Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

HỒI KÝ ĐẠI HỌC MÁU CỦA HÀ THÚC SINH - KỲ 7

1      2      3      4      5      6      7      8      9       10      11      12      13      14

CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT

Sau gần một tháng cật lực chỉnh trang, tất cả những hàng rào ngăn cách giữa các đội, tất cả những giàn mướp trước mỗi phòng, tất cả những dãy phuy xếp lộn xộn quanh các bờ giếng, tất cả những gian bếp nhỏ sau mỗi dãy nhà ngủ... đều bị dọn sạch. Hệ thống đường mương cũ đã bị lấp lại, thay vào đó là một hệ thống mới "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" nói theo kiểu bác Hồ. Những cột điện trồng lẻ loi đều bị hạ xuống. Những hàng cột điện mới được trồng lên dọc theo những con lộ mới đắp trong trại. Đây cũng là một dịp để cho bọn tù toáy những ống sành cách điện đem về phòng dấu làm ròng rọc kéo nước cho cả tổ.
Sân trại 1 giờ rộng hơn và bằng phẳng hơn. Kết quả ấy có được vì trong tháng qua rất nhiều đội phải lao động cật lực lấy đất chỗ cao đắp xuống chỗ trũng. Tất cả các luống rau, ao rau và hầm cầu trong sân trại đều bị san bằng. Mọi người lầm lũi lao động tuồng như làm với một hy vọng dọn bãi đáp cho những chiếc Chinook bất ngờ.

Đồng lúc ấy, các nhà ăn kiểu Trảng Lớn cũng được thiết lập. Những mảnh bao cát lại được đi thu lượm, tháo ra, giặt sạch và đính vào nhau tạo thành một tấm bạt lớn đủ phủ kín vuông sân, tức khoảng trống giữa hai dãy nhà ngủ. Bên dưới là những dãy bàn làm bằng những tấm gỗ giác xin từ trên trại mộc.

Những bẫy ruồi cũng được thực hiện. Nhưng những bẫy chuột tạo cho bọn tù nhiều thích thú hơn. Tất cả mọi loại chuột, từ những con chuột cống đen xì to tướng đến những con chuột chũi hôi hám, bỗng dưng đều được tù đổi thành một cái tên chung: Chuột đồng! Mà đã là chuột đồng thì có ai lại chê bao giờ! Chiến dịch lùng chuột và xơi chuột bắt đầu phát triển mạnh.

Một món ăn khác được khám phá thêm nữa, mà tác giả của món ăn này có lẽ là trung úy phi công A.37 Trần Trọng Minh tự Tý Quạu 1: Chim én nướng! Nhiều người theo gương Minh, cứ mỗi chiều đi lao động về, họ đem bẫy ra cắm đầy ngoài sân trại để bẫy chim én. Cái bẫy thật giản dị. Chỉ cần một chiếc đũa tre, một đầu đũa được xẻ làm ba nhánh, hai nhánh ngoài bằng nhau và cao hơn nhánh giữa. Một sợi thòng lọng làm bằng sợi bao cát. Cuống dây thòng lọng buộc chặt vào thân đũa, còn thòng lọng giăng trên hai nhánh dài. Nhánh ngắn nằm giữa dùng để móc mồi. Mồi chim én không cần sơn hào hải vị mà chỉ cần một chú ruồi lằng gắn ngay trên đầu nhánh giữa của cái bẫy. Sứ giả của mùa Xuân, những cánh én kia chiều chiều bay lượn trên sân trại tù tìm mồi. Phát hiện một con mồi, chú ta xà qua hớt gọn. Nhưng sợi dây thòng lọng đã chận đôi cánh của chú ta lại! Chú vùng vẫy là chuyện đương nhiên. Và càng vùng vẫy thì cái thòng lọng càng xiết chặt vào cổ chú. Bọn tù ngồi xa xa ngó chừng. Khi thấy bẫy của mình đã "thu hoạch" được một con én dại dột, họ lạnh lùng đứng lên tiếp thu sự thắng lợi với ý nghĩ chiều nay ta có thêm một tí chất thịt, dù rằng đó là tí thịt tanh tưởi của một con chim chỉ đẹp trong sách vở nhưng thực tế chỉ xơi ruồi lằng!

Khi những cánh én lạc loài của mùa Hè không còn thấy bay lượn, tuồng như chúng đã hoảng sợ cho sự rong chơi hoặc kiếm ăn lầm mùa của mình, đã rút về ngủ yên một nơi nào đó trên ngọn núi Bửu Long chờ một mùa Xuân nào thích hợp; thì bọn tù coi như đã hoàn tất xong mọi việc chỉnh trang trại tù mới.

Và khi trời Biên Hòa về chiều bắt đầu có những cơn mưa mù mịt, thì việc lao động sản xuất của tù bắt đầu đi vào quy hoạch.

Trại 1 phụ trách vùng đất phía Bắc của An Dưỡng, một vùng đất toàn đá ong cỏ gai và những ụ mối lâu đời. Không ai có thể ước lượng được nó rộng bao nhiêu mẫu, chỉ biết nó bao la quá, khai quang mãi, cuốc mãi, lên luống mãi mà vẫn không thấy hết!

Sáng sớm lòng không dạ trống, uống vào bụng một lon guigoz nước lạnh cho... nở cứt, nói theo ngôn ngữ của tù cải tạo, rồi xếp hàng đi lao động, đời không còn gì chán nản hơn.

Cào, leng, xẻng, cuốc trên vai; từng đoàn tù xếp hàng dài dài giữa con lộ chờ lệnh cho vượt qua cổng tiến về phía hiện trường lao động. Ở ngay nơi tập họp này, sự kiểm tra và điểm danh nhân số thật gắt gao. Không cán binh nào có quyền cho tù cải tạo xuất trại, kể cả quản giáo và vệ binh, một khi chưa được sự chấp thuận của tay an ninh ngồi trong phòng kiểm soát ngay bên cổng trại. Khi nhà trưởng đã báo cáo nhân số đi lao động cho quản giáo, đích thân quản giáo phải đến đăng ký nhân số đó với cán bộ an ninh nơi cổng trại. Nhân số sẽ được nhập sổ. Sau khi được chấp thuận cho rời trại, tù lần lượt bước qua cổng trại dưới nhiều con mắt quan sát và đếm số của bọn phụ trách an ninh.

Về phía bọn tù đi lao động cũng phải chấp hành thật nghiêm những nội quy dành cho người đi lao động ngoài trại. Chẳng hạn ngoài những dụng cụ đi lao động, tù chỉ được đem theo người một miếng nylon che mưa (nếu là mùa mưa) và một lon guigoz đựng nước uống mà thôi. Biện pháp này chẳng ngoài mục đích ngăn ngừa việc vượt ngục. Lận trong người tí muối, tí đường hay tí mì gói bị khám phá sẽ gặp rất nhiều vất vả; và điều vất vả đầu tiên là phải chui vào nằm trong một cái connex tối như Lâm bô, nóng như Hỏa ngục! Từ ngày chuyển trại về đây, đám Vĩnh đói dài vì đợt gửi quà về Trảng Lớn đã thất lạc hầu hết. Mặc dù tất cả đều được bọn khung hứa hẹn sẽ can thiệp để lần lượt được nhận lại đủ những món quà gia đình gửi vào cho, nhưng đã hai tháng qua chẳng mấy người nhận được. Ngược lại, bọn cán binh Cộng sản ở An Dưỡng đã thật sự biết làm ăn kiếm tiền. Sự kiếm tiền bỏ túi của chúng trọng tâm là bán khoai lang cho tù. Khoai mình trồng chúng bắt mình thu hoạch rồi tính cân bán cho mình ăn. Dù biết hành động đó thật đểu giả, nhưng tù không thể làm cái gì khác hơn là vẫn hăng hái ghi tên đăng ký mua khoai. Đa số ai cũng có 20 đồng tiền mới còn giữ được từ dạo gửi quà đợt trước, vì luật cho gia đình gửi kèm trong thùng qua 20 đồng để các tù cải tạo có tiền chi dụng như mua giấy, bao thư và tem viết thư. Số tiền ấy cuối cùng cũng chui hết vào túi bọn cai tù để có thêm những phần khoai do chính mồ hôi nước mắt mình trồng lên.

Hiện tại nhà B2 do Bính làm nhà trưởng đang phụ trách việc lên luống. Ngày hai buổi, đám Vĩnh lê thê lết thết trên một đoàn đường gần 5 cây số tiến đến hiện trường lao động. Biên Hòa đất đỏ, chuyện ấy chẳng lạ; nhưng ở cái xó xỉnh của tỉnh Biên Hòa này không có đất đỏ mà chỉ có đá đỏ. Mỗi ngày trầm mình dưới nắng, hết nắng lại mưa, đám Vĩnh phải vừa khai quang vừa lên luống. Cỏ gai tây cắt da cắt thịt những người có nhiệm vụ khai quang. Hai tổ đi trước khai quang tới đâu thì ba tổ kế tiếp ra công lên luống tới đó. Tổ 1 do Hóa làm tổ trưởng.Tổ 2 do Nhan Quang Minh, một guitarist cự phách, làm tổ trưởng. Tổ 3 do Âu Dương Lân làm tổ trưởng. Tổ 4 do Bính kiêm nhiệm chức tổ trưởng và tổ 5 do Bùi Vịnh làm tổ trưởng. Hóa thì không nói thêm. Riêng Nhan Quang Minh có thằng em ruột là Nhan Quang Phước ở cùng khối với Vĩnh trước đây trên Trảng Lớn. Phước có biệt hiệu là Phước trợn, vì hắn ghiền nặng thuốc lào; nhưng mười lần đủ chục, sau khi kéo xong một hơi thuốc, hắn luôn luôn ngã ngửa, mắt trợn trắng và miệng sùi bọt mép như ngựa chạy đường dài, người run lên như bị kinh phong giật. Bác sỹ Tuyên thời đó đã can ngăn Phước nhiều lần. Ông bỏ thuốc lào đi! Tiếp tục hút có ngày ông chết! Nhưng mặc lời can gián, Phước vẫn tiếp tục hút, tiếp tục lăn đùng, trợn mắt méo mồm và sùi bọt mép. Còn anh chàng Âu Dương Lân luôn luôn than thở về một ông chú ruột của anh ta thời còn sống chung trên L1. Các ông xem, anh nói. Tôi ăn cơm chung với ông ấy, ông ấy cứ lấy quyền chú ép tôi. Lắm bữa tôi ăn chưa hết nửa sét cơm thì mọi cái trong lon cóng đựng đồ ăn chung của hai người đã không còn một cái gì. Ông ấy lùa như máy!... Nhưng bây giờ chú cháu xa nhau, không lúc nào anh ta không nhắc nhở đến ông chú với tất cả nhớ thương! Riêng cái anh chàng Bùi Vịnh mới là kinh khủng. Hắn trung úy phi công, con trai của chủ hãng mền Sakimen (Sài Gòn kỹ nghệ mền len) nổi tiếng. Hắn gọi ông cựu đại sứ Bùi Diễn bằng bác. Còn nhớ thủa mới biên chế về đây, Vịnh lè phè không thua gì Kim. Hắn vụng về đến độ một đôi guốc tự làm lấy mà đi cũng không xong. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều nhờ vả bạn bè, kể cả việc vuốt một đôi đũa tre lấy cái ăn cơm! Cả gia tộc nhà hắn đã đi Tây, trong đó có cả vợ con hắn. Chẳng ai biết rõ vì sao cu cậu kẹt lại. Những kỳ quà cáp gửi vào đều do mẹ vợ và em vợ lo. Riêng ông già vợ của Vịnh cũng là một đại tá đang bị cải tạo ngoài Bắc. Một kẻ lè phè như thế mà anh em nỡ đẩy ra làm tổ trưởng kể cũng tội. Vì "trách nhiệm", lắm lúc Vĩnh không nhịn được cười thấy Bùi Vịnh cuống cuồng, hoặc đôi khi năn nỉ anh em lao động giùm để đạt được chỉ tiêu tối thiểu mà bọn quản giáo đã đề ra.

Dù sao, Vĩnh phải thú nhận từ ngày đi tù đến nay, B2 là nơi có không khí thoải mái nhất. Khác với các nhà "lối xóm", nhà B2 phè tối đa. Trong những giờ lao động, dĩ nhiên ai cũng phải làm cho xong chỉ tiêu, nhưng vì không khí thoải mái, gần như chẳng ai dòm ngó ai, và việc mỉa mai chế độ, ăn tục nói phét được phát huy tối đa; những giờ lao động như thế qua đi một cách tương đối nhẹ nhàng. Quả thực lao động khổ sai giảm đi sự cực nhọc của nó rất nhiều khi một anh cuốc nhằm một tảng đá ong cứng như thép, hai tay tê dại và mắt nổ đom đóm; nhưng anh ta hết mệt ngay lúc được quăng cái cuốc cong vòng sang một bên, nói khơi khơi giữa trời giữa đất: Đéo mẹ cái đầu Bác nó sao cứng thế!? Hoặc giả: Tao vừa cuốc đúng cái mả họ Hồ!

Chỉ tiêu trong ngày thời gian này tương đối nặng. Mỗi người mỗi ngày phải lên một dãy luống có chiều dài từ 18 đến 20 thước, chiều ngang 2 thước và đắp luống cao từ 80 phân đến 1 thước. So với đất bên ngoài căn cứ Trảng Lớn thì cực nhọc hơn nhiều, bởi như đã nói, đất ở đây là đất đỏ, một loại đất dễ dàng hóa đá ong dưới tác dụng của nước mưa.

Vì chỉ tiêu như thế, với tác phong lao động của B2, nhà trưởng Bính phải báo cáo láo dài dài. Điều ấy dầu sao cũng không làm Bính vui vẻ. Cũng đã lắm lúc Bính nổi cáu với anh em, nhưng rồi đâu cũng vào đó. Đặc biệt vào mỗi cuối tuần, khi cả trại tiến hành buổi thảo luận rút ưu khuyết điểm các mặt trong tuần, có quản giáo trụ trì để bàn thảo, chấm công và bình bầu những người xuất sắc, Bính điên đầu không ít. Biết bầu ai xuất sắc bây giờ? Và có ai ham cái xuất sắc ấy không? Chẳng lẽ tuần nào danh sách những cải tạo viên lao động xuất sắc báo cáo lên Trên cũng toàn là nhà trưởng nhà phó, tổ trưởng tổ phó!? Bính lâm tình trạng khó khăn đến độ phải họp kín các tổ trưởng và yêu cầu điều đình với tổ viên chịu giùm cho một kỳ... xuất sắc. Mặc kệ trong tuần anh làm sao thì làm, tới lượt anh được bình bầu xuất sắc, anh cứ việc ngồi yên để nghe anh em ca tụng trước mặt quan quản giáo là đủ, xin đừng khiêm nhường, đừng từ khước ngang xương mà kẹt chung cho hệ thống xuất sắc luân phiên của cả nhà!

Buổi chiều sau khi lao động về, nhà B2 cũng lè phè hơn ai hết. Những cái bếp con kê san sát nhau ngay bên hiên nhà. Từng toán xúm lại nấu nướng đủ thứ rau cỏ họ kiếm được trong ngày để ăn với nhau.

Chỉ có một nhân vật duy nhất "solo" về mọi mặt là anh chàng Nguyễn Văn Đáp. Hắn gốc L4T2. Đáp tuổi đã trung niên và theo lời khai báo trước tập thể của đương sự, anh em biết rằng Đáp bị bệnh đau lưng quanh năm do một tai nạn gây thương tích ở xương sống trước kia. Dầu sao ưu điểm nổi bật nhất của Đáp là, bằng mọi cách, từ khước lao động. Trên một căn bản nào đó phải công nhận Đáp can đảm. Sống trong trại tù Cộng sản, từ chối lao động là một hành động cực kỳ liều lĩnh, nó sẽ gây cho người đó đủ thứ khó khăn dây chuyền. Đầu tiên bị kiểm thảo, bị đấu tranh, bị tự kiểm dài dài cho đến khi phải công nhận châm ngôn "Lao Động Là Vinh Quang" của nhà nước đúng tuyệt đối. Người từ chối lao động còn có thể bị nhốt connex không ngày ra, ấy là chưa kể Đáp từng thủ thỉ với một vài người nằm cạnh rằng: Thứ nhất tôi đau thật, đau có đầy đủ giấy tờ y chứng mà gia đình đã gửi vào. Thứ hai quy chế tù binh không thể buộc các sỹ quan đối phương làm công tác khổ dịch.

Một người đã tích cực thực thi cái đức tính gan lỳ ỳ ẩu với anh em thì dĩ nhiên anh em phải.. thua! Chả nhẽ đem anh ta ra đấu? Điểm này không hề nằm trong truyền thống bao che lẫn nhau của B2. Cuối cùng giải pháp của tập thể đưa ra là chấp thuận cho Nguyễn Văn Đáp làm người thường xuyên trực phòng. Làm sao giữ cho phòng được "đẹp như công viên, sạch như bệnh viện" là đủ. Thế nhưng không phải không có người bực mình khi Đáp thẳng thắn từ chối nhiệm vụ thứ hai được tập thể giao phó, ấy là ngày hai buổi còn phải xuống bếp nhận phần cơm rau về cho cả nhà.

Đáp nói.

- Chuyện này dứt khoát tôi không thể làm được. Năm mươi phần cơm không phải là một việc nhẹ. Tôi không đủ sức khênh cái máng cơm ấy về cho cả nhà.

Nhà trưởng Bính nổi cáu.

- Nếu vậy chắc nhà này phải đóng một cái bàn thờ rồi mời anh lên ngồi. Mỗi buổi đi lao động về, anh em chúng tôi quỳ lạy sống anh một cái!

Phản ứng của Đáp khiến mọi người chưng hửng. Anh lập tức bù lâm bù loa.

- Các ông luôn luôn tỏ ra đoàn kết, luôn luôn nói đến tình chiến hữu, mà các ông lại nỡ trù ẻo một thằng bạn già như tôi! Các ông chỉ muốn tôi chết bỏ vợ bỏ con.

Nhà phó Huỳnh Công Cẩn cũng phát nổi sùng.

- Anh im cái họng anh lại. Anh chết không ai ăn thịt anh được. Bệnh hoạn vô địch ở nhà này phải nói là anh Vĩnh tổ 1. Nhưng anh ấy vẫn cứ vui vẻ đi lao động không làm phiền toái tới ai. Sắp xếp cho anh như thế là cha người ta rồi. Hơi động tí việc nặng là giẫy nẩy ai chịu cho thấu!

Cãi qua cãi lại rốt cuộc mọi người đều chịu thua cái liều lĩnh của Đáp. Và nhiệm vụ của anh ta sau cùng vẫn chỉ là quét nhà, lau nền nhà, sắp xếp lại những cái bếp con đặt trước nhà mỗi buổi sáng sau khi anh em đã rời trại đi lao động. Tất cả những nhiệm vụ khác như đi lấy cơm, làm những công tác đột xuất anh em gánh vác hết khi đi lao động về. Riêng việc khênh cơm về phòng, Đáp không phải làm ngoài việc xuống bếp cầm một cái quạt đuổi ruồi chờ anh em lao động về mà thôi!

Nguyễn Văn Đáp, vì những đức tính như thế, được anh em đặt cho cái tên mới: Ông Inoxidable!

B2 cũng có vài trục trặc nho nhỏ trong nội bộ như thế, nhưng B2 chắc chắn sẽ vui vẻ lâu dài nếu không có những vụ bị mất cắp xảy ra sau đó. Nạn mất cắp ngày mỗi trầm trọng. Những người bị mất cắp không thể nín lặng mãi mà không ta thán. Và sự ta thán ấy người đầu tiên điên đầu vẫn là nhà trưởng. Dù gì, Bính cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước tập thể.

Có lẽ nhóm Vĩnh là những người bị mất cắp đầu tiên. Chẳng phải nhóm anh giàu có gì, nhưng vì cái cảnh góp lửa nấu khoai chung, nên lúc nào trông cũng có vẻ rổn rảng nhất. Mỗi khi mua được khoai lang, những phần khoai của Vĩnh, Hóa, Kim kể cả Tiến bên B3 đều góp vào đựng chung trong một bao cát móc nơi đầu giường Hóa.

Một buổi chiều lao động về, Kim đã nhóm xong bếp luộc khoai ăn bồi dưỡng thì Hóa phát hiện ra bao khoai không còn nơi đầu giường nữa. Nó đã không cánh mà bay, và có thể nó đã bay vào tối hôm trước. Cả đám chỉ nói nhỏ với Bính, không muốn làm ầm ra, thứ nhất xấu hổ chung, thứ hai kẻ gian sẽ hoảng sợ và khó theo dõi.

Một hai bữa sau đó, tổ trưởng Lân cằn nhằn cả buổi sáng vì mất sét cơm chiều hôm trước anh để dành trong một lon gô đầu giường làm bữa điểm tâm cho sáng hôm sau đi lao động. Mở mắt dậy, đánh răng súc miệng xong, Lân sửa soạn cho giây phút được sung sướng nhai từng thìa cơm để dành của mình với tí muối mè, nhưng anh ta bực dọc biết là bao nhiêu khi thấy lon cơm không còn trên đầu giường nữa. Kẻ lạ mặt đã đánh cắp từ lúc nào.

Việc mất cơm để dành, mất khoai... đáng lý rơi vào quên lãng nếu không có một vụ đánh cắp trầm trọng hơn đã xảy ra sau đợt gửi quà vào đầu tháng 9 năm 76. Cả nhà ai cũng có quà gia đình gửi vào kèm 20 đồng, kẻ có nhiều hơn nhờ gia đình giấu tiền trong lọ mắm ruốc hoặc trong lọ tương chao... Đợt quà ấy người có nhiều tiền nhất có lẽ là tay Đào của tổ 3. Trong gói quà 3 kgs Đào "thu hoạch" được 5 tờ 20 đồng mới toanh của gia đình nhét dấu một cách tài tình trong một cục xà phòng chữa ghẻ màu nâu xậm của Mỹ trước kia.

Buổi chiều hôm lãnh quà, Đào tẩn mẩn ngồi dò chơi những con số trên mặt đồng bạc. Hai ba tay khác cũng xúm lại so sánh những đồng bạc mới với nhau. Sáng hôm sau cái sắc đầu giường của Đào biến mất. Tệ hại hơn trong sắc đó ngoài cái ví đựng 100 đồng của Đào kèm ít giấy tờ quan trọng, còn một cặp kính cận dày cộm và đủ thứ hình ảnh gia đình mà nó nhận được từ những kỳ quà vừa qua! Khi phát hiện ra mình mất đồ, Đào thất kinh la ầm ỹ. Nó muốn khóc lúc ngồi yên ở một góc phòng vì không có cặp kính cho đôi mắt cận nặng. Lúc ấy giờ đi lao động đã đến, Bính cho Đào ở nhà và dặn Đào đừng làm ầm vụ này, để hắn tính khi đi lao động về.

Giờ cuốc đất sáng hôm ấy không ai vui vẻ. Bính đã theo dõi và đã tình nghi một người, đồng thời cũng có nhiều người khác đoán chắc kẻ đánh cắp là ai. Buổi trưa về tới trại, trả cuốc trả xẻng xong, Bính ra lệnh tất cả mọi người không được vào phòng. Hắn nhất định kêu các tổ trưởng vào cùng mở một cuộc lục soát hành trang của tất cả mọi người. Dĩ nhiên có người phản đối, nhưng hầu hết đều muốn Bính làm ngay để kẻ gian không có thì giờ tẩu tán đồ ăn cắp. Quản giáo có lên án tùy tiện không báo cáo trước thì cả tập thể B2 sẽ lãnh trách nhiệm. Bính được hậu thuẫn, hắn lôi ngay cái túi của mình xuống trước mắt mọi người và yêu cầu các tổ trưởng lục soát trước nhất. Kế đó Bính tiếp tục yêu cầu lục thêm sắc của vài người nữa. Vĩnh đứng bên ngoài quan sát thấy rõ mọi người chỉ lục cho có lệ. Và cái sắc đáng lục nhất, theo sự dự đoán của mọi người, đã tới. Đó là cái sắc đồ sộ vào bậc nhất của nhà B2 mà người sỡ hữu là Phạm An Toàn, một tay đã bị nhiều anh em nghi ngờ có máu bất lương từ L4T3 khối 3.

Cái sắc dĩ nhiên được lục tung ra. Thôi thì đủ mọi thứ linh tinh. Thốt nhiên một người đứng bên ngoài kêu lên.

- Ê mấy ông! Mấy ông xem giùm xem cái đồng hồ mấy ông đang cầm đó có phải hiệu Boulevard, mặt đồng hồ có số La Mã không?

Bên trong nghe lời đề nghị, các tổ trưởng xúm lại cùng quan sát cái đồng hồ. Y chang như lời báo động của người đứng ngoài. Ngay sau khi được Bính xác nhận cái đồng hồ có hiệu Boulevard và có những con số La Mã, vài tay thuộc các nhà khác đứng bên ngoài đồng la lớn.

- Đúng là cái đồng hồ của thằng Phước ở khối 3 rồi! Chạy qua C2 báo cho thằng Phước biết đã tìm ra đồng hồ của nó. Thằng Toàn ăn cắp! Thằng Toàn ăn cắp!

Chỉ hai phút sau đó người được gọi là chủ cái đồng hồ bị mất cắp từ Trảng Lớn đã có mặt. Tuy nhiên, Bính yêu cầu mọi người yên lặng và chiếc đồng hồ chưa thể hoàn trả lúc này. Cuộc khám xét tiếp tục. Lê Văn Tần, anh chàng thiếu úy kịch sỹ hiện thuộc tổ 3 nhà B2, nhưng lại có công tác đặc biệt cho tiểu đoàn là làm trưởng toán một nhóm chuyên môn đi mắc dây điện, bỗng nhiên la lớn.

- Ối trời đất ơi, cái ví của tôi đây rồi.

Ba ngày trước đây Tần than thở mất một cái bóp phơi, không có tiền nhưng chỉ có cái hình cô bạn gái của anh ta. Cái bóp phơi giờ này còn nằm nguyên vẹn trong đáy sắc của Phạm An Toàn.

Một tiếng than thở đượm vẻ khôi hài khẽ vang lên trong đám người đứng bên ngoài.

- Tội nghiệp, kẻ gian mắc nạn!

Riêng Phạm An Toàn đã được triệu vào ngồi chứng kiến cuộc lục soát mớ đồ đạc của hắn. Thoạt đầu hắn còn cứng giọng, đòi hỏi phải có quản giáo trực tiếp kiểm tra, đòi hỏi phải có sỹ quan an ninh trại chứng kiến... Nhưng bây giờ hắn đã im lìm như một hòn đá, mắt hốt hoảng và sợ bạc mặt bạc mày.

Những món đồ kế tiếp bị lôi ra. Thỉnh thoảng lại có một tiếng kêu vang lên của một người nào đó nhận diện được món đồ mình đã mất. Một cái quần jean rách, một cái chemise, một bộ Domino, thậm chí có cả một vài cái bao cát mới toanh cũng bị nhận diện. Sau cùng thì đám kiểm soát tìm thấy một gói giấy gói thật kỹ. Mở gói giấy ra, một cái kính cận dầy cộm rơi ngay xuống đống quần áo trên nền nhà.

- Trúng mỏ rồi!

Một tiếng thét lớn từ ngoài vọng vào.

- Đánh bỏ mẹ nó đi!

- Con sâu làm rầu nồi canh!

- Mất mặt chỉ vì thằng ăn cắp!

Nhiều tiếng la hét vang lên tiếp đó lúc Bính lôi ra trong gói giấy một xấp tiền còn mới toanh. Bính chưa biết tính sao với đống tiền cầm trên tay, thì ngoài dự đoán của mọi người, Toàn hầm hầm đứng dậy. Hắn cất cái giọng nửa đực nửa cái. - Tôi yêu cầu anh Bính không được lạm quyền. Anh không thể cả quyết tiền này là tiền của anh Đào được...

Những tiếng la cất lên.

- Ngoan cố! Thế những tang vật kia là cái gì?

Toàn quay phắt lại đám đông liều lĩnh nói.

- Những cái đó tao lượm được, còn tiền này là tiền của tao.

Đến lúc này Đào mới lên tiếng sau khi nó đã xin lại được cặp kính cài lên mắt.

- Xin các anh bình tĩnh. Tôi chưa xem những đồng bạc đó nhưng tôi nhớ số, không, nhớ series những đồng bạc của tôi. Hình như anh Bùi Vịnh cũng nhớ vì hôm qua anh có đọ những đồng bạc của anh với của tôi.

Bùi Vịnh là tổ trưởng, đang tham gia vụ xét đồ, anh không muốn mang tiếng thiên vị nên phủ nhận ngay.

- Hôm qua tôi có nhìn chơi mấy đồng bạc mới của anh Đào, nhưng quả thật tôi không nhớ số...

Đào tiếp.

- Vậy cũng không sao. Nó ngẫm nghĩ một chút. Bây giờ có tập thể ở đây làm chứng, nếu tôi đọc đúng series những đồng bạc của tôi, anh Toàn sẽ tính sao?

Toàn thấy mình đã gần đường cùng đành liều kiểu nhất chín nhì bù. Hắn hơi thấp giọng.

- Nếu vậy yêu cầu anh đọc số đi!

Bính cầm trên tay những đồng bạc mới và ra lệnh cho Đào đọc trước mọi người. Đào lớn giọng.

- Tôi không thể nhớ hết bảy tám con số, nhưng tôi có thể khẳng định tiền tôi có series L và khởi đầu bằng những con số 327. Nó lại ngẫm nghĩ một chút nữa. Đúng rồi, nó reo lên. 3279! Đó là 4 con số đầu của những hàng số gồm 9 con số. Có đúng không?

Các tổ trưởng xúm lại xem mấy đồng bạc cùng với Bính. Họ dò từng đồng bạc và khi thấy 5 tờ đều có cùng những con số đầu như vậy, Huỳnh Công Cẩn mới tuyên bố.

- Những lời xác nhận của anh Đào đều đúng!

Toàn vừa tính lên tiếng thì Đào đã lên tiếng trước.

- Tôi cũng xin thưa với anh em, tôi nhớ tôi có viết một chữ rất nhỏ trên một góc đồng bạc.

Nói tới đây Đào ngừng lại với vẻ ngần ngại. Bính hỏi ngay. - Anh viết gì?

Trước đám đông Đào có vẻ ngượng, nhưng nó nghĩ rằng lời khai sau cùng này mới là quan trọng, và nếu như trên đồng bạc có đúng hàng chữ đó, Phạm An Toàn chỉ có chạy lên trời! Đào đằng hắng tí chút, rồi khai.

- Tôi có viết một câu rất nhỏ nơi góc một đồng bạc, đó là hàng chữ "Tôi yêu em"!

Bính tìm ra hàng chữ đó không quá lâu. Nó đem đồng bạc có hàng chữ "Tôi yêu em" trình cho mọi người cùng xem.

Màn khám xét coi như chấm dứt. Thiên hạ lục đục kéo nhau về. Riêng B2 buổi trưa vội vã chia cơm vì giờ ăn đã quá muộn. Dĩ nhiên Phạm An Toàn giờ này có sơn hào hải vị cũng không thể nuốt vô.

Các ông trưởng phó bàn nhau một lúc, và giải pháp sau cùng là đi báo cáo! Cơm nước xong, theo lời khai của Toàn, Đào bước về phía một hầm cầu nằm bên kia con lộ với hai ba người bạn khác. Bằng một cái cây, nó đã khều lên cái túi của nó, trong đó có một bộ quần áo cũ và mớ hình ảnh thân yêu bị phân lẫn dòi bọ bám đầy.

Lúc mọi người sửa soạn đi lao động, Đào vẫn ngồi ôm mớ ảnh đã bị rửa nước ướt mèm và tấm tức khóc. Chẳng ai buồn chia xẻ nỗi hậm hực của nó. Mà chia xẻ được gì bây giờ. Khi số tiền của nó đã vượt quá nội quy bị khung tịch thu. Còn chuyện thằng khốn nạn Phạm An Toàn vứt những hình ảnh thân yêu của nó xuống hầm cầu, có đấm vỡ mặt thằng ấy cũng chưa hả giận, nói chi đến chuyện nó lại được khung cho về nhà đi lao động như thường sau khi làm sơ sài một bản tự kiểm. Điều ấy đã một phần xác nhận câu rỉ tai trước đây của cựu thiếu úy quân y Phạm An Toàn trong anh em: Tao có ông anh làm trung tá Cách mạng ở Mỹ Tho. Ông ấy đã vào thăm tao mấy lần, nhưng phải có anh tổng quản giáo ngồi bên cạnh!
--------------------------------
1
Trong một dịp ghé thăm tác giả vào tháng 3 năm 84, anh Lý Tống, một cựu sỹ quan KQVN nổi tiếng thế giới vì đã vượt qua 4 quốc gia bằng đường bộ để tìm tự do, đã cho tác giả biết Trần Trọng Minh là bạn của anh thời còn phục vụ trong KQVN và sau này Minh đã bị bọn cai tù đánh đến chết!

CHƯƠNG BA MƯƠI HAI
Tin thăm nuôi đợt đầu vào tháng Mười lan truyền khắp các trại. Cùng với tin thăm nuôi ấy, trại 1 chuyển công tác. Những phần đất mà trại 1 phụ trách lên luống giờ đây đã biến thành một cánh đồng trồng toàn khoai mì dài hút chân trời. Hàng ngày, những đội phụ trách cắm mì vẫn liên tục nhận từng chuyến Molotova đổ xuống sân những thân cây mì già. Anh em ngồi chặt thành từng khúc, cứ ba đốt một. Những khúc mì này sẽ được chuyển sang cho các đội phụ trách cắm mì.

Bọn Vĩnh ngồi tính quẩn với nhau. Với số mì một ngày kia thu hoạch được nuôi tù hai năm không hết! Và nếu năm nào An Dưỡng cũng chơi một vụ khoai mì như thế, đời bọn cải tạo coi như Amen.

Dù sao mì đã cắm, khoai đã trồng và công tác mới đã đến; bọn Vĩnh dù muốn dù không lại phải lao vào "Mặt trận cải tạo doanh trại mới", hoặc đểu cáng hơn "Các anh làm các anh hưởng" nói theo ngôn ngữ của bọn cai tù.

Công tác hiện tại của B2 là kéo cột đèn. B2 cũng như nhiều B khác, kéo cột đèn dưới sự điều động của hai quản giáo mới. Quản giáo chính mang cấp bậc trung úy, dân miền Nam tập kết tên Hồng. Quản giáo phụ mang cấp bậc thiếu úy, loại răng đen mã tấu nhưng tính tình cũng tương đối hiền hòa hơn bọn răng đen mã tấu trước đây.

Tay Hồng có thân nhân ngoài Biên Hòa. Hắn có lẽ là người duy nhất làm chủ cả một cái Suzuki. Hồng chiều nào cũng lái xe gắn máy Suzuki ra Biên Hòa khi giờ lao động hết trước những đôi mắt thèm thuồng của bọn quản giáo và vệ binh cùng trại. Khuya lắm hắn mới trở về trại. Người ta đồn rằng Hồng khoái nhậu nhẹt. Nếu lời đồn ấy đúng thì Vĩnh cũng không lấy làm lạ. Sống trong thế giới Cộng sản Việt Nam, chỉ cần quan sát một chút, người ta sẽ rất dễ dàng nhận ra một điều: Dù cũng là Cộng sản, cũng chịu chung một giáo điều do Hà Nội chỉ đạo và giáo dục; bản chất của một thằng Cộng sản miền Nam vẫn khác xa bản chất của một thằng Cộng sản miền Bắc. Nói một cách khác, chúng vẫn không thể thoát khỏi ảnh hưởng của đất lề quê thói, của địa dư, của mức sống... là những cái có tham dự tích cực trong việc cấu thành bản chất của con người. Đặc tính của người miền Bắc thế nào? Phổi bò nhưng thích... lòe! Anh miền Trung tấm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi. Còn anh miền Nam? Có lẽ khó tìm được chữ nào chính cho bằng chữ... phè văn nghệ!

Thế nên, ta sẽ không ngạc nhiên thấy rằng thằng Cộng sản miền Bắc chúng cũng mê rượu như ai, cũng uống rượu như ai; nhưng khi uống xong rồi, nó xúc miệng thật sạch, hà cho hết hơi rượu rồi ra đứng trước quần chúng giảng đạo đức Cách mạng và hiên ngang khẳng định rằng: Ai uống rượu là uống máu nhân dân! Còn thằng Cộng sản miền Nam thì ngược hẳn lại. Hắn sẵn sàng giảng đạo đức Cách mạng ở bất cứ đâu, kể cả trên bàn nhậu và trong ổ điếm.

Hai quản giáo của đội 5, Hồng thuộc loại sẵn sàng giảng đạo đức Cách mạng trên bàn nhậu vì hắn gốc miền Nam. Còn tay kia, dù gốc miền Bắc nhưng hắn không gian ngoa lắm. Có thể hắn đã thấm mệt chăng? Không thể cả quyết được, dù đã có lần Vĩnh và bạn bè từng nghe hắn tâm sự: Các anh ráng cải tạo tốt mà về với vợ con. Tôi thua các anh là chẳng có vợ cũng như chẳng có con!

Một tay tù khẽ nói.

- Anh lấy vợ mấy hồi.

Hắn thở dài.

- Tôi chán không muốn lấy vợ nữa.

- Sao vậy?

- Tôi có vợ rồi, nói thế mới đúng. Nhưng nó đã bỏ tôi và tôi quyết không bao giờ lấy vợ nữa.

Cuối cùng hắn kể câu chuyện của đời hắn.

Trong một trận B.52 trải thảm Dakto, đơn vị của hắn dù may mắn không rơi vào trung tâm địa bàn trải thảm, nhưng chiếc đuôi của cái thảm ác ôn ấy cũng khiến cả đơn vị hắn tan nát quá nửa. Hai ngày hai đêm chạy trối chết về hậu cứ vùng tam biên, từ quan tới quân chỉ còn một mảnh quần đùi trên người. Sau đó, chả hiểu bọn Tâm Lý Chiến ngụy chúng tìm được ở đâu ra, chúng đem tất cả giấy tờ lý lịch của hắn và của nhiều tay khác nữa lên cái đài Mẹ Việt Nam hay Mẹ Mìn gì đó, phát ra Bắc tất cả tên tuổi của những cán binh Cộng sản tử trận trong giờ Sinh Bắc Tử Nam! Thế có hại nhau không chứ!?

Khi giải phóng xong được về phép, hắn mới biết vợ hắn đã lấy chồng khác từ hơn 6 năm qua chỉ vì mụ ta không thể có can đảm ngồi chờ mãi một người chồng... đã chết!

Đội 5 đi kéo cột đèn dưới sự điều động của hai quản giáo có những cá tính và tâm tình như vậy.

Trong khi vừa bắt tay vào công tác thì một biến cố nhỏ xảy ra. Huỳnh Công Cẩn bay chức nhà phó B2 biên chế sang đội khác cùng với ba tay nữa. Chuyện thực tế không có gì, chỉ vì đội 5 có quản giáo dễ tính với tiếng đồn lan rộng cả trại, các quản giáo của đội khác chú ý và có ý trù ẻo cái đội mà theo chúng "rất chậm tiến" này. Sự trù ẻo theo dõi đội 5, từ B1 đến B5 không ai cẩn thận lưu ý, nên đã có nhiều tay bị vồ nhốt connex toàn những chuyện không đáng. Riêng Huỳnh Công Cẩn bị vồ vì một chuyện tương đối nặng, nếu xét trên lập luận của Việt Cộng.

Cẩn vốn giỏi nhu đạo. Tùy viên của ông số 2 An Ninh Quân Đội dĩ nhiên đâu có xoàng chuyện võ nghệ. Một đêm trăng thanh vắng khó ngủ, chả hiểu ngứa nghề ra sao, Cẩn rủ hai ba thằng bạn đồng điệu ra phía sau một đống củi cao ngất phía bếp đội để... múa võ tiêu sầu. Kẻ thiếu lâm, người nhu đạo, kẻ quyền Hồng Mao, người cước Đại Hàn. Bốn tay quyền cước vù vù qua lại mà không ngờ rằng họ đang có những khán giả rình xem một cách say sưa. Bọn khán giả ấy là mấy thằng quản giáo của các đội khác, trong đó có thằng quản giáo Dương, mặt rỗ chằng rỗ chịt và ác có lông bụng của đội 6. Thẳng quản giáo này dù trùng tên và trùng bệnh rỗ với Vũ Duy Dương, nhưng thân hình thì xanh mét của một kẻ đã phải uống Ký ninh nhiều năm. Dương quản giáo người gốc Bạc Liêu, tuy cũng miền Nam như Hồng quản giáo nhưng hắn ta thù "ngụy" khủng khiếp lắm. Theo như anh em bên đội 6 điều tra cho biết, Dương trước đây mất vợ vào tay một anh trung sỹ Địa Phương Quân ở Bạc Liêu lúc hắn vào bưng theo Việt cộng. Khi về thành, biết mình mất vợ vào tay "ngụy", mối thù hằn của hắn có cớ để dâng lên gấp mười lần mối thù hằn chính trị. Đầu tiên hắn ra tay bên đội C của hắn, chẳng hạn vụ Lê Văn Quy, trung úy không quân bên nhà C3. Quy đi lao động, chui vào một giàn bầu đứng đái. Quản giáo Dương đi qua trông thấy và lôi Quy ra chửi rủa.

- Anh có hai tội, anh có biết không?

Dĩ nhiên Quy chỉ có thể kêu ca.

- Thưa anh tôi chỉ đi tiểu.

Quản giáo Dương trợn mắt méo mồm.

- Anh đừng ngoan cố. Nhân danh Cách mạng tôi cùm anh vì hai tội.Thứ nhất, thấy quản giáo đi tới, anh lôi c... ra đái. Hành động hỗn xược ấy không thể tha thứ. Thứ hai, một gốc bầu đang xanh tươi thế này, anh đái vào gốc, dây bầu sống sao nổi với cái nước đái nồng nặc ấy? Điều ấy chứng tỏ anh có ý đồ phá hoại sản xuất.

Quản giáo Dương tính nói thêm thì bỗng dưng hắn há hốc miệng, mắt trợn trắng như nhìn thấy quỷ xuất hiện giữa ban ngày. Hắn vừa đọc ra một hàng chữ viết trên một quả bầu lủng lẳng trước mặt: Đả đảo Hồ Chí Minh! Hắn vừa ngạc nhiên vừa giận sùi bọt mép. Hắn rống lên. Ý thiên địa ơi! Mày phản động đến thế kia à?

Tội nghiệp cho Lê Văn Quy, tình ngay mà lý gian! chỉ vì chui vào một gốc bầu xả cho nhẹ bụng, đã bị nâng cao quan điểm khinh Cách mạng, phá hoại sản xuất, lại lãnh luôn cái trách nhiệm vì một câu văn không mấy tử tế viết trên một quả bầu mà chẳng rõ tác giả là ai. Quy nằm connex hai tháng trời chỉ vì một vụ đứng đái.

Thế nhưng những vụ như thế trong đội 6 không đủ thỏa mãn quản giáo Dương. Nói theo kiểu Cộng sản, quản giáo Dương đang nỗ lực "vói cái vòi" sang đội khác để quấy nhiễu các đấng quan quyền của chế độ cũ! Huỳnh Công Cẩn và vài anh bạn nữa lãnh búa kỳ này.

Trong lúc bốn tay đang say sưa múa võ thì một tiếng thét chợt vang lên, tiếp theo là tiếng súng lên đạn.

- Bốn thằng gian nhân hiệp đảng kia đứng yên, giơ tay lên đầu!

Bốn võ sư nghe thấy tiếng lên đạn, đành giơ tay lên đầu cho xong chuyện.

Quản giáo Dương đã xuất hiện. Hắn hùng hổ, chỉ Cẩn hỏi lớn. Thằng kia, mày tên gì, đội nào?

Cẩn trả lời.

- Tôi tên Cẩn, đội 5 nhà B2.

Quản giáo Dương chỉ tiếp ba tay còn lại.

- Ba thằng kia đội nào?

Sau khi biết rõ toàn dân đội 5, Dương nổi giận hầm hầm. Hắn vẩy vẩy khẩu K.54 về phía Cẩn. Mày đứng cách tao 5 thước, hai tay vẫn để trên đầu. Quay sang ba người kia, hắn ra lệnh tiếp. Còn ba thằng kia đứng cách tao ba bước, ngồi xuống đất và hai tay vẫn để trên đầu!

Trong các dãy nhà của đội 5 đã nghe thấy tiếng lên đạn và tiếng quát tháo, có kẻ lẻn bước vào những vùng bóng tối bên hiên nhà rình xem. Rõ ràng quản giáo Dương dù có súng trên tay nhưng có vẻ rất sợ hãi và thủ thế đối với 4 tên "ngụy" mà theo hắn, chúng có khả năng tung mình đá hắn dập mặt nếu không bắt đứng cách xa hắn một khoảng cách cần thiết!

Đêm hôm ấy, không may cho Cẩn và ba anh bạn khác, quản giáo Hồng đi nhậu chưa về. Còn quản giáo Kình - tay quản giáo mất vợ vì đài Mẹ Việt Nam - lại quá hiền không can thiệp được gì. Cuối cùng cả bốn thằng tù của đội 5 bị lũ quản giáo của đội 6 giam hết vào connex! Sau này quản giáo Hồng biết chuyện nổi giận đùng đùng, và bọn tù nghe đồn Hồng suýt quại mấy thằng quản giáo của đội 6 để trừng trị cái tội dẫm chân nhau. Nhưng vì áp lực của ban chỉ huy trại, bọn Cẩn vẫn bị tống vào connex và biên chế sang đội khác với lý do: Tụ tập học võ với ý đồ phản động đen tối!

Có lẽ vì uất ức với cái chuyển cỏn con ấy, Hồng bất mãn ra mặt với ban chỉ huy trại. Bọn tù, đặc biệt B2, đâu thiếu những tay có đòn tâm lý chiến đầy mình; thế nên khi đi kéo cột đèn, nhiều tay khích tướng Hồng, Hồng càng điên tiết và tự động cho B2 bớt chỉ tiêu.

Từ cổng trại An Dưỡng dẫn vào bên trong trại là một con đường nhựa dài khoảng trên 2 cây số. Con đường này chạy dọc theo phi trường Biên Hòa nhưng cách vùng phi trường một cánh rừng và đầm lầy đầy mìn bẫy, rắn rít và những cây cỏ mọc hỗn loạn dầy đặc. Trên con đường nhựa ấy, bọn tù của đội 5 mỗi ngày phải đào xới và hạ nhiều chục cây cột đèn chạy dọc hai bên đường, đồng thời kéo vào những vị trí quy định nằm sâu trong trại.

Việc ha cột đèn tuy có nguy hiểm nhưng dù sao không quá cực nhọc. Dĩ nhiên tất cả đều dùng cuốc xẻng để vật ngã những cây cột đèn nặng nề do Mỹ thiết lập trước đây. Đầu tiên đào chung quanh chân cột đèn sâu tới đáy cột. Khi cột lung lay, đào tiếp bên hông đáy cột một độ vát chừng 60 độ. Khi cho cột đèn đổ xuống là cả một sự gay go. Một sợi dây buộc từ ngọn cột do mười người ghì một bên, bên đối diện chêm dần những khúc gỗ từ dài đến ngắn cho đến lúc cây cột nằm dài an toàn trên lề đường. Khi cột đèn hạ xuống, toán kéo cột đèn nhào đến làm việc. Nếu là cột đèn gỗ ngâm dầu thì 12 người một cây. Nếu là cột đèn đúc loại tròn có lỗ thì phải 18 người mới có thể kéo nổi một cây.

Trời trưa nắng, 18 người luồn những sợi dây thừng qua các lỗ trên thân cột đèn, hai bên cột mỗi bên 9 người lấy hết sức lực kéo lê cây cột đèn đi. Nặng lắm, nặng lè lưỡi! Và khi cây cột đèn đã có trớn, phải cố mà kéo thẳng một hơi về đến nơi quy định cách đó cũng trên một cây số. Nếu tự dưng có vài tay quá mệt buông lỏng tay kéo, những người còn lại không đủ lực kéo cây cột đèn chạy tới nữa, cây cột sẽ nằm chình ình trên đường nhựa. Đây là một điều rất tai hại vì cây cột quá nặng, sẽ lún xuống đường trải nhựa dưới trời nắng. Muốn cho cây cột nhúc nhích để có đà kéo trở lại, 18 thằng tù không hòng gì làm nổi. Và như thế, lại phải nhờ đến sự tiếp tay của ít nhất 10 người khác nữa mới có thể kéo cây cột đèn nặng nề khỏi chỗ lún, và tạo một cái trớn mới cho việc di chuyển cây cột đèn trên đường.

Mặc dù hai quản giáo đội dễ dãi tí chút, nhưng quản giáo không đi theo những toán kéo cột đèn. Chúng chỉ đứng chỉ huy những toán hạ cột. Đi theo các toán kéo là những thằng vệ binh oắt con nhưng mất dạy vô kể. Vì một cớ gì đấy, cây cột đèn lại nằm chình ình trên đường khiến thằng vệ binh phải đứng một chỗ dưới trời nắng, hoặc phải tìm cách tuyển mộ vài tay lao động gần đó chạy đến tiếp sức, thì thế nào bọn tù kéo cột đèn cũng bị chửi bới đến mức.

Tổ 1, tổ 2 của nhà B2 đa số yếu sức và bệnh hoạn. Và như thế có nghĩa là bị chửi dài dài.

Dẫu sao công tác cực khổ và bị chửi không làm giảm đi sự thích thú của bọn tù, vì công tác này đã đem bọn tù ngày mỗi xa hơn cổng trại, nơi đây, tù được nhìn thấy con người, được nhìn thấy nhà cửa, được nhìn thấy tí quang cảnh của thế giới bên ngoài.

Một hôm quản giáo Hồng động lòng trắc ẩn cho lũ tù "ngụy" quá cực khổ, lên tiếng hỏi.

- Các anh có thèm rượu không?

Lũ tù hơi ngẩn ngơ nhưng rồi cũng có một tay cười cười trả lời.

- Thèm quá anh!

- Vậy có anh nào đem theo tiền không?

Vài ba tay mừng rỡ đáp.

- Có, có thưa anh.

Quản giáo Hồng cười cười, nhưng nụ cười quả thật không có nét nham hiểm như nhiều tên quản giáo khác. Hắn nói.

- Đấy, các anh thấy không. Ban chỉ huy trại luôn luôn đánh giá các anh chậm tiến bộ là phải quá. Nội quy đã cấm ngặt không cho đem tiền theo khi đi lao động, phòng những kẻ xấu có phương tiện âm mưu trốn trại. Anh nào cũng hạ quyết tâm học tập tốt, lao động tốt, cải tạo tốt, chấp hành nội quy tốt. Hỏi ra thì chả tốt tí nào. Nửa đùa nửa thật lên lớp một lúc, quản giáo Hồng trở lại giọng thân mật. Tôi bảo thật các anh. Ai không biết chứ cá nhân tôi, tôi thừa biết chẳng cách gì cải tạo các anh được. Ngay bà con tôi sống ngoài Biên Hòa cũng vậy. Cách mạng giải phóng đã năm rưỡi trời, ấy thế mà vẫn phát ngôn linh tinh rất là phản động. Tôi nhắc nhở mãi cũng đâm chán, giờ ra chơi ngoài ấy mạnh ai nấy nói, tôi không thèm lưu tâm nữa. Nhưng riêng với các anh, vì tôi có trách nhiệm với Đảng cải tạo các anh, tôi khuyên các anh một điều, đừng làm gì sai trái để bị tập thể phát hiện và lên án là đủ. Còn trong đầu các anh muốn nghĩ gì thì nghĩ. Nhưng hãy nhớ trong đầu thôi, đừng bao giờ biến những ý nghĩ phản động trong đầu thành hành động cụ thể trong xã hội này. Không lợi lộc gì mà chỉ mang đại họa chẳng những cho mình mà còn cho cả họ hàng nhà mình nữa. Nói xong quản giáo Hồng ngó trời ngó đất, rồi ngó về một chỗ mà đám tù kéo cột đèn mấy ngày nay ai cũng thèm thuồng...

Cách chỗ đứng không bao xa là một quán cóc bên đường. Mấy ngày nay kéo cột đèn, bọn Vĩnh đã chú ý rất nhiều đến cái quán ấy. Kẻ thì bàn rằng cái quán ấy dứt khoát là của vợ con một thằng bộ đội nào đó. Kẻ thì cho rằng có thể là của dân địa phương. Dù sao cái quán cóc trông thê thảm không thể tưởng tượng được. Nó là tổng hợp của mọi nghèo nàn trong xã hội này. Vá víu, rách rưới, dơ bẩn... Nếu không có những cây chanh, cây na, cây bưởi um tùm vây phủ chung quanh, cái quán ấy khó mà đứng vững được trước một cơn gió lớn. Sườn là những cây tre khô khẳng khiu, bên trên lợp vài miếng ván ép mục nát vì mưa nắng. Bên trong để một cái bàn bẩn thỉu sứt sẹo và đôi ba cái ghế đẩu cao thấp không đều. Trên một cái bàn thứ hai nhỏ hơn, đặt trước quán cóc, để vài cái lọ bên trong vàng ạch mấy quả cóc quả me. Một lít rượu đế đứng bơ vơ bên cạnh mấy cái chung đã sứt mẻ lởm chởm. Cũng có ngày bọn Vĩnh nhìn thấy trên mặt bàn ấy một hai ổ bánh mì khô queo, vài ba cái bánh ú mà ruồi bu như rải đậu đen... Nhưng thế nào thì những thứ ấy vẫn là những thứ có hấp lực kinh khủng với bọn tù đói hiện nay. Nhất là bên trong quán, ngồi ngay thềm trước có một cụ bà tuổi độ 60 vừa vuốt nan đan giỏ, vừa thỉnh thoảng nhìn ra bọn Vĩnh với hai ánh mắt thật khó cắt nghĩa... Nó nửa trách móc nửa mến thương.

Quản giáo Hồng chợt nhìn vào đám tù. Hình như hắn đếm. Hiện tại chỉ có hai toán. Một toán đào gốc cột đèn của nhà B4 và toán kéo cột đèn của nhà B2 trong đó có Vĩnh đang đợi cây cột đèn sau cùng cho lần kéo cuối cùng của một ngày. Tất cả chừng hai mươi người. Quản giáo Hồng nhìn đồng hồ. Giờ này có thể cũng đã gần năm giờ chiều, nắng đã bớt gắt. Bọn tù đã có anh liều lĩnh kiếm một gốc cây ngồi phe phẩy vạt áo cho mát mặt. Quản giáo Hồng bỗng lên tiếng trở lại.

- Sao, bây giờ cho nghỉ lao động vào thăm cái quán kia một lúc có kêu ca gì không?

Bọn tù sướng như lên thiên đàng, chỉ gật gù và không ai nói được lời nào. Quản giáo Hồng nói tiếp. Ai có tiền thì cho các bạn chia chác với, miễn sao đừng náo động và êm đẹp. Về nhà rồi tính toán lại với nhau. Nhất trí chứ? Để các anh thoải mái, tôi ghé lại các đồng chí vệ binh ngoài kia tí. Cũng dặn các anh, hai mươi người chỉ nhấp chơi một lít thôi đấy nhé. Các anh mà say sưa, tôi là người đầu tiên cùm các anh đấy.

Nói rồi quản giáo Hồng bỏ đi. Bọn Vĩnh lầm lũi kéo vào quán. Bà cụ mấy hôm nay chỉ ngồi nhìn bọn tù kéo cột đèn qua lại, bỗng ngạc nhiên thấy cả đám kéo vào.

Đám tù chưa biết ngỏ lời ra sao, bà cụ đã đon đả với giọng Bắc rành rẽ.

- Anh quản giáo cho mấy cháu vào xin nước uống phải không?

Hóa mau miệng.

- Dạ kính chào bác, tụi cháu được phép vào mua tí gì uống.

Hóa vừa dứt lời thì bà cụ đã quay phắt vào bên trong gọi lớn.

- Bố thằng cu ơi!

Bây giờ Vĩnh mới được dịp quan sát sâu bên trong khu vườn. Bên trong ấy còn có một căn nhà xây đàng hoàng, tuy nhiên vôi đã tróc lở và một phần mái tôn đã bị tháo gỡ khiến căn nhà trông như một căn nhà bỏ hoang. Tiếng gọi của bà cụ đã kéo được một người đàn ông trong căn nhà đó ra. Anh ta tuổi chừng 35, chột một mắt và hình như có thương tật một bên chân. Anh khập khễnh bước ra khỏi căn nhà và e dè cất tiếng chào đám Vĩnh.

- Các anh ngồi chơi. Các anh cần nước uống hả?

Vì chưa nắm vững tình hình, bọn Vĩnh cũng phải thủ từng lời nói. Lỡ ra, họ đều là thân nhân của một thằng quản giáo trong trại, nói hoảng nói tiều có mà vỡ mặt! Thế nên đám Vĩnh cũng chỉ nhỏ nhẹ.

- Chúng tôi lao động bên ngoài, quản giáo cho phép vào mua tí... rượu uống tại chỗ.

Bà cụ nghe thấy lộ rõ nét ngạc nhiên.

- Cho mấy cháu mua rượu à? Cho uống rượu à?

Một tay trong bọn lên tiếng.

- Dạ anh quản giáo này tương đối dễ tính. Anh ấy cho mua uống chút đỉnh...

Bà cụ không đợi ai nói gì thêm, bà vơ ngay chai rượu trên chiếc bàn, đưa đại cho một người.

- Đây, mời... mời các cháu. Các cháu cứ uống đi. Để tôi bảo con tôi nó lấy ra thêm vài lít nữa.

Nói rồi bà cụ quầy quả đi vào nhà trong, miệng lẩm bẩm. Lạ nhỉ, lạ nhỉ? Lần đầu tiên...

Bọn Vĩnh thực sự đâu phải ai cũng thèm rượu. Thèm là thèm quả cóc quả ổi, thèm ổ bánh mì và mấy đòn bánh tét. Tuy nhiên có rượu nhấp chơi tí đỉnh cũng không nên từ chối. Vĩnh là một trong những người đầu tiên cầm chai rượu rót ra một chung và uống cái ực. Trời nóng, lâu không uống, chơi một chung muốn khạc ra lửa!

Vừa lúc ấy bà cụ đi ra, trên tay cầm thêm một chai đế và mấy con khô mực sống. Một người vội nói.

- Thôi cụ ơi, tụi cháu không uống rượu đâu. Chút xíu cho đỡ nhớ thôi. Cụ có cái gì ăn được bán cho chúng cháu một ít thì quý hóa lắm. Bánh tét chẳng hạn...

Bà cụ ngó nhanh ra phía ngoài đường, đoạn trả lời.

- Mấy cháu đừng ngại. Đã vào tới đây thì đừng nghi kỵ cái gì. Bác dân Hố Nai mà. Anh con của bác đây trước cũng là trung sỹ sư đoàn 5. Nó bị thương giải ngũ từ hồi 70. Nói đoạn bà cụ quay sang anh con trai bị chột một mắt còn đứng xớ rớ gần đấy. Này Tịnh, con chạy vào nhà xem còn bao nhiêu bánh mì bánh ú lấy hết ra đây. Mấy bịch bánh men lấy ra luôn. Lấy ra cho mấy anh đây ăn một bữa.

Một thoáng sau bọn Vĩnh được chén một chầu bánh ú. Rượu chẳng mấy người uống. Bà cụ lại chạy vào nhà trong, một lúc trở ra than thở nho nhỏ một điều gì đó với anh con trai. Anh con trai chỉ đáp khẽ.

- Giờ này lội ra tới ngoài đó cũng mất cả nửa tiếng. Về nửa tiếng nữa làm sao kịp.

Một người trong đám đoán biết ý bà cụ vội ngăn lại.

- Thôi bác ơi! Bác cho chúng cháu ăn thế này là quá rồi. Bác đừng bận tâm gì nữa...

Bà cụ vội ngắt lời. Bà chìa ra một gói lớn bọc giấy dầu trên tay, nói như phân trần.

- Nghìn năm một thủa họ mới cho các cháu vào đây. Quả thực tôi còn nhà ngoài Biên Hòa nữa. Cũng còn khấm khá. Cái nhà và khu vườn này chỉ là một phần. Phải vào đây ở vá ở víu cho có hộ không nhà nước tịch thu mất. Tính sai em nó ra Biên Hòa...

Một người khác lại lên tiếng can ngăn.

- Thôi bác, tụi cháu được bác cho ăn thế này là quý lắm rồi. Bác cho bất cứ thứ gì đem vào trại chúng cháu cũng không dám nhận đâu. Nội quy đâu cho phép. Có gì phiền phức ghê lắm! Bà cụ nghe đến chữ nội quy cũng có vẻ hơi sợ. Tuy nhiên, bà vẫn dúi cái gói giấy dầu lớn tướng vào tay một người.

- Hôm nay mời các cháu, nói trước không tính một đồng nào. Còn cái bịch này là bịch đường thẻ và trà. Vào trong ấy nhớ chia nhau mà dùng.

Anh chàng cải tạo ôm bịch trà đường trong tay với đầy nét băn khoăn. Cuối cùng anh nói như phân trần với tất cả mọi người.

- Bác cho thế này thật quý vô cùng, nhưng thú thật một mình tôi không cách gì đem cái này vào lọt trong trại được. Bị bắt giữ ngay cổng là cái chắc. Bà cụ tình ngay cũng không biết giải quyết ra sao. Mà đám tù cũng không tiện nêu ý kiến. Cuối cùng anh con trai nhỏ nhẹ lên tiếng.

- Tôi đề nghị các anh chia ra từng phần nhỏ. Mỗi người cầm một ít chắc chắn êm xuôi.

Câu đề nghị như mở cờ cho bọn tù. Thế là rất nhanh và rất lịch sự, bọn tù chia đều mỗi người một nắm trà và dăm cục đường thẻ.

Bà cụ trông vui vẻ vô cùng. Anh con trai đã rút vào nhà trong ngồi đan giỏ. Bà cụ ngó trời ngó đất rồi nói nho nhỏ.

- Các cháu chắc khổ lắm!? Nói đoạn bà cụ sắp xếp lại mấy chai rượu trên bàn, nói như an ủi. Mấy ông lớn bậy quá, làm cả nước khổ! Một anh tù cảm khái, đáp.

- Thôi bác ạ, nếu nói bậy thì chính cháu cũng bậy, cũng có lỗi với dân chúng và đất nước rất nhiều...

Câu nói bỗng bị bỏ lửng khi mọi người nhác thấy quản giáo Hồng đã xuất hiện phía ngoài đường. Cả bọn đứng lên. Vài người cám ơn bà cụ. Riêng Hóa từ lúc nãy đã quyên góp được gần hai chục bạc, anh bước lại lễ phép đưa cho bà cụ số tiền. Bà cụ giẫy nẩy không nhận. Bà nói.

- Không, bác đã bảo rồi. Đây là lần đầu tiên từ ngày trại này biến thành trại cải tạo, các anh cải tạo được ghé vào đây ăn uống. Tiếc là bác chẳng có gì đãi. Bác không nhận tiền của các cháu đâu.

Hóa cố nhét vào túi bà cụ nhưng bà cụ không lấy. Vừa lúc ấy quản giáo Hồng bước vào. Hắn hỏi khơi khơi.

- Sao, má đã cho các anh uống nước rồi chứ? Cám ơn rồi về!

Bà cụ bước tới nói vài câu xã giao với tên quản giáo.

Ít phút sau cả đám đã bước ra đường xếp hàng. Những tay vệ binh áp tải tù cũng vừa tới. Đoàn tù lại cuốc xẻng hăng hái trở về trại. Trong lòng ai cũng thấy vui. Quản giáo Hồng cứ tủm tỉm cười và ngó vào mặt từng người. Có lẽ hắn muốn hỏi một câu gì đó, nhưng ngại tụi vệ binh nên không nói gì. Vĩnh đoán được niềm vui trong lòng hắn. Hắn đã làm được một việc dồn nén từ lâu trong lòng, phát xuất từ bản chất lè phè và ương ngạnh của một người gốc miền Nam - đã dám làm những điều mình thích mà không ai dám làm.

Trên đường về, đám Vĩnh thấy toán mắc dây điện của Lê Văn Tần vẫn làm việc trên những cột điện mới trồng. Đây đó những đội hình xếp hàng hai cũng đang mệt mỏi lê gót về phía các trại tù. Đi qua một dãy nhà thuộc ban chỉ huy trại ba, mọi người nhìn thấy một toán vệ binh đang đánh bóng chuyền trên một vuông sân. Lúa gạo miền Nam gần hai năm qua đã biến những xác chết biết đi thành những thân xác vạm vỡ. Dù sao không ai muốn nhìn lâu hơn, vì trên những thân xác ấy là những biểu lộ sự sỉ nhục lớn lao với đám tù: Mỗi thằng đều mặc một cái quần đùi may bằng cờ quốc gia, cờ vàng ba sọc đỏ; một ngọn cờ đã lồng lộng giữa trời tự do, giữa trái tim mọi người yêu tự đo, và đã được tô thắm bằng bao máu xương của bao thế hệ trai trẻ!

Chẳng ai buồn nói với ai. Đi qua một vài dãy nhà khác của bọn bộ đội, Vĩnh và các bạn thoáng nghe một vài câu vọng cổ quen thuộc vang ra từ một chiếc radio của bọn vệ binh. Rõ ràng là giọng Lệ Thủy. Dù yêu nhạc, nhưng xưa kia Vĩnh không thích cải lương. Bây giờ thì khác. Gần hai năm bặt tiếng người của thế giới bên ngoài, tự dưng được nghe lại một câu vọng cổ, lại được hát bằng giọng của một cô đào nổi tiếng Sài Gòn năm xưa, lòng ai cũng nghẹn ngào thổn thức. Vĩnh chạnh nghĩ tới Trúc, chồng Lệ Thủy từng sống với anh ở Trảng Lớn trước đây... Chả hiểu giờ này nó ở đâu? Anh nhớ đến mấy quả ô mai Trúc cho anh khi anh đau lê lết vì bệnh sạn thận...

CHƯƠNG BA MƯƠI BA

Rõ ràng tin thăm nuôi đã có đến 80 phần trăm đúng, khi bọn quản giáo ráo riết động viên tù lao động tốt, chấp hành nội quy tốt để được chấm công cao và dĩ nhiên sẽ được thăm nuôi sớm hơn người khác. Song song với những đợt động viên, kêu gọi, khích lệ một cách... bắt buộc ấy, những chiếc loa lớn cũng được toán thợ điện Lê Văn Tần lần lượt treo trên những điểm cao nhất của các trại. Ngoài ra, những toán thợ mộc của các trại cũng đã được lệnh thiết lập một dãy nhà thăm nuôi nằm gần khu cổng chính.

Để sửa soạn cho lần thăm nuôi đầu tiên, bọn cán bộ cai tù Cộng sản phát động một chiến dịch đào ao cá. Ao cá này nằm về phía Bắc trại An Dưỡng. Chiến dịch huy động này cả 4 trại tham gia với tổng số lao động cả ngàn người.

Nơi đây là một vùng đất hoang, cửa ngõ dẫn đến một vùng đồi cỏ cây rậm rạp và có nhiều suối nước lớn nhỏ. Thực ra vùng đất này đã được khai quang khá nhiều và anh em cảnh sát trước đây cũng đã khởi sự nhiều bước đầu trong công cuộc thực hiện ao cá. Hiện nay cả ngàn người lại được huy động làm tiếp công tác bỏ dở đó.

Vì là quy mô lớn nên dĩ nhiên ao cá phải rất lớn. Ao có chiều dài sáu mươi thước, ngang bốn mươi thước, đào sâu xuống lòng đất bốn thước, chung quanh đắp bờ cao ba thước, chân bờ rộng năm thước và đê bờ rộng hai thước rưỡi.

Hai trăm tù thường trực đứng dưới lòng ao để đào. Ba trăm khiêng ki. Ba trăm đắp bờ và non ba trăm khác lo đủ thứ việc linh tinh như tiếp tục khai quang, đắp một con đường mới chạy vòng lên tới con đường gần bệnh xá, sửa chữa bảo trì các dụng cụ đào ao...

Trong thời gian thực hiện công tác đào ao cá - một cái ao lớn đến độ bọn tù đâm thắc mắc không hiểu là sẽ dùng nuôi cá mập hay làm mồ chôn tập thể cho chính mình khi cần thiết - bọn tù đã phải lao động 10 tiếng một ngày.

Nếu từ trên cao nhìn xuống, người ta có thể hình dung ra một quang cảnh của thời nô lệ xa xưa, nơi ấy những kiếp người khốn khổ đang khổ dịch xây dựng một công trình kiến trúc cho các bậc vua chúa ở La Mã hay Ai Cập gì đó. Và nếu người ta nhìn xa hơn một tí nữa về phía phi trường Biên Hòa, người ta sẽ vô cùng ngạc nhiên khi thấy hàng đống máy cày, máy ủi, máy xúc đất; hàng đống cơ giới tối tân của "Mỹ ngụy" để lại đã bị bỏ phế một cách vô cùng phí phạm, mặc cho nắng mưa dập vùi để một ngày kia biến thành đống sắt vụn. Tại sao chúng không xử dụng đến những máy móc đó? Trong lũ tù đang lao động quần quật kia, đâu có thiếu những kỹ sư tài ba, những chuyên viên cơ giới lỗi lạc? Nơi đây, một lần nữa xác nhận câu nói của một chính khách Tây phương đúng tuyệt đối: Thời chuyên chính vô sản nắm quyền chính là thời mà nhân và vật lực bị phung phí một cách kinh khủng nhất!

Vĩnh khênh ki cùng với Đặng Ngọc Sinh, họa sỹ và là tổ viên của tổ 3. Sinh hiền lành và nhẫn nhục, vẽ thật đẹp và cũng vô cùng khéo tay trong những công việc thủ công như biến những miếng Inox thành những quân cờ, biến những miếng nhôm dày thành những cái lược có xủi hình long ly quy phượng thật tinh xảo... Một người ít nói vì bệnh tật, một người ít nói vì bản tính, khiêng đất chung với nhau nên một ngày lao động mà coi như dài bằng ba. Dẫu sao Vĩnh thấy như vậy thoải mái hơn. Mỗi ngày, cứ đi lên đi xuống để khênh đất, anh tính nhẩm mình phải bước tới hơn tám trăm nấc thang, những nấc thang đục khoét lài lài theo thế đất cho những người khiêng ki xuống lấy đất và đem đất lên đắp bờ ao... Trong khi đi lên đi xuống, Vĩnh cố gắng tập trung tư tưởng để suy nghĩ những điều anh hằng theo đuổi, hai mắt cố chụp cho hết những hình ảnh, những góc cạnh của chốn địa ngục này.

Với non một ngàn tù thực hiện công tác, dưới sự đốc công trực tiếp của bọn cán bộ trung đoàn, ao cá đã thành hình nhanh chóng. Giờ đây, mỗi khi từ dưới lòng ao khênh đất lên tới bờ thành, Vĩnh đã có thể đứng quan sát suốt một vùng rộng lớn. Anh có thể nhìn thấy những nóc nhà hăng-ga của phi trường Biên Hòa, nhìn thấy những dãy trại nằm san sát nhau, nhìn thấy cả cái tháp nước mà anh nghĩ rằng nó là cái tháp nước phía trước quân đoàn 3 xưa kia... Nhìn lên hướng Bắc, Vĩnh chỉ thấy chập chùng một vùng đồi cây. Có anh em nào của ta trấn đóng trong những vùng đồi cây hoang dã ấy không? Hết ngó vời hướng Bắc, Vĩnh lại ngó về hướng Nam... Nơi đây xa Gia Định chẳng là bao nhiêu đường chim bay, nơi ấy có gia đình họ hàng anh sinh sống... Chao ôi! Thân nhân anh, hàng xóm anh và mấy chục triệu người dân ngày nay sinh sống ra sao? Họ có đói như trong này không? Có nhòm nhỏ tố giác nhau không? Ai giữ được liêm sỹ, ai bị cuốn hút vào cái giòng đời dơ bẩn hiện nay?

Một cán xẻng đập nhẹ vào hông Vĩnh lúc anh vừa đổ xong mớ đất trên cái ki xuống bờ đê và đứng nghĩ ngợi vu vơ. Tiếp theo là một tiếng nói nho nhỏ.

- Tôi vừa gặp một thằng bạn bên trại 4. Nó trong khâu đào đất dưới kia. Nó hỏi tôi có phải có ông bên này không? Nếu có thì nhắn hộ rằng có một người quen ông bên trại 2 gửi lời hỏi thăm ông. Tên hắn là Nguyễn Chí Kham...

Kim thuộc khâu san đất trên bờ ao, vừa thuật lại lời nhắn với Vĩnh. Vĩnh nghĩ mãi đến cái tên mà không nhớ ra. Nguyễn Chí Kham? Nguyễn Chí Kham nào kìa?

- Hắn có nói gì thêm không?

- Có, nó bảo tay Kham nhắn ông là có cả Dzoãn Bình trong này...

Nghe đến cái tên Dzoãn Bình thì Vĩnh mới trực nhớ ra cái tên Nguyễn Chí Kham. Kham là một tay viết truyện ngắn xuất hiện khá thường xuyên trên các báo Văn, Vấn Đề và Bách Khoa trước đây.

- À, tôi nhớ ra rồi. Vậy tay Kham có lao động ở đây không?

Kim lắc đầu mệt mỏi.

- Tôi đâu có biết. Ông hỏi tay ngồi dưới kia kìa.

Theo Kim chỉ, Vĩnh nhìn xuống lòng ao sâu thẳm. Đâu có dễ để nhận ra một người rách rưới, gầy còm, xanh xao trong cả một rừng người đồng dạng như thế! Cuối cùng qua sự mô tả của Kim, Vĩnh định điểm được anh chàng nhắn tin đó. Điểm để nhớ chỉ có cái mũ của anh ta hơi khác mọi người, ấy là anh chùm luôn lên đầu một cái bao cát thay vì khâu vá biến chế thành một cái mũ như mọi người.

Chuyến lấy đất kế tiếp Vĩnh cố lái Đặng Ngọc Sinh về phía anh chàng đội cái bao cát trên đầu. Vĩnh đặt cái ki xuống trước mặt anh để anh xúc đất đổ vào. Vĩnh quan sát một vòng. Bọn cán bộ giờ đã rút vào một góc có bóng mát của ao cá. An toàn! Vĩnh cất tiếng hỏi.

- Xin lỗi anh, có phải anh là bạn của Kim không?

Anh chàng đang xúc đất vội ngừng tay, ngước lên nhìn Vĩnh. Qua một thoáng dò xét anh ta gật đầu.

- Vâng.

Vĩnh thấy anh ta hơi kỹ trong cách trả lời, anh cố cười thật tươi.

- Phe ta cả. Xin anh đừng nghi ngại. Khi nãy Kim có nói với tôi anh có lòng tốt nhắn hộ...

Người đối diện như đã nắm vững vấn đề, anh ta vui vẻ trở lại.

- À, đúng rồi. Thằng Kham cùng tổ tôi nó được biết có anh bên trại 1, nó cũng biết trại anh lao động ở đây nên nhờ tôi tìm cách nhắn hộ. Không dè gặp Kim. Không dè cũng có anh ở đây nữa...

Vĩnh hy vọng có tin gì mới lạ, anh vội vã.

- Thế Kham hắn có nói gì không anh?

Người đối diện lắc đầu.

- Không, không nói gì cả, chỉ nói vậy thôi. Anh bạn nói đoạn nhìn Vĩnh hỏi tiếp. Anh là bạn nó ngoài đời hả? Thằng ấy nguy hiểm quá. Nó cứ viết lách lung tung. Tôi ăn cơm chung với nó từ hồi Katum 1, lên tới đây nó còn ráng đem theo đống tập vở của nó. Tôi teo quá! Anh bạn lại tặc lưỡi. Dù sao nó chỉ viết truyện tình. Truyện nó hay lắm...

Vĩnh chẳng biết nói sao. Thực tế anh chưa hề có dịp gặp Nguyễn Chí Kham bao giờ. Anh chỉ biết Kham qua tên xuất hiện trên một số tờ văn học nghệ thuật của Sài Gòn trước đây. Khi ki đất đã được xúc đầy, Đặng Ngọc Sinh thúc Vĩnh tiếp tục lao động, Vĩnh vội nói với người nhắn tin.

- Cám ơn anh nhắn tin hộ bạn tôi. Khi về trại, xin anh nói hộ với Kham rằng tôi cũng gửi lời thăm anh ta và cả anh Dzoãn Bình nữa. À, anh Dzoãn Bình có ở cùng nhà với anh và Kham không?

Anh bạn lắc đầu.

- Không. Anh ấy ở nhà bên cạnh tôi. Vui vẻ lắm.

Vĩnh xốc một đầu ki đất lên. Đầu kia Đặng Ngọc Sinh đã sẵn sàng cất bước. Một vài cục đất khá to rơi ngược về phía chân Vĩnh. Trước khi đi Vĩnh hỏi thêm một câu.

- Anh có tin gì vui không?

Anh bạn khẽ cười.

- Chúng ta cùng ở trong hộp như nhau!

Anh ta chỉ nói thế rồi quay lại với công việc. Vĩnh cất bước đi theo Đặng Ngọc Sinh. Anh vừa đi vừa cúi nhìn từng bước chân, mặc Sinh muốn dẫn lối nào thì dẫn. Mặt đất giờ đã sình lầy không giống như những ngày trước. Độ sâu của ao đã khơi dậy nhiều mạch nước chạy ngang dọc. Khiêng nặng, bụng đói, miệng khát và lết đôi chân run rẩy trong đôi guốc tự chế, trái đất lắm khi như chòng chành muốn đổ trước mặt. Cũng có những lúc Vĩnh thấy ê ẩm trong đầu vì những tiếng hò là, những tiếng thúc giục, những tiếng báo động trước một nguy hiểm nào đó của anh em đang lao động chung quanh. Cõi trần gian như chết rồi mọi tiếng chim, chết rồi mọi mầm xanh hy vọng. Tất cả còn lại là một màu đen bất tận với những tiếng reo hò giả tạo phát ra từ những con người đã khánh kiệt nỗi yêu đời.

Đôi guốc làm bằng hai khúc gỗ thông cưa ngắn với quai là hai miếng dây dù to bản của Vĩnh bỗng gẫy đôi một chiếc. Vĩnh lúng túng hất chiếc guốc sang một bên lối đi, tuy nhiên anh phải dừng ngay lại và làm Sinh đi trước suýt ngã ngửa.

- Gì thế ông?

- Tôi đứt guốc. Ngừng lại tí.

Hai người đặt ki đất xuống. Vĩnh thấy sau lưng anh em khiêng đất nối thành một hàng dài. Anh không muốn mình bị chửi làm cản trở lưu thông, vội vàng lượm hai chiếc guốc bỏ lên ki đất. Chiếc guốc gãy lòi những mũi đinh lởm chởm, vứt bậy bạ có thể giết chết một người bạn như chơi trong hoàn cảnh thiếu thuốc men như ở đây!

Hai người đi tiếp để những người phía sau không bị cản trở.

Khi tiến lên đến bờ đất, Vĩnh nghe thấy anh em bàn tán nhiều về vụ thăm nuôi. Họ cũng bàn tán nhiều đến việc các trại đã được lệnh mở "căng tin", chữ của Việt cộng dùng thay cho chữ câu lạc bộ. Riêng vụ căng tin được tranh cãi thật nhiều. Qua bao nhiêu giả thuyết được đặt ra để tranh luận, cuối cùng mọi người hầu như đều đồng ý với kết luận việc cho mở căng tin trong các trại cải tạo tại An Dưỡng nhất định xuất phát từ sự tính toán của bọn cán bộ với những nguyên do như sau:

- Tạo một dịch vụ sinh lợi cho các cán bộ có tí tiền bỏ túi.

- Việc dấm dúi tiền bạc của thân nhân cho tù cải tạo vượt ngoài số quy định 20 đồng của nhà nước sẽ là chuyện tất yếu, có cản cũng khó được. Do đó, chúng phải tạo điều kiện cho những đồng tiền ấy không nằm chết một chỗ và cũng không biến thành một phương tiện trốn trại cho những tên tù mà chúng thừa biết rất xanh vỏ đỏ lòng.

Căng tin sẽ ra đời trong trại cải tạo vì lẽ đó chăng? Chưa ai dám chắc chắn. Có chăng mọi người đều mừng, và trong những lúc dầm mưa dãi nắng, bụng đói cồn đói cào như thế này, họ hình dung mỗi chiều trở về trại, thay vì dành giật chia chác những phần cơm chó chê dê lạy, họ có thể thong thả đôi ba thằng kéo nhau vào căng tin... kêu một chai bia, có thể có cả khô mực nướng thơm phức nhưng cái này có lẽ không cần. Tốt nhất nên kêu thêm một đĩa cơm trắng phau với thịt kho nước dừa trứng đậu hũ béo ngậy vừa no vừa khoái khẩu. Ngày tháng nhờ thế sẽ đỡ nặng nề hơn. Ba năm, năm năm... coi như gặp vận không may cơm nhà vác ngà voi một thời gian vậy.

Vĩnh cũng không tránh khỏi được sự mơ mộng bên cạnh những lời bàn tán của các bạn. Thốt nhiên trong sự tưởng tượng của anh lại hiện lên những hình ảnh đối nghịch ghê rợn... Anh thấy mình đang ăn một cách ngon lành một cặp bánh dầy giò mua trong căng tin, tự dưng miếng giò lụa trắng phau biến thành hình một con sâu củi nhễ nhại to tướng! Anh nhìn kỹ, đúng là con sâu củi mới chiều nào đây, lúc tổ trực bổ củi dưới bếp và nhà vô địch đẩy cây VNCH Vương Đắc Vọng - Tác giả của câu nói bất hủ: Mọi sinh vật cựa quậy được trên mặt đất đều ăn được cả - chụp ngay lấy cho vào miệng nuốt chửng; nuốt xong còn reo hò: Protéin! Đầy chất Protéin!... Vĩnh hoảng hốt ném miếng giò giờ đã biến thành con sâu củi đầy protéin của Vương Đắc Vọng xuống đất. Anh tiếc rẻ cố cắn thêm miếng bánh dầy nhưng rồi cũng hoảng hốt ném đi vì miếng bánh dầy bỗng trở mùi hôi thối và đỏ lòm như miếng thịt chuột cuống nướng vội của những người tù khổ sai dưới thời đại Hồ Chí Minh...

Vĩnh ngã chúi vì vấp phải một cán xẻng để ngang lối. Sinh đi phía trước cũng suýt bước nhằm lưng một người ngồi san đất. Một người bạn nào đó la lên.

- Vĩnh, chân ông chảy máu kìa!

Bây giờ Vĩnh mới thấy đau nơi bàn chân trái. Anh buông ki đất đổ tùm lum giữa lối đi và ngồi xuống. Một móng chân muốn lật khỏi ngón đang từ từ ứa máu ra. Cái đau không làm Vĩnh ngại mà ý nghĩ đầu tiên là anh ngại ngày mai lại phải đi khai bệnh. Cứ tưởng tượng ra bộ mặt của thằng chuẩn úy quân y tiểu đoàn mà lại phát sốt rét. Giỏi lắm nó cho một tí thuốc đỏ kèm với lời chửi bới này nọ... rồi lại tiếp tục lao động như thường. Nhưng nếu không khai bệnh thì cũng không ổn. Bị gì chứ bị lật móng chân mà tiếp tục lội sình như ở đây cưa cẳng không mấy chốc!

Đúng lúc Vĩnh đang ngồi suýt xoa thì nơi góc ao bên trái phát lên những tràng tiếng động như đất lở, kế đó là những tiếng thét thất thanh của vô số người. Mọi người bên này bờ ao hốt hoảng đứng phắt lên. Vĩnh cũng cố đứng lên để nhìn cho biết chuyện gì...

Anh chỉ nhìn thấy bên bờ ao đối diện bọn tù ngã lăn quay và có kẻ rơi từ mấy thước cao xuống lòng ao. Tiếng la hét vang trời, cảnh tượng hỗn loạn trong một lớp bụi bốc cao... Trong đám Vĩnh có tiếng la lớn.

- Trời ơi! Bờ ao bên kia bị lở tụi mày ơi.

- Sập! Sập! Chắc chết người rồi.

Thốt nhiên Vĩnh không còn cảm thấy một tí đau đớn nào nơi bàn chân nữa. Theo mọi người, anh phóng ra khỏi bờ đê cao và chạy vòng phía ngoài sang phía ao đối diện. Mọi người đã bu đến một góc ao. Thấp thoáng vài thằng quản giáo tỏ dấu lúng túng chưa biết xử trí ra sao với hoàn cảnh hiện tại. Vài thằng vệ binh từ xa không biết chuyện gì xách súng phóng tới và hăm hở như sắp được dịp bắn hạ quân thù.

Đến lúc này Vĩnh mới nhìn thấy hết mọi chuyện. Một chuyện thật tang thương. Và hiện tại chưa ai biết nổi trong cái tang thương này có mấy xác người!

Một góc bờ ao đã sập xuống và đè bẹp những người có công tác thiết lập một hệ thống dẫn nước để cân bằng mực nước trong ao với mặt đất bên ngoài.

Đứng nhìn một số người chạy tới để đào, bới... với những tốc độ nhanh nhất hầu lôi được những xác người đang bị cả tấn đất đè lên trên ra ngoài, Vĩnh nhớ lại mấy ngày qua. Thay vì trước khi đắp đê quanh ao, bọn cán bộ kế hoạch của trung đoàn phải cho làm trước hệ thống thoát thủy và cân bằng mực nước trong ao. Đàng này, chúng bắt tù đắp bờ cho đã đời, đến khi bờ gần xong chúng mới ra lệnh cho một đội phải xẻ một khoảng trống hai thước, cắt bờ ao ra lấy chỗ thiết lập ống thoát thủy bằng những đoạn tôn cong của Mỹ xử dụng làm đường mương trước kia. Khi xẻ xong khoảng trống trên bờ ao, một số người phải chui vào đó để đặt các ống tôn cong. Đất mới đắp, chân vừa vững lại bị đục khoét, bờ ao từ hai bên bị lở và đất sụp xuống chôn sống luôn mấy người có nhiệm vụ làm công tác đặt ống thoát thủy.

- Các anh lao động thiếu kỹ thuật gây phiền hà và trở ngại cho tổ chức.

Một giọng nói cất lên khiến ai cũng uất ức và ngó lại. Đó là giọng nói của một thằng cán bộ trung đoàn trong ban chỉ đạo đào ao. Tên cán bộ hình như cũng đọc được những nét uất ức trong bao đôi mắt của bọn tù, nó yên lặng và đi tránh chỗ khác. Bọn tù chẳng ai nói với ai, cứ hùng hục đào và bới.

Gần mười lăm phút sau, hai nạn nhân được lôi ra ngoài. Dĩ nhiên họ chỉ còn là hai cái xác mềm nhũn dù vẫn còn đầy đủ hơi nóng trong người. Bọn quản giáo đã phóng tới đông đủ. Một tên hét.

- Anh nào tự thấy mình khỏe mạnh, tiếp nhau khênh hai anh này lên bệnh xá.

Có một hai tay có lẽ rành chuyện sống chết, sau khi phủi đất trên xác nạn nhân, xem mạch, xem mắt, đều nói rằng nạn nhân đã chết và vô phương cứu chữa. Tên quản giáo có vẻ giận dữ trước những lời bàn tán vô phương cứu chữa của bọn tù, hắn nạt.

- Ai? Ai dám khẳng định hai anh này đã chết nói tôi nghe? Tôi bảo khênh là khênh, cấm không được chống đối lệnh. Chỉ có quân y mới có quyền... cho phép sống hoặc chết.

Bọn tù ním thinh. Mọi người đều biết tên quản giáo muốn nói chỉ có quân y mới có quyền xác nhận nạn nhân còn sống hay đã chết, nhưng vì hắn dùng chữ không chỉnh, thành thử tự nhiên hắn biến quân y của nhà hắn thành một thứ có quyền uy tối cao, khác nào cơ quan công an mật vụ trung ương.

Dù sao thì sau đó nạn nhân cũng đã được đặt nằm trên hai cái ki với bốn người khênh đi thẳng lên bệnh xá nằm ở một góc trại 4. Vĩnh muốn tìm cách đi theo nhưng nghĩ mãi không ra lý do. Khi đám người khênh hai nạn nhân có vệ binh hộ tống vượt qua một con suối nhỏ và khuất sau những lùm cây rậm rạp Vĩnh mới chấm dứt ý nghĩ tìm cách đi theo.

Mọi người trở lại với hiện trường lao động trước sự thúc hối của bọn cai tù. Tuy nhiên biến cố vừa qua rõ ràng có ảnh hưởng đến năng xuất của bọn tù. Ai cũng mong cho mặt trời sớm lặn để chấm dứt một ngày đọa đày buồn thảm. Vĩnh vừa khênh đất vừa lắng nghe những lời bàn tán chung quanh. Hình như chỉ có một người nói rằng: Đất đè như thế có đến sức khổng tượng cũng chết! Và sau đó anh không còn thấy ai đề cập đến tai nạn vừa qua nữa.

Cái đói, cái mệt có sức mạnh khủng khiếp để lái tất cả mọi chuyện về với cái ăn, cái ngơi nghỉ!

Vĩnh băn khoăn tự hỏi, sẽ còn bao lâu nữa bản thân ta còn nhớ tới, còn xót xa cho những người thân yêu? Liệu sẽ có một ngày nào tất cả đều mờ nhạt đi và trong mọi xúc cảm, miếng ăn sẽ chiếm một ưu thế tuyệt tối? Chao ôi, có hai người bạn vừa nằm xuống bằng một tai nạn bi thảm, tại sao có quá nhiều người đã quên ngay và những lời bàn tán chỉ còn quy về những miếng ăn ở một căng tin chưa hề nhìn thấy, ở những cuộc thăm viếng với thức ngon vật lạ nhưng chưa ai biết sẽ có hay không!? Vĩnh nhớ lại anh có đọc một câu văn của nhà văn nữ Trùng Dương, đại ý rằng những cay đắng trên đời tạo thành cá tính. Nếu câu ấy đúng, bọn tù như anh hòng gì còn giữ lại được nhân tính cũ trong những chuỗi đau khổ kéo dài không biết đến ngày nào mới chấm dứt như nơi đây!?

Tiếng kẻng chiều phát ra từ một cái nhà lô - danh từ chỉ một túp lều tranh dựng trên một thế đất cao làm nơi trú nắng cho bọn quản giáo vệ binh - đã lan nhanh và tạo một sự dây chuyền cho những tiếng kẻng xa xa khác. Bọn tù như bừng tỉnh và thoát nhanh ra khỏi nét mệt mỏi cố hữu. Tất cả nhanh chóng thu góp, kiểm soát lại các dụng cụ lao động. Các tổ trực của các đội lo thu những chiếc ki xếp thành từng đống theo nơi quy định cho đội mình trên một phía bờ ao. Cuốc xẻng của ai nấy giữ... Rồi thì tất cả lại so hàng, lại điểm danh, lại báo cáo nhân số và hăng hái lầm lũi tiến ra con đường mòn lởm chởm đá ong hướng về phía các cổng trại.
--------------------------------
1
Katum: Rừng biên giới Việt Miên thuộc tỉnh Tây Ninh. Sau 30 tháng Tư Katum cũng có một hệ thống trại giam các quân nhân QLVNCH.

CHƯƠNG BA MƯƠI TƯ

Không hiểu vì lý do nào, sau khi bờ ao sập giết chết hai mạng người, hai ngày sau đó tù được lệnh hoãn công trình đào ao và đổi công tác mới. Riêng đội 5 trại 1 lại trở về với công tác đào và kéo cột đèn. Đồng lúc ấy, đa số những tổ thợ mộc bên đội 6 và 7 đều được đem tăng phái cho trại 4 để dựng một khu đặc biệt mà theo tin đồn, nơi đó sẽ là khu tiếp tân cho những lần thăm nuôi sắp đến.

Vì là trong tình trạng thấp thỏm đợi thăm nuôi, không khí trại cũng có nhiều thay đổi. Bên cạnh những sự bàn tán vui nhộn, những dự trù sẽ hỏi gì, nói gì, xin gì nếu được biên thư về nhà; tù cũng bắt đầu tranh thủ những thời gian rảnh rỗi buổi trưa và buổi chiều lúc đi lao động về, sáng chế đủ mọi thứ lưu niệm để mong có tí quà tặng người thân. Khi đi lao động, ngoài sự rình rập để thuổng được một quả ớt, một quả đậu bắp, vài cái ngồng cải... toàn những thứ mình làm ra mà không được hưởng để giấu vào người, hoặc vồ ít con cào cào mập mạp, ít con rắn mối, ít con kỳ nhông... để có thêm tí protéin cho bữa trưa hoặc bữa chiều; bọn tù còn cố công thu lượm bất cứ vật gì mà họ nghĩ rằng có thể chế được một cái lược, một cái vòng đeo tay, một cái nhẫn xinh xinh hoặc một cây đàn, một cái điếu bát điếu cầy...

Dù sao thì những vật dụng quý giá để biến chế thành những kỷ vật cho tù lúc này vẫn là những miếng Inoxidable, những ống nhôm M.72, những miếng Mica dày... Riêng những người chế đàn guitare họ cần nhiều thứ tỉ mỉ hơn, chẳng hạn phải kiếm những sợi dây điện có lõi đồng để làm phím, phải kiếm cho ra những cuộn dây đồng sợi nhỏ đủ cỡ lấy từ các cơ phận của các máy truyền tin hư, hoặc trong các ống dynamo thật nhỏ thường tìm thấy nơi các hàng rào, dưới những nền nhà cũ của Mỹ... Những sợi dây đồng nhỏ đủ cỡ đủ màu này hợp với lõi dây điện thoại, một khi lọt vào tay bọn tù, nó sẽ biến thành những sợi dây đàn guitare có độ cộng hưởng không thua dây đàn guitare d'Argentine. Riêng Hóa và Vĩnh hợp tác chế tạo một bộ đàn Célophone. Bộ đàn được làm bằng những khúc kẽm to bản, cắt từ những sợi kẽm dẹp dùng chằng các kiện hàng trước đây.

Cứ mỗi buổi trưa, trong lúc các bạn ngồi dũa, mài, xủi từng quân cờ, từng cái lược nhuộm, từng cái vòng đeo tay bằng Mica... thì Hóa và Vĩnh cũng bò lê trên một nền nhà giữa sân nắng, nơi cách xa các phòng để không bị anh em chửi bới làm mất giấc trưa của họ, để gò những miếng kẽm có độ cong nhất định của nó, hầu phát ra được đúng tông cho một nốt. Bộ đàn làm liên tiếp trong mười ngày mới xong. Khi Vĩnh treo những miếng kẽm gò cong ấy trên hai sợi dây mọc trên một cái giá gỗ nho nhỏ, Hóa cầm hai cái búa gỗ nhỏ xíu đập trên mặt đàn để chơi một bài hát vui vui. Trong lúc đó bên C3 Tiến cũng đã làm xong một cây guitare, một cây guitare không giống bất cứ một cây guitare nào trên thế giới này. Thùng đàn là một cái hộp hình tam giác, đầu cần đàn là một bộ khóa được làm bằng những chốt gỗ dài trông như đầu cần của một cây đàn tì bà. Thế nhưng đúng tông ra phết. Mỗi khi đi lao động về, Tiến mắc cái võng nơi chỗ nằm và búng classique nghe thật đã lỗ tai. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau Tiến dẹp luôn cây đàn vì bị một thằng ăng ten hót với quản giáo rằng nó chơi nhạc vàng. Tiến bị kiểm thảo nghiêm trọng, phải thú tội trước đội và làm tự kiểm lẫn cam kết rằng từ giờ đến chết nó không được đàn địch gì nữa. Cái vụ Tiến bị làm tự kiểm khiến những tay chế đàn phải khựng hẳn lại. Riêng Hóa và Vĩnh, với bộ Célophone làm gần mười ngày trời, mỗi người chỉ được gõ vài phút đồng hồ một bản nhạc quen thuộc rồi cũng xếp xó luôn.

Những tay làm đàn từ đó cũng xoay ra làm lược làm gương, làm những món mà không ai có thể chụp mũ vàng xanh đen đỏ được. Giai đoạn này có lẽ nước Việt Nam lại sản sinh ra nhiều thợ kim hoàn nhất thế giới. Và người có ngón nghề xủi tinh xảo nhất trong bọn tù ở An Dưỡng phải nói tới Đặng Ngọc Sinh. Bất cứ một miếng nhôm hay một miếng Inox nào lọt vào tay Sinh, chỉ một ngày sau nó đã có thể biến thành một cái lược hoặc một cái khung gương đẹp tuyệt vời. Đồ nghề của những nhà thủ công nghệ này không nhiều lắm. Chỉ một cái dũa sét rỉ, một lưỡi cưa sắt gãy, một cọng thép mài thật nhọn, một tí giấy nhám lượm lặt được trên kho hậu cần...bọn tù đã có thể tẩn mẩn ngồi làm đủ mọi chuyện thủ công mà không quá hai năm trước đây chẳng ai có thể nghĩ mình làm được. Tuy nhiên những người khéo tay hoàn thành một tác phẩm thủ công tinh xảo trong tù với những vật dụng thô sơ nhất cũng không lấy làm lạ. Nhưng công tử con nhà giàu như anh chàng Bùi Vịnh chẳng hạn, cũng mỗi trưa ngồi gò lưng dũa và xủi mới thật buồn cười. Vịnh vốn đã vụng về, vụng về đủ mọi chuyện, thế nên dù nó đổ bao công khó cái lược cũng không bao giờ trông ra cái lược, cái vòng không bao giờ có được hình tròn của một cái vòng. Có lần Vĩnh hỏi nó.

- Ê Vịnh, người ta có vợ có con, người ta làm nhẫn làm vòng xủi lược để tặng. Vợ con mày tếch đi Tây hết rồi, mày làm mấy thứ đó tặng ai vậy?

Vịnh nghe hỏi vẫn dúi mũi vào cái lược để cưa những răng lược, miệng ậm ừ trả lời.

- Tặng em vợ không được sao?

- Chà, tính hoa thơm đánh cả cụm chăng?

Nghe vậy Bùi Vịnh cười vui vẻ.

- Cũng sạch nước cản lắm. Nhưng kẹt cái ông già vợ tao có bằng thiện xạ. Phiền bỏ mẹ!

Công việc cưa mài dũa xủi đang phát triển đều khắp các trại của An Dưỡng thì lệnh cấm lại ban ra. Lệnh cấm cũng có lý của nó, vì bên trại 2 đã xảy ra một tai nạn làm chết và bị thương mấy người. Hai sỹ quan cảnh sát bên đó đi lao động và lôi về trại một ống phóng M.72 chưa hề dùng. Hai ông loay hoay cưa ống phóng để chia nhau mỗi người một phần ống nhôm. Ống phóng phát nổ gây thiệt mạng cho hai người cưa và làm què cụt thêm một số người khác nữa.

Sau vụ đó, để chắc chắn không còn màn cưa mài dũa xủi nữa, các trại đồng loạt mở cuộc xét đồ. Trong đợt xét đồ lần này, thêm một lần nữa tù trắng tay. Ngoài kìm kéo búa cưa và những đồ nghề cho công tác thủ công của những nhà kim hoàn bất đắc dĩ dưới thời đại Hồ Chí Minh bị tịch thu, tất cả những vật bén nhọn, những lon cóng ngoài số quy định của trại cũng đều bị tịch thu hết.

Nhiều tay không giấu kịp những gương lược... của mình, bị tịch thu hàng đống. Vĩnh không mất gì ngoài một cái pipe làm bằng gỗ Cẩm Lai mà anh đã tẩn mẩn gọt dũa cả hai tháng trời. Tuy nhiên sau vụ xét đồ, Vĩnh không còn sức đâu mà lưu ý tới những việc chung quanh nữa.

Những ngày đầu tháng 10 năm 76, chứng sạn thận trở lại hành hạ anh ác liệt hơn hồi ở Trảng Lớn nhiều lần. Đúng ra, gần một tháng nay Vĩnh đã biết mình có triệu chứng tái phát bệnh sạn thận, khi mỗi đêm đêm anh phải thức dậy đi tiểu nhiều lần với những cơn thống buốt vô cùng khó chịu nơi bộ phận sinh dục. Qua sự cắt nghĩa của bác sỹ Tuyên trước kia, anh biết một phần nguyên do của bệnh sạn thận. Người bị sạn thận là người có nhiều chất Acid Urique trong máu. Chất này là chất xúc tác tốt cho việc kết tủa nơi thận những chất vôi, mangésium... qua thực phẩm tiếp nhận vào thân thể hàng ngày mà không tiêu hóa hết được. Lời khuyên của Tuyên còn văng vẳng bên tai Vĩnh: Ông cố gắng đừng ăn một món gì quá nhiều lần trong thực đơn hàng tuần! Lời khuyên của bác sỹ Tuyên thật... vui nhộn cho những người bị bệnh sạn thận như Vĩnh trong thế giới lao tù Cộng sản, nơi mà con người bị khai thác sức lao động bằng một con voi và được trả thù lao bằng miếng ăn thua một con chó. Làm sao có thể làm theo lời khuyên của bác sỹ được, khi mà quanh năm chỉ khoai và sắn, rau muống và rau dền? Đông y đã nói rau dền là một loại rau tối kỵ cho những người bị bệnh sạn thận. Nhưng khổ thay, rau dền cũng là một trong những thức ăn mà tù phải ăn chêm với sắn khoai mỗi ngày cho đầy bụng! Nó là một loại rau dễ trồng nhất, mùa nào cũng có thể tốt tươi; khác hẳn với nhà chị cải, nắng không ưa mưa không chịu, và nhà anh muống chỉ thích xanh tươi vào mùa hè...

Một buổi tối, sau khi cả nhà họp kiểm thảo xong Vĩnh quay về chỗ nằm. Thoạt đầu anh thấy khó chịu và muốn ói, cái kiểu ói khan như đàn bà ốm nghén. Sau một lúc trăn trở khó chịu như vậy, nơi lưng Vĩnh bỗng giật nhói một cái. Thế rồi chỉ một tích tắc sau đó, cơn đau tàn bạo kéo đến. Nơi lưng Vĩnh giờ đây như bị bắn trúng một phát đạn. Không! Không phải cái đau đớn êm dịu như trúng một phát đạn đâu, mà là một cái đau đớn vô cùng khủng khiếp; thứ đau đớn không khác nào anh đang bị một con đại bàng dùng móng vuốt xé toạc những thớ thịt trên lưng ra nhiều mảnh vụn. Đến lúc này thân xác Vĩnh đã vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Anh lăn lộn trên nền nhà, quằn quại và đau đớn như một con sâu cái kiến đang bị một bàn chân vô hình chà đạp. Thế nhưng trong sâu thẳm của ý thức, Vĩnh vẫn ngậm miệng, cố gắng hết sức để ngậm miệng không kêu gào. Đã có lúc Vĩnh đâm đầu vào một góc vách với hy vọng những cái đau khác sẽ làm giảm đi phần nào cái đau tàn bạo nơi lưng. Nhưng mọi nỗ lực đều vô ích, kể cả khi một bên trán Vĩnh đã chan hòa máu vì tông vào một góc kệ gỗ đầu chỗ nằm.

Đến lúc này thì bạn bè không thể ngồi nhìn được nữa. Nằm đối diện với Vĩnh là Nguyễn Đình Tạc. Tạc to con và khỏe như gấu. Khi thấy Vĩnh quá đau đớn, lăn lộn đến chảy máu đầu, nó cầm lòng không được nhảy chồm sang chỗ Vĩnh. Dù đau đớn cực kỳ nhưng đầu óc Vĩnh vẫn sáng suốt ghi nhận những diễn biến chung quanh. Anh thấy rõ bạn bè đang cuống cuồng như những con kiến trên chảo nóng. Vĩnh muốn kêu cứu nhưng biết kêu cứu gì đây!? Trong lúc Vĩnh đang dự trù tông thêm một cái nữa vào góc kệ thì Tạc đã nhào sang đè phủ trên người anh. Nó ôm ghì lấy anh.

- Vĩnh ơi, ráng chịu qua cơn đau. Đừng lăn lộn nữa.

Sự ôm cứng của Tạc càng làm cho Vĩnh đau đớn hơn. Đau sạn thận cũng như đau sạn mật hoặc đau bao tử, người ta chỉ cảm thấy tương đối dễ chịu khi tìm được một vị thế ngồi hoặc nằm thích hợp. Bị ôm cứng, cơn đau còn hành hạ dữ dội gấp trăm lần. Khi bị Tạc ôm, Vĩnh đau đớn chịu không thấu. Anh cố gắng hết sức vùng ra khỏi vòng tay của Tạc nhưng bất lực. Tạc khỏe quá. Cơn đau chuyển sang cơn giận. Lần đầu tiên Vĩnh gầm lên.

- Bỏ tao ra. Bỏ ngay tao ra!

Dễ gì mà Tạc chịu bỏ Vĩnh ra lúc này. Thế nên anh càng la, càng vùng vẫy thì Tạc càng ghì chặt hơn. Lưng Vĩnh đau xé, mồ hôi đổ dầm dề như người trúng mưa. Tạc không biết làm sao, nó chỉ thầm thì.

- Ráng đi, ráng chút đi Vĩnh. Lăn lộn quá chẳng có lợi gì...

Vĩnh đâu còn hồn vía nào mà nghe lời bạn. Anh chỉ điên lên khi thấy bạn chết sống ôm ghì lấy mình, và như vậy anh không thể tìm ra được một thế ngồi, nằm hay quỳ nào cho viên sạn trôi một cách êm ả hơn trong cái ống uretaire trên lưng xuống bàng quang. Vĩnh bắt đầu chửi.

-Thằng khốn nạn, tao bảo mày buông tao ra.

- Không, cho mày chửi thả giàn, tao không buông.

Vĩnh điên tiết.

- Trời ơi, mày muốn giết tao phải không Tạc? Tao bảo mày buông tao ra. Mày không buông tao ra, tao thề sẽ giết mày.

Tạc vẫn cười hì hì bên tai Vĩnh.

- Cho mày giết. Mày muốn giết cả nhà tao cũng được, hơn là để cho mày lăn lộn đổ máu đầu máu cổ.

Tạc cứ ôm cứng lấy Vĩnh. Và lúc này bạn bè trong phòng đã có người chạy ra cổng trại kêu quân y. Vĩnh đã nhận ra sự bất lực hoàn toàn của mình trong việc tìm cách vùng khỏi đôi tay rắn khỏe của Tạc. Anh xoay sang Hóa và Kim đang cuống cuồng đứng bên cạnh cầu cứu.

- Hóa ơi, mày đấm vỡ mặt thằng Tạc giùm tao một cái.

Hóa biết Vĩnh đau lắm, nó nói khe khẽ.

- Tạc, ông bỏ nó ra một chút cho nó thở.

Ngoài dự trù của Vĩnh, Tạc biến mất cái vẻ hiền hòa cố hữu. Nó nổi sùng với Hóa tức thì.

- Đù mẹ mày không thấy cái đầu nó à? Máu me tùm lùm. Bỏ nó ra cho nó đập đầu chết luôn à?

Vừa lúc ấy thì nhà trưởng Bính đi cùng thằng quân y vào tới trong phòng. Đến lúc này cảnh vật chung quanh cũng không còn rõ ràng nữa. Tất cả đã quay cuồng, đảo lộn và mờ nhạt dần. Trước khi ngất đi, Vĩnh chỉ còn nhìn thấy cái bóng điện sáng trưng treo nơi xà ngang ngay trên đầu như vỡ ra và đỗ vung vãi xuống mắt anh muôn nghìn cái bóng điện sáng trưng khác. Kế đó Vĩnh không còn biết gì nữa...

Tuy nhiên chỉ ít phút sau Vĩnh tỉnh dậy. Anh đang được nằm trên một đống chăn mền hỗn độn. Vĩnh từ từ mở mắt. Anh thấy nhiều người đang nhìn xuống mình, và trong những khuôn mặt quen thuộc có một khuôn mặt lạ, khuôn mặt của thằng quân y. Cảm giác sung sướng thấy cơn đau chưa kịp hình thành thì cơn đau mới lại ập đến, cơn đau coi mòi còn tàn bạo hơn trước đó.

Cơn đau làm Vĩnh lại phải chồm lên. Anh cúi rạp người trên đất như một người Hồi giáo đang rạp người cầu đấng Messiah. Dù đau lắm nhưng Vĩnh cố gắng ngậm miệng không cất một lời rên la. Tên quân y nhìn Vĩnh một lúc, rồi nghĩ sao hắn lôi cái túi dết đang đeo trên vai xuống. Hắn nói.

- Sỏi bọng đái cũng đau đấy... Anh nào giúp tôi một tay, tôi sẽ tiêm cho anh này một mũi Atrophine là đỡ ngay.

Vĩnh đau nhưng cũng nghe rõ lời của tên quân y. Trời ơi, đau bụng đau bão thông thường Atrophine mới công hiệu. Sạn thận mà chích Atrophine thì ăn thua gì!? Chỉ tổ làm cho mồm miệng thêm khô đắng. Tuy nhiên mấy người bạn không ai để cho Vĩnh suy nghĩ vẩn vơ nữa. Họ đè Vĩnh nằm sấp xuống. Tiếng thều thào của nhà trưởng Bính cất lên.

- Thôi ráng nằm thẳng ra để anh quân y chích cho một mũi đỡ đau. Đừng nằm cái thế luyện Hàm Mô Công nữa Vĩnh ơi, Tây Độc nó buồn.

Vĩnh cố gắng nằm bẹp xuống. Anh thấy một người kéo quần anh. Giọng tên quân y lại cất lên.

- Không không. Tôi tiêm bắp tay. Cởi một bên vai áo anh ấy ra.

Một thoáng sau trong người Vĩnh đã có một mũi thuốc Atrophine. Đây là lần đầu tiên anh lâm cái thế phải để cho giặc tiêm vào người một mũi thuốc. Vì từ ngày vào tù, ít nhất đã có ba lần Cộng sản tổ chức chích ngừa cho tù cải tạo để đề phòng những bệnh truyền nhiễm. Lần nào Vĩnh cũng tìm mọi cách tránh né. Đối với anh, Cộng sản là thứ không thể bảo đảm được rằng trong những mũi thuốc chích ngừa kia lại không có những độc dược công hiệu chậm, và năm năm, mười năm, người bị chích chẳng trở thành những phế nhân hoàn toàn? Bọn thực dân Tây xưa kia há đã chẳng tiêu diệt biết bao nhà trí thức ái quốc bằng những mũi thuốc kiểu chích ngừa như ngày nay hay sao? Hình ảnh một ông già nói tiếng Pháp như gió, miệng méo xẹo, một tay liệt, một tay luôn luôn cầm một miếng lá chuối, lê la xin ăn và liếm láp những đĩa thức ăn thừa nơi mấy cái quán dọc đường Nguyễn Công Trứ, Cần Thơ hồi 65, 66... Vĩnh còn nhớ như in trong đầu. Theo nhiều người cho biết ông già này từng là một trong những nạn nhân của thời Pháp thuộc...

Dù sao bây giờ mũi thuốc đã được chích vào người. Chưa biết năm năm mười năm nữa ra sao, Vĩnh chỉ biết hiện tại nó như muối bỏ biển. Cơn đau vẫn tiếp tục hành hạ anh dài dài. Anh ráng nín thở, dồn hơi xuống huyệt đan điền và gồng cứng các bắp thịt bụng hy vọng khống chế được một phần nào cơn đau. Chẳng ích lợi gì. Anh lại phải chồm người lên "luyện Hàm Mô Công" tiếp tục. Điều mong nhất của Vĩnh lúc này là làm sao cho thằng quân y cút chỗ khác để anh được rên lên vài tiếng. Tên quân y sau khi dặn dò nhà trưởng một vài điều gì đó, hắn quay lại nói với Vĩnh.

- Từ từ nhá. Thuốc ngấm rồi đỡ đau nhá. Tình trạng rồi sẽ tốt thôi. Có gì khắc phục, bằng đau bụng quá anh nhà trưởng lên khung báo cáo, Trên sẽ giải quyết.

Thằng quân y vừa nói dứt câu thì cơn đau lại bộc phát trở lại. Vĩnh vòng tay ôm lấy lưng. Cái đau như một mũi dùi đâm vào lưng làm Vĩnh không thể không thốt lên một tiếng kêu.

- Chao ôi!

Tên quân y đã dợm bước đi, nghe thấy Vĩnh lên tiếng hắn vội quay lại.

- Anh muốn nói gì?

Vĩnh lắc đầu thở dốc nói như đuổi.

- Không, tôi không nói gì cả. Đang khắc phục đây. Anh đi đi.

Sự sẵng giọng của Vĩnh khiến tên quân y hơi ngẩn ngơ. Vĩnh nằm cong như con tôm. Mắt mờ nhạt. Đầu óc tan loãng. Tên quân y đã bước ra cửa. Vĩnh không nghe thấy anh em hô hoán nghiêm nghỉ gì cả. Và cũng chính vì thế, anh có thể nghe thấy tên quân y nói với vài người đứng ngoài cửa.

- Anh ấy đau quá, điên rồi!

Tiếng Bính.

- Báo cáo anh có cách gì cho anh ấy đi viện. Sợ kích xúc chết mất.

- Kích xúc là gì?

- Đau quá sức chịu đựng...

- Để tôi nghiên cứu xem sao...

Lỗ tai Vĩnh bỗng nhiên lùng bùng và rồi anh không nghe thấy thêm gì nữa cả. Giờ này anh em đã nhiều người mắc màn ngủ. Riêng những tay nằm sát và gần Vĩnh không ai mắc màn. Họ có vẻ khó nghĩ trong hoàn cảnh có một thằng bạn đau lê lết đang quằn quại ngay bên cạnh mà không biết làm sao để giúp. Vĩnh cũng thấy khổ sở trong lòng. Anh biết ngày mai các bạn còn phải đi lao động quần quật cả ngày. Đêm mất ngủ, ngày hôm sau sẽ bơ phờ cả đám. Nhưng làm sao được, Vĩnh đâu có muốn đau, muốn lăn lộn như thế này. Thốt nhiên một nỗi uất hận, giống hệt một ngọn hỏa diệm sơn bỗng xuyên qua bao lớp địa tầng, phá vỡ mặt đất già nua meo mốc và bay thẳng lên không trung - thứ uất hận không thể kềm chế được và trào ra khỏi đáy lòng dồn nén bấy lâu của Vĩnh. Vĩnh xoay ngửa người ra, bất chấp cơn đau hét lớn một tiếng.

- Khắc phục cái con củ c... Đồ đảng cướp...

Tiếng hét của Vĩnh khiến cả phòng choàng dậy và ai cũng thất kinh. Vĩnh đã cảm thấy chẳng còn gì để sợ. Anh nằm ngửa thở dốc, rồi lại co người lên và tiếp đó lăn lộn với cơn đau giục giã, không ngừng. Nguyễn Đình Tạc lại phóng sang. Nó lại ôm chầm lấy Vĩnh. Nhưng lần này nó không ôm được lâu. Chỉ trong một thoáng mắt, Tạc phải buông ngay Vĩnh ra, mặc cho anh té nhào xuống đất với cơn đau. Tạc ông lấy háng, la làng.

- Ôi giời đất ơi! Thằng này nó bóp d... tôi.

Mặc cho Nguyễn Đình Tạc nhảy cỡn, Vĩnh gục xuống sàn nhà và bắt đầu ói mửa. Đợt ói đầu tiên chỉ có tí khoai mì lợn cợn với ít hột cơm chưa tiêu trào ra khỏi miệng. Đợt ói kế tiếp chẳng còn gì ngoài nước. Nhiều người đã choàng dậy trỗi ra khỏi màn. Có tiếng người hối thúc nhà trưởng đi báo quân y. Hóa đã nhảy tới đỡ đầu Vĩnh dậy, cũng may, cái ói như làm cho cơn đau giảm đi một phần. Vĩnh gối đầu trên một cánh tay Hóa, thì thào.

- Cho tao miếng nước.

Hóa vội quay lại nói lớn với một người đứng sau lưng.

- Lấy hộ tao lon guigoz nước trên kệ.

Vĩnh uống một miếng nước lạnh, xong lại tiếp tục ói. Một tiếng nói chợt khẽ vang lên an ủi.

- Ráng tí Vĩnh ơi, quân y xuống đến nơi rồi, thế nào cũng được đi viện...

Tiếng Kim len vào.

- Toa mệt lắm không?

- Còn hơn bị bề hội đồng.

Có tiếng cười của Tạc.

- Đến nước này mà nó còn giữ cái tật đùa giỡn.

Con đau bỗng lắng xuống thật nhanh. Hiện tại Vĩnh chỉ còn cảm giác ê ẩm như vừa được khênh ra khỏi một cơ quan công an mật vụ nào đó... Anh ngước nhìn Tạc.

- Xin lỗi mày nghe Tạc. Khi viên sạn đang hùng hổ tìm cách trôi xuống thì đừng bao giờ ôm cứng lấy tao như vậy. Như thế chẳng khác nào mày cản lại bánh xe lịch sử của Cách mạng đang lăn tới...

Tạc đứng ưỡn người nhìn ra phía cửa, nói vu vơ.

- Già rồi còn chơi đòn bóp d...

Một cái nhói khẽ trên lưng làm Vĩnh hoảng hốt. Anh nhắm mắt lại như chờ đợi cơn đau một lần nữa ghé đến. Có nhiều tiếng động ngoài cửa phòng. Vĩnh mở mắt nhìn ra. Tên quân y đã trở lại. Hắn đang nói gì với nhà trưởng. Một thoáng Bính chạy vào trong, nói lớn.

- Đi viện! Yêu cầu tổ trưởng tổ 1 cắt ngay hai người khênh võng. Một người khác khênh theo tất cả đồ đạc của anh Vĩnh...

Mười lăm phút sau đó Vĩnh đã được đặt nằm trên một cái võng mượn của Đỗ Duy Tích. Một khúc tre già lồng xuyên qua hai cổ võng do Hỷ và Hóa khênh. Kim đi theo xách đồ.

Tên quân y đã đứng chờ sẵn ngoài cổng trại. Lúc mọi người tiến ra, hắn báo cáo nhân số rời trại với an ninh trực ngoài cổng và dẫn cả đám đi theo con đường phía sau trại 1. Giờ này có thể đã 1 giờ sáng. Gần hai năm qua, có lẽ đây là lần đầu tiên Vĩnh được "lang thang" dưới trời khuya bên ngoài trại. Cơn đau như đã hoàn toàn lắng xuống. Vĩnh cảm thấy một tí thoải mái trong nhịp đong đưa của chiếc võng. Những cơn gió khuya khiến anh thấy gai gai lạnh. Người nằm và người khênh không ai nói với ai một lời. Vĩnh ngó lên bầu trời đầy sao, rồi ngó vời chung quanh. Bên trái đường là những cánh đồng khoai mì bát ngát. Mì đã cao quá đầu người. Bóng tối phủ trùm tạo cho cánh đồng khoai mì một sự hấp dẫn lạ thường. Thốt nhiên Vĩnh nghĩ bụng, tại sao Hóa Hỷ Kim không lợi dụng lúc này, quăng mình xuống đây và lủi vào vườn khoai mì kia nhỉ. Thằng quân y không có súng, và nếu như nó có hộc tốc chạy về cổng trại báo cáo thì ba người cũng đã có thể cao bay xa chạy. Cánh đồng mì bao la bát ngát thế kia dưới trời khuya làm sao mà truy tìm ra dấu tích của những kẻ vượt ngục? Nghĩ đoạn Vĩnh lại thấy hoảng. Nếu ba thằng bạn anh cũng có ý nghĩ ấy và biến nó thành sự thật, số phận anh sẽ ra sao? Và nếu chúng ngỏ lời với anh để tìm cách vượt ngục ngay lúc này anh sẽ tính sao? Vĩnh suy nghĩ thật lung và sau cùng anh tự trả lời cho câu đề nghị tự đặt ra ấy: Đi. Đi ngay đi. Để mặc kệ tao!

Vĩnh hơi ngước mắt lên. Anh nhìn thấy khuôn mặt Hỷ đen thui dưới bóng đêm. Khuôn mặt như một biểu tượng của nhẫn nhịn và gian khổ. Anh lại nhìn về phía trước. Anh chỉ thấy cái lưng to và hơi gù của Hóa, cái đầu hơi nhọn với mái tóc cắt cao. Những nét ấy cũng chỉ biểu lộ một cái gì chịu đựng và mai phục... Kim thì lếch thếch đi bên cạnh võng. Trông nó thật hiền lành. Riêng thằng quân y đi trước khá xa, bóng đêm khiến Vĩnh chỉ nhìn thấy nó như một bóng mờ thấp thoáng.

Đoàn người đã đi tới chỗ quẹo nơi góc trái của trại 1. Trên một vọng gác nơi góc trại ấy, Vĩnh nghe thấy một tiếng hô lớn: Ai? Đứng lại! Có tiếng báo cáo gì đó của thằng quân y dẫn đường. Đoàn người lại tiếp tục vượt qua vọng gác, tiến vào con đường bên cánh trái phía ngoài rào trại 1. Vĩnh nhìn vào phía trong trại. Cũng từng đó nóc nhà, cũng từng đó vuông sân quen thuộc nhưng trong đêm khuya tất cả đã trở thành lạ lẫm. Lòng Vĩnh bỗng dâng lên biết bao bùi ngùi. Bên trong hàng rào này, bóng đêm không chỉ phủ trùm trên cảnh vật và thân xác con người, mà bóng đêm cũng đang làm mờ nhạt đi không biết bao nhiêu mầm hy vọng nơi những người lính trẻ bị phản bội và bị bỏ rơi. Rồi đây, năm năm, mười năm, hai mươi năm, những người lính trẻ sa cơ thất thế ấy sẽ già đi và sẽ chết. Họ sẽ chết ở đâu, chết như thế nào, chết trong tuyệt vọng nhục nhã hay sẽ may mắn chết như những anh hùng đã được phục hồi danh dự?

Đoàn người đã vượt qua ranh giới của trại 2, rồi 3 và 4. Bây giờ đã tới khúc quẹo nơi góc trại 4. Quẹo phải sẽ đi về khu bệnh xá. Quẹo trái sẽ ra cổng chính của trại An Dưỡng. Vĩnh nhận thấy ngay khu đất bên ngoài góc trại 4 đã được dựng lên nhiều căn nhà sườn gỗ. Theo anh biết đó là khu thăm nuôi trong tương lai. Cơn đau lại có mòi dấy lên trong lưng Vĩnh. Anh cố nín thở thật nhiều. Chưa bao giờ Vĩnh sợ thở như lúc này, vì mỗi hơi thở đem không khí vào trong lồng ngực, anh có cảm giác phổi sẽ nở ra và ép sâu xuống hai quả thận bên dưới.

Dãy hàng rào trước bệnh xá đã hiện ra. Vĩnh nhìn thấy một tháp canh cao ngất nơi con lộ phía cuối khu bệnh xá, nơi ấy dẫn ra phía Bắc của trại và nếu quẹo trái người ta sẽ gặp những lớp hàng rào ngoại biên của phi trường Biên Hòa.

Đoàn người ngừng lại nơi cổng bệnh xá. Tên quân y đợi lúc mọi người vừa đến gần, hắn lặng lẽ bước lại phía võng và cố gắng nhìn vào Vĩnh trong bóng tối. Hắn hỏi.

- Hết đau rồi à?

Vĩnh thành thật.

- Thấy êm êm nhiều rồi anh.

Tên quân y bỗng nghiêm giọng.

- Này, tôi dặn kỹ. Khi nào tới ban nhận bệnh, đau hay không đau cũng phải la hét cho tợn vào. Bằng không bị đuổi về trại ráng chịu.

Vĩnh ngậm cười khi nghe câu dặn dò khá "chí tình" của thằng quân y. Anh nhủ lòng: Xã hội này cần gian trá cả những khi khai bệnh với bác sỹ! Nghĩ rồi Vĩnh ậm ừ với tên quân y cho xong chuyện.

Ít phút sau đó, Vĩnh đã nằm lại một mình trong phòng nhận bệnh. Phòng nhận bệnh không có giường, chỉ có một băng ghế dài. Anh em đặt Vĩnh nằm trên đó, an ủi vài câu rồi vội vã bước ra khỏi phòng theo sự thúc hối của tên y sỹ nhận bệnh. Ngọn đèn điện treo lơ lửng ngay trên cái xà ngang gần sát đầu Vĩnh lại bắt đầu vỡ ra, rơi xuống mắt Vĩnh hàng trăm nghìn tia điện sáng lóa lúc cơn đau bắt đầu trở lại.

CHƯƠNG BA MƯƠI LĂM

Phải mười giờ sáng hôm sau Vĩnh mới thức dậy. Anh nhìn quanh căn phòng mình nằm. Có chừng sáu bảy người nữa. Tất cả đều được nằm trên hai hàng giường gỗ trong phòng. Vĩnh nằm yên lặng nghe động tĩnh chung quanh. Im vắng quá, Vĩnh có cảm giác mình được đặt nằm trong một khu câm điếc! Vĩnh ngó sang người nằm gần anh nhất. Bệnh nhân là một ông già đầu trọc lóc. Ông ta nằm co quắp với tấm chăn bao cát bẩn thỉu phủ ngang hông. Vĩnh nhìn kỹ mặt ông ta. Anh giật mình. Ông ta chết rồi chăng? Rõ ràng khuôn mặt của ông đã sạm lại và sần sùi như một tờ giấy bản. Đôi mắt vàng như nghệ mở thao láo như không đang nhìn vào bất cứ một cái gì. Miệng ông hơi hé mở, để lộ đôi ba cái răng lởm chởm vàng cạch. Khuôn mặt ông gợi cho Vĩnh nhớ lại tấm ảnh chụp nhà văn Vũ Trọng Phụng lúc chết vì bệnh lao trong cảnh cơ hàn mà có lần anh nhìn thấy trên bìa một tờ báo văn học nghệ thuật nào đó trước đây... Vĩnh thấy ớn lạnh hơn lúc phát hiện hàng chục con ruồi đang bu đen một bên mép nhớt rãi của ông ta.

- Ư... ư...

Thì ra ông già chưa chết. Ông ta vừa xoay mình rên lên một tiếng thật khẽ. Vĩnh thấy mừng mừng. Anh ngó sang mấy giường kế nữa. Cũng chỉ toàn những xác người nằm bất động. Tất cả đều đồng dạng ở điểm bơ phờ, xanh xao và câm nín.

Một cơn gió buổi sáng thổi lồng qua kẽ hở đầu giường. Vĩnh ngước mắt nhìn qua những kẽ hở trên vách đó. Một vuông sân đất đỏ với vài ba luống rau muống nằm sát chân hàng rào. Những luống rau cũng rải đầy phân và ruồi bu đen như bất cứ luống rau nào trong trại cải tạo. Chả nhẽ ở đây chúng nó cũng bắt những thằng tù bệnh gần chết phải canh tác nữa sao? Những cơn gió kế tiếp vẫn đều đều thổi mùi phân, mùi nước tiểu và mùi đất ngai ngái vào phòng. Thật là mỉa mai cho Hồ Chí Minh, khi lão luôn luôn há miệng ca ngợi xã hội xã hội chủ nghĩa của lão: Đất nước ta lúc nào cũng đẹp như công viên, sạch như bệnh viện! Nhưng trên thực tế, xã hội miền Nam Việt Nam ngày nay đã trở lại cái hình dạng của một xã hội Ấn Độ phức tạp và lạc hậu trong nếp sống. Sự phức tạp và lạc hậu mà chính Gandhi đã phải than thở: Dạy cho dân nước tôi biết chùi cầu tiêu sạch sẽ còn khó hơn ngồi làm một bộ luật! Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai xã hội Ấn Độ thời Gandhi và Việt Nam thời nay ở chỗ, Gandhi thì cất tiếng than thở về trình độ thấp kém của người dân, còn Việt Nam ngày nay chính người dân phải than thở về trình độ ăn ở lạc hậu của giai cấp thống trị. Quả ta có thể dùng câu than thở trên bằng cách nói ngược như sau: Dạy cho cán bộ cộng sản ở nước tôi biết tổ chức ăn ở cho đúng phép vệ sinh còn khó hơn ngồi viết một bộ luật công bằng và tự do trong cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thốt nhiên Vĩnh thấy khát nước. Mồm mép anh khô đắng. Có lẽ ảnh hưởng mũi thuốc đêm qua. Vĩnh nằm nhớ lại... rồi thấy sờ sợ và đưa tay rờ rẫm trên lưng. Đêm qua, trong cơn đau đớn, tay y sỹ của bệnh xá đã ra tay "trừng trị" vào quả thận bên trái của Vĩnh một mũi thuốc. Không biết thuốc gì, anh chỉ biết cái lúc anh sắp ngất đi lần thứ hai thì tên y sỹ xuất hiện bên cạnh một người nữa có tên là Tính, và qua cách xưng hô, Vĩnh đoán người tên Tính cũng là một anh chàng cải tạo. Hai người chỉ hỏi anh vắn tắt vài câu: Đau chỗ nào? Lâu chưa? Tại sao biết là sạn thận? Đái ra máu mấy lần? Hiện giờ đau nhất chỗ nào?... Sau khi được Vĩnh trả lời, hai người bàn tán một lúc rồi ra lệnh cho Vĩnh cởi bỏ hết quần áo. Không cặp mạch, không đo máu, nói chung mọi thủ tục nhiêu khê của bọn tư sản phản động đều được thủ tiêu nơi đây. Vĩnh hơi khó chịu.

- Tôi đau lưng, đâu có đau gì khác mà phải cởi cả quần?

Anh chàng tên Tính có vẻ không vui trước lối khiếu nại của Vĩnh.

- Bác sỹ đã bảo cởi thì cứ cởi đi. Anh nhiều chuyện quá.

Vĩnh nghĩ bụng. Mẹ bố mày! Muốn xem củ của bố thì bố cho chúng mày xem. Nghĩ thế Vĩnh cởi béng cái quần đùi đang mặc. Anh nằm tô hô và thản nhiên nhìn hai con thằn lằn đang mặn nồng ân ái trên cái đà ngang.

Tên y sỹ Việt cộng đang bận rút thuốc vào ống chích không để ý, riêng anh chàng Tính thấy vậy phát phì cười. Anh ta nói.

- Tính khoe của đấy à?

Thấy hắn có vẻ đã vui vui trở lại, Vĩnh cũng đáp lễ.

- Lẫm liệt thế này mà không khoe cũng hoài.

- Trước đây anh ở cùng tổ với tay Toàn hả?

- Toàn nào?

Cái đau bất chợt lại nhói lên làm Vĩnh im bặt. Anh cố nín thở thật lâu. Tính vẫn nói.

- Phạm An Toàn ấy mà!

-.....!

- Tôi đề nghị bác sỹ chích thẳng vào thận anh một mũi trấn thống.

Vĩnh thở một cái phào vì không thể nhịn hơi lâu hơn được nữa. Anh cố gắng thều thào.

- Trời đất ơi! Đâm kim vào thận tôi hả?

- Anh đừng lo. Tôi không phải bác sỹ nhưng là cựu trung úy trợ y. Tôi biết cách calmer cấp thời cái vụ sạn thận này...

- Có di hại gì không ông?

- Di hại cái gì?

- Liệu sau này còn ịn được không?

Trung úy trợ y Tính không nhịn được cười. Trước khi quay đi, hắn nói.

- Toàn nó được biên chế lên làm việc ở đây. Nó có nói về anh. Nó bảo anh là vua đùa giỡn...

Một lúc sau đó Vĩnh phải cố gắng xoay người nằm sấp xuống. Tên y sỹ Việt cộng và trợ y Tính đo đạc gì đó trên lưng Vĩnh một lúc, sau cùng anh thấy đau nhói trên lưng. Một mũi kim dài cỡ mười phân đang từ từ được ấn sâu vào thân anh. Dù đau vô cùng, Vĩnh vẫn có thể cảm thấy được mũi kim đang xuyên vào những tầng lớp da thịt. Thốt nhiên Vĩnh có cảm giác như nghe thấy âm thanh của một lưỡi lê đâm vào một bao cát đầy. Anh hét lên một tiếng.

- Trời ơi đau quá!

Giọng tên quân y Việt cộng nói như rỉ tai với trợ y Tính.

- Chắc vào thận rồi.

Giọng Tính.

- Chắc vậy. Phải nhích mũi kim sang trái một tí bác sỹ ạ.

Mũi kim lại được nhổ lên rồi lại đâm xuống. Vĩnh đau muốn chết ngất. Khi mũi kim đã đâm lút cán, Tính hỏi khẽ.

- Bây giờ có thấy đau như khi nãy không?

Vĩnh gắng gượng trả lời.

- Không.

Tiếng của tên y sỹ.

- Tốt rồi. Bơm thuốc đi.

Vĩnh cảm thấy một trạng thái nhột nhạt trong người. Rồi thì mũi kim được nhổ ra, nhưng chỉ sau một tích tắc, Vĩnh thấy như có một ngọn lửa dội vào người anh. Thoạt đầu từ hai chân, ngọn lửa dần dần dâng lên tới ngực. Trước khi ngất đi, anh chỉ còn nhớ mình đã nghẹt thở, cố giơ tay lên đấm mạnh vào ngực và còn nghe văng vẳng tiếng nói không còn phân biệt được là của ai.

- Caféin! Một mũi caféin!...

Vĩnh ngồi lên ngó quanh. Anh không biết nói với ai để xin một miếng nước uống. Bỗng nhiên Vĩnh mừng hú vì nhìn thấy một người nằm nơi cái giường kê trong góc phòng. Rõ ràng nó là Cường, trung úy không quân ở cùng khối với anh ở Trảng Lớn. Cường đi lao động bị một cọc sắt đâm nhẹ vào đùi. Nó được khênh lên bệnh xá trung đoàn ở Trảng Lớn từ tháng 11 năm ngoái. Không ngờ Vĩnh lại gặp Cường nơi đây. Vĩnh bước xuống khỏi giường. Anh lạng quạng tiến về phía Cường. Lưng còn đau ê ẩm, Vĩnh phải khom người xuống mà đi. Lúc tiến đến gần giường Cường, Vĩnh thấy nó đang ngủ. Cái màn vẫn mắc nhưng chỉ mắc một nửa để che phủ nửa phần dưới thân thể. Vĩnh bước tới ngồi xuống cái giường trống bên cạnh. Anh đạp nhằm một cái thau nhôm nhỏ để ngay dưới gầm giường. Cường bỗng choàng dậy.

Vĩnh chưa kịp nói gì thì Cường đã nhận ngay ra anh, vừa mỉm cười vừa nói.

- Mày đấy à? Từ sáng tao đã biết mày vào nằm phòng này nhưng lúc ấy mày ngủ như chết, giờ điểm danh mày cũng chẳng biết gì.

- Nằm đây cũng có điểm danh nữa hả?

- Có chứ. Sáng tối hai lần thôi. Sạn thận ở Trảng Lớn tái phát?

- Ừ. Kinh khủng quá!

- Tao biết. Xưa bố tao cũng bị. Tụi Đại Hàn nó mổ một lần lấy trong thận ra mấy viên, viên nào viên đó to như đốt ngón tay cái. Lần ấy không mổ chắc chắn ông cụ tao tiêu.

- Mày nằm đây lâu chưa? Mày ở trại nào? Tao cứ tưởng mày còn trên bệnh xá Trảng Lớn.

- Đâu có. Tao biên chế về đây cùng lượt với tụi mày. Chúng đem thẳng từ bệnh xá Trảng Lớn về bệnh xá này. Nghe nói tao thuộc nhân số trại 1 nhưng tao chưa biết trại 1 nằm đâu cả. Mày trại mấy?

- Trại 1. Vết thương mày ra sao?

Chẳng một chút muộn phiền dù chỉ trong giọng nói, Cường bình thản vừa kéo tấm đắp ra khỏi chân cho Vĩnh nhìn thấy nguyên chân trái của nó, vừa nói.

- Coi như tao vĩnh biệt trời mây mãi mãi. Mai sau nếu có, tao cũng chẳng bao giờ lái máy bay được nữa. Chân thế này đạp pédal sao được!

Vĩnh không tránh khỏi cảm giác hãi hùng khi nhìn thấy cẳng chân của bạn. Chỉ vì một tí trầy trụa nho nhỏ, đời sống lao tù Cộng sản đã khiến cho một thanh niên mạnh khỏe như Cường thành một phế nhân. Cẳng chân nó bây giờ như đã ung thối hoàn toàn. Ung thối từ bàn chân lên đến gần háng. Thịt đã bở bục và lốm đốm máu mủ. Mùi hôi hám dù không nồng nực lắm nhưng cũng khiến khứu giác của Vĩnh khó chịu.

- Trời ơi! Chúng nó không chữa cho mày à?

- Xuân thu nhị kỳ nó mới chích cho tao một hũ bi. Thấm tháp gì!

- Nhưng mày có thấy đau không?

- Tao chỉ còn thấy đau phía gần háng đây thôi. Phía dưới không còn cảm giác gì nữa.

- Sao lốm đốm chỗ thâm chỗ không thâm vậy?

- Chỗ không thâm là mủ. Chỗ thâm là thuốc tím. Thằng Tính mỗi ngày chỉ nặn bớt mủ ra và dùng thuốc tím pha rượu cồn bôi hết chân tao để tránh bị dòi đục thôi.

Lòng Vĩnh chùng xuống vì thương xót bạn. Ôi thôi, thế là xong một cuộc đời! Anh nhìn thật nhanh qua nét mặt Cường. Anh vẫn không tìm ra một nét muộn phiền nào. Sao thế nhỉ? Sao nó lại có thể bình thản trước cái tai biến kinh khủng của đời nó đến thế nhỉ? Hay là Cường đã đạt tới cái mức thân ngoại vật? Tới cái mức vô vi?

Vĩnh nhớ lại những sỹ quan không quân hào hoa cấp úy mà anh đã gặp trong trại tù. Trương Thành Trai thì nhẫn nhục, hiền hòa. Trần Trọng Minh thì bốc đồng, khoái đập lộn. Bùi Vịnh thì chậm rãi, lè phè. Lê Văn Quy thì chỉ có ăn và lúc nào cũng bàn đến những chuyện "trong bách khoa tự điển họ bảo thời trung cổ giai cấp quý tộc đẻ ra nhiều trò giao hợp kỳ lạ để mua vui, tỷ như giao hợp với ngỗng. Tại sao trong này không giao hợp với gà?"... Trong những người ấy chỉ có Cường làm cho Vĩnh ngưỡng phục với cái tính an nhiên tự tại của nó. Quả thực sướng khổ tại tâm, các cụ nói đúng quá. Và rồi nghĩ lại mình, Vĩnh tự hiểu đời anh từ đây sẽ chẳng thể sướng được lúc nào. Sướng làm sao được khi lửa thù trong tâm lúc nào cũng hừng hực...

Cường đã kéo tấm đắp lên phủ lấy chân. Vĩnh vội can.

- Mày đắp suốt ngày như thế hầm chịu sao nổi.

Cường cười.

- Còn hơn để cho bầy ruồi kia nó kamikaze vào ỉa bậy ỉa bạ sinh dòi ra!

Vĩnh nhìn quanh một vòng.

- Mấy người kia bị gì vậy?

- Cũng toàn bọn sắp chết. Tao cũng chẳng muốn nói chuyện. Suốt ngày tao nằm luyện thiền thôi. Hiện tại tao đang suy gẫm cái công án Đại Lãng. Tuyệt vô cùng Vĩnh ạ.

- Tính trở thành một võ sỹ vô địch à? Đánh với ai đây?

- Đánh với nỗi buồn của chính mình!

Nói đoạn Cường vói tay lên cái kệ đóng ở đầu giường. Nó lôi xuống một cái ca nhôm móp méo. Quên, nó nói. Quên không mời mày tí cà phê...

Vĩnh hơi bàng hoàng khi nghe thấy chữ cà phê.

- Cà phê hay nước gạo rang cháy?

- Cà phê chứ. Mày nhấp thử coi.

Vĩnh cầm lấy cái ca nhấp một chút. Đúng cà phê. Dù cà phê đã nguội nhưng hương thơm của nó vẫn ngọt ngào trong miệng.

- Ở đâu ra vậy?

- Ở bệnh xá đỡ lắm. Tụi nó lâu lâu cho bệnh nhân mua đồ. Cứ góp tiền và lập một danh sách kê khai những món muốn mua trao cho thằng Tính, nó sẽ trình hậu cần bệnh xá và chúng nó mua về cho mình. Tuy nhiên cũng chỉ giới hạn trong vài món. Thuốc lào, thuốc lá, cà phê, kẹo bánh. Lâu lâu có thể mua thêm tí thịt heo. Hồi đó tụi tao còn mua được cả giấy Kiss-me nữa.

- Ở đây đời sống văn minh nhỉ.

Cường cười.

- Nhưng bây giờ chúng đã biết và không cho mua giấy vệ sinh nữa.

- Sao vậy?

Cường lại thò tay xuống kéo lệch cái chăn đắp sang một bên cho cái chân đỡ hầm. Nó kể.

- Hồi mới về đây chúng thông báo cho bệnh nhân góp tiền mua đồ. Mày thấy chân tao thế này mà đi cầu lại phải đem theo lon nước để rửa thì phiền ghê lắm. Tao nảy ra ý xin mua giấy Kiss-me. Tụi bệnh khác bắt chước thằng nào cũng xin mua hàng chục cuộn... Hôm ấy ngoài các món khác, bọn quân y còn phải gánh về cho bệnh nhân hơn trăm cuộn mua từ Biên Hòa.

Thằng y sỹ chính của bệnh xá đứng xem hậu cần phát lại các món đồ cho tù bệnh, hắn lắc đầu ngao ngán: Gớm, các anh nằm bệnh mà sao hút thuốc gì nhiều thế. Anh nào cũng xin mua hàng chục cuốn giấy quyến thế kia hút mấy đời mới hết? Tụi tao cố nín cười vì biết thằng bác sỹ Cách mạng nó lầm giấy chùi đít ra giấy quyến vấn thuốc. Mấy hôm sau, chúng nó phát hiện ngoài cầu tiêu toàn những thứ giấy chúng nó mua cho tù mà chúng tưởng lầm là chỉ để vấn thuốc rê. Thằng bác sỹ đùng đùng nổi giận. Nó kêu văn Tính nhà ta ra cật vấn. Trợ y Tính cứ tình thật khai rằng giấy ấy không phải là giấy quyến vấn thuốc, mà chỉ là loại giấy trước đây miền Nam sản xuất cho "công tác vệ sinh cá nhân". Tên bác sỹ há hốc mồm giận tái mặt. Hắn xuống bệnh xá tập họp bọn tù bệnh lại, lên lớp một trận. Hắn nói: Cách mạng quan tâm đến sức khỏe của các anh, cho các anh góp tiền để mua những nhu yếu phẩm về bồi dưỡng. Các anh lợi dụng lòng tốt của Cách mạng, đã bắt các chiến sỹ phải lặn lội tìm mua và gánh gồng về cho các anh cả những loại giấy chùi đít của bọn tư sản trước đây... Các anh quá lắm rồi. Từ đây, tôi chấm dứt mọi công tác tạo điều kiện bồi dưỡng đặc biệt cho các anh.

- Và chúng mày không được mua đồ nữa?

- Nói thì nói vậy, hàng tháng bọn hậu cần vẫn hiên ngang cho thiết lập danh sách mua đồ bồi dưỡng. Làm mật ai chả mút tay. Chúng có làm công không bao giờ... Duy giấy vệ sinh thì từ đó không còn được mua nữa.

Vĩnh vẫn thấy khát nước dù anh đã uống hết miếng cà phê Cường cho.

- Ở đây cơm nước ra sao?

- Thoải mái nhiều. Không ăn độn. Được ăn cơm và đôi khi ăn không hết. Khai mệt không ăn cơm thì được phát cháo với hai thìa đường mỗi ngày. Buồn buồn muốn có tí đường nấu chè cứ khai ăn cháo năm ngày là đã có trong tay nửa bát đường cát trắng ngà.

- Đỡ nhỉ.

- Ừ, đỡ lắm. Nhất là vụ cơm. Mày thấy đấy, đưa lên đây toàn thứ sắp tịch, mấy người mà ăn uống được! Tao chỉ bị cái chân này thôi, nhưng bao tử còn tốt lắm, thành thử những phần cơm không ai lãnh tao lãnh hết. Ăn mệt nghỉ.

- Đồ ăn ở đây có khá hơn không?

- Dĩ nhiên. Hầu như ngày nào cũng có tí chất tanh. Tuy nhiên toàn loại cá Ngừ ươn thối, hoặc cá Đuối tanh muốn lợm mửa.

- Dọng tối đa muối vào hết tanh hết thối chứ gì.

- Dĩ nhiên phải vậy. Bếp núc ở đây hiện tại do thằng Toàn lo. Thằng ấy cũng dân Trảng Lớn. Mày biết nó không?

Vĩnh tính kể chuyện thằng Toàn ăn cắp cho Cường nghe, nhưng nghĩ sao lại thôi. Tuy thế, anh vẫn nghĩ bụng, thằng Toàn mà lọt vào công tác hậu cần có khác nào chuột sa hũ gạo.

Vĩnh nhìn quanh quất. Anh muốn trò chuyện thêm với Cường nhưng không còn gì để nói. Cường có vẻ mệt. Vĩnh đứng lên.

- Tao về chỗ nằm chút.

Cường không phản đối.

- Ừ, về chỗ đi. Cũng sắp tới giờ phát cơm rồi đấy.

Vĩnh đứng lên. Thay vì bước về chỗ nằm, anh bước ra ngoài phía cửa. Đứng nơi cửa sau của dãy nhà, Vĩnh vẫn có thể nhìn thấy bên cánh trái là khu nhà bếp của bệnh xá. Xa khỏi khu nhà bếp là mấy dãy nhà nữa. Nơi ấy cũng có ít người yếu đuối xanh xao đi ra đi vào. Đối diện với dãy trại bệnh là những dãy nhà lụp xụp dơ bẩn hơn, được ngăn cách bởi một hàng rào đơn. Theo vị trí mà đoán, Vĩnh có thể biết được nó là trại 4. Hiện tại đang là giờ lao động, trại 4 chỉ còn thưa thớt ít người ở nhà. Họ lầm lũi làm những công việc tạp dịch trong trại, hoặc nấu cơm, hoặc ngồi may những bao cát, gỡ các mắt dây thép gai... Vĩnh cố nhìn xem có ai quen không. Tuyệt nhiên không một người nào trong những bóng hình lam lũ và câm lặng ấy Vĩnh thấy quen mặt cả. Mà dù có quen đi nữa, chưa chắc gì người ta đã dễ dàng nhận ra nhau sau một thời gian khá dài theo học cái "Đại Học Tổng Hợp", nói theo ngôn ngữ đểu cáng của bọn cai tù nơi đây.

Một cái đập vào vai khá mạnh khiến Vĩnh giật mình. Anh quay lại. Phạm An Toàn, tên thiếu úy trợ y người Mỹ Tho có giọng nói nửa đực nửa cái, chuyên gia ăn cắp của trại cải tạo, đứng nhìn Vĩnh cười cười. Nó lên tiếng.

- Gặp bồ đây mừng quá.

-.....!

- Tui biên chế về đây làm hậu cần. Có thể sau đợt thăm tới đây tui được Cách mạng thả. Bồ cần gì cứ nói nhé. Tui giúp hết mình.

- Cám ơn bạn. Tôi chưa thấy mình cần gì cả.

- Ừa. Khi nào thấy cần thì nói. Mua gì cũng được. Đường, sữa, thuốc lá, thuốc lào, thịt heo, mắm ruốc, ớt, muối, tiêu... Bồ cần cứ nói.

Vĩnh cố gắng đè nén xuống cái bực một khi phải bồ bồ bạn bạn với một thằng mà anh vốn khinh bỉ. Vĩnh cố gắng lên tiếng lần nữa.

- Cám ơn bạn. Khi nào cần tôi sẽ nhờ. Nhưng mà có lẽ tôi cũng không mua gì đâu.

Hình như tới giờ chia cơm, Toàn phải quầy quả trở lại khu bếp. Trước khi đi nó nói thêm.

- Sạn thận trên này lền khên. Qua cơn đau là bị xuất viện liền. Chắc bồ không được nằm lâu đâu. Ho lao thổ huyết là số 1. Nhưng tôi sẽ nói văn Tính cho bồ nằm đây kha khá...

Nói đoạn Toàn bỏ đi một nước. Vĩnh không buồn chú ý tới lời hứa hẹn của thằng ăn cắp. Anh thủng thẳng quay về chỗ nằm.

Ít phút sau phía nhà bếp vang lên một tiếng kẻng. Giờ cơm đã bắt đầu. Đồng lúc ấy, những con đường từ đủ các hướng đông tây nam bắc, tù lao động lần lượt xuất hiện trong những đội hình quay trở về trại của họ. Vĩnh lục cái túi đầu giường, lấy ra một cái lon gò bằng tôn, một đôi đũa, một lon guigoz. Đó là những vật dụng dùng đựng thức ăn hàng ngày của Vĩnh. Vĩnh bước theo anh em xuống xếp hàng dưới bếp.

Bữa cơm đầu ở bệnh xá có cơm không độn, có cá kho và rau muống luộc sạch sẽ gấp trăm lần ở trại, thế nhưng Vĩnh ăn không thấy ngon. Một phần miệng anh còn đắng do hậu quả những mũi thuốc chích đêm qua, một phần quang cảnh những người nằm chung quanh. Họ đều là những người có nội bệnh hoặc những bệnh ngoài da đã tới thời kỳ lở loét trầm trọng...

Vĩnh vừa ăn vừa đuổi ruồi. Và khi một con ruồi mà anh tin rằng nó vừa đậu trên cái mồm nhớt rãi của ông già "bất tri thiên hạ sự" nằm bên cạnh, đậu vào bát cơm của Vĩnh, anh bỗng dưng thấy mình no lên đến cổ và không cách gì nuốt nổi nữa!

Phạm An Toàn lại xuất hiện bên Vĩnh. Hắn đứng nhìn anh ăn với vẻ ngao ngán, lên tiếng hỏi.

- Chắc bồ còn mệt không muốn ăn cơm hả? Nếu cần chiều nay tui cho bồ khẩu phần ăn với đường. Chịu hông?

Vĩnh không muốn trò chuyện nhiều, gật đại một cái cho xong.

Trợ y Tính từ ngoài bước vào nói nhỏ với Toàn vài câu rồi xoay sang Vĩnh.

- Đỡ chưa cha?

Vĩnh chỉ nhún vai. Văn Tính tiếp. Bác sỹ bảo tôi hỏi anh thấy trong người thế nào? Sáng nay khám bệnh anh ngủ như chết. Sáng mai đừng ngủ như vậy nửa nghe, ông nội. Điểm danh đàng hoàng không mấy ổng cho xuất viện đa!

Vính nhíu mày.

- Chứ bộ ông tưởng tôi muốn nằm đây lắm à?

Tính chưa kịp trả lời vội quay sang ông già đang nằm bên cạnh giường Vĩnh. Ông ta lại bắt đầu lên cơn đau và rên la với cái giọng khàn khàn trong cổ.

- Trứng! Cho tôi xin một quả trứng. Tôi thèm trứng lắm. Cho tôi xin một quả trứng Cách mạng ôi...

Hình như Tính và Toàn đã nghe quá nhiều lần câu nói ấy, họ lắc đầu và rủ nhau bỏ đi. Ông già vẫn tiếp tục kêu la một cách vô thức. Vĩnh nhìn kỹ ông ta hơn. Rõ ràng ông ta đang chết từ từ. Vĩnh quay sang gạ chuyện với một người khác nằm bên tay phải anh. Anh chàng này trông có vẻ không quá bệnh hoạn như nhiều người khác, bằng chứng anh ta đang ăn khẩu phần cơm của mình một cách rất thành khẩn và kính cẩn.

- Anh bệnh gì vậy?

Anh bạn ngừng nhai và ngó Vĩnh dò xét. Một thoáng anh ta trả lời.

- Sạn thận.

- Ủa, vậy mình đồng bệnh. Anh nằm lâu chưa?

- Trước anh một ngày. Anh ta nhai tiếp miếng cơm rồi ngồm ngoàm nói. Nhưng chiều nay tôi xuất viện rồi. Anh lẩm bẩm chửi thề. ĐM. tụi nó! Tôi đau gần chết. Nó khênh lên đây lụi đại vào thận tôi một mũi thuốc quái quỷ gì đó rồi đã vội đuổi tôi về trại đi lao động.

Vĩnh không chú tâm lắm đến lời kêu ca của anh ta. Anh chỉ muốn hỏi về ông già nằm bên cạnh.

- Ông già đau bệnh gì vậy?

- Nghe nói đau gan, nằm đây cả nửa năm rồi.

- Nghe ông ấy đòi ăn trứng.

- Ừ, cái điệp khúc ấy tôi nghe hai ngày nay rồi. Nhưng những người nằm ở đây lâu thì cho biết họ đã nghe cái điệp khúc ấy cả nửa năm nay.

- Sao không cho ông ấy quả trứng?

- Ai biết! Nhưng trứng đâu mà cho?

- Ban chỉ huy trại bệnh không có nổi quả trứng sao?

Người bạn có vẻ hơi bực mình.

- A, cái đó thì tôi không biết ạ. Muốn rõ hơn anh cứ hỏi tụi nó.

Vĩnh thấy anh bạn không có vẻ thân thiện lắm nên cũng không hỏi gì thêm. Vĩnh ngậm ngùi ngồi yên nghe ông già thều thào van xin một quả trứng. Và khi ông mệt quá không rên được nữa, Vĩnh mới đứng lên mang ca cóng của mình ra sau nhà tìm nước rửa.

Ngồi ngoài bờ giếng rửa bát, Vĩnh bỗng thấy bên trại 4 nháo nhào như người ta gặp cảnh cháy nhà. Một lúc sau Vĩnh biết được rằng ở các trại, một cuộc biên chế mới đã và đang xảy ra. Dù đau, Vĩnh vẫn nôn nóng trước chuyện biên chế. Thăm nuôi đã đến nơi, đùng đùng bị đưa đi các trại khác quả là chuyện đại bất hạnh lúc này.

Đêm hôm đó Vĩnh còn được biết thêm một chuyện khác nữa. Ngoài việc chuyển trại lòng vòng giữa 4 trại với nhau (có nghĩa là chưa ai bị đem đi xa lúc này), Vĩnh còn được biết sẽ có một số người được thả...

1      2      3      4      5      6      7      8      9       10      11      12      13      14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét