Buổi khai mạc Quốc hội, tôi mời cha tôi và Quỳnh Nga, vợ tôi
tham dự với tư cách khách mời riêng của cá nhân tôi (mỗi dân biểu đắc cử được mời
hai người khách trong buổi khai mạc). Dù thế nào, đây cũng là bước thành đạt đầu
tiên của tôi khi tham gia vào đời sống chính trị Sài Gòn, tôi muốn cha tôi và vợ
tôi được chứng kiến ngày này. Đó cũng là một cách nhớ ơn sinh thành của cha mẹ
và công lao của người vợ đã chia sẻ những gian nan và khó khăn ban đầu với
mình. Ngồi giữa khung cảnh rộng lớn của Nhà hát thành phố, lần thứ hai được sử
dụng làm trụ sở Quốc hội (lần đầu dưới chế độ Ngô Đình Diệm), tôi vẫn chưa hết
ngỡ ngàng những gì đã xảy ra với mình. Tôi bước vào sân khấu chính trị không do
chính tôi chủ động mà do định mệnh chọn lựa mình. Tôi không than phiền gì về sự
“chỉ định” này của định mệnh vì trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước rất cần
tiếng nói ở nhiều phía và từ nhiều đấu trường khác nhau để có một sức mạnh tổng
hợp lòng lay chuyển tình thế thì diễn đàn Quốc hội cũng là một môi trường hoạt
động khá thuận lợi. Mặc dù nhiều lúc Quốc hội Sài Gòn khi ấy không khác một nhà
hát hài kịch rẻ tiền và lố lăng, nhưng từ diễn đàn này cũng đã vang lên khá nhiều
tiếng nói của những phần tử đối lập, của những ý thức vận nước tìm cách thể hiện
nguyện vọng của người dân miền Nam không chịu tách rời với miền Bắc ruột thịt,
muốn được thấy Tổ quốc hòa bình, độc lập và thống nhất.
… Lúc đó tôi không bao
giờ ngờ mình sẽ ngồi luôn trong cái “nhà hát” ấy ở Công trường Lam Sơn suốt 10
năm qua, qua 3 nhiệm kỳ liên tiếp: 1966-1967, 1967-1971 và 1971-1975! Biết bao
tấn tuồng đã diễn ra ở nơi này. Chẳng thiếu gì cả: từ dân biểu buôn lịch “ở
truồng” đến dân biểu buôn bạch phiến, từ những màn đấu miệng đến những màn đấu
đá thật sự u đầu sứt trán. Những cuộc mua bán phiếu như ngoài chợ trời v.v… Nó
đúng là sân khấu thu hẹp của một chế độ bát nháo, tham nhũng, mất định hướng,
mỗi lúc một suy tàn. Và màn chỉ hạ xuống sau ngày 30-4-1975.
Phong trào Phục hưng
miền Nam do kỹ sư Võ Long Triều tập họp có khoảng bảy người lọt vào Quốc hội lập
hiến. Trong 117 dân biểu được bầu ở toàn miền Nam, tôi là người nhỏ tuổi thứ
hai (26 tuổi) sau nhà giáo Nguyễn Hữu Hiệp, đắc cử tại Đà Lạt. Mặc dù số dân
biểu của Phong trào Phục hưng Miền Nam chỉ có bảy người nhưng tôi vẫn vận động
được sự liên kết của một số dân biểu khác để thành lập khối dân biểu Dân tộc.
Theo nội qui của Quốc hội lập hiến, bất cứ một nhóm dân biểu nào, từ 20 người
trở lên, tự nguyện tập họp lại sinh hoạt chung thì được chính thức công nhận là
một khối, được bầu một trưởng khối, một hay hai phó trưởng khối và một thư ký
khối. Quốc hội dành cho khối một văn phòng trong trụ sở Quốc hội, một ô tô
riêng với tài xế cho trưởng khối. Tại diễn đàn quốc hội, trưởng khối được hưởng
quyền ưu tiên phát biểu (không chờ thứ tự đăng ký) khi đại diện cho khối. Trong
117 dân biểu có đủ tất cả các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Hòa hảo, Cao
đài, Tin lành, đủ các thành phần như quân nhân, công chức, giáo viên, doanh
nhân, trí thức, các đảng phái như Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Tân Đại
Việt. Do chưa có ai nắm trọn quyền lực tại miền Nam vào thời điểm này, cuộc đối
đầu lúc ngấm ngầm, lúc công khai giữa hai tướng lãnh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn
Cao Kỳ vẫn chưa ngã ngũ, nên có lẽ đây là quốc hội có nhiều thành phần độc lập
nhất so với các kỳ Quốc hội sau này (1967-1971 và 1971-1975). Để thành lập khối
Dân tộc, tôi dựa vào 3 thành phần: các dân biểu Phục hưng miền Nam, các dân
biểu Phật giáo và một số dân biểu độc lập. Người tiếp tay một cách tích cực
dựng lên khối này, không có anh không thể hình thành khối là dân biểu Phan Xuân
Huy, đơn vị Đà Nẵng. Là một giáo viên dạy toán nhưng thuộc thành phần đấu tranh
cánh tả trong giới trí thức miền Trung, đồng thời hoạt động trong hàng ngũ Phật
giáo chống chính quyền (thường được gọi là Phật giáo Ấn Quang), Phan Xuân Huy
đã thuyết phục các dân biểu Phật giáo và một số nhân sĩ miền Trung gia nhập
khối Dân tộc. Để thuyết phục mạnh mẽ hơn các dân biểu Phật giáo gia nhập khối
Dân tộc do tôi làm trưởng khối, dân biểu Phan Xuân Huy đưa tôi đi thăm thượng
tọa Thích Thiện Minh, người có ảnh hưởng khá lớn trong Phật giáo Ấn Quang.
Nhưng cho đến gần hạn
chót nộp danh sách của khối, chúng tôi vẫn thiếu một người để khối được công
nhận chính thức. Người cuối cùng chúng tôi tìm ra để bổ sung cho đủ 20 người là
ông Giáp Văn Thập, chủ trường dạy lái xe ở Tân Định, đắc cử dân biểu ở đơn vị 1
Sài Gòn nhờ những phát biểu ồn ào và mị dân. Dân chủ theo kiểu tư sản, một thứ
tự do vô tổ chức, thường sản sinh những phần tử cá biệt như ông Thập. Nhưng vẫn
cần ông để có đủ số dân biểu thành lập khối. Thuyết phục ông không phải dễ
dàng, lúc đầu ông đặt điều kiện gia nhập khối phải được trao chức Trưởng khối,
vận động mãi ông mới chịu hạ yêu sách xuống còn phó trưởng khối. Trong khối còn
có một nhân vật đối lập rất được báo chí theo dõi và đưa tin vì ông luôn có
những tuyên bố chống chính phủ mạnh mẽ: Trương Gia Kỳ Sanh, dân biểu Bình
Thuận. Tôi nhớ ông Kỳ Sanh được mời làm cố vấn khối.
Tôi được bầu trưởng
khối vì số dân biểu Phong trào Phục hưng miền Nam đông nhất và mặt khác tôi
cũng được sự ủng hộ của các dân biểu Phật giáo. Không công khai tuyên bố nhưng
mặc nhiên khối Dân tộc trở thành khối dân biểu đối lập đầu tiên trong quốc hội
Sài Gòn, do lập trường chống chính quyền quân sự và chống chiến tranh. Dân biểu
Phan Xuân Huy nhiều lần bị các tờ báo thân chính quyền tố cáo là tay sai của
cộng sản nhưng anh Huy không hề nao núng. Chúng còn tìm cách bôi lọ anh bằng
cách tung tin tại quốc hội và trên báo chí rằng anh bị bệnh liệt dương! Nhưng
Phan Xuân Huy đã phản công trở lại ngay trong một phiên họp khoáng đại bằng
cách lên diễn đàn công khai đặt vấn đề: Những vị nào bảo rằng tôi bị bệnh liệt
dương thử để các bà vợ đến “kiểm tra” tôi thì biết ngay sự thể như thế nào!
Giới quân nhân đang chi
phối chính trường miền Nam lúc đó có ý định đưa vào hiến pháp một chương riêng
công nhận vai trò lãnh đạo miền Nam Việt Nam của một Hội đồng quân sự tối cao.
Số dân biểu đàn em của các tướng Thiệu – Kỳ ra sức vận động cho mục tiêu này.
Phản ứng của các dân biểu độc lập và đối lập cũng rất quyết liệt. Cụ Phan Khắc
Sửu được bầu làm chủ tịch Quốc hội là một trong những tiếng nói có trọng lượng
chống lại ý đồ này của các dân biểu gốc quân nhân và thân chính quyền. Phe quân
đội tổ chức nhiều cuộc hội thảo để gây áp lực với quốc hội. Bản thân tôi được
mời tham dự một cuộc đối thoại với sinh viên cao học luật khoa mà mục đích là
vận động cho sự chấp nhận một Hội đồng quân sự trong bản hiến pháp. Buổi đối
thoại này được chủ trì bởi hai vị giáo sư hàng đầu của Đại học Luật là Nguyễn
Cao Hách và Vũ Quốc Thúc lúc đó có khuynh hướng ủng hộ phe quân nhân. Cần nói
thêm rằng các sinh viên dự buổi đối thoại phần nhiều cũng được chọn theo quan
điểm của lãnh đạo trường. Ở phía dân biểu, ngoài tôi còn có dân biểu – bác sĩ
Phan Quang Đán. Rất may ông Đán có lập trường giống tôi đối với vấn đề này: bác
bỏ một cách thẳng thừng sự hiện diện của Hội đồng quân sự trong hiến pháp. Cuộc
đối thoại đôi khi căng thẳng nhưng vẫn giữ được không khí ôn hòa.
Với tư cách trưởng khối
Dân tộc, gần cuối nhiệm kỳ quốc hội, tôi cũng được Học viện quốc gia hành chính
mời thuyết trình về bản dự thảo hiến pháp cho lớp Cao học (ngạch đốc sự). Điều
đáng nói là các sinh viên cao học dự buổi thuyết trình của tôi đều là bạn học
cùng khóa với tôi trước khi tôi đi bỏ học nửa chừng. Người chủ trì là giáo sư
Nguyễn Ngọc Huy cũng là nhân vật lãnh đạo của đảng Tân Đại Việt, thân chính
quyền Thiệu, chống Cộng và rất có thế lực trong giới quân nhân cấp tá và công
chức. Giáo sư Huy còn là một chuyên viên về luật Hiến pháp. Thật không dễ dàng
chút nào cho một tay ngang như tôi nói về luật Hiến pháp trước ông thầy dạy môn
hiến pháp và với những sinh viên mà đáng lý mình vẫn còn phải ngồi học chung
với họ. Nhưng sau gần một năm tham dự không biết bao nhiêu phiên họp của quốc
hội, bàn đi bàn lại từng điều của Hiến pháp – được nghe từ những phát biểu
chính thống của những chuyên viên luật nhiều kinh nghiệm cho đến những đề xuất,
yêu cầu rất thực tế của các dân biểu thuộc các thành phần khác nhau – hầu như
tôi được tiếp cận với tất cả các ngóc ngách liên quan đến luật Hiến pháp. Không
có câu hỏi hay thắc mắc nào mà không được mổ xẻ trên diễn đàn Quốc hội. Nhờ
trải qua cái trường “đại học luật” đặc biệt ấy, tôi đã đối đầu khá suôn sẻ và
thuyết phục trước những đồng học cũ của mình tại buổi thuyết trình.
Cũng trong thời gian
này, với tư cách dân biểu đối lập, tôi được Tổng hội Sinh viên Sài Gòn mời tham
dự cuộc hội thảo về tình hình miền Nam và quốc hội lập hiến tại trụ sở của Tổng
hội ở số 4 Duy Tân (nay là Nhà Văn hóa Thanh niên). Tôi nhắc lại cuộc hội thảo
này vì đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên của tôi với giới sinh viên và cũng là lần
đầu tôi gặp linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Linh mục cũng là khách mời của Tổng hội.
Tại cuộc hội thảo, linh mục Lan tỏ ra rất tả khuynh, thỉnh thoảng tấn công lập
trường của tôi lúc đó còn khá ôn hòa. Tôi còn nhớ cha Lan nhìn tôi như “một
chàng thanh niên làm chính trị tài tử” sẽ không đủ sức và đủ quyết tâm kiên trì
theo đuổi con đường chính trị đối lập của mình. Ngày hôm sau, khi báo chí Sài
Gòn, nhất là báo chống Cộng tường thuật cuộc hội thảo, họ lại tấn công chủ yếu
vào tôi, tố cáo tôi có lập trường lập lờ.
Từ cuộc gặp nhau lần đó
tại trụ sở Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tôi và linh mục Lan suốt cả chục năm sau
này (cho đến ngày 30-4-1975) có rất nhiều cơ hội hoạt động chung với nhau và
thời gian đã trả lời cho cha Lan “cái chàng thanh niên có vẻ làm chính trị tài
tử” ấy cũng có đủ sự kiên trì để đi đến cùng con đường đã chọn.
… Thời gian hoạt động
khoảng một năm trong Quốc hội lập hiến đã tạo điều kiện cho tôi tích lũy được
một số uy tín đối với cử tri đã bầu cho mình và cả trong dư luận xã hội nói
chung. Tên của tôi xuất hiện thường xuyên trên các báo qua các phát biểu thẳng
thắn và mạnh dạn tại quốc hội, dần dần được nhiều giới biết đến và ủng hộ. Báo
chí Sài Gòn rất “mặn mà” với các buổi thảo luận và “đấu khẩu” trên diễn đàn
quốc hội vì loại bài tường thuật này rất được độc giả ưa chuộng. Phần nhiều các
báo đều dành thiện cảm cho các dân biểu đối lập và tỏ ra coi thường các phần tử
thân chính quyền mà họ gọi là “gia nô”. Chính sự thuận lợi này trong dư luận và
trên báo chí đã giúp tôi sau này tái đắc cử vào Quốc hội lập pháp (1967) mà
không cần phải dựa vào một thế lực hay đảng phái chính trị nào.
Tại Quốc hội lập hiến,
sau khi dân biểu Trần Văn Văn bị ám sát ở ngã ba Phan Kế Bính và Phan Đình
Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) – lúc đó nhiều người cho rằng do bàn tay của
trung tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc cảnh sát – tôi được Quốc hội bầu làm
chủ tịch “Ủy ban điều tra vụ ám sát DB Trần Văn Văn”. Tôi tiến hành cuộc điều
tra một cách hăng say và cũng rất thơ ngây! Đầu tiên tôi yêu cầu Tổng nha cảnh
sát phải cung cấp cho tôi chứng cứ người ám sát ông Trần Văn Văn là “Việt cộng”
như trung tá Loan đã công bố với báo chí. Tiếp đó tôi đòi Tổng nha tổ chức cho
tôi buổi gặp riêng với “thủ phạm” Võ Văn Em mà không có sự chứng kiến của bất
cứ người thứ ba nào.
Diễn tiến buổi gặp do
Tổng nha cảnh sát tổ chức ngay tại Tổng nha có vẻ đáp ứng các yêu cầu của tôi
với tư cách là chủ tịch Ủy ban điều tra Quốc hội. Điều mà tôi không hay biết là
đại tá Loan đã giăng sẵn cái bẫy ở phía sau. Khi tôi vào gặp nhân vật có tên là
Võ Văn En, theo Tổng nha là người đã cầm súng ngắn hạ sát ông Văn và thuốc súng
còn tìm thấy trên bàn tay của Võ Văn En lúc bị bắt cách hiện trường không xa,
thì đúng như yêu cầu của tôi: trong phòng riêng chỉ có tôi và anh En. Tôi bước
vào và ra dấu cho En không nói gì cả và để tôi kiểm tra xem trong phòng có đặt
máy nghe lén không. Ngoài một cái bàn và hai cái ghế, trong phòng chẳng có một
vật nào khác. Bố bức tường cũng hoàn toàn trống trải. Tôi không thấy chỗ nào
cảnh sát có thể đặt máy. Cuộc nói chuyện giữa tôi và anh En có thể tóm lược như
sau: En cho rằng anh chỉ lái xe máy chở một người lạ mặt thuê anh, còn người
cầm súng bắn ngồi phía sau anh đã tẩu thoát. Về phần tôi, tôi nói với En nếu
anh không phải là thủ phạm thì phải cương quyết phản đối, tối sẽ giúp anh làm
việc đó. Nếu không phản đối quyết liệt, họ có thể xử kín và thủ tiêu anh.
Về nhà, tôi chuẩn bị
một bản tường trình để ngày mai báo cáo với các thành viên trong Ủy ban điều
tra và sau đó là trước phiên họp khoáng đại của quốc hội. Thật bất ngờ: sáng
hôm sau khi vừa bước vào phòng họp Quốc hội, tôi thấy trên bàn của mỗi dân biểu
đều có một tập hồ sơ của Tổng nha cảnh sát với nội dung: “Dân biểu Lý Quý Chung
đã xúi giục Võ Văn En phản cung như thế nào?”. Kèm theo những lời lẽ lên án tôi
và đòi Quốc hội “phải có thái độ với dân biểu Lý Quý Chung” là một tài liệu ghi
lại nguyên văn cuộc nói chuyện của tôi với bị cáo Võ Văn En. Tài liệu ghi lại
chính xác cuộc nói chuyện từng lời, điều đó chứng tỏ Tổng nha đã tổ chức ghi
băng toàn vẹn cuộc gặp này. Sau này tôi mới biết từ thời đó đã có những thiết
bị hiện đại nghe lén, không cần đặt máy thu trực tiếp trong phòng.
Trước sự việc quá bất
ngờ, trấn tĩnh một lúc lâu tôi mới tìm ra cách gỡ bí. Trước hết hồ sơ của Tổng
nha cảnh sát phổ biến trong phòng họp Quốc hội nhưng lại không có chữ ký cho
phép của Chủ tịch Quôc hội, như vậy đây là một tài liệu phổ biến vi phạm nội
qui của Quốc hội. Mặt khác Tổng nha cảnh sát đã vi phạm nguyên tắc đã được Ủy
ban điều tra đề ra: cuộc gặp chỉ diễn ra giữa hai người và nội dung không được
tiết lộ trước khi Ủy ban điều tra có bản báo cáo của mình trước Quốc hội. Khi
phiên họp khoáng đại vừa bắt đầu, tôi lên diễn đàn ngay và yêu cầu ông Chủ tịch
Phan Khắc Sửu ra lệnh thu hồi tất cả các tài liệu được phân phát bất hợp pháp
trong Quốc hội vì không có ý kiến chấp thuận của Chủ tịch. Ông Phan Khắc Sửu
đáp ứng ngay yêu cầu của tôi. Ở đây cần nói thêm về con người của cụ Sửu: khi
cụ được đưa lên làm Quốc trưởng thay trung tướng Dương Văn Minh, cụ đã tỏ ra là
một con người không dễ dàng để cho phe quân nhân nhào nắn. Cuộc đối đầu của
Quốc trưởng Phan Khắc Sửu với Thủ tướng Phan Huy Quát khiến cho chính phủ này
phải sụp đổ (và chức vụ Quốc trưởng của ông cũng bị dẹp bỏ luôn!). Trong suốt
thời gian cụ Sửu làm Chủ tịch Quốc hội, cụ dã tương đối giữa được tư cách của
một nhân sĩ có tinh thần dân tộc và không chịu bán mình cho chính quyền dù luôn
phải đối phó với rất nhiều áp lực.
Do sự cố kể trên, Ủy
ban điều tra do tôi làm chủ tịch đã tự giải tán để phản đối thái độ “hợp tác
không trung thực của Tổng nha cảnh sát”. Thật sự quyết định giải tán này cũng
nhằm tránh sự bế tắc mà ủy ban chắc chắn sẽ gặp phải.
Từ khi tôi làm chủ tịch
Ủy ban điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn, đi đâu tôi cũng bị hai cảnh
sát chìm theo dõi. Tôi đưa việc này ra Quốc hội và tố cáo trên diễn đàn. Tôi
cho đó là một hành động đàn áp tinh thần nhằm vào dân biểu đối lập. Đối phó
lại, trung tá Nguyễn Ngọc Loan gửi một công văn cho Quốc hội, giải thích rằng
Tổng nha cảnh sát buộc lòng làm điều này là để bảo vệ tính mạng của một số dân
biểu có nguy cơ bị Việt cộng ám sát, trong đó có tôi (!). Tổng nha cảnh sát
cũng gởi riêng cho tôi một công văn, đặt vấn đề với tôi phải chấp nhận một
trong hai biện pháp bảo vệ: Cảnh sát chìm – như đang diễn ra hoặc chính thức
nhận hai cận vệ thuộc phòng bảo vệ yếu nhân. Còn nếu tôi từ chối cả hai biện
pháp bảo vệ do Tổng nha đề ra thì phải trả lời chính thức bằng văn bản và Tổng
nha không còn chịu trách nhiệm về vấn đề an ninh của tôi.
Đây là một cách bắt bí
của Tổng nha cảnh sát. Hoặc tôi phải chấp nhận sự theo dõi ngày đêm của họ hoặc
có thể trở thành mục tiêu của một hành động mờ ám nào đó mà mình không có quyền
kêu ca! Tôi đem việc này hỏi ý kiến cha tôi. Theo cha tôi, việc Tổng nha có
theo dõi tôi chẳng phiền hà gì cho lắm vì các hoạt động của tôi đều công khai.
Tôi chẳng phải là “Việt cộng nằm vùng” mà cũng không làm việc cho CIA. Ngược
lại nếu từ chối sự “bảo vệ” của họ nghĩa là tôi sẽ cung cấp cho họ lý do chính
thức phủi sạch trách nhiệm về những gì có thể xảy ra với tôi. Vào thời điểm
này, không ai đoán trước được trung tá Loan sẽ ra tay với ai và lúc nào. Cái
chết đầy bí ẩn của đại tá Phạm Ngọc Thảo sau cú đảo chính hụt tháng 2-1965- mà
nhiều người cho rằng kẻ ra tay là đàn em của trung tá Loan - trong nhiều năm là
một ám ảnh đe dọa đối với nhiều giới hoạt động chính trị tại Sài Gòn. Đại tá
Thảo bị cảnh sát chìm của trung tá Loan phục kích bắt tại địa phận thuộc một
nhà thờ công giáo ở miền Đông, nơi ông đang trốn với sự tiếp tay của cha xứ tại
đây. Khi bị bắt, sức khỏe của đại tá Thảo tuy yếu vì bị trúng đạn trong lúc
chạy trốn, nhưng tính mạng không hề bị đe dọa. Theo một nguồn tin đáng tin cậy,
chính trên chiếc máy bay trực thăng đưa đại tá Thảo về Sài Gòn, các đàn em của
đại tá Loan đã ra tay bằng cách bóp vào tinh hoàn đại tá Thảo cho đến khi tắt
thở. Lúc trực thăng đáp xuống sân Tổng tham mưu thì đại tá Thảo đã chết. Sự
thật như thế nào là một dấu hỏi. Sau này trong hồi kỳ của mình, tướng Nguyễn
Cao Kỳ có nhắc đến cái chết của đại tá Thảo nhưng cho rằng ông chết trong tù
sau mấy tuần bị giam và bị đánh đập.
Mặc dù chỉ là một cấp
thừa hành trong guồng máy chính quyền đứng đầu ngành cảnh sát nhưng trung tá
Loan – sau thăng đại tá – tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của
Kỳ, chẳng coi ai ra gì. Các phiên họp nội các do thủ tướng Kỳ chủ trì, đáng lý
chỉ có các Bộ trưởng hoặc cấp ngang Bộ trưởng dự nhưng gần như luôn luôn có sự
hiện diện của trung tá Loan với khẩu súng “ru lô” mang kè kè bên hông! Có lần
trung tá Loan can thiệp thô bạo vào một vụ việc của Bộ kinh tế ngay trong buổi
họp nội các khiến lãnh đạo Bộ này đe dọa đưa đơn từ chức, việc này đã gây nên
một cuộc khủng hoảng nội các.
Sau này cả dân biểu
Quốc hội cũng bị trung tá Loan trực tiếp đe dọa: trong một phiên họp Quốc hội
lập hiến (năm 1967), lúc đó tướng Kỳ còn là thủ tướng, trung tá Loan đã xuất
hiện trên bao lơn tầng trên của phòng họp (khu loge của Nhà hát) bên hông vẫn
đeo khẩu súng kè kè. Trung tá Loan có mặt ở đây theo lệnh của tướng Kỳ nhằm gây
áp lực cuộc bỏ phiếu của dân biểu để hợp thức hóa kết quả bầu cử liên danh tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ. Từ dưới hàng ghế phòng họp nhìn lên,
tôi thấy trung tá Loan đi qua đi lại với vẻ đầy tự tin như thể đang đi bách bộ
trong văn phòng riêng của mình. Tôi không phải là người duy nhất phát hiện sự
có mặt của ông Loan trên tầng trên, nhiều dân biểu cũng ngước nhìn lên nhưng
không ai có phản ứng gì. Rõ ràng đây là một xúc phạm đối với định chế quốc gia
dù cho định chế này được giới cầm quyền Sài Gòn dựng lên với ý đồ sử dụng nó
như một thứ trang trí dân chủ. Tôi bước ngay lên diễn đàn và đặt vấn đề với chủ
tịch Hạ nghị viện Phan Khắc Sửu: “Dân biểu chúng tôi không thể tiếp tục họp
dưới áp lực của trung tá Tổng giám đốc cảnh sát, vả lại nội qui của quốc hội
cấm mang súng vào phòng họp nếu không có phép của Chủ tịch. Do đó tôi yêu cầu
ông Chủ tịch mời trung tá Nguyễn Ngọc Loan rời khỏi phòng họp, nếu không chúng
tôi sẽ ngưng họp và chính chúng tôi sẽ rời khỏi phòng họp Quốc hội”. Liền đó
Chủ tịch Hạ nghị viện đã công khai yêu cầu trung tá Loan ra khỏi phòng họp và
ông Loan không thể làm gì khác hơn là chấp hành lệnh của chủ tịch Hạ Nghị Viện.
Thế là đã có hai lần
tôi “đụng đầu” trung tá Nguyễn Ngọc Loan từ cuộc điều tra vụ ám sát dân biểu
Trần Văn Văn đến vụ phản đối ông ta xuất hiện tại buổi họp của Hạ nghị viện.
Nhưng lần thứ ba, cuộc gặp giữa ông ta và tôi đã diễn ra trong một bối cảnh
hoàn toàn khác. Trung tá Nguyễn Ngọc Loan bị Việt cộng bắn gãy chân trong cuộc
tổng công kích Tết Mậu thân, nằm trong bệnh viện Grall (nay là bệnh viện Nhi
đồng 2). Một đồng viện của tôi cũng thuộc phe đối lập đưa ra ý kiến: bây giờ
trung tá Loan đã gãy chân, sắp mất hết quyền lực, đi thăm ông ta lúc này cũng
nên lắm. Cần nhắc lại trung tá Loan bị bắn gãy chân chỉ ít ngày sau vụ ông ta
tự tay cầm súng ngắm bắn vào đầu một quân giải phóng bị trói tay ra sau lưng và
đứng cách ông ta không hơn một mét. Đây là một hành động trái với công ước
Genève về tù binh chiến tranh, còn về mặt con người thì mất hết tính người, xảy
ra giữa đường phố Sài Gòn hết sức dã man. Tướng Kỳ sau này có những lời biện hộ
cho chiến hữu của mình, nhưng hình ảnh về sự kiện nay mau chóng loan truyền
trên khắp thế giới đã tiêu hủy cuộc đời chính trị của Nguyễn Ngọc Loan (sau này
được thăng cấp đại tá) và cả cái “chính nghĩa” mà người Mỹ cố gắng xây đắp
trong cuộc chiến tại miền Nam. Người đã ghi lại và truyền đi hình ảnh khủng
khiếp của vụ “hành quyết giữa đường phố” khiến cho cả thế giới xúc động và góp
phần cho phong trào phản chiến nổi lên khắp nơi, nhất là tại Mỹ, chính là phóng
viên ảnh Eddie Adams của hãng tin AP (Associated Press). Chứng kiến cảnh tượng
dã man này còn có một cameraman người Việt Nam tên Võ Sửu, cộng tác cho đài
truyền hình Mỹ National Broadcasting Company, có mặt đúng lúc trung tá Loan nổ
súng vào đầu người lính Việt cộng. Với bức ảnh này, nhà báo Eddie Adams được
trao giải Pulitzer. Nhưng không hiểu sao người ta ít nhắc tới cameraman Võ Sửu.
Khi tôi vào thăm trung
tá Loan tại bệnh viện Grall, trong phòng của ông ta có bà Đặng Tuyết Mai – vợ
của tướng Kỳ - đã đến trước. Ông Loan nằm trên giường, đắp một chiếc mềm mỏng
ngang ngực, nói năng vẫn to tiếng như mọi khi. Ông ta kể cho bà Kỳ nghe: “Tôi
là người đầu tiên nhận huy chương mà không mặc quần”. Vừa nói ông ta vừa chỉ
phần dưới thân thể của mình để cho những người hiện diện hiểu rằng dưới lớp mềm
của ông ta chẳng có gì mặc cả, khi ông ta được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào
tận giường bệnh gắn huy chương. Bà Kỳ không thể nín cười sau điều tiết lộ của
Nguyễn Ngọc Loan. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp ông ta. Hai tháng sau, khi trung
tướng Nguyễn Văn Thiệu đã củng cố cái ghế tổng thống của mình, ông ta liền đưa
đại tá Trần Văn Hai lên thay Nguyễn Ngọc Loan (lúc này đã là đại tá) ở chức vụ
Tổng giám đốc Tổng nha cảnh sát. Từ đó đại tá Loan chìm vào quên lãng trên
chính trường Sài Gòn, thỉnh thoảng chỉ được nhắc tới khi báo chí thế giới đưa
trở lại bức ảnh của phóng viên Mỹ Eddie Adams. Tại Mỹ sau 1975, ông Loan gặp
nhiều khó khăn trước khi được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ do có một số người Mỹ
phản đối tư cách của ông Loan bằng cách nêu trở lại chuyện ông hành quyết người
lính Việt cộng trên đường phố. Nghe nói khi ông Loan chết, phóng viên nhiếp ảnh
Eddie Adams có đến dự đám tang.
Trong cuộc tổng tiến
công Tết Mậu thân 1968, phe của phó tổng thống Kỳ chịu thiệt hại khá nặng.
Ngoài trường hợp Nguyễn Ngọc Loan bị loại, nhiều đàn em thân cận của ông Kỳ đã
bị một máy bay trực thăng chiến đấu của quân đội Mỹ “bắn lầm” làm thiệt mạng 6
sĩ quan và nhiều người bị thương tại một trường người Hoa ở khu vực Chợ Lớn.
Theo ông Kỳ, chính tổng thống Thiệu âm mưu với người Mỹ định giết ông. Ông Kỳ
còn quả quyết rằng trên chiếc trực thăng đã bắn rocket xuống trường học ở Chợ
Lớn có sự hiện diện của đại tá Trần Văn Hai là tay chân thân cận của tướng
Thiệu.
… Trở lại thời điểm
quốc hội lập hiến (1966-1967), cuối cùng tôi đã đồng ý nhận hai cảnh sát thuộc
“phòng bảo vệ yếu nhân” do Tổng nha cảnh sát của Nguyễn Ngọc Loan gửi đến. Rất
may mắn, hai nhân viên cảnh sát chìm này biết cư xử đúng cương vị của mình, lễ
độ và hợp tác. Chính cách đối xử của vợ chồng tôi cũng tạo được phần nào tình
cảm gắn bó giữa hai người đối với gia đình tôi. Mỗi lần “phòng bảo vệ yếu nhân”
ở Tổng nha cảnh sát muốn thay hai người mới tôi đều phản đối với lý do: nhận
người lạ đến bảo vệ, tôi không an tâm. Hai cảnh sát chìm này: Phan Xuân Trường
(25 tuổi) và Nguyễn Văn Bé (20 tuổi) làm cận vệ cho tôi suốt 10 năm, từ Quốc
hội lập hiến (1996) cho đến ngày 30 -4-1975! Sau này tôi được biết người đã tạo
điều kiện cho hai anh Trường và Bé gắn với tôi lâu dài chính là trung tá cảnh
sát Lâm Chánh Bình trong Tổng nha. Trung tá Bình bà con với anh Lâm Phi Điểu là
một người bạn thân và là đồng viện của tôi trong Quốc hội lập pháp.
Anh Bé được vợ tôi cho
tiền học thêm nghề lái xe để lái chiếc xe riêng của tôi, khi tôi xuất bản tờ
báo Tiếng nói Dân tộc. Còn anh Trường làm thêm công việc liên lạc,
thu tiền quảng cáo cho báo. Như thế cả hai đều có thêm một đầu lương phụ giúp
gia đình họ. Ngay năm đầu hai người làm việc với tôi, tôi đã chứng minh cho cả
hai hiểu rõ: từ nay dù muốn hay không, số phận của họ cũng bị buộc chặt với
tôi. Nếu tôi bị ám sát thì kẻ chủ mưu đến từ phía chính quyền chứ không thể từ
phía “Việt cộng”. Do các hoạt động chống chính quyền, chống chiến tranh và
chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam của tôi rất dễ dàng xác định phía
hãm hại tôi là ai nếu có chuyện đó xảy ra. Và khi tay chân của chính quyền Sài
Gòn ra tay nhằm vào tôi thì họ sẽ không chừa hai người cận vệ để đánh lạc hướng
dư luận. Như vậy hai anh Bé và Trường phải triệt để cảnh giác nguy cơ có thể
đến từ chính cơ quan của mình. Ngồi trên ô tô do Quốc hội cấp cho tôi, hai anh
luôn cẩn trọng theo dõi những chiếc xe máy vượt lên hai bên hông ô tô. Buổi
sáng họ kiểm tra xe rất kỹ đề phòng gài mìn. Hàng tuần một trong hai người vẫn
phải vào cơ quan của họ để báo cáo hoạt động và chuyện đi đứng của tôi. Họ cho
tôi biết điều đó. Trong 10 năm sống với tôi, họ cùng chia sẻ mọi sự căng thẳng,
khó khăn. Khi tôi mở cuộc họp báo chống chính phủ hoặc “xuống đường” biểu tình,
tôi bảo họ ở lại nhà để tránh cho họ khỏi lúng túng trước những tình huống khó
xử: không biết phải can thiệp thế nào trước sự đàn áp của các đồng nghiệp cảnh
sát nhắm vào người mà mình có trách nhiệm bảo vệ. Suốt thời gian 10 năm tôi
chẳng có gì phiền hà về họ. Giữa hai người, lúc đầu, tôi có chút nghi ngờ
Trường vì cấp bậc của Trường là trung sĩ cảnh sát, từng được đào tạo ở trại
huấn luyện đặc biệt của quân đội Mỹ ở Thái Lan. Nhưng sau ngày đất nước thống
nhất, thật vô cùng bất ngờ tôi mới biết Trường lại là một “Việt cộng” nằm vùng.
Cả gia đình anh ở Bến Tre đều tham gia cách mạng, bản thân anh từ tuổi thiếu
niên đã cầm súng chiến đấu. Bị bắt trong lúc hoạt động tại Sài Gòn, vào trong
khám bắt liên lạc trở lại với tổ chức, ra tù anh được tổ chức đưa vào Tổng nha
làm cảnh sát, nhưng sau đó mất liên lạc với người giới thiệu, do đó tình cảnh
của Trường sau ngày 30-4-1975 không thể tránh lận đận một thời gian. Cố nhà báo
Huỳnh Bá Thành, nguyên Tổng biên tập báo Công an TP. HCM đã từng viết giấy xác
nhận cho Trường vì trước 1975, anh Huỳnh Bá Thành thường lui tới nhà tôi và hay
gặp Trường. Tôi không biết họ có nói gì, bàn gì với nhau vào lúc ấy hay không.
Sau 1975, anh Trường bị
“kẹt” trong trại học tập cải tạo một thời gian ngắn và khi trở về anh có thăm
hai vợ chồng tôi. Lúc đó anh mới nhắc lại một sự việc xảy ra trước 1975. Số là
trong thời gian anh Nguyễn Hữu Thái, sinh viên kiến trúc, bị cảnh sát Sài Gòn
săn lùng, anh đã trốn ở tầng 3 trong nhà tôi cả năm (từ 1974-1975). Ban đầu,
anh Thái xin “tá túc” ở chùa Ấn Quang nhưng Thượng tọa Thích Trí Quang có mời
tôi đến và cho biết sự theo dõi rất chặt chẽ của cảnh sát nên không thể để anh
Thái ở chùa. Thượng tọa Trí Quang gợi ý tôi đưa anh Thái trốn trong “Dinh Hoa
Lan” của đại tướng Dương Văn Minh. Nhưng ở đây đã có số người “lánh nạn” khá
đông: ông Nguyễn Văn Cước, một nhà hoạt động công đoàn, cựu dân biểu Dương Văn
Ba, nhà báo Nguyễn Đình Nam. Không còn cách nào khác, tôi đã nhận che giấu anh
Thái tại nhà mình.
Hai cảnh sát chìm được
tổng nha gửi “bảo vệ” tôi, anh Trường và anh Bé, dĩ nhiên cũng “ngửi” thấy có
người lạ trên tầng 3. Anh Trường kể lại: một hôm anh Bé báo cáo với anh Trường
(là tổ trưởng) rằng anh vừa lục thấy trong phòng, nơi anh Thái trốn, có thư
chúc Tết của Hồ Chủ Tịch. Anh Bé phát hiện việc này khi anh Thái vào buồng tắm.
Anh Bé có ý định báo cáo với “phòng bảo vệ yếu nhân” – cơ quan của mình. Anh
Trường rất lúng túng, nhưng nhanh chóng nghĩ ra cách đối phó. Anh khuyên anh Bé
“không nên hấp tấp, anh Thái là một sinh viên, những hoạt động như thế này
chẳng có gì thật ghê gớm. Nếu mình báo cáo dĩ nhiên ông Chung sẽ được Tổng nha
tra hỏi và ông sẽ biết sự việc này. Phản ứng của ông chắc chắn là trả mình về
Tổng nha. Mình sẽ mất một đầu lương không và không chắc tìm được một chỗ yên ổn
như ở đây”. Theo anh Trường thì mình nên theo dõi tiếp xem sao rồi hãy quyết
định cũng không muộn”. Thế là anh “trung sĩ – cảnh sát viên” Phan Xuân Trường
đã âm thầm cứu anh Thái khỏi bị rơi vào tay cảnh sát Sài Gòn mà anh Thái không
hề hay biết.
...Trong thời gian làm
dân biểu Quốc hội lập hiến, sau khi kết thúc nhiệm vụ chủ tịch Ủy ban điều tra
vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn, tôi được bầu tiếp làm chủ tịch Ủy ban cứu xét
các vụ án chính trị. Ủy ban này thật sự không giở lại từng hồ sơ các vụ án chính
trị xảy ra dưới chế độ Diệm đàn áp Phật giáo, hoặc sau 1 -11- 1963 đến phiên
những người Công giáo và những người thân chế độ Diệm bị tù tội và tịch thu tài
sản. Chủ trương của Quốc hội lập hiến là ra một đạo phật “đại xá” cho cả hai
phía, kể cả việc hoàn trả tài sản. Quốc hội lập hiến đúng ra chỉ có một Ủy ban:
Ủy ban dự thảo Hiến pháp do một luật sư đứng đầu. Còn một Ủy ban kia (Ủy ban
điều tra vụ ám sát và Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị) được thành lập nhằm
đáp ứng những yêu cầu đặc biệt.
Để soạn thảo bản dự
thảo luật “Cứu xét các vụ án chính trị”, tôi mời chuyên viên luật Vương Văn Bắc
– luật sư và là giáo sư Học viện quốc gia hành chính. Trong lúc soạn thảo dự
luật này, tôi có tiếp một người khách đặc biệt tại nhà: Ông Nguyễn Văn Bửu, chủ
đoàn tàu buôn lớn nhất Sài Gòn và là nhà kinh tài nổi tiếng của gia đình Ngô
Đình Diệm. Ông đề nghị, thông qua một người thân của tôi, trao cho tôi một số
tiền lớn để tôi can thiệp trả lại tài sản cho ông. Lúc này tôi không còn ở cái
phòng thuê chật hẹp hôi tanh mùi bùn quanh năm bên kinh Nhiêu Lộc và đã dọn về
một căn phố tuy khá hơn trên đường Nguyễn Tri Phương, bề ngang 3 mét, bề dài 12
mét nhưng vào mùa nóng không khí trong nhà không thua lò nướng bánh mì. Ông Bửu
đến nhà tôi vào một buổi trưa như thế. Tôi trả lời ông ngắn gọn: “Ông yên tâm
về nhà. Quốc hội sẽ ra một đạo luật rất có thể bao gồm cả trường hợp của ông.
Chuyện của ông được hay không được là do đạo luật đó chứ không thể do sự can
thiệp riêng của tôi”. Vợ tôi ở phòng trong nghe rất rõ đề nghị của ông với số
tiền rất lớn và cũng nghe sự từ chối của tôi. Khi ông Bửu về, Quỳnh Nga đã vui
vẻ tán đồng thái độ của chồng mình.
Cũng trong thời gian
làm chủ tịch Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị, tại văn phòng của mình ở Quốc
hội tôi đã tiếp một người khách khác cũng khá đặc biệt. Khi cô thư ký đưa cho
tôi phiếu xin tiếp, thấy tên, tôi đã nhớ ngay con người này. Ông là cựu trung
tá tỉnh trưởng Ba Xuyên (Sóc Trăng) – thời ba tôi làm phó tỉnh trưởng hành
chính tại đây. Ông cựu trung tá này là “con cưng” của ông Diệm, là một thứ hung
thần đối với người dân địa phương những năm 1962-1963. Cha tôi từng là nạn nhân
của ông ta. Có lẽ do không thể tự do thao túng vấn đề tiền bạc và ngân sách
tỉnh nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của phó tỉnh trưởng hành chính, tức cha
tôi, nên ông tìm đủ mọi cách hãm hại và loại trừ cha tôi. Ông gửi nhiều báo cáo
mật về Bộ nội vụ ở Sài Gòn tố cáo cha tôi có quan hệ với “Việt cộng”. Dĩ nhiên
đây là chuyện hoàn toàn bịa đặt. Cha tôi tình cờ biết được việc này nhờ bạn bè
ở Bộ nội vụ tiết lộ với ông. Đám cưới của tôi tổ chức tại Ba Xuyên năm 1962 có
vợ chồng trung tá tỉnh trưởng này dự. Cho nên khi ông ta vừa bước vào phòng,
tôi nhận ra ngay. Ông ta già hẳn đi, không còn cái vẻ tự mãn và hách dịch của
năm năm về trước. Chuyện bể dâu thật đáng sợ. Con người toan tính hãm hại cha
tôi đang ngồi trước mặt tôi. Ông không dám nhìn thẳng tôi và rụt rè ngồi xuống
ghế. Ông trình bày một mạch trường hợp ông bị bắt, giam cầm và tịch thu tài sản
sau khi chế độ Diệm sụp đổ. Nguyện vọng của ông là được cứu xét xóa án và hoàn
trả tài sản. Tôi không muốn kéo dài không khí căng thẳng cho ông, liền mở lời:
“Có phải ông là trung tá HMT? Tôi là con trai của Lý Quí Phát. Chắc trung tá
còn nhớ, trung tá có dự đám cưới của tôi. Tôi thông cảm trường hợp của trung tá
nhưng tôi không có thẩm quyền can thiệp cho từng trường hợp. Sẽ có một đạo luật
ra đời giải quyết chung các trường hợp như của trung tá”. Có lẽ ông ta không
ngờ người con của nạn nhân mà ông từng ra tay hãm hại lại tiếp ông đàng hoàng
như thế. Tôi có kể lại cho cha tôi nghe cuộc gặp gỡ này, cha tôi nói “Con xử sự
như vậy là đúng”.
Quốc hội lập hiến kéo
dài một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính trị tại
nghị trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua mạng
lưới báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với các
vấn đề dân chủ, chiến tranh, hòa bình v.v… Vào thời điểm này, báo chí Sài Gòn
chưa bị chính quyền kiểm soát hoàn toàn vì giữa tướng Kỳ và tướng Thiệu vẫn
chưa ngã ngũ ai là người nắm trọn quyền hành. Cả hai đều còn trong tư thế chờ
đợi trước cuộc chạy đua giành chức tổng thống sẽ diễn ra. Thực tế cuộc chạy đua
ấy bắt đầu sớm hơn ngày bầu cử chính thức. Nó diễn ra ngay sau khi hiến pháp
được Quốc hội biểu quyết và trọng tài tối cao cho vòng sơ tuyển này không ai
khác hơn là người Mỹ. Nói cách nào đó, cuộc bầu tổng thống ở miền Nam diễn ra
hai vòng. Vòng đầu ở hậu trường trong bóng tối mới mang tính quyết định. Ứng cử
viên được người Mỹ chọn đương nhiên sau đó sẽ đắc cử tổng thống.
Khi Quốc hội lập hiến
hoạt động được ít tháng, tôi đã phải có một quyết định liên quan đến mối quan
hệ giữa tôi và Phong trào Phục hưng miền Nam (PTPHMN), Kỹ sư Võ Long Triều,
đứng đầu PTPHMN, thấy rằng ông không thể lèo lái khối Dân tộc như ý muốn của mình
nên có ý định thay tôi và đặt vào vị trí trưởng khối Dân Tộc một dân biểu khác
của PTPHMN trung thành với ông. Tôi đã bác bỏ ý kiến này vì hai lý do: 1. Khối
Dân tộc được lập không gồm duy nhất các dân biểu PTPHMN, số đông ngoài tập hợp
này chủ yếu do cá nhân tôi vận động. 2. Mặt khác, do qui tụ nhiều thành phần
dân biểu khác nhau, khối Dân tộc không chấp nhận sự chi phối của riêng một tổ
chức chính trị nào.
Sự bất đồng giữa tôi và
ông Triều chính thức nổ ra sau sự kiện này. Hơn nữa sự thiếu thuyết phục về mặt
lý tưởng của PTPHMN đã khiến tôi quyết định tách ra khỏi phong trào này – đó
cũng là tổ chức chính trị duy nhất mà tôi có dính líu trong suốt cả thời kỳ
hoạt động trước năm 1975. Nó không để lại cho tôi một dấu ấn nào vì thật sự nó
không vạch được đường hướng nào đáp ứng hoàn cảnh đất nước, mà theo tôi đây
cũng chỉ là một nhóm áp lực nhằm gây thanh thế chính trị cho cá nhân mà thôi.
Những con người đầy thiện chí có mặt trong Chương trình Phát triển quận 8 (một
chương trình chủ lực của PTPHMN) giành được sự ủng hộ của dân chúng địa phương
chủ yếu do các hoạt động xã hội của chính bản thân họ như bác sĩ Hồ Văn Minh,
anh Hồ Ngọc Nhuận… Tuy nhiên tôi không thể phủ nhận ông Võ Long Triều là người
đã có một ảnh hưởng khá lớn trong sự khởi đầu bước đường chính trị của tôi.
… Thật sự không dễ dàng
cho một thanh niên như tôi tự mò mẫm tìm con đường đi giữa một chính trường Sài
Gòn cực kỳ hỗn loạn. Các đảng phái mọc như nấm, có đến hàng trăm bảng hiệu, có
nhiều đảng chỉ vài người. Tình hình này khiến cho đảng phải ở Sài Gòn trong
những năm 60 và 70 trở thành một trò hề, bị báo chí và dư luận thường xuyên
giễu cợt. Tôi tự vạch con đường đi cho mình với một thứ ánh sáng duy nhất xuất
phát từ con tim: đó là lòng yêu nước rất đơn sơ với mong muốn Tổ quốc của mình
được độc lập, hòa bình và thống nhất. Trước mắt, sự can thiệp của người Mỹ phải
chấm dứt, người Việt Nam yêu thương nhau và nước Việt Nam phải là của người
Việt Nam. Thái độ chính trị của tôi trong suốt những năm tháng đất nước chiến
tranh được chọn lựa và không ngừng điều chỉnh theo tiêu chí rất chung chung như
thế, “bạn – thù” cũng được căn cứ như thế để nhận diện. Tôi không có một ngọn
đuốc lý tưởng nào thật cụ thể soi rọi. Khi tôi mới bước vào lãnh vực chính trị
và trở thành dân biểu Quốc hội lập hiến, dù sớm chọn chỗ đứng đối lập với chính
quyền Sài Gòn nhưng lúc đó tôi vẫn tự coi mình thuộc về hàng ngũ “quốc gia”.
Nhưng từ Quốc hội lập pháp kỳ 1 (Hạ nghị viện 1967-1971), chỗ đứng chính trị
của tôi chuyển dịch vào giữa, được công khai hóa với bài xã luận ký tên của
mình trên báo Tiếng Nói Dân Tộc nói về thành phần những “người
Việt cô đơn”, “người Việt đứng giữa”, không đứng về phía chế độ Sài Gòn nhưng
cũng không đứng về phía người cộng sản. Tôi không tự coi mình thuộc thành phần
“quốc gia” nữa vì những năm tháng hoạt động trong lòng chế độ Sài Gòn, tôi đã
nhận ra đó là một chế độ không đại diện cho nhân dân miền Nam, phản dân chủ và
hoàn toàn không có khả năng bảo vệ chủ quyền đất nước. Đáng nói hơn nữa, đó là
một chế độ hiếu chiến, không hề tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho đất nước.
Tôi cũng không đứng về phía cộng sản bởi lý do đơn giản: gần như tôi không biết
gì về người cộng sản. Nhưng từ năm 1971 trở về sau, sự chọn lựa chính trị của
tôi lại tiếp tục chuyển dịch: tham gia nhóm chính trị do đại tướng Dương Văn
Minh đứng đầu. Cùng với nhóm, chúng tôi chọn lập trường: “Nếu có chính phủ 3
thành phần theo Hiệp định Paris thì nhóm ông Minh sẽ hoạt động trong cương vị
thành phần thứ 3, nhưng sẽ liên kết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam
(MTDTGPMN) chứ dứt khoát không liên kết với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH)”.
Đó là sự chuyển dịch về
thái độ chính trị do những thực tế diễn tiến của đất nước, là kết quả của sự
đối chiếu lập trường chính trị, nhất là lập trường chiến tranh và hòa bình giữa
các bên. Đây hoàn toàn không phải là sự thay đổi lập trường vì thấy rằng ai là
người sắp sửa chiến thắng. Trước ngày 30-4-1975 một vài tháng, vẫn có nhiều
người không đoán được ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam và đoán được nó sẽ kết
thúc như thế nào. Huống hồ trước đó hai, ba năm! Chuyển dịch lập trường sang
hướng tả, nhiều anh em trong nhóm Dương Văn Minh từ năm 1971 ý thức rất rõ rằng
mình phải sẵn sàng chấp nhận các đòn đàn áp và triệt tiêu từ phía chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu. Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1974, tình hình gần như bế tắc đối
với giới thanh niên trí thức tiến bộ, kể cả các phần tử đối lập, tôi có gặp anh
Dương Văn Ba lúc đó đang “tị nạn chính trị” trong Dinh Hoa Lan của tướng Dương
Văn Minh, bàn chuyện tìm cách liên lạc với MTDTGPMN và chọn hẳn con đường hoạt
động bí mật. Tôi thừa biết nếu chế độ Thiệu đứng vững đến năm 1975 và tổ chức
bầu cử Hạ nghị viện lần ba thì tôi sẽ không có đất sống ở cái đất Sài Gòn này.
Nhất định tôi sẽ bị chế độ Thiệu xóa sổ!
Nhưng cả tôi lẫn anh Ba
chẳng ai biết cách nào để liên lạc với MTDTGPMN.
Để kịp thời hạn do
Washington đặt ra, hai tướng Thiệu, Kỳ buộc Quốc hội lập hiến phải họp cả ngày
lẫn đêm ở giai đoạn cuối cùng. Bản hiến pháp vừa được Quốc hội thông qua ngày
18-3-1967 thì liền đó chỉ hai ngày sau (20-3-1967), hai tướng Thiệu và Kỳ đã
vội vàng mang nó sang đảo Guam để tổng thống Mỹ Johnson duyệt. Chính ngoại
trưởng Henry Kissinger sau này đã nói rõ trong hồi ký của ông rằng hiến pháp
của chế độ Sài Gòn đã được thảo ra “với sự cố vấn và giúp đỡ của người Mỹ” (nguyên
văn: drafted with American advice and assistance). Tại đảo Guam có
mặt đầy đủ các nhà lãnh đạo Washington, từ tổng thống Johnson đến bộ trưởng
ngoại giao Dean Rusk và bộ trưởng quốc phòng McNamara. Cho đến lúc này, tướng
Kỳ có ảo tưởng mìh đang nắm tình hình chính trị ở Sài Gòn, lèo lái luôn cái Ủy
ban lãnh đạo quốc gia mà người đứng đầu là tướng Thiệu. Cả bản hiến pháp, ông
cũng tự xem là tác phẩm của ông. Do đó tại Guam, ông tự coi mình là người đối
thoại chính với tổng thống Johnson. Trong cuốn tự truyện của ông Kỳ “Đứa con
cầu tự” (Buddha’s child- Nhà xuất bản ST. Martins Press – New York), kể lại
rằng tại Guam, ông đã đề xuất với tổng thống Johnson một kế hoạch nhanh chóng
kết thúc chiến tranh Việt Nam bằng cách ngay sau cuộc bầu cử tổng thống ở miền
Nam, ông sẽ từ chức thủ tướng và đích thân ông sẽ chỉ huy một cuộc tấn công vào
miền Bắc với lực lượng quân đội Sài Gòn. Theo ông Kỳ, cuộc tấn công này buộc
Bắc Việt phải ra lệnh rút quân khỏi miền Nam và chấp nhận hòa bình. Trước đề
xuất này, T. T Johnson lạnh lùng quay qua nói với MacNamara: “Này Mac, hãy nói
cho tướng Kỳ biết chúng ta không tính đến chuyện đó”.
Tướng Kỳ luôn tìm cách
thúc đẩy giải pháp quân sự và vận động Mỹ dùng tối đa sức mạnh quân sự để giành
chiến thắng. Bản thân ông chưa chắc tin rằng một cuộc tấn công như thế sẽ khiến
miền Bắc “khuất phục”, nhưng có một điều ông biết khá chắc chắn là với cuộc
chiến đẩy lên cao, tất yếu vai trò và vị trí của ông trong chiến tranh sẽ được
củng cố. Nhưng với người Mỹ lúc này, ý đồ của họ là tạo ra một nền dân chủ giả
tạo tại miền Nam trước đã. Với một quốc hội dân cử và một tổng thống được dựng
lên, sự can thiệp của Mý vào Việt Nam sẽ có được một cái vỏ hợp pháp.
Ngay sau khi hiến pháp
vừa ban hành (ngày 18-3-1967), cuộc chạy đua giành ảnh hưởng của hai ông Thiệu
và Kỳ diễn ra ráo riết. Ngày 11-5-1967, ông Kỳ tuyên bố sẽ ra ứng cử, ngay sau
đó ông Thiệu cũng thông báo: “hoàn toàn có khả năng” ông sẽ ra tranh cử với ông
Kỳ. Tướng Kỳ liền dựa vào các tướng lĩnh thuộc phe mình để áp lực lượng Thiệu thay
đổi quyết định với lập luận: chính ông là người lãnh đạo miền Nam khá tốt trong
thời gian làm thủ tướng. Người được tướng Kỳ phái đi gặp tướng Thiệu để truyền
đạt ý kiến này là thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng, đang giữ chức bộ trưởng Bộ
Chiêu hồi trong nội các của Kỳ. Tướng Thắng khuyên Thiệu không nên ra ứng cử và
nên lui về đứng đầu quân đội. Thiệu bác bỏ đề nghị này và cho rằng Kỳ và phe
ông ta âm mưu đưa ông vào bẫy để loại bỏ ông. Thấy không lay chuyển được đối
thủ của mình, Kỳ triệu tập các tướng lĩnh đang nắm những vị trí quan trọng nhất
(theo Kỳ đây là bộ phận đầu não, một politburo của quân đội)
để hợp thức hóa sự chọn lựa ông với tư cách ứng cử viên chính thức và duy nhất
của quân đội. Theo Kỳ kể lại, ông được cuộc họp này bỏ phiếu nhất trí chọn ông,
nhưng cuộc họp lại không tìm ra giải pháp để buộc Thiệu tự nguyện rút lui khỏi
cuộc tranh cử. Tướng Kỳ cho rằng Thiệu không thể thắng cử mà không có sự ủng hộ
của quân đội, do đó cứ để Thiệu ứng cử với tư cách một ứng cử viên tự do và ông
ta sẽ dễ dàng bị đánh bại. Ông Kỳ còn toan tính cả việc đưa tướng Cao Văn Viên
thay tướng Thiệu ở cương vị Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia. Nhưng các toan
tính của Kỳ không hề lay chuyển tướng Thiệu vì Thiệu hiểu rất rõ rằng người
quyết định “ai là ứng cử viên của quân đội” chính là người Mỹ chứ không
phải các tướng lãnh Sài Gòn. Thiệu có thông tin khá chắc chắn là đại sứ Mỹ
Ellsworth Bunker – người được báo chí Sài Gòn đặt tên “ông già tủ lạnh” (có lẽ
do gương mặt lạnh lùng) vừa thay đại sứ Henry Cabot Lodge – và phần đông các
quan chức Mỹ cao cấp tại Sài Gòn đều nghiêng sự chọn lựa về mình. Kể cả tướng
William Westmoreland, người đứng đầu quân đội Mỹ tại miền Nam. Trong hồi ký của
Westmoreland về chiến tranh Việt Nam, xuất bản năm 1976, nhắc lại cuộc tranh
chấp giữa Thiệu và Kỳ giành quyền ứng cử tổng thống, tướng Westmoreland viết
rằng:
“Trong các ứng cử viên
dự kiến, tôi thấy Nguyễn Văn Thiệu là niềm hi vọng thật sự cho đất nước (miền
Nam Việt Nam)”. Với Nguyễn Cao Kỳ, Westmoreland mô tả bằng những từ như “flamboyant”
(khoa trương, cường điệu), “impetuous” (hay bốc).
Chính vì thế, dù cho
sau đó tướng Kỳ có lèo lái Ủy ban lãnh đạo quốc gia họp chính thức bỏ phiếu
chọn ông làm ứng cử viên của quân đội nhưng giờ chót Kỳ vẫn phải rút tên và
nhường cho ông Thiệu. Tướng Kỳ khi nhắc lại sự kiện này vẫn coi đây là một cử
chỉ fair play (chơi đẹp) của mình nhưng nhiều năm sau vẫn tiếc
rằng hành động “quân tử Tàu”- nhường cho Thiệu ra ứng cử tổng thống – là một
sai lầm trong cuộc đời chính trị của ông. Ông nói rằng chính sự nhân nhượng ấy
đã dẫn tới sự thất bại của phe chống Cộng ở miền Nam. Nhưng những người hiểu rõ
tình hình tranh giành quyền lực giữa Thiệu và Kỳ lúc đó thì Kỳ không thể làm gì
khác hơn trước áp lực của tòa đại sứ Mỹ. Đại sứ Bunker lúc ấy là một “quan toàn
quyền” đúng nghĩa. Ông muốn chọn ai là người ấy được. Ông Kỳ quá hiểu rằng đi
ngược lại ý muốn của người Mỹ là tự sát chính trị. Sau khi Kỳ rút lui thì Ủy
ban lãnh đạo quốc gia đề nghị Kỳ đứng phó trong liên danh ứng cử “để giữ sự
đoàn kết trong quân đội”. Cũng cần ghi nhận ở đây, với cuộc đấu đá giữa Thiệu
và Kỳ tranh giành ứng cử, người dân Sài Gòn phần đông không đứng về phía nào
cả, bởi trong thực tế họ đều bác bỏ cả hai.
Ngoài liên danh
Thiệu–Kỳ, có 10 liên danh khác của các nhân sĩ và đảng phải ghi danh ứng cử.
Trung tướng Dương Văn Minh đang sống lưu vong ở Bangkok, ngày 28-6-1967, cũng
lên tiếng đòi về nước tranh cử.
Nhưng Ủy ban quốc gia
chống lại ý định trở về của tướng Dương Văn Minh. Trong các liên danh dân sự,
có liên danh của ông Trần Văn Hương được đông đảo trí thức miền Nam ủng hộ. Tôi
là một trong những người tích cực vận động cho ông Hương. Chỗ dựa chính của ông
Hương vẫn là Hội Liên trường.
Nhân dịp tham gia phái
đoàn dân biểu dự cuộc họp của Hội liên hiệp nghị sĩ Á châu (APU) tại Bangkok,
tôi được ông Hương ủy nhiệm để tiếp xúc với ông Dương Văn Minh và yêu cầu ông
đưa ra lời tuyên bố ủng hộ ông Hương. Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với
trung tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh tiếp tôi tại câu lạc bộ thể thao cưỡi
ngựa ở Bangkok trong một buổi ăn trưa. Ông cho tôi biết tuyên bố của ông ra ứng
cử tổng thống chỉ nhằm mục đích tìm cách trở về Sài Gòn một cách hợp pháp thế
thôi, chứ không có ý định thật sự tranh chức tổng thống. Sau khi nghe tôi trình
bày lời yêu cầu của ông Hương, ông Minh hứa sẽ có lời tuyên bố ủng hộ ứng cử
viên Trần Văn Hương. Cuộc tiếp xúc ngắn ngủi ấy để lại trong tôi một ấn tượng
tốt đẹp về nhân vật mà báo chí Mỹ thường gọi là “Big Minh”, tức “Minh lớn”, để
phân biệt với một tướng Minh khác, Trần Văn Minh, được gọi là “Minh nhỏ”. Dĩ
nhiên, khi tiếp xúc lần đó với trung tướng Dương Văn Minh, tôi không làm sao
đoán ra rằng một phần cuộc đời sau này của tôi lại gắn bó với ông.
Trong cuộc vận động cho
ông Trần Văn Hương, tôi còn lãnh một ủy nhiệm khác của ông: đến thành phố Đà
Nẵng để mời bác sĩ Trần Đình Nam, một nhân sĩ có uy tín ở miền Trung, tham gia
liên danh của ông Hương với tư cách ứng cử viên phó tổng thống. Bác sĩ Trần
Đình Nam từng làm bộ trưởng thời chính phủ Trần Trọng Kim. Sau đảo chính Diệm
1963, bác sĩ Nam được mời vào Thượng hội đồng quốc gia, một định chế chính trị
được các tướng lãnh Sài Gòn lập ra. Hội đồng này là một thay thế tạm thời cho
quốc hội Sài Gòn đã bị giải tán. Chính ông Trần Văn Hương cũng được mời tham
gia Hội đồng này. Bác sĩ Nam, lúc đó gần 60 tuổi, đã tiếp tôi thẳng thắn bày tỏ
quan điểm của ông về chính quyền Sài Gòn như sau: ngày nào còn người Mỹ tại
miền Nam thì chính quyền Sài Gòn không thể có quyền tự quyết và không thể thoát
khỏi thân phận bị cầm tù. Bác sĩ Trần Đình Nam bảo tôi chuyển lời tới ông Hương
rằng ông không thể cùng ông Hương ra ứng cử tổng thống – phó tổng thống, và có
lời khuyên ông Hương nên rút lui ý định của mình vì không thể ra gánh vác việc
nước vào lúc này. Tôi rất cảm phục thái độ của ông Trần Đình Nam, nhưng lúc đó
tôi lại nghĩ thái độ đó quá khích hoặc bảo thủ. Nhiều năm sau nghĩ lại tôi mới
nhận ra rằng, trong cuộc tiếp xúc ấy, bác sĩ Trần Đình Nam đã cung cấp cho
chính bản thân tôi một bài học chính trị quý giá.
Cuối cùng ông Hương mời
ông Mai Thọ Truyền, hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, trụ sở chính nằm tại chùa
Xá Lợi, cùng đứng chung liên danh với ông. Tôi được ông Hương chọn làm người
phụ trách báo chí Việt Nam cho liên danh. Người phụ trách báo chí tiếng Anh là
giáo sư Tôn Thất Thiện. Người viết các bài diễn văn tranh cử cho ông Hương là
giáo sư Lý Chánh Trung. Các liên danh dân sự đáng chú ý khác gồm có: liên danh
của cụ Phan Khắc Sửu, của luật sư Trương Đình Dzu. Nhưng mạnh nhất vẫn là liên
danh Trần Văn Hương- Mai Thọ Truyền. Nếu phe cầm quyền, tức quân đội, không gian
lận phiếu thì chắc chắn liên danh Trần Văn Hương về đầu. Bấy giờ ông Hương là
gương mặt đối lập sáng nhất. Mọi người đều không tin cuộc bầu cử sẽ diễn ra
trung thực. Những người ủng hộ ông Hương cũng không có ảo tưởng rằng ông Hương
sẽ đắc cử. Nhưng cuộc bầu cử là một dịp để những người đối lập với chính quyền
có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình, áp lực mạnh mẽ hơn chống độc tài quân
phiệt và chống chiến tranh.
Đúng như sự tiên đoán
của các giới, liên danh Trần Văn Hương–Mai Thọ Truyền về đầu tại khu vực bầu cử
Sài Gòn – Gia Định, liên danh Nguyễn Văn Thiệu về nhì. Do có sự hiện diện của
khá đông quan sát viên quốc tế tại Sài Gòn và Gia Định, phe quân đội đã “thả
nổi” cuộc bỏ phiếu tại khu vực này, mặc dù họ cũng dùng rất nhiều đơn vị quân
đội đi bỏ phiếu nhiều lượt để hạn chế sự thất bại của họ. Còn ở các tỉnh thì họ
tha hồ gian lận. Các thùng phiếu đều bị đánh tráo khi được chuyển về các nơi
kiểm phiếu. Liên danh Thiệu – Kỳ về đầu trên toàn miền Nam với 35% phiếu, một
tỷ lệ thấp, chỉ được Washington công nhận sớm nhất. Dư luận quốc tế, kể cả phe
đồng minh của Mỹ, cũng tỏ ra dè dặt. Ở miền Nam, tuyệt đại đa số dân chúng
không ai coi đó là một kết quả trung thực. Ở các tỉnh, liên danh Trương Đình
Dzu, với chủ trương hòa bình và thương thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến
tranh, đã thu được một số phiếu khá cao (chỉ đứng sau liên danh Thiệu – Kỳ).
Theo hiến pháp, kết quả
bầu cử phải được Quốc hội hợp thức hóa. Đây là một âu lo không nhỏ cho Nguyễn
Văn Thiệu và phe ông. Mặc dù ông Kỳ đã lùi một bước, chịu đứng phó cho ông,
nhưng ông Thiệu thừa biết Kỳ không mặn mòi gì với địa vị phó tổng thống. Thậm
chí ông cũng đoán ra rằng Kỳ vẫn nuôi ý đồ phá vỡ cuộc hợp thức hóa bầu cử để
có cơ hội “xóa bài làm lại”. Một mặt ông Kỳ tiết lộ rằng ông không tán đồng đề
xuất của một nhóm dân biểu đến tìm ông để vận động bỏ phiếu chống lại sự đắc cử
của liên danh Thiệu tại quốc hội. Nhưng thực tế mà tôi chứng kiến với tư cách
dân biểu thì rõ ràng ông Kỳ đã ngầm ngầm khuyến khích các cuộc xuống đường phản
ứng của các giới chống lại sự hợp thức hóa kết quả bầu cử. Các dân biểu thuộc
phe ông được bật đèn xanh liên kết cùng phe đối lập để tạo áp lực chống Thiệu
và gây tình hình xáo trộn.
Thời điểm này, ông
Thiệu còn đơn độc, hậu thuẫn sau lưng ông còn mỏng, chưa đủ lực và tay chân để triệt
các đòn ngầm phá bĩnh của ông Kỳ. Chính lúc này, một tùy viện quân sự của
Nguyễn Văn Thiệu là trung tá Nguyễn Văn Đẩu, bạn quần vợt của cha tôi (khác với
trung tá cùng tên Đẩu nhưng là tùy viên quân sự của tướng Dương Văn Minh) tìm
gặp tôi để chuyển lời chính thức của trung tướng Thiệu muốn có một cuộc tiếp
xúc riêng với tôi. Mục đích của tướng Thiệu là vận động tôi và khối dân biểu
Dân tộc bỏ phiếu hợp thức hóa sự đắc cử của ông ta. Trung tá Đẩu còn nhờ cha
tôi nói thêm với tôi nhằm thuyết phục tôi. Nể người bạn của cha mình, đồng thời
nghĩ rằng gặp ông Thiệu chưa có nghĩa là chấp nhận các đề nghị của ông, tôi
đồng ý gặp tướng Thiệu nhưng đưa ra điều kiện cuộc gặp gỡ chỉ có hai người,
không có người thứ ba. Ông Thiệu chấp nhận điều kiện. Cuộc tiếp xúc tay đôi
diễn ra tại nhà riêng của tướng Thiệu, lúc này còn nằm trong khu tưỡng lãnh ở
bộ Tổng tham mưu (trên đường vào phi trường Tân Sơn Nhất). Nhà ông ở cạnh trung
tướng Trần Thiện Khiêm. Sĩ quan liên lạc của ông đưa tôi vào phòng khách. Cánh
cửa mở ra và tướng Thiệu từ phòng bên cạnh xuất hiện. Ông ta có nụ cười dễ gây
cảm tình. Ông bước tới bắt tay tôi: “Kính chào ông dân biểu”. Tôi đáp lại:
“Kính chào trung tướng” (Lúc này ông vẫn chưa được gọi là tổng thống). Có lẽ đã
được sắp xếp trước, cái sa – lông tôi đang ngồi chỉ có hai ghế với cái bàn nhỏ
ở giữa khiến cho hai người đối thoại nhau không cách nhau xa. Ông Thiệu đi
thẳng vào vấn đề: “Trước hết tôi xin trình bày với ông dân biểu tình hình hiện
này. Chính phủ VNCH rất cần sự ổn định chính trị và nhất là một nền tảng dân
chủ vững chắc để được chính phủ và quốc hội Mỹ tiếp tục ủng hộ và viện trợ mạnh
mẽ. Do đó rất cần cuộc biểu quyết hợp thức hóa cuộc bầu cử tổng thống sắp diễn
ra tại Quốc hội được thông qua với một số phiếu cao nhất. Điều đó thể hiện sự
đoàn kết của quân dân ta. Vì vậy tôi mong ông dân biểu cùng khối Dân tộc của
ông sẽ bỏ phiếu hợp thức hóa kết quả bầu cử”.
Tôi không cần suy nghĩ,
vì câu trả lời đã có sẵn trong đầu:
- Thưa trung tướng, tôi
là đại diện báo chí của liên danh Trần Văn Hương. Sau khi có kết quả bầu cử,
liên danh Trần Văn Hương đã họp báo và tố cáo cuộc bầu cử diễn ra không trung
thực. Vậy tôi không thể nào đi ngược lại lập trường này và bỏ phiếu hợp thức
hóa kết quả cuộc bầu cử.
Suy nghĩ một lúc, tướng
Thiệu đưa ra một gợi ý: Quốc hội sẽ được lèo lái để cuộc bỏ phiếu diễn ra theo
thể thức kín. Ông nói với tôi:
- Công khai thì ông dân
biểu vẫn giữ lập trường mình nhưng khi bỏ phiếu kín, ông dân biểu có thể bỏ
phiếu hợp thức hóa.
Tôi trả lời ngay:
- Thưa trung tướng, tôi
không thể có hai lập trường khác nhau khi công khai và khi bỏ phiếu kín. Các
thành viên trong khối chúng tôi chắc chắn sẽ phản đối. Nhưng tôi hứa nếu trung
tướng lãnh đạo được một chính phủ hợp lòng dân thì tôi sẽ hoạt động với tinh
thần xây dựng trong tư cách đối lập hợp pháp – opposition légale.
Cuộc nói chuyện kết
thúc dĩ nhiên không đem lại sự hài lòng cho ông Thiệu. Tuy nhiên ông đã tiễn
tôi ra cửa một cách lịch sự.
Cuối cùng Quốc hội lập
hiến đã hợp thức hóa sự đắc cử của liên danh Thiệu–Kỳ với số phiếu rất thấp: 58
thuận và 43 chống. Khối dân biểu Dân tộc vẫn giữ vững lập trường bác bỏ cuộc
bầu cử. Ông Kỳ ngấm ngầm khuyến khích những lá phiếu chống nhưng về mặt công
khai, ông Kỳ nói với ông Thiệu rằng ông đã cử trung tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng
giám đốc cảnh sát, có mặt trong cuộc biểu quyết “để thúc đẩy các dân biểu bỏ
phiếu hợp thức hóa” (như đã kể ở đoạn trước, tôi đã phản đối sự hiện diện của
trung tá Loan trong phòng họp Quốc hội).
Về cuộc bầu tổng thống
ở miền Nam 1967, theo một số tài liệu mật được tiết lộ sau này của tình báo Mỹ,
đã có một cuộc “đi đêm” giữa tướng Thiệu và ông Trần Văn Hương. Đáng tiếc thay
cho một số đông trí thức và nhân sĩ miền Nam lúc đó đã coi ông Hương như một
lãnh tụ đối lập sáng giá, một “ông già gân” có thể là chỗ dựa đối đầu phe tướng
lãnh. Sau này những người đã từng ủng hộ ông đã phải thất vọng nặng nề. Từ vị
trí người đối đầu liên danh Nguyễn Văn Thiệu, ông Hương chấp nhận trở thành thủ
tướng của ông Thiệu. Ở cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 2, năm 1971, ông Hương
lại đi một bước liên kết xa hơn: ứng cử phó tổng thống trong liên danh Nguyễn
Văn Thiệu. Cho nên những tiết lộ từ các tài liệu CIA, được phát hiện sau năm
1975, nói về sự “đi đêm” giữa ông Thiệu và ông Hương từ năm 1967 trong cuộc bầu
cử tổng thống nhiệm kỳ 1 là có cơ sở. Nhưng đó không phải là sự thất vọng duy
nhất đối với giới trí thức miền Nam nói riêng và giới đối lập Sài Gòn nói
chung. Cùng lúc với cuộc “đi đêm” giữa Thiệu–Hương còn có một cuộc “đi đêm”
khác giữa Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Lộc.
Ông Nguyễn Văn Lộc là
một luật sư, thời trẻ ông có tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông là Tổng thư
ký hội Liên Trường, một tổ chức ái hữu gồm cựu học sinh các trường trung học
lớn ở miền Nam như Chasseloup Laubat, Petrus Ký, Collège Mỹ Tho, Collège Cần
Thơ. Các cựu học sinh này đều đang giữ những vị trí then chốt trong guồng máy
chính quyền Sài Gòn hoặc là những trí thức, nhân sĩ hoạt động tự do có uy tín
xã hội. Hội Liên Trường cũng là chỗ dựa chính cho ứng cử viên tổng thống Trần
Văn Hương. Trong khi ông Thiệu “móc nối” ông Hương thì ông Kỳ lôi kéo ông Lộc!
Vào thời điểm ấy các phe quân nhân đều cần liên kết với những nhân vật gần gũi
với giới trí thức và quần chúng miền Nam và luật sư Lộc đã trở thành thủ tướng
đầu tiên sau khi liên danh tổng thống – phó tổng thống Thiệu–Kỳ được Quốc hội
lập hiến hợp thức hóa. Vậy tại sao chức vụ thủ tướng rơi vào tay luật sư Lộc –
người của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ - chứ không phải là ông Hương là người
của tổng thống Thiệu? Để hiểu rõ hơn điều khó hiểu này, có lẽ phải trở lại
những thỏa thuận mật đã có trong phe tướng lãnh trước khi phe này đi đến quyết
định đưa Nguyễn Văn Thiệu ra ứng cử thay vì Nguyễn Cao Kỳ.
Trong hồi ký Buddha’s child (Đứa
con cầu tự), tướng Kỳ tiết lộ ngay say khi tướng Thiệu được phe quân đội đề
cử làm ứng cử viên tổng thống thì một “hội đồng tướng lãnh” được bí mật thành
lập trong đó có cả Thiệu và Kỳ. Các thành viên của tổ chức này được chọn lựa
lại từ các tướng lãnh có ảnh hưởng trong Ủy ban lãnh đạo quốc gia. Theo ông Kỳ,
hội đồng này được giao trách nhiệm chọn đại diện quân đội ứng cử tổng thống
tương lai và một khi đại diện này đắc cử tổng thống vẫn phải tiếp tục là thành
viên trong hội đồng này và chịu sự chi phối của hội đồng. Ông Kỳ được bầu là
chủ tịch của hội đồng này. Ông viết: “Với tư cách chủ tịch hội đồng, tôi có
nhiều quyền hành hơn”. Có thể trong thời gian đầu, khi quyền lực của mình chưa
được thiết lập vững vàng, tổng thống Thiệu đã phải nhượng bộ ông Kỳ và nhường
cho ông Kỳ quyền chỉ định thủ tướng. Cũng rất có thể điều này nằm trong sự thỏa
thuận giữa Thiệu và Kỳ khi thành lập liên danh duy nhất. Đừng quên rằng cho đến
Tết Mậu Thân 1968, gần một năm sau khi Nguyễn Văn Thiệu ngồi vào ghế tổng
thống, chức Tổng giám đốc cảnh sát vẫn nằm trong tay đại tá Nguyễn Ngọc Loan,
cánh tay mặt của ông Kỳ. Sau nhiệm kỳ của luật sư Lộc, ông Thiệu mới thực hiện
thỏa ước với ông Hương, cử ông Hương làm thủ tướng. Bấy giờ coi như phó tổng
thống Nguyễn Cao Kỳ chỉ còn ngồi “làm vì”.
Thế là cả hai nhân vật
đại diện cho trí thức, nhân sĩ miền Nam đều bị thế lực đương quyền (phe quân
đội) mua chuộc khá dễ dàng. Chỉ vì cái ghế thủ tướng mà cả hai quay lưng lại
với những người ủng hộ mình một cách tỉnh bơ!
Với tôi, đây là thất
vọng đầu tiên trong giai đoạn tập tễnh bước vào con đường chính trị. Tuy nhiên
tôi và khá nhiều anh em trí thức khác đã không bị lôi cuốn theo sự “trở cờ”.
Cho đến kết thúc chiến tranh, tôi vẫn chống lại sự hợp tác với chế độ Thiệu.
Giáo sư Lý Chánh Chung, một người cũng từng ủng hộ tích cực ông Trần Văn Hương
trong cuộc bầu cử tổng thống, đã có một phản ứng rất quyết liệt trước sự “trở
cờ” của ông Hương: trên tờ báo Điện Tín, ông đã viết lá thư không
niêm “Kính gửi ông Trần Văn Hương”, trong đó giáo sư Trung nói thẳng sự
không tán đồng của ông và bạn bè ông đối với thái độ chính trị của ông Hương
trong sự cộng tác với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Trong thư có nhiều lời lẽ
lên án khá nặng nề. Bức thư đã gây một luồng dư luận mạnh mẽ tại Sài Gòn và
được coi như là sự “ly dị” dứt khoát của giới trí thức, nhân sĩ miền Nam đối
với ông Trần Văn Hương. Nhưng thật ra, ông Hương chẳng quan tâm đến dư luận. Dù
bệnh tật và già yếu, đi đứng phải có người dìu hai bên, nhưng ông rất say mê
quyền hành. Đó là điều tôi không nhận ra khi tiếp xúc với ông lúc đầu. Tôi vẫn
tưởng là do sự đòi hỏi thời cuộc mà ông trở lại chính trường chứ không đeo đuổi
một tham vọng cá nhân nào khác. Cho đến những ngày cuối tháng tư 1975, ông vẫn
cố bám vào ghế tổng thống do ông Thiệu để lại và tuyên bố sẵn sàng “chiến
đấu cho đến khi Sài Gòn chỉ còn viên gạch cuối cùng”.
CHƯƠNG 8: TÁI ĐẮC CỬ
VÀO QUỐC HỘI LẬP PHÁP 1967
Liền sau cuộc bầu cử
tổng thống lại đến cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp. Theo hiến pháp, Quốc hội lập
pháp Sài Gòn gồm hai viện: Hạ nghị viện (viện dân biểu) với nhiệm kỳ bốn năm và
Thượng nghị viện (viện nghị sĩ) với nhiệm kỳ sáu năm nhưng mỗi ba năm bầu lại
phân nửa. Tôi ghi tên ứng cử vào Hạ nghị viện ở đơn vị cũ, tức đơn vị 2 gồm các
quận 4, 6, 7, 8 và 9. Có hơn 80 ứng cử viên, tranh 5 ghế dân biểu. Thể thức bầu
cử lần này khác kỳ bầu cử Quốc hội lập hiến (theo liên danh tỷ lệ): năm người đoạt
số phiếu cao nhất trong 80 ứng cử viên ghi danh sẽ giành 5 chiếc ghế dân biểu.
Khác với cuộc bầu cử
trước – lúc rất ít người biết tôi và tôi chỉ trung cử nhờ vào thể thức bầu cử
khá đặc biệt (gần như các ghế dân biểu được chia đều cho các ứng cử viên đứng
đầu các liên danh) – lần này tuy cuộc bầu cử gay go gấp trăm lần nhưng tôi có
một sự chuẩn bị rất thuận lợi trong thời gian hoạt động tích cực trong Quốc hội
lập hiến. Tên tôi không còn xa lạ đối với đông đảo quần cử tri Sài Gòn. Người
dân Sài Gòn lúc đó ủng hộ rất triệt để các nhà hoạt động chính trị đối lập,
đồng thời có lập trường chống chiến tranh. Và quần chúng rất nhạy bén trong sự
phân biệt giữa “đối lập thật” với “đối lập cuội”.
Mỗi ứng cử viên được in
hai loại tài liệu phục vụ cho vận động bầu cử: một loại áp–phích 80cm-120cm để
dán cho những nơi công cộng và một loại truyền bươm bướm 21cm-28cm in tiểu sử
và tuyên ngôn của ứng cử viên để phát trực tiếp cho cử tri. Biểu chưng chính
thức của tôi in trên các áp-phích, truyền đơn và phiếu bầu là “bó lúa và
ngôi sao”. Slogan (khẩu hiệu) trên áp phích tranh cử của tôi có nội dung: “Một
miền Nam trung lập trong một Đông dương trung lập”. Tôi chọn chủ đề này để
tranh cử không do ảnh hưởng của bất cứ ai hay đảng phái chính trị nào, mà do
suy nghĩ của cá nhân tôi, mong muốn tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh. Đối
với một cá nhân hoạt động chính trị độc lập như tôi, thật không dễ dàng tìm ra
con đường đi tới giữa một tình hình sáng tối rất phức tạp ở miền Nam. Dù cho
con tim có lòng yêu nước chân chính, nhưng không phải các bước đi bao giờ cũng
đúng đắn. Sự mù tịt về “Việt cộng” và sự thiếu hiểu biết sâu sắc về mục tiêu lý
tưởng đấu tranh của “những người ở bên kia nửa phẩn Tổ quốc” do sự bưng bít
thông tin rất chặt chẽ và các chiến dịch tuyên truyền chống cộng bền bỉ của
chính quyền Sài Gòn qua nhiều thời kỳ, khiến cho không ít những người thuộc thế
hệ trưởng thành ở miền Nam sau năm 1954 như tôi, không thể tự mình nhận định
thực chất cuộc xung đột và chọn cho mình một hướng đi đúng đắn.
Với bản thân tôi, ngay
cả sự hiểu biết về Hồ Chủ tịch, về cuộc chiến đấu của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam là rất trễ tràng và lúc đầu rất ít ỏi. Cho đến năm 1968, nguồn
tìm hiểu duy nhất của tôi là hai quyển sách mà tôi mang về từ Paris nhân một
chuyến sang Pháp. Đó là quyển: Hồ Chí Minh của Jean Lacouture
và Vietnam: Inside Story of the Guerilla War của Wilfred
Burchett (New York, International Publishing, 1965). Thật quá ít và chẳng đi
đến đâu để hiểu sâu sắc về con người Việt Nam vĩ đại nhất cũng như việc đánh giá
đúng đắn cuộc chiến làm rung chuyển cả thế giới. Nhưng tôi không thể không cảm
ơn Jean Lacouture và Wilfred Burchett vào thời điểm ấy đã mở cho tôi cánh cửa,
dù là rất hẹp, để tiếp cận với một thực tế khác của đất nước, hiểu biết khách
quan hơn lý tưởng mà những người cộng sản Việt Nam đang đeo đuổi với biết bao
hy sinh xương máu. Cái may mắn lớn nhất của tôi là không bị ràng buộc bởi một
thế lực chính trị nào (tôi hoạt động chính trị độc lập) và cũng không vì một
quyền lợi riêng tư nên cứ “sáng” ra thêm một chút nào do những tiếp thu nhận
thức mới thì tôi lại sẵn sàng điều chỉnh, chẳng chút mặc cảm. Ánh sáng duy nhất
soi đường cho tôi đi tới trong những năm tháng ấy như đã nói – xuất phát từ con
tim yêu nước, sự mong muốn được thấy dân tộc độc lập, đất nước hòa bình và
thống nhất. Thế thôi. Ở Sài Gòn vào thời điểm này, không một tổ chức chính trị
hoạt động công khai nào có khả năng đáp trả những vấn đề bức thiết của đất nước
đồng thời không một tổ chức chính trị công khai nào thể hiện được một lý tưởng
có hệ thống và lý luận chặt chẽ hướng tới sự thực hiện dân chủ và công bằng xã
hội. Ánh sáng lý tưởng tỏa từ trong chiến khu và từ “bên kia nửa phần Tổ quốc”
không dễ dàng đến với tất cả thanh niên và trí thức miền Nam, tổ chức chỉ đến
với một số người chọn lọc, thường qua một số trung gian bí mật mà một người
bình thường không thể nào bắt liên lạc được.
… Slogan tranh cử Quốc
hội lập pháp của tôi – “Một miền Nam trung lập trong một Đông Dương trung
lập” – như một thứ công chức hòa bình – theo suy nghĩ của tôi – cho cuộc
chiến mà lúc đó tưởng như không thể tìm ra lối thoát. Cái chính là chấm dứt
chiến tranh, buộc người Mỹ rút quân, không can thiệp vào vấn đề nội bộ của
người Việt Nam. Là một cá nhân độc lập, không đại diện cho bất cứ thế lực chính
trị nào, cũng không còn là con cờ của một cường quốc nào – nên rốt cuộc lời kêu
gọi của tôi cho công thức này như tiếng kêu giữa sa mạc. Tôi không khác gì một
Don Quichotte của nhà văn Cervantès. Tôi cũng ý thức được việc mình làm là “đội
đá vá trời” nhưng tôi vẫn tin rằng trong tất cả các cuộc đấu tranh cho những
chính nghĩa lớn, tiếng nói của từng người, dù là người rất bình thường, nếu
được mạnh dạn bày tỏ công khai cũng có thể góp thành dư luận và sức mạnh. Nhưng
mặt khác sự dấn thân và bày tỏ thái độ cũng là nhu cầu tự thân của những thanh
niên trí thức như tôi ở vào thời điểm ấy. Vào những lúc này, tôi còn nhớ, nhạc
Trịnh Công Sơn cũng là thứ thuốc kích thích tinh thần cho những người như tôi,
lên lại “giây cót” mỗi khi cảm thấy buồn nản, bế tắc. Nhạc Trịnh đã thúc đẩy sự
dấn thân cho nhiều thanh niên và trí thức đấu tranh vì hòa bình và dân tộc.
… Kết quả cuộc bầu cử
Quốc hội lập pháp cuối năm 1967: tôi về nhì trong số hơn 80 ứng cử viên tranh ở
đơn vị 2 Sài Gòn. Người về nhất là bác sĩ Hồ Văn Minh, chủ tịch Chương trình
Phát triển quận 8. Anh Hồ Ngọc Nhuận, cũng hoạt động trong chương trình này,
đắc cử ở vị trí thứ ba. Tôi chẳng có tiền bạc để tổ chức cuộc vận động đúng
nghĩa cho mình trong khi nhiều ứng cử viên khác đã chi những số tiền rất lớn,
thậm chí có ứng cử viên bỏ tiền ra mua phiếu. Họ có cả một đội quân đi dán áp
phích và phát truyền đơn đến từng nhà. Nhưng kết quả bầu cử cho thấy cử tri ở
Sài Gòn không dễ dàng bỏ phiếu vì tiền, hay vì bất cứ một áp lực nào. Cử tri đi
bỏ phiếu được nhân viên phòng phiếu phát 80 phiếu rời, mỗi phiếu in tên, hình
và biểu trưng của ứng cử viên. Chọn lại 5 phiếu ứng cử viên mà mình tín nhiệm
trong một xấp 80 phiếu dầy cộm quả thật không dễ dàng, nhưng đa số cử tri đã
làm điều đó khá chính xác: không có ứng cử viên nào theo chính quyền hay có lập
trường chủ chiến lọt vào 5 vị trí đầu ở đơn vị này. Quận Tư, quận Tám, quận
Chín là những quận gồm đông đảo người lao động. Chính họ đã có chọn lựa đúng
theo nguyện vọng của mình.
Cuộc bầu cử Quốc hội
lập pháp năm 1967 còn có kẽ hở cho những thành phần đối lập và độc lập lọt vào.
Ở ba đơn vị bầu cử tại Sài Gòn, sự can thiệp của chính quyền hầu như không có.
Mục đích của chính quyền Sài Gòn và nhất là của Mỹ là cố gắng tạo ra một “tủ
kính dân chủ” tại thủ đô miền Nam để tuyên truyền cho chế độ. Còn ở các tỉnh,
chính quyền địa phương chưa được lệnh gắt gao lắm trong việc chọn lọc ứng cử
viên. Mặc dù đã đắc cử tổng thống, nhưng ông Thiệu vẫn chưa nắm trọn quyền
hành, vẫn còn dè chừng các phản ứng của phó tổng thống Kỳ và các đảng phái khác.
Phải đến Quốc hội lập pháp kỳ 2 (bầu năm 1971), tổng thống Thiệu mới triệt để
gạt ra ngoài tất cả các ứng cử viên đáng nghi ngờ hoặc không cam kết (trên giấy
tờ hẳn hòi) ủng hộ ông. Muốn trở thành dân biểu ở các tỉnh, các ứng cử viên
phải cam kết vào đảng Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu. Chính quyền Thiệu, một lần
nữa, chỉ thả nổi duy nhất các đơn vị bầu cử ở Sài Gòn để cố gắng duy trì bộ mặt
dân chủ giả hiệu.
Đeo đuổi lập trường hòa
bình của mình đã nêu lên trong khẩu hiệu tranh cử, sau khi đắc cử, tôi đã tiếp
tục cuộc vận động cho công thức “một Miền Nam trung lập trong một Đông Dương
trung lập” bằng cách gửi thư trực tiếp đến một số nhà lãnh đạo Châu Á như
thủ tướng Malaysia Tengku Abdul Rahman, thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, thủ
tướng Nhật Bản Sato yêu cầu hỗ trợ cho giải pháp này để chấm dứt chiến tranh
Việt Nam. Tôi không biết vì lý do gì các thư này đều không được các địa chỉ
trên hồi âm. Tôi không nghĩ các vị lãnh đạo quốc gia kể trên thấy rằng không
cần thiết có thư đáp trả một dân biểu vô danh như tôi, với một sáng kiến hòa
bình chẳng có trọng lượng (bởi không có một nhân vật quốc tế tên tuổi hay một
quốc gia nào trước đó lên tiếng bảo trợ hay ủng hộ). Tôi nghi ngờ các thư của
mình đã bị chính quyền Sài Gòn chặn lại. Sau đó tôi có gửi thư riêng cho một
nghị sĩ Nhật thuộc đảng cầm quyền (ông Harizumi) mà tôi đã từng quen biết ông
khi cùng dự Hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ Châu Á tại Thái Lan. Ông Harizumi đã mời
tôi sang Tokyo trình bày sáng kiến của mình với đại diện bộ Ngoại giao Nhật.
Tôi đã đến thủ đô Nhật cùng vợ tôi với tư cách cá nhân. Một chuyến đi có nhiều
kỷ niệm khá đẹp về sự tiếp đón nồng hậu của chủ nhà, nhưng về cuộc vận động thì
chỉ dừng lại ở mức độ xã giao. Tôi không có ảo tưởng cuộc vận động của mình sẽ
đi đến đâu, đó chỉ là cách thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế về chiến tranh
Việt Nam và ước vọng hòa bình của một người Việt Nam.
Liên quan đến đề tài
vận động bầu cử của tôi – về một giải pháp trung lập – có một chuyện rất đáng
nhớ. Đầu năm 1968, một tổ chức tôn giáo của người Mỹ có tên Quaker, hoạt động
cho hòa bình tại Việt Nam đã mời tôi tham dự một cuộc hội thảo “Hòa bình ở Châu
Á” tổ chức tại Xiêm Rệp – Campuchia. Cùng được mời dự cuộc hội thảo này còn có
các dân biểu Nguyễn Hữu Chung và Hồ Ngọc Nhuận. Vương quốc Campuchia dưới sự lãnh
đạo của nhà vua Sihanouk, bấy giờ không nhìn nhận chính quyền Sài Gòn và không
có quan hệ ngoại giao. Nhà vua Sihanouk lúc đó ủng hộ tích cực Hà Nội và Mặt
trận dân tộc giải phòng miền Nam. Tuy nhiên do cả ba chúng tôi đều thuộc khuynh
hướng đối lập với chính quyền Sài Gòn, nên Vương quốc Campuchia chấp nhận cấp
phép nhập cảnh.
Trong thời gian dừng
chân ở thủ đô Phnom Pênh, tôi sực nhớ người bạn học xưa cùng ở nội trú tại
trường Chasseloup Laubat những năm 50, con của một thành viên hoàng tộc
Campuchia. Đó là Sisowath Charya. Tôi nhờ đại diện của chính quyền Sài Gòn tại
Phnom Pênh tìm giùm. Vì không được Vương quốc Campuchia chính thức nhìn nhận,
nên đại diện của Sài Gòn phải “tạm trú” trong Đại sứ quán của Nhật. Tại Phnom
Pênh, lần đầu tiên tôi nhìn thấy lần lượt ô tô của Đại sứ VNDCCH và MTDTGP có
cắm cờ chạy trên đường phố!
Người đại diện của Sài
Gòn tìm Sosiwath Charya không khó lắm vì ông là con của cựu thủ tướng, hoàng
thân Sirik Matak và bản thân Sisowath Chayra là một nhân vật khá nổi tiếng ở
Phnom Pênh. Lúc này các hoạt động giải trí ở Phnom Pênh như vũ trường, rạp hát,
nhà hàng, chiếu bóng đều là quốc doanh. Sisowath Charya được giao phụ trách tất
cả mảng này. Tôi được đưa đến một căn hộ ở tầng hai một cao ốc. Người hướng dẫn
cho tôi cho biết vào giờ này, buổi sáng, ông không có ở nhà. Căn hộ này là của
một người bạn gái. Khi tôi bấm chuông thì một phụ nữ rất đẹp có nước da đậm đà
ra mở hé cửa và hỏi bằng tiếng Campuchia: “Ông tìm ai?”. Người hướng dẫn dịch
lại cho tôi hiểu và tôi nhờ ông nói lại với người phụ nữ rằng tôi muốn gặp ông
Sisowath Charya. Cô gái liền trả lời: “Ở đây không có ai tên đó”. Trong khi đó
thì tôi thấy loáng thoáng bên trong có một bóng người và đúng là Sisowath
Charya. Ông hỏi vọng ra bằng tiếng Campuchia. Tôi nói to bằng tiếng Pháp “Lý
Quý Chung, bạn cũ ở Chasseloup Laubat đến thăm bạn”. Charya chạy ra ngay, ôm
chầm lấy tôi. Thế là 14 năm sau, tôi gặp lại người bạn nằm cạnh giường mình ở
nội trú trường Chasseloup Laubat ngày nào. Charya kéo tôi đi ăn cơm trưa ở
khách sạn sang trọng nhất Phnom Pênh. Anh lái chiếc ô tô Cadillac đời mới. Anh
nói căn hộ đó không phải là nơi anh ở. Sau buổi ăn trưa, anh đưa tôi về nhà để
giới thiệu với gia đình anh ở một biệt thự nằm trong khu nhà ngoại giao và các
nhân vật thuộc hoàng tộc. Khi tôi đến, ông Sirik Matak đang trông coi công nhân
sửa chữa phía sau ngôi biệt thự. Ông trở vào phòng khách tiếp tôi. Khi được
biết tôi đến từ Sài Gòn và là bạn học cũ của con ông, ông vui vẻ kể lại những
kỷ niệm về thời trẻ của ông: mỗi tối thứ bảy từ Phnom Pênh ông đi ô tô xuống
thẳng Sài Gòn, ăn uống ở Chợ Lớn và khiêu vũ ở trường Grand Monde trong khu
giải trí Đại Thế Giới. Ông còn kể lúc đó ông có một người yêu Việt Nam ở vùng
Tân Định. Tôi hỏi ông có muốn nhắn gì với người phụ nữ năm xưa không. Ông cười:
người phụ nữ ấy tôi quen thời trai trẻ bây giờ đã trở thành bà ngoại rồi, chưa
chắc bà ta còn nhớ tôi là ai!
Buổi nói chuyện rất
thân thiện, lúc thì bằng tiếng Pháp lúc thì tiếng Việt. Ông Sirik Matak nói
tiếng Việt như người Việt. Sau này khi ông Matak trở lại cương vị thủ tướng
khoảng năm 1970 hay 1971, tôi nghe nói ông chủ trương một đường lối chống người
Việt Nam rất mạnh mẽ, điều đó khiến cho tôi rất ngạc nhiên. Tôi không làm sao
nối kết được một Matak nói về Việt Nam đầy thiện cảm mà tôi đã gặp với một
Matak thủ tướng Campuchia chống lại người Việt Nam như vậy.
Sau lần gặp nhau đó,
tôi và Charya không có dịp gặp lại nhau. Sự kiện bi thảm ở đất nước Campuchia
khiến tôi nhiều lần dằn vặt vì không biết Charya còn hay đã chết như hàng triệu
nạn nhân của chế độ Pôn Pốt. Số phận của người cha thì tôi được biết rất sớm
qua báo chí phương Tây: ông đã bị lính Pôn Pốt hành quyết trong những ngày đầu
bọn chúng chiếm Phnom Pênh.
Nhưng một ngày gần cuối
năm 2001, tôi nhận được một cú điện thoại của Sisowath Charya. Anh đang có mặt
tại TP. Hồ Chí Minh và muốn gặp tôi. Chúng tôi hẹn nhau ăn cơm trưa tại nhà
hàng Sao Mai ở đường Đông Du, quận 1. Thế là sau 33 năm cuộc gặp ở Phnom Pênh,
tôi và Charya lại có dịp hội ngộ. Tôi không ngờ anh còn sống sót sau thời kỳ
Pôn Pốt. May mắn cho anh là anh đã rời Phnom Pênh trước khi quân Pôn Pốt tràn
vào. Anh đã kể lại cái chết bi thảm của cha anh như sau: ông Matak được tòa đại
sứ Mỹ mời di tản nhưng cha anh đã từ chối mặc dù thừa biết rằng ở lại là rước
lấy cái chết chắc chắn.
Trong hồi ký của cựu
ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, kể lại sự
sụp đổ của chế độ Phonm Pênh, tác giả có nhắc lại cái chết của ông Sirik Matak
với vài chi tiết rất đáng được nêu lại. Cuộc di tản ở Phnom Pênh bắt đầu từ 8
giờ sáng ngày 12-4-1975 bằng trực thăng. Có tất cả 82 người Mỹ, 159 người
Campuchia và 35 người thuộc các quốc tịch khác được tòa đại sứ Mỹ đưa ra khỏi
Campuchia bằng trực thăng. Duy nhất chỉ có một người từ chối thư mời di tản của
đại sứ Mỹ John Gunther Dean: đó là cựu thủ tướng Sirik Matak. Trong một lá thư
tự tay ông viết, bằng một thứ tiếng Pháp mà cựu ngoại trưởng H. Kissenger cho
là rất “tao nhã”, ông Sirik Matak đã trả lời đại sứ Mỹ Dean như sau:
Thưa ngài đại sứ và là
bạn thân mến của tôi!
Tôi hết sức thành thật
cảm ơn ông về lá thứ ông viết cho tôi và về đề nghị của ông đưa tôi đến tự do.
Rất tiếc thay, tôi không thể rời nơi đây một cách hèn nhát. Tôi không bao giờ
tin rằng vào lúc này, với ông cũng như với đất nước vĩ đại của ông, lại có cái
cảm nghĩ rằng mình đã bỏ rơi một dân tộc đã chọn tự do. Chúng tôi cần sự bảo vệ
của các ông nhưng các ông đã từ chối, chúng tôi không thể làm gì trước tình thế
này.
Ông rời nơi đây, lời
chúc của tôi cho ông và đất nước của ông là sẽ tìm được hạnh phúc dưới bầu trời
này. Nhưng, hãy khắc ghi rằng, nếu tôi chết ngay ở nơi này, tại đất nước mà tôi
yêu dấu, thì cũng chẳng thành vấn đề, vì rằng tất cả chúng ta sinh ra rồi đều
tử biệt. Tôi chỉ mắc mỗi sai lầm là đã tin các ông (người Mỹ).
Xin ngài, cũng là người
bạn thân mến của tôi, vui lòng nhận những tình cảm thân thiện của tôi.
S/Sirik Matak.
Người ta được biết ông
Sirik Matak bị lính Pôn Pốt bắn vào bụng và để nằm tại chỗ mà không có thuốc
men gì cả. Ba ngày sau ông ấy mới chết.
Trở lại chuyến đi
Campuchia dự hội thảo do tổ chức tôn giáo Quaker tổ chức, sau khi thăm người
bạn học cũ, Sisowath Charya, tại Phnom Pênh, tôi lên máy bay đi Xiêm Rệp. Cuộc
hội thảo với đề tài “Hòa bình ở Châu Á” được tổ chức tại một model nằm
đối diện với đền Angkor Watt chừng vài trăm mét. Khi tôi và hai dân biểu Hồ
Ngọc Nhuận và Nguyễn Hữu Chung vừa đến khách sạn, chưa kịp sắp xếp đồ đạc, thì
một nhà ngoại giao người Anh cũng dự cuộc hội thảo này gõ cửa phòng tôi. Ông
xin phép được trao đổi chỉ một phút. Nội dung: Ông ta thông báo “một cách thân
hữu” rằng tại cuộc hội thảo này có một nhà ngoại giao Nga đến từ Hà Nội nói
tiếng Việt rất giỏi. Và ông ta dặn “Các ông hãy cảnh giác”. Ông ta chỉ nói thế
rồi biến đi. Ông ta đi rồi tôi vẫn đứng tần ngần một lúc khá lâu. Thì ra ở cuộc
hội thảo này các nhà ngoại giao cũng đồng thời là những nhà tình báo. Nhưng với
tôi, sự cảnh giác của người Anh, đồng minh với chế độ Sài Gòn, chẳng có tác
dụng gì. Tôi không làm việc cho ai, kể cả chính quyền Sài Gòn, do đó không giữ
một bí mật gì để sợ bị lộ. Những ngày ở Xiêm Rệp, tôi tò mò quan sát sự rình
rập, theo dõi nhau giữa các nhà ngoại giao thuộc hai khối đối nghịch. Tình cờ
tôi tham gia vào một bộ phim OSS 117 không được thông báo trước.
Khi cuộc hội thảo kéo
dài 4 ngày sắp kết thúc (trong cuộc hội thảo nhà vua Sihanouk đến nói chuyện
hai lần, một lần bằng tiếng Pháp và một lần bằng tiếng Anh suốt hai tiếng đồng
hồ), tất cả những người tham dự được mời chụp chung một bức ảnh kỷ niệm trước
cổng vào đền Angkor Watt. Lúc đó tôi không chú ý người đứng kế bên tôi là ai.
Trong khi người chụp ảnh đang điều chỉnh góc độ của máy ảnh thì tôi nghe người
đàn ông phương Tây đứng cạnh tôi nói bằng một giọng rất thấp vừa đủ cho tôi
nghe với một thứ tiếng Việt rất chuẩn, giọng Bắc: “Ông là dân biểu Lý Quý Chung
phải không? Tôi làm việc ở sứ quán Xô Viết ở Hà Nội. Tôi được biết lập trường
của ông về trung lập hóa miền Nam. Ông nên biết Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chủ
trương trung lập hóa miền Nam”. Tôi liếc thấy “nhà ngoại giao Anh” đứng phía
sau tôi chỉ cách hai người. Tôi trả lời nhà ngoại giao Xô viết cho có lệ vì
biết rằng ở đây đầy rẫy những nhà tình báo đội lốt ngoại giao: “Tôi chưa được
biết Chủ tịch Hồ Chí Minh có một chủ trương như thế về miền Nam”. Kỳ thật, tôi
cũng nghe đồn vào thời điểm đó người ta có dự kiến vận động một giải pháp trung
lập cho miền Nam, mang ý nghĩa chiến lược nhằm xóa bỏ sự hiện diện và ảnh hưởng
của Mỹ ra khỏi miền Nam.
Lúc đó tôi rất ngạc
nhiên về những gì nhà ngoại giao Xô viết nói với tôi. Tôi không ngờ hoạt động
của mình đã được theo dõi sát như thế từ Hà Nội. Sau khi đất nước thống nhất,
hơn một lần tôi có ý định tìm lại “nhà ngoại giao Xô viết” khi tôi ra Hà Nội và
nhất là trong một lần viếng thăm Liên Xô năm 1979. Nhưng vì không nhớ tên, còn
ảnh lúc đó lại thất lạc, nên tôi không làm sao tìm ra nhà ngoại giao này.
Trở lại hoạt động tại
Hạ nghị viện mà tôi vừa tái đắc cử, tôi lại được bầu làm trưởng khối dân biểu
Dân tộc. Năm sau, bác sĩ Nguyễn Đại Bảng, dân biểu Huế, được bầu thay tôi ở
cương vị này. Năm đầu của Hạ nghị viện, tổng thống Thiệu chưa kiểm soát được
định chế này một cách tuyệt đối. Tòa đại sứ Mỹ tỏ ý lo ngại những tiếng nói
chống đối chính phủ trong quốc hội Sài Gòn sẽ ảnh hưởng các cuộc biểu quyết của
quốc hội Mỹ liên quan đến các khoản viện trợ cho chính phủ Thiệu. Các nhà ngoại
giao Mỹ tại Sài Gòn cố gắng vận động các dân biểu và nghị sĩ đối lập giảm bớt
sự chỉ trích đối với chính phủ Thiệu. Tôi và một thành viên trong khối Dân tộc
là dân biểu Nguyễn Hữu Chung được hai nhân viên tòa đại sứ Mỹ là David
Lambertson và John Negroponte mời dùng cơm trưa. Hai nhà ngoại giao này rất
quen thuộc đối với các dân biểu và nghị sĩ Sài Gòn vì họ liên tục tìm cách gặp
gỡ, trao đổi các dân biểu và chính khách Sài Gòn để thăm dò và tiên liệu phản
ứng của các giới chính trị. Dĩ nhiên các cuộc tiếp xúc ấy cũng nhằm ảnh hưởng
và lôi kéo những cá nhân sẵn sàng ngả theo Mỹ. David Lambertson và John
Negroponte lúc đó đều thuộc ngạch ngoại giao đệ nhị tham vụ tòa đại sứ. Sau
1975 Lambertson đã từng là đại sứ Mỹ tại Bangkok (Thái Lan) và nằm trong danh
sách những nhân vật mà Washington có ý định đưa sang làm đại sứ tại Hà Nội đầu
tiên khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Còn Negroponte sau thời
sang Việt Nam đã tiếp tục làm đại sứ tại một quốc gia Nam Mỹ và là người đóng
một vai trò quan trọng trong chính sách Mỹ can thiệp vào khu vực này. Ông là
đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc trong thời gian Mỹ tiến đánh Irak và chiếm đóng
nước này (từ tháng 3 năm 2003) và gần đây nhất ông là đại sứ Mỹ tại Irak.
Trong buổi cơm trưa tại
nhà riêng của một trong hai người ở trong khu nhà dành cho nhân viên cao cấp sứ
quán Mỹ trên đường Tú Xương, David Lambertson, không cần ỡm ờ, đặt vấn đề với
chúng tôi “nên giảm cường độ chỉ trích chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, bởi nếu
không, có khả năng quốc hội Mỹ sẽ cắt bớt viện trợ cho miền Nam”. Đồng viện của
tôi, anh Nguyễn Hữu Chung, có cái tính rất thẳng và tưng tửng, đã gạn hỏi lại
Lambertson: “Chẳng lẽ dân biểu chúng tôi khi phát biểu tại Hạ Nghị Viện lại
phải dè chừng quốc hội Mỹ phản ứng ra sao?”. David Lambertson đột ngột phản ứng
không kiềm chế, quên mình là một nhà ngoại giao: “Đúng thế, ông dân biểu phải
quan tâm đến phản ứng của quốc hội Mỹ”. John Negroponte chẳng nói gì, làm thinh
theo dõi. Tôi kéo câu chuyện qua hướng khác để hạ nhiệt độ. Chắc chắn hai nhà
ngoại giao Mỹ rất thất vọng về thái độ của tôi và anh Nguyễn Hữu Chung. Và
đương nhiên hai chúng tôi chẳng bao giờ “được” nằm trong danh sách những chính
khách Sài Gòn được Mỹ tin cậy!
Tôi thường nói chuyện
với các nhà ngoại giao Mỹ bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Tiếng Anh của tôi
học trong các trường trung học Pháp lúc đó chưa đủ để có thể sử dụng trong giao
tiếp với người Mỹ. Đa số các nhà ngoại giao Mỹ có mặt tại miền Nam những năm 60
và 70 đều nói được tiếng Việt hoặc tiếng Pháp. Họ biết rằng các nhân sĩ, trí
thức thuộc thế hệ này đều trưởng thành từ thời chiếm đóng của Pháp. Chỉ có các
chuyên viên và trí thức thuộc thế hệ sau, hoặc du học ở Mỹ trở về những năm 60,
mới nói tiếng Anh thông thạo. Do vị trí của tôi trong Hạ Nghị Viện, giới ngoại
giao Mỹ thường mời tôi dự tiệc tùng mỗi khi họ đón tiếp một nhân vật quan trọng
từ Washington sang. Đặc biệt vào mỗi cuối tuần (Week-end), John Negroponte và
David Lambertson thường tổ chức các buổi ăn trưa và bơi lội tại biệt thự riêng
của cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ Philip Habib tại số 6 đường Tú Xương. Sau
này Philip Habib trở thành đại sứ Mỹ tại Hàn Quốc (1971) và thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Nam Á (1975, trước khi chế độ Sài Gòn sụp đổ).
Và tôi còn nhớ trong
một trận đấu bóng nước tại hồ bơi của ông Habib, tôi đã bị John Negroponte đè
sâu dưới nước suýt nữa ngoi lên không được khi đôi bên tranh bóng quyết liệt.
Negroponte to lớn gấp đôi tôi. Tôi không biết ông ta có cố tình “dằn mặt” tôi
không.
Có lẽ khó chịu bởi các
cuộc trao đổi với tôi luôn dùng tiếng Pháp, một hôm Negroponte hỏi tôi có dị
ứng gì với tiếng Mỹ hay không và tại sao tôi không học thêm tiếng Mỹ. Tôi trả
lời lý do hết sức đơn giản: quá bận nên không có thời giờ cố định để đi học.
Thế là Negroponte đề xuất một cách học tiếng Mỹ cho tôi thật thuận tiện và
thoải mái do một nữ nhân viên tòa đại sứ phụ trách. Giờ học không cố định mà
tùy thuộc giờ giấc của tôi. Có nghĩa khi nào tôi có giờ rỗi rãi thì điện thoại
cho người dạy và người này sẽ đến ngay. Tôi không còn lý do nào để từ chối một
đề xuất đầy thiện chí như thế. Hôm đầu tiên tôi gọi đến số điện thoại đã được
Negroponte trao thì ở đầu dây là một phụ nữ Mỹ. Cuộc gặp đầu tiên với cô giáo
người Mỹ thật bất ngờ: một thiếu nữ rất đẹp, duyên dáng, mặc chiếc váy mini-jupe khá
ngắn rất thịnh hành lúc đó. Với một cô giáo như thế thật khó mà học tập trung.
Sự đàng hoàng, ngay ngắn của tôi sau đó chẳng qua do tôi luôn ám ảnh cái bẫy
CIA đang rình rập đâu đó. Học cả năm chẳng tiến bộ bao nhiêu khiến cho cô giáo
cũng nản. Có lẽ do nhu cầu thật sự lúc đó không có, nên chuyện học hành không
tiến bộ. Tiếng Anh của tôi chỉ khá lên sau 1975 do công việc làm báo và viết
báo, bởi ở giai đoạn này đòi hỏi tôi phải có thêm tiếng Anh ngoài tiếng Pháp để
tham khảo tài liệu, sách báo nước ngoài nên tôi buộc phải tự học thêm một cách
tích cực.
Nhân nói về CIA, mà cái
bóng của nó phủ trùm lên cả miền Nam trước 1975, sau này tôi vẫn tự hỏi, cớ gì
trong suốt thời kỳ tôi hoạt động chính trị ở Sài Gòn, có rất nhiều quan hệ với
người Mỹ trong mọi lĩnh vực, thế mà chẳng bao giờ “con bạch tuộc” ấy thả vòi
đến tôi? Tôi đã hai lần dự cơm tôi tại nhà riêng của đại sứ Mỹ ở đường Phùng
Khắc Khoan, lần thứ nhất thời Henry Cabot Lodge trở lại làm đại sứ tại Sài Gòn
lần hai (1965-1967) nhân buổi tiếp trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Nam Á
William Bundy, lần thứ hai thời Ellsworth Bunker (1967-1973) khi ông chiêu đãi
thượng nghị sĩ Mỹ George McGovern, một ứng cử viên tổng thống phản chiến.
Khi tôi vừa đắc cử vào
quốc hội, còn ngơ ngác về chính trị, tôi đã được một nhân vật Mỹ khá bí hiểm ở
Sài Gòn là Clyde Bauer mời tham gia một tổ chức phi chính phủ “Hiệp hội Bang
giao Phát triển Quốc tế” (HHBGPTQT) với tư cách hội viên sáng lập cùng với
những tên tuổi rất gần gũi với tòa đại sứ Mỹ như ông Trần Văn Lắm (cựu dân biểu
thời Ngô Đình Diệm, là ngoại trưởng trong nội các của tướng Trần Thiện Khiêm),
ông Nguyễn Ngọc Linh (tổng giám đốc Việt Tấn Xã), ông Trần Trung Dung (cựu dân
biểu thời Ngô Đình Diệm), ông Ngô Khắc Tĩnh (sau là bộ trưởng Bộ giáo dục của
nội các Trần Văn Hương và Trần Thiện Khiêm), ông Nguyễn Vạn Lý, (một lãnh tụ
Cao đài thân chính quyền) v.v… Vài năm sau nhìn lại, tôi nhận ra rằng các tổ
chức Hiệp hội Bang giao Phát triển Quốc tế có lẽ đã được người
Mỹ dùng làm một trong những nơi kiểm tra và chọn lọc các nhân vật chính trị để
đưa vào guồng máy chính quyền Sài Gòn ở các vị trí như bộ trưởng, đại sứ v.v…
Trong các thành viên sáng lập của HHBGPTQT gần như tôi là người duy nhất vẫn
đứng ngoài guồng máy của chính quyền Thiệu. Clyde Bauer, người đứng ra thành
lập tổ chức “ngoại giao nhân dân” này (“people to people”) là một cựu đại tá và
anh hùng quân đội của Mỹ tại chiến tranh Triều Tiên. Khi tôi không sinh hoạt
với HHBGPTQT nữa, có người nói với tôi Clyde Bauer là một nhân viên CIA. Thế
nhưng trong suốt thời gian sinh hoạt khá gần gũi, chưa bao giờ Clyde Bauer để
lộ ý đồ lôi kéo tôi theo cái hướng ủng hộ Washington. Mục đích chính của hiệp
hội này là đánh bóng hình ảnh của chế độ Sài Gòn và làm cho dư luận Mỹ chia sẻ
một cách thuận lợi hơn chính sách của Washington tại Việt Nam. Tại Hội nghị
Honolulu năm 1969, tổng thống Johnson từng cảnh báo với tổng thống Thiệu và phó
tổng thống Kỳ về tình hình “anti Vietnam” của quần chúng Mỹ mỗi lúc một
cao hơn và khuyến cáo hai ông Thiệu – Kỳ phải làm gì đó để đối phó tình hình này.
Sự ra đời của những tổ chức như HHBGPTQT rất có thể nằm trong mục tiêu trên.
Các buổi sinh hoạt ăn
uống, vui chơi cuối tuần tại nhà riêng của cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ, từ
thời ông Habib đến ông Calhoun (người thay ông Habib), mà tôi được mời tham dự
nhiều lần, cũng là nơi các chuyên viên Mỹ như David Lambertson, John Negroponte
xem “giò cẳng” một số trí thức trẻ Sài Gòn có thiện cảm với đường lối của người
Mỹ ở Việt Nam. Hầu hết những người Việt Nam trẻ mà tôi gặp tại đây đều nói
tiếng Mỹ như tiếng Việt, gần hết tốt nghiệp tại Mỹ hoặc đã tu nghiệp tại Mỹ. Và
cũng như với tổ chức HHBGPTQT, đa số những người đến cái biệt thự trên đường Tú
Xương đều lần lượt chiếm những vị trí trọng yếu trong chính quyền Sài Gòn. Cái
khác giữa HHBGPTQT và chỗ tụ tập cuối tuần tại nhà riêng của cố vấn chính trị
tòa đại sứ Mỹ là ở địa chỉ đầu thì đa số thành viên đều ở tuổi trung niên trở
lên, còn ở địa chỉ sau, phần đông đều rất trẻ, từ 25 đến 30. Không may mắn cho
người Mỹ: tất cả những con người ấy đều không có chỗ dựa trong quần chúng, họ
dựa chủ yếu vào người Mỹ.
Báo chí cũng là mảnh
đất màu mỡ cho hoạt động tình báo của Mỹ. Người ta cho rằng trong chiến tranh
Việt Nam có đến trên 50% phóng viên, nhà báo Mỹ là nhân viên CIA trá hình. Ngay
trong số những nhà báo có tên tuổi lớn, cũng không thể đoan chắc rằng không có
người làm việc cho CIA. Bởi với không ít người Mỹ, làm việc cho CIA không hẳn
là đáng ghét, mà ngược lại là một hành động yêu nước. Họ không tự coi mình là
những “ugly american”(người Mỹ xấu xa). Các phóng viên, nhà báo Mỹ
này là những an-ten thu lượm tin tức và qua các cuộc phỏng vấn trá hình là
những công cụ nhằm thăm dò phản ứng, thái độ của dư luận Sài Gòn trước các biến
cố chính trị, quân sự. Những nhà báo có tên lạ hoắc, tự nhận làm đặc phái viên “free
lance” (nhà báo tự do), luôn gây cho tôi sự nghi ngờ cảnh giác.
Qua các máy lọc của
CIA, tên tôi bị loại trừ ra khỏi danh sách những nhân vật coi là “có khả năng
tiếp cận”. Có một đánh giá cho rằng CIA chỉ sai trật với một tỷ lệ không quá
0,5% khi tiến hành chọn lựa người để tuyển dụng!
CHƯƠNG 9: NGƯỜI VIẾT
CÔ ĐƠN
Trong Hạ nghị viện
nhiệm kỳ 1, phe đối lập gồm nhiều tiếng nói mạnh mẽ và có nhiều ảnh hưởng trong
dư luận. Nào là Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung,
Dương Văn Ba, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu, Phan Xuân Huy v.v… Lúc này các dân
biểu thuộc phe quân nhân thân tướng Kỳ cũng nghiêng về phe đối lập trong một số
cuộc biểu quyết. Ngay cả các dân biểu thuộc phong trào Cấp Tiến thuộc ảnh hưởng
các giáo sư Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy như Trương Vị Trí, Nguyễn Tấn
Trạng, Nguyễn Văn Tiết, Trần Minh Nhựt, Nhan Minh Trang… lúc đầu cũng chưa ngả
qua công khai ủng hộ chính quyền Thiệu. Sau này phong trào Cấp Tiến mới lộ ra
là một đồng minh quan trọng của chính phủ Thiệu.
Nhưng bước vào thời kỳ
Quốc hội lập pháp, tổng thống Thiệu cũng bắt đầu củng cố địa vị của mình. Ông
Thiệu ít e ngại Thượng nghị viện vì phần đông gồm các đại diện đảng phái chống
cộng và cựu tướng lãnh thân chính phủ. Những nhân vật như bà luật sư Nguyễn
Phước Đại (độc lập), luật sư Nguyễn Văn Huyền (công giáo), tướng Nguyễn Văn
Chuân (quân đội) v.v… có những thái độ chính trị độc lập trong Thượng viện kể
ra khá hiếm hoi.
Sự ồn áo và dám tấn
công trực diện của tổng thống Thiệu chủ yếu diễn ra tại diễn đàn Hạ nghị viện.
Tổng thống Thiệu đã tìm ra một con người lý tưởng để đối phó với những chống
đối và bất ổn nơi đây. Đó là dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, chủ nhân viện bào chế
dược phẩm OPV được độc quyền sản xuất và nhập nhiều thứ thuốc bán rất chạy.
Cách làm của dược sĩ Thăng để “nắm” Hạ nghị viện rất đơn giản và hiệu quả: ông
bỏ tiền ra mua chuộc tất cả các dân biểu ham tiền, không có lập trường chính
trị rõ ràng hoặc sẵn sàng bán mình cho chính quyền Thiệu. Hàng tháng, các dân
biểu này đều có “bao thư”. Mỗi khi có các cuộc biểu quyết quan trọng mà chính
quyền Thiệu cần quốc hội thông qua thì mỗi lá phiếu đều được ra giá cụ thể.
Người ta cho rằng lúc đầu tổng thống Thiệu chưa nắm trọn quyền lực trong tay
mình, chính dược sĩ Thăng phải bỏ tiền nhà để làm cái việc này. Mới nghe qua
tưởng rằng dược sĩ Thăng chịu một “hy sinh” lớn cho tổng thống Thiệu, nhưng kỳ
thật tiền đó của ông Nguyễn Cao Thăng chẳng mất vào đâu. Chuyện làm ăn riêng
của ông (Viện bào chế OPV) được ưu đãi mang lại cho gia đình ông một mối lợi
còn to hơn gấp nhiều lần tiền ông bỏ ra để gây hậu thuẫn cho cá nhân tổng thống
Thiệu. Dĩ nhiên sau này khi ông Thiệu nắm trọn quyền lực trong tay, đồng tiền
được sử dụng cho những chuyện này không xuất ra từ túi riêng của ông Thăng nữa
mà từ các quỹ đen của chính phủ.
Tuy nhiên phải nói rằng
ông Thăng với chức vụ chính thức là “phụ tá đặc biệt tại phủ tổng thống” (ngang
cấp với bộ trưởng) làm việc này khá thành công không chỉ vì có nhiều tiền để
chi, mà còn do con người mềm mỏng và tế nhị của ông. Các cuộc tiếp xúc và vận
động của ông đều thực hiện khéo léo của người biết làm lobby ở
hậu trường chính trị. Ngay cả với những dân biểu chẳng ra gì, thấy mặt ông là
xin tiền, ông vẫn tỏ ra tôn trọng và lễ độ! Nhờ thế lần lần ông “nắm” gần hết
các dân biểu lúc đầu là tay chân của phó tổng thống Kỳ. Kể từ nhiệm kỳ Quốc hội
lập pháp thứ nhất (1967-1971), các dân biểu bị chính quyền Thiệu “mua chuộc”,
được báo chí đặt cho cái tên: “dân biểu gia nô”. Nhưng không phải tất cả các
dân biểu theo chính quyền đều bị báo chí gọi là “dân biểu gia nô”. Những dân
biểu đứng về phía chính phủ Thiệu do lập trường của mình, có ý thức về sự lựa
chọn chỗ đứng chính trị của mình, có nghĩa là không theo chính phủ vì tiền, họ
không bị báo chí liệt vào hạng “dân biểu gia nô”.
Các “dân biểu gia nô”
thường nhắm mắt bỏ phiếu theo lệnh của “Phủ đầu rồng” (từ được dùng để ám chỉ
Phủ tổng thống do báo Tin Sáng của dân biểu Ngô Công Đức đặt
ra đầu tiên). “Dân biểu gia nô” gần như không bao giờ lên diễn đàn để bảo vệ
lập trường của chính phủ hay đáp trả những lời chỉ trích ác liệt từ phía các
dân biểu đối lập. Họ ngồi lặng im như những cái bóng và chỉ chờ đến lúc biểu
quyết bỏ phiếu theo lệnh của “Phủ đầu rồng” do phụ tá đặc biệt Nguyễn Cao Thăng
truyền đạt. Các “dân biểu gia nô” gây ra nhiều vụ “xì –can –dan” làm nhục quốc
hội và chế độ Sài Gòn như: lợi dụng các chuyến công tác nước ngoài, họ buôn từ
vàng, đô la, ma túy, đến “lịch ở truồng” (lịch Playboy), đồ lót phụ nữ v.v…Quốc
hội đã phải truất quyền dân cử một dân biểu bị phát hiện cất giấu heroin trong
hành lý của mình tại phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến công tác nước ngoài trở
về. Một phó chủ tịch Hạ nghị viện thân chính phủ bị an ninh phi trường Bangkok
bắt tại trận vì giấu hàng chục ký vàng trong người trước khi lên máy bay về Sài
Gòn!
Khi phụ tá Nguyễn Cao
Thăng đã tổ chức chặt chẽ hàng ngũ “dân biểu gia nô” ở Hạ nghị viện và “nghị
gật” ở Thượng nghị viện thì các nhóm dân biểu, nghị sĩ đối lập – thiểu số tại
hai viện quốc hội – chỉ còn phát huy vai trò và ảnh hưởng của mình bằng những
phát biểu gây tiếng vang trên diễn đàn Quốc hội hoặc báo chí. Còn khi bỏ phiếu,
chính phủ Thiệu gần như toàn quyền lèo lái quốc hội theo ý mình.
Tuy thế, dù sao tiếng
nói của dân biểu đối lập trên diễn đàn quốc hội cũng là một áp lực thường xuyên
đối với chính phủ Thiệu. Những người chống chính phủ vẫn lợi dụng được diễn đàn
này để tố giác tham nhũng, các vi phạm dân chủ và cả sự phản đối chiến tranh.
Trong nhiệm kỳ Hạ nghị
viện 1967-1971, phe đối lập còn có hai tờ báo hàng ngày khá mạnh về số lượng
phát hành và nhất là về ảnh hưởng đối với dư luận người dân Sài Gòn. Hai tờ đều
được cấp giấy phép xuất bản gần cuối năm 1968 là Tin Sáng do
dân biểu Ngô Công Đức, đơn vị Trà Vinh, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và Tiếng
Nói Dân Tộc do tôi đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tờ Tin
Sáng có một số phận khá đặc biệt: tháng 8 – 1971, anh Ngô Công Đức ra
nước ngoài sau khi thất cử ở đơn vị cũ (Trà Vinh) vì chắc chắn sẽ bị chính
quyền Thiệu đàn áp khi quyền bất khả xâm phạm của mình hết hiệu lực. Anh Đức đi
đường bộ qua Campuchia, rồi từ đây đi tiếp sang Bangkok. Cuối cùng anh định cư
tại Thụy Điển. Theo một người thân của anh Đức, trước khi rời Sài Gòn, anh Đức
đã được anh Phạm Xuân Ẩn khuyến khích nhanh chân ra đi vì anh Ẩn thấy trước
nguy cơ anh Đức có thể bị chính quyền Thiệu hãm hại. Tờ báo vắng mặt chủ nhiệm
(nhưng được giấu kín) tiếp tục phát hành thêm khoảng 2 tháng. Người điều hành
tờ Tin sáng trong thời gian chủ nhiệm vắng mặt là dân biểu Hồ
Ngọc Nhuận. Chức danh của ông Nhuận trong tờ báo là giám đốc chính trị. Tháng
1-1972, Bộ thông tin mới phát hiện sự vắng mặt của chủ nhiệm và rút giấy phép
củaTin Sáng. Anh Đức bị chế độ Sài Gòn kết án vắng mặt ba năm tù và tịch
thu tài sản. Có những lúc, trong một tháng, báo Tin Sáng bị Bộ
Thông tin ra lệnh tịch thu 15 ngày (mỗi đợt ba, bốn ngày). Nhưng tờ báo tiếp
tục sống vì tòa soạn có cách tuồn báo ra ngoài bán. Thường báo bị tịch thu lại
bán chạy hơn báo phát hành bình thường. Mục ăn khách nhất của báo Tin
Sáng là “Tư trời biển” do chính ông Đức phụ trách.
Trước năm 1975, tờ báo
Sài Gòn nào cũng có mục tiểu phẩm châm biếm. Nó thường chiếm vị trí quan trọng,
nằm ở phía dưới bên phải trang nhất tờ báo, đối xứng với một mục “ăn khách”
khác là xã luận nằm ở bên trái trang báo. Độc giả Sài Gòn những năm 50 không
thể quên cây viết trào lồng Tiểu Nguyên Tử với mục châm biếm xuất hiện hàng
ngày “Gẫm cười hai chữ nhân tình” trên tờ Tiếng Chuông. Tiểu Nguyên
Tử là bút danh của một luật sư nổi tiếng, ông Dương Tấn Trương. Ông có lối viết
và chơi chữ rất độc đáo.
Tờ báo ngày Tiếng
Nói Dân Tộc (TNDT) xuất bản cùng thời điểm với tờ Tin Sáng,
cũng có mục châm biếm thường xuyên lấy tên “Xỉa răng cọp” do tôi phụ trách trực
tiếp với bút danh “Người Giấu Tên”. Vào lúc này, báo chí chống cộng như
tờ Sống của nhà văn Chu Tử (tác giả của tiểu thuyết ăn
khách Yêu) là tiếng nói khá nặng ký của những người Bắc di cư hoặc
tờ Xây Dựng do linh mục Nguyễn Quang Lãm làm chủ nhiệm đều có
mục châm biếm. Chu Tử đặt tên mục của báo mình là “Ao thả vịt”, còn linh mục
Lãm viết châm biếm dưới bút danh Thiên Hổ.
Không thể tránh những
cuộc bút chiến xảy ra giữa các tờ Tin Sáng và
Tiếng Nói Dân Tộcthuộc khuynh hướng tiến bộ với các báo Sống và Xây
Dựng. Tuy nhiên, dù các cuộc bút chiến có lúc khá gay gắt nhưng vẫn nằm
trong khuôn khổ lịch sự.
Số phận của tờ TNDT khá
lận đận. Vừa ra được mấy số thì đã bị bộ trưởng Bộ thông tin Tôn Thất Thiện gọi
lên hăm dọa đóng cửa với lý do: trong tòa soạn TNDT có chứa
cộng sản. Tôi phản đối: Ông không nên nói nửa úp nửa mở như thế. Ông phải nêu
ra rõ ràng ai là cộng sản? Tôi đặt lại vấn đề với tổng trưởng Thiện: Bộ thông
tin đâu có phổ biến đến các báo danh sách các nhà báo cộng sản để các nhà báo
biết mà tránh không sử dụng. Tôi nhấn mạnh: “Tòa soạn báo TNDT,
những người cộng tác với tôi đều là những công dân hợp pháp”. Ông Thiện chẳng
nói gì nhưng cho tôi hiểu đây là một lời cảnh cáo đối với tờ TNDT.
Tổng trưởng Thiện từng ở “một chiến tuyến” với tôi khi ông cùng tôi phụ trách
báo chí cho liên danh Trần Văn Hương, ứng cử tổng thống năm 1967. Ông Thiện phụ
trách liên lạc báo chí tiếng Anh, còn tôi liên lạc báo chí tiếng Việt. Khi ông
Trần Văn Hương nhận làm thủ tướng cho chính phủ Thiệu, ông có hỏi ý kiến tôi
nên chọn ai làm tổng trưởng thông tin. Tôi là người đã nêu tên Tôn Thất Thiện.
Nhưng trong cuộc gặp nhau tại Bộ thông tin liên quan đến tờ TNDT,
ông Thiện tiếp tôi một cách lạnh lùng như không hề quen biết. Người Pháp nói
“Quyền hành làm hư hỏng con người” (le pouvior corrompt l’homme), còn ở đây thì
quyền hành làm thay đổi tình bạn. Thời gian ông Thiện làm tổng trưởng thông
tin, báo chí chống đối ông quyết liệt và đặt cho ông biệt danh: “Bảy T”, dựa
vào bảy chữ T (tổng trưởng thông tin Tôn Thất Thiện). Một số báo còn gọi ông là
Bảy Thất: thất thiện, thất tâm, thất tín v.v…
Trở về tòa soạn sau khi
lên Bộ thông tin, tôi có thuật lại chuyện xảy ra cho nhà báo Triệu Công Minh
nghe, lúc đó ông Minh làm tổng thư ký tòa soạn của tờ báo. Ông Minh suy nghĩ
một lúc rồi nói với tôi: “Tụi nó nhắm vào tôi và vợ tôi đó”. Vợ của ông Minh là
bà Ái Lan cũng là một nhà báo quen thuộc ở Sài Gòn. Hai ông bà đi đâu và làm gì
cũng có đôi, như hình với bóng, ngay cả khi vào tù thời Pháp trước đó hay sau
này của các chính quyền Diệm và Thiệu cũng đủ đôi.
Nhớ lại khi tôi vừa có
giấy phép xuất bản báo TNDT và dự định in tại nhà in của ông
Nam Đình (chủ nhiệm tờ Đuốc Nhà Nam, cũng là chủ nhiệm tờ Thần
Chung xưa kia), tôi có nhờ ông Nam Đình giới thiệu một tổng thư ký tòa
soạn. Ông Nam Đình đã giới thiệu tôi với ông Triệu Công Minh, lúc đó khoảng 60
tuổi. Ông Triệu Công Minh còn hoạt động cho cộng sản không, lúc đó tôi không
biết. Nhưng với cả làng báo Sài Gòn, ai cũng biết hai vợ chồng ông Minh là
những nhà báo kháng chiến và không bao giờ hai ông bà từ bỏ lý tưởng của mình.
Ông Minh nói tiếp với
tôi: “Để tránh rắc rối cho tờ báo của cậu, vợ chồng tôi phải rút lui thôi. Tôi
sẽ giới thiệu cho cậu một người khác thay tôi làm thư ký tòa soạn”. Ông Minh
giới thiệu với tôi nhà báo kỳ cựu Phan Ba mà theo tôi biết cũng là một nhà báo
cựu kháng chiến. Anh Ba đã từng bị chế độ Ngô Đình Diệm bắt và bị tỉnh trưởng
Mỹ Tho Nguyễn Trân đưa ra đấu lý về chủ nghĩa cộng sản tại tỉnh này cùng với
nhiều người cộng sản khác hoạt động trong lãnh vực báo chí tại Sài Gòn. Anh
Phan Ba cộng tác với tôi cho đến khi báo TNDT bị chính quyền
Thiệu đóng cửa (đầu năm 1970). Sau đó anh làm cho tờ Tin Sáng của
anh Ngô Công Đức. Sau 30-4-1975, khi Tin Sáng tái bản, tôi và
anh Phan Ba lại có dịp làm chung. Tôi phụ trách tòa soạn, còn anh lo tin quốc
tế.
Tờ TNDT đánh
dấu bước chuyển đầu tiên trong lập trường chính trị của tôi, từ vị trí đối lập
nhưng vẫn tự coi mình là một thành viên trong hàng ngũ “quốc gia”, chuyển sang
đứng giữa, không xếp hàng theo chính quyền quốc gia mà cũng không theo cộng
sản. Thái độ chính trị này thực chất không có gì khác hơn là sự biểu hiện tâm
trạng gần như bế tắc của cá nhân tôi. Sau Tết Mậu Thân, một số trí thức tên tuổi
và nhiều học sinh sinh viên rời thành phố đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam hoặc theo Liên minh Dân tộc Dân chủ Hòa bình do luật sư Trịnh Đình
Thảo đứng đầu. Lúc đó tôi thấy rằng, không phải tất cả mọi người muốn đi tìm
một lý tưởng đều có thể đi theo con đường MTDTGPMN, vì không phải ai yêu lý
tưởng cũng có đủ can đảm, và chưa kể MTDTGPMN vẫn là một tổ chức hoạt động
chính trị bí mật, nên muốn tiếp cận để tìm hiểu và gia nhập là cả một vấn đề
đối với những ai không được “móc nối” hoặc không có người làm trung gian. Chính
vì thế, tôi cũng tự gọi mình là người thuộc thành phần “những người Việt cô
đơn”.
Lập trường “đứng giữa”
của tôi xuất phát từ quan điểm chối từ tính đại diện hợp pháp của chính phủ Sài
Gòn và mặt khác do sự hoàn toàn không hiểu biết tổ chức MTDTGPNMN vì chưa từng
được tiếp xúc.
Để bảo vệ lập trường
“đứng giữa” của mình, tôi đã phải đối đầu công khai với các bài báo chống cộng
trên tờ TNDT. Ngày 22-11-1968, tôi đã có cuộc bút chiến với
tờ Xây Dựng linh mục Nguyễn Quang Lãm và ngày 1-12-1968 với
tờ Chính Luận của nghị sĩ Đặng Văn Sung – một nhân vật chống
cộng và thân Mỹ nổi tiếng tại Sài Gòn. Và đây là một giai đoạn của bài báo “Đi
mô đấy ông Lý Quý Chung” ra ngày 21-11-1968 trên tờ Xây Dựng:
“Ở giữa đây là quay về
nguồn gốc của dân tộc để vì Dân tộc mà sống với Dân tộc, cùng một lúc từ chối
cả hai ảnh hưởng từ hai phía”.
Câu trên đây của ông
dân biểu Lý Quí Chungnếu được tuyên bố trong một cuộc mít tinh khí thế bừng
bừng của sinh viên học sinh, tất cả sẽ vang như sấm sét, giữa những tiếng hoan
hô vang dậy ngất trời.
Chẳng nói đến thanh
niên, ngay cả cái cỡ long đầu gối, thận suy, răng rụng như Thiên Hổ cũng sẽ
phải hỉ hả, vỗ đến toét cả hai bàn tay ra.
Thú thực là để cho nó
sướng cái miệng! Thế thôi, chứ cũng thú thực cóc hiểu cái tuyên bố đó.
Tất nhiên rồi. Những Lý
Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các anh em có
tên Chung hay Trung cũng như các đứa con chỉ được quen mồm gọi thằng cu như
Thiên Hổ, nghĩa là đại đa số con dân Việt Nam ở ba miền Trung, Nam, Bắc, vẫn
muốn là ‘những người ở giữa’. Nô lệ nhục lắm, ai chả biết dân tộc mình nhiều tự
ái, đến mần cái việc của Hàn Tín ngày xưa với anh hàng thịt cũng chưa chắc đã
thèm làm (.)
Giữa lúc thập tử nhất
sanh của đất nước mà chỉ oang oang “Chúng tôi muốn là những người ở giữa” thì
câu đó ‘nông a lê u’, mà còn tổ làm cớ cho cộng sản nó khai thác! Nhà dân biểu
hăng say Lý Quí Chung ‘vì dân tộc, với dân tộc’ hẳn đã nghĩ đến điều đó. Dù sao
Thiên Hổ cũng xin phép nói trước, sợ đàn anh quá sốt sắng đến thành ngây thơ.
Chết cho dân tộc chúng em đấy!
Thiên Hổ
Rõ ràng lập trường
“đứng giữa” của tôi lúc đó gây phản ứng với các thế lực chống Cộng như thế. Tôi
chấp nhận sự “ngây thơ chính trị” của mình để có thể tự tách mình ra khỏi một
chế độ không đáp ứng lý tưởng của mình mà cũng không đại diện nguyện vọng của
nhân dân miền Nam. Lập trường “đứng giữa” làm tức tối các phần tử chống cộng,
nhưng cũng chính thức không nghiêng về phía cộng sản, nên không có đủ lý do để
chính phủ Thiệu đóng cửa tờ báo.
Với tôi, lúc đó nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn cũng là một “người Việt cô đơn”, một “người Việt đứng giữa”. Có
một hôm tôi mời anh Sơn đến tòa soạn TNDT chơi và trong một giây phút cao hứng
tôi đề nghị anh sáng tác một bản nhạc dành cho người Việt đứng giữa. Nhưng Sơn
khéo léo nói sang chuyện khác. Tôi biết Sơn ngại dính líu vào chính trị. Dù tôi
không tham gia một đảng phái chính trị nào nhưng tôi cũng đang hoạt động chính
trị. Sơn vẫn đặt các sáng tác của anh trên những xúc cảm chung nhất của dân
tộc: chống chiến tranh, vì hòa bình thống nhất đất nước, vượt lên trên những
vấn đề thời sự cụ thể. Anh đau niềm đau chung của dân tộc.
Nhạc Trịnh Công Sơn có
những lúc là cái phao tinh thần cho cá nhân tôi. Nhiều buổi tối trở về nhà chán
nản, tâm trạng khủng hoảng, bế tắc sau một cuộc xuống đường mệt mỏi nhưng chẳng
lay động được gì chế độ Mỹ - Thiệu, tôi nằm ngay trên sàn nhà, không cần bật
đèn, chỉ bật nhạc Trịnh Công Sơn để nghe như nghe chính tâm trạng mình, nhưng
đồng thời lại nuôi nấng được trong con tim niềm hi vọng hòa bình và ước mơ được
thấy một ngày nào đó, Huế - Sài Gòn – Hà Nội sẽ liền một dải. Thế là nhạc Trịnh
làm tươi lại tâm hồn tôi và làm mới ý chí tôi.
Có những đêm, sau cuộc
họp chính trị tại Dinh Hoa Lan (biệt thự của tướng Dương Văn Minh) tôi không về
thẳng nhà mình mà đến phòng trà Khánh Lý trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) để
ngồi nghe một mình nhạc Trịnh. Nhạc Trịnh chống chiến tranh nhưng không hề
khiến những người yêu nước mềm ý chí. Anh kêu gọi hòa bình nhưng không làm cho
những ai đang chiến đấu vì đồng bào và Tổ quốc lại gác súng. Trái lại nó nuôi ý
chí làm quật khởi những tâm hồn yêu nước.
Cuộc sống quá hối hả,
dồn dập lắm biến chuyển không có nhiều cơ hội để tôi và Trịnh Công Sơn gặp
nhau. Vả lại tôi và Sơn hoạt động ở hai quỹ đạo rất khác nhau. Sau 1975, chúng
tôi gặp nhau thường hơn, nhưng vì tôi không uống rượu và cũng không sành về âm
nhạc nên cũng không lọt vào cái quỹ đạo đặc biệt của Sơn gồm những bạn rượu và
văn nghệ sĩ. Mỗi lần tôi tới chơi nhà Sơn, tôi đều báo trước và thường ngồi nói
chuyện với nhau chỉ có hai đứa.
Khi tôi lấy vợ lần thứ
hai (năm 1985) và tổ chức đám cưới tại hội trường báo Tuổi Trẻ, tôi
có mời Sơn. Tôi và Sơn rất mê khiêu vũ nên giữa buổi tiệc chúng tôi dẹp bớt đi
bàn ghế và cho nhạc trỗi lên. Vào thời điểm này hầu như không ai dám “liều” như
chúng tôi. Khai mạc buổi khiêu vũ, Sơn mời cô dâu nhảy đầu tiên, còn tôi mời
chị Kim Hạnh, Tổng biên tập báoTuổi Trẻ. Tôi còn nhớ đó là một bản nhạc
theo nhịp Be Bop. Sơn rất thích nhảy Be Bop. Sau này khi bệnh tiểu đường trở
nặng, đi đứng khó khăn, Sơn không còn khiêu vũ được, làm anh hối tiếc vô cùng.
Có một hôm (khoảng đầu năm 2000) tôi cùng vợ tôi khiêu vũ ở vũ trường Tự Do ở
đường Đồng Khởi, đang nhảy ngoài piste, tôi linh cảm có ai nhìn mình từ quầy
bar, tôi quay lại và nhìn thấy Trịnh Công Sơn. Đứng bên cạnh là họa sĩ Trịnh
Cung. Anh đưa tay lên chào tôi. Khi bản nhạc kết thúc tôi liền đến chỗ anh. Tôi
hỏi Sơn: “Ông không nhảy à?”. Giọng Sơn buồn man mác: “Mình đi đứng còn khó
khăn thì làm sao nhảy. Thấy toa nhảy, moa thèm quá”. Sơn còn hỏi thêm: “Hình
như toa nhảy disco hơi khác người ta phải không?”. Tôi cười trả lời: “Khiêu vũ
đâu nhất thiết phải giống như người khác. Mình nhảy theo cảm xúc của mình – như
thế tự do và hứng thú hơn”. Nhìn Sơn đứng bên piste mà không nhảy, tôi buồn và
thương anh vô cùng. Tôi biết bệnh tình của anh đã tới thời kỳ khá nặng.
Mùng 5 Tết năm Tân Tị
(năm 2001), tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy cùng với họa sĩ Trịnh Cung thăm Sơn. Đây
là lần cuối cùng tôi gặp mặt người nghệ sĩ tài hoa này. Chỉ một thời gian ngắn
sau đó, ngày 1-4-2001, anh vĩnh viễn từ giã bạn bè và tất cả những người yêu
thương và ngưỡng mộ anh. Cuộc gặp Sơn tại bệnh viện Chợ Rẫy, tôi có ghi lại
thành một bài báo đăng trên tạp chí Đẹp số đầu tháng 2-2001:
“…Sơn vẫn nằm trên
giường khi nói chuyện với chúng tôi, nhưng trông anh vẫn khỏe khoắn, thần sắc
tinh anh. Tôi chợt cười thầm trong bụng bởi một ý nghĩ thú vị vụt đến: Con
người gầy gò và nhẹ bâng này đang mang nhiều thứ bệnh trong người, tưởng như dễ
dàng rơi vào tay tử thần, lại là người chiến đấu cho cuộc sống bản thân dữ dội
nhất.
Cách đây mấy năm, Sơn
bị đưa vào bệnh viện cấp cứu trong tình trạng hôn mê. Lần đó, bạn bè thật sự lo
lắng cho anh. Cuối cùng Sơn vẫn trở về an toàn. Gặp lại Sơn tại nhà riêng của
anh lần đó, tôi tò mò hỏi: “Đúng là ông trở về từ cõi chết, vậy ông suy nghĩ gì
về… cái chết?”
Tôi vẫn gọi Sơn như
thế, từ “ông” được dùng theo cách xưng hô thân mật. Có lúc chúng tôi gọi nhau
bằng “toa” và “moa”, cách xưng hô giữa những người bạn có thời học trường Pháp.
Sơn không cần suy nghĩ, trả lời ngay: “Chết là thiệt thòi. Người Pháp nói: Les
absents ont toujours tort. Chết, mình không còn họp mặt với bạn bè, không còn
được ngắm cuộc đời rất đẹp này”. Nhớ câu trả lời cách đây mấy năm, tôi tò mò
muốn biết nằm trên giường bệnh lần này, anh nghĩ gì. Câu trả lời còn nhanh hon
và gọn hơn lần trước: “Mình muốn ra khỏi đây càng sớm càng tốt”.
Hãy cứ vui chơi với đời
Đừng cuồng điên mơ trăm
năm sau
Còn đây em ngọt ngào
Đứng bên ngày yêu dấu
Nhìn mây trôi đang tìm
về núi cao
(«Hãy cứ vui như mọi
ngày»)
Vóc dáng mảnh khảnh,
quen thuộc của anh Sơn với mọi người trong nhiều năm qua, khiến không ai có thể
nghĩ rằng Sơn đã có một thời trai trẻ là con nhà thể thao chính cống. Mỗi sáng
anh đều quần một hai hiệp quyền Anh. Anh đồng thời còn là đệ tử Vovinam từ những
ngày đầu môn này được thành lập ở Sài Gòn, và là vận động viên điền kinh 10
môn. Nếu người em trai của Sơn không tung một cú quật trong một lần luyện võ
với nhau, khiến ngực anh đập xuống nền nhà làm vỡ mạch máu phổi phải nằm trên
giường suốt hai năm, thì chắc chắn chúng ta chỉ có một vận động viên Trịnh Công
Sơn (chưa bảo đảm là xuất sắc) nhưng mất đi một Trịnh Công Sơn tài năng âm
nhạc. Đó là khúc quanh cuộc đời của anh. Sơn nói: “Trên giường bệnh mình suy
nghĩ rất nhiều…”. Khi rời giường bệnh năm 1957, trong anh đã có một đam mê
khác: âm nhạc. Với nhiều người, tác phẩm đầu tay của Sơn là “Ướt mi”. Nhưng Sơn
tiết lộ:
“Bản nhạc đầu tiên đúng
nghĩa của mình có tên “Sương đêm”. Không ai biết sáng tác này. Nó đã thất lạc.
Bản thân mình cũng không nhớ lời và nhạc như thế nào!”.
Tác phẩm đầu tiên của
Sơn – “Ướt mi” – như công chúng yêu nhạc biết, đã được Thanh Thúy – ca sĩ thời
thượng những năm 50, người có giọng ca liêu trai, trình diễn lần đầu tại phòng
trà Văn Cảnh. Không như suy nghĩ chung của nhiều người, Khánh Ly không phải là
người đầu tiên và duy nhất hát thành công nhạc Trịnh Công Sơn trước năm 1975.
Sau Thanh Thúy, một giọng ca lừng danh khác của Sài Gòn thời đó góp phần giới
thiệu tác phẩm của Sơn – đó là nữ ca sĩ Lệ Thu.
Khánh Ly là người thứ
ba và là người hát toàn bộ các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn. Lần đầu chính Sơn
chủ động tiếp xúc với Khánh Ly tại phòng trà Night Club ở Đà Lạt bằng cách tự
giới thiệu mình là tác giả bài “Ươt m”. Sau một tháng tập bể cả giọng, Khánh Ly
cùng Trịnh Công Sơn xuất hiện lần đầu tiên tại sân sau Đại Học Văn Khoa Sài Gòn
(hiện là Thư viện Quốc gia) trước 5000 sinh viên. Khánh Ly trình bày luôn 24
sáng tác của Sơn trong đêm đó. Sau đó Khánh Ly đã nói với Sơn: “Trước đây mình
chỉ hát trong phòng trà, lần đầu tiên hát trước hàng ngàn sinh viên, tối đó
mình không làm sao ngủ được”. Đó là năm 1965, các sáng tác của Sơn bấy giờ đều
là tình ca.
Đến năm 1968, Sơn mới
sáng tác nhạc phản chiến.
Hình như Trịnh Công Sơn
có hai bài sáng tác về Hà Nội và chẳng có bài nào viết về Huế. Tôi hỏi anh điều
ấy. Sơn không trả lời thắc mắc của tôi mà nói: “Có lần Hoàng Hiệp phát biểu,
bài nào của Sơn cũng có Huế trong đó mặc dù không có đề cập Huế trực tiếp”.
Thêm một thắc mắc, tò
mò khác: “Có bao giờ ông nghĩ đến chuyện lấy vợ?”
- Có một lần thoáng qua
lúc mình trẻ. Nhưng thời đó, các cô gái ít chịu lấy mấy ông chồng nghệ sĩ sống
bấp bênh.
- Bao nhiêu phần trăm
các sáng tác của ông lấy cảm hứng từ một người đẹp nào đó?
- Một phần năm mình
viết cho một người cụ thể.
Họa sĩ Trịnh Cung, bạn
thân của Trịnh Công Sơn từ thời trẻ, nói chen vào:
- Theo tôi hơn con số
đó. Phải là 40%. Tôi có thể chứng minh bài nào ông viết cho người nào.
Sơn không phản đối. Tôi
lại hỏi Sơn: “Bửu Ý viết Thay lời tựa cho Tuyển tập
những bài ca không năm tháng của ông, có đoạn nói rằng ông đã chuẩn bị
tinh thần cho cái phút sau rốt cuộc đời bằng cách trích lại 4 câu ở 4 sáng tác
khác nhau của ông:
… một trăm năm sau mãi
ngủ yên (“Sẽ còn ai”)
… mai kia chào cuộc đời (“Những con mắt trần
gian”)
…một hôm buồn núi nằm
xuống (“Tự tình khúc”)
…một lần nằm mơ tôi
thấy tôi qua đời (“Bên đời hiu quạnh”)
- Vậy ông có thật sự
chuẩn bị cho cái chết?
- Mình không chuẩn bị
cho cái chết. Lạ lùng là sau cơn hôn mê, mình tỉnh lại vẫn không thấy vui mừng.
Thế mà ngủ nằm mơ thấy chết, sáng thức dậy lại mừng. Đúng là có những chuẩn bị
hẳn hòi cho cái chết của mình và có những người chẳng chuẩn bị gì cả, coi thường
cái chết. Riêng mình hơi khác, mình không sợ cái chết nhưng nếu phải rời bỏ
cuộc đời này mình rất luyến tiếc. (Sơn dùng thêm tiếng Pháp regret). Trong khi
sống mình đã nuối tiếc rồi, mình sợ mất nó. Mình khát sống.
- Ông có bao giờ nghĩ
đến chuyện viết di chúc?
- Không. Một cô ca sĩ
đã hỏi mình câu đó. Mình có tài sản chi đâu? Với mình cái hiện tại là cái có
thật, cùng sống với nó. Còn cái sau đó…
- Bây giờ nhìn lại cuộc
đời đã qua, về tình yêu, ông thấy thế nào?
- (Không cần suy nghĩ)
Thất bại nhiều, thất bại nặng. Thời trẻ sự thất bại mang lại nỗi đau bàng bạc,
kéo dài. Bây giờ nó dữ dội, nhưng ngắn. Mình để nó rơi vào quên lãng, không lục
soát lại, coi như một xác chết của quá khứ.
Tôi chuyển sang chuyện
khác và hỏi: Ông có kẻ thù không?
- Có (Rồi dừng lại một giây
suy nghĩ). Đúng ra là không. Dĩ nhiên cũng có người ghét mình. Riêng mình đã
loại trong đầu mình khái niệm kẻ thù.
- Ông là nhạc sĩ dấn
thân – engagé?
- Từng giai đoạn, nhưng
nói chung mình chủ trương ‘nghệ thuật vị nhân sinh’ chứ không ‘nghệ thuật vị
nghệ thuật’. Cho nên nếu vì một hoàn cảnh nào đó buộc mình đi tu, thì mình sẽ
đi tu giữa cuộc đời này.
- Ông có hối tiếc vì
không có con để nối dõi?
- Không nghĩ tới. Mình
chưa bao giờ nghĩ tới một Trịnh Công Sơn con. Tại sao? Để mình xem có lý do nào
không? (Sơn suy nghĩ một lúc) Mình không thấy lý do nào cả. Có lẽ cuộc sống vội
vàng đi qua, đi qua, rồi… Thỉnh thoảng xưa kia các em mình có nhắc, mẹ mình cũng
có nhắc nhưng không ai đặt thành vấn đề, rồi thôi…
Thoắt một cái người đã
61 tuổi, người đã 62. Nhớ lại lần gặp nhau tại tòa soạn báo Tiếng Nói
Dân Tộc ở Sài Gòn năm 1966, thế là đã 35 năm.
Cùng thời điểm Sơn sáng
tác những bài hát phản chiến (bắt đầu từ năm 1968), phần tôi trên báo Tiếng
Nói Dân Tộc cũng tổ chức cuộc thi viết phóng sự với chủ đề “Viết
cho quê hương, dân tộc” dành cho bạn đọc. Các bài dự thi đều chống cuộc
chiến, chống sự can thiệp của người Mỹ, phản ánh tâm trạng và thực trạng khắp
miền Nam, tất cả hợp thành một bức tranh xúc động và trung thực của nửa phần Tổ
quốc phía Nam. Những bài đoạt giải như “Phục sinh đất chết” nói về hậu
quả của chất độc hóa học của quân đội Mỹ rải xuống ruộng vườn; “Khi người Mỹ
đến”, mô tả chi tiết quá trình một xã ven đô hiền hòa bị biến thành một nơi
buôn hoa bán phấn vì chạy theo đồng đô la Mỹ; hoặc “Ông lão trong vùng oanh
kích tự do” bi kịch của một ông lão sống trong vùng đất bị quân đội Mỹ coi
là “Free Fire Zone” nhưng nhất định không chấp nhận dời căn lều của mình đi nơi
khác v.v…
Báo TNDT đã
mời giáo sư Lý Chánh Trung làm chủ tịch Hội đồng chấm giải và tận tay trao giải
cho những người về đầu cuộc thi.
10 phóng sự xuất sắc
nhất đã được dịch ra tiếng Anh và được Nhà xuất bản Mỹ Praeger in thành sách
(tựa sách Between Two Fires). Nhà báo Lê Trang của báo Saigon Daily
News giúp tôi khâu dịch thuật, sau đó nhà báo Mỹ Arthur J. Dommen (phụ trách
văn phòng báoLos Angeles Times tại Sài Gòn) hiệu đính lại. Tôi đã
mời nhà văn nữ người Mỹ Frances Fitzgerald viết Lời mở đầu (Frances Fitzgerald
đã từng đoạt giải Pulitzer với quyển “Fire On The Lake” – Lửa trong hồ)
quyển sách do tôi đứng tên thực hiện và viết lời giới thiệu. Fitzgerald từng
viếng thăm Hà Nội trước 1975 và là người tán đồng ngay từ lúc đó sự thống nhất
Việt Nam dưới ngọn cờ của cách mạng.
CHƯƠNG 10: NHỮNG NHÀ
BÁO NƯỚC NGOÀI MÀ TÔI ĐÃ GẶP
Nhớ lại nhà báo A. J.
Dommen, tôi rất cảm ơn ông đã giúp tôi thực hiện quyển sách đã góp một phần nhỏ
làm cho dư luận Mỹ hiểu thêm thực trạng miền Nam Việt Nam từ khi quân đội của
họ can thiệp vào. Ở đó chỉ toàn là những lời ca thán và phẫn nộ chứ không hề có
sự hàm ơn. Trước năm 1975, tôi có dịp gặp gỡ và thân thiết nhiều nhà báo nước
ngoài, kể cả nhà báo Mỹ. Rất nhiều người trong số họ thật sự gắn bó tình cảm
với đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam, họ đã chọn một thái độ chính nghĩa
vượt lên trên nghĩa vụ nghề nghiệp thuần túy.
Bi kịch chiến tranh
Việt Nam chi phối rất nhiều cuộc đời và sự nghiệp của các nhà báo nước ngoài,
đặc biệt là các nhà báo Mỹ. Không ít người đã trở thành nổi tiếng, nhận những
giải thưởng báo chí cao quí như Pulitzer, nhưng cũng có lắm nhà báo bị cuộc
chiến ám ảnh mãi cuộc đời còn lại. Họ vĩnh viễn không tìm lại được cuộc sống
bình thường khi trở về quê hương. Có người vì quá gắn bó với đất nước và con
người Việt Nam, đã ôm trọn bi kịch của dân tộc này vào cuộc đời của mình. Nhiều
người trong số họ trở thành một phần ký ức trong cuộc đời hoạt động báo chí và
chính trị của tôi. Hoạt động chính trị trong lòng Sài Gòn trước 1975 không thể
thiếu những quan hệ mật thiết với báo chí, nhất là báo chí nước ngoài, vì theo
tôi, họ đã góp phần rất lớn vào việc đánh động dư luận nước Mỹ và thế giới về
những gì xảy ra tại miền Nam Việt Nam.
… Một trong những nhà
báo Mỹ đầu tiên tôi quan hệ là Peter Arnett, lúc đó là phóng viên của hãng tin
AP (Associated Press), sau này nổi tiếng trong hai cuộc chiến Irak (1991
và 2003). Tôi muốn nhắc đến Peter Arnett đầu tiên vì thời điểm tôi bước vào
nghề báo cũng là lúc Peter Arnett gây sự chú ý trong các đồng nghiệp của anh
qua một cuộc tranh luận gây sốc với đô đốc Harry Felt, tư lệnh lực lượng Mỹ ở
Thái Bình Dương. Chuyện xảy ra sau trận đánh Ấp Bắc lịch sử hai ngày. Đô đốc
Felt cố gắng biện minh sự thất bại đầu tiên của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn
trong chiến tranh trực thăng vận bằng cách lập luận rằng đã đánh bật được địch
ra khỏi Ấp Bắc. Nhưng Peter Arnett cho rằng đó là cách đánh giá thắng bại theo
sự chiếm cứ đất đai trong chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều
Tiên, hoàn toàn không ăn nhập gì với cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam. Sau
trận đánh Ấp Bắc, chiến tranh du kích ở miền Nam đã đạt một tầm vóc phát triển
mới. Peter Arnett đặt vấn đề và chất vấn Đô đốc Felt theo chiều hướng này khiến
cho Felt không giữ được bình tĩnh và quật ngược lại Arnett: “Anh hãy trở lại
hàng ngũ”, ý muốn nhắc Peter Arnett đừng quên anh trước hết là một người Mỹ.
Các bài viết của Peter Arnett trong chiến tranh Việt Nam luôn cố gắng tìm ra
một sự thật khác hơn cái sự thật được Washington và chính quyền Sài Gòn đưa ra.
Ở cuộc chiến vùng Vịnh 1991 (Irak 1) và ở cuộc chiến Irak 2 (2003) cũng thế. Ở
cuộc chiến Irak 2, Arnett đang là phóng viên của NBC (Mỹ) nhưng lại xuất hiện
trong cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình Irak (Lúc lãnh tụ Saddam Hudssein còn
nắm quyền) và đưa ra nhận định rằng những hình ảnh bom đạn Mỹ sát hại dân thường
Irak và nhất là trẻ thơ vô tội cung cấp thêm sức mạnh cho các phong trào phản
chiến ở Mỹ và thế giới. Sau cuộc trả lời phỏng vấn này, Peter Arnett bị NBC sa
thải. Nhưng liền đó, một tờ báo Anh lại thuê ông tiếp tục làm đặc phái viên tại
Irak.
Peter Arnett gặp và
phỏng vấn tôi trong khoảng thời gian 1967 – 1968. Sau chiến tranh Vùng Vịnh
(Irak 1), năm 1996, Peter Arnett có trở lại Việt Nam. Khi đến TP.HCM, ông có
đến thăm tôi cùng một người bạn của ông tại nhà hàng “Đôi đũa tre” của tôi ở
đường Bà Hạt thuộc quận 10 TP.HCM. Chúng tôi nhắc lại chuyện xưa và được nghe
ông kể nhiều chuyện về chiến tranh Vùng Vịnh.
Peter Arnett là phóng
viên Mỹ đầu tiên nhìn thấy ở trận Ấp Bắc một bước ngoặt của chiến tranh du kích
ở Việt Nam. Còn với Henry Kamn, phóng viên của New York Times, là
một trong những người đầu tiên đưa vụ thảm sát Sơn Mỹ ra trước công luận Mỹ.
Điều gì thúc đẩy những nhà báo như Peter Arnett, Henry Kamn lật ngược những “sự
thật” được chính nhà cầm quyền Mỹ… dựng lên, và đưa ra công luận những tội ác
mà chính quân đội Mỹ gây ra? Theo tôi, trong một nhà báo chân chính luôn tồn
tại hai con người: con người bình thường gắn với quê hương, dân tộc, và một con
người khác vượt lên trên ranh giới quốc gia, chia sẻ những nỗi đau và bất hạnh
của nhân loại, để đấu tranh cho một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
Chính Henry Kamn đã kể
lại cho tôi nghe diễn tiến việc ông thực hiện bài phóng sự điều tra vụ thảm sát
Sơn Mỹ (vào lúc đó báo chí quốc tế gọi là vụ thảm sát Mỹ Lai) như sau:
- Một buổi trưa tại văn
phòng báo New York Times ở Sài Gòn, tôi nhận một cú điện thoại
từ văn phòng ở New York cho biết có tin một đại úy phi công Mỹ đã tố giác một
vụ thảm sát dân thường do lính Mỹ gây ra tại một làng ở tỉnh Quảng Ngãi. Đại úy
phi công này đã chứng kiến tận mắt vụ thảm sát và anh đã dùng trực thăng của
mình cứu được một số người. Sau một thời gian im lặng, do lương tâm cắn rứt,
anh đã lên tiếng tố giác.
Nhận được thông tin
này, Henry Kamn tức tốc gọi cô thư ký mua ngay vé máy bay đi Đà Nẵng đầu giờ
chiều hôm đó. Đến Đà Nẵng, Kamn không có phương tiện nào đi Quảng Ngãi, trời
lại bắt đầu tối. Cuối cùng, Kamn đã xin được một chỗ trên một máy bay quân sự
Mỹ đến tỉnh này. Trên máy bay, Kamn ngồi cạnh một người Mỹ mặc quần áo dân sự.
Trò chuyện với nhau một lúc, người Mỹ này hỏi mục đích của chuyến đến Quảng
Ngãi của Kamn. Kamn tiết lộ mình là nhà báo nhưng vẫn úp mở về mục đích chuyến
đi của mình. Người Mỹ kia nhìn thẳng Kamn và nói “Tôi biết ông tìm gì ở đó. Vụ
thảm sát ở Mỹ Lai phải không?”. Thế là Henry Kamn đành thú nhận mục đích của
chuyến đi của mình. Bấy giờ, người Mỹ kia mới nói rõ ông là cố vấn của tỉnh
trưởng Quảng Ngãi và mời Kamn khi đến Quảng Ngãi nên ở nhà ông “để được an
toàn”. Viên cố vấn Mỹ này cũng hứa giới thiệu Henry Kamn với trung tá tỉnh
trưởng Quãng Ngãi, ông ta sẽ giúp cho cuộc điều tra của Kamn dễ dàng hơn. Viên
cố vấn Mỹ cho biết tỉnh trưởng hiện tại, vừa được bổ nhiệm thay tỉnh trưởng cũ,
không dính líu gì với vụ thảm sát sẽ sẵn sàng giúp Kamn. Nếu không có sự giới
thiệu của viên cố vấn Mỹ với tỉnh trưởng Quảng Ngãi, không thể nào Kamn có thể
đặt chân đến làng Mỹ Lai.
Khi Henry Kamn đến đó,
trong làng không còn ai cả. Một số ít người còn sống sót đã lánh sang làng kế
bên. Số nhân chứng này giúp Kamn dựng lại khá đầy đủ một trong những tội ác tồi
tệ nhất do quân đội Mỹ gây ra trong chiến tranh Việt Nam. Trở lại tỉnh lỵ Quảng
Ngãi, Henry Kamn mượn điện thoại tại nhà riêng của viên cố vấn Mỹ để đọc bài
báo của mình về văn phòng New York Times ở Sài Gòn rồi từ đây
chuyển về Mỹ. Viên cố vấn Mỹ hỏi Kamn: “Tôi có thể đứng đây nghe nội dung bài
báo của ông được không?”. Kamn trả lời: “Ông cứ nghe vì ngày mai cả nước Mỹ và
thế giới sẽ biết chuyện gì đã xảy ra tại cái làng hẻo lánh này”. Khi kể cho tôi
nghe câu chuyện, đến đoạn này Kamn hỏi tôi: “Anh có đoán viên cố vấn Mỹ phản
ứng thế nào sau khi nghe tôi đọc hết bài báo?”. Rồi không cần tôi trả lời, Kamn
nói tiếp: “Ông ta đã khóc vì quá xúc động”. Từ buổi gặp nhau tình cờ này, Kamn
và viên cố vấn Mỹ trở thành bạn thân: họ cùng nhìn ra bản chất phi nghĩa của
cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Sau này viên cố vấn trở thành đại sứ Mỹ ở
một nước ở Trung Đông và họ vẫn liên lạc với nhau.
Sau năm 1975, Henry
Kamn trở lại Việt Nam nhiều lần và mỗi khi đến TP. Hồ Chí Minh, ông đều ghé
thăm tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau như hai đồng nghiệp bên tách cà phê tại
nhà tôi, có khi đến tận khuya. Khi Kamn lần đầu đến miền Nam Việt Nam những năm
60, ông tự coi mình là một nhà báo đã hiểu biết rành rẽ cả thế giới. Ông đến từ
Châu Âu, nơi ông làm đại diện cho báo New York Times trong
nhiều năm. Ở đây ông quen biết hầu hết các nhà chính trị và lãnh đạo các nước
Tây Âu lẫn Đông Âu. Cho nên khi nhận nhiệm vụ sang Việt Nam, ông miễn cưỡng lên
đường và tự hỏi mình đến đất nước xa lạ này để làm gì. Nhưng đặt chân đến Việt
Nam không bao lâu, Kamn đã nhận ra: Nếu mình chưa đến đây thì chưa biết gì về
cái thế giới mình đang sống. Rất nhanh, Kamn yêu đất nước này và khi đến nước
Lào thì thêm một phát hiện chinh phục con tim ông. Ông đã khám phá ở những vùng
xa xôi của trái đất những đất nước và dân tộc mà theo ông vô cùng đáng yêu và
đáng kính.
Henry Kamn có vợ Việt
Nam. Nhưng ông gặp người vợ này sau khi ông rời Việt Nam. Trong thời gian ở
Việt Nam, ông đã có vợ người Mỹ. Sau tháng 4 – 1975, ông được báoNew York
Times cử làm trưởng văn phòng tại Tokyo (Nhật). Một buổi tối đang ngồi
trong Câu lạc bộ báo chí nước ngoài tại thành phố này thì có người báo tin: một
nhóm người Việt Nam vượt biên bằng thuyền máy được một tàu Nhật vớt và đưa vào
đất liền Nhật. Những người trên chiếc thuyền máy không ai nói được tiếng Anh.
Quyết định của Kamn là lên đường ngay. Nhưng có một rắc rối không nhỏ là làm
thế nào có ngay một người biết tiếng Việt Nam và tiếng Anh hoặc Pháp để làm
thông dịch trong cuộc tiếp xúc với những người trên thuyền. Rất may tối hôm đó
trong câu lạc bộ có một phụ nữ Việt Nam rất rành tiếng Pháp và tiếng Anh. Một
người bạn giới thiệu người phụ nữ ấy với Henry Kamn và cô sẵn sàng đi ngay cùng
Kamn. Đó là sự khởi đầu của một cuộc hợp tác rất tốt đẹp.
Sau loạt bài về những
người Việt Nam di tản này, người phụ nữ Việt Nam tự nguyện làm thông dịch cho
ông đã trở thành vợ chính thức của ông. Những năm sau này Henry Kamn sống tại
miền Nam nước Pháp, vẫn viết cho New York Times nhưng
được hưởng chế độ đặc biệt chỉ làm việc 6 tháng trong một năm. Vợ ông điều
khiển một Gallerie ở Thụy Sĩ, chuyên bán tranh của những họa sĩ lớn, đặc biệt
là của Picasso.
Trong chiến tranh Việt
Nam, có rất nhiều nhà báo không chỉ dũng cảm bảo vệ sự thật và chân lý mà còn
bày tỏ công khai tình cảm, sự gắn bó của mình đối với dân tộc Việt Nam như Kamn.
Câu chuyện của Carl
Robinson, phóng viên – nhiếp ảnh của hãng tin AP là một trường hợp điển hình
khác.
Như một số thanh niên
Mỹ thời Kennedy đến Việt Nam với nhiều ảo tưởng mang từ đất nước họ: Tự coi
mình là sứ giả của thế giới văn minmh, có sự mạng giúp xây dựng một xã hội dân
chủ, tiến bộ và phồn vinh tại miền Nam Việt Nam- Carl Robinson ở tuổi đôi mươi
đặt chân đến miền Nam Việt Nam cũng với một tâm trạng như thế. “Tinh thần
Kennedy” đã thôi thúc cả một thế hệ Mỹ hướng tới những lý tưởng cao đẹp. Carl
Robinson nghĩ rằng khi mình đến miền Nam sẽ được dân chúng ở đây tiếp đón như
cha ông của anh đã từng được ôm chầm niềm nở bởi những chàng trai cô gái Pháp,
Ý mà anh từng được thấy trong các đoạn phim ghi lại sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Nhưng khi vừa xuống phi trường Tân Sơn Nhất, anh được đưa lên một
chiếc xe ca quân đội Mỹ mà các cửa sổ đều được bảo vệ bằng một lớp lưới thép để
chống lại tấn công bằng lựu đạn. Carl Robinson hiểu ngay rằng anh không đặt
chân đến một vùng đất thân thiện như anh đã được tuyên truyền!
Khi anh được điều về Gò
Công, một tỉnh lỵ ở miền Tây cách Sài Gòn chỉ mấy mươi cây số, với tư cách nhân
viên USAID (Cơ quan viện trợ Mỹ), Carl càng thấy rõ sự sai lầm quá lớn của mình
khi tình nguyện sang đây theo lời kêu gọi của chính quyền Mỹ. Đây là một cuộc
chiến mà người Mỹ hoàn toàn bị cô lập, bị chính những người mà họ có sứ mạng
“bảo vệ, giúp đỡ”, chống lại và thậm chí căm thù. Carl còn nhận ra với tất cả
sự thất vọng rằng “những đồng minh” của Mỹ cũng chẳng quan tâm đến sự chinh
phục người dân miền Nam Việt Nam mà ngược lại còn gây thêm đau thương cho họ.
Các Tỉnh trưởng – thường là một quân nhân – là những “ông vua” ở địa phương,
một thứ “hung thần” khiến người dân sợ hãi. Carl quyết định từ nhiệm.
Nhưng Gò Công sẽ mãi
mãi gắn bó với Carl: anh yêu một cô gái tại đây và thiếu nữ này cũng yêu anh.
Nhưng cuộc tình của họ không suôn sẻ dù Carl hết sức chân thành, gặp cha mẹ cô
gái và chính thức xin cưới. Cha cô gái là một nhân sĩ địa phương, nhất định từ
chối. Sự từ chối của ông cũng dễ hiểu vì vào những năm 60, gia đình nào có con
gái lấy Mỹ đều bị bà con hàng xóm coi như không đàng hoàng, dễ bị khinh rẻ.
Carl có thể đưa người yêu lên Sài Gòn sống bất kể sự chống đối của cha mẹ cô
nhưng anh không chọn giải pháp này mà vẫn kiên trì chờ đợi sự chấp nhận chính
thức của gia đình cô gái. Cuối cùng anh nhận được tín hiệu vui. Cha cô gái đồng
ý gặp Carl Robinson nhưng lại đặt một điều kiện: Carl chỉ được vợ sau khi trả
lời một câu hỏi do cha cô gái nêu ra. Ngày Carl hồi hộp đến gia đình của người
yêu, anh không đoán được câu hỏi sẽ là gì. Cuối cùng câu hỏi của cha cô gái rất
vắn tắt: “Anh có phải là nhân viên CIA không?”. Carl thở phào nhẹ nhõm vì bản
thân anh rất dị ứng với tổ chức tình báo Mỹ sau khi không làm cho USAID nữa,
Carl xin là phóng viên nhiếp ảnh cho hãng tin AP (Mỹ). Lúc đầu, anh không được
thu nhận vì áp lực của tòa đại sứ Mỹ. Carl bị liệt vào “danh sách đen” (black
list) những người Mỹ bị theo dõi tại Sài Gòn. Nhưng cuối cùng AP vẫn nhận anh.
Khi làm rõ điểm này (có
phải là nhân viên CIA không), Carl cha cô gái nhận làm rể. Thế là Carl xây dựng
kế hoạch cuộc sống của mình gắn vĩnh viễn với quê hương bên vợ. Anh không nghĩ
đến ngày trở về Mỹ. Anh yêu vợ, mặt khác đất nước và con người Việt Nam lại rất
thích hợp với tâm hồn và lối sống của anh. Kế hoạch sống tại Việt Nam của anh
bị đảo lộn với sự kiện lịch sử 30-4. Tòa đại sứ Mỹ ra lệnh Carl di tản với cả
gia đình, có cả ông già vợ đã từng nghi ngờ Carl làm việc cho CIA. Anh đau khổ
rời Việt Nam, nơi mà anh đã chọn làm quê hương thứ hai, nhưng sự đau khổ của
Carl còn là sự mất mát vật chất khiến anh hoàn toàn phá sản khi trở về Mỹ.
Những gì anh đầu tư tại miền Nam, anh không thể mang theo về Mỹ. Nhưng bi kịch
đối với Carl Robinson chỉ thật sự bắt đầu khi anh đặt chân trở lại quê hương
anh. Hai vợ chồng phải sống trong những điều kiện khó khăn tại Washington, mỗi
ngày Carl đến trụ sở hãng AP với vỏn vẹn hai đô la bỏ túi; nhưng cái mà Carl
không thể chịu đựng nổi chính là thái độ của các đồng nghiệp anh tại AP. Khi từ
miền Nam Việt Nam trở về, lúc đầu Carl hình dung rằng anh sẽ được các đồng
nghiệp trong cơ quan đón anh với một sự quan tâm đặc biệt. Họ sẽ quay quắt đặt
vô số câu hỏi về Việt Nam: Tại sao người Mỹ thất bại, những ngày cuối ở Việt
Nam ra sao, cuộc di tản diễn ra thế nào v.v… Nhưng thực tế hoàn toàn khác hẳn.
Không ai hỏi Carl điều gì về Việt Nam. Họ còn cố tránh nói chuyện hoặc chạm mặt
với Carl Robinson trong cơ quan bởi vì họ muốn vĩnh viễn quên đi Việt Nam. Carl
là cây đinh trong mắt họ.
Carl bắt đầu uống rượu,
bỏ bê công việc, rồi cuối cùng rút khỏi hãng AP vì không chịu đựng nổi những
bất mãn và tủi nhục của người khác về chiến tranh Việt Nam cứ đổ trút lên anh.
Để cứu chồng mình ra khỏi tình trạng khủng hoảng có thể dẫn tới căn bệnh trầm
uất, người vợ Việt Nam đã đưa cả gia đình sang sống ở Sydney (Úc). Tại đây một
người bạn giúp anh trở lại với nghề báo bằng cách giới thiệu anh với tuần báo
Mỹ Newsweek. Anh trở thành trưởng văn phòng của tờ báo này ở
Sydney. Ngoài ra anh cùng gia đình vợ mở một quán ăn Việt Nam lấy tên là Sài
Gòn. Carl có dịp trở lại Việt Nam lần đầu nhân kỷ niệm 15 ngày thống nhất đất
nước. Chúng tôi rất mừng rỡ khi gặp lại nhau. Gần đây tôi được biết Carl cùng
vợ cố gắng tiếp nối kế hoạch xưa kia là xây dựng một lần nữa cuộc sống của họ ở
Việt Nam.
… Trước năm 1975, các
nhà báo nước ngoài là một bộ phận gắn liền với cuộc chiến tại Việt Nam. Các nhà
báo tiến bộ đã góp phần làm sáng rõ lên nhiều góc khuất hoặc thực trạng bị bóp
méo trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều nhà báo cũng bày tỏ công khai thái độ
chống chiến tranh, chống sự can thiệp của người Mỹ ở Việt Nam. Họ đã góp phần
thúc đẩy cho cuộc chiến tranh sớm đi tới sự kết thúc vào 30-4-1975. Jean Claude
Pomonti của báo Le Monde, Nayan Chanda của báo Far Eastern
Economic Rewiew (có lúc cộng tác với Le Monde Diplomaitque),
Francois Nivelon của báo Le Figaro, Paul Quinn Judge của báoChristian Science
Monitor, Tiziano Terzani của báo Der Spiegel v.v… là những
nhà báo mà tôi quen biết có thái độ ủng hộ những người hoạt động đối lập và
thành phần thứ ba.
J. C. Pomonti giúp tôi
hai lần viết bài để bày tỏ lập trường đối lập và chống chiến tranh của mình
trên mục “La tribune internationale” của báo Le Monde, một diễn đàn
thường dành cho chính khách có tên tuổi các nước phát biểu. Anh Pomonti và tôi
cùng sinh năm 1940. Anh có vợ Việt Nam là con gái của ông Lê Quang Thanh cũng
làm báo (cho hãng tin AFP tại Sài Gòn) và là em gái của ông Lê Quang Uyển từng
là thống đốc Ngân hàng quốc gia (chế độ Sài Gòn). Sau 1975, Pomonti rất thường
trở lại Việt Nam và đưa các con anh về thăm quê ngoại. Chúng tôi có một vài dịp
đánh tennis với nhau trên sân Nhà Văn hóa Thanh niên ở đường Hai Bà Trưng.
Sau 1975, tôi cũng gặp
lại Nayan Chanda tại TP. Hồ Chí Minh. Anh từ Hồng Kông sang, lúc này anh
là editor in chief (chủ bút) tờ Far
Eastern Economic Review. Anh rất ngạc nhiên khi nghe tôi kể cuộc sống
của tôi giờ đây gắn với công việc viết báo, đặc biệt là viết báo thể thao. Các
bài bình luận bóng đá của tôi viết cho các báo (có lúc cho bốn tờ báo ngày và
tuần) mang lại cho tôi một thu nhập mỗi tháng tương đương 2000 USD (trước khi
tôi bị bệnh)! Bài báo của Nayan Chanda viết về tôi trên Far Eastern
Economic Review có câu khá vui:
“Một cựu dân biểu và là
cựu tổng trưởng thông tin chế độ cũ hiện sống hào hứng với nghề viết báo thể
thao; quá khứ chẳng làm vướng bận đầu óc ông”. Được biết gần đây Chanda đã từ
giã nghề báo và làm giám đốc nhà xuất bản của Trung tâm nghiên cứu về toàn cầu hóa
ở đại học Yale.
Và Tiziano Terzani, một
người bạn khác của tôi trong giới báo chí nước ngoài hoạt động tại miền Nam
trước năm 1975. Terzani đến Sài Gòn từ năm 1971 với tư cách đặc phái viên
báo Der Spiegel tại Đông Nam Á. Ông là nhà báo ủng hộ các nhóm
đối lập tại miền Nam và đặc biệt là lực lượng thứ ba khi có Hiệp định Paris.
Ông chống lại sự can thiệp của người Mỹ tại Việt Nam và công khai coi cuộc
chiến đấu của MTDTGPMN và Bắc Việt là cuộc chiến yêu nước của người Việt Nam
cần được thế giới ủng hộ. Khi tổ chức các cuộc họp báo chống tổng thống Thiệu,
tôi luôn báo tin cho Ternazi. Với sự giới thiệu của tôi, Ternazi cũng trở thành
một người khách luôn được đón tiếp niềm nở tại Dinh Hoa Lan của ông Dương Văn
Minh. Ông được coi là “cái loa” bán chính thức của những người đối lập chế độ
Thiệu. Ông là người Ý sinh tại Florence.
Suýt nữa ông mất cơ hội
chứng kiến tận mắt ngày 30-4-1975, cũng có nghĩa mất đi cơ hội thực hiện cuốn
sách “Giai Phong” được chọn là Book of the Month Selectioln ở Mỹ năm
1976. Giữa tháng 3-1975, ít ngày sau khi chế độ Thiệu mất Buôn Mê Thuột, nhà
báo Tiziano Ternazi được Nguyễn Quốc Cường – người đứng đầu Trung tâm báo chí –
báo rằng một trong những bài báo của ông đã xúc phạm tổng thống và vấy bùn lên
nước VNCH. Nguyễn Ngọc Bích, Tổng giám đốc Việt Tấn Xã (Vietnam Press) cũng lặp
lại những điều ấy với ông. Thế là Ternazi bị trục xuất khỏi miền Nam. Ông kể
rằng đón nhận lệnh này ông vô cùng thất vọng. Suốt 4 năm dài theo dõi một cuộc
chiến làm lay động cả lương tâm nhân loại, nhưng đến khi sắp kết thúc thì mình
lại vằng mặt nên Ternazi nhất định không chấp nhận… sự bất công này. Ternazi
biết rất rõ nếu ông trở lại Sài Gòn thì ông sẽ bị chính quyền bắt ngay tại sân
bay. Chỉ còn một cách là chọn chuyến bay nào khi đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất
thì không còn… chuyến nào nữa rời khỏi Sài Gòn. Tức là chuyến bay cuối cùng đến
Sài Gòn.
Tiziano Terzani kể:
“Tôi rất may mắn. Khi chiếc phản lực Air Vietnam xuất phát từ Singapore đáp
xuống Tân Sơn Nhất thì lúc đó tất cả cảnh sát sân bay đã biến đi đâu hết, không
có ai kiểm tra “danh sách đen” trong đó có tên tôi. Tizani thích thú nói: “Thế
là tôi vào lại Sài Gòn”.
Tiziano Terzani đã nhìn
thấy cảnh xe tăng của quân giải phóng vào dinh Độc Lập cùng với nhà báo Nayan
Chanda. Sau ngày 30-4-1975, Tizani được phép ở lại Việt Nam thêm ba tháng, đi
khắp các tỉnh miền Tây, rồi ra Hà Nội, gặp nhiều lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và
Nhà nước. Cuối năm 1975, Tiziano Terzani viết xong cuốn “Giai Phong”.
Tức khắc cuốn sách được khắp nơi đón nhận nồng nhiệt, được dịch ra nhiều thứ
tiếng. Tại Ý, quê hương của Terzani, nhà xuất bản của anh cho in một loại ấn
bản đặc biệt (rút ngắn) dành phổ biến cho các trường học ở Ý.
Quyển sách kể lại ba
ngày giải phóng và ba tháng Tizani quan sát đất nước Việt Nam sau khi thống
nhất và bước vào giai đoạn đầu của cải tạo xã hội chủ nghĩa. Quyển sách là một
cái nhìn đầy hào hứng và lạc quan về chiến thắng tất yếu của nhân dân Việt Nam
và những đổi thay diễn ra tiếp đó.
Tháng 4-1976 kỷ niệm
một năm giải phóng, cùng một số nhà báo như Jean Lacouture, Nayan Chanda, Jean
Claude Pomonti, Francois Nivelon v.v… Tiziano Terzani được chính quyền Việt Nam
mời trở lại thăm Việt Nam. Đoàn báo chí nước ngoài được đưa đi bằng ô tô từ Hà Nội
vào Sài Gòn và các tỉnh phía Nam. Một chuyến đi thực tế rất phong phú cho người
làm báo nếu chuyến đi ấy được tổ chức chu đáo. Nhưng trong khâu thực hiện có
nhiều điều bất cập nên đã gây một số phản ứng không thuận lợi cho nước chủ nhà.
Nhưng cái bất lợi nhất là tình hình kinh tế của Việt Nam một năm sau giải phóng
không lạc quan chút nào. Terzani không nhận ra Sài Gòn mà ông từng gắn bó. Tinh
thần của ông càng bị lung lạc khi ông không tìm lại được phần đông các bạn bè
quen biết của ông trước năm 1975. Nhiều người đã vượt biên ra nước ngoài bằng
thuyền, có không ít người bỏ mạng giữa biển. Nhiều người khác “đi học tập” chưa
thấy về. Ông nhắc nhiều về trường hợp một người bạn, một phóng viên Việt Nam,
từng giúp ông trước 1975: Cao Giao. Khi Tiziano Ternazi cho xuất bản quyển “Giải
Phóng”, ở phần lời nói đầu, ông nhắc đến Cao Giao như sau:
“Một số người Mỹ quen
biết anh rời khỏi Sài Gòn ở tuần lễ cuối cùng đầy sợ hãi đã thúc hối anh sang
Hoa Kỳ cùng gia đình. Họ nói với anh: “Anh biết ngoại ngữ, anh cũng không bao
giờ ngủ, anh sẽ tìm được một việc dễ dàng như làm nhân viên khách sạn vào ban
đêm”
Đó không phải lý do anh
ở lại Việt Nam.
“Ở mỗi người Việt Nam
đều có một viên quan lại, một kẻ cắp, một kẻ nói dối – và có cả một con người
mơ mộng ngủ im bên trong” anh nói với tôi như thế.
“Cách mạng cho tôi được
mơ và tôi muốn được nhìn thấy giấc mơ ấy bằng chính mắt mình”
Tôi (Tiziano Terzani)
cũng thế, muốn được thấy điều ấy.
Trở lại Việt Nam tháng
4-1976, Tiziano Terzani nghĩ rằng mình không thấy giấc mơ ấy thành hiện thực.
Quá nhiều điều để cho Terzani thất vọng. Gặp lại tôi tháng 4- 1976 tại tòa soạn
báo Tin Sáng bộ mới, Terzani không che giấu tâm trạng ấy của anh. Tôi cố gắng
nói với anh: những gì anh đã viết trong quyển sách có giá trị lịch sử, vượt
thời gian. Nhưng lúc đó quả thật tôi không có đủ lý lẽ để thuyết phục anh rằng
những gì đang xảy ra chưa phải hoàn toàn là bản chất của cách mạng Việt Nam.
Riêng tôi chấp nhận các diễn tiến của những năm đầu sau 1975 chủ yếu bằng con
tim, con tim của người Việt Nam, với niềm tin đặt cơ sở vào quá trình lịch sử
của người cộng sản. Tôi tin rằng rồi Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có những điều
chỉnh thích nghi để đất nước đi lên. Nếu người cộng sản đích thực là người yêu
nước như tôi vẫn tin tưởng, thì dứt khoát họ sẽ có những điều chỉnh cần thiết
và không quá chậm trễ để vực dậy đất nước, và bảo đảm làm sao cho người dân đã
sống quá lâu trong chiến tranh, trong cảnh mất nước và cơ cực, được hưởng những
thành quả của cuộc cách mạng.
… Sau đó tôi được một
số đồng nghiệp gần gũi với Tiziano Terzani có dịp đến Việt Nam cho biết: hình
như sau chuyến trở lại Việt Nam tháng 4-1976, Terzani đã phủ nhận quyển sách “Giai
Phong” của anh – như một người mẹ quyết định từ bỏ đứa con mà mình đã mang
nặng đẻ đau. Nghe tin này tôi rất buồn cho Terzani và càng buồn vì Việt Nam mất
đi một người bạn thân thiết.
Mãi đến năm 1995, cũng
qua một đồng nghiệp nước ngoài, tôi được biết Tiziano Terzani đã cho xuất bản
lại quyển “Giải Phóng” dưới một cái tựa mới: “Saigon 1975 –
Three Days and Three Months” (Sài Gòn 1975 – Ba ngày và ba tháng).
Không bao lâu, tôi có cuốn sách trong tay. Lời mở đầu của ấn bản này có tên
“Twenty Years After” (Hai mươi năm sau) nói rõ sự đổi tựa sách chỉ nhằm mục
đích để quyển sách tiếp cận dễ dàng hơn với người đọc thuộc thế hệ mới. Về nội
dung, Terzani nhấn mạnh: “Cuốn sách được in lại hoàn toàn đúng như nó
được viết hồi năm 1975. Không có một tên tuổi nào thay đổi, không một tính từ
hay một dấu than nào bị xóa đi hoặc một dấu hỏi nào được thêm vào”.
Như thế trái với những tin
không chính thức mà tôi từng nghe vào những năm trước, Tiziano Ternazi không hề
phủ nhận đứa con tinh thần của mình. Ông kể: “Có nhiều người hỏi tôi:
Có phải lúc đó ông đã sai lầm?”. Sự khiêu khích đáng được trả lới và câu trả
lời là “Không”.
Trong lời tựa hai mươi
năm sau, Tizani viết:
”Những gì xảy ra sau
chiến tranh tại Việt Nam không thể thay đổi suy nghĩ của tôi về thực chất cuộc
chiến này trước đây. Đối với thế hệ của tôi, trước hết đó là một vấn đề của đạo
đức (a question of morality). Người Việt Nam đã chiến đấu cho cuộc chiến vì độc
lập, cũng là cuộc chiến mà họ đã bắt đầu ở đầu thế kỷ khi bị những độ quâni
Pháp đầu tiên đặt chân lên bờ biển của đất nước họ. Người Mỹ, đơn giản chỉ thay
thế người Pháp trong ý đồ thực dân mới của họ, không có lý do gì can thiệp ở
đất nước xa xôi này; họ không có quyền “tàn phá đất nước này trong mục đích cứu
vớt nó”. Giữa bộ máy chiến tranh tinh vi của Mỹ và cuộc chiến du kích của người
Việt, sự chọn lựa anh hùng của chúng tôi quá đơn giản.
“Các nguyên lý mà chúng
tôi tin tưởng, đó là mỗi dân tộc phải tự quyết định vận mệnh của mình, rằng các
xã hội phải nhân bản và công bằng. Cuộc cách mạng Việt Nam cho thấy sự hứa hẹn
ở tất cả những điều đó. Các cuộc cách mạng luôn là như thế vì nó hướng tới
tương lại, một tương lai đầy hi vọng, chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn hiện tại gắn
liền với khốn khổ và bất công. Đất nước Việt Nam là như thế: một bên là thực tế
bày ra trước mắt từ một chế độ đàn áp được ủng hộ bởi sự can thiệp của Mỹ, còn
bên kia là sự khắc khổ, một tinh thần cách mạng bất khuất, hứa hẹn hòa bình và
cuộc sống tốt đẹp cho mọi người…”
Thật lạ lùng, những suy
nghĩ của Tiziano Ternazi lúc đó không khác lắm suy nghĩ của tôi dù anh là người
Ý còn tôi là người Việt Nam. Thì ra giữa những người không bị những quyền lợi
ích kỷ chi phối hoặc theo đuổi những mục đích chính trị tư riêng thì dễ dàng
gặp nhau trong sự chọn lựa đứng về phía nào trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
… Hai mươi năm sau, khi
Tiziano Terzani cho in lại quyển sách của mình, chắc chắn ông cũng thấy rằng
cuộc cách mạng mà mình ủng hộ đã bắt đầu có thành quả tốt đẹp. Nước Việt Nam mà
ông nhìn thấy năm 1976 khi trở lại Việt Nam – có nhiều điều làm ông thất vọng –
nay đã đổi khác nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét