" phải đóng bộ ka-ki độ nhật qua ngày với tờ báo của Không Quân. Thế nên tôi chẳng hy vọng gì ở cái "nghề của chàng" nữa. Nhưng vẫn muốn viết, viết như một "nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha. Tôi đâu phải là hoàng tử văn chương ngoại hạng, xem chuyện viết lách như một công việc nghiêm trang giữa người và thế giới bí ẩn của chữ nghĩa, viết đối với tôi đúng ra chỉ là một cách thoát hơi - Viết để khoỉ ấm ức bực mình.
Sau tám năm ở lính, thời gian thoải mái thật hiếm hoi, những phiền
toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn dấu hình như chực sẵn ở trong người,
có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão. Đôi khi tôi thấy thật yêu cái nghề này, nó
tạo cho con người tính kiên nhẫn, lòng vị tha, chế ngự những hèn mọn của mình.
Nhưng cũng có lúc tôi thấy nó thật tệ, không có một nghề nghiệp nào ù lì, cứng
đọng và thụ động bằng " đi lính ", chỉ cần thừa hành trong một giới hạn
thật sít sao, thế là đủ. Có nhiều lúc tôi muốn ném tung hết tôn ti trật tự, bộ
quần áo trên người để thong dong giang hồ một chuyến tự do, nhưng đồng thời
cũng vừa khám phá, đang bị buộc chặt, đã quen với đời sống này. Thật khó khăn
khi phải nói chuyện với một anh dân sự, hình như tôi và hắn ta ở hai thế giới
thật khác xa nhau.
Tôi cũng muốn viết về đời sống lính với những con người thật lạ. Năm 1966, có
gã lính thật trẻ ở đại đội tôi, hắn ta thấp bé da xanh mướt ốm yếu, nhưng uống
rượu kinh khiếp, hai lít rượu đế hắn uống tỉnh bơ, hình như rượu không tạo nên
phản ứng nào trong người. Ngoài cuộc rượu, y bình lặng kín đáo như một con ốc.
Một hôm đứng gác, sẵn súng ở tay, hắn bắn vào đầu tự vận. Tôi không biết nỗi thất
vọng kinh khủng nào trong đầu một thằng bé 19 tuổi. Đức " điên " Biệt
động quân, quan Ba, Tiểu đoàn phó, đi hành quân mang khẩu M.79 chạy trước hàng
lính, về Sài Gòn đi chơi, mặc một chiếc áo bà ba đen, dưới quần lính, chân mang
dép Nhật, trang bị thêm một con dao đi rừng. Tôi không hiểu nó nhìn đời thế nào
qua cặp kính trắng dày cộm khi trên người trang bị với phụ tùng như thế. Đại
khái ở lính có những loại người " bất bình thường " như vậy, và trong
đám bất bình thường trên lại chen lẫn vài kẻ bình thường thật kỳ quái. Thiên,
anh chàng đi theo tôi trong hai năm, một ngày chỉ nói khoảng hai mươi tiếng: dạ,
vâng... Thế là hết. Nó ở xa, tôi gọi đến vỡ phổi không tiếng trả lời, lát sau lặng
lẽ đi đến. " Tao kêu mày có nghe không?..". " Dạ có ".
" Thế sao mày không trả lời? ". Thiên bóp bóp hai bàn tay đứng im. Thấy
những người lính khác bắt gà, nó cũng bắt một con treo trên ba-lô, đi một đoạn
vắng người, thả chạy, xong làm dấu Thánh giá đọc kinh.
Đi lính tôi có nhiều "thế" sống thật đặc biệt. Chiều 29 Tết năm 1963 ởchân
đèo Rọ Tượng, Khánh Hòa, căn cứ Lầy, trời rét như cắt ruột, mưa phùn bay mù mịt,
chúng tôi đứng trong nước sình ngập đến ngực, lạnh, đói, đã gần năm ngày liên
tiếp mình mẩy không bao giờ được khô. Dân chúng đi từ Ninh Hòa về Nha Trang tưởng
chúng tôi là tù binh, ném bánh ú từ trên xe xuống cho, một vài bà già chấm nước
mắt khóc vì thương hại. Nhưng chúng tôi vẫn vui như tết, Năng và tôi nhặt bánh
ú ngồi ăn ngon lành, cả hai đứa đều là những " Tân Sĩ Quan " vừa quỳ
xuống đứng dậy cách đây một tháng để lãnh nhiệm vụ gánh vác non sông! Chúng tôi
hãnh diện với nỗi cực khổ của mỗi phút chịu đựng, lòng không một chút ta
thán... Nhưng lúc gặp nhau ở Sài Gòn, hai thằng đem nhà binh ra nạo đến sát ván
không chút nể nang. Bình Giã đói và khát hai ngày đến nỗi lính phải hút nước ở
rễ cây, có tên uống phải rễ cây độc đứng tim chết. Kéo quân ra Phù Mỹ, uống một
nón sắt nước ruộng nhưng lòng không phiền hà. Mười chín tháng Ba 1965 kéo về
Sài Gòn đóng ở Đài phát thanh, cô-ca lạnh mát nuốt vào khó khăn không làm dịu
được nỗi oi ả ở trong lòng.
Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải viết. Không viết thì phí đi, bạn
bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng
chưa đủ. Xem lại chợt thấy bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của
cực khổ và gian nan, đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Thấy mình tội
nghiệp lạ lùng. Rồi kết quả ra sao? Coi chừng lại bị đụng chạm, lôi thôi với
chính phủ thì thật là khốn nạn! Người lính đánh máy hộ cảnh cáo.
Trong thời gian sau này, thường thường những giấc mơ của tôi cuối cùng dẫn đến
một chủ đề - Nước. Tôi mơ thấytrời mưa, mơ thấy được tắm trong dòng suối, được
vùng vẫy trong sông lớn. Kỳ cục hơn có hôm tôi mơ bị mắc cạn trong cống rãnh. Về
mặt sinh lý người ta bảo đó là hiện tượng yếu thận, tâm lý bảo đấy là ý định muốn
giải thoát— Có thể đúng như vậy, vì tôi đang yếu thận đồng thời luôn luôn có cảm
giác "lạ" với đời sống này. Tôi không coi những ngày đang sống là sống
thực. Sống bây giờ là sống gởi, cõi mơ ước nào đó mới là quê hương thật. Nhưng
đúng chỉ là mơ ước, vì còn một nơi chốn nào khác ngoài cuộc đời ngặt nghèo này—
Chỉ còn một cõi trong tôi. Nhưng thôi, "tác phẩm" khi đã xong có phần
đời của nó - hai mươi sáu tuổi - tám năm lính để lại gia tài trăm trang giấy!
Có một vị đắng ở đầu lưỡi. Nhưng nói cùng ai? Tôi cũng trốn tôi trong câu hỏi
này.
Tuy nhiên khi viết xong, đọc lại thấy vừa lòng nhưng đồng thời một vài ý nghĩ
thật lạ xảy đến. Những ý nghĩ trong chiều mưa, mưa thật lớn trên đồi cao, gió
thật mạnh, doanh trại vắng vẻ như bãi tha ma. Ngồi một mình nhìn ra khoảng
không gian xám đặc... Con chim sẻ trốn mưa bay vào phòng đậu trên thành giường,
sù lông rũ nước kêu lên những tiếng nhỏ thật cô đơn. Tôi cũng như con chim nhỏ
trong chiều mưa này. Và từ đó thấy trong lòng những tình lạ thật thiết tha, hồn
hậu như của những ngày vừa mới lớn. Tôi thấy những điều viết quá hằn học, nhiều
thù hận và độc đoán. Trước tiên đối với người Mỹ. Những sự kiện gần đây, cảnh
hai phi hành gia bước chập choạng trên mặt trăng. Những bước đi đầu tiên của
con người trên một hành tinh khác. Lẽ tất nhiên tôi không a dua theo một phong
trào để hoan nghinh sự thành công của Apollo 11, đã từ lâu tôi không xem trọng
thí nghiệm này. Chỉ có cảm phục khi nghĩ đến những công tác khoa học tinh vi và
chính xác để ráp nối phi thuyền mẹ với Nguyệt xa, tiếng nói của những phi hành
gia được chuyền thẳng về trái đất rõ mồm một. Trước thành công như trên làm sao
tôi không hoan nghênh? Nhưng tổng quát tôi vẫn không thán phục, kết quả cũng
không có gì cụ thể để giúp ích cho một khối dân khốn cùng nằm dài trên hai cõi
Á, Phi. Trong khổ cực của quê hương này tôi không thể nào quá ngưỡng mộ thành
công ở trời xa. Nhưng tôi chịu nhất là thái độ phóng khoáng, cử chỉ hào hiệp của
người Mỹ trong vụ này, họ đã hãnh diện dưới danh nghĩa — Một sự tiến bộ của
nhân loại. Sự rộng rãi này làm cho tôi kính phục. Ngoài ra một hôm có việc cần
phải vào bệnh viện 3 Dã chiến Hoa Kỳ, thấy một anh lính Mỹ đẩy chiếc xe trên có
một anh khác bị thương ở chân, anh chàng đẩy xe cũng là thương binh, gầy ốm,
tóc vàng hoe mọc dài xuống gáy, mang đôi kính cận thị dày cộm, nét mặt hồn
nhiên và treœ thơ. Và tôi đã nghĩ rằng khuôn mặt trẻo thơ đó, nếu đem biến
thành đối tượng cho những nhận xét hằn học đầy thù nghịch của tôi thật đáng tội
nghiệp. Chiến tranh đã kéo y qua đất nước này, chịu đựng những khổ cực vượt ra
ngoài ý niệm của người Mỹ, nay bị thương đôi mắt vẫn còn trong sáng và trẻ thơ
— Dấu hiệu của tâm hồn chưa bị vấy bẩn bởi cuộc chiến này. Nhìn sự ngây thơ
trung thực đó, nghĩ đến những phán đoán của mình quả độc đoán và quá độ.
Gần hai năm nay, mỗi ngày phải uống tám viên Nevrosvitamin 4 để làm dịu xuống
những bứt rứt hiện thành phản ứng không kìm hãm... Thiếu những viên thuốc đỏ
đó, người tôi như nung trên một lò lửa đang đỏ, đầu óc muốn nổ tung, chân tay
ít nhất phải đập phá một vật gì, tôi sợ tiếng động và chốn đông người một cách
bất thường. Nhưng hai tháng sau này tôi bỏ được nhu cầu uống thuốc đó, suốt
ngày đánh trần nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, doanh trại hậu cứ hoang vắng một
cách dễ chịu, phía xa những ngọn đồi Tăng Nhơn Phú chạy dài bình yên. Trong sự
bình yên này, đọc lại những điều đã viết quá trớn, thấy ân oán giang hồ, đụng
chạm đến nhiều giới. Tôi muốn đưa cuốn sách cho những người nhỏ tuổi đọc, để dò
xem phản ứng của những người chưa bị ảnh hửơng cuả chiến tranh, nhưng ngần ngại
vì thấy những điều mình viết không trong sáng. Lẽ tất nhiên một cuốn bút ký
không thể nào nằm dưới kìm kẹp của ý thức luân lý bình thường được, hơn nữa bút
ký về cuộc chiến tranh nhọc nhằn. Nhưng nhìn thấy toàn bộ những điều đã viết chỉ
có một nỗi hằn học, uất hận nên tự hỏi rằng có quá đáng hay không? Thấy đàn trẻ
đi thi tú tài, nhớ lại mười năm trước cũng ở trong nguồn trong sáng đó, thế tại
sao có những đổi thay tàn bạo và quá đáng như kia?
Tôi lại gặp Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, gặp Banh để nhớ lại một cái Tết thật
tang thương, hai mươi chín Tết không thức ăn - hai mươi chín tết - thời gian thật
khó thể đi kiếm một bữa cơm. Banh đạp xe trên hai mươi cây số về làng quê Quảng
Nam xin mươi quả trứng vịt, và hai đứa đã đón xuân bằng những quả trứng trong
suốt ba ngày Tết. Gặp Banh để nhớ rằng trong những ngày khốn khó đó, tôi vẫn
luôn luôn thắp sáng cho mình ngọn lửa hy vọng và những tình cảm tốt đẹp.
Những sự kiện kể trên gây cho tôi cảm giác ngại ngùng khi đọc lại những điều
ghi được của tám năm binh lửa. Không lẽ suốt đoạn đời này tôi chỉ có khốn khó
và thù hận thôi sao? Từ đó phát sinh ra những ý hướng chối bỏ, như dấu chàm của
một niềm tuỉ hổ, và ao ước được thấy điều mình viết mang niềm vui hồn nhiên
trong sáng. Nhưng tám năm lính của tôi niềm vui quả thật ít, ít đến tội nghiệp
khi đem so sánh với nhọc nhằn đằng đẵng. Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của
gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn Âu Châu máu
lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn Lỗ còn có những ngày vui hy vọng.
Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một Việt Nam hậu chiến. Nhưng
thôi, có nói hoài thì cũng chỉ kéo dài thêm lời than thở hèn mọn. Điều mong ước
là được xóa đi những hằn học và thù hận. Sự đụng chạm nếu có ở một vài đối tượng
nào đó thì xin nghĩ rằng đây chỉ là những ý nghĩ của một người muốn chân thật với
mình trong hoàn cảnh khắt khe. Lỗi không phải là ở sự thành thật đó. Đây là lỗi
của một cảnh đời. Tội của những người trong chúng ta đã bất lực trước định mệnh,
để bị cuốn trôi hết tình người — Thôi, đây là tội trong mỗi chúng ta.
Long Bình Việt Nam
SAU TÁM
NĂM Ở LÍNH
Tiếng Việt
qủa thần diệu, có những chữ thật đơn sơ cũng đủ sức để tạo thành hình ảnh linh
động. Những chữ với âm thanh tầm thường khô cứng như tiếng gõ vô nghĩa trên mặt
bàn của một bàn tay nhàn rỗi, trong giây phút trống rỗng. "ở lính"
nghe buồn buồn, nhạt nhạt, vô nghĩa nhưng chất chứa chịu đựng ngặt nghèo lặng lẽ.
Tôi đã ở lính tám năm, sau thời gian đằng đẵng đó những danh từ to lớn như đầu
quân, gia nhập quân đội, người chiến binh, đời quân ngũ hay thời thượng vụng về
như tuổi lính, tuổi chiến trường đối với tôi vô duyên như sau lần ân ái ngượng
ngùng.
Tôi ở lính tám năm, năm nay hai mươi sáu, đi lính năm mười tám. Suốt tám năm của
thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, và không phaỉ đến bây giờ vì thất vọng,
chán nản do công danh không toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước
nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm mười tám tuổi
vào học trường tình nguyện ra làm ông quan Một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào trường
ấy, tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý
nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những
rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả
một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ
mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng...
Chuyển quân đi trong sương đêm, giữa mây mù, ánh lửa mục tiêu đêm đông trong hốc
núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây.
Tôi say mê, thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên những ngày
cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng...
Người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua
vùng đồi trùng điệp và loãng tan đi cùng nước hồ xanh ngắt.
Cũng phảii nói thật những ngày đầu đời lính của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ.
Trong sáng như giấc mơ của tuổi mười chín, giấc mơ mù mờ giăng cánh chim trắng
bay chậm rãi qua rừng thông... Nhưng đời sống nhà binh không hẳn chỉ vậy, nó
còn có sĩ quan cán bộ, nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân
sự không ai nghĩ ra được; nên khung trời đầy sương mù bí ẩn ngoài khung của sổ
hiện ra như một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại.
Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nhìn về phía thành phố đầy
ánh đèn tôi không ngủ được, tươœng như có một tiếng gọi cuœa đời sống ơœ bên
ngoài quân ngũ đang nhắc nhơœ thúc giục, một đời sống thực sự tôi không có. Từ
khung cửa sổ nhìn những giàn đồi im lặng thấp thoáng giữa thung lũng sương mù
và đằng xa ánh đèn xanh vườn Bích Câu ma quái, diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi nỗi
cô đơn khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thật
của mình, một gã trai trẻ, vô định hướng. Những cười đùa ban ngày, những buổi học,
bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong tôi. Không thể có được một
ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào
trong đầu óc. Đội hình tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ
khí trôi qua trí não mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó
như một cơn phiếm du. Chỉ thật thắm thiết rung động khi nửa đêm về sáng dưới
ánh đèn pha vọng gác kho đạn tôi khám phá được thế giới của cây cỏ đang thở,
đang lớn lên. Những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác, nhìn xuống
phòng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi hồi kèn báo thức.
Và không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng đồn
Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa phi như gió
cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời
cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa. Kết quả sau hai năm ăn nhờ chánh phủ
tôi được trở thành ông quan một, ra trường đi binh chủng hung hãn nhất.
Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn, trận nhỏ, chiến dịch hai
tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa
xôi bất kỳ một xó xỉnh hẻm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một
cách tường tận. Từ những miền nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng
nhỏ từ cửa Việt đi ra - Diêm Hà Trung, Diêm Hà Nam - cái làng nhỏ cuối thung
lũng sông Kim Sơn, làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát
thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến
Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông
Ia-Drang... Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống thoải
mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp
mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở
ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự,
đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ.
Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc
hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng
năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh
phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là
bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc
võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng,
rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối
năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với
con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc
chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được
nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính -
đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế
mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng.
Nhưng đến hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng
hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn lần trước.
Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên nhiên, những ngày mới
ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn thân, lao vào lửa đạn không thắc
mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng,
đồng thời còn có điều khôn ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực
phẩm trần gian hợp với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực
tôi bất lực. Bất lực để giaœi thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong
dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan hoang, nếu
không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra.
Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt, hoa huệ trắng tỏa hương thơm
ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành mơ mộng nhưng trái lại như một đối
tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn
của thiên nhiên không được thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành
quân không gây chịu thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng... Chịu
đựng im lìm trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu
tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô đơn
kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai mươi sáu tuổi
để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo tưởng xa xỉ của tuổi mới
lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để
nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá
của đời sống mình thì thật vô lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ
nhưng nếu đánh giá đời sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại
và ngu xuẩn. Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn
thông suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực
hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng.
Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính
thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người.
Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công Chúng có đặt câu hỏi: Người thời
đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay?
Tôi hai mươi sáu không trẻ lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thần tượng?
Không có, làm gì có thần tượng cho tuổi trẻ khốn khổ của tôi. Làm sao tôi có được
một thần tượng sau tám năm đằng đẵng đầy thù nghịch và ngặt nghèo. Người ta chỉ
tìm được thần tượng khi lòng còn rung động. Bây giờ tôi có rung động nào trong
tâm hồn? Năm vừa rồi đi đưa đám tang những thằng bạn thân, chỉ thấy trong lòng
một thoáng bâng khuâng, chả bù trước đây tôi ôm xác của Phương, của Dũng chạy
như điên trên sườn đồi nước mắt chảy dài trên má. Chiều trở về chỗ đóng quân
nhìn chiếc võng của người chết tưởng chừng như thân thể sụp xuống tan đi trong
vũng phiền buồn. Bây giờ tôi làm sao khóc được, làm sao để phẫn nộ, để nhớ
thương, để mong ước. Thần tượng bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào? Nhìn ảnh
phó Tổng Thống Humphrey trong báo US News & Report cùng những câu trả lời của
ông ta trong thời kỳ tranh cử Tổng Thống. Cái mồm nhỏ, trán hói, vẻ trai trẻ gỉa
vờ khi xắn quần chạy trên bãi biển thấy ngượng ngùng đến khó chịu. Hay loại
chính khách local?! Ô thần tượng cái khổ nào ở thứ lãnh tụ và chính khách hạng
nhì này... Hay là Mao Trạch Đông? Không được nốt, cái mặt ị, đôi mắt ti hí, cuốn
sách nhỏ chỉ hú hồn được thanh niên ở các nước Tây phương. Tôi cố tìm suốt một
dãy các danh nhân còn sống hay đã chết để tìm cho được một người để ngưỡng mộ.
Churchill? Cũng không được, đọc Mémoire của ông ta, cuốn L’Étau se referme
không chịu được thái độ bất nhân đối với Nam Tư. Đến Exodux thì người Anh, ôi
cũng là lũ thực dân. Nhớ đến lần hành quân ở Long Khánh thì Úc hay Anh cũng vậy,
cũng là God save our King. Chả ra cái thống thế gì. Thế thì hết. Hết tiệt cái
thế kỷ thần tượng, vì nếu qủa thật còn một chút thần tượng nào vất tưởng ở trên
hành tinh này thì Jackie đã không xóa tan hình ảnh ông chồng rực rỡ để đi theo
ông thương gia có phòng tắm lót vàng. Sống bên cạnh một thần tượng còn cho thần
tượng đó "de" thì huống gì tôi, một kẻ da vàng xa xứ của ông thì ngưỡng
mộ gì ông được, hở ông Kennedy. Đó là chưa kể đến nỗi hằn học mà ông Bob
Kennedy để lại trong lòng những người lính Việt Nam. Hay thần tượng ỏ một anh
nhược tiểu? Ché Guévara cũng không được. Đây chỉ là một loại James Bond cộng với
Trần Độ mà thôi. Tóm lại thần tượng tất cả đều bị chôn chặt, bị cuốn hút, bị
xóa tên, chỉ còn lại một vài thần tượng què quặt trên óc não bệnh hoạn, yếu đuối
của một số người chưa sống đủ, thần tượng của những kẻ nổi loạn thành phố, những
kẻ mang tâm trạng "bão tố trong cốc nước" những gã Mỹ con tóc dài,
hippy, biểu tình chống đối trước trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ. Sau tám năm ở
lính, tôi mệt mỏi vô ngần.
ĐẾN ĐƠN VỊ MỚI
Ném chiếc
va ly vào lòng xe GMC, tôi hì hục leo lên trước những cái nhìn soi bói của mấy
người lính.
- Mẹ kiếp, lính tráng gì mất dạy thế này, ít ra mình cũng là sĩ quan mà nó coi
như cục đất thó. Tôi nghĩ thầm trong bụng. Lên được xe,sửa lại thế ngồi thật chững
chạc, lột chiếc nón đỏ nhét vào ngực, tôi lướt mắt một vòng nhìn đám lính ngồi
trước mặt. Những đôi mắt đều lãng tránh. Một anh lính nhỏ bé từ chiếc băng đối
diện lân la qua hỏi chuyện:
- Thiếu Uý mới ra trường?
- Ừ.
- Thiếu Uý trẻ quá?
- Trẻ là làm sao? Trẻ quá không đi lính được à?
- Dạ. - Người lính bối rối cười cười. Tôi nhìn xuống bộ kaki vàng đang mặc, so
sánh với màu vải ngụy trang tác chiến hoa của họ, thấy một xa cách.
Xe chạy ra xa lộ hướng về Biên Hòa. Tôi đi trình diện đơn vị mới, Tiểu đoàn 7
Nhảy Dù. Thế là lính thực thụ rồi, không còn là lính cậu nữa, đã đến lúc trả nợ
áo cơm cho nhà binh. Toàn thể khung cảnh chung quanh có vẻ lạ lùng. Từ một chỗ
đông bạn bè cùng lứa tuổi, doanh trại đẹp đẽ to rộng, tất cả đời sống ngay thẳng,
trang trọng và trẻ trung. Bây giờ tôi đến đây, xách chiếc va ly đi giữa hai
hàng lính Nhảy dù, áo quần mới trông vào đã ghê, mặt mũi anh nào anh nấy đen
như một đôi giày bị lấm bùn. Khi thấy tôi đi qua, mọi người nhìn soi bói chế riễu.
- Đ...m... Trông như thằng con nít!
Chết rồi, lính đã đánh giá mình như vậy thì chỉ huy thế nào được. Tôi cố đi
nhanh hơn, đến chỗ văn phòng Tiểu đoàn trưởng. Trình diện xong, về đại đội
trình diện Đại đội trưởng. Giờ cơm, lại một màn giới thiệu với toàn thể sĩ quan
tiểu đoàn. Bỏ bố rồi! Chẳng có anh nào bằng cỡ tuổi, anh trẻ nhất coi bộ lớn
hơn bốn, năm tuổi với vẻ nghiêm nghị. Sống thế nào được trong thế giới lạ lùng
này, biết bao giờ mới tạo thành thói quen?! Ôi cái đơn vị mới gây cho tôi mệt
nhọc biết bao!
Buổi chiều, vài sĩ quan rủ tôi ra Biên Hòa chơi, tôi chui vào chiếc xe của bác
sĩ Đạm đi cho biết. Thành phố nhỏ bằng hộp quẹt cả toán không biết đi đâu, đồng
ý vào quán rượu ở gần ga. Đến chai bia thứ ba tôi không còn biết gì nữa, có
cánh tay nâng tôi ra xe... Thành phố nhỏ bé, xôn xao chuyển động. Tôi thò đầu
ra khỏi cửa nôn tung tóe, nắng làm nhức cả mắt. Khi về đến phòng ngủ, chiếc giường
sắt mới lãnh chỉ dựng được hai chân, tôi ném tấm nệm dơ như đống rác lên đó rồi
ngã xuống trong cơn say, nhưng biết lòng mình đang phiền muộn.
Chiều nay là thứ bảy, tôi đã ở được bảy giờ trong đơn vị mới, cởi áo bước ra
hiên, doanh trại vắng vẻ lá cao su rơi xào xạc, người lính kèn thổi bài kèn hết
việc, bóng hắn đổ dài trên sân cờ. Tôi cô đơn lạ lùng.
Tháng 11-1963. Biên Hòa
NHỮNG ĐƯỜNG BAY ĐẦU TIÊN
Tiểu Đoàn
được chuyển vận từ Long An bằng tàu FOM theo sông Vàm Cỏ Tây, đến ngã ba nơi gặp
sông Vàm Cỏ Đông, theo nhánh sông này đi ngược về phía Bến Lức. Tàu đi trong
giòng sông đầy sương mù, trời chưa có nắng, nước sông mênh mông. Tôi ra đứng ở
mũi tàu, gió thổi lộng, những buồn bực của tháng ngày hậu cứ như trôi đi, những
tháng ngày dạy lính, quân phong, quân kỹ, mệt mỏi như cơn buồn ngủ trong trưa nắng.
Đến khoảng xã Long Sơn, quận Cần Đước tàu đổi hướng cập vào bờ, lính ùa lên...
Bỏ bờ mẫu lội ngang ruộng mà lên, coi chừng mìn... Lấy đà từ sàn tàu tôi nhảy
lên đám lau sậy, dừa nước ngổn ngang. Bám được vào một bờ đất leo lên. Giàn đội
hình hàng ngang, trung đội tiến lên khoảng hai trăm thước, dừng lại bố trí đợi
đại đội lên sau. Cởi nón sắt ngồi xuống trên một mô đất nhìn ra xa, ruộng miền
Nam thật đẹp, màu xanh dài bất tận, lúa khỏe mạnh, thơm nồng nàn... Chẳng bù với
miền Trung, quê hương tôi, không có đất, chỉ có cát, cát mệt mỏi và cằn cỗi,
không phải những bờ cát vàng đẹp đẽ cuả bãi biển trưởng giả, cát của quê tôi
xám xịt, loang lỗ đây đó dăm ba cụm xương rồng, về mùa hạ gió Nam thổi luồng
như đốt lửa, con trốt lớn chạy dài lừng lững như bóng ma.
Tiểu đoàn chia làm hai cánh quân đi song song với con lộ đất đỏ. Tuyệt đối
không được đi trên bờ ruộng. Cứ nghe hoài hoài một lời dặn dò.
- Du kích vùng này nổi tiếng gài mìn, thiếu uý thấy gì lạ thì đừng đụng vào.
- Tao biết rồi, mày lo cái thân mày trước đi.
Đến giờ này tụi lính vẫn xem tôi như là một "mặt mới" đợi có dịp để
lên mặt rành rẽ. Tôi kiểm soát lại hướng đi bằng địa bàn và bản đồ, kêu anh
Trung sĩ trung đội phó:
-Trước mặt khoảng năm cây số có cái đồn phải không?
Tôi nói trống rỗng, vì nếu dùng tiếng mày tao thì tội nghiệp cho y, nhưng nếu gọi
anh hay ông thì y lại coi thường. Nhà binh mệt nhọc thế đấy!
- Vâng, có đồn Long Sơn.
- Đồn còn người giữ không?
- Nghe nói hình như còn và vừa bị đánh nên tiểu đoàn mình đi hành quân vùng này
để truy kích.
Đúng là một loại lính cũ, luôn luôn dóng tai lên để rình rập nghe ngóng tất cả,
ẩn dấu sau một nét mặt lầm lì không nói. Tôi tưởng câu hỏi cốt để gây thêm tự
tín, hóa thành một đòn phản. Viên trung sĩ đi ra xa, mặt thoáng vẻ hài lòng.
- Anh ra coi lại thằng vác đại liên, phía trái mình không có quân bạn. - Tôi
nói với.
Khoảng bốn giờ chiều, đoàn quân đi ngang đồn Long Sơn, những người lính Nghĩa
quân đứng trong hàng rào nhìn ra ngơ ngác. Họ nhìn toán quân chúng tôi như điều
mới lạ đến từ nơi đầy ánh sáng. Bao nhiêu lâu sống trong chiếc đồn trơ trọi
này, họ đã thành những kẻ thật xa với thế giới bình thường. Chiếc đồn chỉ cách
quốc lộ hơn mười cây số đường chim bay còn thê thảm như thế, huống gì những tiền
đồn ở cao nguyên, ở cuối cùng một cửa biển thì như thế nào? Tôi đâm ra hằn học
với tự tin ngạo mạn của lính tôi.
Đóng quân đêm. Tôi nghĩ mênh mang. Chiến tranh là vô ích như thế, từ một nơi xa
xăm đến để chết, ăn, ngủ trên một vùng đất lạ. Nhớ đến tấm ảnh trong cuốn
Guerre Morte... Một anh lính Pháp ngồi đun nước với lời chú: "Jean ne fait
rien dans la guerre, subitement, il mort". Tôi chỉ ở qua một ngày trong
chiến tranh, và như vậy còn rất lâu mới có kết thúc. Những ngày sau tiếp tục.
Long Sơn rẽ phải, lên đông bắc là Rạch Kiến, phố chợ hoang vắng, chiếc cầu bắc
qua con kinh bị đốt cháy sáu ngày trước còn loang lỗ vết than. Có một tiệm bán
nước ngọt với đá, tôi uống một hơi ba ly, không biết là chanh muối, sirop hay
cái gì... Chỉ biết đây là nước đá.
- Làm sao người ta mua nước đá được?
- Người ta mua từ Cần Giuộc, Cần Giuộc đi Chợ Lớn rất dễ dàng.
Người lính đứng bên cạnh tôi trả lời. Cần Giuộc, một địa danh nghe lạ hoắc. Miền
Nam này thật lạ lùng, một nơi chốn đầy dẫy chết chóc vẫn có những quán cóc bán
đồ nhậu, sạp bán báo, khốn nỗi chỉ bán toàn loại báo hạng bét, trang trong nói
chuyện đào kép cải lương. Tuy vậy, tôi cũng mua một tờ xếp vào túi quần, chút
thành phố có ở trong đây.
Một tuần đi qua không có gì, biến cố duy nhất mỗi ngày là binh sĩ đi Khinh binh
thường vướng phải mìn. Việt Cộng thật tinh quái, họ gài mìn vô cùng khôn khéo,
dò biết lính đơn vị tôi không đi trên bờ ruộng nên mìn được gài ngay trong bụi
rậm ở bìa làng rồi giăng dây thật dài. Lính vào làng phải dàn hàng ngang để dễ
dàng khi xung phong tất nhiên phải vướng dây bẫy. Được an uỉ, mìn là loại nội
hóa do du kích chế tạo chẳng làm chết được ai. Số thương binh được di tản không
có người nào bị nặng. Mỗi lần có tiếng nổ ở đầu hàng quân, binh sĩ ở đàng sau tỉnh
bơ, la lối ầm ĩ...
- Rồi một con đã đi!
- Đ..m..Lại một thằng được ăn Tết ở nhà.
Người thương binh được di tản lui về đàng sau, ngang qua đồng bạn khi bị trêu
chọc còn há mồm để chưỉ lại.
- Bị vào chân mà về "chọi" là rút gân nghe con, ráng baœo bà xã nhịn
đi.
- Mẹ mày... - Lời nói buồn cười xóa tan vẻ bi thảm của dòng máu đang chảy. Đôi
khi tôi cũng muốn bị nhẹ một phát vào chân. Nhảy dù gì đi ngang dọc hoài, chán
bỏ mẹ!
Ngày thứ tám của cuộc hành quân, khi tiểu đoàn tiến qua rạch Long Sơn, chiếc cầu
bằng sắt đã bị giựt sập. Đại đội 72 đi đầu chỉ định một trung đội tiến sát bờ
sông để tìm phương tiện vượt sông. Ầm, một tiếng nổ thật lớn, cột nước bắn cao
lên hơn mười thước, có tiếng súng bờ bên kia bắn qua, súng Việt Cộng. Lần đầu
tiên tôi nghe tiếng súng của đối phương... Cắc... cù... Tiếng đạn rít trong
gió. Tôi thoáng một giây sợ hãi cứ tưởng chừng như viên đạn như vô tình đang
bay về hướng mình. Và phản ứng thật tự nhiên: Thấp hẳn người xuống. Lẽ tất
nhiên tôi không đến độ nằm bẹp xuống nhưng rõ ràng có một phản ứng không báo
trước kéo thân thế thấp xuống, nhỏ lại. Nhỏ hơn nữa... Súng của Việt Cộng tiếp
tục nỗ dọc theo con đường chúng tôi đang di chuyển.
- Trung đội bố trí phía tay phải.- Tôi hét lớn. Toàn thể trung đội nhào xuống một
chiếc rạch nhỏ trông sang cánh đồng. Tôi yên tâm vì đã đứng được trong lòng đất.
Đất vật che chở cho con người trong những giờ phút nguy nan. Chạm phải bờ cỏ ướt,
tôi có cảm giác như ôm một vật thân yêu. Cảm giác này sau này trong những giờ
phút ngặt nghèo nhất, tôi được thấy lại. Mỗi lần vào được trong một chiếc hầm,
tôi cảm thấy tự tin hẳn lên, tin tưởng mình có thể sống sót được trong hết mọi
hoàn cảnh. Một nhân vật của Georghiu trong " La second chance " khi
biết mình sắp chết trước họng súng của bọn sát nhân đã có lực sống mãnh liệt: Tự
dùng tay để đào cho mình một chỗ trú ẩn, chết khi tay còn giữ nắm đất! Đất cao
cả và nhiệm màu bao nhiêu.
Trận đụng độ kéo dài chừng nửa giờ, du kích tháo chạy, chúng tôi vẫn chưa qua
sông, tôi đi về phía đại đội chỉ huy. Bác sĩ Đạm đang băng bó cho thương binh,
một xác chết được gói vào poncho, cột chặt bởi hai vòng băng cứu thương, gọn
gàng và im lìm. Lần đầu tiên tôi đứng gần thây ma... Người chết trong chiến
tranh đấy. Trở về chỗ bố trí của trung đội, thấy cần thiết một điếu thuốc hơn
bao giờ hết.
Đêm xuống, hào hứng của những ngày đầu hành quân không còn nữa. Tôi chưa quen với
đời sống hung bạo và nhàm chán này. Những người lính xung quanh sau khi căng
võng nằm phì phèo điếu thuốc mãn nguyện trong im lặng. Tôi chưa quen với điếu
thuốc và niềm lặng lẽ cô đơn đó, tôi còn là thanh niên đang lớn, cần có bè bạn,
cần người để tâm sự, những tâm sự tầm thường, những vụn vặt tình cảm... Ở đây
không có bạn, trong không khí lặng lẽ đầy đe dọa, tôi cô đơn như cây nhỏ trong
chiều mưa.
Mười lăm ngày qua, nhận được lệnh đi học lớp Rừng Núi Sình Lầy ở Dục Mỹ, một lớp
học hành hạ thể xác và đầy đọa tinh thần con người. Lúc ở trong trường tôi đã
qua trung tâm này trong ba tuần lễ, đã biết thế nào là một lớp học kéo dài
trong cực nhọc với thời gian hai mươi giờ trong một ngày. Nhưng đối với hoàn cảnh
bây giờ, tôi không đủ kiên nhẫn để kéo dài sức chịu đựng trong loại hành quân
này. Sao cũng được, miễn là đi khỏi vùng đồng ruộng đã bắt đầu quen thuộc. Khi
chiếc xe qua cầu Gò Đen thấy Sài Gòn hiện ở xa, đột nhiên tôi muốn đập phá một
cái gì...
Về đến hậu cứ, đúng cung cách của một tên lính, tôi đi đến khu gái điếm ở cuối
phố, âu đó cũng là một thói quen. Tôi cần tập nhiều thói quen của đời sống này.
Trên chiếc xe đi về Sài Gòn, tự nhiên thấy già - già hẳn đi...
Tháng 1-1964. Long An
NGƯỜI CHẾT DƯỚI CHÂN
CHÚA
Sông Tiền
Giang mênh mông như bể, chiếc phà lớn chuyên chất ba GMC, vài chiếc xe du lịch,
bềnh bồng mang chúng tôi qua sông lẫn với đám hành khách áo quần màu sắc. Họ dồn
về một phía, nhìn lũ người gươm đao thật xa cách. Tôi ngồi trên mui tàu thả từng
mẩu giấy vụn xuống dòng nước, trí não lãng đãng như bọt sóng.
Đoàn xe rời quốc lộ 4 rẽ về phía phải theo con đường đỏ hướng phi trường Trúc
Giang. Qua ngôi trường tiểu học quận, một dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc
lên ngây ngấy. Biệt động quân - tiểu đoàn 41... Nghe nói hình như Tiểu đoàn trửơng
hay Tiểu đoàn phó bị chết. Lính ở trên xe xì xầm bàn tán với vẻ thản nhiên. Họ
không biết chiến trận đã đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn Dù gồm tiểu đoàn
chúng tôi và một tiểu đoàn bạn đã có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước. Đến
phi trường nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền Giang, trung tâm hành
quân của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ ngày mai trực
thăng vận vào vùng hành quân. Tôi chưa được dự trận lớn, nên không có ý niệm về
những gay go sắp đến trong ngày mai, bình thản ngủ một giấc yên lặng với kết luận:
Trực thăng vận đối với Nhảy dù chỉ là trò đùa, không có gì mới lạ.
Ngày 22, 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng súng về bãi đáp nhả đạn liên
hồi để dọn bãi. Lấy cái chết của phe địch để làm an toàn cho phe mình, luật của
chiến tranh quả tàn khốc. Tiếng súng dọn bãi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng
đồng bốc lên một lượt mang hai đại đội 71 và 72 vào trận địa.
Báo cáo xuống bãi tốt, bình yên. Phần còn lại của tiểu đoàn được trực thăng vận
tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đã xuống đủ, hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu đơn vị,
di chuyển được mười lăm phút. Súng nổ! Đụng rồi! Đụng rồi... Lính dáo dác, máy
truyền tin chuyển lệnh nghe loạn xạ. Phía trước tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng
khô và cứng của ta, sắt nhọn của địch... Đại đội 72 rút lên bố trí về phía phải
của đại đội 73. Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ đứng của
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước mặt, quả
đạn 57 ly nổ ngay khi ra khỏi nòng, người phụ xạ thủ bắn tung ra đằng sau, một
bàn tay bị đứt. Ông tiểu đoàn trưởg hét lớn qua màu khói... Trung đội anh chạy
ra cái nhà tranh...
Như vậy là đụng độ lớn, người bị thương nằm la liệt ở dưới các rãnh dừa nước.
Toàn đang đứng trong một giao thông hào chỉ trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa
có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung phong. Trung đội tôi ép phải, hướng tiến
bây giờ thẳng góc với các con kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước
thật dài trên bờ kinh, một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương cùng với hai
người khinh binh. Bám cỏ bò lên, xác hai tên Việt cộng nằm tênh hênh, một xác bị
banh nát ngực, xác kia nằm sấp, không rõ... Người chết, lần đầu tiên tôi chạm
phải - một thây chết của đối phương.
- Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau tao bắn gãy giò...
Tôi quát tháo cũng ra gì, mấy người lính đi chậm dớn dác tìm lối qua rạch. Họ
không nhảy qua được vì mang đồ quá nặng.
- Đ.m... Nhảy qua được không? Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm
như rùa.
Tôi chửi mắng om sòm. Trung đội đến bờ làng dừng lại bố trí trông ra cánh đồng
trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy mệt vì phải quát tháo quá nhiều, nhớ
lại lời chửi tục. Tôi đã thành một người lạ nào đấy. Địch từ phía trái chạy vọt
qua, bóng áo đen ẩn hiện đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn! Bắn! Trung
đội tôi khai hỏa ròn rã. Một vài bóng áo đen ngã xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn
lầy, máu người chết xông lên ngây ngấy.
Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng đại đội 71 hoàn toàn chấm dứt,
trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói màu xanh làm dấu bãi đáp bốc lên mờ mịt
làm đặc không gian đang ngã vào đêm, rừng dừa màu xanh thẩm lại. Tiếng súng vu
vơ của địch bắn lên máy bay khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột
độ, một tên lính mò lại bên cạnh.
- Thiếu uý ăn cháo gà?
- Cháo gà?
- Dạ, em bắt được, nó còn ấp trứng...
- Thôi mày cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi.
Khi lính trong trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi lui về phía xác hai tên Việt
cộng. Tên nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có lẽ đấy là cử động cuối cùng của nó
trước khi chết. Tôi đặt tay lên da người chết lạnh tanh. Đêm xuống, chúng tôi
trải poncho nằm trên bờ rạch, không cởi giày, địch có ý tấn công lại nên phải đề
phòng.
Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu
đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn
xóm trù phú nhưng không một bóng người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi.
- Hầm có dấu chân người! Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi
-Tôi ra lệnh.
- Ai ở dưới, đi lên!... Im lặng...
- Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu uý, cho em ném lựu đạn xuống. Tên lính
hỏi ý kiến.
- Không, mày bắn xuống mà thôi.
Tên lính lanh lẹ bắn xuống một tràn thompson, có tiếng rên khe khẽ.
- Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước...
Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên khỏi miệng hầm, ông lão bế một
bà lão lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lão chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc
lóc, bà lão nằm vật xuống, ở đầu có một vết thương.
Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi tên rơi xuống cuối đường bay.
Hình ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng hầm, nét mặt hốt hỏang của hai tên địch
chưa quá mười sáu tuổi lôi lên từ một đám bèo, một tên còn đang ngậm một búng
cơm... Những hình ảnh đó bây giờ cộng thêm cảnh chết cuả hai vợ chồng và ba đứa
con ở trước mắt tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt bộ chỉ huy ở khu nhà
thờ, người chồng là ông Từ giữ nhà thờ đã đem cả gia đình vào trốn dưới cái bệ
thờ Chúa.
Tượng Chúa ngã nghiêng, tượng Thiên Thần vỡ tung tóe, hai bàn tay trắng bằng đất
nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi xuống nhặt hai bàn tay này thì khám phá
ra năm xác chết trên. Họ chết ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con
trước ngực. Họ chết vì bị sức ép nên thân thể vẫn còn nguyên vẹn, nét mặt in vẽ
hốt hỏang. Tôi ra lệnh kéo xác họ ra sân.
Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động trong vị thế nghiêng ngã, nắng
ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề lạnh ngắt... Tôi ngồi xuống trên chiếc
ghế, hỏi thầm...
- Thượng-Đế, Ngài có thật đấy chăng?
Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc
áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió... Nhìn ra xa, xác cô
gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một
lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái
chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong
gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm. Hai ông
bà cụ già, tên Việt cộng trẻ, người cha và người mẹ, họ đã sống, đã chết dù sao
cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đã qua gần hết cảnh sống. Cô gái chết bất
ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi choáng váng ngộp thở,
người lao đao trong một niềm giận dỗi phiền muộn không cùng.
Đụng lớn, tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa thắng truy kích địch để lùa
chúng về quốc lộ 4. Bên trái là sông Tiền Giang, Tiểu đoàn 3 nhẩy dù bên phải
làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn tôi lùa địch từ đông sang tây. Việt cộng phân
tán thành từng toán nhỏ để chạy trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục
soát không chừa một hốc nhỏ. Việt cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đụn
rơm, cuộc truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như trò chơi. Tôi lầm lì đi giữa
hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt của Việt
cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một lượt trên tâm hồn
hồn nhiên — Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu nhưng đây là cơn say đen.
Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội bên trái, tiểu đội bên phải, lục
soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ
cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám...Một người đàn bà áo
trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt
nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người
như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo tôi
cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước
chị đàn bà...
- Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?
Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng
chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục.
Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy... Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu,
gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một
đôi bông tai.
- Của chị đây hả? - Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.
- Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên.
Tên hiệu thính viên thì thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nhìn vào những
miếng vàng chói trên giấy...
- Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi thiếu uý... Ê! Đi đi.
Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước
đi như xác chết nhập tràng.
- Chị kia quay lại đây tôi trả cái này... - Tôi nói vọng theo.
Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt
tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm
khuôn mặt và run đôi môi... Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai
tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm
thanh tú. Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run
rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông
xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi
mũi súng trước mặt chị ta:
- Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi
theo... Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ... - Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ
quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa... Từ từ chị
đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực... Không! Không thể như thế được, tôi muốn
nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để
phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi... Người đàn
bà đã hiểu lầm tôi... Không lấy vàng và bắt đứng lại!! Chị ta không hiểu được lời
nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm
muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ
quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi
hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm
dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận
tủi hổ này... Thê thảm cho tôi, cho những người lính chung quanh vì lính chúng
tôi có thể tàn bạo khỏanh khắc, tham lam lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một
thứ lính tẩy trên quê hương — Người ngoại cuộc với những tàn phá kinh tởm do
chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có lòng nào hưởng cảm giác trên xác thân của
một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng thống khổ... Khổ lắm, người
đàn bà của tỉnh Kiến Hòa đâu biết chúng tôi không bao giờ muốn huênh hoang,
hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa
oan uổng thiêu đốt căn nhà bình yên như giấc mơ của chị. Và những mảnh vàng đó,
thân thể chị đây ai có can đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm! Tôi muốn đưa
tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng
chân tay cứng ngắt hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, cảnh
sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung
hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út,
trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi.
Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượng
ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nhìn vào khỏang trống không cảm giác. Người đàn bà
Việt Nam bước đi trong ngỡ ngàng với hạnh phúc khốn nạn: Hạnh phúc đến chót sau
những thống nhục rời rã. Hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bị
xúc phạm!
Quân rút ra gần đến quốc lộ, con sông bên trái đầy thuyền, hỗn độn dòng người
chen chúc. Dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước, tiếng người kêu la
vang dội một khỏang sông, họ hỏi thăm tình trạng nhà cửa, người thân thích, người
kẹt trong vùng hành quân. Tiếng khóc vang rân... Trời ơi, nhà ông Năm bị chết hết
cả rồi bà con cô bác ơi! Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đò...
- Lai! Mày đó Lai ơi! - Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo
chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ vãng, như nhớ một khỏang sống đã
đi qua... - Lai! Lai ơi, má đây con...- Chị đàn bà đứng lại xoay người về phía
dòng sông... Má! Má!
Tôi thấy đôi môi run rẩy thì thầm: Nhà cháy rồi! Nhà cháy rồi! Chị ta đi lần ra
phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn
trên đám dừa xanh.
Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy người lính đứng tần ngần nhìn theo người đàn bà:
Tiên sư, đi lẹ còn qua phà sớm. Lòng ngập một niềm ăn năn kỳ lạ.
Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho. Dân chúng ra đứng nhìn cảm phục.
Đóng quân ở sân vận động, tôi đi lên chiếc cầu hướng về phía Gò Công, dòng nước
đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết dưới chân cầu đục ngầu như tâm hồn. Đêm tỉnh
lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi đi lang thang, thật lạ ngay với chính mình, gặp
Bang ở Biệt động quân, anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm
anh khóa 15 Thủ Đức về Biệt động quân. Bang đãi tôi cơm, tôi chỉ uống được chai
bia, xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rise, phục Hemingway thì có
khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng, nhạt nhẽo. Tôi đi về trong đêm khuya, thành
phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô gái. Tội nghiệp thay
cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa. Ngày mai chúng tôi về Sài Gòn,
ao ước được cởi áo nhà binh trong vài ngày, nhưng đó chỉ là ao ước vì chúng tôi
biết rằng Sài Gòn đang có biến động, Phật giáo và Công giáo xua tín đồ ra đường
phố. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là phẫn nộ khi về đến Sài Gòn
đóng ở Tổng Nha Cảnh Sát, lãnh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu tình.
Tháng 8-1964. Kiến Hòa
TRONG CƠN BI PHẪN
Hai gã
thiếu niên đi hàng đầu căng biểu ngữ: "Hoan hô Quân đội". Hai gã khác
mang một biểu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Đạo pháp". Đám đông ước
khỏang hơn trăm người, phần đông là thanh thiếu niên dưới hai mươi tuổi một số
ít đàn bà lớn tuổi, thấp thoáng vài chiếc áo vàng. Trung đội tôi dàn hàng ngang
ở ngã ba Trần Quốc Toản - Cao Thắng, đợi đám đông tiến tới. Cách chúng tôi khỏang
trăm thước, đám biểu tình dừng lại, một tên trẻ tuổi tách ra khỏi đám đông, tay
cầm một lá cờ Phật Giáo tiến về phía chúng tôi, gã bắt đầu nói... Tôi không
nghe rõ, chỉ loáng thoáng mấy danh từ: Độc tài, đạo pháp, dân chủ hỗn độn va chạm
nhau... Xong, gã nâng cao lá cờ... Đám đông hoan hô ầm ĩ, im lặng trơ trẽn đè nặng.
Gã thiếu niên nói tiếp thêm một hồi. Một chiếc áo vàng từ trong đám đông tách
ra đến đứng cạnh. Tay ông tu sĩ có chiếc cờ nhỏ, y nâng cao, hai tay dang rộng
hình chữ V, kiểu võ sĩ lên đài chào khán gỉa... Tôi không nghe được lời ông ta
nói gì, vì chú ý đến đám đông. Bọn thanh niên biểu tình phần đông mang dép, quần
ống hẹp, áo bỏ ngoài, hai ba gã đứng hàng đầu tóc dài xùm xụp, mồm đang nhai
bánh mì, có một vài ả con gái tay còn ôm cặp, ý hẳn đang đi học... Nhưng linh động
hơn hết là hai chị đàn bà, quần đen áo bông, lồng lộn xỉa xói mỗi tay cầm một
chiếc gậy, một ả đang chửi ngừng lại, chạy vào cái máy nước uống một hơi xong lại
nhảy ra tiếp tục tru tréo...
Một chiếc xe cảnh sát màu xanh đỗ ở sau lưng chúng tôi, tiếp theo hai GMC chở đầy
cảnh sát dã chiến. Chúng tôi lùi đàng sau, nhường chỗ cho cảnh sát, những
chuyên viên chống biểu tình dàn đội hình mau lẹ, máy phóng thanh kêu gọi đám
đông giải tán. Có tiếng la ó đả đảo từ đám đông, một vài người bắt đầu ném gạch
đá. Lời kêu gọi chót không thành, cảnh sát dã chiến tấn công, gạch đá, khói lựu
đạn cay bốc lên. Cảnh sát dã chiến tiến tới, đám biểu tình lui lại rút về Viện
Hóa Đạo cố thủ. Trên đường vắng lăn lóc hỗn độn guốc, cặp, nón lá, dép, trơ trẽn
và buồn cười. Toán CSDC lên xe rút đi, nhường lại khỏang đường cho chúng tôi,
hàng rào kẽm gai mới được thành lập ngay trước cổng Viện Hóa Đạo. Chúng tôi dàn
hàng ngang đứng trong nắng, gió và chuỗi giông bão chửi rủa phẫn nộ của bọn người
đứng sau hàng rào kẽm gai. Một tên mặt choắt như mặt chuột chỉ tay vào tôi:
- Đ.m... mày ăn tiền của Mỹ bao nhiêu? Tụi mày nếu chết không có địa ngục nào
trừng phạt cho hết, cha mẹ mày cho ăn học để mày đem đạn súng giết thầy!!
Máu nóng bốc lên muốn nổ tung trí não, tôi đưa tay vào túi nơi đựng băng đạn vừa
tháo ra khỏi súng, ước gì tôi có được một liều lĩnh. Nó sẽ chết... Nhưng khi
tay chạm phải thỏi kim khí mát lạnh đó, tôi thả ra, vì bây giờ, nếu phẫn nộ được
bùng cháy, thì không phải riêng tôi mà một trung đội hai mươi bốn người cũng sẽ
bùng lên như ngọn đuốc. Chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày lấm bùn của chiến trận
ngày hôm qua, áo quần mặt mũi còn nguyên dấu vết của bốn ngày hành quân. Vết
cháy ở áo thằng Ty tải đạn trung liên, máu ở mặt thằng Thái và tôi, gã trai trẻ
nuôi dưỡng thật nhiều hiền hòa trong lòng, ngày hôm qua vừa được chứng kiến những
cái chết tức tưởi của một gia đình. Chỉ mới ngày hôm qua. Không thể được, tôi
phải nén xuống, phải cất dấu hết giận dữ đang bùng lên như giông bão. Thôi, đi
lính để còn lãnh chịu đựng. Nỗi chịu đựng không bờ bến.
Đoàn biểu tình lại ùa ra, bây giờ dẫn đầu bởi một tu sĩ mang kiếng mát màu xanh
nhạt. Đến trước chúng tôi, ông ta ngồi xuống niệm Phật, đám đông làm theo, phần
đông không ngồi kiết già được, phải ngồi chồm hổm. Tôi gặp lại tên ăn bánh mì
lúc nãy, một tay chấp lên ngực, tay kia đưa mồm để gỡ mẩu bánh dính ở kẽ
răng!!! Tụng kinh xong, ông tu sĩ đứng dậy đến sát bên tôi yêu cầu mở lối cho
đám biểu tình. Tôi lắc đầu. Ông ta năn nỉ. Không được. Mấy bà già người Bắc van
xin kêu la khóc lóc, chửi bới để phụ họa... Đàng sau chiếc mặt nạ chống hơi ngạt,
tôi nghĩ thầm: Nếu được giết người trong một lần ở trong đời, tôi sẽ chọn lúc
này. Đám đông chửi bới bằng những tiếng tục tằn thô lỗ nhất chen với tiếng niệm
Phật... Danh hiệu của Đức Thích Ca chen lẫn với rác rưởi của trần gian. Ôi khốn
khổ cho tôn giáo của tôi. Tôi nhớ cái chết tự thiêu của bà chị ở Ninh Hòa. Ai
bóp nghẹt hơi thở tôi lúc này. Đám đông bắt đầu hỗn loạn muốn đè bẹp lên chúng
tôi, một viên đá từ đám đông bay đến đánh mạnh vào ngực của Hạ sĩ Long, tên này
la lên một tiếng đau đớn - bất ngờ - hắn đánh báng súng vào ngay mặt một gã thiếu
niên đang nhảy choi choi trước mặt. Tôi ném liền trái lựu đạn khói, cơn phẫn nộ
bị nén suốt ngày bùng lên như lửa đỏ, báng súng carbine đả ngang một vòng trước
mặt, có tiếng rú đau đớn. Tôi la lớn... Đánh nữa, đánh cho chết. Một báng súng
ngược lại... Xương người chạm vào chất gỗ cứng vỡ dòn trong một niềm thỏa thuê.
Trung đội tôi như trong cơn điên của thù hận và phẫn nộ, những người lính lao
vào trong đám đông... Tôi ném thêm một qủa lựu đạn khói. Chạy! Chúng tôi chạy
ngược về phía ngã ba Cao Thắng, Trần Quốc Tỏan, khi về đến chỗ đại đội, cởi chiếc
mặt nạ... Mắt tôi đỏ hoe, tôi khóc hay lựu đạn làm chảy nước mắt. Ai biết được,
nhưng lòng tôi đang là một biển buồn phiền. Làm sao tôi biết được trong ngày
mãn khóa, đời sống sẵn dành cho người lính ngần này tàn bạo và tủi hổ; nhìn lại
những người lính chung quanh, bây giờ họ thật gần gũi, thân thiết. Sau chiến
tranh, người lính thấy lạ với hết mọi người của đời sống bên ngoài, họ chỉ còn
ngục tù tự nguyện của tập thể để làm thế giới cho tâm hồn phá sản. Tôi đã cột
chặt vào thế giới hung bạo, phiền muộn này, tôi đã thành một người lính, nêm cứng
với những người lính khác...
- Thiếu uý cho em chạy về nhà một lát - Một người lính trong trung đội đến gần
tôi nói nhỏ.
- Lúc này biểu tình lộn xộn, đi đường có việc gì làm sao tìm ra được.
- Không có đâu thiếu uý, nghe radio "nhạc đảo chánh" là em biết liền.
- Ừ, khi nào có "nhạc đảo chánh" thì về.
Tháng 9-1964. Sài Gòn.
MỘT CHỊU ĐỰNG LẶNG LẼ
Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng... Một tháng "vỡ mặt" lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa lọc. Thủ Đô! Tôi đi xa không luyến tiếc. Quá đủ những con đường Sài Gòn đêm vắng vẻ, dây kẽm gai chằng chịt, lựa đạn cay xót xa nước mắt. Đã quá đủ với Sài Gòn những buổi trưa nóng như thiêu đốt, áo giáp, nón sắt, mặt nạ, người lính đứng cô đơn trong sỉ nhục căm thù của đám đông nhân danh Tổ Quốc và Thượng Đế... Sài Gòn, chúng tôi thù ghét và ghê tởm Thủ đô đục ngầu phản bội và thù hận. Tôi ao ước một cơn hồng thủy sẽ cuốn trôi thành phố sau lưng, một cơn hồng thủy xóa hết dấu tích nhơ bẩn mà Thủ đô đã bôi lên khuôn mặt bi thảm của quê hương. Tôi ao ước được quên một thành phố tên gọi Sài Gòn.
Xe chạy ra khỏi thành phố hướng về Tây Ninh. Trời xanh, không khí thoáng đãng,
tôi thèm được đi xa. Đến Hóc Môn, đoàn xe dừng lại để lính nhảy xuống mua các
thứ lặt vặt cần thiết cho cuộc hành quân. Sau hai tháng căng thẳng trong sự chết
và bạo động, người lính bây giờ được thả xuống giữa quận lÿ sầm uất chất phác.
Họ thỏai mái dễ chịu như trở về thế giới quen biết. Chúng tôi phải trả nợ nghiệp
lính bằng năm ngày hành quân trước khi trở về hậu cứ. Từ Hóc Môn đoàn xe đi dọc
theo liên tỉnh lộ 15 hướng về phía bắc, xe chạy trong cánh đồng mênh mông, sau
hơn một tháng bị nhốt chặt trong thành phố ầm ĩ nay được thả ra cùng đất trời rộng
rãi, lòng tôi mở ra như cơn gió reo. Đến ấp Đông Nhất cách Hóc Môn mười cây số,
dừng lại xuống xe. Một tiểu đoàn bộ binh đã có mặt từ trước đợi chúng tôi. Hai
tiểu đoàn sẽ xuất phát từ đây, xâm nhập theo con đường liên tỉnh hướng tây-bắc
để giải tỏa áp lực địch tại vùng Bến Cỏ. Hai đơn vị đã dàn xong đội hình, lấy
con đường làm chuẩn, tiểu đoàn bạn bên trái, chúng tôi bên phải, mục tiêu là
làng Paris Tân Qui, nơi gặp gỡ của đường liên tỉnh 15 và hương lộ nối từ Ấp Nhà
Việc với Củ Chi. Đại đội 74 dẫn đầu, đại đội chúng tôi đi chót, trung đội tôi
đi cuối cùng. Mười phút đã qua, chúng tôi vẫn chưa di chuyển được thước đất
nào, rảnh rỗi tôi lấy khẩu cầm ra thổi, tiếng trầm bỗng loang xa trên cánh đồng
chơi vơi như cánh chim nhàn hạ... Bỗng súng nổ, một tràng ngắn, tiếp theo những
tràng đại liên ròn rã ở phía đầu tiểu đoàn bộ binh. Cuộc chạm súng kéo dài khoảng
mười phút, địch chỉ muốn trì hoãn bước tiến đoàn quân để chạy trốn. Mười hai giờ
trưa đến Paris Tân Qui, làng nhỏ bao bọc chung quanh bởi rừng cây cao su xanh
ngắt. Địa danh thật đặc biệt, không hiểu do sự nhầm lẫn của người lập bản đồ
hay do một anh Tây nào đó trong lúc nghịch ngợm đem tên của Thủ đô ánh sáng đặt
cho làng nhỏ này. Tiếp tục tiến quân lên Bến Cỏ, quận lÿ đặt cuối đường liên tỉnh,
bên kia suối Bến Nây. Cầu đã bị giựt sập, tiểu đoàn dừng lại bố trí quân dọc
theo đường đá đỏ. Đại đội 72 đi đầu cho một vài khinh binh qua dò đường. Trời ủ
giông, nắng quái mây mù, con đường vắng như một nỗi thê lương... Nếu không có
chiến tranh, từ đây về Sài Gòn chỉ khoảng nửa giờ xe đò, những con đường nhỏ
này là mạch máu của miền Nam nối liền Thủ đô với thôn xóm trù phú. Ruộng ở đây
không bát ngát bằng những tỉnh ở miền Tây, nhưng mạnh và tươi tốt. Nhìn đồng
lúa mới thấy rõ sức chịu đựng dẻo dai triền miên của dân tộc. Nhớ bài chính tả
của mười hai năm trước — Đồng lúa mới... Tôi đến một vùng quê, kề bên trận địa,
cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông phu cần mẫn, nhìn vào thôn
xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm... Sáng mai thức dậy,
đố ai biết có những gì thay đổi, cánh đồng vắng vẻ ngày hôm qua nay đã xanh rì
ngọn mạ... Bài chính tả của lớp nhì biến thành bài học thuộc lòng. Ông giáo cuả
tỉnh nhỏ, thầy Tiến, trường Hoàng Diệu, dáng người mập mạp, nhưng bỗng nhiên
khuôn mặt hóa nên linh động khi giảng nghĩa cho lũ học sinh nhỏ, sức chịu đựng
nỗi kiên nhẫn của những người nông phu, đêm trở về trên cánh đồng vắng, cắm những
cây mạ xanh trong lòng đất còn mùi thuốc súng... Cánh đồng ở đây cũng loáng nước,
mái tranh thôn xóm tiêu điều xơ xác, nhưng thân lúa xanh vẫn mọc lên phơi phới.
Tôi rung động trong niềm cảm phục quê hương, những người nông dân Việt Nam cuối
tận cùng của khổ cực luôn luôn thắp sáng cho mình hy vọng. Nhớ đến bàng hoàng
dáng dấp của thầy tỉnh lẻ, một ông giáo bình thường nhưng đã gieo vào hồn tôi những
rung cảm kỳ diệu khi bằng giọng nói của người dân xứ Quảng với quê mùa mộc mạc,
thầy Tiến vẽ trong đầu óc trẻ thơ một hình ảnh lặng lẽ nhưng hào hùng của dân tộc.
Cảm giác này cũng tương tự như khi đọc Sơn Nam với những câu ca dao... Ra đi gặp
vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu... Cảm ơn đời trong tuổi nhỏ
đã có người tặng cho những đóa hoa dịu dàng, những lời ca ngợi quê hương. Người
Đại Hàn tượng trưng cho dân tộc của một đóa hoa, Trung Hoa, Nhật Bản lấy biểu
tượng ở mặt trời... Tôi ao ước được trông lại biểu tượng cây lúa của dân tộc.
Cây lúa bình thường đầy kiên nhẫn.
Ba người khinh binh đi đầu tiến ra được giữa cầu, cầu bị gãy, họ phải bò theo
những thanh sắt, một loạt đạn từ bờ bên kia bắn vụt qua. Đạn chạm vào thành cầu
long cong, một người lính lảo đảo rơi xuống, hai người kia vội vàng chụp lấy bò
trở về. Súng cối của tiểu đoàn bắn về phía có tiếng nổ năm trái... Ba người
khinh binh khác được đề cử qua cầu, dưới sự yểm trợ của súng cối 60 và 81 (1)
trong lúc súng cối tạm ngưng vì tháo đạn chưa kịp, Việt Cộng ở bên kia bờ lại bắn
qua tới tấp.
Hai người lính ở sau bò lại, chỉ một người qua được bên kia bờ. Không thể làm
im được toán Việt cộng bên kia bằng súng cối, mặc dù chúng chỉ ước chừng một tiểu
đội, nhưng hầm hố kiên cố đạn súng cối chính xác đến đâu cũng không phá hủy được.
Hơn nữa số đạn mang theo giới hạn. Bộ chỉ huy tiểu đoàn quyết định gọi máy bay
đến oanh tạc đồng thời đề phòng trường hợp địch tập trung đông. Ba Skyraider
(2) bay một vòng để chỉ định mục tiêu. Khói trắng vừa bốc lên khỏi lũy tre, chiến
đấu cơ hạ thấp độ cao đâm thẳng xuống, cả một khu bìa làng bị cầy tung đất khói
và lửa bốc thành những chiếc nấm lớn. Năm giờ chiều, người chót của tiểu đoàn mới
qua hết con suối, ngôi làng con âm ỉ cháy, mùi lá tươi bị đốt nồng nặc. Chúng
tôi đóng quân đêm tại đây, cứ điểm Bến Cỏ nằm sau lưng không đầy một cây số.
Ngày mai chúng tôi sẽ vào đấy giao tiếp với một tiểu đoàn Biệt động quân bị cô
lập suốt sáu tháng nay.
Bảy giờ sáng, tiểu đoàn bắt đầu di chuyển, đoạn đường xuyên qua làng mạc dày đặc
vườn cây ăn trái và nhà cửa. Đường liên tỉnh 15 chạy từ Hốc Môn đến Bến Cỏ chia
làm hai nhánh, một đường chạy lên hướng bắc gặp bờ sông Sài Gòn, từ đây chạy
song song với con sông lên đến vùng Bến Súc rồi ra Trãng Bàng. Một nhánh ngắn
hơn từ Bến Cỏ chạy ra Củ Chi. Bốn cứ điểm Bến Cỏ - Bến Súc -Trãng Bàng - Củ Chi
tạo thành khu tứ giác mật khu Hố Bò nằm song song với mật khu Bời Lời ở bờ phía
bắc sông Sài Gòn. Cứ điểm Bến Cỏ như một cái nút chận đường xâm nhập của địch về
Gia Định nên từ lâu địch đã vây kín và pháo kích vào hằng ngày. Chúng tôi tiến
quân thật dè dặt, một đơn vị bạn trước đây đã bị phục kích ngay tại khu làng
này khi muốn "bắt tay" (1) với đơn vị trong đồn, hôm đó pháo binh và
phi cơ không thể can thiệp được, trong khi địch có đủ công sự phòng thủ và giao
thông hào dày đặc trên lộ trình vào cứ điểm. Hai đại đội đi đầu không dám đi
trên đường vì sợ mìn, khi đi qua các khu vườn mọi người đều ngán ngẩm, địa đạo
và giao thông hào đào chi chít, nếu địch phục kích chúng tôi tại đây thì khó
lòng chống trả. Vòng rào dây kẽm gai và cột dây trời của đồn hiện ra trong tàn
cây xanh. Thật thận trọng, tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho từng đại đội một tiến
vào hàng rào phòng thủ, hai người lính Biệt động quân ra mở cổng... Cứ điểm gồm
có hai phần, chiếc đồn chính nằm ở phía trái của con đường, bộ chỉ huy tiểu
đoàn Biệt động quân đóng chung với một đại đội Địa phương quân tại đây; đồn là
một loại bót nhỏ của lính Pháp để lại, tường gạch rêu phong ba tháp canh trơ trọi
đứng ba góc, chung quanh đồn là tuyến phòng thủ của ba đại đội tác chiến, những
người lính Biệt động quân đào hầm ở ngay trên tuyến phòng thủ. Đối diện chiếc đồn
là ngôi chợ nhỏ, hai bên đường nhà thường dân san sát vào nhau, phần lớn cửa
đóng, người dân đã di cư về Bình Dương hay Sài Gòn. Có những danh từ nghe thoạt
tiên rất vô nghĩa, nhưng nếu với hoàn cảnh, không khí thì thích hợp, những chữ
nghĩa khô khan kia hóa nên linh động hẳn ra như một nốt nhạc. Ở đây, Bến Cỏ
không thể có một tên gọi nào thích hợp bằng "phố chợ", không thể gọi
là quận lỵ, thị trấn, cũng không hẳn là một cứ điểm đúng nghĩa danh từ quân sự...
Một tiểu đoàn lính bao một đám dân, con đường, ngôi chợ, hai dãy nhà cửa, cây
bàng xanh tươi bóng mát, vài quán hàng bán những thức lặt vặt. Bến Cỏ không có
nét trẻ trung, vui vẻ của những phiên chợ thôn quê, đây không khí tang thương,
khắc khoải như một bệnh nhân bị gậm mòn dần bởi chứng nan y. Chúng tôi ra đóng
quân ở phía đông của cứ điểm. Những buổi sáng lính thường vào uống cà-phê ở chiếc
quán dưới gốc cây bàng, những người lính ngồi đối diện với nhau lặng lẽ. Con đường
vắng hoe lác đác dăm chiếc lá khô, điểm sinh động duy nhất là quán hủ tiếu của
một người Tàu. Người Trung Hoa trong hoàn cảnh nào cũng đứng đầu bởi sức chịu đựng,
nhưng người Việt cũng đâu kém. Chúng tôi đóng quân được hai ngày, tình hình im
lặng, im lặng ngột ngạt trước trận đánh. Cứ điểm đã bị bao vây suốt sáu tháng,
quân số phòng thủ của tiểu đoàn Biệt động quân bây giờ chỉ còn hơn hai trăm. Việt
Cộng đào hào thông hào đến sát hàng rào phòng thủ, chúng không tấn công chỉ bắc
loa chửi, bắn sẻ, pháo kích... Chiến thuật này đã làm tiêu hao quân số của đơn
vị bạn. Cách hay nhất là đề phòng, nhưng ai có thể kéo dài tình trạng đề phòng
trong sáu tháng. Ngồi uống nước, nghe tiếng súng cối cuả địch, nhảy xuống hố
không kịp thế là bị thương. Gác ở chòi canh, tuần tiễu ra khỏi hàng rào một
trăm thước, khinh binh coi như đã treo đời mình trên một đường dây mỏng manh.
Giao thông hào đào sát vào con đường từ đồn đi ra, tỏa chi chít khắp nơi, kín
đáo chắc chắn. Người khinh binh làm sao biết được mũi súng ở hướng nào nhắm vào
mình! Sáu tháng, những người lính Biệt động quân bây giờ trở nên dửng dưng, họ
đã đến chót cùng chịu đựng. Ngay đến chúng tôi, những người mới tới, bằng bao
nhiêu cẩn thận cũng không tránh khỏi thiệt hại. Đang nói chuyện với nhau trong
vòng phòng thủ, một viên đạn bất chợt bay đến, binh nhất Phòng của đại đội 72
ngã xuống chết không ngờ. Viên đạn xuyên thủng bàng quang chấm dứt đời kẻ bạc
phước trong vòng một phút. Từ chỗ đóng quân vào chợ, đoạn đường không quá ba
trăm thước, nhưng cũng không an toàn. Bất cứ lúc nào, khi toán giữ đường không
cẩn thận là có kẻ ngã gục bị bắn sẻ. Việt cộng rình rập chúng tôi - đêm nay?
ngày mai? - Chúng tôi chờ đợi phút hồi hộp đó. Đóng quân được bốn ngày, chúng tôi
nhận được lệnh rút ra ngã Củ Chi, vẫn lấy con đường liên tỉnh 15 làm chuẩn, tiểu
đoàn chúng tôi đi bên phải, tiểu đoàn bộ binh đi bên trái. Lộ trình rút ra
xuyên qua khu đồn điền cao su Fihoc, hành lang xâm nhập vào mật khu Hố Bò.
Chúng tôi không biết những người bạn Biệt động sẽ ra sao, họ ở lại chờ một tiểu
đoàn khác đến thay thế, hay tiếp tục để nhận một cái chết mòn mỏi chậm chạp? Có
thể các vị chỉ huy ở cấp lớn đã nghĩ rằng: Chúng tôi đã có mặt bên ngoài trong
bốn ngày vô sự vậy là áp lực địch được giải toả, bây giờ họ đang có những vấn đề
to lớn khác cần phải giải quyết ở Sài Gòn trong đường Trần Quốc Tỏan, ở Đài
phát thanh. Thôi, tiểu đoàn Biệt động quân, các bạn hãy ở lại và tiếp tục như
sáu tháng đã qua. Sáu tháng chỉ thèm một cục nước đá, phần đời của các bạn như
vậy đã được định. Tôi nghĩ đến chiếc bánh mì và nải chuối cuả một mụ nạ giòng
đem đến tặng cho lính ở Đài phát thanh để tri ân quân đội giúp đỡ đạo pháp...
Bảy giờ, hai tiểu đoàn song song rút ra. Đại đội tôi cùng đại đội 73 đi đầu tiểu
đoàn. Đại đội 73 đi phía tay mặt tôi, Toàn "đen" dẫn đầu, tôi nói với
Đỗ, anh chàng "Eddie Constantin":
- Thằng Toàn đi đầu thế nào cũng đụng.
Có thể lắm, mặt nó có cô hồn... Vừa di chuyển được ba mươi thước một loạt đạn nổ
ròn rã trước mặt. Hạ sĩ Thặng khinh binh đi trước tôi ngã xuống, hai viên đạn bẻ
gãy khẩu AR 15 đồng thời làm cườm tay anh gãy đôi. Việt cộng thật ra nhắm vào
tôi vì cầm tấm bản đồ, nhưng Thặng vừa qua mặt nên lãnh lấy, hai viên đạn đáng
lẽ ra đâm thủng cơ thể tôi... Một thoáng rùng mình, đạn bắn thấp, nếu không gãy
chân thì cũng thủng bàng quang. Tôi nhớ đến cái chết của thằng Phòng hai ngày
trước, chút xíu nữa thì mạng tôi cũng xong rồi! Vết thương của Thặng không nặng
lắm, cây súng đã đỡ lấy hai viên đạn, cả anh và tôi đều may mắn. Tăng Màn Tài,
trung đội phó khẽ nói với tôi:
- Thiếu uý, hôm nay đụng a, sáng nay tôi nấu cơm không chín.
Tôi cười không nói, nhưng lòng đầy lo ngại... Cánh quân chúng tôi và bộ binh tiếp
tục di chuyển về phía Bến Mương. Mười giờ - binh nhất Niên - khinh binh đi trước
tôi đột nhiên nhảy hẳn qua một bên, bắn một loạt súng...
- Cái gì vậy?
- Thiếu uý, em thấy trước mặt có người!
- Việt cộng đó, coi chừng.
Buổi sáng lúc xuất quân đã có người dân đến báo: Việt cộng ở khu rừng cao su rất
đông, đào hầm để đợi chúng tôi. Tiểu đoàn trưởng quyết định chấp nhận trận
đánh, cả chúng tôi và bộ binh đều sẵn sàng tác xạ khi di chuyển. Niên hét lớn:
- Đưa tay lên, tiến tới.
Trong lá xanh hiện ra một người mặc quân phục màu xanh đeo ba-lô mặt mày ngơ
ngác. Y là một binh sĩ của tiểu đoàn bộ binh, chúng tôi không biết tại sao anh
ta đi lạc và không có súng. Chúng tôi giao cho ban 2 tiểu đoàn để điều tra.
Chính trong những giờ phút dừng lại để bắt giữ người lính kia, sau này tôi mới
biết đã cứu mạng cho toàn thể trung đội tôi. Vì trong khi chúng tôi dừng lại, đại
đội 73 phía tay phải vẫn tiến tới để bắt gặp con đường mòn cách đó trăm thước
và chính trong lúc này thì trận đánh bắt đầu, phía tiểu đoàn bộ binh và đại đội
73 súng đại liên nổ ròn rã không dứt, chúng tôi vội vã dàn hàng ngang chờ đợi.
Đạn bay trong không khí về phía chúng tôi, lá cao su trên đầu bị bắn tung bay
xào xạc, đạn ghim vào thân cây nghe phầm phập, có tiếng hô xung phong nhưng
không thấy bóng dáng của địch. Đại đội trưởng tôi hét lớn trong máy:
- Bên bộ binh và 73 đều đụng nặng, anh có chịu nổi không?
- Báo cáo tôi vô sự.
- Coi chừng, tụi nó đánh độn thổ! Bộ binh bị phục kích rồi đấy.
Mười lăm phút sau, đại đội 73 từ bên cánh phải rút về phía chúng tôi. Toàn bị
thương, người nhăn nhó đau đớn, hắn phều phào...
- Mày coi chừng, tụi nó sắp xung phong vào đấy.
- Tao đâu có thấy gì?
Một rừng lá cây chuyển động trước mặt, vài bóng dáng áo đen thấp thoáng. Trung
đội tôi và Kỳ đồng loạt khai hỏa, năm mươi cây súng bắn ra một lượt, khói hơi
thuốc súng bay nồng nặc. Chúng tôi tiến quân từ từ lên sau mỗi đợt tác xạ. Tôi
giật nẩy mình, một hàng giao thông hào mới đào, lá cây ngụy trang còn xanh
tươi, vỏ đạn rơi đầy ở trên mỗi miệng hầm, đúng là một phép mầu... Việt cộng đã
đào hầm hố để phục kích chúng tôi, may nhờ người lính bị bắt nên trung đội tôi
đã dừng lại và vô tình tránh được cái bẫy đang chờ. Bây giờ mới hiểu tại sao có
loạt đạn bắn về phía chúng tôi nhưng không có địch xuất hiện. Việt cộng sau khi
đã chận đầu tiểu đoàn bộ binh và chúng tôi, vòng ra đàng sau đánh tạt vào hông
phải của tiểu đoàn nơi đại đội chỉ huy và 74. Mặt trước của chúng tôi và 73 tạm
yên, tôi cho lính chiếm hết dãy giao thông hào, một vài xác Việt cộng chết
trong vị thế đang chạy, họ thuộc lính chính quy trang bị đầy đủ súng đạn nhưng
không mang gạo. Đúng là tụi nó sửa soạn sẵn để đợi chúng mình... Lính xì xào
bàn tán. Phía sau chúng tôi bây giờ súng nổ mạnh, 57 của tiểu đoàn bắn ra liên
tiếp, đạn nổ tiếp theo liền tiếng départ chứng tỏ địch rất gần hàng quân. Tôi
nghe rõ tiếng hô xung phong của hai bên chen lẫn tiếng chửi thề... Toàn từ dưới
chạy lên...
- Mẹ kiếp, bị thương nằm cũng không yên, tụi nó tới sát rồi mày ạ!
- Ông xui quá ông ơi, đi đâu là đụng đó. Ông tới chỗ nào cũng có máu chảy...
- Mẹ mày - Nó chởi thề phản đối.
Đúng như vậy, đi chiến đấu mới thấy có may rủi không lường. Có những cái chết
thật gần, nhưng tránh khỏi, đồng thời có những cái chết thật bất ngờ, tự nhiên
đến không dấu hiệu. Tôi đâm tin vào định mệnh, về một sức mạnh siêu hình chi phối
đời sống con người. Như cái chết của thằng Phòng hai ngày trước. Buổi chiều
chúng tôi đang ngồi nói chuyện gẫu với nhau, nó từ đâu lại ngồi đối diện với
tôi. Chính ngay lúc đó, một viên đạn vu vơ từ ngoài hành rào phòng thủ bắn vào,
nó chết trong khi đang mở miệng định nói. Cái chết ấy đã làm tôi thấy rõ đời sống
nhỏ nhoi, bèo bọt của kiếp người. Sống đó, chết đó, nào ai biết... Cũng như trường
hợp hôm nay, nếu không bắt gặp người lính bộ binh, chắc chắn tôi và hai khinh
binh đi đầu sẽ hứng hết đoạn đạn đầu tiên khi địch khai hỏa. Và nếu tôi có chết
đi, thì có gì thay đổi? Tôi không có gia đình, không thân thích. Cái chết chỉ
là bọt sóng nhỏ vỡ tan trong đại dương...
Địch định cắt đôi tiểu đoàn chúng tôi, nên chúng tấn công thật mãnh liệt vào đoạn
giữa, đại đội chỉ huy phải chống lại vô cùng vất vả, 74 đi chót lại bị cầm chân
nên không thể kéo lên gỉai toả áp lực địch được. Tiểu đoàn trưởng phải gọi pháo
binh bắn thật gần tuyến chiến đấu... Gunship được gọi đến tăng cường. Đại uý
Ánh, sĩ quan hành quân của tiểu đoàn trong khi đứng quan sát để hướng dẫn phi
cơ bị một viên đạn vỡ tan lồng ngực. Tin ông chết làm mọi người bàng hoàng, ông
được cảm tình của hầu hết mọi người vì tánh tình hòa nhã, riêng tôi, những lần
trước khi phải trình diện tiểu đoàn trửơng để nhận lệnh phạt thường phải gặp
ông, trong những giây phút nặng nề đó, lời nói nhẹ nhàng của ông như một an ủi
làm nhẹ đi nhiều phiền muộn. Tôi không biết ông nhiều, nhưng nhớ đến những buổi
chiều, ông đứng ở bờ sông Biên Hòa trông cô đơn và lặng lẽ lạ lùng. Đại tá Tư lệnh
và Bác sĩ Y sĩ trưởng sư đoàn đáp máy bay xuống trận địa còn nồng mùi thuốc
súng. Tôi thấy nét mặt cuả bác sĩ Của cau hẳn lại khi ông đến gần xác đại uý
Ánh. Tiểu đoàn tiếp tục di chuyển đến cầu Bến Mương bên kia là bãi nhảy Củ Chi,
cầu bị sập binh sĩ phải qua từng người một. Trung đội tôi ở lại cuối cùng để bảo
vệ tiểu đoàn qua cầu. Trời ngã về chiều và khi chúng tôi nhận được lệnh rút đi
thì địch từ mé làng xung quanh bắt đầu bắn ra. Những viên đạn đỏ vạch từng đường
đài trong bầu trời thẫm màu, biết chắc rằng chúng chỉ bắn phá quấy chứ không thể
tấn công vào chúng tôi được. Khẩu đại liên của trung đội qua cầu được đặt trên
một mô đất nhắm về phía làng, cứ chỗ nào nháng lưả là người xạ thủ bắn lại phía
đó. Trận đánh như trò chơi, Việt cộng trong làng chõ loa ra chưỉ bới, tôi đứng
trên mô đất khum tay làm loa chửi lại. May mắn trong suốt cuộc hành quân làm
tôi tin tửơng vào mình hơn bao giờ hết. Quả thật vậy, khi trung đội qua hết con
suối trời tối hẳn, Việt cộng từ trong làng chạy ra lố nhố... Chúng tôi vừa bắn
vừa chạy lùi về phía Củ Chi. Bãi nhảy dù bát ngát phủ đầy lá đậu phọng, trung đội
chạy nhanh để đuổi kịp toán quân đi đầu, ai nấy đều vui vẻ vì cho rằng đã được
may mắn. Khi ra đến đường ba người lính trút ba-lô ra, ba-lô bị đạn xuyên thủng
lỗ chỗ.
- Đ.m hên đếch chịu được, đạn trúng giờ nào mà không hay!
- Nhờ cái hên của ông thiếu uý đó mày.
Tôi leo lên xe ngồi, trời tối đen ở bên ngoài, trong lòng xe muỗi vo ve nhưng
không buồn cử động để đuổi đi. Đời sống người lính qủa thật tội nghiệp, trong tận
cùng nguy biến họ luôn tạo cho mình hy vọng dựa vào một may mắn mỏng manh...
Bao giờ hết may mắn đó sự chết ắt gần kề chạm phải. Đời sống của chúng tôi đó,
trên biên giới sự sống, cái chết.
Tháng 9-1964. Bến Cỏ, Bình Dương
NỖI SỢ KHÔNG CÙNG
Tiểu đoàn
đợi tại Bình Dương suốt cả ngày, lính vui đùa trong các quán nước, người tôi nặng
như đá đeo, nằm lì một chỗ. Gặp Tánh khóa 17, rủ thêm hai anh Hợp và Ký kéo
nhau vào ăn cơm ở ngôi nhà cạnh đường, bữa cơm không hẹn trước hóa ra ngon.
Trong câu chuyện của giây phút này thì nghe tin Vũ chết. Cuộc hành quân của
chúng tôi nằm trong khuôn khổ một chiến dịch lớn, xử dụng ba tiểu đoàn Nhảy dù
và một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến để làm giảm áp lực địch phía đông bắc tỉnh
lỵ Bình Dương, phần đất của quận Bến Cát. Tiểu đoàn của Vũ đi trước chúng tôi
hai ngày, từ ngày N-2 (1) của cuộc hành quân, đến lượt tiểu đoàn chúng tôi và
tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến vào trận, lực lượng sẽ lục soát từ bắc xuống
nam dọc theo sông Thị Tính nằm song song với quốc lộ 13... Vũ, người sĩ quan Thủ
khoa khóa tôi, ở cùng phòng với nhau, anh thuộc loại người đứng đắn, cẩn thận,
dễ gây lòng tin cho kẻ khác, người sinh ra để chỉ huy hoặc chịu chỉ huy, trong
khi tôi là một lông bông không nghiêm nghị. Năm thứ hai Vũ trở thành sinh viên
sĩ quan Liên đoàn trửơng, tôi kẻ đứng gần chót trong số 191 người cùng khóa.
Cái hố cách biệt giữa tôi và Vũ từ đó xa hẳn ra mặc dù vẫn ở chung đại đội.
Nhưng nghe tin Vũ chết, những gần gũi năm đầu tiên trở lại mênh mang, đêm Giao
thừa đầu tiên xa nhà Vũ nướng hai cái lạp xưởng, mùi thơm bay đầy phòng, tôi phải
lấy chăn trùm lấy Vũ cùng chiếc réchaud vì sợ khóa đàn anh bắt gặp. Đêm đó, lần
đầu tiên trong hai tháng gần nhau Vũ mới nói cho tôi biết một vài chi tiết của
đời anh. Người con gái thường đến thăm anh không phải là em gái, nhưng là
fiancée. Vũ thật kín đáo.
Tin Vũ chết đưa lại như cơn gió độc, tôi bỏ dỡ bữa cơm ra đứng cạnh quốc lộ,
nghĩ thầm... Bao giờ đến lượt mình? Tiểu đoàn Vũ còn có Trang và Lô, không hiểu
có gì xảy ra cho chúng nó không?
Sáu giờ chiều, đoàn xe khởi hành, đoạn đường Bình Dương — Bến Cát hơn hai mươi
cây số nhưng đầy hiểm nghèo. Trời tối, xe để đèn mắt mèo, tốc độ hạn chế mười
cây số một giờ, con đường bị đào xới nát bấy, chiếc GMC di chuyển khó khăn. Quốc
lộ 13, con số xui xẻo, đoạn đường khốc liệt nhất trong cuộc chiến tranh trước
cũng như bây giờ, con đường nằm ngang chiến khu D, những mật khu kiên cố Bầu
Bàng, Bời Lời, vùng trú quân an toàn để từ đấy địch xâm nhập và uy hiếp xuống
hai tỉnh Gia Định, Biên Hòa. Trời tối hẳn, đoàn xe phải dừng lại chờ thiết giáp
hộ tống lên dẫn đường và phá mô. Tôi không sợ phục kích nhưng sợ mìn, vũ khí khốc
hại với sức tàn phá khủng khiếp. Việt cộng vùng Bình Dương, Bến Cát, nói chung
toàn miền Đông nổi tiếng về tài đánh địa đạo và gài mìn. Việt cộng ở Long An
cũng thiện nghệ trong việc gài bẫy, nhưng ở đấy bẫy chỉ gài bằng lựu đạn nội
hóa hoặc mìn muỗi. Vùng này địch đã biến chế các trái đạn súng cối 81 ly, 82 ly
thành những trái mìn chống chiến xa vô cùng công hiệu. Quốc lộ 13 con đường
mang số của sự chết đã đóng trọn nghĩa đó. Xe hàng từ Ban Mê Thuộc về chất đống
ở Chơn Thành, hoặc đi từ Sài Gòn thì đợi ở Bình Dương hằng hai ba ngày bao giờ
có chuyến mở đường mới dám tháp tùng theo.
Xe bắt đầu chuyển bánh nhận được lệnh ở trong máy truyền tin: Có quân bạn đóng
dọc đường để an ninh lộ trình. Lệnh gây tin tửơng cho mọi người, tuy vậy xe vẫn
để đèn mắt mèo; tôi hút điếu thuốc lá đầu tiên cho chuyến đi. Những lúc thế này
thuốc lá thật cần thiết, ngồi trong đêm, chiếc xe chạy với một nhịp buồn nặng,
không nhìn thấy một điều gì, rừng cao su hai bên đường thăm thẳm... Người sống
trong một khung cảnh chết, ngọn lửa đầu điếu thuốc thật linh động; nhìn nó như
dấu vết của một phần thân thể đang sống, đang mở ra. Yêu vô ngần. Bây giờ mới
biết tại sao phần đông lính đều hút thuốc nếu không nói là hầu hết. Đi lính là
nhập vào một sinh hoạt ồn ào nhưng mênh mông cô đơn, điếu thuốc như một người bạn
âm thầm. Tôi đã đi qua con đường này vào tháng Bảy trong trạng thái kiệt quệ
tinh thần, bây giờ những ray rứt ngày cũ đã hết, nhưng thoáng đâu đây dấu tích
mệt mỏi của những ngày phung phí tinh thần, ngày cần kề cái chết khi bị Việt cộng
ra đón đường xét giấy, tôi đã bình tĩnh dửng dưng lừa bịp những tên Việt cộng,
trong khi trong người đầy giấy tờ và tang vật của nhà binh. Sẽ không còn một lần
liều lĩnh nào như vậy trong đời nữa, em biết chăng? Đến Bến Cát lúc mười một giờ
đêm, ngủ ngay trên quốc lộ, trãi poncho xuống mặt nhựa, cởi chiếc giày cho dễ
chịu, thầy trò tôi nằm lên, thao thức không ngủ được. Đêm mùa khô của miền Nam
trời trong vắt, sao sáng rực và một ít lạnh, lạnh của miền cao nguyên thổi về.
Giá rét se sắt như kỷ niệm.
Ngày hai mươi ba tháng mười một, bốn giờ sáng trời đầy sương mù, thức dậy không
thể ngủ tiếp được, mặt nhựa khô cứng lạnh ngắt, hơi lạnh của rừng núi, cuả mặt
đất bốc lên tê cóng. Tôi đã tỉnh giấc từ lúc hai giờ sáng, một đêm thiếu ngủ
người hóa thành phờ phạc. Cũng ngày này, năm trước, tôi ra trường.
- Mẹ, "nó" kêu mình lên hành quân mà không cho ngủ trong quận, lại
đút ra ngoài đường nằm, nó coi mình như chó.
Tên lính chửi thề vu vơ, không biết "nó" ám chỉ những ai.
Bảy giờ, vượt tuyến xuất phát, tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến đi bên trái, tiểu
đoàn chúng tôi đi bên phải, mục tiêu là khu vực giới hạn bởi hai con sông, Sài
Gòn ở phía đông, Thị Tính ở phía tây. Phía bắc là khu đồn điền Alimot, Bussy.
Tám giờ, đường đi bắt đầu khó, bản đồ chỉ là rừng thưa, nhưng thực tế cây bắt đầu
lớn, cây chỉ cao trên dưới ba thước lớn bằng cổ chân nhưng đan sát vào nhau, rậm
rạp chỉ đủ để một thân người lách đi rất khó khăn. Dao đi rừng không xử dụng được.
Có hàng ngàn cánh rừng chúng tôi đã đi qua, nhưng loại rừng quái quỉ bé nhỏ này
thật quá khó chịu, lấy hướng địa bàn, hai khinh binh đi đầu cúi khom mình bò
qua các hàng cây, tôi bò tiếp theo... Một giờ qua, chiếc cổ tưởng chừng như muốn
gãy đôi, cành cây đánh vào nón sắt nghe đến ù đầu. Tiến quân về hướng đông,
xong vòng xuống hướng nam, đêm nay đóng quân ở đồn điền ông Thịnh. Trời đã chiều,
dừng quân ăn cơm tối, bảy giờ tiếp tục đi, lấy lá rừng có chất lân tinh dán vào
lưng người trước, người sau nương theo. Quân tiến ra khu đồn điền cao su lối đi
rộng rãi. Đi thế này thì bao nhiêu chẳng được, địch cũng thế thôi, sở dĩ họ có
được sức dẻo dai chịu đựng vì có cái thế, hoàn cảnh để nương vào... Tôi nghĩ
lan man trong bóng tối.
So sánh với nỗi khổ cực phải di chuyển trong một khu rừng rậm không lối đi lúc
ban ngày với cuộc chuyển quân ban đêm như thế này thì thật không thấm vào đâu.
Việt cộng có thể di chuyển hằng hai mươi, ba mươi cây số một đêm không có gì lạ
vì họ được đi trong bóng mát, trên đường mòn có cán bộ giao liên hướng dẫn. Đến
khu đồn điền, bố trí quân, trãi ngay poncho xuống đất, khỏi làm lều... Ngủ cái
đã. Từ bốn giờ sáng đến giờ, phải luôn luôn đứng hoặc đi nên khi vừa đặt lưng
xuống đất tôi ngủ thiếp.
Ầm... Ầm... Hai tiếng nổ chát chúa, lửa lóe sáng rực. Pháo kích! Pháo kích! Tôi
lăn xuống chiếc hố, nằm im chờ đợi. Tất cả trở lại im lặng, không phải pháo
kích. Việt cộng ném lựu đạn. Một trung đội thuộc đại đội 74 đóng sát bìa làng
đã chui vào trong mấy chiếc chòi để nấu cơm, Việt cộng ẩn trong hầm bí mật tung
lựu đạn ra để thoát chạy. Bác sĩ tiểu đoàn được đưa đến tận chỗ, hai chết, mười
chín bị thương. Thật xui xẻo, chưa làm ăn gì được đã mất toi một trung đội.
Ngày hôm sau, tiểu đoàn bỏ lại khu đồn điền, tiếp tục đi vào hướng đông, phía rừng
rậm. Biết được tình hình, chỉ là du kích đồng thời để tiến quân nhanh hơn. Tiểu
đoàn trưởng quyết định chia hai cánh quân. Đại đội tôi đi đầu một cánh, trung đội
lại đi đầu. Thêm một ngày phải đi kiểu bò như cua còng nữa, lính càu nhàu. Buổi
chiều, đoàn quân lại đâm xuống hướng nam để tìm chỗ đóng quân. Ra làng rồi đấy
phải coi chừng. Tôi dặn dò mấy người khinh binh đi đầu, hai trái lựu đạn tối
hôm qua làm tôi e ngại, tình cảnh này chứng tỏ địch đã bám sát chúng tôi. Nếu
có lực lượng lớn, chúng đã đụng với chúng tôi từ trong rừng, đây chỉ là du kích
cố bám sát để làm tiêu hao phá quấy lực lượng hành quân. Khu làng trước mặt hiện
ra trống trải tôi thở hơi khoan khoái, ném nón sắt xuống đất, quay chiếc cổ tê
mỏi một cách khó nhọc.
- Ra đến làng, coi chừng mìn và lựu đạn nghe các ông, Việt cộng vùng này là vua
gài mìn đấy.
Tôi dặn thêm mấy lượt rồi dè dặt cho ba khinh binh tiến ra làng trước. Phía bên
trái, đại đội 74 cũng cho một toán ra thám sát. Tôi thấy mấy người lính của đại
đội này thấp thoáng trong tàng cây. Tiếng cuả thằng Chắc "tây lai" bô
bô, một tiếng nổ kinh khiếp khói bốc lên đen nghịt.
- Chết tôi rồi! Thằng Chắc kêu thất thanh.
- Mìn gài trên cây, kêu y tá. - Thiếu uý Đông kêu rối rít.
- Y tá theo nó cũng bị thương rồi!
Tôi nhìn lên cành cây, bây giờ nơi nào đối với tôi cũng đầy mìn bẫy, tay chảy ướt
mồ hôi, chân như muốn tê dại...Tôi ngồi im bất động. Mìn, thứ khí giới vô hồn
đó làm tôi nghẹt thở, đối diện với một họng súng, một tên địch tôi có thể xem
thường vì dù sao còn chủ động, đối phó được nhưng đây là mìn và lựu đạn, vũ khi
ti tiện vô hồn được che dấu thật kỹ càng và sẵn sàng để nổ tung. Tôi thấy sợ, sợ
thật sự, sợ cho chính mình, cho những người lính dưới quyền. Tôi ao ước được đụng
độ, đụng ngay ở bìa rừng này, bất kể lực lượng địch bao nhiêu cũng được, nhưng
hãy cho tôi một người trông thấy được; tôi sợ vẻ im lìm ngặt nghèo bí mật của
trái mìn.
Trời tối, lệnh tắt hết lửa, toàn thể tiểu đoàn chìm xuống im lặng không tiếng động.
Ở cánh trái chúng tôi bây giờ có tiếng người và ánh lửa, tiểu đoàn 4 Thủy quân
lục chiến ra đến vùng đóng quân. Thình lình những tiếng bục, bục, vang dội từ phía
nam... Đúng là súng của địch bắt đầu bắn. Tiếng đạn rít trong không khí bay qua
đầu chúng tôi. Chờ đợi, đạn nổ phía đóng quân của tiểu đoàn bạn. Pháo kích,
pháo kích... Binh sĩ xì xào chạy xuống hầm. Đừng hoảng. Tôi bấm vào máy truyền
tin liên lạc với hai toán tiền đồn ra lệnh đề phòng và trực máy. Tôi nằm yên
trong hố, thân cây chuối trên miệng hầm lúc bây giờ qủa thật quá mỏng manh, ao
ước một gốc cổ thụ, một cây đa che chở. Sợ, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Tôi biết
mình đang sợ hãi. Cảm giác buổi chiều khi nghe tiếng mìn nổ trở lại, tôi tưởng
chừng như trong bụi chuối, góc nhà có một tên địch đang lẫn trốn, chờ đợi thời
cơ hỗn loạn sẽ nhảy ra, trái lựu đạn sẽ nổ về phía tôi... Đấy là một sợ hãi vô
lý, tôi biết vậy, nhưng thật chính là mục đích của địch trong chiến thuật tiêu
hao dần lực lượng của đối phương. Theo dõi, bắn sẻ, gài mìn, đặt bẫy trên hướng
tiến quân, đột kích vào vị trí đóng quân đêm, pháo kích, đó là những phương
cách có hiệu qủa nhất để làm tan hoang tinh thần cũng như sức chiến đấu của một
đoàn quân. Tôi nghe rõ những tiếng départ của súng cối địch từ xa, khô gọn và
tàn ác như lưỡi dao chém xuống thớt. Nổ ở đây? Hay chỗ kia? Địch có điều chỉnh
không? Chúng có rõ tiểu đoàn chúng tôi đông ở đây không? Sau mỗi tiếng départ
tôi chờ đợi tiếng nổ của trái đạn với căng thẳng đun nóng trí não. Tôi thở dài
nhẹ nhõm mỗi khi nghe được tiếng nổ ở phía xa, phía đơn vị bạn. Tàn ác, ích kỷ?
Có thể là như thế, nhưng tôi không thể nào chịu đựng được giây phút trống rỗng
khi qủa đạn đang bay, tôi ao ước được đụng độ, để giữa tiếng đạn nổ, hơi thuốc
súng tôi có thể di động giữa cái sống và cái chết với ý niệm có tự do được chọn
lựa. Trong chờ đợi cuả quả nổ đã biến tôi co cứng khiếp sợ hèn mọn. Ai không
hèn mọn khi bó tay trước một cái chết không tự do.
Pháo binh từ Bến Cát phản pháo chính xác làm im súng cối địch, trực thăng đến,
di tản thương binh, ánh đèn đỏ của chiếc máy bay lập lòe trong đêm ma quái, tôi
nghĩ đến tên Việt cộng bắn súng cối vừa rồi nếu giờ này chưa chết vì đạn pháo
binh chắc hẳn hắn đang hãnh diện vì kết quả vừa thu được. Chiến tranh quả thật
tàn bạo, lấy cái chết cuả những người mình không thù oán làm thành quả cho bản
thân. Tôi không ngủ, mong trời mau sáng để được rút ra quốc lộ 13. Cuộc hành
quân này ngắn sao tôi thấy mệt mỏi vô hạn, có lẽ vì ba đêm thiếu ngủ hay thần
kinh bị căng thẳng bởi cơn khiếp sợ chờ đợi. Buổi trưa khi tiểu đoàn qua mặt tiểu
đoàn 4/ TQLC, đơn vị nòng cốt của ngày 1-11-63. Ở tiểu đoàn này tôi không có bạn
thân, chỉ biết có mấy anh ở khóa trước làm đại đội trưởng, trong số sĩ quan tôi
chú ý một thiếu uý, người cao cân đối, khuôn mặt đều đặn và nhất là đôi mắt xao
xuyến. Vào tháng mười hai, tiểu đoàn 4/TQLC đụng nặng ở Bình Gĩa, không hiểu bạn
ấy có sống sót hay không? Đã bao nhiêu lâu, một buổi chiều ở Biên Hòa tôi thấy
anh buồn bã và u uất. Trong đời tôi hay bị xúc động bởi những nguyên nhân bất
chợt, nên sau này bao nhiêu tháng năm qua tôi vẫn nhớ đến đôi mắt thăm thẳm của
người lính không quen đó... Người bạn không quen ấy có còn không trong chiến
tranh?
Tiểu đoàn vượt sông Thị Tính trong buổi chiều, đi trên chiếc phà của Công binh
vừa lắp xong thấy bóng mình lung linh vỡ tung trên dòng nước, bềnh bồng như một
kiếp người mỏng manh. Quốc lộ 13, xe chờ sẵn, một đại đội của sư đoàn 5 bộ binh
giữ an ninh bãi lên xe. Tôi thấy họ thật tội nghiệp trong khi nhìn chúng tôi
lên xe.
- Các anh bây giờ về Sài Gòn, vui há? - Lính chúng tôi gật đầu hãnh diện...
- Mấy anh thật sướng, đi hành quân ở đâu nhưng cũng được về nhà ở thành phố,
chúng tôi ngủ bờ ngủ bụi suốt cả năm...
Xe chạy, chúng tôi vẫy tay chào, nhìn những bàn tay đưa lên chào lại băn khoăn.
Dọc đường lính đơn vị bạn giữ an ninh lộ trình, có người đưa tay lên vẫy chúng
tôi. Tội nghiệp, họ vẫy chào thành phố chúng tôi sắp đến. Thành phố - Thủ đô...
Những nhọt bẩn ung mủ trên quê hương đối với lính sao vẫn còn quyến rũ.
Xe chạy qua tỉnh B, nhìn con đường hẻm dẫn vào nhà em, lòng thoáng thấy cay đắng
như vết thương chưa khép ngâm xuống nước biển mặn.
Tháng 11-1964. Bến Cát, Bình Dương
ĐỂ TẬP LÀM NGƯỜI
Chiều hôm
nay là chiều mồng năm Tết, tiểu đoàn chúng tôi được rời khỏi cái nóng như thiêu
như đốt của Sài Gòn... Không có chút không khí của mùa xuân, thành phố đang sôi
sục xuống đường, biểu tình, đảo chánh. Máy bay xuống phi trường Vũng Tàu trong
ánh nắng dịu dàng của đầu xuân và bên kia là biển. Bao lâu rồi mới thấy lại cây
dương liễu, cát trắng và mùi gió biển. Cảnh sắc và mùi vị của tuổi thơ sau thời
gian dài xa cách. Tối giao thừa vừa qua là một giao thừa hạnh phúc nhất cuả thời
gian dài mười năm trong tuổi lớn... Những giao thừa năm xưa, đêm khuya gió lạnh
trên đỉnh Hải Vân... Mây phủ kín lưng đèo và tôi co quắp trong một khoang xe vận
tải dơ dáy chết máy nằm cạnh sườn núi với cô đơn của kẻ không nhà. Bẩy giao thừa
qua chém trong đời tôi những lát dao để gây nhức nhối, để suốt đời nhớ mãi, như
một vết chàm khắc sắc vào xương. Nhưng giao thừa vừa rồi thật đầy đủ, bạn bè,
em gái tôi và tình yêu của một cô gái nhỏ, bánh mứt, tiếng cười giọng nói vang
đầy căn phòng trọ. Cám ơn tất cả, tôi đi đây, bỏ lại năm ngày ứng chiến tại Sài
Gòn. Tôi mang hết cả niềm vui của một đêm giao thừa hạnh phúc theo suốt mùa
xuân.
Bốn giờ sáng, quân xuất phát từ Phù Mỹ tiến vào mật khu Hắc Dịch. Trung đội tôi
dẫn đầu đại đội, đại đội dẫn dầu tiểu đoàn. Lính làu nhàu:
- Trung đội từ ngày có mặt thiếu uý về đến bây giờ cứ phải đi đầu hoài!
- Tao muốn thế đâu, đi đầu ngán thấy mẹ chứ thích quái gì, nhưng gắng đi mấy
cha...
Rừng già, đi không khó, quân tiến nhanh như đi trên khoảng trống. Trước mặt
chúng tôi hai tiểu đoàn 5 và 6 Nhảy dù đang được trực thăng vận để kìm Việt cộng
lại. Chúng tôi có nhiệm vụ làm thành phần chận bít, không cho Việt cộng chạy
thoát ra hướng quốc lộ 15. Mặt trời lên cao, rừng bắt đầu nóng, lớp cỏ tranh bị
cháy rải tro dày lên mặt đất, bước chân người lính quấy những lớp bụi đen nghịt,
mồ hôi chảy đầm đìa dính theo từng lớp tro lem luốc, ngứa ngáy không chịu được.
- Anh cố coi thử có con suối nào không? - Đại đội trưởng liên lạc trong máy ra
lệnh tôi.
- Bản đồ tôi loại 1/100.000 nhỏ quá chẳng thấy có con suối nào cả, địa thế cũng
không có vết suối...
- Bảo mấy thằng con giữ nước coi chừng kẹt nước...
Đến chiều cả tiểu đoàn kiệt sức, nước không có, phải di chuyển gần mười cây số
đường rừng, lính bãi hoãi tửơng như xô nhẹ cũng đủ ngã. Lệnh cho đóng quân đêm.
Chẳng cần làm lều, bố trí trung đội xong, tôi nằm vật xuống đất, mệt, đói và
khát nước đến muốn ngất. Có chút cơm nắm mang theo nhưng không dám ăn vì không
có nước, bi đông còn một tí nước, tôi uống từng ngụm nhỏ chỉ vừa đủ ướt môi.
Bên kia, hai tiểu đoàn 5 và 6 đụng địch, chúng tôi nghe rõ tiếng súng nổ từng hồi,
súng của ta lẫn Việt cộng, trực thăng võ trang được gọi đến, tiếng động cơ cùng
tiếng súng vang đầy khung trời.
- Thiếu uý, ăn cơm không? - Thái, thằng bé theo làm cho tôi, chìa một lon cơm
nóng...
- Ở đâu mày có được?
- Em nấu buổi chiều, lấy nước từ rễ cây .- Tôi nhai từng miếng cơm nhỏ sợ tan
biến thật nhanh ở trong mồm...
- Liệu Việt cộng có đánh vào tiểu đoàn mình không thiếu uý?
- Nó đánh mình mới có hy vọng rút ra được, nếu không cứ nằm thế này thì chết
khát.
- Em cũng nghĩ như vậy...
Đêm mùa khô, trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm nước nhỏ tôi
tỉnh người, đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai vào máy truyền tin xem
chừng các toán phục kích... Bên phía hai tiểu đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác
liệt, chưa bao giờ tôi thấy Gunship đánh trận đêm nhiều đến như thế.
Quân rút ra đi như một lũ ma đói, hai ngày hai đêm thiếu nước và mất ngủ, mọi
người phờ phạc trông thấy. Trung đội tôi đáng lẽ dẫn đầu trở ra lại phải đi
chót tiểu đoàn, đại đội 73 đi đầu, trung đội của Toàn vừa đi được hai mươi thước
đạp phải một trái lựu đạn, hai chết, hai bị thương. Mấy thằng lính của trung đội
tôi cười như mếu. May quá, mình đi đầu là chết rồi! Tôi cũng nhủ thầm mình có số
mạng...
Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội hình, ý tứ gì nữa, hai ngày vừa qua
có được bốn muỗng cơm, người tôi không còn một sức lực nào nữa... Tôi dặn lính:
- Tụi mày cứ theo trung đội trước mà đi, sát vào nhau đừng để lạc.
Đầu gục xuống, súng vác trên vai, tôi thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc
mồm há thật lớn, chiếc lưỡi căng phồng, nhức nhối và đôi môi khô không còn chút
cảm giác. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi, bay đầy vào mồm, không còn tí nước
bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng tro đen! Quốc lộ
15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường, tôi úp chiếc mặt vào dòng nước đục ngầu
phủ lớp bùn non... Uống! Uống! Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới
mồng tám Tết.
Về đóng quân ở quận Đất Đỏ, trong vườn cây vú sữa xanh tươi bóng mát. Tôi căng
võng đọc sách, cho lính đi mua gà về nhậu với rượu đế, ngà ngà say suốt ngày. Nắng
như thêu hoa trên áo, những ngày thật bình yên. Nhưng đêm thì thao thức không
ngủ được, những hôm trời trăng sáng đem lính đi phục kích nằm trong rừng tiêu,
cây tiêu dưới bóng trăng lạnh trông như những bóng ngườikhổng lồ. Vẻ đẹp của
khu vườn chứa đầy bí ẩn kinh dị. Chim heo bay qua kêu từng tiếng thật ai oán và
tôi nhớ em, tình yêu đã mất. Ôi tôi đã xa em từ tháng Bảy năm 1964 đến giờ...
Xa em quá lâu rồi đấy hở? Sao lòng tôi vẫn thao thức nhớ thương đến độ điên cuồng.
Cả ngàn đời em cũng không biết được tình yêu đó.
Ngày 19 tháng Hai một giờ sáng tiểu đoàn nhận lệnh trở về Sài Gòn, cho lính lên
xe trong đêm tối, lính yên lặng không kinh ngạc. Có quái gì đâu, những trò hề
này chúng tôi đã quá quen! Đảo chánh, chỉnh lý hay cái gì đi nữa cũng chỉ vậy
thôi, chúng tôi vô can, đứng ngoài.
- Đ.m... Về Sài gòn lại đứng đường, gác chợ nữa như thằng ăn mày.
Tiếng chửi thề rơi vào im lặng, mọi người còn ngái ngủ. Sáu giờ sáng vượt cầu
Phan Thanh Gỉan, xuống xe, quân tiến vào Đài phát thanh. Đại đội tôi có nhiệm vụ
dẫn đầu... À, chuyến này tôi làm "cách mạng" thực sự rồi. Những chiến
sĩ can trường đã đánh bật quân phiến loạn ra khỏi Đài phát thanh trong buổi
sáng hôm nay! Mẹ đời, coi chừng Đài phát thanh lại gọi đích danh tôi để ca ngợi
không chừng... Tiến vô, thôi đánh trong thành phố với người anh em một lần cho
biết. Trung đội tôi chạy luồn vào con đường nhỏ để đâm ra đường Phan Đình
Phùng... Đến ngã ba, nơi rẽ tay trái hướng Đài phát thanh, hai tên khinh binh
chạy đằng trước tôi thối lui lại...
- Thiết giáp! Thiết giáp! Thiếu uý khoan ra đã...
- Đ.m... Tao đâu có ngu, đạn 12 ly 7 đụng vào là hết chữa, chết cái này lãng xẹt
đếch có tuyên dương công trạng được.
Tôi báo cáo với đại đội trưởng tình hình rồi xin mượn khẩu SKZ 57 ly. Tôi hỏi
ông ta:
- Bây giờ tôi khai hỏa xông thẳng vào Đài phát thanh hay sao?
- Bậy! Bậy! Chết bây giờ, xông con c... Đợi đó để tôi hỏi ý kiến tiểu đoàn...-
Ông ta trả lời như thét.
Lệnh cuối cùng: Không được khai hỏa trước, chỉ sẵn sàng tìm cách vào Đài phát
thanh và chiếm mấy cái xe thiết giáp một cách yên thấm...
- Sao làm vậy được? Xe nó bằng sắt chứ phải bằng giấy đâu mà tôi lấy khơi khơi?
- Tôi phản đối đại đội trửơng.
- Tôi không biết, lệnh trên người ta kêu xuống như vậy.
Tôi chửi thề với mấy thằng lính...
- Đ.m... Muốn đảo chánh thì tới đây mà chiếm Đài phát thanh, mắc mớ gì kéo tụi
mình vào.
Tôi bò sát chân tường, liếc về phía Đài phát thanh để quan sát: Hai chiếc thiết
giáp đậu im lìm chỉa súng về phía chúng tôi một cách đáng ngại, cửa các pháo
tháp đóng kín chứng tỏ ở trong đó đang sẵn sàng... Những cửa sổ trên lầu Đài
phát thanh lấp ló họng súng và những chiếc áo xanh của lính bộ binh. Tôi bò lui
báo cáo với đại đội trửơng:
- Lên không được! Cả tiểu đoàn có lên cũng chết nữa chứ đừng nói một trung đội
tôi.
- Anh cố làm sao vào trong đài đi!
Tôi mở máy phân bua với mấy thằng lính:
- Đại uý bảo gắng vào đài, thằng nào muốn làm ca sĩ thì thử liều đi! - Mấy tên
lính lắc đầu cười méo mó...
Tôi bò ra ngã ba một lần nữa, bây giờ cửa của hai chiếc thiết giáp đã mở, mấy anh
lính thiết giáp leo lên ngồi im lìm... Tôi bớt ngại, tháo chiếc khăn đỏ ở cổ ra
phất phất mấy cái, mấy anh lính bộ binh từ trên đài đưa tay phất lại. Lính thiết
giáp thì thầm hỏi ý kiến nhau. Tôi lấy tay chỉ vào người tỏ ý muốn vào đài, mấy
anh thiết giáp gật đầu. Tôi chỉ vào chiếc xe và lấy tay đánh vào đầu tỏ ý sợ bị
bắn, mấy anh trên xe cười rộ ngoắc tôi vào trong, tôi đứng dậy đi về phía mấy
chiếc xe, mồm cười thật tươi...
- Sao không có gì chứ bạn?
Tôi hỏi mấy người lính ngồi ở pháo tháp. Có mẹ gì đâu, tự nhiên bắt giữ Đài
phát thanh thì giữ chứ biết gì? Tôi ngoắc tay ra dấu cho trung đội tôi chạy vào
đài, lính vừa chạy vừa kháo chuyện cứ y như trẻ con chạy đua. Lúc vào đến trong
đài, lính tôi và lính bộ binh đang ngồi nói chuyện với nhau, mấy người lính rờ
vào lớp giấy chống tiếng động tại phòng ghi âm tò mò một cách khôi hài; có đứa
dựng nắp chiếc piano lên đánh như điên... Cái phòng này để tụi ca sĩ hát radô đấy
mày... Mày ca cải lương tao coi chơi. Lính đùa như phá. Bên phòng kia, một anh
đang ngồi viết bản tin mới nhất chắc thế nào cũng có câu: "Quân cách mạng
đã chiếm lại Đài phát thanh..."
Tôi đi vào tiệm phở trước cửa đài, có mấy người lính thiết giáp ngồi ăn ở trong
đó, chúng tôi cười với nhau.
- Vừa rồi tôi cứ sợ các bạn bắn tôi chứ.- Bắn ông làm quái gì, đang đi hành
quân bỗng nhiên được lệnh về giữ Đài phát thanh chứ biết khỉ gì đâu.- Các ông ở
đâu đến? - Dưới Mỹ Tho... - Tôi cũng vừa ở Bà Rịa về, chẳng ra con mẹ gì cả! - Ừ.
- Người lính thiết giáp ghếch đôi giày đầy bùn lên mặt ghế đánh rầm.
Tôi bước chân ra khỏi quán phở, nói nhỏ với thằng lính:
- Ở đây hình như có chỗ chơi bời, mày kiếm thử xem.
Thấp thoáng trước thềm đài một lô sĩ quan cao cấp đang đứng nói chuyện hân
hoan.
Đột nhiên tất cả những ồn ào lắng xuống, tôi như bị bao cứng bởi một nỗi buồn rầu,
giận dỗi vô cớ... Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, nào ai biết được? Sĩ quan
trẻ đầy tương lai!
Tháng 2-1965. Sài gòn.
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT Sai lầm nghiêm trọng của hoa kỳ là đã để cho những con chó đen MAFIA CS mở toang cánh cổng thiên đường tự do tư bản hoa kỳ cho hàng trăm ngàn tên âm binh mafia csvn đảng con đẻ tay sai mafia c strung cộng tràn vào ẩn phục ứng chờ ,cài cắm giăng bẩy câu mồi,thu hồn đoạt vía ,gieo truyền phát tán mạnh mẻ hạt giống đỏ ra toàn nước mỹ ,tạo dựng nên những đại gia đình âm binh mafia cs rúc rĩa gậm nhấm ,ăn luồn ăn sâu vào lục phủ ngủ tạng đất nước của nử thần tự do …lũng đoạn kinh tế khuynh đảo chính trị,ngấm ngầm lèo lái con thuyền tự do tư bản hoa kỳ vào quỷ đạo của chủ nghĩa cộng sản ,nếu nước mỹ không kịp thời thức tỉnh cực kỳ cảnh giác,để có biện pháp đề phòng hửu hiệu ,phát hiện kịp thời hành động thủ ác trong bóng tối ngấm ngầm thực hiện mưu đồ ..đê hèn và sâu độc của bọn mafia cs đen trung cộng và bọn âm binh mafia cs vn đảng con đẻ tay sai của chúng,thì chắc chắn trong tương lai gần chế độ tự do tư bản hoa kỳ sẻ gục chết mà vẩn chưa kịp hiểu …SỨC MẠNH ĐEN VÔ ĐỊCH ÂM BINH MA FIA CS ….là gì…?XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT Trong cái nhà nước súc vật âm binh mafia csvn đảng này , tất cả phải bò bốn chân truyền kiếp làm chó phục vụ cho mưu đồ sự nghiệp của đảng …trong cái xã hội của loài thú đeo mặt nạ người này ,tất cả những thành phần từ trí thức đến dân đen …ma cô đỉ điếm ..các tổ chức tôn giáo ..các tổ chức chính trị kêu gọi tự do dân chủ ..hay ngay cả những tổ chức chống cộng …đều đưoc đảng cấp giấy phép hoạt động , đều được quốc doanh hóa ..chúng là những cái mặt nạ không thể thiếu trong việc bảo đảm tôn trọng nhân quyền …tự do tín ngưởng …..quyền tự do ngôn luận ,như một xã hội bình thường của các quốc gia khác trước cái nhìn của công luận quốc tế ….và sự thật đằng sau những tấm mặt nạ này …không một ông sư hay linh mục ,nhà dân chủ kẻ chống cộng ,hay cả bọn trí thức ..đỉ điếm ma cô nào dám tự phát mà không có sự đạo diển dàn dựng điều hành và chỉ đạo chặc chẻ của bọn thú vật cộng sản đen …và nếu có một ai đó dám đi ngoài quỷ đạo đó thì cũng không thể nào sống sót được trong cái xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh mafia csvn đảng này …..XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT Nước mỹ hãy cực kỳ cảnh giác lủ súc vật âm binh ma fia csvn đảng con đẻ tay sai mafia cs trung cộng …kịp thời phát hiện và ngăn chặn lủ âm binh mafia cs chui lòn ngấm ngầm hành động thủ ác rúc rĩagậm nhấm ruột gan lục phủ ngủ tạng của các bạn trong bóng tối ….đừng để đến khi các bạn hấp hối giãy chết mà vẩn chưa hiểu đưoqực sức mạnh đen súc vật âm binh mafia cs là gì …
Trả lờiXóaNhà nước cộng sản vn là một tổ chức ma fia …. Cựckỳ chặc chẻ từ trên xuống dưới trong mọi tầng lớp trong xã hội …. đén tận từng người dân một …. Một xã hội của loài thú đeo mặt nạ người ….một nhà nước âm binh ma fia cs vn đảng …. Tự do làm chó muôn năm …..tin bất cứ điều gì vào cái xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs vn đảng này là tự sát…..TỰ SÁT trong xã hội mà con dân chỉ là một loại công cụ đặt biệt có nghiệm vụ hy sinh tất cả vì lý tưởng và để làm được điều đó ngoài tổ chúc nhà nước đơn thuần để điều hành xã hội nó còn một hệ điều hành dấu mặt thứ hai [ bong ma ] anh em sinh đôi với nó luôn luốn song hành với nhau như hình với bóng để làm những việc mà một xã hội bình thường không thể làm được hiểu đơn giản nó là một tổ chức nằm ngòai vòng kiểm soát của pháp luật không ai dám công nhận sự hiên hửu và chịu trách nhiệm về nó nhưng nhà nước đó luôn luôn dấu mạt đứng đàng sau chỉ đạo và bảo vệ nó mà pháp luật trong nước cũng không bao giờ dám đụng đến nó… NÓ thay mặt nhà cầm quyền điều hành tất cả mọi công dân trong nước bằng luật ma fia người dân một cổ hai tròng sống không còn con đường nào khác phải cam chịu số phận kiếp đời súc vật âm binh ma xó nôlệ cho bọn ác ma những côgái mới lớn kể cả các em sinh viên hoc sinh còn ngồi ghế nhà trường phải dâng hiến tuổi thanh xuân chịu sự sai khiến làm nôlệ tình dục ngoại giao giăng bẫy câu mồi các đối tác kinh tế hay moi móc tin tình báo từ các chính trị gia và du khách đủ mọi thành phần đến đất nước nầy có kẻ vì dính bẩy tình phải chịu sự lợi dụng của bọn nầy trong những mục tiêu chúng nhắm đến hay phải bị buộc gia nhập tổ chức để rồi suốt đời làm con vật cho chúng sai khiến và nhìn bọn trẻ nhan nhãn ngoài đương đầu tóc xanh đỏ xâm mình khắp người hay từ đám đỉ rạt đứng đường đến đám gà móng đỏ lủ ma cô trí thức chúng đều là những con ma xó di động là loại ma cô an ten chúng đang làm nghĩa vụ công dân của một đất nước ma fia còn lớp người trung niên và có tuổi cũng đã qua thời nghĩa vụ chẳng ai dám làm thế nào cho con cháu mai sau thoát được cảnh địa ngục trần gian nầy … còn chế độ này là còn nghĩa vụ ma quỷ ..có lẻ hiện nay quan trọng nhất là nghĩa vụ quôc tế theo lệnh và mưu đồ của quan thầy mafia cs trung cộng trong công cuộc tây tiến từ con ma xó trong nước khi xâm nhập ra các nước trên thế giới chúng là một loại xác sống lây lan trong cộng đồng người hãi ngoại hay đúng hơn là một thứ robot người được điều khiển từ xa với vai diển của đủ mọi thành phần trong xã hội đội quân của chúng ngày càng phát triển mảnh liệt và lớn mạnh trong cộng đồng các quốc gia tự do trên toàn thế giới cảnh giác đặc biệt với loại ma fia này nhất là con em vợ con của cácthành phần chống đối chúng tại hải ngoại là mục tiêu chính trong việc câu mồi lừa đảo bằng mọi thủ đoạn khiến con em quý vị sa vào lỗi lầm hay phạm tội để rồi chúng khống chế gia nhập vào tổ chức của chúng sống chết theo luật ma fia biến họ thành một loại súc vật vô hồn không còn trái tim chỉ biết vâng lệnh của bọn ác ma thủ đoạn chúng thường dùng là nam nữ nhân kế khi lừa được người nào chúng tiếp tục sử dung chính những người đó để tiép tục lừa bẩy kẻ khác.. ngày càng nhân rộng mạng lưới của chúng lên có thể gọi chúng là hoa hồng đen ..bàn tay đen hay là robot người được điều khiển từ xa hành tung của chung rất khó phát hiện dù có theo dõi kỷ càng thế nào đi nữa vì chúng được hổ trợ của công nghệ cao tối mật và cả một hệ thống tổ chức khổng lổ bưng bít bao che hổ trợ cho nhau…. cả thế giới đang bị mắc mưu sa bẩy lọt vào quỷ kế gian manh hiểm độc chúng hãy chung tay lột mặt nạ cái xã hội chủ nghĩa thú vật mang mặt nạ người này ngoài mặt nhân danh kêu gào yêu chuộng hoà bình công lý mà ngấm ngầm mưu đồ đen tối đứng đàng sau hổ trợ và nuôi dưỡng điêu hành và chỉ đạo trong bong tối vì mục tiêu và lý tưởng đại đồng tâm thần hoang tưởng của chúng
Trả lờiXóa.Xã hội VN là con đẻ ….một bản sao chính xác của xã hội TQ trong cái xã hội mà người dân chỉ là một thứ công cụ hay là một phương tiện người ta lợi dụng để đat được mục đích cuối cùng con dân được hợp quần trong những tổ chức đen [ BÓNG MA ] trong vòng kềm toả chỉ đạo của một chuyên ngành đặt biệt không ai dám đụng vào kể cả pháp luật được kết thành một khối theo luật ma fia tuyệt đối trung thành với chủ nhân có thể ví cái xã hội đó như một tảng băng mà phần nổi là chính phủ của một nhà nước độc lập với phần chìm là một khối đen khổng lồ bao gồm. các tổ chức hoạt động ngấm ngầm trong bong tối để bảo vệ và giữ vững nhà nước đó cùng với thế lực đen [ bong ma ] của các nước anh em cs tiếp tục con đường giải phóng nhân loại tiến vào thế giới đại đồng … . Vào cuối thế kỷ 20 các nước cs … liên xô và đông âu lần lược bị sụp đổ chỉ còn lại TQ và vài ba nước chư hầu trước sự kiện nguy cơ bị tan rả dây chuyền nên TQ đã ráo riết cùng với bọn chư hầu tay sai phát triển các tổ chức ma fia ra rộng khắp thế giới bằng các con đường di dân kết hôn tỵ nan buôn người v..v … ngấm ngầm cài căm người vào các chức vụ quan trọng trong cơ quan công quyền của các nước hoạt động phi pháp lấy tài chính cho tổ chức hoạt động giăng mồi cài bẩy mua chuộc đủ mọi tầng lớp từ thấp đến cao nhằm thu lượm tin tức trong nội bộ hiện tình của các nước về kinh tế chính trị quân sự phục vụ cho ý đồ thâu tóm thế giới trong một tương lai gần và cuộc chiến ngầm của TQ cùng với đám đàn em chư hầu tay sai đã tỏ ra vô cùng hiệu quả trong kế hoạch và mưu đồ vô cùng sâu hiểm thâm độc với một lực lượng khổng lồ nhũng tổ chức hoạt động trong bóng tối với vô vàn bàn tay đen và hoa hồng đen trung thành tuyệt đối theo luật ma fia đã thực sự hửu dụng đem lại kết quả tuyệt vời trên mọi lĩnh vực với sức mạnh khủng khiếp của các thế lực ĐEN có thể khuynh loát chính tri kinh tế quân sự của một đất nước theo chiều hướng có lợi cho những kẻ dấu mặt đang âm thầm chỉ đạo trong bong tối VÀ NỘI VỤ trong nước bảo đảm chỉ có những thành phần tự do dân chủ cuội được dảng đạo diển dàn dựng cho phép diển kịch để lừa bịp che mắt thế giới… kể cả mọi hoạt động phi phàp buôn lậu mãi dâmv..v.. tất tần tật mọi thứ đều phải theo sự chỉ đạo phân công của KẺ ĐIỀÙ HÀNH đạo diển muốn xã hội yên ổn hay bán yên ổn hay bất cứ xã hội nào dưới hình thức gì miển che mắt được thế giới để chúng dể dàng tạo được vỏ bọc bên ngoài vô hại …thân thiện …yêu hòa bình ghét chiến tranh nhân bản trí đạo nhân hiền nhằm đánh lừa nhân loại khiến họ mất cảnh giác không mảy may nghi ngờ hiểm họa cs để chúng dể dàng ngấm ngầm rúc rỉa ăn luồn ăn sâu làm phân rả hoàn toàn tất cả thế lực thù địch ,… dưới chế độxã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs vn đang chỉ có những kẻ cam tâm làm súc vật cho chúng sai khiến mới được phép tồn tại để phục vụ chiến đấu không ngừng nghỉ cho lý tưởng và mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của bọn quan thầy tâm thần hoang tưởng mao mác lê chúng sẳn sang triệt hạ và tiêu diệt cứ ai dân tộc nào dất nước nào đi ngược lại mục tiêu và lý tưởng của bọn chúng không từ một thủ đoạn nham hiểm sâu độc và tàn ác nào chúng một lũ ác quỹ đội lốt người, cả nhân loại nên nhớ rằng CÓ CỘNG SẢN THÌ KHÔNG CÓ TỰ DO ,CÒN CỘNG SẢN THÌ KHÔNG BAO GIỜ CÓ HOÀ BÌNH ,TIN CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT ,NGHE THEO LỜI CỘNG SẢN LÀ TỰ NỘP MÌNH VÀO MIỆNG LANG SÓI CỌP BEO tất cả chúng ta hảy cùng chung tay góp sức cho một thế giới không cộng sản tất cả vì công lý tự do và quyền làm người được thực thi trên trái đất này
Trả lờiXóa-TỐ CÁO NHÀ NƯỚC XHCN THÚ VÂT ÂM BINH M FIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC SÚC VẬT ÂM BINH MA FIA CS VN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT hãy cực kỳ cảnh giác lủ âm binh ma fia cộng sản với biệt tài bắt hồn nhân loại bằng những thủ đoạn vô cùng tinh vi và phức tạp với đội ngủ âm binh ma fia hùng hậu giàn trãi khắp.nơi lai vô ảnh khứ vô tung những con thú đeo mặt nạ người một loại rô bốt người được điều khiển từ xa …. âm thầm cùng nhau phối hợp chầu chực trong bóng tối cùng nhau hợp sức hành động cài cắm câu mồi giăng bẩy nam nữ nhân kế moi móc đời tư…xui khiến phạm tội khống chế bắt hồn đưa vào tổ chức trở thành một thành viên âm binh ma fia âm thầm bán linh hồn và thể xác cam tâm làm súc vật phục vụ cho đảng những con mồi chúng thường nhắm đến để bắt lấy linh hồn là giới cầm quyền lảnh đao cao cấp vợ con em của thành phần chúng xem là kẻ thù sử dụng họ làm ang ten tình báo về kinh tế chính trị v…v theo lệnh đảng ngấm ngầm âm thầm tiếp sức cho cộng sản tiêu diệt cha chồng người thân của chúng trong kế sách gậy ông đập lưng ông hay chính xác hơn theo như thằng lê duẩn đã phát biểu trong công cuộc giải phóng miền nam và thực hiện chính sách âm binh súc vật MA FIA HÓA hóa toàn bộ quân dân cán chính ngụy quân ngụy quyền sau giải phóng ngăn ngùa DẬP TẮT MỌI SỰ sự trổi dậy của vnch TRONG TRỨNG NƯỚC bằng lực lượng âm binh ma fia vợ con em của kẻ thù …DÙNG MỞ NÓ ĐỂ RÁN NÓ tiếp tục sự nghiệp gieo truyền lan tỏa hạt giống đỏ hạt giống của ác quỷ ra toàn cầu nhất là trong cộng đồng người việt hãi ngoại và người bản xứ HOA KỲ nhằm xây dựng những đại gia đình âm binh ma fia cộng sản ngấm ngầm mai phục ứng chờ thời cơ trổi dậy thực hiện mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của đảng … CỰC ĐỘ CẢNH GIÁC NHỮNG GÌ ĐẾN từNHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT MA FIA CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẢNG DÙ LÀ GIỚI TRÍ THỨC HAY LÀ ĐÁM ĐỈ ĐIẾM MA CÔ ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ….VỢ CON DIỆN HO.. NHỮNG CÔ DÂU TỘI NGHIÊP V..V VÀ V..V CHÚNG ĐƯỢC ĐƯA ĐẾN NHỮNG NƠI CẦN ĐẾN ..TỔ CHỨC LUÔN LUÔN ĐÓN CHỜ ………TẤT CẢ CHÚNG ĐỀU LÀ NHỮNG CON THÚ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI VỚI MUÔN VÀN TẤM MẶT NẠ ….TIN LỦ ÁC QUỶ MA FIA CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT nói rằng cộng sản ngu dân hóa để trị là chưa đúng.. phải nói chính xác là chính sách súc vật ma xó âm binh ma fia hóa toàn dân để trị vô cùng tàn bạo và man rợ của lủ thú vật ma fia cộng sản …chúng đã biến con dân thành nhũng con thú bò bốn chân đeo mặt nạ người bán cả linh hồn và thể xác hy sinh tất cả cho đảng trong nhũng đại gia đình ma fia cộng sản đảng chui rúc trong bóng tối đẻ bảo vệ và phát triển chủ nghĩa cộng sản ra toàn cầu … cũng vì bọn ma fia cộng sản đen này mà hiện nay đám thú vật ma fia cs … nhũng con rô bốt người được điều khiển từ xa đã lan tràn như nhũng xác sống gieo truyền hạt giồng đỏ rộng khắp năm châu mà nhất là đang phát triển mạnh mẻ tại đất nước của nữ thần tự do …nếu không kịp thời cảnh giác âm mưu sâu độc và đê hèn của lủ âm binh ma fia cộng sản ..lai vô ảnh khứ vô tung này thì một ngày không xa tượng nử thần tự do sẻ bị đạp đổ thay thế bằng tượng ông mao ông mác ông lê tay cầm búa liềm thống lỉnh nhân loại
Trả lờiXóaThằng thú vật vật ma fia csvn đảng nguyễn văn linh tay sai của lủ ma fia mèođen trung cộng tại sao nó mở mõm tru sủa xin đảng cởi trói cho giới văn nghệ sỉ mở rộng cửa chào đón chấp nhận nền văn minh phồn vinh của tư bản nhất là nước mỹ để khai Sáng thay đổi cảnh nghèo đói lạc hậu man rợ của chế độ cs đã tồn tại gần tám chục năm nay kể từ khi con cẩu họ hồ mang vác cái ách cs về đè đầu cởi cổ dân tộc vn này những người không hiểu và không biết gì là âm binh ma fia cs thì cứ tưởng là lủ thú vật ma fia cs vn đảng chúng cũng biết hối cải muốn đem tự do dân chủ thật sự cho dân tộc việt nhưng đối với những người biết rỏ hành tung của lũ súc vật này trong bong tối thì họ hiểu rất rỏ bộ mặt thật của những con thú đội lốt người này chúng là lủ ma fia cs lien kết chặc chẻ cấp nhà nước trong bong tối ngấm ngầm thực hiện giấc mơ đại đồng sự nghiệp vĩ đại chân lý bất di bất dịch của lủ tổ tiên mao mác lê stalin cha ông thằng hồ …vậy sự thật của cái gọi là mở rộng cửa chào đón luồng gió mới hòa mà không tan là gì …và cởi trói cho văn nghệ sỉ là như thế nào … là chúng chỉ cởi trói cho cái xác phàm còn linh hồn thì ma fia cs nó bắt trói chặt lấy .thì trí thức giới văn nghệ sỉ sau khi được đảng cởi trói cái xác phàm thu mất linh hồn thì họ đã trở thành một lủ thú vật không hơn không kém … không có linh hồn không còn trái tim chỉ biết ngoan ngoản bò bốn cẳng triệt để tuân phục theo mọi hiệu lệnh của chủ ….một nhà nước với chính sách súc vật âmbinh ma xó ma fia hóa dân tộc mình bién con dân thành lủ súc vật đeo vòng kim cô cam tâm làm chó chỉ biết bò bốn chân dâng hiến cả thể xác và linh hồn cho mưu đồ sự nghiệp vĩ đại của đảng thì hòa vào đâu nó đều lan tỏa ra màu đỏ màu của lủ xác sống{không có linh hồn} âm binh ma fia cs đến đấy Chỉ có những người sống trong tim óc ruột gan của lủ súc vật cộng sản vn ….sống giửa bầy thú đeo mặt nạ người của cái xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs …tự do làm chó muôn năm này .. mới hiểu biết thế nào là chính sách súc vật âm binh MA FIA hóa con người để trị và phát triển chủ nghĩa cs ra toàn cầu CỦA LỦ THÚ VẬT MA FIA CSVN ĐẢNG …. Sau 75 cả một chế độ ngụy quân ngụy quyền và con em của họ bị cs súc vật âm binh ma fia hóa đén tận gốc..chúng đã biến họ thành những con thú đeo mặt nạ người …một loại người mà khi có lệnh của tổ chức thì ngay đến CẢ cha mẹ ÔNG BÀ anh chị em ruột thịt của chúng ,,,,chúng cũng sẳn sàng trói đầu giao nộp cho cộng sản như một con chó ….. …thì CHUYỆN những con thú đeo mặt nạ người tranh đấu cho tự do theo sự giật giây chỉ đạo của đảng với những màn kịch vô tiền khoáng hậu bịt mắt cả thế giới chứ không riêng gì người việt hãi ngoại ….tin bất cứ điều gì từ cái nhà nước ma fia csvn đảng này là tự sát ……..một hình thức giành quyền đấu tranh cho một nước vn tự do dân chủ thực sự từ tay của của những người vnch và hậu duệ của họ…. gạt ra ngoài và từ từ dập tắt tiêu diệt những tổ chức vnch chống cộng thực tâm vì một nền tự do dân chủ cho tổ quốc dân tộc vn…thay vào đó bằng một tập đoàn âm binh ma fia cộng sản đeo mặt nạ diển kịch đấu tranh cho tự do dân chủ .. âm thầm trong bóng tối gieo truyền hạt giống đỏ trong cộng đồng người việt có nguồn gốc vnch ….đến khi đạt được mục tiêu giành lấy nắm được hoàn toàn sự chỉ đạo điều hành tất cả mọi phong trào đấu tranh ở hãi ngoại …không còn thế lực nào khả dỉ đe dọa đến sự an nguy của cs vn nửa thì chúng lại hiện nguyên hình . những con ác quỷ cs đỏ …tin lủ súc vật âm binh ma fia csvn đảng là tự sát …. tự sát …. Cực kỳ cảnh giác lủ âm binh ma fia cs ….chúng là ác quỷ lủ ác thú đến từ địa ngục với muôn vàn tấm mặt nạ nhân nghĩa đạo lý nhân bản nhân hiền vv…. Với muôn vàn mưu sâu kế hiểm giăng mồi câu bẩy …. Được sự huấn luyện và điều hanh của lủ ma fia mèo đen trung cộng …..tin lủ súc vật âm binh ma fia cs châu á là tự sát
Trả lờiXóa….thầy tu linh mục quan quyền nhà chính trị hay sinh viên hay bất cứ ai ..cũng dều là con người cũng hỉ nộ ái ố tham san si nằm trong lục dục thất tình bọn ác ma ma fia cs đã triệt để lợi dụng vào cái cốt lỏi này của con người sử dụng chiêu thức câu bẩy giăng mồi đưa kẻ bị câu vào tròng rồi khống chế quy nạp vào tổ chức để đời đời làm súc vật âm binh ma fia cs cho chúng sai khiến ..bất cư ai đều không thể thoát khỏi nanh vuốt một khi đả lọt vào tầm ngắm của bọn chung . tổ chức của bọn chúng ngày càng lớn mạnh cùng với các đám ma fi a chư hầu chúng âm thầm bành trướng khắp thế giới , ngấm ngầm ăn sâu vào lục phủ ngủ tạng của các nước như một căn bệnh ung thư di căn từ từ nếu không kịp thời chữa trị thì chỉ còn chờ một ngày nào đó sẻ lọt vào vòng tay của ác quỷ có hối cũng đả muộn… với những âm mưu đen tối ngấm ngấm tấn công khống chế toàn bộ thế giới bọn ác ma cùng vơí bọn đàn em tay sai đã tạo ra những con robot người điều khiển từ xa rồi tung ra khắp toàn cầu bằng các con đường kết hôn , di dân tỵ nạn vượt biên ; vợ con của diện HO vv.. chủ yếu xâm nhập vào nước mỹ có đến hàng trăm ngàn tên kế đến là nươc úc hàn quốc đài loan nhật bản vvv qua con đường kết hôn buôn nguoi, ty nan ..v..v.hình thức hoạt động ngấm ngầm luồn lách ăn sâu lan toả rộng khắp của bọn này, có thể phân chia ra ba nhóm gia đình mafia hoat động như sau………. 1./-ma fia công tác về tài chính [ ban tay đen ] hoạt động trong các phi vu làm ăn phi pháp buôn lậu rửa tiền buôn người mãi dâm vv..nói chung tất cả mọi công việc miển là làm ra tiền bằng mọi thủ đoạn tội ác trên đời chúng đều không tư với vai trò đảm nhiệm về tài chính cho tổ chức hoạt động …. 2/- bon ma fia chuyên ngành lừa đảo [hoa hồng đen ] câu bẩy giăng mồi mồi chài gồm một lũ ma cô đỉ điếm trong đó có lực lượng chủ động là thành phần trong giới trẻ sinh viên học sinh bị lừa đảo gia nhập phục vụ cho tổ chức được huấn luyện tinh vi về nghệ thuật giăng bẩy câu mồi cùng các kỹ năng thiện nghệ trong chuyện phong the chuyên lừa đảo nhắm vào giới quan chức trong chính quyền sở tại dùng nam- nữ nhân kế tiền bạc giăng bẩy tình mua chuộc hối lộ khiến họ sa chân vào lổi lầm phạm tội sau đó khống chế ép buộc họ gia nhập phục vụ cho tổ chức mục đích nắm bắt thông tin trong các hệ thống tài chính chính trị khoa học của nước sở tại ‘…và nhắm vào em cháu vợ con của các thành phần bị chúng liệt kê vào danh sách kẻ thù.. nhất là đối với các gia đình có con em là sinh viên học sinh đi học xa nhà chúng du dỗ mồ chài vợ con của kẻ thù sa vào lầm lổi xui khiến phạm tội rồi khống chế gia nhập tổ chức một khi đả là thành viên của bon ác quỷ thì chỉ còn phần xác ,còn phần hồn thì do chủ nhân nắm giử, khống chế suốt đời ,tuyêt đối trung thành đến khi lập gia đình cũng trong sự sắp xếp của bọn chủ nhân, chúng mang tính kế thừa truyền kiếp từ đòi này sang đòi khác , phục vụ cho chủ nhân vô điều kiện ,dưới mọi hình thức chúng đuợc sử dụng dể giám sát cha anh của chúng ,phục vụ bán dâm mòi chài câu nhử những mục tiêu do tổ chức chỉ định , đóng góp tự nguyện tài chính cho tổ chức góp phần vào mục tiêu làm phân hoá tan rả những tổ chức kiều nhân chống đối tại hải ngoại và lủng đoạn chính trị của nước sở tại theo chiều hướng có lợi cho mục đích thâu tóm toàn thế giới về sau nay của chủ nhân ……
Trả lờiXóa… .3/ nghiệm vu của các thành phần ma fia trí thức chủ yếu công tác về mặt chinh trị nằm yên chờ thời ngấm ngầm che dấu bảo vệ và ủng hộ cho các thành phần khác trong tổ chức gây sức ép về các hoạt động trong chính tri hậu thuẩn cài cắm người của chúng vào các cơ quan công quyền kết hợp với các vị quan chức bị mua chuộc chúng lũng đoạn chính trị kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng có lợi cho chủ nhân của chúng …với một bon người bị lấy mất trai tim, không còn lương tâm, lương tri không còn biết phân biệt phải trái đúng sai , tuyệt đối chấp hành lệnh của chủ nhân vô điều kiện , các gia đình ma fia này truyền kiếp từ đòi cha sang đời con, đời cháu ,mãi mãi phuc vụ cho bọn ác ma này để giử bí mật tuyệt đối ,hiện nay với tình hình phát triển công nghê cao tôi đang nghi vấn bọn này đang được hổ trợ mọt loại vủ khí bí mật công nghệ cực kỳ cao siêu ,có thể điều khiển con người từ xa mọi lúc nọi nơi thông qua tín hiêu não ,ở trung tâm điều khiển bi mật…. tóm lại chỉ vì một mục đích điên cuồng bọn chúng đả và đang biến con người thanh nhửng xác sống vô tri vô giác như những zoombi lay lan lan toả khăp địa càu chi biết nghe theo lệnh và phụcvụ trung thành tuyệt đối để tiến đến mục đích cuối cùng thu tóm năm châu năm giử quả đất trong tay đương đến vinh quang không còn xa sẽ đưa loài người lên dỉnh cao rừng rú của thời đai nguyên thuỷ sống bầy đàn trong sự chăm sóc và giám sát tận tình,không một kẻ nào có thể ra khỏi tầm tay chăn dắt của bọn ác ma ….thời đại đó sắp đến
Trả lờiXóa