ẤN BẢN THỨ BA - NĂM
1993
Tập
Hồi ký chính trị Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác
giả Hoành Linh Đỗ Mậu được Nhà Xuất bản Hương Quê ấn hành lần đầu tiên vào mùa
thu năm 1986 tại miền Nam California, Hoa Kỳ.
Từ đó đến nay, tác phẩm này đã được tái bản một lần (1987) và in lại tám lần.
Như vậy, bản mà quý bạn đọc cầm trên tay hôm nay (1993) của Nhà Xuất bản Văn
Nghệ là lần biên tập thứ ba và là lần in lại thứ chín (Third
Edition, Ninth Printing).
Đó là không kể hai ấn
bản mà tác giả hoàn toàn không biết đến quá trình hình thành của chúng. Bản thứ
nhất in tại Úc Châu vào khoảng năm 1990 với một hình bìa khác hẳn. Và bản thứ
nhì in tại Việt Nam, không những khác bìa, nội dung bị biến cải, mà ngay cả tên
sách cũng bị thay đổi. Đó là cuốn Tâm Sự Tướng Lưu Vong do Nhà
Xuất Bản Công An Nhân Dân ấn hành 3.200 ấn bản vào năm 1991 (Số xuất bản
117/KII90 CAND). Sau khi đối chiếu với nguyên bản, tác giả cho chúng tôi biết
rằng ấn bản này đã bị bỏ bớt gần một phần tư nội dung, thay đổi một số danh
xưng và bớt nhiều đoạn; nhưng nói chung, phần Sử luận và các luận điểm chính
trị của ông, về căn bản, vẫn được giữ lại gần nguyên vẹn.
Loạn tướng ĐỖ MẬU |
Lẽ dĩ nhiên, tác giả
đã không biết gì hết về sự ra đời của ấn bản này, lại càng không liên lạc được
vì hoàn cảnh lịch sử và chính trị oái oăm của đất nước, để phản đối việc làm
vừa vi phạm tác quyền vừa vi phạm sự trung thực toàn vẹn của một sản phẩm trí
tuệ.
Bảy năm đã trôi qua kể
từ khi ấn bản đầu tiên ra đời.
Đã có rất nhiều, quá
nhiều là khác, thảo luận và bút chiến về tác phẩm, và nhiều khi, về từng chủ
điểm mà tác phẩm này nêu lên. Cho đến thời điểm này, vẫn còn xuất hiện trên báo
chí hải ngoại những bài viết đề cập đến tác phẩm hoặc tác giả. Đặc biệt đã có
13 cuốn sách của những người viết đứng từ những vị trí khác nhau, nhìn từ những
góc độ khác nhau, và mang những tâm chất khác nhau, nhưng tất cả đều trực tiếp
hay gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay tác giả.
Trong lúc có hai người
viết nêu đích danh tác giả trên bìa sách để “trực thoại” (Linh mục Vũ Đình Hoạt
và Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức) thì cũng có những cuốn đào sâu các luận đề mà
tác giả viết chưa đủ rốt ráo (Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam của ông Hồ Sĩ Khuê và Gia Tô Thực Dân Sử Liệu của
ông Chu Văn Trình). Trong lúc có người viết lúc chống lúc thuận với tác giả
(ông Nguyễn Trân) thì cũng có người cung cấp thêm những dữ kiện và luận cứ mới
làm mạnh thêm những luận điểm của tác phẩm (ông Nguyễn Long Thành Nam, Tướng
Nguyễn Chánh Thi, Tướng Trần Văn Đôn, Đại tá Trần Văn Kha, ông Lê Trọng Văn).
Lại có thêm ấn bản Việt ngữ (Sự Lừa Dối Hào Nhoáng) của tác phẩm
The Bright Shining Light của Neil Sheehan (1991) và ấn bản Pháp ngữ Les
Missionnaires et La Politique Coloniale Francaise au Vietnam của ông
Cao Huy Thuần lần đầu tiên được Đại học Yale xuất bản tại Hoa Kỳ (1990)… Tất cả
chỉ làm cho tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi trở thành
một hiện tượng độc đáo trong lịch sử các tác phẩm nghiên cứu của Việt Nam. Và
hơn thế nữa, chỉ làm cho chúng ta thấy rằng tác phẩm đã đề cập đúng những vấn
đề căn bản, có thực, và có tác động sâu sắc đến nhiều người Việt Nam, đến chính
tình Việt Nam không những chỉ trong quá khứ mà còn cả trong tương lai nữa.
Trong lần tái bản này,
phương pháp luận căn bản của tập Hồi ký là thông qua các biến cố lịch
sử (mà tác giả đã sống và/hoặc nghiên cứu) để giải thích những lực nào đã tác
động lên sự vận hành của lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ vừa qua,
vẫn không thay đổi. Nói rõ hơn, bản chất cuộc chiến và các lực lượng tham chiến
trên quê hương ta suốt mấy chục năm trời vẫn có tính phi dân tộc. Và nguyên lý
chỉ đạo làm nền tảng sử luận cho tác giả là đã phi dân tộc thì thế
nào cũng phản dân tộc vẫn chảy xuyên suốt tác phẩm.
Tuy nhiên, trong lần
tái bản thứ ba này có một số thay đổi sau đây:
Về hình thức,
số lỗi chính tả và ấn loát (nhất là các dấu hỏi ngã) được giảm thiểu tối đa.
Một số rất ít tên người, tên địa phương và ngày tháng cũng đã được cập nhật
lại. Đặc biệt, so với lần trước, ấn bản này tuy có dài thêm khoảng 15 phần trăm
(nâng tổng số lên hơn 750 ngàn chữ) nhưng số trang, theo lời yêu cầu của tác
giả, lại được rút ngắn còn 80 phần trăm (1089 trang) nhờ cách dòng (interline
spacing) nhỏ hơn và cỡ chữ (text size) nhỏ lại, hầu tiết giảm giá thành đến mức
thấp nhất.
Việc sử dụng hai nhu
liệu tin học VNI và Ventura để trình bày sách
đã giúp cho ấn bản này đồng dạng hơn, sáng sủa hơn, do đó dễ đọc hơn các ấn bản
trước.
Về nội dung,
một số luận cứ và chứng liệu lịch sử mới đã được thêm vào, đặc biệt về quá
trình du nhập Công giáo vào Việt Nam, về những bí ẩn mới trong cuộc Cách mạng
1-11-63, về cuộc vận động cho Dân chủ của Phật giáo tại miền Trung năm 1966, về
vai trò của Vatican trong những ngày cuối cùng của miền Nam vào năm 1975... để
nhân đó, tác giả trả lời một số xuyên tạc và ngộ nhận về tác phẩm. Cũng thêm
vào trong ấn bản này là một Phụ Lục mới gồm 10 tài liệu đọc thêm của những nhân
chứng lịch sử và một số hình ảnh của các khuôn mặt quan trọng đã hiện diện
trong tác phẩm.
Nhân dịp này, tác giả
có nhờ chúng tôi chuyển lời cảm ơn đặc biệt đến cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, cụ
Hương Thuỷ Hoàng Trọng Thược, cụ Phùng Duy Miễn, nhà Sử học Vũ Ngự Chiêu, Trung
tướng Vĩnh Lộc, bác sĩ Võ Tư Nhượng và Giáo sư Phạm Phú Xuân đã tận tình góp ý
sửa lời để ấn bản này được toàn vẹn hơn.
Nhà Xuất Bản Văn Nghệ,
khi quyết định xuất bản và phát hành tác phẩm này, chỉ muốn xác nhận lại chủ trương
của mình: cung cấp cho độc giả trong và ngoài nước những tác phẩm giá trị,
những công tình trí tuệ có phẩm chất cao hầu đóng góp vào gia tài Văn hoá của
dân tộc.
Ngoài ra, riêng với
tác phẩm Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, sự kiện có những
tranh luận sôi nổi xung quanh tác phẩm, và trước nhu cầu tìm đọc nguyên bản của
nhiều độc giả đã từng đọc “ấn bản trong nước”, chúng tôi tự thấy có bổn phận
phải nỗ lực hoàn thành việc xuất bản và phát hành tác phẩm này, với ước mong
cống hiến cho những đồng bào còn quan tâm đến vận mệnh quê hương một cách nhìn
mới về những vấn nạn mà tổ quốc ta đã đối trị và có thể sẽ còn phải đối diện
trong tương lai.
Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1993
Nhà Xuất Bản VĂN NGHỆ
LỜI
MỞ ĐẦU
Đó là một thời kỳ đầy đau thương của đất
nước. Đó là khi người Pháp nhân danh nền văn minh Thiên Chúa giáo để “khai
hóa”, xâm lăng và đô hộ đất nước Việt Nam cho đến ngày nay, khi người
Cộng Sản nhân danh cách mạng vô sản chuyên chính để “giải phóng”, khống
chế và bạo quản dân tộc Việt Nam.
Tôi đã sống một giai đoạn của thời kỳ đó
không những như một nhân chứng mà còn may mắn được tham dự tích cực vào một số
biến chuyển và hoạt động sát cánh với một số nhân vật lịch sử. Trên con đường
ba mươi năm sống và hoạt động đó, tôi chỉ có một tâm nguyện: ấm no và
an vui cho đồng bào.
Nhưng tâm nguyện đó không thành tựu vì trên
quê hương tôi đau thương vẫn còn đó, nghèo khổ vẫn còn đó. Các bậc đàn anh của
tôi, đồng chí và bằng hữu của tôi cũng đã không thực hiện được hoài bão của đời
họ. Tất cả, từ những người có lòng nhất đến những người tài ba đảm lược nhất
đều đã thất bại, dù trong cuộc hành trình hùng tráng và bi thiết này, không
biết bao nhiêu người đã hy sinh gục ngã.
Quyết định viết hồi ký được khơi nguồn từ ý
muốn đi tìm những nguyên nhân lớn nhất, thực nhất của cái thảm
trạng mà ngày nay cả dân tộc ta phải nhận chịu, dù những nguyên nhân đó có làm
đảo lộn những nề nếp suy nghiệm cũ và làm lung lay những đánh giá lịch sử đã
được một số người hài lòng công nhận. Những nguyên nhân này được cố gắng trang
trải như một bài học lịch sử để từ đó và do đó, hy vọng những lớp người đang đi
tới sẽ tránh được những vết xe đổ đã nghiền nát bao nhiêu trang sử hiện đại dân
tộc.
Cuốn sách này được chia làm ba phần tổng
quát. Phần thứ nhất nói về thời kỳ thơ ấu và thanh niên. Phần thứ hai, về giai
đoạn mấu chốt nhất của lịch sử cận đại: chín năm của nền Cộng Hoà đầu tiên của
đất nước. Và phần chót, về hậu quả bi thảm của một chế độ phi dân tộc.
Vì là hồi ký chính trị của một cá nhân nên
các sự kiện có thể thiếu sót do tính chất phức tạp của các biến cố, nhưng chắc
chắn là xác thực. Các suy nghiệm cũng vậy, đôi khi chủ quan nhưng luôn luôn
nghiêm chỉnh vì chúng bắt nguồn từ và kết tụ về một quy luật đặc thù của lịch
sử Việt:
HỄ ĐÃ PHI DÂN TỘC
THÌ THẾ NÀO CŨNG PHẢN DÂN TỘC
Điều này đã được chứng nghiệm rõ ràng khi
suy giải trách nhiệm của những người nắm chức vụ lãnh đạo Việt Nam trong 30 năm
qua. Người thì đến giờ hấp hối còn ước mong được gặp Các Mác, Lê-nin bên kia
thế giới, người thì muốn nối dài biên giới Hoa Kỳ từ Alaska đến sông Bến Hải,
người thì đào nhiệm bỏ ngũ khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ “chống Cộng”…
Tất cả đã không có căn bản dân tộc nên đã
làm khổ đau dân tộc.
Vì vậy, nếu cuốn sách nhỏ này, với văn
phong bộc trực và võ biền của một người lính già, với tâm tình thô thiển nhưng
chân thành của một người dân xa nước, mà khắc đậm thêm được quy luật lịch sử đó
trong lòng người đọc, thì tác giả thấy ước vọng của mình có thể trở thành hy
vọng về một tương lai tươi sáng cho đất nước.
Cuối cùng tác giả muốn bày tỏ lòng tri ân
đến các bậc đàn anh, các thân hữu đã khuyến khích, bổ khuyết, giúp ý kiến và
tài liệu giá trị rất khó tìm ở hải ngoại, cũng như đã yểm trợ phương tiện ấn
loát và tài chánh để cuốn sách này được hình thành.
Trong phần Phụ Lục ở cuối sách, tác giả mạn
phép trích dẫn ý kiến của 100 nhân vật, tổ chức Việt Nam đã đăng trên các sách
báo và một số thư từ các bằng hữu đã viết riêng. Việc này theo thường tình là
thất lễ bởi đã không xin phép trước, nhưng tin quý vị sẽ sẵn sàng tha thứ
bởi vì tác giả trộm nghĩ rằng các suy nghiệm can đảm và chân thành của quý vị
không những chỉ có giá trị cho riêng cá nhân tác giả mà còn cho rất nhiều người
khác. Bây giờ cũng như mai sau.
Hải
ngoại, Trọng Đông năm Ất Sửu (1985)
Hoành
Linh Đỗ Mậu
Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội)
|
|
Trong những năm đầu tiên của đệ nhị thế chiến, có hai biến
động xảy ra ngoài nước Việt nam nhưng lại đặc biệt liên hệ chặt chẽ đến vận
mệnh nước ta vào lúc đó. Liên hệ chặt chẽ vì hai biến động này xảy ra trong
hai quốc gia và cho hai dân tộc đã từng xâm chiếm và đặt nền đô hộ trên lãnh
thổ Việt nam: Biến cố thứ nhất xảy ra vào ngày 19 tháng 6 năm 1940 khi gót
giày sắt của quân đội Đức quốc xã giẫm nát vỉa hè thủ đô Paris tiến vào chiếm
điện Elysées và bắt đầu khống chế nước Pháp bằng một chế độ quân quản sắt đá,
chấm dứt uy thế và quyền lực của chính phủ Pháp không những trên lãnh thổ
Pháp quốc mà còn làm suy yếu thực lực và tinh thần của các bộ máy chính trị
quân sự tại các nước thuộc địa.
Biến cố thứ hai xảy ra tại Trung Hoa vào đầu năm 1940 khi Nhật
Bản, khởi đầu bằng cuộc đổ bộ ở Lư Câu Kiều vào năm 1937, điều động đoàn quân
tinh nhuệ với những vũ khí hiện đại đánh tan các lộ quân của Thống chế Tưởng
Giới Thạch tràn xuống miền Nam Hoa, chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây và
chuẩn bị kế hoạch tấn chiếm Đông Dương để hoàn thành các mắt xích chiến lược
của kế sách địa lý chính trị “Đại Đông Á”.
Kết quả hỗ tương và nhịp nhàng của hai biến cố đó đã chấn động
tình hình chính trị tại Việt nam và đẩy bộ Chỉ huy quân sự của Nhật Bản đến
quyết định đặt yêu sách đòi chính quyền của Pháp tại Đông Dương phải chấm dứt
giao thương với Trung Hoa và giành quyền thiết lập một lực lượng kiểm soát
việc thực thi quyết định này tại cảng Hải Phòng. Lúc bấy giờ Decoux mới thay
Catroux trong nhiệm vụ toàn quyền Đông Dương và được chính phủ Pháp, trong
cơn ngặt nghèo lúng túng của chính nội tình mẫu quốc, uỷ nhiệm toàn quyền chỉ
huy quân sự, chính trị để giữ vững bán đảo Đông Dương.
Ban đầu Decoux nhất định chống đối quyết định đó của Nhật Bản
nên ngày 22.9.1940, ngày quân Nhật từ Quảng Đông phối hợp hoả lực mạnh mẽ của
Lục quân và đoàn quân cơ giới thần tốc xua quân đánh tan một số căn cứ quan
trọng tại biên giới và tấn chiếm Lạng Sơn (Vốn là bộ Chỉ huy trung ương của
Pháp, phụ trách tuyến phòng ngự Việt Bắc) và bắt Pháp phải nhượng bộ. Quân
Nhật không những đã ngang nhiên đóng quân tại nhiều địa điểm chiến thuật ở
sâu trong vùng đồng bằng mà còn sử dụng đường hoả xa, các hải cảng, các phi
trường và mua với giá rẻ cao su gạo, nhiên liệu cùng nhiều sản phẩm địa phương
cần thiết để cung ứng cho nhu cầu quân nhu và vận tải của quân đội viễn chinh
Nhật (mà đường tiếp liệu xa chính quốc gần mười ngàn cây số càng lúc càng khó
khăn).
Ngược lại, Nhật Bản tôn trọng tư cách và quyền hành cai trị
của Pháp tại Đông Dương cũng như tư cách và quyền hành của vua Bảo Đại tại
Trung Kỳ.
Trong biến cố này, vì những hứa hẹn chính trị và yểm trợ vũ
khí của Nhật Bản, một lực lượng Phục quốc quân do Trần Trung Lập chỉ huy đã
giúp quân đội Nhật Bản tấn công căn cứ Lạng Sơn và chiếm đóng thành phố này.
Đau đớn thay sau khi đã được Pháp nhượng bộ, Nhật phản bội lực lượng Việt nam
này và trao lại toàn bộ đơn vị Phục Quốc quân cho người Pháp như một điều
kiện trong thoả hiệp Nhật Pháp. Chí sĩ Trần Trung Lập hy sinh và hầu hết Phục
quốc quân Việt nam kẻ bị tử hình, người bị tù chung thân, chỉ một số ít liều
mình vượt thoát được qua Trung Hoa.
Song song với việc thiết lập những cơ sở quân sự và nắm chặt
tình hình an ninh tại Đông Dương. Nhật Bản vẫn khôn ngoan duy trì hệ thống
hành chính và hư danh của bộ máy Bảo hộ Pháp để có thì giờ chuẩn bị cho cuộc
đấu tranh chính trị ở tầng lớp quần chúng qua cơ quan phản gián Kempeitai,
qua tờ báo Tân Á xuất bản bằng tiếng Việt nhằm tuyên truyền chống Pháp, đề
cao chủ nghĩa “Đông Á của người Á Đông”, hô hào một nước Việt nam "độc
lập trong khối thịnh vượng Đại Đông Á”. Họ tổ chức các lớp học Nhật ngữ nhằm
chuẩn bị một lực lượng cán bộ hành chính bản xứ, họ tuyển mộ một số thanh
niên Việt nam vào đội Hiến binh và thông ngôn của họ và đặc biệt họ ngấm ngầm
tuyên truyền cho sự trở về tất yếu của Kỳ ngoại hầu Cường Để, lúc bấy giờ
đang lưu vong trên đất Nhật.
Khi ông Diệm từ quan vào năm 1933, trong gia đình ông cũng đã
có nhiều tranh luận sôi nổi, người theo, kẻ chống quyết định này. Dư luận
trong giới quan trường tại Huế có xôn xao một dạo rồi biến cố đó cũng chìm
dần vào quên lãng; người thì khen ông Diệm cứng rắn chống nhà nước Bảo hộ mà
từ quan, người thì cho rằng ông Diệm chống nhau với Thượng thư Phạm Quỳnh bị
thua nên uất ức mà từ chức. Riêng ngoài quần chúng, ngay cả tại
Huế, không mấy ai để ý đến chuyện lên voi xuống chó trong chốn Triều Trung vì
họ cho rằng Nam triều chỉ đóng vai bù nhìn của Pháp, việc lên hay xuống, ở
hay đi của các vị quan lại chẳng qua chỉ là việc tranh giành địa vị, đua chen
lợi danh chứ không ảnh hưởng gì đến chính sách của Pháp, lại càng không ảnh
hưởng đến đời sống quần chúng hay vận mệnh quốc gia. Thật vậy, kể từ ngày
Kinh đô thất thủ (1885) làm cho vua Hàm Nghi bôn đào, rồi vua Thành Thái bị
truất biếm, và nhất là kể từ khi vua trẻ tuổi Duy Tân mưu đồ cách mạng bi
thất bại rồi cả ba vị vua Việt nam bị Pháp bắt đi lưu đày, thì người dân Huế
đâm ra bi quan. Họ nhìn về tương lai mịt mù với tất cả chán chường và thất
vọng. Họ nhìn rêu phủ trên thành quách, lau mọc bên bờ sông, trăng tàn trên
nội điện mà cảm thương cho vận nước lao lung.
Hầu như tất cả người dân xứ Huế đều thuộc lòng 5 câu thơ mà
sau này trở thành câu hò rất phổ biến trong nhân gian:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bến sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non
Họ mượn câu hò để ghi lại một biến cố đau buồn của lịch sử và
đồng thời cũng để ký thác nỗi niềm tâm sự của mình. Nỗi niềm thương tiếc một
nhà vua yêu nước mà bị gian truân, một bậc trung thần can trường mà bị đầu
rơi máu chảy, tâm sự của một người dân nhìn đất nước suy vong mà chỉ biết đưa
câu mái đẩy để chạnh lòng nước non!
Họ càng trở nên chai lỳ hơn với những đổi thay của thời cuộc
kể từ khi vua Khải Định hành xử một tên Việt gian vô trách nhiệm, chỉ biết
cúi đầu vâng dạ người Pháp đề có cơ hội tiêu xài phung phí công quỹ. Từ đó về
sau, người dân Huế xem những buổi tế lễ ở đàn Nam Giao, những buổi thiết
triều trong Đại nội với áo mão xênh xang, tiền hô hậu ủng cũng giống như những
xuất hát bội trên sân khấu của rạp hát bà Tuần. Họ sống với hiện tại nhưng
lòng thì chỉ hoài niệm về quá khứ, một quá khứ mà quê hương còn vắng vóng
ngoại nhân đô hộ, còn có vua quan là minh quân lương tướng. Vì vậy, việc ông
Diệm từ quan hay ông Quỳnh thắng thế không làm xúc động hay gây được sôi nổi
trong đời sống vón rất trầm mặc của họ.
***
Mùa xuân năm 1942, khi mà những cơn sóng ngầm đấu tranh bắt
đầu chuyển động trong những sinh hoạt chính trị của người Việt thì tôi được
thuyên chuyển về Huế làm huấn luyện viên cho các lớp hạ sĩ quan. Đối với tôi,
về Huế là về kinh đô của quốc gia, là về với cung đài diễm lệ của trung tâm
đất nước. Vì thuở thiếu thời chỉ biết luỹ tre làng và đồng ruộng khô, thời
niên thiếu thì bận học hành, lớn lên gia nhập quân đội chỉ biết kỷ luật thép
và hàng rào sắt, nên khi được đổi về Huế, tôi đã lợi dụng dịp này để ngao du
khắp các ngõ ngách của kinh thành.
Phong cách đất Thần Kinh vừa u trầm cổ kính, vừa thơ mộng hữu
tình rất phù hợp với tâm hồn vốn bảo thủ và nặng lòng hoài cổ của tôi. Những
ngày nghỉ lễ, tôi thường lang thang đi bộ viếng thăm những danh lam thắng
cảnh của kinh đô như hồ Tịnh Tâm, chùa Thiên Mụ, đàn Nam Giao, cửa Ngọ Môn,
thôn Vĩ Dạ, vườn Ngự Viên, cầu Bạch Hổ, núi Ngự Bình, chùa Diệu Đế, làng Kim
Long, trường Quốc Tử Giám... Ở đâu vào lúc nào, tôi cũng tìm được những rung
cảm tuyệt vời. Từ tiếng chuông thu không của những buổi chiều băng lãng đến
tiếng hò não nùng trong sương mù của buổi sáng sông Hương, từ cô gái giặt áo
ở mặt nước ven sông đến tà áo tím Đồng Khánh của mùa thu tan trường về, từ
hàng cau thôn Vĩ đến tiếng thông reo đỉnh Ngự, tất cả đều có sức thu hút lạ
lùng và đều để lại trong tâm tưởng tôi những hình ảnh không quên. Lần băng
cầu Lò Rèn để đi Phú Cam thăm ngôi giáo đường nguy nga ở đó, tôi đi ngang qua
nhà ông Diệm và thầm cảm phục vị Thượng thư đầu triều, tuy còn trẻ tuổi mà
không màng danh lợi, dám cởi áo từ quan trong giai đoạn mà nhiều người bán
hết gia tài để mua chút phẩm hàm, hoặc dâng vợ cho giặc để kiếm thức Tri
huyện.
Đời sống của tôi tại Trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan càng ngày
càng trở nên căng thẳng và bực bội. Những va chạm với các quân nhân Pháp
trong lúc điều hành công tác giảng huấn, những hành vi hống hách kỳ thị của
họ đối với quân nhân Việt nam, những áp bức và bất công trong đời sống trong
và ngoài doanh trại, và nhất là thái độ khúm núm sợ hãi đến độ tội nghiệp của
một số đồng ngũ người Việt nam... như biến thành giọt nước cuối cùng làm tràn
ly nước của thời thơ ấu thôn quê của tôi, mà giết chóc, đốt phá, hãm hiếp, tù
đày do người Pháp và tay sai của họ gây ra chồng chất bấy lâu nay.
Thế rồi vào một đêm mưa phùn cuối năm 1942, khoảng 11 giờ
khuya, ông Tráng Liệt đến gặp tôi và rủ đi gặp ông Ngô Đình Diệm. Chúng tôi
đi dọc theo tả ngạn sông Hương hướng về phía Phú Cam và dừng lại trước ngôi
nhà cổ kính, từ đường của gia tộc Ngô Đình.
Được người vào báo, ông Diệm ra tận bậc cấp trước cửa nhà để
đón chúng tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông Diệm. Ông trông rất trẻ so với
tước vị và những huyền thoại về ông. Dù đã khuya, ông vẫn mặc áo lương, khăn
đóng, giày hạ, ra mời chúng tôi vào phòng khách chính, nơi có bộ bàn ghế mây
xưa mà chú Phẩm, người đày tớ trung thành của ông, đã dọn ra ba chén nước chè
xanh để mời khách.
Dưới ngọn đèn mờ, trong một phòng khách cổ kính, trước một
nhân vật đã từng là Thượng thư đầu triều, đã từng cởi áo từ quan, và bây giờ
đang thay mặt Kỳ ngoại hầu Cường Để cầm đầu một tổ chức chống Pháp, tôi có
cảm tưởng như mình lạc vào một thế giới khác, xa lạ hẳn với thực tế sôi động
của tình hình đất nước. Sau khi mời chúng tôi dùng nước chè xanh, ông Diệm
bắt đầu hỏi về gia thế và sinh hoạt của tôi, cũng như hỏi về đời sống và tinh
thần của quân nhân Việt nam trong mối tương quan với quân nhân Pháp.
Có lẽ nhờ đã được ông Tráng Liệt giới thiệu trước về hoàn cảnh
và ước vọng của tôi cũng như có lẽ nhờ có người anh vợ của tôi vốn đã là
thành viên trong tổ chức nên sau phần mở đầu đó của câu chuyện, ông Diệm tỏ
ra tin tưởng và thân tình với tôi hơn. Vì vậy, ông bắt đầu kể chuyện đời ông
như để trang trải tâm sự hơn là để khoe khoang nhằm thuyết phục: ông nói
nhiều về giai đoạn ông làm tri huyện rồi tri phủ mà công tác chính là cùng
với trưởng đồn người Pháp đi thanh sát ở làng quê, hoặc khám phá và lùng bắt
những tổ Cộng sản thời 1929-30 khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh bị đàn áp.
Ông cũng trình bày chuyện ông từ bỏ quan trường vì người Pháp đã không thực
tâm khai hoá nhân dân Việt nam. Cuối cùng, ông đi vào trọng tâm của buổi nói
chuyện là khơi dậy lòng yêu nước, nung nấu chí căm thù thực dân Pháp và tay
sai như Bảo Đại và ba ông Thượng thư đồng triều mà ông thù ghét là ông Phạm
Quỳnh, Thái Văn Toán, và Hồ Đắc Khải. Ông cũng đề cập đến cuộc đời và con
đường hoạt động của Kỳ ngoại hầu Cường Để và của cụ Phan Bội Châu để kết thúc
câu chuyện đã quá dài.
Suốt buổi gặp gỡ, ông Tráng Liệt và tôi nghe nhiều hơn nói.
Riêng tôi, tuy có ý chờ ông trình bày về tổ chức ông phụ trách nhưng vì ông
không đề cập đến nên tôi cũng chưa tiện hỏi. Đêm đã quá khuya, ông Tráng Liệt
bèn xin phép ra về. Ông Diệm tiễn chúng tôi đến tận cửa hẹn gặp lại tuần sau
và dặn kỹ không nên vào bằng cửa chính để tránh sự theo dõi của mật thám Pháp
mà nên đi bằng cửa bí mật ở vườn sau gần đường xe lửa, lối vào chỉ có một số
đồng chí được ông cho biết mà thôi.
Trên đường về, trong cái rét buốt của xứ Huế buổi trọng Đông,
tôi cảm thấy xúc động lạ thường vì buổi gặp gỡ đó. Buổi gặp gỡ mà tôi cho là
một xác tín cá nhân về tư cách của một đảng viên trong một phong trào cách
mạng, có một vị lãnh tụ thuộc gia đình vọng tộc đã dám từ quan để đấu tranh
cho quê hương dân tộc. Trong cái tâm trạng mang mang của một người từ nay có
tổ chức để nương tựa, có một lãnh tụ để được hướng dẫn, có một lý tưởng để
đấu tranh, tôi vẽ ra cho mình những ước mơ sáng tươi trong cái tươi sáng
chung của tương lai dân tộc.
Từ đây, hầu như mỗi tuần lễ tôi đều đến ngôi nhà ở Phú Cam,
vốn được xem như trụ sở trung ương tổ chức, để sinh hoạt và thảo luận cùng
ông Diệm và các đồng chí của ông. Trong số này có hai người cốt cán là ông
Hoàng Xuân Minh làm Tham tá ở toà Khâm sứ Huế và ông Nguyễn Tấn Quê làm thư
ký cho sở mật thám Trung kỳ. Hai người này đặc biệt được ông Diệm trọng vọng
và tin tưởng, nhất là ông Nguyễn Tấn Quê, tuy chỉ mới đỗ Trung học nhưng là
người được ông Diệm xem như mưu sĩ chính.
Sau gần nửa năm hoạt động với ông Diệm và các đồng chí tôi đi
đến nhận xét rằng sinh hoạt và phương thức tổ chức của nhóm về mặt nội dung
lẫn cơ cấu có vẻ là một phong trào chính trị hơn là một đảng cách mạng chặt
chẽ. Nhóm không có một hệ thống tổ chức với các cơ cấu và chức năng rõ ràng,
không có chủ thuyết chỉ đạo cũng như không có một sách lược đấu tranh với các
kế hoạch giai đoạn nhất định. Tại các tỉnh, và đặc biệt tại Huế, bất cứ ai
đồng ý chung chung với chủ trương thân Nhật và kính phục ông Diệm thì đều có
thể gia nhập phong trào của ông.
Nói tóm lại, ngay từ lúc đó, tôi đã đánh giá được bản chất của
tổ chức là một bản chất chính trị vận dụng chứ không phải cách mạng đấu tranh
như các đảng khác. Tổ chức đó được kết tinh sau lưng uy tín của một lãnh tụ
và hoạt động theo sự biến chuyển của tình thế.
Dù nhận định như vậy, tôi vẫn quyết định hợp tác với ông Diệm
vì lý do tình cảm nhiều hơn là vì một chọn lựa chính trị có ý thức. Công tác
của tôi được ông Diệm giao phó là tổ chức một lực lượng quân nhân khố xanh
trong khắp cơ binh thuộc xứ Trung kỳ, bao gồm từ Thanh Hoá vào đến Phan Thiết
và các tỉnh Cao Nguyên. Vê quân nhân khố đỏ thì do Thiếu uý Phan Tử Lăng đang
phục vụ trong Mang Cá ở Huế phối hợp với ông đội khố đỏ Nguyễn Vinh (mà sau
này, khi ông Diệm mới chấp chánh, là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn danh dự, tiền
thân của Liên binh phòng vệ Tổng thống phủ) phụ trách việc liên lạc và thông
tin các cơ sở quân sự đóng tại Huế và Phú Bài.
Đặc biệt ông Diệm giao cho tôi thảo một kế hoạch hoạt động chi
tiết để phối hợp với quân đội Nhật Bản khi nào Nhật làm cuộc đảo chính tấn
công quân Pháp, và một dự án dài hạn khác về việc tái tổ chức quân đội Bảo An
cho quốc gia sau khi Hoàng thân Cường Để lấy lại chính quyền trong tay người
Pháp. Hai dự án này, nhờ sự hội ý của hai ông Hoàng Xuân Minh và Nguyễn Tấn
Quê, và nhất là nhờ được sử dụng những tài liệu quốc phòng của Pháp tại Trung
tâm huấn luyện, đã được tôi hoàn tất đúng kỳ hạn và trình cho ông Diệm nghiên
cứu. Độ hai tuần sau ông cho biết là đã đọc kỹ và đồng ý hoàn toàn.
Nhờ uy tín và vị thế huấn luyện viên của các khoá hạ sĩ quan,
tôi thiết lập được liên lạc và tổ chức một hệ thống các tổ gồm từ 5 đến 7
người trong suốt 20 cơ binh của miền Trung. Những học trò, những bạn bè của
tôi được tổ chức vào phong trào Cường Để do ông Diệm lãnh đạo, nhiều người
được các ông Võ Như Nguyện, Trần Văn Hương hay Phùng Ngọc Trung hiện ở hải
ngoại biết rõ.
Ngoài ra, lợi dụng 15 ngày nghỉ phép thường niên của tôi, ông
Diệm còn giao cho tôi công tác đi khắp các tỉnh Trung kỳ để liên lạc với các
đồng chí có uy tín và thực lực khác. Tôi đã từng đi Thanh Hoá liên lạc với cụ
Nguyễn Trác (là thân phụ của kỹ sư Nguyễn Luân và cũng là nhạc phụ của luật
sư Nghiêm Xuân Hồng một nhân sĩ có tinh thần cách mạng đã từ chức tri huyện
để hoạt động) đi Hà Tĩnh liên lạc với ông Trần Văn Lý đang làm Tuần vũ tại
đây, đến Qui Nhơn gặp bác sĩ Lê Khắc Quyến, đến Phan Thiết gặp ông Trần Tiêu,
một người đồng hương đang giữ chức Kinh lịch v.v...
Nhờ những chuyến đi này và kinh qua những lần tiếp xúc với các
vị đàn anh, tôi được học hỏi nhiều thêm về ý thức chính trị và khả năng phân
tích tình hình. Cũng nhờ những chuyến đi này, tôi được biết không những người
trong giới quan lại ủng hộ ông Diệm, đặc biệt là cụ án sát Phan Thúc Ngô ở
Quảng Bình, mà còn có một số trí thức tân học, tuy không ở trong phong trào,
nhưng cũng có cảm tình với ông Diệm như bác sĩ Ưng Vi ở Phan Thiết hay kỹ sư
Đặng Phúc Thông ở Nha Trang.
Ngoài hai công tác chính này, riêng tại Thừa Thiên, tôi cũng
đã đẩy mạnh công tác kinh tài cho tổ chức bằng cách tuyên truyền và vận động
một số các thương gia giàu có tình nguyện đóng góp cho ông Diệm. Có người
đóng góp 4 đồng bạc Đông Dương mỗi tháng, riêng có một vị lương y (là thân
phụ của trung tá Nguyễn Mễ, hiện ở Mỹ) tình nguyện đóng góp đến 6 đồng (một
đồng bạc Đông Dương, vào thời đó, có giá trị rất lớn).
Trong suốt thời gian này, không bao giờ tôi thấy ông Diệm rời
khỏi Huế. Và ngay tại Huế cũng không bao giờ thấy ông xuất hiện hoạt động
trong giới chính trị công khai hoặc bí mật. Hàng ngày ông đi lễ nhà thờ và
buổi chiều thường mặc áo lương đen đi lang thang một mình dọc bờ sông Phú Cam
để hóng mát. Cũng trong suốt thời gian này (cho đến năm 1948), dù thường đến
nhà ông Diệm tôi cũng không thể thấy mặt ông Ngô Đình Cẩn. Tôi gặp ông Nhu
hai lần: một lần vào năm 1943 trong dịp tang lễ của cụ Thân Thần Tôn Thất Hân
(khi tôi dẫn một trung đội lính đi dàn chào lúc làm lễ động quan), và lần thứ
hai gặp cả hai vợ chồng tại phòng Văn khố và toà Khâm sứ Huế khi tôi đến thăm
ông Tráng Liệt. Ông Tráng Liệt cho biết cứ hai hay ba ngày bà Nhu lại đến văn
phòng chồng để gặp gỡ và nói chuyện. Bà Nhu đến bằng xe kéo gọng vàng do một
người đày tớ thân tín và lực lưỡng kéo. Xe kéo của bà Nhu là một trong những
chiếc xe sang nhất ở cố đô mà các cậu ấu và cô chiêu trong triều đình nhà
Nguyễn thường dùng để di chuyển trong thành phố.
Về trường hợp ông Nhu, ông Diệm thường dặn dò chúng tôi:
"Chú ấy theo Tây, ham ăn sung mặc sướng, không thiết gì đến chính trị
hay cách mạng đâu, các ông chớ nên gặp gỡ hay thân thiết với chú ấy làm
gì". Lúc đầu chúng tôi thật sự ngạc nhiên vì lời dặn dò lạ lùng ấy, tự
hỏi tại sao anh thì muốn làm cách mạng mà em thì lại hủ hoá như vậy; nhưng từ
từ chúng tôi mới hiểu rằng lời dặn dò đó là một trong những biện pháp an ninh
xuất phát từ tình cảm gia đình mà ông Diệm chỉ muốn một mình chịu trách nhiệm
và hậu quả về hoạt động thân Nhật và chống Pháp của ông chứ không muốn làm
liên luỵ cả gia đình. Hơn nữa, ông Nhu mới ở Pháp về, và cũng vừa lập gia
đình với một người vợ còn son trẻ (bà Nhu sinh năm 1924) của Hà thành hoa lệ
ông ta cần có thời gian để củng cố địa vị của một công chức Bảo hộ cao cấp và
củng cố đời sống gia đình mà người vợ vốn quá tự do tân thời, tự thấy bị tù
túng mà lại còn phải ganh đua giữa một kinh kỳ có nhiều mệnh phụ quí phái.
Cuối năm 1943, những hệ quả chính trị và kinh tế của đệ nhị
thế chiến thật sự ảnh hưởng đến sinh hoạt và đời sống hàng ngày của những
người như tôi. Giá sinh hoạt leo thang vùn vụt, đồng bạc Đông Dương bị mất
giả thảm hại, gạo từ 25 xu lên đến một đồng một ký khiến lương hàng tháng 40
đồng của một quân nhân trung cấp như tôi quả thật không đu cho tiểu gia đình
của tôi sống đủ. Vì vậy, và cũng vì không muốn vướng bận thê nhi trong sinh
hoạt đấu tranh của mình, tôi phải bùi ngùi quyết định cho vợ tôi và hai đứa
con trai nhỏ về quê sống với bên ngoại. Về quê, tuy đời sống thanh đạm thiếu
thốn hơn, tuy có phải tần tảo cực khổ một nắng hai sương nhưng ít ra vợ con
tôi còn có một mảnh vườn để trồng rau cỏ, một hồ nước có tôm cá, một rừng
tràm có củi nứa và nhất là có bà con thân thuộc để có thể đắp đổi sống qua
ngày. Buổi biệt ly, nhìn chiếc xe đò cũ kỹ chập chừng đưa vợ con về cố quận
thân thương, người cán bộ 26 tuổi đời như tôi không khỏi có một chút xao
xuyến xót xa. Được biết quyết định đó của tôi, ông Diệm hân hoan lắm và khen
tôi làm cách mạng thì phải biết hy sinh cá nhân, phải biết thoát ly gia đình
để có nhiều thì giờ và năng lực cống hiến cho đại cuộc.
Đại cuộc đó, hay nói đúng ra là những vận động chính trị của
nhóm ông Diệm trong khuôn khổ cuộc tranh chấp ảnh hưởng giữa Nhật và Pháp tại
Việt nam, vẫn tiếp tục thăng trầm theo nhịp độ thắng hay bại của phía người
Nhật. Quân đội Nhật Bản, chiến thắng oanh liệt trong những năm đầu của thế
chiến, từ cuối năm 1943 trở đi, đã trở về thế phòng ngự thụ động. Và tại các
mặt trận lớn ở ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương... quân Nhật hứng chịu những thết
bại quân sự nặng nề đến nỗi phải rút lui ra khỏi những quốc gia bị chiếm
đóng... Đầu năm 1944, chuyện phải đến đã đến, mật thám Pháp và Thượng thư
Phạm Quỳnh tổ chức vây bắt ông Diệm và nếu không nhờ Hiến binh Nhật, với khả
năng tình báo của sở gián điệp Kempeitai, kịp thời can thiệp để cứu thoát
trong đường tơ kẽ tóc thì có lẽ sinh mạng và chính tổ chức của ông Diệm cũng
không còn.
Nguyên tổ chức có một đồng chí tên là Khang làm thư ký ở sở
bưu điện Huế, đêm đó trực ở phòng điện tín đến khuya mà vẫn còn thấy viên
trưởng sở bưu điện người Pháp ở lại đích thân thảo và đánh điện tín, ông bèn
tìm cách lén đọc được một số công điện mà trong đó có công điện mang nội dung
về việc bắt ông Diệm. Ông liền báo cho một anh em có liên hệ đến bên tình báo
của Nhật biết tin này (cũng có thể có nhiều đường dây khác nữa mà tôi không
được biết).
Khoảng gần 11 giờ đêm thì ba người Hiến binh Nhật Bản đến nhà
ông Diệm ở Phú Cam và độ nửa giờ sau thì họ ra về trước cặp mắt xoi mói của
nhân viên mật thám Pháp đang canh chừng nhà ông Diệm. Mãi đến quá nửa đêm,
các nhân viên mật thám Pháp mới bố trí xông vào nhà bắt ông Diệm nhưng họ chỉ
gặp được cụ thân mẫu của ông người đầy tớ tên là Phẩm và một người Hiến binh
Nhật Bản... Thì ra ông Diệm, vốn người thấp lùn, nên đã giả trang mặc quân
phục Hiến binh trốn theo cùng với hai người Hiến binh Nhật kia đi ra từ lâu,
làm mất công viên chánh sở mật thám Đông Dương là Louis Arnoux từ Hà nội vào
đích thân điều khiển công tác vây bắt nhân vật thân Nhật Bản quan trọng nhất
tại Trung kỳ. Nhóm mật thám Pháp doạ dẫm bà cụ Thân mẫu ông Diệm, tra tấn anh
Phẩm một hồi rồi hậm hực ra về.
Hiến binh Nhật đưa ông Diệm về tạm trú tại toà Lãnh sự Nhật
của ông Ishida vài tiếng đồng hồ rồi chở ông đến thẳng trụ sở Hiến binh tại
trường Hồ Đắc Hàm cũ để được an toàn hơn và để tránh nhưng va chạm ngoại giao
có thể có với người Pháp. Cụ Thái Văn Châu (nguyên phó chủ tịch Phòng Thương
mãi Sài gòn và hiện tị nạn tại Pháp), lúc bấy giờ là một thương gia có khuynh
hướng thân Nhật và đang được đấu thầu cung cấp thực phẩm cho quân đội Nhật
biết tin nên vội vàng vào thăm và mang một ít đòn chả Huế cho ông Diệm dùng
chung với khẩu phần đạm bạc tại sở Hiến binh Nhật. Theo lời cụ thì ông Diệm
có vẻ suy tư và nỗi lo âu lộ trằn ra mặt.
Được vài ngày, người Nhật bèn hộ tống ông Diệm bằng ô tô nhà
binh vào Đà Nẵng và từ đó chở ông bằng phi cơ quân sự vào Sài gòn. Ban đầu họ
để ông tạm trú tại trụ sở trung ương của Hiến binh Nhật, sau đó họ di chuyển
ông đến văn phòng chính của Đại Nam công ty, vốn là bề mặt nguỵ trang của bộ
chỉ huy trung ương của ông Matsuisita, trùm gián điệp của Nhật tại Đông
Dương. Thời ông Diệm làm Tổng thống, ông Matsuisita trở lại miền Nam Việt nam
làm ăn buôn bán và đã giúp ông Diệm rất đắc lực trong quan hệ ngoại thương
của VNCH và Nhật Bản. Sau ngày chế độ ông Diệm bị toàn dân lật đổ, ông
Matsuisia bị Hội đồng tướng lĩnh làm khó dễ trong vấn đề tài sản và các
thương vụ của ông tại Sài gòn, nhưng vì nghĩa tình xưa giữa ông Diệm và ông
ta, tôi đã tìm cách can thiệp và giúp đỡ.
Sau ngày ông Diệm bị bắt hụt và được Nhật che chở mang đi mất
vào Sài gòn, viên chánh sở mật thám Trung kỳ Perroche, vốn cụt một tay và nổi
tiếng tàn ác, bắt đầu nghi ngờ có nhân viên chìm của ông Diệm trong sở mật
thám Huế, bèn yêu cầu với trung ương cho biệt phái ông Lombert, viên chánh sở
mật thám Vinh vốn thông thạo về tình hình đảng phái và nhân sự Việt nam, vào
Huế và thành lập một Uỷ ban đặc nhiệm phụ trách điều tra “vụ án Ngô Đình
Diệm". Ông Hoàng Đồng Tiếu, (hiện ngụ tại Portland, tiểu bang
Washington) lúc bấy giờ còn đang có cảm tình với cá nhân ông Diệm và đang làm
phán sự tại sở mật thám Huế, tuy có thông báo sự kiện này cho một số người
trong tổ chức ông Diệm biết, nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng một số
chiến hữu lần lượt bị sa lưới mật thám Pháp.
Trước hết là cụ án sát Phan Thúc Ngô bị lột chức và bắt giải
vào giam ở Huế, rồi đến ông Tuần Vũ Hà Tĩnh Trần Văn Lý suýt bị bắt nhưng nhờ
có bà vợ là bà con gần với Nam Phương Hoàng hậu nên chỉ bị hạ tầng công tác,
thuyên chuyển vào Phú Yên và vĩnh viễn không được đề nghị thăng thưởng. Ông
Võ Như Nguyên và ông Lương Duy Vỹ (sau này làm tỉnh trưởng Phú Yên và Vĩnh
Bình dưới thời ông Diệm) hai đồng chí thân thiết nhất với tôi lúc bấy giờ,
cũng bị bắt đày lên Dakto. Ngoài ra, một số các đồng chí khác tại Huế và các
tỉnh Trung kỳ, người thì vào vòng lao lý, người thì bị truy lùng.
Về phía quân nhân bên khố đỏ chỉ có mấy người Đội cao cấp bị
bắt giữ, còn bên khố xanh, từ Thanh Hoá vào đến Phan Thiết, bị mật thám Pháp
bắt giữ rất nhiều. Có người bị tra tấn đến gãy cả hai hàm răng và xương quai
hàm như anh Đội Lộc ở Phú Bài, có người bị đánh què chân như anh Đội Xứ ở
Quảng Trị. Đa số các hạ sĩ quan khố xanh bị bắt và giam tại các nhà lao Bái
Thượng ở Thanh Hoá, nhà lao Lao Bảo ở Quảng Trị hoặc tại các nhà lao khác ở
Cao Nguyên Trung phần.
Riêng phần tôi, vì là người lãnh đạo toàn bộ nhóm quân nhân
Khố xanh nên bị bắt giam và tra tấn tàn bạo ở sở mật thám Huế và tống giam ở
lao Thừa Phủ gần hai tháng trước khi bị đày lên Di Linh để biệt giam trong
một nhà lao do lính Thượng canh giữ.
Đầu năm 1945, quân đội Nhật Bản bị phản công và bị dồn vào thế
tuyệt vọng tại mặt trận Trung Hoa cũng như trên các tuyến phòng vệ Đông Nam
Á. Trong khi đó, trên chiến trường Âu Châu, sau cuộc đổ bộ ngày 6 tháng 6 năm
1944 tại bờ biển Normandie của quân lực Đồng minh, tướng Degaulle dẫn toàn bộ
chính phủ lâm thời từ Algiers trở về Pháp nắm chính quyền vào tháng 8 cùng
năm đó.
Trên mặt trận Thái Bình Dương, tướng Mac Arthur đã chiếm xong
Phillippines và đang tung quân chiếm các quần đảo phòng vệ chiến lược của xứ
Phù Tang, yểm trợ cho một kế hoạch tái chiếm Đông Dương của liên quân Anh
Pháp. Trước nguy cơ có thể bị nội công ngoại kích đó, quân đội Nhật Bản tại
Việt nam bèn đảo chính chính quyền Pháp vào đêm 9 tháng 3 năm 1945 bắt toàn
quyền Decoux và thiết lập nhiều trại tập trung để giam giữ công chức và quân
nhân Pháp tại nhiều địa điểm trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Tại Bắc Kỳ, một
số đơn vị Pháp chống lại cuộc đảo chính này đều bị đàn áp, kẻ thì bị bắt, kẻ
thì trốn qua Tàu.
Thế là sau gần 100 năm đô hộ Việt nam, tiến hành một chính
sách thực dân tàn ác để khai thác tối đa tài nguyên và nhân lực của nước ta,
tiến hành một chính sách cai trị dựa trên bạo lực và phân hoá, chỉ cần một
đêm và một đêm thôi, toàn thể bộ máy thống trị của Pháp hoàn toàn bị sụp đổ.
Huyền thoại về “nhiệm vụ khai hoá” đầy nhân đạo của các cơ quan toàn quyền và
các vị cố đạo theo lá cờ Tam tài rơi rũ xuống đất. Sau thất bại chính trị nói
trên, ông Ngô Đình Diệm buồn rầu chán nản vô cùng, nhất là khi chính phủ Trần
Trọng Kim ra đời, hầu như ông không còn nghị lực để tiếp tục cuộc đấu tranh
nữa. Mang tâm trạng của người thất thế, ông lui về sống cô đơn không tiếp xúc
với ai nữa tại nhà người em là ông Ngô Đình Luyện ở Chợ Lớn, hoặc thỉnh
thoảng xuống thăm người anh là giám mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long. Gia đình
và tình anh em luôn luôn là pháo đài kiên cố làm nơi nương dựa cho ông trong
hoạn nạn cũng như trong đắc thắng.
Trong lúc đó thì tại Huế, vì vấn đề liên lạc cách trở, thông
tin chậm chạp, người anh tưởng là ông Ngô Đình Khôi vẫn không nắm vững tình
hình để thấy rằng “lá bài Ngô Đình Diệm và giải pháp Cường Để” đã hoàn toàn
bị Nhật Bản xoá bỏ, vẫn tiếp tục hoạt động chuẩn bị cho ngày về của ông Cường
Để và nội các của ông Diệm. Số đồng chí của ông Diệm, mà một số lớn đã được
phóng thích khỏi nhà giam Pháp nhờ cuộc đảo chính của Nhật, vẫn tiếp tục sinh
hoạt tại nhà ông Khôi để đợi chờ ông Diệm.
Vê phần tôi, sau khi cùng với các nhà chính trị khác ở trại tù
Di Linh được quân đội Nhật phóng thích, tôi bèn trở về quê cũ thăm gia đình,
làng xóm độ nửa tháng rồi trở lại Huế cùng sinh hoạt với các đồng chí cũ dưới
sự điều hành của ông Ngô Đình Khôi. Tư dinh của ông Khôi toạ lạc tại tả ngạn
sông Phú Cam, là một dinh thự to lớn, huy hoàng và lộng lẫy như lâu đài của
các vị hầu tước châu Âu. Mỗi khi họp, ông Khôi thường cho trải sáu tấm phiếu
cạp điều giữa phòng khách rộng lớn để mọi người cùng ngồi tròn quanh ông
chẳng khác gì một sòng sóc đĩa lớn tại các nhà phú hộ ở thôn quê. Trong các
buổi họp, ông Khôi thường nói nhiều, nói lưu loát và luôn luôn mềm dẻo khi có
mâu thuẫn về lý luận. Tuy tính tình của ông vui vẻ và hoà đồng, nhưng ông vẫn
được tiếng là người nhiều thủ đoạn nhất trong tám anh chị em Ngô Đình.
Vào khoảng một tuần lễ sau khi nội các của cụ Trần Trọng Kim
ra đời, ông Nguyễn Tấn Quê và tôi được ông Khôi cử vào Sài gòn để gặp ông
Diệm và để tổ chức cuộc đón tiếp Kỳ ngoại hầu mà ông Khôi tưởng sẽ trở về
Việt nam. Ông Khôi còn trao cho chúng tôi một chiếc khăn đóng và một chiếc áo
gấm màu tím để ông Diệm mặc trong dịp nghênh đón nhà cách mạng đã từng bôn ba
nơi hải ngoại hơn bốn mươi năm trời. Chúng tôi đến được nhà ông Luyện ở số 2
đường Armand Rousseau tại Ngã Sáu Chợ Lớn, nơi ông Diệm đang cư trú sau một
cuộc hành trình hết sức gian lao, nguy hiểm, vì trên suốt chặng đường một
ngàn cây số đó, nhất là đoạn ở miền Trung, phi cơ Đồng Minh liên tiếp oanh
tạc ngày đêm làm gián đoạn đường sá và làm các toa xe lửa đổ ngổn ngang nhiều
nơi.
Gặp lại ông Diệm sau hơn một năm trời mà tưởng như một khoảng
thời gian xa cách lâu lắm. Những thất bại chính trị và sự tan tác của tổ chức
vì quá nhiều nhân sự cốt cán bị tù đày đã làm cho chúng tôi sung sướng bàng
hoàng trong buổi hội ngộ này. Sau khi trình bày đầy đủ chi tiết các tin tức
liên quan đến tổ chức tại miền Trung, và sau khi trả lời cho ông Diệm biết
tình hình chính trị Huế, ông Nguyễn Tấn Quê còn cho biết là dọc đường, trong
một phần phi cơ Mỹ ném bom suýt nữa cả hai chúng tôi tan xác, hành lý của
chúng tôi, trong đó có khăn đóng và tấm áo gấm của ông Khôi gởi vào, đã bị
thất lạc. Ông Diệm không tỏ vẻ trách móc gì, chỉ cười buồn chua chát mà thôi.
Cũng tại ngôi nhà này, lần đầu tiên chúng tôi gặp ông Ngô Đình
Luyện, linh mục Lê Sương Huệ, và ông Võ Văn Hải. Ông Luyện còn rất trẻ, ít
tham gia những cuộc thảo luận chính trị, còn Võ Văn Hải chỉ là một thanh niên
mới lớn, giúp ông Diệm các công việc giấy tờ vừa như một thư ký, vừa như một
tuỳ phái. Ban ngày, ông Quê và tôi về khách sạn để ông Diệm tiếp
khách hoặc nghỉ ngơi, chỉ vào buổi chiều, chúng tôi mới trở lại ngôi nhà ở
Armand Rousseau để dùng cơm tối với anh em ông Diệm và linh mục Huệ rồi tiếp
tục thảo luận. Dù biết chúng tôi trông chờ, tuyệt nhiên ông Diệm vẫn không đề
cập đến hoàn cảnh của Kỳ Ngoại Hâu Cường Để và những dự tính tương lai.
Ở Chợ Lớn vào khoảng gần một tuần lễ ông Diệm cho chúng tôi
ngày mai sẽ khởi hành đi Đà Lạt. Sáng hôm sau, khi Sài gòn bắt đầu trở mình
thức dậy với những sinh hoạt rộn rịp thì bốn người chúng tôi là ông Diệm,
linh mục Huệ, ông Quê và tôi lên đường. Lúc xe ngừng lại tại Blao để ăn trưa,
ông Diệm mới trình bày việc người Nhật đã phản bội không cho Kỳ ngoại hầu
Cường Để về nước và cắt đứt mọi liên lạc chính trị với chính ông, rồi ông tỏ
ý buồn phiền vua Bảo Đại đã mời "tên đồ nho Trần Trọng Kim” làm Thủ
tướng. Lúc bấy giờ ông Quê và tôi mới thực sự hiểu rõ tình hình và trạng
huống bi đát cua ông Diệm và của tổ chức chúng tôi. Sách lược nắm chính quyền
bằng con đường thân Nhật của ông Diệm đã đi vào bế tắc và hoàn toàn thất bại,
hệ quả chính trị của nó không những là mất đi những ưu thế phát triển mà quan
trọng hơn cả, còn là sự tê liệt của tổ chức.
Xe đến Đà Lạt vào buổi chiều, sương núi mờ mờ phủ xuống thành
phố vừa lên đèn và không khí lạnh lùng vào dịp đầu thu càng làm cho nỗi buồn
của chúng tôi thêm sâu đậm. Sau khi chạy xuyên qua trung tâm thành phố và
vượt mấy ngọn đồi, xe đến thẳng dinh Tổng đốc của ông Trần Văn Lý. Dinh Tổng
đốc vốn là toà Đốc lý cũ của Pháp, kiến trúc theo lối Tây phương, toạ lạc
trên ngọn đồi cao, nhìn khắp thành phố Đà Lạt. ồng Lý ân cần đón chúng tôi vào
phòng khách và cho người dọn trà thơm dùng cho ấm bụng. Biết rằng chúng tôi
mệt mỏi sau cuộc hành trình nên ông cho người thu xếp phòng để chúng tôi đi
ngủ sớm.
Đêm đầu trên thành phố Cao Nguyên này mà càng về khuya trăng
càng mờ, sương càng lạnh, trời đất thì bàng bạc mơ huyền như tâm sự mông lung
của những người vừa thất bại sau cuộc đấu tranh. Thành phố Đà Lạt chìm xuống
sau những rặng thông im lìm như chia sẻ nỗi thất vọng của chúng tôi. Trước
khi ngủ, ông Nguyễn Tấn Quê còn tâm sự với tôi rằng một khi Bảo Đại đã tiếp
tục cầm chính quyền để củng cố thế lực thì tổ chức khó thể thay đổi được tình
hình, huống gì ông Diệm, người lãnh đạo của tổ chức lại không phải là một
loại nhân vật "anh hùng tạo thời thế".Tôi còn nhớ mãi mấy lời phê
phán cuối cùng của ông như một tiếng than não nùng trong đêm vắng:
"Chúng ta đã vớ phải cái bè nứa mục rã trôi xuôi theo con nước lữ'. Nhận
định và tâm sự của ông Quê như vậy, chẳng trách gì 10 năm sau, ông đã bị anh
em Diệm thẳng tay hạ sát khi họ có quyền lực trong tay. Đến năm 1948, 1949
Nguyễn Tấn Quê còn nhắc lại những nhận xét trên cho nhiều bạn bè. Trong số
bạn bè đó có cả ông Võ Như Nguyện... Mấy hôm sau, linh mục Huệ lấy xe đò đi
Phan Rang để từ đó trở lại Sài gòn, ông Nguyễn Tấn Quê đáp xe lửa về Huế mang
theo một lá thư riêng của ông Diệm gửi về cho ông Ngô Đình Khôi, còn ông Diệm
và tói thì vẫn ở lại Đà Lạt.
Ông Diệm ở lại Đà Lạt cho đến đầu tháng 8 thì quyết định trở
lại Sài gòn. Buổi chia tay giữa ông và tôi thật buồn, mỗi người một tâm sự,
mà tâm sự nào cũng liên hệ đến cơn sóng gió vừa qua của tổ chức và cũng đều
phản ánh cái tương lai vô định của những ngày sắp tới.
|
Đánh máy: Nguyễn Học
|
|
Ngày 15.8.1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng sau khi hứng chịu
hai quả bom nguyên tử tiêu huỷ hoàn toàn hai thành phố Hiroshima và Nagasaki.
Ngày 23.8.1945 vua Bảo Đại thoái vị, Hồ Chí Minh thành lập chính phủ lâm thời
tại Hà nội vào ngày 19.8.1945, mời công dẫn Vĩnh Thuỵ làm cố vấn Tối cao để
ngày 2.9.1945, tuyên bố Việt nam độc lập. Quân đội Anh dưới quyền của tướng
Douglas Graeey, đổ bộ lên Sài gòn ngày 13.9.1945 để giải giới quân đội Nhật
và sau đó trao quyền lại cho quân đội Pháp. Đầu tuần lễ thứ nhì của tháng
Chín, Việt minh cướp chính quyền tại Đà Lạt bằng một cuộc biểu tình rầm rộ,
vây dinh Tổng đốc bắt ông Trần Văn Lý giải về Huế, còn tôi thì họ giữ lại tại
địa phương để điều tra bổ túc. Vừa thoát khỏi ngục Pháp được mấy tháng tôi
lại bước vào cửa ngục Việt minh.
Trong các lần thẩm vấn, tôi quyết định khai hết sự thật vì
nghĩ rằng "vàng thật sợ gì lửa đỏ”, tôi là người thật tâm yêu nước, nếu
làm việc trong hệ thống quân đội của Pháp thì chẳng qua cũng là vì thời thế
bắt buộc, nếu có ở trong hệ thống hành chính của Nhật thì chẳng qua cũng là
vì hoàn cảnh, miễn rằng tâm và chí của mình không thân Tây vọng Nhật. Duy có
việc tham gia phong trào chống Pháp thì tôi cố gắng giấu tổ chức của mình
càng nhiều càng tốt, nhất là danh tánh các đồng chí.
Lúc bấy giờ, tôi chưa biết Mặt trận Việt minh do cộng sản chỉ
đạo và điều động mà chỉ biết họ như một tổ chức cách mạng lớn, cướp chính
quyền để đánh đổ chế độ phong kiến, chống thực dân Pháp và phát xít Nhật cho
độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn dân Việt nam. Cho nên ở một mặt nào đó,
tuy bị giam cầm và tù ngục, tôi vẫn yên tâm và còn có ý trông chờ ngày được
họ phóng thích để trở về Huế. Quả nhiên, chỉ hơn một tuần lễ sau, tôi được
mời lên một văn phòng trông đàng hoàng hơn phòng lấy cung thường lệ và cho
biết vì hồ sơ cá nhân của tôi sạch sẽ, tứ thân phụ mẫu đều thuộc giai cấp nho
sĩ vô sản, và hồ sơ binh sách của tôi bị phê là có hoạt động chống Pháp nên
tôi được thả ra với lời “yêu cầu" ở Đà Lạt hợp tác với chính quyền địa
phương.
Tin tức từ Sài gòn đưa về cho biết tình hình rất sôi động vì
quân Pháp, sau khi được quân đội Anh trao lại quyền quản trị, đã cấp tốc
thiết lập các đơn vị tác chiến để tái lập trật tự tại Sài gòn và mở rộng vùng
ảnh hưởng ra toàn bộ Nam Kỳ. Chính quyền Việt minh tại Đà Lạt vội tổ chức
khẩn cấp hai tiểu đoàn Vệ Quốc Quân. Một tiểu đoàn được giao cho Nguyễn
Lương, người Quảng Ngãi, nguyên là thư ký toà Sứ Đà Lạt nhưng có lẽ đã tham
gia Việt minh từ trước, chỉ huy, và tiểu đoàn thứ hai được giao cho tôi điều
khiển. Trong tiểu đoàn thứ nhất này còn có Tôn Thất Đính làm uỷ viên chính
trị trung đội và Phạm Đăng Tải (ông Tải sau là ở Bộ Ngoại giao thời Đệ nhất
cộng hoà hiện sống ở Monterey, Hoa kỳ).
Vì quân Pháp đang âm mưu tiến về miền Trung và đánh chiếm các
tỉnh Cao Nguyên Trung phần nên Võ Nguyên Giáp, lúc bấy giờ là Bộ Trưởng Nội
vụ trong chính phủ Hồ Chí Minh vội cầm đầu một phái đoàn quân chính lên Đà
Lạt để tham quan tình hình và cho những chỉ thị cần thiết. Chúng tôi được lệnh
dàn quân chung quanh trụ sở Uỷ ban hành chính Tỉnh và gia nhập phái đoàn đón
tiếp Võ Nguyên Giáp. Khi Giáp đến, trong phái đoàn tuỳ tùng, tôi thấy có cả
thiếu uý Phan Tử Lăng (vốn là Tổng chỉ huy Bảo an Trung kỳ và là một đồng chí
trong tổ chức ông Diệm) bấy giờ là đại diện cho Uỷ ban quân sự Trung Bộ của
Việt minh tại Huế. Thấy Lăng, tôi bàng hoàng, nhưng cũng gọi tên và giơ nắm
tay lên cao để chào nhưng Lăng chỉ mỉm cười kín đáo rồi trả lời đủ để tôi
nghe: “Việc cũ bỏ hết, đừng nhắc lại nữa”.
Sự kiện Võ Nguyên Giáp phải đến thị sát Đà Lạt và vùng Tây
Nguyên đã nói lên tính cách nghiêm trọng của tình hình miền Nam và Cao Nguyên
lúc bấy giờ. Sau cuộc thị sát của Võ Nguyên Giáp, tôi được chỉ thị của Uỷ ban
hành chính Kháng Chiến Đà Lạt đem tiểu đoàn bố trí từ ngoại ô thành phố đến
Ran (Đơn Dương), có một trung đội từ ông Từ Bộ Cam từ Huế vào tăng cường (ông
Từ Bộ Cam sau này là đại tá không quân VNCH, hiện ở tiểu bang Washington).
Tiểu đoàn gồm độ 500 binh sĩ nhưng vũ khí đều là loại vũ khí cũ của Pháp và
Nhật để lại, hoả lực chính của tiểu đoàn là ba khẩu liên thanh kiểu FM 1924 -
1929. Chủ lực của tiểu đoàn gồm một số lính Khố xanh cũ có kinh nghiệm tác
chiến nhưng phần lớn còn lại toàn là thanh niên mới gia nhập, chưa được huấn
luyện gì. Tình trạng tiểu đoàn như thế mà tôi phải đương đầu với
cuộc tấn công của liên quân Anh - Pháp - Nhật, được yểm trợ bởi một chi đội
thiết giáp.
Sau khi thảo luận với chính trị viên của tiểu đoàn, tôi quyết
định tránh đụng độ trực diện với kẻ thù, chỉ tìm cách cầm chân hay giảm thiểu
sức tiến của địch để bảo toàn đơn vị và để chờ bộ chỉ huy Đà Lạt có thì giờ
triệt thoái. Áp dụng kỹ thuật hoán vị các đại đội, tôi cho 3 tổ liên thanh di
chuyển từ cao điểm này đến cao điểm khác của vùng đồi núi Đơn Dương, bám theo
đà tiến của kẻ thù mà phục kích tấn công. Dĩ nhiên hoả lực yếu kém của chúng
tôi chỉ làm cho địch chuyển quân chậm hơn và gây thiệt hại không đáng kể chứ
không thể nào cầm chân hay công phá được sức tiến công cua đoàn thiết giáp.
Sau một ngày một đêm vừa đánh vừa lùi, cuối cùng tôi ra lệnh bỏ chiến trường
Đơn Dương rút quân về Ninh Thuận. Với hơn 300 binh sĩ còn lại, tôi và bộ chỉ
huy tiểu đoàn băng rừng về miền núi phía Tây tỉnh Phan Rang và lập chiến khu
ở vùng Ba Râu.
Tại đây, theo lệnh của Uỷ ban Kháng Chiến Trung ương, tôi được
lệnh mở những cuộc đột kích quân đội Pháp để tạo tình trạng bất an trong vùng
và để cầm chân những đơn vị này không thể tăng phái về các mặt khác. Sau nửa
năm, tình trạng của tiểu đoàn trở nên nguy kịch, thiếu đạn dược, thiếu thực
phẩm, thiếu thuốc men, binh sĩ của tôi càng ngày càng mất khả năng cũng như
tinh thần chiến đấu. Bị cô lập và phải hoàn toàn tự lực tất cả mọi mặt, tôi
không tìm ra được phương thế nào để chấn chỉnh lại sức mạnh của đơn vị đang
càng lúc càng rơi vào tình trạng tê liệt. Đã vậy, thỉnh thoảng các chính trị
viên Việt minh đến thanh tra chiến khu lại gay gắt phê bình và lên án những
nhược điểm của chúng tôi mà không đề nghị một biện pháp giải quyết nào cả.
Vừa bực mình vì thái độ vô trách nhiệm của các chính uỷ, vừa
bắt đầu lo sợ vì màu sắc chính trị không cộng sản của mình, và nhất là vừa
nhớ nhà sau hơn hai năm trời biền biệt trong khói lửa, nên vào một buổi chiều
nọ, tôi rời khỏi chiến khu Ba Râu, trốn ra vùng biển Ninh Chữ, giả vờ làm
thường dân tản cư, thuê ghe về Tuy Hoà để từ đó tìm đường về quê. Ra
đến Tuy Hoà không ngờ tôi lại tạm trú tại nhà một vị cựu công chức Nam triều
nên biết được một số tin tức về ông Diệm.
Nguyên sau khi Việt minh cướp chính quyền tại Nam Bộ, ông Diệm
liền theo đường bộ rời Sài gòn để về Huế. Cùng đi với ông có Võ Văn Hải và
một đồng khí trẻ là Bảo. Đến Nha Trang thì ông bị Việt minh bắt giữ nhưng nhờ
kỹ sư Đặng Phút Thông đang làm việc ở Ty Hoả Xa và một trung uý Hiến binh
Nhật can thiệp nên được trả tự do. Sáng hôm sau, ông tiếp tục cuộc hành trình
chỉ với Bảo, nhưng cả hai lại bị Việt minh chặn bắt tại Sông Cầu. Riêng Võ
Văn Hải, vì ngủ quên tại nhà một người quen tại Nha Trang nên thoát khỏi.
Sau gần hai tuần lễ chỉ để vượt một đoạn đường không đến 500
cây số, lúc thì đi bằng thuyền, lúc thì xe hoả, lúc thì xe hàng, cuối cùng
tôi cũng đặt chân được đến Huế.
Tại ngôi nhà Phú Cam, tôi mới biết tin ông Diệm bị Việt minh
bắt đem ra Bắc không biết số phận như thế nào, còn ông Ngô Đình Khôi và người
con trai độc nhất của ông là Ngô Đình Huân cùng bị bắt với ông Phạm Quỳnh.
Một số lớn đồng chí của tôi, trong đó có Nguyễn Tấn Quê, kẻ thì bị bắt giam
vào lao Thừa Phủ, kẻ bị giam giữ ở những trại tù bí mật xa thành phố Huế, có
người lại bị thủ tiêu mất tích.
Về Huế mà tôi như lạc lõng đến một vùng đất xa lạ Cũng thành
quách soi bóng nước sông Hương mơ màng, cũng cầu Trường Tiền sáu vài mười hai
nhịp, cũng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang, cảnh cũ vẫn đó mà người xưa
đâu còn. Ngọn cờ đỏ Sao vàng ngạo nghễ tung bay trên kỳ đài Ngọ Môn đã làm
đảo lộn dân tình xứ Huế. Nhân dân tự vệ, vệ quốc quân đang soạn sửa để chờ
đợi cuộc giao tranh, dân chúng đang lo lắng để tan cư về vùng thôn dã. Công
dân Vĩnh Thuỵ đã ra đi kinh thành trưởng giả, đài trang, cổ kính xưa kia nay
đã biến thành một quê hương ly loạn. Mấy năm sau, đọc bài thơ của Vũ Hoàng
Chương, tôi vô cùng thán phục thi nhân đã lột tả được một cách thần tình
những thay đổi của Cố đô và tâm trạng của những con người vốn nặng lòng hoài
cổ:
Một gánh gươm dàn tới Cố đô
Mưa liền sông tạnh tưởng vào Ngô
Bìm leo cửa khuyết ai ngờ rứa
Rồng lẫn mây thành chẳng thấy mô
Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng
Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ
Tiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảm
Tốt đã vào cung loạn thế cờ
Sau khi ở Huế mấy hôm để dò la thêm tin tức và đau đớn chấp
nhận một thực tại khốc liệt và tổ chức đã tan, lãnh tụ đã bị bắt, thế cờ đã
loạn, tôi quyết định rời Huế để trở về lại quê làng Thổ Ngoạ của tôi. Trận
đói Ất Dậu (năm 1945) khủng khiếp vẫn còn hằn in nét đau thương kinh hoàng
trên từng luống đất của làng xóm, trên mỗi khuôn mặt của bà con: mồ mả ngổn
ngang mọc đầy đồng làm loang lổ những đám ruộng nứt nẻ, bà con chỉ còn xương
bộ da thất thểu đi tìm nhau trong tuyệt vọng. Chỉ còn có cán bộ Việt minh và
Nhân dân tự vệ, tay súng tay dao, ngạo nghễ hành xử quyền làm chủ một đại xã
nổi tiếng văn học, nho phong của ngày xưa.
Gặp lại người vợ mỏi mòn vì trông đợi mà đôi vai gầy như oằn
xuống vì sức nặng của nhớ mong và của thiên tai, gặp lại hai đứa con trai còm
cõi tay lấm chân bùn đang ê a những mẫu tự vỡ lòng trên chiếu chiếu lá xơ
xác, lòng tôi như quặn lại. Tôi tự nghĩ chí hướng và sự nghiệp của mình đang
dang dở mà Việt minh thì bây giờ lại xem mình như thành phần đã từng hợp tác
với Pháp, cuộc sống tương lai chắc chắn sẽ vạn phần bấp bênh nguy hiểm.
Bị dằn vặt trong tâm trạng đó, tôi bèn giừ thái độ “gặp thời
thế thế thời phải thế”, chủ trương sinh hoạt như một kẻ an phận thủ thường để
lo nuôi vợ dạy con, vốn đã quá cơ cực bần hàn với ước mơ chịu đựng cho qua
cơn bão tố để chờ ngày trời quang mây tạnh. Nhưng người anh vợ của tôi, là
ông Nguyễn Bá Mưu, vốn bất khuất, luôn luôn mang đầu óc quật cường, đã cùng
với một số đảng viên Việt Quốc thành lập một tổ chức đối kháng lại với Việt
minh, tìm cách bắt liên lạc với những đảng phái quốc gia ở ngoài Bắc. Ông kết
nạp những thành phần cựu hào lý, quân nhân, công chức chế độ cũ gồm người
cùng làng và những làng lân cận, trong đó có hai người anh ruột và anh rể của
tôi. Nhưng chẳng may âm mưu bị bại lộ, ông Nguyễn Bá Mưu cùng một số đảng
viên Việt Quốc bị ban ám sát của Việt minh đang đêm đến bắt ngay tại nhà.
Người anh rể, một người anh ruột và tôi bị bắt lên chiến khu Trung Thuần, mỗi
người bị đem giam một chỗ.
Riêng tôi và một số anh em Thiên chúa giáo khác đang biệt giam
tại một trại tù ở dưới chân núi đèo Ngang kịp thời phá tù trốn thoát được
trong đường tơ kẽ tóc. Tôi dựa vào bóng đêm và men theo đường rừng, mò mẫm về
được làng cũ trong bí mật. Nhưng chỉ mấy hôm sau, để tránh tai hoạ cho gia
đình, vào một buổi tối mưa lớn đổ ào ạt, nhìn lại lần cuối hai đứa con trai
đang ôm nhau ngủ vùi trong manh chiếu rách, hôn vợ và ôm chặt đứa con trai
thứ ba mới sinh được hơn hai tháng, tôi lại lầm lũi ra đi, rời làng vào Đồng
Hới. Mưa xối nặng nề trên mái tranh xác xơ của ngôi nhà như nước mắt của
người vợ hiền tiễn chồng ra đi ngút ngàn vì nghiệp dĩ đấu tranh...
Vào đến Đồng Hới, đang bơ vơ chưa biết liên lạc với ai để tìm
lại các đồng chí cũ thì tôi tình cờ gặp được ông Hoàng Văn Toán, lúc bấy giờ
đang làm tổng thư ký của toà Hành chính tỉnh, cũng là một thành viên trong tổ
chức của ông Diệm ngày xưa. Ông cho biết ông Trần Văn Lý hiện đang làm Chủ
tịch Hội đồng chấp chánh Trung phần ra lệnh phải tìm kiếm tôi để phụ trách
đơn vị Bảo Vệ Quân tỉnh Quảng Bình. Tôi bèn cấp tốc vào Huế gặp ông để từ
chối chức vụ chỉ huy trưởng Vệ quân và trình bày thẳng ý định của tôi về ưu
tiên huấn luyện một tầng lớp cán bộ chính trị quân sự. Ông Lý đồng ý và thảo
liền công văn cho tỉnh trưởng Quảng bình và ông Nguyên Hữu Nhân về việc thiết
lập một khoá huấn luyện quân sự và chính trị do tôi phụ trách.
Trong dịp gặp riêng ông Lý ngoài giờ làm việc, tôi hỏi thăm
tin tức về ông Diệm và được biết rằng sau khi bị bắt ở Sông Cầu, ông Diệm bị
đem ra Bắc cô lập ở một vùng rừng núi Việt Bắc cho đến đầu năm 1946, nhờ giám
mục Lê Hữu Từ, lúc bấy giờ đang là cố vấn tôn giáo của Hồ Chí Minh, can thiệp
nên ông được thả tự do. Sau đó ông Diệm về Hà nội ở tại nhà thờ dòng Chúa Cứu
Thế Nam Đồng một thời gian rồi khi thì lên Cao Nguyên sống với vợ chồng ông
Ngô Đình Nhu tại Đà Lạt, khi thì xuôi miền Nam sống với giám mục Ngô Dình
Thục tại Vĩnh Long.
Ngoài ra ông Lý cũng cho biết cựu hoàng Bảo Đại hiện ở Hông
Ông và trở thành một "giải pháp" cho cả hai ông Diệm và Lý. Không
như các tổ chức của Nguyễn Phước Tộc ủng hộ Bảo Đại để phục hồi nền quân chủ
cũ, ông Diệm và Lý ủng hộ Bảo Đại để tiến đến một chế độ quân chủ lập hiến.
Theo ông Trần Văn Lý thì chế độ này là một thể chế trung dung giữa chế độ
quân chủ phong kiến đã lỗi thời và chế độ cộng hoà Tây Phương còn quá mới lạ
với quần chúng Việt nam cũng như truyền thống chính trị Việt nam. Nhưng dù
sao thì, theo ông, tối thiểu Việt nam cũng phải có một qui chế như Dominion
mới lôi kéo được nhân dân Việt nam ra khỏi hấp lực của Hồ Chí Minh mà về với
Bảo Đại. Cũng cần phải nói rõ thêm như Bernard Fall đã mô tả thì ông Diệm có
đầu óc phong kiến, quan lại, cổ hủ chỉ muốn bảo vệ một nền quân chủ. Cho đến
năm 1955, vì ở vào tình trạng tranh chấp với Bảo Đại và muốn có quyền hành
thật to lớn ông mới chủ trương thành lập nền Cộng hoà để ông làm một nhà độc
tài.
Đối với tôi chọn lựa này rất phù hợp với tư thế chính trị và
bản chất đấu tranh của những người như ông Diệm và ông Lý, vốn là những vị
quan lại được sinh ra và lớn lên, rồi lại được thăng hoa trong hệ thống phong
kiến, nhưng lại có va chạm với những định chế Tây phương trong vị trí của một
viên chức công quyền. Lửa cách mạng để lột xác một cách triệt để và toàn
diện, để dứt khoát hoàn toàn với quá khứ không thể có được trong các ông.
Tuy nhận định như vậy, nhưng lúc bấy giờ, đối với tôi thể chế
tương lai chưa phải là mối lo âu hàng đầu mà chính sự xây dựng một tổ chức
vững mạnh với một đội ngũ cán bộ kiên trì là yếu tố quan trọng để khi đuổi
Tây đi, giành được độc lập thì vẫn còn sức mà "sống mái" với lực
lượng Việt minh. Lý luận đơn giản và chắc nịch như thế, nên tôi để mặc những
vấn đề thế chế cho các vị đàn anh như ông Diệm hay ông Lý, còn mình thì chỉ
xả thân hoạt động trong phạm vi cấp thấp của mình.
Tôi trở lại Đồng Hới làm việc dưới quyền của ông tỉnh trưởng
Nguyễn Hữu Nhân để điều khiển một lớp đào tạo cán bộ gần 40 khoá sinh mà nội
dung giảng huấn gồm cả hai phần chính trị lẫn quân sự nhằm mục đích xây dựng
cái lõi nhân sự đầu tiên cho một đơn vị quân chính tương lai.
Độ gần một tháng sau, nhân chuyến đi kinh lý ở Đồng Hới ông
Trần Văn Lý có ghé thăm lớp huấn luyện và tỏ ra rất ngạc nhiên về những tiến
bộ và thành quả của khoá. Cùng đi với ông còn có kỹ sư Lê Sĩ Ngạc (hiện đang
ở Mỹ), lúc bấy giờ là uỷ viên của Hội đồng chấp chánh và ông Trần Trọng Sanh,
một lãnh tụ Việt Quốc tại Huế đang là Giám đốc Công an Trung phần (hiện ở Mỹ)
Song song với việc điều hành lớp huấn luyện, tôi bắt đầu tổ
chức lại từ căn bản phong trào ủng hộ ông Diệm trong địa phương của mình, đặc
biệt là gây dựng lại hệ thống nhân sự cho tổ chức. Vì Đồng Hới là cửa ngõ mở
ra Liên khu Tư nhưng cũng là cửa thoát cho các phần tứ quốc gia muốn rời bỏ
Việt minh để “về tề”, nên tôi đã thành lập một bộ phận chỉ chuyên điều nghiên
để kết nạp các phần tử này.
Hoạt động của tôi dù kín đáo bao nhiêu nhưng cuối cùng cũng
không thoát khỏi đôi mắt nghi ngờ của mật thám Pháp. Nghi ngờ đó biến thành
thái độ đối phó khi họ quyết định bắt tôi và ba đồng chí cốt cán của tổ chức
lúc khoá huấn luyện sắp kết thúc. Thế là ông Hiệu (trưởng ty Công an tỉnh
Quảng Bình), ông Đặng Phúc (một người bà con của ông Diệm), ông Phạm Đăng Tải
quận trưởng quận Lệ Thuỷ (hiện ở Mỹ) và tôi bị phòng nhì Pháp ập vào nhà
riêng từng người bắt giam, và sau đó giải về phòng điều tra của Phòng Nhì
Pháp tại Huế. May mắn thay, nhờ có đồng chí kịp thời thông báo, ông Trần Văn
Lý vội can thiệp ngay với tướng Lebris, đang vừa là Uỷ Viên cộng hoà vừa là
tư lệnh quân đội Pháp ở miền Trung, nên chúng tôi được trả tự do.
Cuối tháng 12, Bảo Đại ký thông cáo chung với Cao uỷ Emile
Bollaert, chuẩn bị cho Việt nam độc lập trong Liên hiệp Pháp, tôi quyết định
chuyển từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công khai. Quyết định này xuất phát
từ ba lý do rất rõ ràng: Trước hết, trong khung cảnh đấu tranh chính trị lúc
bấy giờ, vấn đề biểu dương lực lượng để xác định sự hiện diện và sự lớn mạnh
của tổ chức rất cần thiết; thứ nhì là cần tạo một số cơ sở quần chúng để đưa
tổ chức dựa lưng vào nhân dân; và cuối cùng là cá nhân tôi và một số đồng chí
đàng nào cũng có hồ sơ và cũng đã bị mật thám Pháp theo dõi.
Một cơ quan ngôn luận vừa có chức năng thông tin tuyên truyền,
vừa có nhiệm vụ vận động đấu tranh là hình thức thích hợp nhất và có thể trả
lời được ba điều kiện trên. Tôi bèn bàn với anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ
của tôi, quyết định cho ra đời tuần báo Tiếng gọi. Tôi làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút, còn anh Xứng làm Tổng thư ký toà soạn với sự hợp tác của
các anh Nguyễn Văn Chuẩn (sau này là thiếu tướng và hiện đang ở Mỹ), và
Nguyễn Thương (sau này là đại tá, và hiện ở Pháp). Bốn người
chúng tôi là chủ lực phụ trách phần bài vở nói lên đường lối của tờ báo và lo
phần điều hành, những bài vở khác có nội dung văn nghệ nhưng phù hợp với chủ
trương của tờ báo thì do một số nhà văn ở Cố đô Huế được mời viết.
Lúc bấy giờ ở Huế có hai tờ báo khác: nhật báo Quốc
gia của Mặt trận quốc gia liên hiệp, do cựu Thượng thư Trần Thanh
Đạt chủ trương, và bán tuần san Lòng dân, tiếng nói bán chính
thức của Hội đồng chấp chánh Trung Kỳ, do ông Võ Như Nguyện điều khiển. Hai
tờ báo này có lập trường chính trị rõ nét là chống cộng sản và cổ xuý cho
giải pháp Bảo Đại. Tuần báo Tiếng gọi của chúng tôi, ngoài lập
trường chống Cộng, còn chủ trương đấu tranh chống thực dân đế quốc ủng hộ
đường lối và cá nhân ông Ngô Đình Diệm.
Năm 1948 mở màn với những vận động sôi nổi tại Hồng Kông nơi
ông Bảo Đại trú ngụ. Trước sự thành hình minh nhiên của giải pháp Bảo Đại,
tôi viết một bài quan điểm nẩy lửa kêu gọi ông Bảo Đại nên chấp thuận lập
trường và chủ trương của ông Ngô Đình Diệm. Chủ đích của bài báo là vừa giới
thiệu thân thế và sự nghiệp của ông Diệm với quần chúng đông đảo, vừa chứng
minh một lập trường cứng rắn trong giai đoạn này là thích ứng nhất cho vận
mệnh đất nước. Số tiếp theo, số 8, tôi lại viết một bài nhan đềCon chó đá
bên mộ cụ Phan Bội Châu đả kích và lên án gắt gao thái độ ngoan cố
của thực dân Pháp đang tiến hành chính sách tái lập nền đô hộ. Bài này lại
được tờ Quốc gia của Mặt trận quốc gia liên hiệp trích đăng đầy đủ.
Mấy ngày sau, trong lúc đang cùng với anh em toà soạn chuẩn bị
ra số tiếp theo thì tôi nhận được tin sở Liêm Phóng Pháp sắp bắt tôi một lần
nữa. Ông Trần Văn Lý lại phải can thiệp với tướng Lebris để tôi khỏi vào tù,
nhưng tờ báo Tiếng gọi thì bị thâu hồi giấy phép, đóng cửa
vĩnh viễn. Sau 8 số tung hoành ngang dọc, tờTiếng gọi đành im
tiếng, nhưng lời kêu gọi của nó còn vang vọng trong lòng một số người dân cả
ba kỳ. Tôi thanh toán các hồ sơ còn đang đang dở, thu xếp bàn ghế và dụng cụ
rồi bùi ngùi đóng cửa toà soạn với rất nhiều cảm xúc. Phan Xứng lên đường đi
Đà Lạt và Sài gòn.
Cuối tháng ba, Mặt trận quốc gia liên hiệp vận động cắt chức
ông Trần Văn Lý và thành công trong việc thay thế ông Lý bằng ông Hà Xuân Hải
trong chức vụ Chủ tịch Hội đồng chấp chánh Trung Kỳ (nhiều sách Việt ngữ và
ngoại quốc, sau này, đã sai lầm khi viết rằng ông Diệm là lãnh tụ của Mặt
trận quốc gia liên hiệp tại Huế. Thật ra, mặt trận này, mà đại đa số là các Phật
tử, đã xem ông Diệm và ông Lý là những đối thủ quan trọng).
Đến tháng 5 thì giải pháp Bảo Đại thật sự thành hình với sự ra
đời của chính phủ Trung ương lâm thời tại Sài gòn do ông Nguyễn Văn Xuân là
Thủ tướng, và ông Phan Văn Giáo, một cộng sự viên thân tín của ông Bảo Đại,
từ Hồng Kông về Huế đảm nhận chức vụ Tồng trấn Trung phần.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và Tổng thống Pháp
Vincent Auriol ký thoả ước Elysées biến Việt nam thành một quốc gia "Độc
lập trong Liên hiệp Pháp", nhưng Quốc phòng, Ngoại giao và Tài chánh vẫn
bị Pháp chi phối, kiểm soát.
Đồng ý là vua Bảo Đại đã có thời gian làm một vị vua bù nhìn,
sống cuộc đời thụ hưởng ở quê người. Nhưng năm 1948, sau những vận động ngoại
giao khôn khéo trong những điều kiện khó khăn nhất của một kẻ mất đất, yếu
thế, ông đã thành công trong nỗ lực tiến lên một bước, một bước đầu tuy ngắn
nhỏ nhưng cơ bản, để đặt nền móng cho chế độ gọi là quốc gia sau này. Một ông
vua đã lột xác, đã thức tỉnh để giữ “đúng” và giữ "trọn" tinh thần
của lời tuyên bố bốn năm trước rằng: “Trẫm hy sinh ngai vàng điện ngọc cho
quốc dân” và "Trẫm thoái vị để thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm
vua một nước nô lệ".
Vì vậy ông trở về và được những lực lượng đấu tranh trong nước
đón nhận như một biểu tượng của thế quốc gia (giả hiệu) của người Việt nam.
Nhiều chính khách, nhân sĩ yêu nước và có hoạt động cách mạng, trước đây giữ
thái độ trùm chăn hoặc chống đối người Pháp bằng thái độ bất hợp tác, nay
cũng quyết định ra mặt ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại như các ông Phan Khắc Sửu,
Nguyễn Tôn Hoàn, Hoàng Nam Hùng, Vũ Hông Khanh, Ngô Thúc Định, Nguyễn Phan
Long... và nhiều nhân vật trọng yếu trong các đảng Đại Việt, Việt Quốc, hay
các giáo phái Cao Đài Hoà Hảo. Đặc biệt giám mục Lê Hữu Từ vốn là cố vấn tôn
giáo của Hồ Chí Minh và từng duy trì giáo phận Phát Diệm của Ngài trong tư
thế "tự trị" cũng từ bỏ thái độ này và sáp nhập vùng tự trị Phát
Diệm vào cộng đồng quốc gia dưới quyền cai trị của Quốc trưởng Bảo Đại. Ngay
cả ông Ngô Đình Diệm, dù sau này đã từng xuống tay hạ nhục ông Bảo Đại bằng
một cuộc trưng cầu ý dân lạ lùng, thì cũng đã từng là một thủ tướng do chính
Bảo Đại uỷ nhiệm và tháng 7 năm 1954, khi vị Tân Thủ tướng ra Huế, thì cũng
đã phải đến cung Diên Thọ trong nội Cố đô Huế để cúi đầu bái yết đức Từ Cung,
thân mẫu của Quốc trưởng Bảo Đại.
Giải pháp Bảo Đại chỉ là giải pháp tạm thời để khai thông một
số bế tắc chính trị. Sự hợp tác giữa ông Bảo Đại và Pháp chỉ là
sự hợp tác giai đoạn, kết quả của một thế chính trị có lợi cho cả hai bên, do
đó, không sớm thì muộn một giải pháp khác sẽ phải ra đời cho phù hợp với tình
hình quốc tế và sự đe doạ càng lúc càng nguy hiểm của đảng cộng sản trong
lòng cuộc kháng chiến của Việt minh. Giải pháp khác đó phải đặt nền tảng trên
chủ quyền quốc gia của người Việt mà thể hiện đầu tiên và rõ ràng nhất là
quân đội quốc gia phải hoàn toàn thuộc về một chính phủ Việt nam. Tôi suy
nghĩ (và ước mơ) rằng giải pháp đó là giải pháp Ngô Đình Diệm.
Vì thế, từ khi trở lại Huế vào cuối năm 1948, tôi đã tiếp tục
đến sinh hoạt ở ngôi nhà Phú Cam, nơi ông Ngô Đình Cẩn đang ở, để cùng với
một số anh em thảo luận những kế hoạch chính trị nhằm ủng hộ cho ông Diệm.
Ông Ngô Đình Cẩn là một người có cung cách và tác phong giống
hệt một viên chánh tổng của miền quê Bắc Việt. Chân đi guốc gỗ, mặc áo bà ba
lụa trắng, miệng nhai trầu nhóp nhép nhưng nói phô trịnh thượng và lại khinh
người. Với ai ông Cẩn cũng gọi là thằng nọ, thằng kia, ngay cả với ông Bảo
Đại, ông Cẩn chỉ trích và chê bai tất cả các đảng phái và thường huênh hoang
bảo rằng: "Bọn Đại Việt, Việt Quê có đến mời tôi làm lãnh tụ nhưng
"bọn đó” chẳng làm được trò trống gì nên từ chối". Ông Cẩn có tiếng
nói rõ ràng và cặp mắt rất sắc, đôi lông mày rậm và hơi xếch lên theo cái
tướng của những người hiểm ác, dám làm những việc táo bạo. Sáu người con trai
của ông Ngô Đình Khả ai cũng học hành thành tài và có sự nghiệp, chỉ riêng
ông Cẩn mới học đến lớp ba tiểu học thì vì ham chơi mà đứt ngang việc học
hành. Cũng vì thế mà khi lớn lên, ông Cẩn chỉ ở nhà lo việc đồng
áng, chăm sóc bà cụ thân sinh và phụ trách các việc quan, hôn, tang, tế,
trong dòng họ Ngô Đình.
Từ năm 1948, một phần vì tổ chức bị tan rã từ trước và phần
khác vì ông Diệm không có mặt thường trực tại Huế nên số cán bộ cũ không còn
lại bao nhiêu người, chỉ thưa thớt có các ông Võ Như Nguyện, Trần Văn Hướng,
Nguyễn Vinh và tôi, vốn là những đồng chí cũ của ông Diệm từ thời tiền 1945.
Dần dần, nhờ nỗ lực phát triển của chúng tôi và nhất là nhờ có một số người ý
thức được rằng giải pháp Bảo Đại chưa phải là một giải pháp lâu dài để giải
quyết dứt khoát và toàn bộ vấn đề Việt nam nên họ lượng định lại “lá
bài" Ngô Đình Diệm, và muốn liên hệ với chúng tôi như một lối thoát
chính trị trừ bị, do đó họ cũng thường đến sinh hoạt ủng hộ chúng tôi. Nhóm
này có các ông Nguyễn Đôn Duyến, Tôn Thất Trạch, Phạm Văn Nhu, Trương Văn
Huế, Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Văn Đông, Bùi Tuân, Huỳnh Hữu Tiến... Linh mục
Nguyễn Văn Thinh thuộc dòng Chúa Cứu Thế ở Huế, cũng thường lui tới ngôi nhà
Phú Cam để yểm trợ và theo dõi tình hình. Số lượng những người ủng hộ ông Diệm
càng ngày càng gia tăng, phần đông là các linh mục và những người theo đạo
Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, cho đến ngày ông Diệm về nước (vào năm 1954), số
lượng đó chỉ hơn 30 người ở khắp bốn tỉnh miền Trung Trung phần. Ông Trần
Điền (sau này là Nghị sĩ Quốc hội thời Đệ nhị cộng hoà) và ông Nguyễn Trân
(sau này là Tỉnh trưởng Nha Trang dưới thời ông Diệm) cũng thỉnh thoảng đến
nhà của ông Ngô Đình Cẩn, nhưng hai ông này chỉ để gây cảm tình và để nghe
ngóng tình hình chứ không phải thực sự ủng hộ ông Diệm. Ông Trần Điền, vì một
mặt có bà con với ông Hà Thức Ký (một lãnh tụ Đại Việt ở miền Trung), mặt
khác là cộng sự viên thân tín của ông Trần Văn Lý, lại có ý khinh bỉ ông Cẩn
nên không thực tâm ủng hộ, còn ông Nguyễn Trân, vì có mặc cảm là một cựu tri
phủ tham nhũng của Nam Triều bị hạ hồi dân tịch lại có xu hướng thân Pháp,
nên không dám hoạt động cho giải pháp Ngô Đình Diệm.
Ông Trần Văn Lý, vốn là một đồng chí kỳ cựu của ông Diệm,
trong thời kỳ làm Chủ tịch Hội Đông chấp chánh đã giúp đớ tiền bạc để ông
Diệm tiêu dùng và chi phí việc đi lại Hồng Kông gặp gỡ Cựu hoàng Bảo Đại.
Nhưng từ khi ông Cẩn thấy tổ chức của anh mình bắt đầu sống lại và càng ngày
càng thấy phát triển mạnh thêm thì bắt đầu có thái độ khinh thường ông Lý,
cho nên kể từ tháng 3 năm 1948, khi ông Lý mất chức Chủ tịch Hội đồng chấp
chánh thì hai gia đình không còn liên hệ gì với nhau nữa. Các ông Diệm, Nhu
và giám mục Thục có lẽ vì nghe lời gièm pha và xúi giục của ông Cẩn nên cũng
chấm dứt mối tương quan với ông Lý.
Thời bấy giờ ở Huế, ông Cẩn công khai bày tỏ sự căm thù đối
với dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, và gọi là Việt Gian, vô luân, vì ông Thăng là
bạn giao tình của Thủ Hiến Phan Văn Giáo, người mà ông Cẩn thù ghét. Ông
Nguyễn Cao Thăng còn là tay chân thân tín của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và là
đại diện lực lượng thợ thuyền của ông Tâm tại Trung phần. Nhưng lý do chính
và sâu kín nhất mà ông Cẩn thù hằn ông Thăng là vì ông này thường công khai
mạt sát ông Cẩn là "hạng nhai trầu, dựa tên tuổi cha anh mà làm tàng,
hàng chánh tổng mà đòi lên làm lãnh tụ...". Ông Cẩn còn tuyên bố với anh
em chúng tôi là hễ có chính quyền trong tay thì người đầu tiên ở Huế ông ta
chặt đầu là Nguyễn Cao Thăng. (Cuối năm 1954 khi ông Diệm đã làm thủ tướng,
tức là ông Cẩn "đã có chính quyền trong tay", ông bèn ra lệnh cho
nhóm Lê Quang Tung, Trần Thái - biệt danh Thái Đen - ném lựu đạn vào nhà
riêng của ông Trần Văn Lý và vào nhà thuốc của ông Nguyễn Cao Thăng ở đường
Trần Hưng Đạo. Ông Trần Thái hiện sống ở Mỹ).
Từ năm 1948, các ông Thục, Diệm, và Nhu thỉnh thoảng về Huế để
thăm bà cụ thân sinh. Cứ mỗi lần như vậy, nhất là khi chính ông Diệm về,
chúng tôi tổ chức các cuộc gặp gỡ trong vòng đồng chí và thân hữu để thảo
luận về tình hình chính trị, tình hình chiến sự và các kế hoạch cần phát
động. Và từ đó, chúng tôi siết chặt vòng thân hữu lại bằng cách yêu cầu các
thân hữu (chứ không phải chỉ các đồng chí trong tổ chức mà thôi như trước
kia) cứ mỗi ba tháng lại đóng góp một số tiền để giúp đỡ ông Diệm, ông Nhu có
khả năng tài chánh hoạt động chính trị. Sau này, khi ông Diệm xuất ngoại, số
tiền đóng góp của chúng tôi lại tăng thêm và thường xuyên hơn.
Ông Thục và ông Nhu cũng to ra cởi mở và vui vẻ hơn ngày xưa,
thường thăm hỏi hoàn cảnh gia đình và tâm sự cá nhân riêng của chúng tôi. Vào
một buổi chiều tháng 6.1950 ông Nhu đã nhờ ông Võ Như Nguyên và ông Huỳnh Hữu
Hiến hướng dẫn đến thăm tôi tại căn nhà nghèo nàn chật hẹp ở cửa Đông Ba. Lúc
bấy giờ tôi là một trung uý trong quân đội Việt Binh Đoàn với một người vợ
đảm đang nhưng quê mùa và bốn đứa con trai mà đứa đầu mới 10 tuổi. Trong căn
phòng khách chật hẹp và nóng nực, và cũng là phòng học và phòng ngủ của các
con tôi, ông Nhu tuy mồ hôi nhễ nhại mà cũng vui vẻ dùng chè xanh và cho biết
sở dĩ ông đến thăm tôi vì giới thiệu đặc biệt của hai ông Diệm và Cẩn về một
cán bộ trung kiên, tâm huyết, can trường và biết sống chết cho lý tưởng. Tôi
còn nhớ ông Nhu đã nói thẳng rằng: "Muốn làm cách mạng thì phải có những
chiến sĩ như anh, còn hạng khoa bảng chỉ là bọn nhát gan, hay tính toán và
chỉ biết tranh giành địa vị để làm giàu".
Ông Cẩn tuy thường ngạo mạn và ra oai với mọi người nhưng cũng
biết e dè với cụ Trương Văn Huế, một bậc lão thành, với ông Võ Như Nguyện và
tôi, hai cán bộ dám chỉ trích và tranh luận tay đôi với ông ta. Vì những sinh
hoạt của tôi tại ngôi nhà Phú Cam càng ngày càng ông khai, và vì ông Cẩn ngày
càng đả kích Quốc trưởng Bảo Đại nên một hôm, thủ hiến Phan Văn Giáo, với tư
cách là cấp chỉ huy của tôi, đã mời tôi đến văn phòng để cảnh cáo dưới hình
thức của một buổi nói chuyện thân tình: "Moa biết toa làm việc với moa
mà toa vẫn cứ trung thành và hoạt động cho Ngô Đình Diệm. Nhóm Ngô Đình Cẩn
làm gì kể cả việc nói xấu Đức Quốc Trưởng và chỉ trích moa, moa biết hết.
Nhưng moa tha cho hết vì nhóm đó cũng là những người chống cộng sản, chống
Việt minh, huống chi moa biết Diệm quá rõ, Diệm không làm nên trò trống gì
đâu, bọn toa có hoạt động cũng vô ích, cũng chẳng đi tới đâu, nên moa chẳng
cần bắt bớ. Toa thừa biết chứ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ và Phan Văn Giáo đã có
một thời kết nghĩa anh em như "Lestrois Mousquetaies". Diệm lù khù
như một nhà tu, lại dang dở chuyện tình duyên nên moa và Đệ gọi y là
"Aramus".(Nguyễn Đệ, nguyên Đổng Lý văn phòng của Quốc trưởng
Bảo Đại. Trong hồi ký Le Dragon d'annam, Bảo Đại cũng cho biết ông Đệ và ông
Diệm là đôi bạn thân, khi ông Diệm từ chức Thượng thư Bộ lại thì ông Đệ cũng
từ quan, ông Đệ hiện ở Pháp).
"Có lẽ vì Ngô Đình Cẩn tự ái không cho toa biết chứ moa
đã giúp đỡ cho mụ Cả Lễ (em gái ông Diệm) nhiều vụ đấu thầu để bà ta có lời
lấy tiền giúp cho Diệm và Cẩn hoạt động. Chủ trương của moa là các đảng quốc
gia cần phải được chính quyền giúp đỡ vì họ càng hoạt động, càng tổ chức, thì
càng làm giảm tiềm lực Cộng sản, hàng ngũ chống Cộng càng tăng thêm. Trước
đây Trần Văn Hướng (anh ruột của Trần Văn Dĩnh) làm phó giám đốc Thông tin,
in bài báo của đại sứ William Bullit để đả kích Quốc trưởng rải khắp nơi
trong ý đồ ủng hộ ông Diệm, moa cũng tha thứ, thì nay moa chỉ gọi toa đến để
nói cho toa biết lòng quảng đại, khoan dung của moa không làm tội tình gì toa
đâu”. (Những lời lẽ của ông Giáo trên đây tôi nói lại cho ông
Cẩn và các bạn bè như ông Duyến, Nguyện, Hướng biết).
Sau này, năm 1954, khi ông Diệm mới từ Mỹ về nước cầm quyền
thì ông Giáo đang là Thủ hiến Trung Việt (nhiệm kỳ hai). Trong lần ông Diệm
trở về Huế để bái yết đức Từ Cung và thăm những Tôn Miếu trong Hoàng thành,
ông Giáo đã tổ chức một cuộc đón rước rất trọng thể tại sân bay Phú Bài và
ngay tại Cố đô Huế. Nhưng chỉ độ một tháng sau thì ông Diệm cách chức ông
Giáo, điều tra tài sản và đe doạ khiến ông Giáo phải trốn đi Pháp.
Ngày 7.2.1950, Hoa kỳ và Anh cùng công nhận nước Việt nam độc
lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính quyền Bảo Đại. Toà đại sứ Hoa
kỳ đầu tiên đặt tại Sài gòn do ông Donald Heath, một nhà ngoại giao kỳ cựu,
điều khiển. Trong khi đó thì Mao Trạch Đông, sau khi thống nhất được Trung
Hoa lục địa, bắt đầu tiến hành kế hoạch quân viện cho Việt minh dọc theo miền
biên giới Việt Hoa.
Như vậy, những vận động ầm ĩ từ trước của các trường quốc tế
về số phận của nước Việt nam bắt đầu phát động mạnh mẽ bằng những lời biểu
dương ngoại giao và quân sự ngay trong lòng đất nước vào mùa xuân năm 1950
mặc những nỗ lực tội nghiệp của đế quốc Pháp đang trên đà suy tàn. Và đến
cuối năm, sau khi bị đánh bại nặng nề ở Cao Bằng, ngày 6.12.1950, chính phủ
Pháp bổ nhiệm tướng Jean De Lattre de Tassigny làm Tổng tư lệnh quân đội kiêm
Cao uỷ Đông Dương để mong cứu vãn tình hình càng lúc càng nguy ngập.
Cũng trong mùa xuân năm đó, tôi được thuyên chuyển ra Đồng Hới
giữ chức Chỉ huy trưởng lực lượng Việt Binh Đoàn tỉnh Quảng Bình. Trước khi
lên đường về nhiệm sở mới, trong văn phòng ông Phan Văn Giáo và có mặt cả ông
Nguyễn Ngọc Lễ, ông Giáo cho biết người Pháp đã phản đối kịch liệt quyết định
bổ nhiệm tôi vào chức vụ quan trọng này vì họ không tin tưởng vào lập trường chính
trị của tôi. Trước khi ra về để lên đường ông mới nói rõ ý định thật của
mình: "Moa giải thích với người Pháp về chuyện bổ nhiệm toa giữ chức chỉ
huy quân sự rằng toa là người quê Quảng Bình nên hiểu rõ dân tình và địa thế
vùng đất chiến lược này. Moa muốn toa hợp tác chặt chẽ với bên dân sự là tỉnh
trưởng Nguyễn Văn An ở ngoài đó (Nguyễn Văn An tức Nguyễn Tấn Quê, mưu sĩ
xuất sắc nhất của ông Diệm mà tôi đã đề cập trong chương hai, ông đổi tên từ
sau khi ở tù Việt minh ra. Từ đây tôi sẽ chỉ gọi tên Nguyễn Văn An để thay
thế cho tên Nguyễn Tấn Quê). Hai anh em sẽ bắt tay nhau chặt chẽ để bình
định tỉnh Quảng Bình, vì moa đang điều đình với người Pháp để họ giao hoàn
toàn quyền cai trị tỉnh này lại cho chính quyền Việt nam. Quảng Bình là nơi
đầu sóng ngọn gió đối đầu với Liên Khu Tư của Việt minh, mình phải tỏ ra đủ
khả năng đương đầu với Việt minh trên cả hai mặt chính trị và quân sự thì
người Pháp mới dần dần trả đất đai quyền hành cho Đức Quốc Trưởng”.
Tôi về lại Quảng Bình, quê hương thân thương, và cùng với ông
Nguyễn Văn An bắt tay tiến việc xây dựng và phát triển sức mạnh của Việt Binh
Đoàn như một sức mạnh vừa công và thủ, vừa có chức năng bảo vệ các cơ sở hành
chính và kinh tế, vừa có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị vũ trang của địch.
Một hôm, tôi vào văn phòng tỉnh trưởng thì gặp ông Nguyễn Văn
An đang đàm luận với một tu sĩ Phật giáo, ông bèn giới thiệu với tôi tu sĩ
này. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Thượng toạ Thích Trí Quang, vị tu sĩ sau này,
năm 1963 đã làm "rung động nước Mỹ” và lãnh đạo lực lượng Phật giáo để
cùng với quần chúng cả nước đương đầu với chế độ Ngô Đình Diệm. Thượng toạ
Thích Trí Quang lúc bấy giờ còn trẻ, gương mặt xương, hai lưỡng quyền cao và
có cặp mắt sáng, tuy nhiên cách nói chuyện của ông rất nhỏ nhẹ mà rõ ràng.
Tôi vào một lát thì Thượng toạ Trí Quang ra về, ông An cho tôi
biết Thượng toạ trụ trì ở Huế nhưng được ông An đích thân mời ra Đồng Hới
trong ý định nhờ Thượng toạ yểm trợ kế hoạch Việt nam hoá tỉnh Quảng Bình mà
ông Phan Văn Giáo đã uỷ thác cho chúng tôi. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn An kết
luận rằng: “Quân sự thì có anh, chính trị thì có tôi, còn thế nhân dân thì
phải nhờ đến Thượng toạ”. Hỏi thêm thì ông An cho biết đã quen với Thượng toạ
Trí Quang trong thời kỳ hoạt động chung cho Hội Chấn Hưng Phật giáo miền
Trung với bác sĩ Lê Đình Thám, một cư sĩ tiếng tăm của Phật giáo.
Hai con người đa mưu túc trí đó đều mang chung hoài bão xây
dựng một vùng "Ba Thục Việt nam", không Việt minh, không Pháp, để
làm căn cứ địa cho một chiến lược lâu dài (chính vì hoài bão lớn lao đó mà Nguyễn
Văn An đã không trở lại hợp tác với ông Phan Văn Giáo và Quốc trưởng Bảo Đại
để lợi dụng thời cơ tính chuyện lâu dài). An dặn tôi phải giữ bí mật tối đa
tung tích và hoạt động của Thượng toạ Trí Quang vì người Pháp vẫn còn nghi
ngờ Thượng toạ thân Việt minh chống Pháp.
Chương trình xây dựng tỉnh Quảng Bình đang phát triển tốt đẹp
thì ông Phan Văn Giáo bị tân Thủ tướng Trần Văn Hữu cắt chức và bổ nhiệm ông
Trần Văn Lý thay thế. Ông Lý bèn gửi thư yêu cầu tôi rời Đồng Hới
tức tốc trở về Huế giữ chức Tham mưu trưởng Việt Binh đoàn thay thế cho thiếu
tá Trần Nguyên An, tay chân thân tín của ông Phan Văn Giáo. đại uý Tôn Thất
Xứng (hiện ở Canađa) được cử thay thế tôi.
Rời Quảng Bình mà lòng tôi không khỏi bùi ngùi và luyến tiếc.
Không những bùi ngùi vì phải từ biệt một đồng chí thân thiết mà còn luyến
tiếc vì công tác bình định đang trên đà thắng lợi mà còn vì trong mấy tháng ở
đó, với tư cách chỉ huy trưởng quân sự, tôi đã được dịp thăm hết vùng đất quê
hương thân yêu của tôi mà thời niên thiếu tôi đã không có cơ hội thực hiện
được. Tôi cũng đã đến Diêm Điền, quê hương của Thượng toạ Trí Quang chỉ cách
tỉnh lỵ Đồng Hới có ba cây số, cũng như đến làng An Xá và làng Đại Phong, quê
hương của các ông Võ Nguyên Giáp và Ngô Đình Diệm. Chính nhờ những dịp gặp gỡ
với người trong làng, những dịp tiếp xúc thân tình với các bô lão kỳ cựu
trong xóm mà tôi tìm hiểu được một số dữ kiện về xuất xứ, dòng họ của các ông
Diệm, ông Giáp và Thượng toạ Trí Quang (những dữ kiện mà những sách báo và
tài liệu vì muốn suy tôn và huyền thoại hoá các nhân vật này đã không đề
cập). Thật ra, lúc bấy giờ, sự tìm hiểu này để thoả mãn óc tò mò về các nhân
vật cùng quê đang có liên hệ đến công việc của mình chứ không phải vì sau này
ba người đồng hương kia trở thành ba đối thủ lợi hại mà tên tuổi vang lừng
khắp bốn bể năm thâu, mà những quyết định nhiều khi làm đảo điên vận mệnh đất
nước.
Với nhiệm vụ của một Tham mưu trưởng trực thuộc trung tá
Nguyễn Ngọc Lễ trong hệ thống quân giai và thủ hiến Trần Văn Lý trong hệ
thống hành chính, tôi được giao hai công tác quan trọng và khẩn cấp: Thứ nhất
là cải tổ Việt Binh Đoàn trở thành quân đội chính qui, thống nhất vào quân
đội quốc gia, phụ thuộc vào Bộ Tổng tham mưu Trung ương Sài gòn. Bộ Tổng tham
mưu Việt nam này được thành lập với tất cả những điều kiện khó khăn của những
bước đầu chập chững, những sơ hở và yếu kém của một định chế mới chào đời.
(Ông Nguyễn Văn Hinh, nguyên trung tá không quân của quân đội Pháp được đặc
cách thăng Thiếu tướng thuyên chuyển qua làm Tổng tham mưu trưởng). Sự thành lập
quân đội quốc gia nằm trong chủ trương chung của Quốc trưởng Bảo Đại và tướng
De Lattre và phù hợp với điều kiện tiên quyết của Hoa kỳ, chỉ muốn viện trợ
quân sự để thành lập một quân đội chính quy cho quốc gia Việt nam (từ ngày 9
tháng 3 năm 1950, ông Acheson đã yêu cầu Tổng thống Truman chuẩn chi 15 triệu
Mỹ kim viện trợ cho người Pháp tại Đông Dương và 6 tháng sau "The Voice
of America" bắt đầu có phần tin tức Việt ngữ). Việc này là nhờ uy tín
của Quốc trưởng Bảo Đại.
Công việc khẩn cấp thứ hai của tôi là thành lập một số tiểu
đoàn tác chiến chính qui mà quân nhân gồm toàn thanh niên Thiên chúa giáo
động viên từ vùng Phát Diệm và các giáo khu miền Bắc để thành lập một sư đoàn
trong kế hoạch phản công tiến chiếm tỉnh Thanh Hoá. Những thanh niên này sẽ được
bí mật không vận về Huế để được huấn luyện đặc biệt và được tổ chức thành các
đơn vị tác chiến tinh nhuệ rồi lại đưa về Phát Diệm để thực hiện kế hoạch tái
chiếm Thanh Hoá. Đây là một chiến dịch tối mật do giám mục Lê Hữu Từ và thủ
hiến Trần Văn Lý đề nghị và được tướng De Lattre và Thủ tướng Trần Văn Hữu
đồng ý thực hiện. Tôi mới thành lập được một tiểu đoàn mang danh số
"tiểu đoàn 27" và sắp mãn khoá huấn luyện tại Quảng Trị thì tại Sài
gòn, tháng 8 năm 1952, ông Trần Văn Hữu từ chức và ông Nguyễn Văn Tâm được
vua Bảo Đại uỷ nhiệm lên thay thế. Vì là một bạn thân của cựu Thủ tướng Trần
Văn Hữu, ông Trần Văn Lý bị giải nhiệm chức Thủ Hiến Trung phần.
Ông Nguyễn Văn Tâm là thân phụ của tướng Nguyễn Văn Hinh, có
hỗn danh “Cọp Cai Lậy” là một người thân Pháp và nổi tiếng rất chống cộng tại
miền Nam. Nội các do ông thành lập trừ ông Võ Hòng Khanh lãnh tụ Việt nam
Quốc dân Đảng làm bộ trưởng thanh niên và thể thao, số còn lại gồm toàn những
nhân vật không được quần chúng tín nhiệm vì xu hướng thân Tây quá rõ ràng. Vị
lãnh sự Mỹ tại Hà nội đã phúc trình cho Washington rằng nội các này sẽ trở
thành "một đối tượng tuyên truyền cho Việt minh" và chỉ là sự
"trở lại khốn cùng của tiền Mỹ máu Pháp".
Cả ông Hinh lẫn trung tá Trần Văn Đôn (lúc bấy giờ là giám đốc
An minh quân đội) đều nắm hồ sơ cá nhân của tôi và biết tôi là phần tử chống
Pháp và hoạt động cho ông Diệm nên quyết định tê liệt hoá hoạt động của tôi
bằng cách thuyên chuyển tôi ra Bắc Việt, trao quyền tham mưu trưởng đệ nhị
quân khu tại Huế lại cho thiếu tá Trương Văn Xương, một sĩ quan tay sai của
Pháp và là nhân viên thân tín của tướng Hinh. Ngày ra đi, sân bay Phú Bài
nắng chói chang, vợ tôi và sáu đứa con nhỏ nhờ người đồng chí của tôi là ông
Thái Văn Châu chở lên phi trường để tiễn chồng, tiễn cha đi miền Bắc khói lửa
ngút ngàn. Tôi còn nhớ hai câu thơ tả cảnh biệt ly não nuột đó được làm gởi
về cho các con tôi một năm sau:
Mi con trành lệ cha rơi lệ
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét