Tôi đã
thèm qua nhiều nhà tù, nhiều trại tập trung. Thế mà, đến Z30D thì tôi không muốn
bị chuyển trại nữa. Ở đâu cũng vậy, ngục tù rập một khuôn y hệt cuộc đời, rập một
khuôn xã hội chủ nghĩa. Còn lâu mới tiến lên xã hội cộng sản. Ông Phạm Văn Đồng
đã khẳng định vậy, trong một cuốn sách văn nô viết ký tên ông ta. Con người phải
nhục nhằn, mòn mỏi thêm nữa, thêm mãi; phải trường kỳ thống khổ để khi đạt được
lý tưởng cộng sản, nó trở thành kẻ mất hết cảm xúc, cảm giác; nó không thèm muốn
đến cả hạnh phúc nó mơ ước. Bởi vì, lúc ấy, nó hết là con người. Năm 1848,
Engels phóng raTuyên ngôn Đảng cộng sản, tính đến nay, 1987, đã là 139 năm. 139
năm loài người “có” chủ nghĩa và Đảng cộng sản mà chủ nghĩa và Đảng ấy mới chỉ
hồ hởi phấn khởi thông báo rằng, đã có những hai công dân hưởng quy chế xã hội
cộng sản ở Đông Đức! Nếu thành tích khiêm tốn này chưa đủ nói lên sự “ưu việt”
của chủ nghĩa cộng sản “bách chiến bách thắng”, của “đỉnh cao trí tuệ” loài người,
nên ghi chú thêm rằng: Hai công dân Đông Đức hưởng quy chế xã hội cộng sản là
hai nhà bác học! Mà quy chế xã hội cộng sản là gì? Đó là mua sắm ăn uống ở bất
cứ nơi nào cũng không phải trả tiền. Đặc biệt không phải… xếp hàng, chen lấn!
Như thế, còn lâu ngục tù mới rập khuôn cộng sản. Và nó chẳng thể giúp tù nhân
hiểu thêm sự thống khổ mới của quy chế ngục tù cộng sản. Nên trại lao cải nào
cũng giống trại lao cải nào, nhà tù nào cũng giống nhà tù nào. Đã sống tĩnh ở
Chí Hỏa, đã sống động ở Sa ác là đã sống trong bóng tối, ngoài ánh sáng, sống
trọn vẹn cuộc đời tù tội không xét xử, không án tích.
Hai mươi năm trước, đọc bài phỏng vấn danh ca Charles Aznavour đăng trên tuần
báo Jour de France, sau chuyến đi trình diễn của Aznavour ở Liên Xô về,
tôi thấy người danh ca này có nhận xét độc đáo vô cùng.
- Ông vừa trình di diễn ở Liên Xô về?
- Vâng.
- Khán giả Liên Xô thế nào?
- Ở Liên Xô, đã thành công tại Moscou, sẽ hoàn toàn thành công khắp nơi. Tôi đã
thành công tại Moscou. Ở Mỹ chẳng hạn, thì khác. Thành công tại Washington chưa
chắc đã thành công tại Houston, có khi, còn thất bại tại Los Angeles…
Trong chế độ cộng sản, mọi thứ đều rập khuôn, kể cả khuôn thưởng ngoạn nghệ thuật,
khuôn hoan hô, khuôn đả đảo, khuôn nói dối, khuôn hứa láo, khuôn bịp, khuôn đạo
đức giả, khuôn chà đạp phẩm cách con người, khuôn tước đoạt nhân quyền, khuôn bắt
bỏ tù, khuôn lao cải…. Thì qua một nhà tủ đã là qua tất cả nhà tù, qua một trại
tập trung đã là qua tất cả trại tập trung. Ở Z30 D không có những con gọng vó để
tôi được soi sáng thêm cái triết lý sống lội ngược dòng. Nên tôi nhớ Sa Ác, nhớ
sông Ray, nhớ đề lao Gia Định, nhớ khu C1, nhớ Chí Hoà, nhớ khu FG. Tôi có ý
nghĩ này: Càng ở những nơi đau khổ nhất, con người càng gần gũi nhau và lòng
người rộng mở, tình người thắm thiết. Ở nhà tù, khi anh từ cachot ra, anh được
đón tiếp như anh em ruột thịt lưu lạc phương xa trở về mái nhà gia đình… Ở trại
tập trung, khi anh từ cachot ra, anh cảm thấy lẻ loi, cô độc dù, đôi bận, anh
đã vì mọi người mà “dấn thân’ vào cachot. Thành ra tôi tương tư nhà tù, tôi
thèm được trở lại nhà tù, thèm được ghẻ mủ, thèm được cấp mỗi ngày bốn ca nước,
thèm nghe tiếng kẻng gầm gừ đe dọa thân phận làm người… Con người chỉ có thể ngủ
vùi trong hoan lạc mà khó có thể ngủ vùi trong thống khổ. Nỗi thống khổ giúp
con người thức tỉnh, suy tư truy nã thân phận nó, thân phận dân tộc nó và thôi
thúc nó chiến đấu. Thiếu thống khổ bản thân là thiểu cảm thông nỗi thống khổ của
tha nhân, đôi khi, còn thô bạo dầy đạp lên cả nỗi thống khô của tha nhân, của
dân tộc, của nhân loại. Những kẻ chưa một lần thống khổ là những kẻ chưa biết
chiến đấu. Những kẻ chưa kể khổ, than khổ, tố khổ lại là những kẻ không biết
chiến đấu Nhưng, tệ mạt nhất, vẫn là những kẻ tưởng tượng thống khổ, bêu nhục
thống khổ và nhân danh khổ để đấu thầu lòng yêu nước, sự vinh hoa và một chút
tiếng tăm gầy còm. Những kẻ này cần thiết phải bị vào nhà tù cộng sản. Để họ vỡ
nghĩa thống khổ. Để họ hiểu cái hun hút của một ngày tù. Một ngày thôi. Nói chi
một tháng, một năm, sáu năm, mười năm, trọn đời. Sự phán xét phẩm cách, nhân
cách của người khác chỉ có giá trị khi chính ta bị bỏ khát ở conex những
trưa nắng bỏng, ta há hốc miệng, lưỡi thè ra như chó và ta sẵn sàng liếm từng
giọt nước do cai ngục hắt qua kẽ hở của cửa Conex. Những kẻ hăng say
luận về nhân cách, về lòng can đảm thường quên bản năng sinh tồn. Tôi tin rằng,
bị bỏ khát trong conex, những kẻ ưa phán xét con người nhất sẽ là những
kẻ không thích liếm giọt nước hình phạt mà tình nguyện quỳ lạy để nốc ừng ực một
ca ân huệ có điều kiện sám hối. Chỉ cần một lần xuống hầm phân vục cứt đầy ròi
bằng tay trần, chỉ cần một lần lặn xuống sông kiếm đá, ở Sa Ác, tôi tự cho phép
tôi ngồi lên mặt những kẻ hèn mạt chuyên nghề phì nọc độc vào nỗi bất hạnh của
đồng loại.
Bỗng tôi nhớ Chí Hòa và Đoàn Kế Tường vô cùng.
° ° °
Người bạn
tuổi nhỏ của tôi có biệt tài “sáng tạo” lời ca cho những bản nhạc “cách mạng”
và nhạc “Mỹ Ngụy”. Anh ta “chế” lời bản Love Story, tiếc rằng tôi
quên hết, chỉ nhớ câu đầu. Tôi nghĩ, chỉ cần một câu là diễn tả trọn vẹn tâm sự
của tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng trong các chế độ cộng sản.
Biết vào tù rất khó
mà mình vào tù rất dễ
Mình vào tù rất dễ
mà mình về thì rất khó
Ba năm rồi đó…
K hi Đoàn Kế Tường nghêu ngao, cả phòng cười. Cười xong thì thấm thía. Sống
với cộng sản, vào tù thật dễ, thật đông, vào cả làng một lúc mà về thật khó, thật
ít, về từng người . Đoàn Kế Tường là vua chế lời ca mới và vua sưu tầm lời ca
“phản động” của dân gian. Anh ta đã hát cho chúng tôi nghe bài Đường tầu
thống nhất
Năm xưa anh phá núi, em mở đường
xuyên Trường Sơn đồi núi chập chùng
Năm nay cũng bao bàn tay
phá núi trên mở núi dưới
Tự hào là ta anh dũng
Tự hào là những chàng trai
Tuổi thanh niên sức dai Phù Đổng
Cháu ngoan của bác Hồ
đi mở đường thống nhất quê hương….
thành bài Bài ca của dân móc túi
Năm xưa anh móc túi em giật đồ
xa-cảng Miền Tây thành phố Sàigòn
Năm nay cũng bao bàn tay
móc túi trên luồn túi dưới
Tự hào là dân móc túi
Tự hào là những chàng trai
Tuổi thanh niên trót theo cộng sản
Cháu ngoan của bác Hồ
chuyên giật đồ móc túi nhân dân…
Bài Vàm Cỏ Đông
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh vẫn gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông… ơi…Vàm Cỏ Đông
Thành bài Vùng Bù Đăng.
Ở tận Huê kỳ anh có biết
Quê hương em đếch có gì ăn
Em mới dọn đến vùng kinh tế mới
Vùng Bù Đăng hay Bù Nho
Vùng Bù Đăng hỡi vùng Bù Đăng
Sắn ngô nhai mãi khốn khổ vô cùng
Mỹ cút đi rồi, chồng học tập muôn năm
Bài Lá đỏ:
Gặp em trên cao lộng gió
Đường Trường Sơn ào ào lá đỏ…
Thành bài Chợ trời:
Gặp em khơi khơi đầu gió
Đường Hàm Nghi ồn ào lính đuổi
Em đứng cạnh cột đèn như con buôn
vai áo nhuộm phong trần
Quần đen, bao nhiêu một cái
Đài xài pin chừng nào mới đổi
Em bán bằng tiền Hồ hay đô-la
hay giá vàng Kim Thành
Chào em, em gái chợ đen, ôi em gái chợ đen
Hẹn gặp em giữa nhà tù
Đoàn Kế Tường thuộc, ít nhất, hai chục bài ca cách mạng lời… hai. Anh ta chế lời
bài Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn mới thú vị:
Một nghìn năm ta đuổi thằng Tầu
Một trăm năm ta đuổi thằng Tây
Hai mươi năm đuổi Mẽo từng ngày
Gia tài của mẹ: gạo độn ngô khoai
Gia tài của mẹ: gạo mốc dài dài.
Dạy con đeo răng sắt mà nhai
Dạy con mua thuốc đau dạ dầy
Ăn sắn con thành chai
Ăn sắn tiêu hình hài
Chưa đủ, anh ta chế thêm:
Một nghìn năm sinh được cụ Hồ
Một trăm năm răng rụng cạp ngô
Hai mươi năm sản xuất từng giờ
Gia tài của mẹ trả nợ Liên Xô
Gia tài của mẹ còn cái chuồng bò.
Dạy cho con lấy đá mà ăn
Dạy cho con lấy rơm mà gặm
Con sẽ no lầm than
Con sẽ no nhục nhằn…
Tôi đã mơ mộng, nếu thoát đời tù, trốn ra ngoai quốc, xách đàn đi hát dạo những
“ca khúc cách mạng” lời “phản động”, đọc ca dao và kể chuyện tiếu lâm cộng cho
đồng bào hải ngoại nghe. Giấc mộng của tôi đã cháy. Bây giờ, nó thành tro tàn.
Người ta không hiểu nổi giá trị chống cộng sâu sắc của dân gian. Và người ta
đã, đang, tiếp tục chống cộng sản theo cung cách “mới”, cái thứ “mới” làm héo
hon niềm tin của người ở lại, của cả kẻ ra đi, cái thứ gọi là mới mà đã cũ mèm,
lạc hậu, trong khi, cộng sản không ngừng “sáng tạo” những thủ thuật lưu manh. Mỗi
thủ thuật cộng sản phóng ra, chúng ta chới với, chúng ta chụp mũ lẫn nhau lung
tung, chúng ta chổng chúng ta, chúng ta chia rẽ nhau và chúng ta giết nhau.
Riêng cái thủ thuật chấp nhận cho người Việt Nam rời khỏi Việt Nam sau 1975, bất
kể chính thức, bán chính thức hay vượt biên, vượt biển, được về thăm Việt Nam,
du lịch Việt Nam dễ dàng, cộng sản đã được cả chì lẫn chài. Chì là ngoại tệ và
tuyên truyền. Chài là chúng ta gấu ó nhau, ngờ vực nhau và vô hiệu hóa tị nạn
chính trị. Lúc nào và ở đâu, cộng sản cũng thâm độc. Sau ngày 30 tháng 4-1975,
chúng ta nhận diện rõ những tên nằm vùng gộc, những tên ăn cơm quốc gia ngon nhất,
những tên chống cộng nỏ mồm nhất và chụp mũ cộng sản lên đầu người quốc gia kỹ
nhất. Những tên nằm vùng này nằm trong mọi lãnh vực, mọi cơ cấu quốc gia. Người
ta sẽ nhìn rõ “đồng nghiệp” nằm vùng của chúng ở Hoa kỳ, ngày nào đó, khi Hoa kỳ
bang giao với cộng sản Việt Nam. Người ta sẽ ngỡ ngàng. Người ta sẽ có kinh
nghiệm. Nhưng kinh nghiệm đó không còn cơ hội… rút tỉa nữa. Cũng chẳng ai thiết
rút tỉa nữa. Nói tóm lại, cộng sản Việt Nam đánh chúng ta mọi mặt, đánh rộng
rãi, đánh kiểu mới; chúng ta thu hẹp sự đánh cộng sản vào từng Mặt trận, từng Lực
lượng, từng Hội đoàn… Chúng ta đánh chúng ta kỹ hơn chúng ta đánh cộng sản. Cộng
sản chuyên chế, cấm đối lập. Chúng ta cũng cấm… đối lập, dù chúng ta hô hoán
chiến đấu cho tự do, dân chủ. Năm 1985, ở Mỹ, ở Úc, ở Âu, chúng ta vẫn chống cộng
kiểu cũ, mốt 1954 ở Việt Nam. Vẫn vậy, những cuộc tuần hành đả đảo cộng sản
ngày quốc hận 30-4-75 như ngày quốc hận 20-7-54, càng năm càng thưa dần. Vẫn vậy,
những trang báo, những hình ảnh mô tả Hà nội, Sài gòn hôm nay nghèo đói, cúp điện.
Vẫn vậy, những buổi diễn thuyết hiếm hoi bàn về cái thế tất thua của cộng sản một
cách khơi khơi. Cái mới mà chúng ta mong mỏi là tư tưởng chiến đấu thật mới, thật
thích ứng với người Việt lưu vong để tận diệt cộng sản giải phóng quê hương thì
chưa hề có. Nhưng đã có những Hội Nghị và Nghị Hội với những khuôn mặt cũ mèm
không bao giờ biết xấu hổ. Xin làm ơn ghi nhận: Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều
khuôn mật thật mới. Hình như ít ai trong chúng ta “bi quan” nghĩ rằng, chúng ta
không được phép thất bại, không còn thì giờ làm lại nữa vì chúng ta “lão thành”
rồi. Hình như, tất cả đều “lạc quan” mình còn trẻ lắm, sau mình là đại hồng thủy
nên đã thất bại liên miên, đã làm lại liên miên và chưa chịu tỉnh ngộ những kẻ
đã hết thời thì không thể tạo thế.
Hôm nay là thế của tuổi trẻ dĩ vãng vằng vặc trăng sao, hiện tại hừng
hực mặt trời, thời của sư tử trẻ không còn là thời của mèo
già. Tuổi trẻ sẽ tạo ra thế. Nhiệt tình, tự phụ, thông minh, kiến thức
và lương thiện của tuổi trẻ tạo ra cái thế chiến đấu mới để chiến thắng
cộng sản. Nhưng, tuổi trẻ, anh ở đâu, thần tượng của tôi, hy vọng của dân tộc?
Anh cũng còn chưa có mặt tại Nghị Hội, nói chi anh là lãnh tụ. Mà tôi, tôi chưa
ngu đi lạy bọn mèo già hen suyễn để chúng nó “thương tình” cho tôi ân huệ trình
bầy sự chống cộng sâu sắc của đồng bào quốc nội và đồng bào quốc ngoại. Bởi,
tôi biết mèo già sẽ từ chối. Chúng nó không thích ai chổng cộng sản hay hơn
chúng nó. Chúng nó độc quyền hen suyễn khò khè chống cộng sản.
Một triệu bài báo viết về sự nghèo đói của thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không hơn một bức hí họa không lời của dân gian vẽ trên tường
rêu của Hà Nội. Bức tranh rất đơn sơ: Cái xe đạp không chuông, không “phanh”,
không đèn, không “gác đờ bu” , “gác đờ sen”, chỉ có có mỗi cái “poọc ba ga” chở
ba bó rau muống. Mỗi bó rau muống được ghi chú bằng lời một bài hát ca ngợi Đảng: Cho
ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau. Vậy thì ba bó rau muống trên
cái “poọc ba ga” của cái xe đạp tam tứ ngũ lục thất bát. . .vô, bó thứ
nhất cho ngày nay, bó thứ hai cho ngày mai, bó thứ ba cho
muôn đời sau , tưởng đã đủ “chửi cha” Đảng và chủ nghĩa cộng sản. Giá trị
chống cộng của bức hí họa là nó đánh cộng sản ngay trên đất cộng sản, nó đánh Đảng,
đánh bọn thống trị bóc lột quần chúng và làm ngu dốt quần chúng. Nó không đánh
nạn nhân của cộng sản, những người sống trong quỹ đạo cộng sản và bị trở thành
công cụ tội nghiệp của cộng sản. Nó không đánh con người khờ khạo nói ngọng .
Đến câu chuyện tiếu lâm sau đây thì tôi quả quyết quốc ngoại chống cộng thua hẳn
quốc nội chống cộng về mặt tư tưởng: Unesco tổ chức thi tranh, giải thưởng lớn,
đề tài “Nạn đói và người đói”. Các nước trên thế giới đều được gửi tranh dự
thi, bất kể theo chế độ chính trị nào. Vòng thứ nhất, tranh của họa sĩ Hoa kỳ bị
bại. Vòng nhì: các nước Tây Âu. Vòng ba: các nước Nam Mỹ, Phí Châu. Vòng tư:
Liên Xô và các nước Đông Âu. Cuối cùng, Unesco tuyên bố tranh của họa sĩ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đoạt giải thượng ngoại hạng. Phòng triển lãm khai
mạc chỉ treo bức tranh thuộc loại “siêu phẩm” trúng giải. Loài người háo hức đi
xem và đều trầm trồ ca ngợi là thể hiện đúng “Nạn đói và người đói” ở các nước
cộng sản. Bức tranh diễn tả một công dân Việt Nam trần truồng, gầy đét, ngồi
khom lưng rặn ra. Rặn hoài mà phân không ra. Rặn đến màng nhện mọc kín đít,
trùm mông mà phân vẫn không ra. Vì có gì ăn đâu mà tiêu hóa! Đói thế là đói ở cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiếu lâm trên được ca dao phụ họa:
Từ khi ta có cụ Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào
Và
Ai sinh ra cái củ mì
Hỏi để làm gì, đáp để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn khoai mì
Tôi không mấy tin tưởng vào “sự nghiệp chống cộng” của những kẻ thiếu nhiệt
tình và chưa hề thể nghiệm nỗi thống khổ kinh qua đoạn trường cộng sản. Những
lãnh tụ mèo già hen suyễn khò khè chống cộng chỉ khiến tôi buồn nôn. Từ trong
ngục tù tôi đã nghĩ rắng những cái sẹo cộng sản trên thể xác đàn anh, những dấu
ấn cộng sản khó phai nhòa trong tâm khảm đàn anh, sự lương thiện chiến đấu của
đàn anh cộng với nhiệt tình và lòng tự phụ của đàn em, chắc chắn, sẽ làm nên đại
sự. Đàn em đủ sức công kênh nhau hái trái chín vàng mơ ước nấp sau chùm lá nào
đó trên cây cao mỏi mắt chờ đợi đàn anh hướng dẫn. Nhưng đàn anh biết trái chín
vàng mơ ước ở chỗ nào mà không chịu chỉ hay đã chỉ láo, chỉ bậy để đàn em múa
tay vu vơ rồi tuyệt vọng và sa đọa. Tôi nhớ Đoàn Kế Tường, nhớ Chí Hòa và nhớ
vô cùng những con sư tử lãng mạn tôi đã gặp ở đề lao Gia Định… Dù bị quốc gia
giả đạo đức, dù bị cộng sản đánh dập đánh vùi và gắn cho tước hiệu “nhà văn du
đãng”, đọc lại Điệu ru nước mắt, Sa mạc tuổi trẻ, tôi vẫn thấy tự hào
là đã nói lên được nỗi niềm u ẩn của tuổi trẻ. Tôi lại tiếp tục nói giùm tâm sự
của họ, của tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-1975, khi tôi gặp họ trong tù, ngoài đời;
trong nước, ngoài nước. Tuổi trẻ trong nước đã kinh qua thống khổ cộng sản. Tôi
tin rằng tuổi trẻ ngoài nước cũng đã kinh qua thống khổ cộng sản hoặc đã cảm
thông nỗi thống khổ cộng sản mà dân tộc đang ngậm ngùi chịu đựng.
Thế thì, giấc mơ của tôi không tàn. Vì chúng ta còn tuổi trẻ, còn nhiều tuổi trẻ.
CHƯƠNG 15
Những
trang đã viết về tuổi trẻ,
cho tuổi trẻ suy tư từ ngục tù.
Những ai
đã trọ ở quán Đề Lao Gia Định vào những năm 1975, 1976 và 1977 đều biết mặt hay
biết tên những người tuổi trẻ Sài gòn đánh cộng sản, bị khép tội phản động, những
người tuổi trẻ Sài gòn mà tôi gọi là những con sư tử non lãng mạn và cô đơn. Từ
cuối 75 tới giữa 76, bầy sư tử lãng mạn lần lượt dính cạm bẫy và hiên ngang vào
tù. Con trai. Con gái. Tất cả đều ngẩng mặt thách thức cachot, xiềng xích. Tất
cả đều thắp lửa tím rực rỡ làm kẻ thù nể nang và làm đàn anh cúi mặt.
° ° °
Phẩm cách
tuổi trẻ
Tôi chưa thấy cái kiêu hùng của Bà Trưng, Bà Triệu, của Cô Giang, cô Bắc. Nhưng
tôi đã thấy, tận mắt, các cô sinh viên trường Luật, các cô nữ sinh trường Lê
Văn Duyệt, Gia Long chân mang xiềng mà miệng vẫn mỉm cười.
Tôi chưa thấy cái anh dũng của Phạm Hồng Tháỉ, của Nguyễn Thái Học, của Ký Con,
của Trần Bình Trọng. Nhưng tôi đã thấy, tận mắt, các cậu sinh viên Vạn Hạnh,
các cậu học sinh Chu văn An, Nguyên Trãi… tay đeo còng mà mắt vẫn mộng mơ.
Họ biến thành khách hàng thượng hạng sáng giá nhất của Công Ty Khách Sạn Nhà Tù
Cộng Sản. Người trẻ măng, 16 tuổi. Người trưởng thành, 22 tuổi. Tôi nhìn các cô
ra vào cachot và in dấu chân tuyệt đẹp trên hành lang khu C1 . Tôi
nhìn các cậu ra vào cachot và gửi niềm tin chiến đấu thánh thiện trong gió quê
hương. Rồi, hân hạnh biết bao, tôi được nằm chung với các cậu qua các phòng
giam của các khu Cl và C2. Và khu FG, AH, BC của đỉnh cao tù ngục Chí Hoà.
Tôi quen thân Đặng Hữu Trí 16 tuổi, hiền lành và rất dễ thương. Đặng Hữu Trí
can tội dám lập một tòa án xử Hồ Chí Minh. Tòa án vỏn vẹn ba người. Trí đóng
vai chánh án. Hai bạn của Trí, một công tố viện, một luật sư . Bị cáo
Hồ Chí Minh chỉ là bức chân dung Người, in offset do nhật báo Sàigòn
giải phóng ấn hành. Luật sư cố gắng biện hộ tội ác cho Hồ Chí Minh. Công tố
viện buộc tội khắt khe. Chánh án Trí tuyên án xử tử Hồ Chí Minh. Chân dung Bác
bị châm lửa đốt ngay tại tòa, một lớp học vắng vẻ. Tòa bế mạc. Câu chuyện được
truyền tụng trong bạn bè. Rồi lọt tai công an. Chánh án, công tố viện, luật sư
bị còng tay, bịt mắt dẫn đi. Luật sư, nhờ bênh vực Hồ Chi Minh, được tha về,
sau một tuần lễ chấp pháp. Công tố viện, chánh án nằm cachot dài dài. Mà vẫn tự
hào mình đã dám xử tử Hồ Chí Minh.
Tôi quen thân Hoàng Sơn Trường, 18 tuổi, cận thị, can tội chống phá “cách mạng”.
Sài gòn mất, Trường mất mát nhiều thầy, cô, bạn bè, kỷ niệm. Cậu buồn bã đi tìm phục
quốc. Chẳng gặp ai, cậu ghé chùa An Lạc, rủ một chú tiểu tính chuyện nước
non . Chú tiểu – tôi quên tên – hẳn đã đọc Tiêu Sơn tráng sĩ, bèn dậy
tình sông núi. Vậy là chùa An Lạc, nằm phía sau đường Phạm Ngũ Lão, Sài gòn, biến
thành trụ sở của “tổ chức”! “Tổ chức” nhiều nhiệt tình nhưng lắm vụng dại. Và
“tổ chức” bị lộ. Hoàng Sơn Trường và An Lạc tráng sĩ vào tù . Mẹ của Hoàng Sơn
Trường “nằm vùng” tới chức Phó chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh Sông Bé. Trường nằm
cachot, hai tay bị còng chéo sau lưng liên tiếp 38 ngày đêm vì khước từlàm việc. Mẹ
Trường tới đề lao, dụ dỗ cậu khai báo “đồng bọn” để được tha ngay hoặc mẹ cậu sẽ
đoạn tuyệt cậu. Trường không khai báo. Cậu bị gia đình bỏ rơi. Và cậu không hề
than thở.
Những cậu học sinh như Đặng Hữu Trí, Hoàng Sơn Trường, tôi đã gặp. Thí dụ thêm
Đặng Cơ Bản, Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượng, Trí loa, Trí ghẻ, Ngô Tỵ, Nguyễn
Khánh Long… Các cậu ấy anh hùng trong hành động và biết giữ gìn phẩm cách khi
sa cơ, thất thế. Tuyệt đối tôn trọng Nội quy nhà tù. Không lèm bèm trong bóng tối.
Không chống đối rẻ tiền. Biết kính mến người tuổi tác và sẵn sàng giúp đỡ người
bệnh hoạn. Điều mà tôi suy nghĩ và cộng sản suy nghĩ hơn là động lực nào đã quyến
rũ các cô các cậu Sài gòn xuống thuyền một cách lãng mạn thế! Trước khi mời cộng
sản chiếm Sàigòn, người Mỹ đã tận dụng các hệ thống tuyên truyền vĩ đại của
mình để hù dân tộc Việt Nam, rằng cộng sản sẽ giết hết dân Sài gòn, sẽ có “biển
máu” ở miền Nam. v.v… Do đó, bọn thống trị hèn mạt, bọn tướng lãnh đào ngũ, bọn
dân biểu, nghị sĩ bù nhìn, bọn làm giầu bằng chiến tranh, bọn lãnh tụ xôi thịt…đã
cuốn gói chạy thật nhanh, dù bị lính Mỹ đạp đá như súc vật, ở phi trường Tân
Sơn Nhất và ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ! Bọn hưởng thụ trên xác chết của lính chiến, bọn
nhẩy đầm trên tiếng khóc của quả phụ, bọn uống sâm banh nước mắt của cô nhi, bọn
cười đùa nỗi khổ của đồng bào, bọn kên kên rút ruột, mổ mắt tổ quốc, đã cuốn
gói chạy thật nhanh để lại toàn bộ “chiến hữu” cho cộng sản quản lý, trong tù
và trại tập trung khổ sai lao động. Tất cả đều đã tan rã. Bức dư đồ rách bươm
. Đàn trẻ của Tản Đà, đau đớn thay, lại toàn lũ lãnh đạo chỉ biết chạy, chạy và
chạy. Những kẻ không thích chạy trốn, không thèm chạy trốn mà còn đòi bồi vá bức
dư đồ rách, đẹp đẽ thay, lại là tuổi trẻ Sài gòn sau 30-4-1975.
Người cộng sản đặt nghi vấn: Tuổi trẻ Sàigòn chống chúng tôi với mục đích gì? Họ
có bị tước đoạt quyền bính đâu mà đòi phục hồi quyền bính cũ? Mà họ đã làm gì
có quyền bính. Giữa chúng tôi và họ chưa nợ nần gì nhau. Tại sao họ chống chúng
tôi? Nghi vấn ấy đã làm điên đầu cộng sản. Tuy rất cay cú tuổi trẻ nhưng họ phải
kính phục. Những câu trả lời của tuổi trẻ Sài gòn hôm nay nằm trong Sỏi đá
ngậm ngùi, Bầy sư tử lãng mạng, Hồn say phấn lạ. Nên nhớ thêm rằng, trong
nhà tù cộng sản tôi đã gặp khá nhiều tổng trưởng, thủ tướng, bộ trưởng, sư đoàn
trưởng! Rặt bọn thèm quyền bính phong chức tước cho nhau và tự phong. Rồi đi tù
! Tuổi trẻ Sài gòn không xuống thuyền vì chức tước, vì quyền bính. Họ mới đích
thực là lãnh tụ của tôi. Phần còn lại của đời tôi, tôi sẽ dành để ca ngợi họ.
Nhiều người đã chết. Nhiều người đã về nhà với bệnh hoạn. Riêng và duy nhất Bầy
sư tử lãng mạn, gồm 28 người, dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương, hiện
đang nằm dưới hầm đá của trại Nam Hà B, Hà Nam Ninh (trại Đầm Đùn cũ). Chẳng một
ai ở ngoài nước biết đến họ, dẫu người ta hô hào chống cộng sản, kháng chiến và
tôn vinh vô số liệt sĩ. Hình như, những người tuổi trẻ dấn thân vào cuộc chiến
đấu mới cũng chẳng thấy cần thiết phải có sự biết đến của những ai
đang “âm mưu” chống cộng sản, ở ngoại quốc, dĩ nhiên. Trước hết, tuổi trẻ
Việt Nam đã thực sự trưởng thành. Để tự làm cái mũ đội lên chính đầu mình. Thế
hệ tuổi trẻ làm guốc cho lãnh tụ giả hình mài mòn vẹt trên đường công danh đã
chấm dứt. Ở Sàigòn, đừng tưởng dân chúng còn ham nghe những tiếng nói chết vọng
về từ bên kia Thái Bình dương. Đừng tưởng nữa và nên im lặng. Giữa tiếng nói sống
và tiếng nói chết đã là một phân ranh đánh dấu một thời đại. Thời đại của chống
cộng rầm rộ và ồn ào đã vô hiệu quả. Những hô hoán chống cộng là tiếng nói chết.
Nó đang buồn hắt hiu bên kia ranh giới của ba mươi năm cũ. Bên đây ranh giới,
tiếng nói sống quyến rũ và tích cực: Đánh cộng sản. Đánh bằng nhiệt tình và
lòng tự phụ. Đánh cộng sản để thắng cộng sản. Đánh cộng sản không mưu cầu địa vị,
công danh; không mộng mơ cái chức lãnh tụ hư ảo. Đánh cộng sản vì hạnh phúc của
dân tộc, vì quyền sống của con người và thản nhiên bước vào tù ngục để bị đầy đọa
đến chết mòn.
Nhưng, từ đó, từ khởi sự của tuổi trẻ Sàigòn 30-4-75, là một thời đại mới, thời
đại đánh cộng sản; thời đại mời gọi thương yêu gần gũi, thời đại ngăn cấm tàn
sát, tù ngục, tập trung sau chiến thắng. Và tôi, người nghệ sĩ, tôi xin phép được
đứng trong thời đại mới- dù tôi ở Paris, ở Washington hay ở Sài gòn. Tôi đặt hết
niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam, bất kể lưu vong hay không lưu vong, thế hệ tuổi
trẻ biết sáng tạo trong đấu, nhân danh hạnh phúc dân tộc, tự lên ngôi để
vừa đánh cộng sản vừa học cách đánh. Nhị thập bát tú, 28 con sư tử non trong Bầy
sư tử lãng mạn , như những lãnh tụ của tôi, những con người đích thực giải
thoát quê hương, không cần ai nghĩ tới cái chết của mình, không cần ai quyên tiền
đóng góp, không cần cả một nén hương tưởng niệm.
(Trước khi vào Sỏi Đá Ngậm Ngùi)
Nam Á Paris 1985
° ° °
Tư tưởng
mới của tuổi trẻ
Tôi đứng dậy, ra tận cửa, nhìn bên ngoài qua ô cửa gió. Đêm buồn bã. Sân cỏ ướt
đẫm sương khuya. Dẫy tập thể, đèn néon sáng trưng. Các phòng tù nữ, mọi người
đang ngủ trong những cái mùng giăng thấp lè tè. Ở phòng bệnh lao, một vài ông
già ôm ngực ho. Từng chuỗi tiếng ho quằn quại cơ hồ những băng đạn quạt vào cuộc
đời khốn khổ. Con đường hệ lụy, không ai ngờ lại có những nhà tù và những người
tù chẳng hiểu mình can tội gì. Người ta sinh ra, cố sống thật lương thiện với
lòng mình mà cam đành nằm ngục. Nếu người ta biết gian dối, người ta chấp nhận
triết lý sống của loài cỏ đuôi chồn, có lẽ, yên thân hơn. Khổ nỗi, những người
quá lương thiện thường bất bình những kẻ gian lận trong các trò chơi tư tưởng.
Và, do đó, mới sản sinh ra loại tù nhân tư tưởng. Anh không chấp nhận một quan
điểm nào đó của một người nào đó, nếu người ấy chưa nắm quyền bính, anh sẽ bị
bôi bẩn, sẽ bị truyền khẩu hạ nhục, sẽ bị rỉ tai vấy nhơ; nếu người ấy nắm quyền
bính, anh sẽ bị bỏ tù, sẽ bị giết. Người ta đã chống đối tư tưởng của nhau và
người ta đã giết nhau theo cung cách ấy. Nhưng ít ai nghe tiếng ho quằn quại
trong ngục thất đêm khuya, những tiếng ho không gợi niềm trắc ẩn và không đánh
thức nổi lương tri của con người.
Trước đây, tôi sống rất hời hợt, tôi đã sống với hình thức của đời sống chứ
chưa hề sống với nội dung nó. Mỗi kinh qua của lịch sử là mỗi kinh nghiệm tuyệt
vời. Nhiều thứ phải chết cho nhiều thứ sống lại. Những thứ chết là lòng ích kỷ,
sự ỷ lại, tâm hồn vọng ngoại, thói tị hiềm và mưu cầu hạnh phúc riêng tư. Những
thứ sống lại là nhiệt tình, lòng tự phụ, sự can đảm, niềm tự tin và ước mơ xây
dựng hạnh phúc cho mọi người. Tôi thức tỉnh do lịch sử sang trang bất ngờ,
nhưng tôi khôn lớn , tôi biết nhìn vào nội dung cuộc sống nhờ những đêm im lặng
hãi hùng trong các thứ cachot. Cuộc sống vô tận, tôi mới chỉ ngốn hết ba mươi
trang. Tôi chưa hiểu mình sẽ sẽ đọc đến trang thứ bao nhiêu. Thật lòng, tôi muốn
đọc tới trang cuối cùng. Nhiều bạn bè tôi đã di tản trước ngày 30-4-1975. Họ
đang có mặt ở Mỹ, ở Pháp, ở Gia Nã Đại . Tôi không biết tâm trạng họ ra sao,
nhưng biết chắc họ đã thỏa mãn vật chất.
Đời sống được định nghĩa thế nào? Nếu nó đã được định nghĩa là sự thụ hưởng thì
mọi kinh qua của lịch sử đều vô ích, thì những người di tản qua Mỹ, qua Pháp phải
cám ơn cộng sản. Nhờ cộng sản thôn tính miền Nam họ mới có cơ hội xa quê hương,
có nhà cao cửa rộng, có xe hơi chạy vung vít, có những đêm nhảy đầm tíu tít và
có những giọt nước mắt cay thuốc lá gửi về “xót xa cho những người ở lại”. Ngay
thẳng mà nói, nhiều người di tản và vượt biển phải cám ơn cộng sản vô vàn. Đời
sống tăm tối của họ, sự ngu dốt của họ tại quê nhà đã rực rỡ và sáng giá tại
quê người. Và họ đã dám âm mưu cả chuyện về giải thoát chúng tôi! Buồn cho họ,
đời sống đã không bao giờ được định nghĩa là sự thụ hưởng vật chất. Những miếng
ngon nhất và những miếng tồi tệ nhất đều tiêu hoá giống nhau và đều có mùi vị
giống nhau. Miếng ngon có thể làm cho con người béo mập, phì nộn, đồng thời, nó
cũng làm con người ngu si, ích kỷ, hẹp hòi, ti tiện. Miếng tồi tệ – miếng cơm
tù đày, chẳng hạn – làm gầy mòn con người nhưng lại giúp con người khôn ra, lớn
lên, đầy đủ chiều cao, chiều rộng, chiều sâu; giúp con người từng trải, độ lượng
và cao thượng. Vậy thì đời sống chỉ có định nghĩa chính xác với ai dám sống, sống
đến tận cùng và can đảm chịu đựng mọi thử thách cam go của đời sống. Bởi vì,
sau những thử thách khốn cùng, con người sẽ để lại một ý nghĩa cao cả cho những
đời sống kế tiếp.
Tôi không có tham vọng ghê gớm ấy. Đời sống đẩy tôi vào sự thử thách quá ngỡ
ngàng đối với tôi. Lịch sử dẫn tôi ra khơi, bỏ tôi loay hoay giữa cuồng sóng.
Tôi phải tự lo lấy. Không ai giúp tôi cả. Không ai an ủi tôi cả. Tôi nhập cuộc
cũng không cần đòi hỏi những đền bù này nọ. Tôi chiến đấu cần thiết như tôi thở,
tôi yêu. Thế thôi. Lãng mạn và cô đơn. Âm thầm và khiêm tốn. Còn ai thích hiểu
sao, tùy ý họ. Tôi không bao giờ là chiến hữu của những người trong trận tuyến
hư ảo, những người đang cổ võ phục hồi cái dĩ vãng tanh ươn, mục rã. Nếu chiến
đấu để sống lại tháng năm buồn tênh cũ, thà chấp nhận cái hiện tại rạc rài này
còn hơn. Tôi cũng chẳng bao giờ là chiến hữu của những người hiếu sát hung hăng
đòi giết hết quân thù. Thời đại của tàn sát đã cáo chung. Không có thứ hạnh
phúc nào tưới bằng máu cả. Những kẻ toan tính thọc huyết kẻ thù như thọc huyết
heo là những kẻ ngu xuẩn, hắc ám và dốt nát; là những kẻ toan tính thiết lập ở
quê hương Việt Nam những lò sát sinh ghê tởm hơn cả những trại tập trung lao cải.
Tôi chống sự man rợ từ mọi phía và tôi thành thật nói rằng, khi lịch sử đã sang
trang có nghĩa là gánh hát đã rã đám, đào ca, kép hát và hề đã bị sa thải.
Không ai để cho bọn đào kép cũ chơi tuồng mới nữa. Dân tộc đã chán nản họ.
Chỉ còn những đứa vô liêm sĩ mới tự hoá trang, mũ mảng cân đai diễn trò phục hồi
dĩ vãng. Và cũng chỉ còn những đứa cắn hạt gạo chưa vỡ mới cổ võ cái trò hề rẻ
tiền ấy. Chúng tôi dấn thân vì không muốn bị tách rời khỏi dĩ vãng của mình. Dĩ
vãng của chúng tôi, dứt khoát, không nằm trong dĩ vãng hèn mạt của hai mươi năm
lịch sử ô uế miền Nam, của ba mươi năm lịch sử ô uế miền Bắc. Nó ở trên tất cả.
Nó đòi hỏi kép mới, tuồng mới. Nó đòi hỏi tẩy sạch những trang lịch sử đầy vi
trùng mác xít của bọn lãnh tụ giả danh, của lũ lãnh tụ tôi mọi tư bản. Nó đòi hỏi
một tương lai thật mới, thật lạ, thật nhân bản. Nó muốn dân tộc đoàn tụ và yêu
thương . Hàng chục ngàn người tuổi trẻ Sàigòn, bầy sư tử non của thời đại, đang
có mặt trong các ngục tù cộng sản, đã xuống thuyền vì nó. Sư tử không rống, như
đào tàn tạ nhan sắc, như kép hoen rỉ giọng ca. Sư tử âm thầm và khiêm tốn. Sư tử
lãng mạn và cô đơn. Ý nghĩa cao cả của chiến đấu là, hãy trực diện đương đầu với
quân thù, hãy chấp nhận trừng phạt của quân thù, không kêu cứu, không rên siết,
không nghĩ thất bại, không màng thành công. Ý nghĩa đó làm sao tìm được ở bọn
chạy trốn, bọn đào ngũ trước lệnh đầu hàng. Ở bất cứ không gian và thời gian
nào, bọn tiêu bạc giả vẫn ồn ào hơn những người tiêu bạc thật, và, đôi khi, tiếng
nói của chúng khỏa lấp tiếng nói của người khác bằng bạc giả của chúng tung ra.
Tôi trở về chỗ nằm, đợi chờ giấc ngủ. Con cắc-kè già trên cây me góc sân cọ cựa
cổ họng và buông những tiếng buồn thảm. Đêm cachot, nghe cắc-kè kêu, hình tưởng
vô vàn những đổ vỡ, mất mát. Cuộc chiến hai mươi năm kết thúc thật phũ phàng
nhưng cũng thật lạ lùng. Vớ những người Việt Nam chân chính muốn tái tạo một xã
hội lương thiện, tốt đẹp thì sự kết thúc của cuộc chiến là một vận hội mới. Nó
bứng tận cội rễ giai cấp thống trị bất lương và gian manh. Nó phơi bầy rõ rệt
chân tướng của bọn tướng lãnh “pạc-ti-dăng”, gái, rượu, ăn cắp, buôn thuốc phiện,
chứa thổ đổ hồ. Nó tước đoạt hết quyền uy kinh tế của lũ tư sản mại bản Chợ Lớn,
thứ quyền uy từng rút máu và gặm thịt nhân dân Việt Nam và thông đồng với Cộng
Sản. Nó đẩy đám làm giầu trong chiến tranh, làm giầu trên nghĩa trang quân đội vào
tù ngục. Nó dìm bọn cầy cáo, gia nô, hạc gỗ xuống đất đen. Đồng thời nó lay động
tâm hồn thật của dân chúng. Nó kêu gọi vất bỏ ích kỷ, ươn hèn. Nó mời gọi đùm bọc,
yêu thương. Nó soi sáng ý nghĩa tự do, dân chủ, đau khổ và hạnh phúc. Nó cụ thể
những gì đã là trừu tượng. Nó kích thích những giọt nước mắt và vuốt ve nhiệt
tình. Không cần nói Cộng Sản gian ác, thú vật nữa. Bầy quỷ đã vào thành phố. Và
ngay cả con nít cũng xa lánh, ghét bỏ. Người Việt nhìn rõ cả trái đất để làm lại
miếng đất cua mình. Chuyến đi trăm năm của người Việt đã quá xa, quá cay đắng.
Bây giờ là lúc trở về. Trở về từ bước thứ nhất thong thả, vững chắc. Trở về từ
ý nghĩ mới, tâm hồn mới, tư tưởng mới. Những kẻ ôm khư khư cái hào quang đắc thời
nô bộc không thể trở về. Thời đại của khuyển Nho, khuyển Tây, khuyển Nhật, khuyển
Mỹ đã đăng cáo phó. Và sắp đăng cáo phó thời đại khuyển Nga, khuyển Tàu.
Đã vắng mặt chính quyền trên đất nước này, lâu rồi. Chỉ có phỉ
quyền và ngụy quyền. Một bên ăn cướp, một bên ăn cắp. Cả hai đều
là tay sai của ngoại bang. Cả hai đều tồi tệ, đốn mạt. Số phận của dân tộc
chúng ta, bao nhiêu thế hệ tuổi trẻ, nằm trong tay bọn ăn cướp và bọn ăn cắp. Lịch
sử dâng hiến chúng ta vận hội mới, lịch sử lột mặt nạ phỉ quyền, lịch
sử đào thải ngụy quyền. Chúng ta có thể làm chính quyền rồi đấy.
Cả dân tộc đang làm chính quyền trong ngục tù bao la và trong ngục tù
giới hạn. Hạnh phúc của người Việt Nam không thể có từ nước miếng ly hương, từ
sự mô phỏng áo quần, khăn rằn lố lăng khờ khạo, từ champagne tuyên ngôn, tuyên
cáo. Mà phải khởi sự tù bát cơm độn ngô, khoai, sắn, từ những giọt mồ hôi cưỡng
bức rơi xuống luống cầy; từ nỗi khát sữa của em thơ; từ nỗi thèm gặp con trong
tù của mẹ già; từ những cái gì khắt khe, quái đản đã từng phút diễn ra trên khắp
quê hương, đang từng phút đè nặng lên thân phận dân tộc Việt Nam.
Sự kết thúc của cuộc chiến hai mươi năm đã làm nhiều người lớn lên, đằm thắm,
thiết tha; nhưng cũng làm nhiều người bé đi, giả tạo, hời hợt. Nghĩ mà thương
những người lính của chúng ta đã chết anh dũng ở chiến trường. Những con người
bé nhỏ chưa để họ yên nghỉ dưới mồ. Kẻ thù đã quật mồ mả họ, san bằng nhiều
nghĩa trang của họ, bêu nhục và khu trừ vợ con họ. Những con người bé nhỏ còn nỡ
nhân danh xác chết tuyệt tích nấm mồ của họ, tính chuyện mưu bá đồ vương. Những
con người bé nhỏ không thích làm chính quyền. Với họ, có lẽ, làm chính
quyền nhiêu khê quá. Họ phải khởi sự từ số không . Mà khởi sự từ số không
thì họ không ra gì cả. Do đó, họ khư khư cái dĩ vãng phù phiếm, xúm nhau lại
đánh bóng nó thêm, mô phỏng trò chơi của phỉ quyền, hăm hở trong cuộc phục
hồi quyền bính dĩ vãng, phục hồi ngụy quyền, phục hồi rác rưởi và cóc
chết. Tôi dấn thân để đóng góp đôi chút vào công cuộc tạo dựng một chính quyền
cho xứ sở, để được sống bình yên chung quanh những người Việt Nam hiền lành,
lương thiện, được tuân lệnh những người cai trị sáng suốt, hiền lành, lương thiện.
Ngoài ra, tôi không tơ hào gì cả. Bởi vì, lịch sử vừa mới dậy tôi, tất cả đều
phù ảo, trừ hạnh phúc vĩnh cửu của mọi người.
(Ý nghĩ của cô Lan trong Sỏi đá ngậm ngùi -
Nam Á Paris, 1985)
° ° °
Thư cho
tuổi trẻ dấn thân
Em Hoàng Sơn Trường,
Anh không biết em còn sống dưới hầm đá biệt giam ở trại Đầm Đùn hay đã chết rồi.
Nếu em còn sống, em đang đếm từng ngày trong bóng tối lạnh lẽo. Nếu em đã chết,
xác em chôn dưới vùng đất nào của quê hương, chẳng ai rõ. Chắc chắn trên nấm mồ
hiu quạnh của em, thiếu cái mộ bia mơ ước như em thường nói với anh, hồi chúng
ta nằm chung xà-lim số 7 hôi hám của khu C1 đề lao Gia Định. Em mơ ước gì nhỉ?
Em muốn mộ bia của em khắc Búa Liềm và Còng Mỹ. Và em giải thích rằng, vì Còng
Mỹ và Búa Liềm mà em chiến đấu và em hy sinh tuổi trẻ của em. Mơ ước của em thật
lạ lùng. Nó cũng lạ lùng như sự dấn thân lãng mạn và cô đơn của em, của bạn bè
em, của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tuyệt vời.
Em nhớ chứ, Trường thân mến, hôm đầu gặp gỡ, anh thử em bằng câu hỏi ngờ vực và
bằng sự phán xét kẻ cả về mục đích em theo đuổi, em đã trả lời anh:
“Em kính mến anh lắm. Nhưng con đường em đi em tin là chính đạo và lý tưởng.
Mong anh đừng bàn tán rắc rối!”
Anh phục em từ đó. Chúng ta thân nhau. Trong tù, dĩ nhiên. Em kể anh nghe cái động
lực xui em chiến đấu và sự trở về đời sống thảnh thơi, im lặng của em. Thế
thôi. Là đã hừng hực mặt trời tuổi trẻ. Là đã vằng vặc mặt trăng tuổi trẻ. Ở tù
không hứa hẹn gần nhau lâu, anh bị chuyển xà-lim, chuyển dài dài, chuyển phờ phạc.
Anh phiêu lưu khắp cõi đề lao. Cuối cùng, anh gặp Ngô Tỵ tại xà lim số 3C1 . Ngô
Tỵ nói về em: “Em không hề biết mặt thằng Trường khi em gia nhập tổ chức của
nó. Em vẫn tưởng nó phải lớn tuổi, to con, đầy vẻ bí mật. Nằm khu A, buổi sáng,
đi đổ rác em gặp tráng sĩ chùa An Lạc, em hỏi tráng sĩ chứ đảng trưởng đâu,
tráng sĩ kéo một thằng lùn tỉ, đeo kính cận ra cửa xà lim khoe em. Em bèn hỡi
ơi, đảng trưởng của mình nhóc hơn mình”. Anh hỏi Ngô Tỵ: “Bây giờ, em
còn phục nó không?” Ngô Tỵ cười: “Nó hay thật, anh ạ”! Em đã quyến rũ bao nhiêu
bạn bè, em đã quyến rũ anh. Em tuyệt diệu.
Anh gặp thêm Đinh Cường, Đinh Dũng, Đinh Vượn, Nguyễn Khánh Long, Đặng Cơ Bản,
Nguyễn Hữu Trí… Rồi lang thang sang khám Chí Hòa, anh gặp vô số những khuôn mặt
yêu nước khiến anh lợm giọng. Và anh buồn bã là không còn được sống với các em.
Những khuôn mặt yêu nước: những anh già nua thèm danh vọng trải dải đời mình
qua các chế độ chưa nắm nổi một địa vị bình thường, những anh thèm thuồng quyền
bính đến ngớ ngẩn tội nghiệp đã tụ tập nhau mưu đồ phục hồi dĩ vãng tanh ươn. Họ
lập chính phủ, phong cho nhau làm tổng thống, thủ tướng, tổng trưởng. Một xà
lim của anh có đến…ba nội các. Và ba vị thủ tướng hét chửi nhau vì quan điểm
chính trị lại chửi nhau vì cơm chia không đồng đều, vì chỗ ngủ thiếu ni tấc!
Anh gặp những ông quận trưởng vẽ vời chức tước tỉnh trưởng ngày mai. Anh gặp những
ông chánh án, dự thẩm vẽ vời món tiền lương “ráp pen” ngày mai. Anh gặp những
ông tá vẽ vời sao tướng ngàn mình chống cộng sản vì tổ quốc và dân tộc. Họ ưa kể
lể công lao nằm tù của họ. Nằm tù, với họ, là cái gì thiêng liêng, cái gì đầy đủ
đặc quyền đặc lợi khi cộng sản tan rã. Nằm tù với họ, là sự ngưỡng mộ của toàn
dân, mặc dù họ vì vạ miệng, vì say mèm nói láo, vì ham danh vọng nhào vô, vì tự
ý dẫn xác đi trình diện xin ở tù. Các em khác hẳn họ. Các em khiêm tốn. Các em
im lặng. Chiến đấu im lặng. Sa cơ thất thế im lặng. Đau khổ im lặng. Và thành
công càng im lặng hơn. Mà các em đã làm gì có quyền bính. Mà các em đã hưởng thụ
được gì từ quyền bính của dĩ vãng? Anh chợt nhớ một câu văn bất hủ của nhà văn
Ngọc Giao trên trang đầu tiều thuyết “Nhà quê”: Con ốc nhỏ trôi giạt trên
bãi cát, bé nhỏ thế thôi, câm nín thế thôi, thế mà trong lòng nó chứa đựng cả
sóng gió của đại trùng dương đấy, bạn ạ!”
Em , các em , chính các em là những con ốc nhỏ cô đơn và vĩ đại đang trôi giạt
trong lòng dân tộc. Ý nghĩa chiến đấu của em, của các em, anh thấy nó tựa
tư tưởng của một nhân vật của nhà văn Eric Maria Remarque trong “The Night in
Lisbon”: Khi thế giới còn những bọn dã man tàn bạo và mình còn khả năng chống
lại chúng mà không dám chống thì đó là tội ác”
Nhân vật này cho giấy thông hành người khác, ông ta khước từ trốn sang Mỹ, ông
ta ở lại Âu Châu, gia nhập lính lê dương để chiến đấu diệt phát-xít. Các em
cũng khước từ tất cả để chiến đấu chống cộng sản vì, dân tộc chúng ta, dân tộc
Ba Lan, Tiệp Khắc.. đang đầy ngập bọn dã man tàn bạo, đang bị trùm kín bóng tối
của chủ nghĩa cộng sản đốn mạt.
Một bông hồng nào cho em, Trường thân mến. Anh chỉ mới mừng tuổi em hộp diêm,
mùng một Tết năm 1977 ở đề lao Gia Đình. Và em rất thông minh, nói nhỏ: “Vâng,
em sẽ mãi mãi giữ lửa!”
Em thừa hiểu, tù nhân như anh em mình, cộng sản chẳng dại gì mà nhốt một chỗ
lâu ngày. Họ phân tán dần dần. Sớm gần, chiều xa. Tháng 5 năm 1977, em chuyển
trại, các em chuyền trại. Tháng 12 năm 1977 anh sang Chí Hòa. Tháng 11 năm
1978, anh bị đầy vào rừng già Sa Ác. Tháng 2 năm 1980 , anh về Hàm Tân. Đầu năm
1981 , tù nhân ở trại Nam Hà B được điều về miền Nam. Khoảng 500 người nhập trại
Hàm Tân, Z30 D. Anh gặp vài anh bạn cũ. Có Vũ Xuân Thông, trung tá chỉ huy phó
Lữ đoàn Biệt cách dù 801, tài tử cao ráo bô trai trong phim “người tình không
chân dung”. Bạn anh kể cho anh nghe một cuộc vùng dậy ở Nam Hà B do nhóm 28
“ông nhóc” dưới sự lãnh đạo của Lương Việt Cương đã thổi lửa vào tâm hồn mấy
ngàn sĩ quan từ lâu đã cam đành. Lương Việt Cương, anh nhớ lắm chứ, mắt ốc nhồi,
giáo sư toán lý hóa, còn trẻ, hồi làm sinh viên ở Đà Lạt đã chan chứa nhiệt
tình, hồi ở đề lao Gia Định đã từ cachot này qua cachot khác. Anh nôn nao quá,
vội hỏi:”Nhóm 28 ông nhóc có Hoàng Sơn Trường, Đinh Vượng, Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh
Long?” Có, có, có… Họ trả lời anh. Vậy là em đã bị lưu đầy ra tận miền Bắc. Những
địa danh nào đã in dấu chân em? Anh chạnh nghĩ em đang nằm dưới hầm đá trại Đầm
Đùn, và anh bất bình. Luôn luôn, chúng ta thừa thãi bọn tiêu bạc giả. Và bọn
tiêu bạc giả cậy mình vô liêm sỉ, dùng bạc giả của chúng khỏa lấp dư luận, bôi
bẩn những người công chính. Còn em, còn bạn em, ai biết đến cuộc chiến đấu cô
đơn của em?
Anh hiểu em. Anh hiểu em nhiều lắm. Em đi chiến đấu hôm nay như năm xửa, năm
xưa em xé vở gấp tầu bay đẹp phóng lên trời; gấp tầu thủy xinh thả trôi giòng
nước. Em phơi phới. Em chuyền nhẩy. Em làm đẹp cuộc đời và không cần cuộc đời
biết đến, không bắt cuộc đời nghĩ đến. Có nhiều cuộc đời nhỏ trong một cuộc lớn.
Cuộc đời lớn không biết đến em vì thật sự không biết hay chưa biết. Nhưng cuộc
đời nhỏ, vốn dĩ nó nhỏ, bản chất nó hẹp hòi, nó biết đến em mà nó cứ giả vờ
không thèm biết. Nó sợ hãi biết đến em, sợ hãi nói về em với cùng khắp cuộc đời.
Nó lo ngại em nổi tiếng hơn nó, em trở thành thần tượng, em trở thành đại thụ
còn nó chỉ là cỏ hèn. Nó ghen với em. Và nó tìm cách hãm hại em, cô lập em, bôi
bẩn em. Nó không dám chiến đấu bằng con số không thật tròn trong hình vuông thật
đẹp đâu. Nó phảì bấu víu lấy cái tước vị quá khứ phù ảo và chua ôi làm lý tưởng.
Những đứa ghẻ lở, hắc lào rất sợ tắm sông trần truồng. Những đứa vô tài bất tướng
lại thích khoa trương, càng ghét những tài năng vàng mười.
Vậy thì giữa cuộc đời nhỏ đầy rác rưởi và em đã có một phân cách.
Nó chiến đấu để phục hồi dĩ vãng quyền bính cũ. Em chiến đấu để khai phóng
tương lai.
Nó ngoảnh lại. Em nhìn lên.
Nó chiến đấu cho nó. Em chiến đấu cho mọi người.
Em trực diện với nghịch cảnh. Nó nằm chiêm bao nỗi khổ.
Em chiến đấu bằng nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Việt Nam. Nó chiến đấu
bằng tiền quyên góp phè phởn.
Em không cần nó biết đến em là em xứng đáng, em được quyền kiêu ngạo.
Trong truyện dài Sỏi đá ngậm ngùi anh đã viết rằng, nỗi thống khổ là
văn phạm của đời sống, sự cô đơn là ánh sáng soi rõ đất trời. Em, các em, chiến
đấu trong thống khổ và cô đơn, trong im lặng và thầm kín. Các em đang làm tác
phẩm lớn cho đời sống, đang cố gắng để lại những dấu ấn vàng son trên sinh đạo
mà các em đã một lần vượt qua. Anh, các anh, những nhà văn, nhà thơ những nghệ
sĩ sáng tạo cũng mang nỗi thống khổ và cô đơn như các em. Các anh đã, đang và
còn làm tác phẩm cho đời sống. Phải nói một cách khẳng định rằng, chỉ có nghệ
sĩ sáng tạo mới biết làm đẹp đời sống, chỉ có nhà văn, nhà thơ mới đủ tài năng
và thẩm quyền làm đẹp đời sống của những ai làm đẹp đời sống. Chúng ta đau khổ,
chúng ta cô đơn, chúng ta im lặng chịu đựng. Bởi vì chúng ta làm việc để làm việc,
chúng ta không làm việc để phô trương. Hình như chúng ta vẫn chưa yên thân.
Chúng ta vẫn bị cái thứ cuộc đời nhỏ rình rập nghi ngờ. Thứ cuộc đời nhỏ gồm một
lũ thích ngồi trong xó tối giả giọng chó sủa gây khó chịu cho người đi ngoài
ánh sáng. Thứ cuộc đời gồm một lũ chẳng thích làm gì mà chỉ sợ người khác làm
hơn mình. Cái thứ ấy, trong Thuyền Nhân anh viết:
“Bao giờ biển nổi giận? Bao giờ trời gầm thét? Bấy giờ vòng tròn bao la sẽ là
cõi mịt mù và con thuyền vượt biên ngoi ngóp trong cái cõi mịt mù khôn
cùng đó. Và con người lại càng hiểu giá trị làm người của mình không
bằng tấm mảng mục. Con người sẽ sợ hãi, sợ chết. Con người sẽ khóc lóc, than
van. Con người sẽ biến mất những ích kỷ hèn mọn, những ghen tuông đê tiện, những
phán xét ngu muội. Con người, bấy giờ, bỗng thèm sống và tự hứa với chính
mình, nếu sống sót sẽ cố sống ra vẻ một con người. Những kẻ thích thị phi
người khác, thích nghị luận những lầm lỗi mơ hồ của người khác, thích phán xét
người khác bằng những điều đồn đại vu khống, thích nằm chiêm bao nỗi khổ, chẳng
khi nào được vinh dự chìm đắm giữa mù khơi, ngoi ngóp trong nỗi sợ. Những kẻ ấy,
những kẻ giả hình ấy, chỉ cần một phút chênh vênh trên đường chết, năm phút nhức
nhối tinh thần, mười phút quặn đau thể xác là gục xuống cúi lạy cái quyền uy có
thể ban phát cho chúng kiếp sống cỏ dại. Chúng sẽ khả ố, bỉ ổi gấp triệu triệu
lỗi lầm của những người bị chúng phán xét oan ức. Bất hạnh cho bọn giả hình.
Thượng Đế đã không bố thí cho chúng một miếng ân sủng nhỏ về nỗi cô đơn và niềm
thống khổ. Do đó một đời tẻ nhạt chúng đeo đuổi, chúng chỉ loay hoay trong cái
vòng tròn nhỏ bé đánh đai bởi những ý nghĩ bẩn thỉu của kèn cựa, tranh giành,
vu khống, chụp mũ, nói xấu, bôi bẩn và nhục mạ người vắng mặt. Chúng ngu dốt
không biết định nghĩa hai tiếng cao thượng. Chúng hèn nhát không dám mặt đối mặt
người công chính. Chúng lầm lũi như bọ hung. Chúng chẳng thể hiểu thế nào là tồn
tại, là sự phục sinh của nỗi chết. Việc làm của người công chính, ý nghĩ tốt đẹp
của người công chính để lại cho đời sống sẽ phục sinh cái chết của người công
chính. Tác phẩm để đời của nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… phục sinh cái chết
của họ và cho phép họ tồn tại vĩnh cửu. Bọ hung không để lại cho đời sống cái
gì. Chúng chỉ để lại vết tích ô nhục trong gia phả của chúng cho con cháu
chúng tưởng niệm xót xa. Người công chính đã được tuyên dương xứng đáng trong
Thánh Kinh. Chúa đã dành cho họ phần thưởng trên Thiên Đàng. Dưới cõi thế, họ vẫn
can đảm sống, vẫn làm đẹp đời mình, đời người khác. Vì họ biết, đời sống chỉ có
một số bọ hung, một số Lý Thông gian ác. Còn rất đông Thạch Sanh và công chúa cổ
tích”
Trường, em hiểu tại sao Lý Thông cứ muốn Thạch Sanh nằm mãi dưới hang không ?
À, Thạch Sanh lên đời thì Lý Thông xuống lỗ. Thạch Sanh có cây đàn muôn điệu.
Lý Thông chỉ có cái đàn miệng với bài duy nhất ” Người đi đường và con chó”. Vậy
nó không biết đến em, nó rình rập em, nó nghi ngờ em vì nó sợ nó là lãnh tụ giả
mà em là lãnh tụ thật. Nó muốn độc tôn. Nó muốn chỉ có nó quốc ngoại. Nó không
muốn có ai quốc nội. Anh viết về các em, anh nhận các em là lãnh tụ cao quý,
anh minh, vĩ đại của anh, nó sẽ chán lắm, cái cuộc đời nhỏ ấy mà, nó sẽ hầm hè
anh nó sẽ lập tòa án (!) xử anh, nó sẽ ghi tên vào sổ đen! Ồ, chấp chi. Chúng
ta vẫn còn nơi nương tựa vững chắc. Là cuộc đời lớn, bao la, rộng mở, công
bình, hào sảng. Không có khí giới nào giết nổi những tâm hồn ngọc. Anh sẽ tiêu
pha không tiếc chữ nghĩa vàng son để bọc lấy những tấm lòng thơm ngát của các
em, của những người tuổi trẻ Việt Nam chiến đấu trong thống khổ và cô đơn. Bầy
sư tử lãng mạn ở quê nhà hãy yên tâm sống và yên tâm chết. Lịch sử sẽ thay
đổi. Phải thay đổi. Đó là chân lý. Và chân lý ấy phóng lên bầu trời quê hương
ngút ngàn thù hận bằng cung cách sống, chết dưới hầm đá trại Đầm Đùn. Sống làm
thăng hoa yêu thương, rực rỡ tình người. Chết làm phục sinh tự do dân chủ và nở
rộ hoa nhân ái lên còng tư bản, trong ngục vô sản. Cung cách sống chết khai
sinh một kỷ nguyên mới của những người tiểu tư sản lãng mạn, hào sảng và ước
mơ….
Thế nhé em yêu dấu!
(Vào với Bầy sư tử lãng mạn)
Nam Á Paris, 1986
° ° °
Người tuổi
trẻ suy tư
Chàng ngồi dựa lưng vào chiều ngang bức tường cachot, chân duỗi chưa thẳng đã đụng
bức tường đối diện. Quá nửa dĩa cơm và ca nước đầy khiến chàng tỉnh táo. Trong
đời chàng, từ thơ ấu tới nay, chưa bao giờ chàng được uống thử nước nào tuyệt
diệu bằng ca nước lạnh đầu tiên trong ngục tù. Mỗi hớp nước là mỗi niềm bí ẩn của
đời sống. Đó là hạnh phúc trong bất hạnh. Hạnh phúc không thể tìm thấy ở một cảnh
vui phù ảo, giả tạo. Cũng vậy, tự do, dân chủ, độc lập không thể kiến tạo bằng
những hò hét giả vờ, những dấn thân ngụy tạo ở miền hoan lạc nương cậy. Giá trị
của người đi chiến đấu là chấp nhận mọi thống khổ và biết tìm sự thống khổ những
ý nghĩa cao cả cho mọi người là hình tưởng nỗi khao khát tự do của dân tộc.
Hình tưởng mọi người trong cộng đồng dân tộc sẽ uống từng hớp tự do sau những
năm đói quằn quại thê lương. Nỗi thống khổ mời gọichiến đấu. Kinh qua thống khổ
là thắp hào quang chiến đấu. Vậy thì nỗi thống khổ đã soi sáng con đường chiến
đấu… Trước hết, nỗi thống khổ mang tính chất tiểu ngã sẽ hòa nhập vào đại ngã.
Người đi chiến đấu hiểu rõ tại sao mình phải chiến đấu, vì ai mình chiến đấu,
lý tưởng nào thôi thúc mình chiến đấu. Chàng vừa khám phá ra niềm rung động của
thống khổ. Chàng như Thạch Sanh bị lấp dưới hang. Nhờ ở dưới hang, chàng có cơ
hội soi bóng mình trên mặt nước lung linh, huyền ảo, so lại dây đàn, nay cùng
điệu mới hòa nhập hồn mình với hồn nhân gian. Âm điệu, thần thánhcủa Thạch Sanh
được tôi luyện bằng cảm xúc từ oán khổ. Và âm điệu ấy đã thoát lên đời, đã làm
xao xuyến ma quỷ, đã dạy những Lý Thông về địa ngục hèn mạt của chúng.
Chàng đang ngồi trong cachot như Thạch Sanh đã ngồi dưới hang sâu thăm thẳm.
Chàng đang tìm hạnh phúc trong bất hạnh như Thạch Sanh đã so dây đàn, soi bóng
mình, tìm cái tuyệt đối chân thiện mỹ cho cuộc đời. Chàng bằng lòng lắm, nghĩ rằng,
mỗi ngày oan nghiệt, đời sống sẽ cống hiến thêm cho con người một niềm bí ẩn. Sống
để đi đến tận cùng của đời sống tức là sống để thu nhận trời biển oan khiên cho
riêng mình. Chưa đủ. Đi đến tận cùng của đời sống để xóa bỏ tất cả oan khiên
cho mọi người mới đích thực là lý tưởng. Lý tưởng này không thể tìm thấy ở bọn
quen thụ hưởng. Những bọn quen thụ hưởng là những bọn nào?
Trước hết là đám ruồi xanh đã bu kín trên cái miệng đỉnh chung tôi mọi cũ.
Chúng đã hèn mọn chạy trốn, bỏ cuộc như những tên đào ngũ khốn kiếp. Chúng ngu
dại không chịu nằm yên thân phận giống bầy chó ghẻ già nua, ngồi gặm những khúc
xương đầy thịt mà chúng ngoạm chặc trên bước đường bôn tẩu. Chúng càng dốt nát
không hiểu thời và thế. Thời của chúng đã cáo chung. Thế của chúng đã mất mát.
Vậy mà chúng còn muối mặt xưng tước vị cũ, phong cho nhau tước vị mới, tranh
giành lãnh đạo, cách chức lẫn nhau, mặc quần áo mới, quấn khăn rằn, trơ trẽn diễn
tuồng kháng chiến cứu nước! Chúng lêu bêu xứ người, bất tài vô tướng, làm thầy
hay làm thợ cũng chẳng xong, do đó, chúng tương tư quyền bínhvà phát động cuộc
chiến đấu phục hồi dĩ vãng – phục hồi quyền bính của dĩ vãng. Chúng huyễn hoặc
người nhẹ dạ, khỏa lấp dư luận, dọa nạt người công chính, bôi bác người đối lập.
Chúng là lãnh tụ độc quyền giải phóng quê hương, là bầy tướng tá Quảng Lạc diễn
chèo, là bọn mà Nguyễn Khuyến đã mỉa mai:” Vua chèo còn chẳng ra gì, Quan chèo
thêm nữa khác chi thằng hề!”
Thứ đến là bọn trí thức bất lương, tình nguyện làm đám “ba quân, dạ dạ” chạy cờ
cho lãnh tụ Quảng Lạc để được chia tiền lạc quyên, xổ số. Bọn này lãnh nhiệm vụ
bao vây, ngăn cản những người tài năng vàng mười dám nói sự thật. Những người
tài năng dám nói sự thật đều là những người đã quằn quại trong ngục tù cộng sản,
thừa thải kinh nghiệm đánh cộng sản và chưa hề làm đầy tớ Mỹ. Những người này
đã nổi tiếng ở Việt Nam, chúng sợ lưu vong sẽ nổi tiếng hơn, sẽ “cướp” hết quyền
lãnh đạo của chúng. Và chúng tạo dựng nhiều chuyện khả ố: Chuyện khiếp nhược
không dám chống đối các cai tù chăn trâu cắt cỏ, chuyện làm tay sai cho cộng sản
trong tù bị chọc thủng mắt, bị liệng xuống giếng, chuyện vượt biên bị liệng xuống
biển, chuyện cộng sản gài vượt biên để dễ hoạt động cho cộng sản, vân vân… Bọn
trí thức nửa mùa và bất lương này lập hàng rào cô lập người công chính. Chúng sợ
người công chính đến với tuổi trẻ thì chúng hóa thành giả hìnhvà nhỡ bị lột quần
áo, mọi người sẽ thấy rõ tác phẩm ghẻ lở, què quặt, cóp nhặt của chúng. Và
chúng hết nhí nhố. Tội nghiệp chưa?
Sau hết là bọn sống ở Pháp ròng rã 30 năm, dài hơn cuộc chiến Việt Nam khốn khổ,
chẳng hiểu đất nước mình ra sao mà cứ thích chất vấn những nạn nhân cộng sản.
Chúng không chịu sáng tạo, thấy người ta sáng tạo thì chúng ghen ghét, hạch hỏi:”Tại
sao lại sáng tác nhiều thế?”! Và cũng chỉ đến biết vỗ tay hoan hô tướng tá Quảng
Lạc.
Đó, những hạng vừa kể trên, dẫu có sống thêm chín kiếp cũng không dám đi đến tận
cùng của đời sống để xóa bỏ tất cả oan khiên cho mọi người. Chúng chỉ giỏi bịa
đặt, chỉ dám núp trong xó tối phì nọc rắn. Tội nặng nhất của chúng và công ty
là lừa gạt niềm tin của mọi người, làm cản trở sự nghiệp tiêu diệt cộng sản giải
thoát dân tộc. Chúng làm gì có lý tưởng. Chúng chỉ có cái miệng lưỡi của “người
đi đường và con chó!”
Lý tưởng đi đến tận cùng đời sống để xóa bỏ oan khiên cho dân tộc, giải phóng tổ
quốc, tạo dựng hạnh phúc cho giống nòi là lý tưởng của tuổi trẻ hôm nay. Tuổi
trẻ hôm nay, tuổi trẻ thế hệ sau 30 tháng 4 năm 1975, có dĩ vãng vằng vặc trăng
sao, có hiện tại hừng hực mặt trời. Họ chưa hề thụ hưởng gì của dĩ vãng. Họ
cũng chẳng hề có quyền bính gì trong dĩ vãng. Họ chưa hề làm tôi mọi cho một thứ
quyền lực quốc tế nào, tư bản hay cộng sản, Mỹ hay Liên xô. Nói cho đúng, tuổi
trẻ đã là nạn nhân thảm thương của dĩ vãng, của những quyền lực thao túng quê
hương Việt Nam từ 1945. Từ chiêu bài quyến rũ“toàn dân đoàn kết kháng chiến chống
Pháp giành độc lập” đến cách mạng què cụt 1-11 “tiêu diệt chế độ độc
tài Ngô Đình Diệm” mấy thế hệ tuổi trẻ đã bị lừa bịp, đã chết không một nấm
mồ, đã mang thương tích u mê vì tham vọng của chủ nghĩa và sự khờ khạo của lãnh
tụ quốc gia.
Những người tuổi trẻ của Hà Nội 1946 hồn ở đâu bây giờ? Những người tuổi trẻ
tuyệt diệu đó, những sinh viên tự vệ thành dũng cảm đem thân mình ngăn xe tăng
của thực dân Pháp, còn ai nhớ chiến tích của họ, còn ai tưởng niệm họ? Những
người tuổi trẻ lãng mạn cách mạng trong trung đoàn Ký Con, trung đoàn Thủ Đô
còn lại ai? Họ đã bị cộng sản trá hình Việt Minh đẩy lên tuyến đầu chết thay
cho họ cả rồi. Đến cuối 1950, lịch sử và Đảng sử chỉ ghi chép sự hy sinh cho tổ
quốc và nhân dân của những người lính nông dân. “Ta là người nông dân, mặc áo
lính, chiến đấu vì giai cấp bị áp bức từ bốn ngàn năm.”
Ôi, những người tuổi trẻ thế hệ 1945, những người mà nhà văn Nguyễn Mạnh Côn gọi
là những người “lạc đường vào lịch sử,” những người đã lo ngại Hồ Chí Minh
không phải là Nguyễn Ái Quốc trong mơ ước của mình, Nguyễn Ái Quốc là tên cộng
sản xảo quyệt, là thứ Lê Chiêu Thống chủ nghĩa phi nhân. Nhiệt tình và lòng tự
chủ của tuổi trẻ Việt Nam thế hệ 1945 đã bị cộng sản nướng khét bằng lửa mác
xít. Bị nướng ròng rã 10 năm cho một nền độc lập cắt đôi tổ quốc; cho triền
miên đói rách, ngu dốt, thanh toán, thủ tiêu, đấu tố, tù đày. Khi có những biến
động trong lịch sử, những kẻ tiền phong dấy động là tuổi trẻ và những kẻ bị
khai thác tận tình, bị lợi dụng tội nghiệp vẫn chỉ là tuổi trẻ.
Bạn còn nhớ những người tuổi trẻ Sàigòn 1955 khởi sự công cuộc chống cộng sản
không? Họ đã dấn thân tích cực. Họ đòi “treo cổ Hồ Chí Minh.” Họ muốn “chặt
ngang thây Trường Chinh.” Họ truy lùng Văn Tiến Dũng giữa Sàigòn. Họ đốt
“Gallieni, Majestic.” Họ khai phóng một phong trào. Họ lay động bọn khiếp nhược,
tiêu cực. Họ làm sinh động đời sống. Trong họ, nhiều người bị bỏ tù, bị đánh đập,
bị bắn mù mắt. Chế độ vững vàng nhờ tinh thần sư tử của họ. Và chế độ bắt bớ,
đàn áp họ. Chế độ chỉ ban phát ân huệ cho bọn “cai thầu tuổi trẻ.” Bọn cai thầu
trúng mối lớn của ông Ngô Đình Nhu. Bọn cai thầu đang có mặt ở Paris. Bạn muốn
biết chúng nó là ai không? Có đứa nhờ thầu tuổi trẻ mà vinh hiển suốt đời. Có đứa
mon men mãi cũng leo lên chức Bộ Trưởng. Kinh nghiệm đấu thầu tuổi trẻ của
chúng nó là cẩm nang của bọn thầu khoán tuổi trẻ quốc ngoại hôm nay. Kinh nghiệm
của cai thầu tuổi trẻ, buồn thay, chỉ là thương đau của dân tộc, là xoáy mòn niềm
tin của tuổi trẻ, là phôi pha nhiệt tình, là ngờ vực, là lừng khừng với đời sống.
Sau hết , là bọn bon chen trên đường khoa bảng giá áo túi cơm và nổi loạn vô
duyên cớ và tích lũy thù hận đàn anh. Chừng thù hận có dịp bung ra, đó là cơ hội
rạch nát lịch sử. Tuổi trẻ Việt Nam bị trúng một phát tên độc ngóc đầu lên
không nổi: Mũi tên USA. Người Mỹ sách động tuổi trẻ tiêu diệt chế độ Ngô Đình
Diệm để được suy tôn “thần tượng” Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Dương Văn Minh, Trần
Văn Đôn! Bọn phản nghịch dốt nát biến thành thần tượng của tuổi trẻ. Mỉa mai
quá. Sự mỉa mai thấm vào tim phổi tuổi trẻ, sự nổi loạn có duyên cớ khai sinh.
Và hậu quả của thức tỉnh là tuổi trẻ triền miên hưởng phi tiễn, dùi cui, lựu đạn
cay và ngục tù của đám bảo vệ chế độ, đám công an, cảnh sát, đám cò cơm vô liêm
sĩ.
Đàng ngoài hay đàng trong, tuổi trẻ đã là công cụ của các thứ chế độ, của lãnh
tụ đảng phái, của bọn thầu khoán bất lương. Ba mươi năm, tuổi trẻ bị đày ra chiến
trường cho những tham vọng khốn kiếp của cộng sản và tư bản và bầy tôi mọi của
chúng. Mấy triệu thanh niên đã chết dọc đường mòn Hồ Chí Minh, khe núi Trường
Sơn, rừng già Pleime, biển cát Hạ Lào. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng vẫn sống. Bọn
tướng lãnh Sàigòn vẫn sống. Trong nước, phù thủy gian ác cộng sản lại huyền hoặc
tuổi trẻ bằng chiêu bài mới “ba giòng thác cách mạng” để lừa tuổi trẻ phơi xác ở
Kampuchia “vì nghĩa vụ quốc tế,” lừa tuổi trẻ vào nơi khỉ ho cò gáy để làm,
“thanh niên xung phong” đi tải đạn ra chiến trường, lừa tuổi trẻ vào ngục tù,
trại tập trung để ngăn chặn phản kháng. Ngoài nước, đạo diễn mù lạivỗ về
tuổi trẻ, vuốt ve nhiệt tình tuổi trẻ bằng chiêu bài kháng chiến chống cộng sản
trình diễn. Ở không gian và thời gian nào thì tuổi trẻ cũng vẫn là những người
nặng tình non nước, những người con xứng đáng được tổ quốc tin cậy, những người
dám làm lịch sử và không mang công danh địa vị. Họ ví như cây ăn trái hứa hẹn
những mùa màng tốt đẹp, vô hạn. Bọn lãnh tụ trá hình, bọn đào ngũ chạy trốn hèn
mọn đã là những cây mục chờ ngày gục xuống vĩa đời. Chúng đã nắm quyền bính và
vẫn thèm thuồng quyền bính để bảo vệ quyền lợi của chúng, để thao túng, để hống
hách. Khi quyền bính bị tuớc đoạt, chúng nằm tương tư quyền bính. Vì ngu dốt,
chúng không thể tạo nổi thứ quyền bính tự tạo nên chúng phải bấu víu lấy tước vị
tôi mọi cũ trong cái thế nhân dân đã phủ nhận tước vị cũ của chúng. Và chúng diễn
trò yêu nước một cách vụng về. Đứa mặc quần áo, quấn khăn rằn của kẻ thù, tự
phong chủ tịch. Dựa trên cái quá khứ “công an xung phong,” vênh vang tự biến
mình thành kẻ viết chủ thuyết cho phong trào!
Lịch sử hiện đại chỉ thấy bọn tướng lãnh thoán nghịch, bọn sĩ quan tá, úylàm đảochính.
Chưa hề thấy, trong nhân loại, bọn thư lại đi làm cách mạng. Thư lại là bọn giở
chiêu nào nướng chiêu ấy, chế độ nào cũng tốt, cũng đáng phục vụ miễn răng yên
thân. Cũng chẳng thấy công an cảnh sát làm cách mạng bao giờ! Công an, cảnh sát
là công cụ bảo vệ chế độ và lãnh tụ đắc lực và hữu hiệu nhất. Một phong trào, một
đoàn thể, một lực lượng nào âm mưu lật đổ chế độ, dù là chế độ độc tài, công an
sẽ đàn áp thẳng tay. Tuổi trẻ Việt Nam từ 1963 đến 1975, ở Sàigòn, còn ấm áp những
kỷ niệm đàn áp dã man của cảnh sát nổi, cảnh sát chìm, cảnh sát dã chiến. Người
nữ sinh viên nào bị đốt núm vú ở Ty Cảnh sát Quận 1? Người nam sinh viên nào hưởng
liên tiếp một tuần lễ đòn của thợ đánh người ở trong nha Cảnh sát? Cứ hỏi ông
Phạm Văn Liễu, ông Trang Sĩ Tấn, một là Tổng Giám đốc Cảnh sát, một là Giám đốc
Nha Cảnh sát Đô Thành, sẽ biết rõ thủ đoạn đàn áp sinh viên học sinh Sàigòn xuống
đường đòi hỏi tự do, dân chủ. Tuổi trẻ trong nước năm xưa bị nếm dùi cui, phi
tiễn tàn bạo của cảnh sát. Một số người nông nổi vì quá căm phẩn đã bỏ vô mật
khu theo cộng sản. Cảnh sát và tinh thần bảo vệ chế độ của họ đã dồn tuổi trẻ
vào bước đường cùng, đã giết chết nhiệt tình của tuổi trẻ. Người tuổi trẻ Việt
Nam du học lâu năm ở ngoại quốc chưa có kinh nghiệm cay đắng của những người
thuộc thế hệ họ. Lòng yêu nước và niềm tin giải phóng dân tộc của họ bị ru ngủ
bởi lũ cò mồi. Hình tưởng một cậu bé ngây thơ, mặc quần áo Tết, cố len vào đám
bầu cua cá cọp. Biết cậu bé ham ăn, cò mồi đánh đâu thắng đấy. Cậu bé móc túi,
lôi ra những phong bao lì xì thơm tho, theo cò mồi liệng tiền xuống chiếu bạc.
Và cậu bé cháy túi. Chủ sòng và cò mồi chia tiền nhau, chia những đồng tiền của
cậu bé non nớt, ham vui!
Tuổi trẻ Việt Nam thường xuyên bị cò mồi chính trị dụ dỗ. Ở Mỹ Châu, ở Úc Châu,
ở Âu Châu thiếu gì cò mồi kháng chiến. Ngay ở Paris cũng có thứ cò mồi gớm ghiếc
đó. Nó in được bạc giả nên nó tiêu bạc giả vung vít. Nó dùng bạc giả nên nó khỏa
lấp người công chính, vu khống người công chính và ngăn cách người công chính tới
gần tuổi trẻ. Nó giả hình văn nghệ. Nó vô liêm sỉ nhận mình là nhà văn để len lỏi
vào cõi văn học nghệ thuật. Tất cả đều đáng bỏ qua, bởi vì, sẽ có ngày mọi người
biết nó tiêu bạc giả. Nhưng một điều không thể tha thứ cho nó vì nó nhúng vào tội
ác đối với dân tộc, đối với công cuộc kháng chiến giải phóng quê hương chân
chính, đích thực là nó đã đưa tuổi trẻ Việt Nam ở Âu Châu vào tay tên trùm cảnh
sát, tên trùm đã dày thành tích tra tấn, đàn áp, bỏ tù tuổi trẻ dám chống chế độ
độc tài, tham nhũng. Thiếu tuổi trẻ và nhất là tuổi trẻ trí thức, bảng hiệu của
Công ty của trùm cảnh sát và đồng bọn không thể làm ăn, chia chác được. Do đó,
cò mồi đã xâm nhập tuổi trẻ, khuynh loát tuổi trẻ, biến tuổi trẻ thành những
người đi lạc quyên và bán vé xổ số. Nghĩ cũng bẽ bàng khi tuổi trẻ hôm nay suy
tôn một kẻ từng đàn áp không thương xót tuổi trẻ hôm qua! Có lẽ người ta muốn tạo
dựng một chế độ cảnh sát mới ở Việt Nam mai này?
Đó, chàng đã suy nghiệm thân phận tuổi trẻ Việt Nam. Và, dưới hang sâu thăm thẳm,
chàng vừa nhận ra một chân lý: Tuổi trẻ Việt Nam bị làm guốc cho các chế độ,
các lãnh tụ thật và giả lâu quá rồi. Guốc mòn, vất đi. Một thế hệ rác rưởi.
Thay guốc mới. Thêm một thế hệ mệt mỏi, lạc lỏng. Bây giờ là lúc tuổi trẻ Việt
Nam phải làm mũ, nón tự đội lên chính đầu mình mà đi tìm hạnh phúc vinh quang
cho dân tộc. Bởi vì, dĩ vãng của tuổi trẻ hôm nay là mặt trăng, hiện tại của tuổi
trẻ hôm nay là mặt trời. Tuổi trẻ hôm nay không mảy may mặc cảm tội lỗi nào với
dân tộc, với quê hương. Chàng sảng khoái và bất giác, chàng nói lớn: “Ta khởi sự
từ số không, từ ngục tù cộng sản.”
(Trích “Một người tên là Trần Văn Bá”)
° ° °
Tuổi trẻ
chiến đấu
Chúng ta là những người biết sống và biết chết. Chúng ta không phải là những
người sợ sống và sợ chết. Đồng ý. Sống và chết, hiểu theo nghĩa của chúng ta, của
những người tự nguyện chiến đấu cho lý tưởng dân tộc. Chẳng ai được phép đòi hỏi
gì chúng ta trước, trong và sau chiến đấu. Chẳng ai được phép ban phát gì cho
chúng ta trước, trong và sau chiến đấu. Đó là hãnh diện của kẻ chiến đấu tự
nguyện. Chúng ta không cần sự phê phán của đám sử gia rẻ tiền hay sự tranh luận
bệ rạc về chính sử, ngoại sử, dã sử của đám nghiên cứu lịch sử bằng tài liệu mốc
thếch, xuyên tạc cả ngợi khen lẫn chê trách. Chúng ta là lịch sử, lịch sử của
tuổi trẻ Việt Nam trưởng thành từ một kinh qua khốn cùng của đất nước. Chỉ còn
tuổi trẻ mới có quyền nói mình yêu nước mà không phải cúi mặt xấu hổ. Dĩ vãng
tuổi trẻ vằng vặc trăng sao. Vì chưa hề ngửa tay nhận tiền ngoại quốc, chưa hề
nhận ân huệ tôi đòi của ngoại bang để vênh váo quyền bính thống trị bù nhìn bốc
lột và đàn áp nhân dân. Hiện tại tuổi trẻ rực rỡ mặt trời. Vì chúng ta không
cam đành, chúng ta dám chiến đấu chống cộng sản nhiệt tình và tự phụ, lãng mạn
và cô đơn trong hoàng hôn chiến bại, trong đào ngũ chạy trốn của bọn sinh ra để
sống nhục và chết nhục. Tương lai tuổi trẻ rạng ngời ánh sáng. Vì chúng ta
không chiến đấu để mưu đồ quyền lực, tước vị, công danh, phú quý . Chúng ta là
chiến sĩ vô danh. Chúng ta sẽ cố gắng để vui niềm vui của dân tộc như chúng ta
đã buồn nỗi buồn của dân tộc. Không có cố gắng nào không dẫn đến kết quả. Sự
thành công của chiến đấu, niềm vui động đất của dân tộc, bắt chúng ta cố gắng
không ngừng, bắt chúng ta thắp sáng ý chí chiến đấu từng phút, từng giây, bắt
chúng ta sáng tạo chiến đấu từng phút, từng giây. Chúng ta đầy đủ uy thế bệ vệ
và sức mạnh tuyệt luân của sư tử. Chúng ta là sư tử lãng mạn. Ở mỗi chúng ta
không ai nghĩ thất bại. Không có thất bại luẩn quẩn trong đầu óc chúng ta,
trong trái tim chúng ta, trong hơi thở chúng ta.
Chúng ta chưa quên câu nói bất hủ của Vị Ưởng: “Sống vì tổ quốc khó khăn hơn chết”.
Nhưng khi phải chết, trong nỗi chết thiếu tiếng thở dài tuyệt vọng. Cho nên, Vị
Ưởng, Thương Hoài, Dzũng bò, Mục rỗ, Năm cò vẫn tin cuộc chiến thành công dẫu
mình tan xác. Cho nên, Ngư Phủ tự sát, vẫn tin cuộc chiến thành công. Cho nên,
Độc Thư đứng thẳng dẫm chân lên hình phạt của thù hận mà tuẫn tiết, vẫn tin cuộc
chiến thành công.
Chúng ta đều là những người biết sống biết chết. Chúng ta ngạo mạn. Bởi chúng
ta là thái dương, tinh tú trong mù sương của lịch sử hôm nay. Cứ chủ quan mà
nói, kẻ thù cộng sản chỉ khiếp sợ chúng ta. Chúng ta đã chứng minh điều đó. Chẳng
có dấy động nào thiếu tuổi trẻ tiên phong. Chẳng có bão tố nào thiếu tuổi trẻ nổi
gió.Chẳng có cách mạng nào thiếu tuổi trẻ mở đường.
Cộng sản nói đời đã đổi từ 30-4-1975. Chúng ta nói đàn anh đã chết hết từ
30-4-1975. Không còn kẻ nào xứng đáng để chúng ta gọi là đàn anh. Trần Du có thể
trả lời. Lê Thanh có thể trả lời. Nguyễn Ngọc có thể trả lời. Bất cứ ai trong
chúng ta đều có thể trả lời. Bất cứ một người tuổi trẻ Việc Nam nào lớn khôn từ
nỗi đau 30-4-975 đã có thể trả lời . Và đều được phép khinh miệt đàn anh. Họ đã
làm hư hỏng đất nước ròng rã ba mươi năm. Họ đã chết dù họ còn sống. Cỏ dại bám
vào lúa làm hại mùa màng thì phải nhổ lên, đốt cháy. Chúng ta không cần nhổ cỏ
dại . Cộng sản đã giúp chúng ta. Cộng sản đã kéo màn để chúng ta nhìn rõ đàn
anh chúng ta trên sân khấu nham nhở. Rặt bọn đào kép đầu quân hết chế độ này
sang chế độ khác. Rặt lũ đạo diễn mù đeo kính đen. Rặt những vở tuồng lều
bều tham vọng quyền bính tôi đòi hèn mọn. Đàn anh chưa hề chiến đấu. Đàn anh
chưa hề biết sống và biết chết. Những kẻ không biết sống và biết chết là những
kẻ sống chết không có thái độ. Và họ chẳng có gì để lại cả. Họ sống như lợn ủn ỉn
đòi ăn tối ngày và chết như cóc nhái thối tha bờ bụi. Những cây mục hút đất mầu
quê mẹ no nê nghìn năm không trổ hoa đơm trái ấy, ở đâu đó, xa lìa tình tự dân
tộc, xa lìa nỗi thống khổ của dân tộc, lại đang rắc hạt tiêu vào mắt, lại đang
nuốt ớt lột lưỡi, nhỏ lệ khóc quê hương và lên tiếng ái quốc huyễn hoặc quá khứ,
ve vuốt hiện tại, phỉnh phờ tương lai.
Chúng ta không tin họ. Chúng ta chỉ tin chúng ta. Chúng ta tin chúng ta vì, trước
hết, không huyễn hoặc chúng ta , không ve vuốt chúng ta, không phỉnh phờ chúng
ta. Chúng ta tin chúng ta vì, sau hết, chúng ta biết tại sao chúng ta chiến đấu
và chúng ta chiến đấu cho mục đích nào. Chúng ta tin chúng ta vì, ngoài ra,
chúng ta biết chúng ta đầy đủ nhiệt tình, thừa thãi lòng tự phụ, tràn trề sáng
tạo, lãng mạn, lạc quan. Hẳn nhiên, chúng ta cô đơn . Và chúng ta bằng lòng cô
đơn. Nỗi cô đơn giúp chúng ta nhìn rõ chúng ta, nhìn rõ thân phận của dân tộc
chúng ta.
Nỗi cô đơn thắp giùm chúng ta đốm lửa nhận đường chiến đấu, dẫn dắt chúng ta gần
gũi nhau, thương yêu nhau, soi lối cho chúng ta sáng tạo chiến đấu và dạy chúng
ta khôn lớn. Trong cô đơn, chúng ta có Đạn lên nòng, chúng ta có vận
động cách mạng Tây Sơn. Và niềm kiêu hãnh của thời đại chúng ta, chúng ta có chủ
thuyết tư sản. Một nghìn năm binh lửa triền miên, nước Trung hoa vĩ đại sản
sinh một trăm triết gia gọi là “bách gia chư tử”. Bốn năm đau khổ, dân tộc Việt
Nam sản sinh một Nguyên Ngọc. Chủ thuyết tiểu tư sản của người Việt Nam lập
thuyết trong nỗi cô đơn khôn cùng của lịch sử Việt Năm là nỗi rạc rài của lịch
sử nhân loại. Chủ thuyết tiểu tư sản, chắc chắn, sẽ dẫn đạo cuộc tân cách mạng
Tây Sơn thành công, sẽ đem lại hạnh phúc vĩnh cửu cho dân tộc Viết Nam và loài
người trên trái đất sau một thế kỷ bị đầy đọa bởi hai chủ nghĩa tư bản và cộng
sản. Để có thành công, chúng ta phải biết đề phòng thất bại. Đề phòng thất bại
và không nghĩ đến thất bại thật khác nhau. Trí tuệ của kẻ mưu đồ đại nghĩa mênh
mông khôn tả. Nó biến hóa theo sáng tạo. Nhưng căn bản của nó vốn là biết mình,
biết người. Chúng ta biết kẻ thù của chúng ta, kẻ thù của chúng ta không biết
chúng ta. Đó là điểm chúng ta hơn hẳn bọn đàn anh. Chúng ta lại biết cái thế của
chúng ta và biết cả cái thế của kẻ thù. Do đó, chúng ta còn tồn tại, không bị
chúng tiêu diệt. Ở đây, ngoài tôi, không ai biết anh em Đạn lên nòng gồm
những ai, tên gì, làm việc ở đâu. Ở đây, ngoài anh em hiện diện hôm nay và Quỳnh
Đào, người ta chỉ biết tôi là tên nhạc sĩ phản bội, kẻ thù chỉ biết tôi là hàng
thần lơ láo. Nếu hôm nào tôi ngã gục, Phong trào vẫn nguyên vẹn, vẫn ngạo nghễ
chiến đấu. Chúng ta biết kẻ thù tinh vi, xảo quyệt, tài giỏi, thừa thải người .
Chúng ta không được phép coi thường kẻ thù, không được đánh giá kẻ thù rẻ tiền
khi nhận xét gã bộ đội quê mùa hay tên công an ngu dốt. Chúng ta phải đánh giá
kẻ thù qua Võ Nguyên Giáp chiến thắng Pháp; qua Lê Đức Thọ ngang cơ Kissinger,
qua Trần Quốc Hoàn trùm KGB Việt cộng; qua Mai Chí Thọ, Trần Độ, Tố Hữu,Trường
Chinh… Với chủ thuyết tiểu tư sản, kẻ thù của chúng ta là Karl Marx, Lénine. Vậy
thì chúng ta , mỗi người biết nhiệm vụ của mình, biết số người cộng tác của
riêng mình để , nếu phải chết, vẫn tin Phong trào vẫn tồn tại, sẽ thành công.
Tôi mong, ngoài mấy anh hiện diện hôm nay biết nhau thôi, người của anh em
không nên biết. Tôi chẳng dám nghi ngờ ai, tôi chỉ đề phòng. Bởi vì, có khi người
ta chưa kịp chọn cách chết mà cộng sản tinh vi đủ phương pháp bắt cả người chết
phải khai sự thật. Tôi nói ít, mong anh em hiểu nhiều. Điều anh em vẫn đang thắc
mắc là tại sao, lần đầu tiên, tôi yêu cầu gặp nhiều anh em một lần và nói nhiều.
Tôi xin giải thích ngay: Kinh nghiệm Phan Thức. Tôi quen biết ông Phan Thức trước
năm 1975. Thuở ấy tôi là một nghệ sĩ thuần túy. Tôi thấy ở ông Phan Thức có vài
điểm tôi phục. Có lẽ là thời say mê lý tưởng của tuổi trẻ ông. Ông Phan Thức kiến
thức vững vàng, tuy hơi ngây thơ. Tôi yêu những người già ngây thơ. Sau 1975,
tôi nhập cuộc chiến đấu. Và tôi cũng tâm sự với ông Phan Thức. Ông ta tìm tôi,
nhờ tôi một việc. Tôi thất vọng, hoàn toàn thất vọng về đàn anh ảo tưởng. Tôi
đã cứu ông Phan Thức sa lưới công an. Anh Trần Du đòi khử ông ta để tránh hậu họa.
Lòng trắc ẩn níu tôi lại. Ông Phan Thức đã trốn chạy. Nếu ông ta bị Mai Chí thọ
bắt, tôi phải tự xử. Để Phong trào tồn tại. Tôi chưa hiểu tình trạng ra sao với
tôi và với ông Phan Thức, song đây là kinh nghiệm của chúng ta vừa chiến đấu vừa
học tập dân chủ. Tất cả lãnh tụ độc tài đều mọc mầm từ sự sợ hãi nghe phê bình
và không dám tự phê bình. Chẳng bao giờ tôi là lãnh tụ cả. Chúng ta cũng chẳng
ai mong mỏi có lá cờ phủ trên quan tài khi gục ngã. Tôi gây ra lỗi lầm, tôi nhận
lỗi. Tôi biết sống và biết chết. Sống và chết không thành vấn đề quan trọng.
Quan trọng là cách mạng Tây Sơn thành công. Cái chức vị huynh trưởng mờ ảo, hư
thực này tôi xin được giao cho Trần Du. Anh em sẽ tiếp tục hư thực, mờ ảo chức
vị đó. Tôi hoàn toàn tin cậy anh em. Anh em sẽ là đầu óc, là tay trái, tay phải
của anh Trần Du. Tôi sẽ gặp riêng anh Trần Du bàn rõ Đạn lên nòng Sàigòn
và cơ sở miền Tây . Tôi không bỏ cuộc. Tôi vẫn chiến đấu. Nhưng chúng ta nên
chuẩn bị tư tưởng chu đáo. Cách mạng không giống thảo khấu. Thảo khấu sẽ tan
rã, nếu chủ soái chết. Cách mạng Tây Sơn phải tồn tại đến thành công nếu Duy
Tâm chết, Trần Du chết, Lê Thanh chết, Vũ Hải chết.. Và, với Nguyễn Ngọc tôi muốn
nhắc vài lời: Karl Marx chết, Fiedrich Engels viết Tuyên ngôn đảng Cộng sản và
Lénine thực hiện. Anh Nguyễn Ngọc cần nhiều người thực hiện chủ thuyết tiểu tư
sản.
(Hồn say phấn lạ)
Xuân Thu, 1988
° ° °
Tuổi trẻ
quốc ngoại xuống thuyền
Tự bản chất, tôi không hề có tham vọng chính trị .Như những người tuổi trẻ cùng
thế hệ, tôi sinh ra và lớn lên trong chiến tranh Việt Nam triền miên. Khi tôi
thật sự trưởng thành, tôi chỉ thấy, khắp quê hương tôi những biến động và biến
động. Những biến động tạo ra bởi tham vọng bất nhân của chủ nghĩa tư bản, tham
vọng phi nhân của chủ nghĩa cộng sản. Những biến động gây ra binh lửa, chết
chóc, đói khổ, ngu dốt và chia rẽ. Để khiêu vũ trên bãi tha ma, để đua thuyền
trên giòng sông nước mắt, chủ nghĩa cưa đôi dân tộc tôi và toa rập với nhau kiến
trúc hai miền thù hận. Bằng ý thức hệ và bằng cả vũ khí tư bản cộng sản. Tham vọng
của chủ nghĩa đẻ thêm tham vọng quyền bính của lũ tôi đòi bản xứ. Một bên là
đám ăn cướp. Một bên là đám ăn cắp. Đúng nghĩa nhất, lãnh tụ Hà nội và mọi cơ cấu
của nó là phỉ quyền. Bởi vì nó hằng phô trương thành tích cướp
chính quyền. Lãnh tụ Sài gòn và mọi cơ cấu của nó là ngụy quyền. Bởi
vì nó được nặn ra do thế lực và áp lực ngoại nhân do bầu cử gian dối, lừa gạt.
Đám ăn cướp hò hét chuyên chế. Đám ăn cắp hò hét độc chiếm. Với mệnh lệnh của
chủ nghĩa với ân huệ của chủ nghĩa, phỉ quyền và ngụy quyền tranh giành quyền
bính. Những khúc xương dính chút mảng thịt ném xuống mặt tổ quốc, chúng nhào tới
quần thảo. Đề gặm. Để cạp. Khi chúng nuốt những miếng nuôi chim mồi của chủ
nghĩa, dân tộc tôi cay đắng, đòi đoạn, thù hận chia lìa. Bỗng nhiên. dân tộc
tôi biến thành một dân tộc hiếu chiến, man rợ!
Để lãnh tụ Hồ Chí Minh trở thành “cha già dân tộc”,đám phong kiến quan liêu đội
lốt vô sản áo rách đã nướng một thế hệ tuổi trẻ tinh hoa và nồng nhiệt vào cuộc
chiến 10 năm để có nền độc lập què cụt và thân thể tổ quốc bị cưa ngang. Không
cần kháng chiến giành độc lập, không cần đổ máu, không cần tiêu thổ kháng chíến,
nước Mã Lai tầm thường vẫn có độc lập đầy đủ chủ quyền, thịnh vượng, ấm no hạnh
phúc và đang có tiếng nói trong sự ổn định tình hình Việt Nam! Đó là sự mỉa
mai, là chứng minh cho ngu xuẩn của phỉ quyền. Nó đã gang họng miệt thị tiền
nhân, vọng ngoại đê tiện: “Quang Trung chỉ nhìn được 10 năm, Lénine nhìn xa 100
năm!” Nó răm rắp tin nghe giáo điều của chủ nghĩa, nó sáng tạo trò chơi “giải
phóng dân tộc” là nó trở nên thông manh, mù quáng. Nó bị lớp màng xanh tham vọng
anh hùng giai cấp phủ lấp tim óc. Và nó dẫn dắt dân tộc vào cuộc phiêu lưu 10
năm để dân tộc dạt vào bờ bãi lạc hậu, khốn cùng, phân ly. Chưa đủ, nó tiêu diệt
thêm 2 triệu con người Việt Nam hiền hòa, nó bảo “cải cách ruộng đất”, thực ra
để củng cố quyền bính gần sụp đổ của nó. Rồi , vẫn giáo điều “giải phóng dân tộc”
tham vọng của nó lên cân, nó đưa dân tộc phiêu lưu chiến tranh, mời mọc tư tưởng
và súng đạn tư bản nhập cuộc. Nó nướng thêm mấy thế hệ tuổi trẻ ròng rã 20 năm
“giải phóng”! Được gì? Một đất nước xanh xao hết máu. Sự cô lập. Nhà tù. Trại tập
trung. Thù hận anh em. Và đói khổ. Và già nua, bệnh hoạn. Chưa hề thấy- kể cả
ngay trong thế giới cộng sản – một chế độ nào khụ khị, ù lỳ như chế độ cộng sản
Việt Nam. Lãnh tụ rặt những bô lão, những cổ thụ không còn khả năng đâm chồi, nẩy
lộc. Họ cứ khăng khăng nghĩ, sau họ là đại hồng thủy. Do đó, dân tộc héo hắt và
tuổi trẻ thui chột.
Còn đám lãnh tụ lính pạc-ti-dăng, khố xanh, khố đỏ ra sao? Đó là lũ ròi bọ đục
khoét xương tủy tổ quốc, lũ tôi mọi hèn mọn của chủ nghĩa tư bản. Nó nhân danh
“quốc gia”, bóc lột xương máu của lính chiến bóc lột niềm tin của dân tộc, đàn
áp tuổi trẻ tận tình. Nó chỉ biết thoán nghịch, rượu, gái và cờ bạc. Nó ăn cắp
tiền bạc của nhân dân, bòn rút tài sản của quốc gia chuyển ra ngoại quốc. Để
đeo sao trên cầu vai nó, đã dẫm lên xác chết của hàng trăm ngàn chiến sĩ vô
danh hy sinh vì tự do, dân chủ của đất nước. Để đóng đinh trên tước vị tổng thống,
thủ tướng, nó đã quấn khăn tang cho hàng triệu cô nhi quả phụ. Nó diễn hành
trong tiếng than khóc của nòi giống. Nó bán đứng dân tộc nó cho sự vinh hoa,
phú quý và quyền uy thống trị. Vây quanh nó là bọn gia nô, cầy cáo hiến kế dâng
mưu làm bại hoại tổ quốc. Nó cúi gục mặt cam đành để ngoại nhân khinh nhờn cái
uy linh của đất nước. Điều bi thảm nhất là nó giương danh “chính nghĩa quốc
gia” bêu nhục quốc gia. Nó thao túng tất cả. Nó độc quyền yêu nước giả vờ và
ngăn chặn tiến hóa của dân tộc. Nó ăn cắp cả vũ khí để giết kẻ thù bán cho kẻ
thù. Nó đánh đổi bất khuất truyền thống, lấy vọng ngoại, ỷ lại đê hèn. Cuối
cùng, nó đào ngũ chạy trốn trước lệnh đầu hàng, bỏ mặc quân dân ngơ ngác. Chưa
hề thấy trong lịch sử Việt Nam hạng tướng quốc cao bồi, mật vụ; hạng tham quyền
cố vị và ngu dốt như thế.
Nếu chúng không ngu dốt, đám lãnh tụ phong kiến đội lốt vô sản và đám lãnh tụ
khố xanh khố đỏ, chúng đã hiểu được cái thế hòa giải dân tộc và thống nhất tổ
quốc sau này. Hòa giải dân tộc không thể bao giờ có bằng sự nuôi dưỡng thù hận
huynh đệ, thù hận nòi giống. Người già rồi sẽ chết, phải chết, kể cả lãnh
tụ vĩ đại muôn năm . Tương lai một dân tộc là ở sự làm việc của người trẻ.
Những người trẻ sẽ biết phán xét cha anh, sẽ hiểu giá trị của đoàn tụ, sẽ nhường
nhịn nhau, hòa giải với nhau vì sự trường tồn của xứ sở. Nếu hiểu được vậy,
chúng đã không thích chiến tranh. Và khôn ngoan hơn, chúng biết lấy tiền của
ngoại nhân xây dựng hạnh phúc cho dân tộc và kiến thiết đất nước. Vì chúng ngu
dốt lại đầy tham vọng nên chúng biến thành công cụ của chủ nghĩa. Một đứa háo
danh. Một đứa ham tiền. Cả hai đều thèm quyền bính. Rốt cuộc quê hương tôi là
bãi chiến trường đọ vũ khí mới nhất của cộng sản và tư bản; dân tộc tôi hứng
bom Mỹ, hỏa tiễn Liên xô và đạn AK Trung quốc. Dân tộc tôi nào biết tư bản ra
sao, vô sản ra sao, thế mà cứ phải đâm chém nhau vì chiến tranh giải phóng và
chiến tranh ý thức hệ. Hết làm “thành trì chống Cộng bảo vệ Đông Nam Á” lại đến
làm “thành trì bảo vệ xã hội xã hội chủ nghĩa”! Chiến tranh chấm dứt, chúng tôi
còn gì ?Hố bom. Hầm chông. Rừng tàn tạ vì thuốc khai quang. Đói khổ. Lạc hậu và
lạc hậu.
Điều bi thảm nhất của dân tộc tôi là sau hòa bình của thứ gọi là chiến tranh ý
thức hệ khốn kiếp, chiến tranh tâm lý chó má, nhà tù và trại tập trung được xây
dựng nhanh hơn, nhiều hơn trường học bị bom đạn tàn phá. Người Việt Nam coi người
Việt Nam là kẻ thù nguy hiểm. Khi chủ nghĩa tư bản ngự trị trên một nửa đất nước
tôi, trò chơi của nó là bom đạn, càn quét, giết người, còng xích tra tấn và tù
ngục. Người Việt Nam công cụ của chủ nghĩa cộng sản ở một nửa đất nước phía
trên, bị đẩy vào chỗ chết bị bắt bớ, bị gọi là cộng phỉ và bị tra tấn, giam nhốt
vào các nhà tù do Mỹ viện trợ. Ở trong những nhà tù Mỹ quốc viện trợ, trò chơi
của chủ nghĩa tư bản xoay cộng phỉ phờ phạc rồi báo chí Mỹ miệt thị người Việt
Nam không tôn trọng nhân quyền. Khi chủ nghĩa cộng sản thôn tính miền Nam, người
Việt Nam bị coi là thua trận người Việt Nam, bị coi là ngụy quân ngụy quyền, bị
lùa vào các nhà tù, trại tập trung rập khuôn mẫu Liên xô và người… ngụy bị người
Việt Nam còng xích chân tay bằng khóa chế tạo tại USA! Đất nước tôi lại là nhà
tù trại tập trung sau hai mươi năm là bãi chiến trường khốc liệt. Thù hận do
các thứ chủ nghĩa xâm nhập. Các thứ chủ nghĩa hữu nghị với nhau, nắm tay nhau
liên hoan trên quê hương nghèo đói của tôi. Còn chúng tôi, chúng tôi thù hận lẫn
nhau. Chúng tôi nhân danh chủ nghĩa để băm vằm nhau. Chủ nghĩa và bọn đầy tớ
vong bản thủ lợi.
Thù hận chưa ngưng, dù đất nước đã tan tác, rạc rài. Vì tham vọng của chủ
nghĩa, tham vọng của lãnh tụ cái chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa đã áp đặt lên
khắp quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi những tai họa và những tai họa. Một xã
hội sưu thuế mới, đê tiện hơn cả xã hội sưu thuế trong tiểu thuyết của Ngô Tất
Tố, Nguyễn Công Hoan. Bọn thu thuế mới, bọn đảng viên cộng sản, gian ác và thủ
đoạn gấp ngàn lần bọn lý trưởng, chánh tổng. Dân chúng quằn quại vì sưu thuế.
Ruộng đất phì nhiêu, lúa cấy đến bốn vụ mà dân vẫn phải ăn độn khoai sắn. Tự
do, dân chủ là nước hoa đối với con nhà nghèo. Hạnh phúc là mỏi mòn chờ đợi. Tuổi
trẻ hắt hiu, cằn cỗi. Dinh dưỡng thiếu thốn, lao động quần quật, tuổi trẻ choắt
lại, thấp bé, môi thâm, mắt mờ. Đã thế, vẫn bị đầy ra chiến trường nước ngoài để
chết, để đui mù, què quặt cho “nghĩa vụ quốc tế”. Dân tộc bốn nghìn năm văn hiến
bỗng hóa thành một dân tộc dốt nát vì chỉ được học, được biết những giáo điều
viết lại của bầy ngự sử mác-xít. Những tài năng của đất nước bị chôn sống trong
nghĩa địa cải tạo, bị thủ tiêu, bị lưu đầy. Do đó, thù hận cũ chưa nguôi, thù hận
mới khởi sự. Và đó là chân lý.
Trong nước, phỉ quyền lộng hành, hủy diệt mọi công trình dựng nước của tiền
nhân, thúc bách dân chúng cam đành chấp nhận cuộc sống tối tăm ảm đạm. Ngoài nước,
đám tàn dư của ngụy quyền tiêu biểu là những tên tướng tá xuất thân khố xanh,
khố đỏ, pạc-ti-đăng; những tên chính khách chuyên nghiệp hèn mạt; những tên nghị
sĩ dân biểu gia nô; những tên trí thức bất lương, tiêu bạc giả lại mở miệng hôi
thối nói chuyện nước non. Sau khi bỏ lính chiến đào ngũ, sau khi bỏ cử tri chạy
trốn, sau khi bỏ đồng chí lẩn cút, sang nước Mỹ an toàn không một bóng dáng Việt
cộng, lũ tội đồ của dân tộc âm mưu phục hồi quyền bính tôi đòi cũ, thứ quyền
bính cho chúng bóc lột xương máu của quân dân một cách hợp pháp và có… chính
nghĩa quốc gia. Bọn quốc gia giả hình này, bọn cầy cáo của ngoại nhân, bọn đã
làm ung thối tổ quốc, bọn đã đánh bạc bằng máu của lính chiến, bằng mồ hôi của
dân lành, bọn đã làm băng hoại cuộc chiến đấu chống cộng sản xâm lăng, lại tiếp
tục làm băng hoại cuộc chiến đấu chống cộng sản cua dân trong nước, làm mất niềm
tin hồi hương của lưu dân khắp thế giới bởi những tranh giành quyền lãnh đạo độc
tôn, bởi những công kích nhục mạ lẫn nhau, bởi những thủ đoạn lừa gạt bịp bợm của
chúng. Và, thê lương hơn, bởi tinh thần vọng ngoại khó gột rửa. Một số vẫn ôm
chặt chân ông chủ Mỹ. Há chúng chưa quên bàn chân ông chủ Mỹ đã đạp đá chúng những
cú cuối cùng khi chúng chạy vào Tòa Đại Sứ hay phi trường Tân Sơn Nhất lạy van
xin trốn khỏi Việt Nam? Chẳng đứa nào có một chút liêm sỉ lãnh đạo của Cheng
Heng, của Siêu Matak? Hai nhà lãnh đạo Kampuchia này đã khước từ ân huệ di tản
của Mỹ, kẻ lừa gạt dân tộc họ, tình nguyện ở lại đất nước để được tưới máu của
họ xuống đất quê hương, để được chết chung với chiến hữu, với dân tộc họ bằng
lưỡi lê Khờ me đỏ. Một số tìm cách bám chân ông chủ cũ của Việt cộng là bố Tầu
hồng, kẻ thù truyền kiếp của giống nòi Bách Việt, kẻ đã đô hộ chúng ta hàng
nghìn năm, đã bắt tổ tiên ta lên rừng kiếm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai hết
thế kỷ này sang thế kỷ khác. Há chúng chưa học lịch sử tranh đấu của nòi giống
Bách Việt, chưa biết Lê Chiêu Thống và sự nghiệp rước giặc vào nhà? Học đòi
tham vọng quyền bính, chúng theo đóm lũ Hoàng văn Hoan, Trương Như Tảng chống
bè lũ Lê Duẩn. Há chúng chẳng hiểu Hoan và Tảng bị cộng sản khu trừ đâm ra cay
cú mà chống bọn khu trừ mình chứ đâu phải vì dân tộc mà thoát ly cộng sản. Há
chúng chẳng rõ Hoan vẫn tôn thờ tên tội đồ muôn thuở của dân tộc là Hồ Chí
Minh? Một số kết hợp tướng bẩn và tá cớm bầy trò lạc quyên xổ số, tem phiếu lấy
tiền bảo rằng mua súng đạn về lập chiến khu chống cộng sản. Công ty yêu nước của tẩy và cớm làm
ăn khấm khá nhờ lưu dân nóng lòng trở lại quê hương, khao khát trở lại quê
hương. Được đám trí thức bất lương đồng loã cổ võ và vinh tôn hết ngôn ngữ cò mồi
trên báo chí, thêm nữa, những tên giả hình trí thức, giả hình văn nghệ chui vào
hội đoàn này, hội đoàn nọ chia rẽ giữa các hội đoàn, bôi bẩn những người tài
năng không đồng quan điểm với công ty của nó, huyễn hoặc sinh viên, tạo nghi ngờ
giữa tuổi trẻ và đàn anh để lôi kéo tuổi trẻ suy tôn lãnh tụ tẩy và cớm, những
tên đã đàn áp tuổi trẻ tận tình. Há chúng tưởng người thức giả quên chuyện
chúng đào ngũ vất lại hàng ngàn xe tăng, hàng ngàn đại bác, ..hàng ngàn máy
bay, hàng triệu tấn súng đạn và ngót triệu quân tinh nhuệ? Bây giờ chúng lạc
quyên, xổ số để mua được mấy khẩu đại bác?
Nhìn thẳng vào sinh hoạt cứu quốc của đám tàn dư ngụy quyền ở quốc ngoại, hướng
về dân tộc đang rên siết dưới gót giầy thống trị bạo tàn của phỉ quyền quốc nội
, tôi, người tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-1975, tự đặt mình vào cái thế phải chống
cả tàn dư ngụy quyền và phỉ quyền. Ngụy quyền lưu manh. Phỉ quyền gian ác. Nước
Việt Nam không thể nào được xây dựng kiện toàn bằng lưu manh và gian ác. Dân tộc
Việt Nam không thể nào có tự do, dân chủ, hạnh phúc, thương yêu bởi đám lưu
manh và phường gian ác. Lịch sử thống trị của ngụy và phỉ đã chứng minh trên
hai miền đất nước. Phỉ quyền đang bóp nghẹt dân tộc bằng quyền bính chuyên
chính vô sản. Ngụy quyền đang phát động chiến đấu phục hồi quyền bính tôi đòi.
Hai thứ quyền bính này chỉ là nọc độc phì vào tim óc tổ quốc, chỉ là ròi bọ đục
nát gan phổi dân tộc . Tôi đã thấy và thấy rõ hơn từ những ngày tôi cô đơn
trong ngục tù phỉ quyền. Và tôi nghĩ tới một chính quyền tương lai của
đất nước tôi. Và tôi nghĩ tới thân phận tuổi trẻ Việt Nam bị lừa gạt ròng rã ba
mươi năm trời, bị gạt ra ngoài lề lịch sử. Nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi
trẻ đã tiêu pha lãng phí cho những âm mưu củng cố quyền bính khốn nạn của phỉ
và ngụy. Bây giờ là lúc tuổi trẻ phải quyết định lấy số phận dân tộc mình, phải
nhận thức đúng vai trò và nhiệm vụ của mình đối với lịch sử nòi giống, phải
tích cực chiến đấu để xây dựng chính quyền. Không có chính quyền,
không bao giờ có hạnh phúc vĩnh cửu. Muốn có chinh quyền, điều kiện tiên quyết
là phải xóa bỏ tàn dư ngụy quyền và âm mưu phục hồi quyền bính tôi đòi dĩ vãng,
phải xóa bỏ phỉ quyền. Tôi thành khẩn nghĩ rằng sứ mạng xóa bỏ ngụy và phỉ chỉ
có tuổi trẻ thế hệ tôi, trong và ngoài nước làm nổi. Bởi vì đại nghĩa ở trong
tim chúng tôi.
Thế hệ tôi là nạn nhân đau đớn của phỉ quyền và ngụy quyền, đồng thời là chứng
nhân buồn bã của niềm tủi nhục của tổ quốc trong thế tranh giành quyền lực giữa
hai thứ chủ nghĩa khốn kiếp. Chúng tôi chưa hề là tay sai của bất cứ một thứ
quyền lực nào đã thao túng ở Việt Nam. Nói rõ rệt, chúng tôi chưa hề là phỉ, là
ngụy. Trong chúng tôi nhiều người đã là lính chiến. Nhưng ở bất cứ một chế độ
nào, người lính vẫn chỉ là người cầm súng bảo vệ tổ quốc, quê hương dân tộc. Chế
độ sẽ mất như chế độ đã mất, tổ quốc, quê hương, dân tộc còn mãi, vĩnh cửu. Người
lính bảo vệ cái vĩnh cửu đó, không bảo vệ chế độ hay lãnh tụ. Chế độ, lãnh tụ
và chủ nghĩa đã lợi dụng người lính. Người lính gục ngã giữa chiến trường vẫn
tin rằng mình chết cho tổ quốc, không chết cho chế độ, lãnh tụ. chủ nghĩa. Người
ta hằng nói đến quân đội và nhân danh quân đội. Có bao giờ quân đội là tướng
lãnh đâu! Quân đội là lính chiến và những sĩ quan can đảm. Quân đội không bao
giờ là của riêng bọn tướng tá hèn mọn đào ngũ để chúng nhân danh này nọ. Chúng
tôi chưa hề để lại những dấu tích ô nhục trên quê hương. Chúng tôi chưa nắm quyền
bính và không tham vọng quyền bính. Dĩ vãng của chúng tôi đẹp. Hiện tại của
chúng tôi đẹp. Chúng tôi đi làm đẹp tương lai. Chỉ có thế hệ tuổi trẻ hôm nay,
thế hệ trưởng thành sau 30-4-75, mới đủ khả năng tạo dựng chỉnh quyền cho
xứ sở, mới đủ tư cách xóa bỏ ngụy quyền, phỉ quyền.
Kinh nghiệm lịch sử dạy chúng tôi những bài học quý giá về sự trông cậy ngoại
bang. Sau Lê Chiêu Thống rước Tầu là Nguyễn Ánh rước Tây. Nô lệ và nô lệ. Những
hò hét của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Cường Để được tích sự gì? Người Nhật
đã có mặt ở Việt Nam không phải vì Cường Để cầu cứu đủ làm sáng mắt chúng ta.
Sau Hồ Chí Minh tình nguyện làm đầy tớ Liên Xô đến Ngô Đình Diệm cam đành làm đầy
tớ Mỹ. Chiến tranh và chiến tranh. Phản bội và tù ngục, lưu đầy. Vậy mà vẫn còn
những kẻ ngu xuẩn muốn ôm chân tài phiệt Nhật Bản, muốn luồn cúi bá quyền Trung
Hoa. Nghĩ thật tủi vong hồn anh hùng, liệt sĩ đã chết vì chiến đấu chống Tầu,
chống Nhật xâm lăng! Bối cảnh lịch sử tuy đã khác nhưng hoàn cảnh lịch sử vẫn
giống nhau. Nghĩa là mọi vùng dậy đạp đổ bạo quyền phải xuất phát từ trong nước.
Chính nghĩa ở đó. Chính nghĩa lung linh từ giọt nước mắt tủi nhục của bà mẹ.
Chính nghĩa sang sảng từ tiếng khóc đói sữa của em thơ. Chính nghĩa ánh lên từ
những giọt mồ hôi cưỡng bức đổ xuống nông trường, công trường vô vọng. Chính
nghĩa tỏa ra từ những ngục tù xiềng xích. Chính nghĩa đó không tìm thấy ở những
ly champagne liên hoan chào mừng lạc quyên, xổ số trúng mối; ở những chỉ thị
ngu đần của kẻ mất tổ quốc mà vẫn to miệng hô hoán chỉ có ta mới giải thoát được
quê hương. Chính nghĩa đó cũng không tìm thấy ở những đồng bạc ti tiện ngửa tay
xin Nhật, xin Tầu; ở những đài phát thanh thuê mướn, ở những chiến khu màn bạc.
Những suy nghĩ, những phán xét của tôi, trước đây, còn mơ hồ. Từ ngày tôi về nước,
tất cả những gì tôi nghe, tôi thấy đã cụ thể cái mơ hồ của tôi. Và, rất ngay thẳng,
tôi quả quyết rằng, mọi nỗ lực lương thiện và chí tình quốc ngoại chỉ nhằm mục
đích hỗ trợ cuộc chiến đấu đích thực quốc nội chứ không thể giành quyền chỉ đạo.
Người ta đã không chịu hiểu điều này, nên mới xâu xé, bôi bẩn và tạo ra chia rẽ
phân hóa lực lượng. Nghĩ cho cùng thì đó là bản chất của quân phiệt, mật vụ
thôi. Chúng đòi đấu tranh cho tự do dân chủ mà chúng không thích trò chơi dân
chủ và luật dân chủ. Chúng muốn bắt mọi người đi vào quỹ đạo lạc quyên, xổ số
đi vào cái hũ gạo tối om? Ai chống lại chúng, chúng chụp mũ dơ bẩn và rỉ tai
bêu nhục. Nếu chúng dám về nước, chúng sẽ thấy chúng nhỏ bé đi và trẻ em trong
nước đã lớn hơn chúng đủ mọi phương diện. Tôi về nước. Tôi nằm tù. Tôi bị còng
tay, xích chân. Từ nỗi cô đơn tù ngục, tôi sáng tạo cuộc chiến đấu mới của tôi.
Tôi nhớ anh em nhà Tây Sơn. Và tôi nghĩ rằng, trước hay sau, sớm hay muộn, sẽ
phải có cuộc cách mạng Tây Sơn mới giải quyết xong toàn bộ vấn đề của dân tộc
tôi. Như thế, tôi có thể khẳng định rằng, tôi và tuổi trẻ thế hệ tôi, vì nỗi ngậm
ngùi của dân tộc mà chiến đấu. Tôi thuộc về dân tộc tôi . Và tôi chiến đấu
trong cô đơn. Đừng bảo tôi chiến đấu trong bất cứ một tổ chức nào. Đã đúng thời
điểm người tuổi trẻ đội mũ lên chính đầu mình, chiến đấu vì tổ quốc, dân tộc
mình, không dại dột làm giầy giép cho mọi thứ lãnh tụ hay chủ nghĩa nào hết. Tuổi
trẻ là lãnh tụ tuyệt vời nhất. Tôi tự hào tôi đã thấy tôi là người tuổi trẻ dám
chiến đấu.
CHƯƠNG 16
Những suy
tư trong thống khổ của tôi dành nhiều cho tuổi trẻ. Từ ngày bị chuyển về Z30 D,
tôi ít quan tâm tới thân phận tù đầy của tôi và những hình phạt tôi phải chịu đựng.
Trại tập trung chẳng còn gì hấp dẫn tôi nữa. Nếu tôi đã thấy niềm bí ẩn của đời
sống thì niềm bí ẩn ấy chỉ có dưới hầm phân nhung nhúc hàng tỷ con ròi, chỉ có
dưới đáy sông Ray những sáng mùa đông đói lạnh lặn xuống móc đá tảng. Niềm bí ẩn
ấy đã được soi sáng nhờ con gọng vó và triết lý sống bất hủ của nó. Sa Ác, trại
tập trung khổ sai lao động, mang bí số TH6, với riêng tôi, là nơi chốn mà cái động đã
rung rinh tận lóng xương, ống tủy của tôi:
Rừng nối rừng, cây tiếp nối cây
Đất gò mối rắn, cỏ tranh dầy
Mây leo cổ thụ gai nanh vuốt
Là chốn này đây, Xuyên Mộc đây.
Ta tới như thời lưu vãng xưa
Tay còng áo dấu ấn thô sơ
Sương mù Ba Thục tan huyền thoại
Chân bước nghe quanh khỉ vượn đùa.
Tự đó thân phơi giữa nắng trời
Hồn đêm nương ánh vỡ sao rơi
Nghe chăng hai tiếng nguyền Sa Ác
Đã đến là xong một kiếp người.
Ngẩng mặt lên nhìn ngọn Mây Tào
Lòng ta muối xát vẫn chiêm bao
Có gì êm ái hơn đau đớn
Khi biết hư vô ở chỗ nào.
Ai trước ngồi câu bờ Vị Thủy
Bây giờ ta tắm nước sông Ray
Thấy con gọng vó bèn bơi ngược
Soi sáng đời ta tử địa này.
(Thơ tù, Nam Á Paris)
Tôi phải cám ơn con gọng vó. Nó đã dạy tôi phấn đấu. Nó đã dạy tôi thản nhiên
đi trên hệ lụy, đi trong nghịch cảnh như nó lội ngược dòng nghịch lũ. Và tôi
noi gương nó:
Chẳng ngại đường oan bỏng sắt nung
Xin đi. Dù hiu quạnh trăm năm
Xin đi. Vì nỗi đau khôn lớn
Đi đến hồn nhau, đến tận cùng.
Do đó, tôi đã không mang nhà tù ra đời sống. Chẳng còn gì tẻ nhạt hơn là ngồi
kiểm điểm nỗi buồn khổ của riêng mình hàng nghìn trang và bắt người khác phải đọc,
phải nghe nỗi buồn khổ không làm rơi nước mắt đó. Nên tôi đã thích suy tư trong
thống khổ để hy vọng được sáng tạo bằng đau thương gạn lọc. Nhưng tại sao nỗi
suy tư của tôi dành nhiều cho tuổi trẻ? Tôi trả lời ngay đây. Tôi thấy, tuổi trẻ
Việt Nam, ở bất cứ không gian và thời gian nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, đều chứng
tỏ mình là sư tử. Trong nghịch cảnh, họ là sư tử lừng lững. Tất cả những người
tuổi trẻ – học sinh và sinh viên, nam cũng như nữ – mà cộng sản kết tội “phản động”,
tội “chống phá cách mạng” tôi đã gặp ở các nhà tù đều là những người làm rạng rỡ
cho sự nghiệp chiến đấu giành độc lập, tự do, dân chủ của dân tộc. Phẩm cách và
tinh thần bất khuất của họ đã làm cộng sản nể nang. Và khiếp sợ. Luôn luôn trực
diện kẻ thù bầy tỏ thái độ, bầy tỏ ý chí khi cần thiết. Không thèm sách động
trong bóng tối và không thèm chối cãi quanh co. Họ biết sống, biết chiến đấu và
biết chết, dám chết. Hẳn nhiên, họ không thích chết sảng, chết ngu, chết lấy tiếng
anh hùng rơm. Họ kiên trì chịu đựng gian khổ, không than van, không theo chủ
nghĩa “buộc chặt cái túi thăm nuôi”. Họ hào sảng, chia sẻ và sẵn sàng hứng lấy
cả thiệt thòi giùm người khác. Tôi cho rằng đó là những người lý tưởng mà tổ quốc
và dân tộc kỳ vọng. Những người tuổi trẻ của quân đội, những sĩ quan tác chiến
cấp úy, đa số, cũng là những người còn đầy lửa tim, còn cố gắng bảo vệ danh dự
quân đội, danh dự con người khi đương đầu với cộng sản trong tù ngục. Thái độ sống
của họ khác hẳn thái độ của sĩ quan tá già, của sĩ quan văn phòng. Càng khác hẳn
thái độ sống của giai cấp thư lại. Nói tóm lại, tuổi trẻ Việt Nam trong tù hay
ngoài đời vẫn là sư tử, là những kẻ cao thượng của một xã hội thấp hèn. Tôi suy
tư về tuổi trẻ còn bởi cộng sản to họng nguyền rủa tôi đã “đầu độc tuổi trẻ” chống
đối họ. Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt
trận văn hoá tư tưởng do nhà xuất bản Văn Hoá ấn hành năm 1980, công sản
đã dành cả 30 trang để kết án tôi đã tìm một lý tưởng cho tuổi trẻ. Và tôi đã
phản pháo cộng sản bằng Bầy sư tử lãng mạn. Tôi sắp cho cộng sản vỡ mặt bằng
tung thêm Hồn say phấn lạ. Ở bộ tiểu thuyết 1000 trang này, độc giả sẽ
thấy tuổi trẻ Sàigòn và tuổi trẻ Hà Nội – cả con cháu lãnh tụ cộng sản như Võ
Điện Biên (con trai út của Võ Nguyên Giáp), Thọ lột (cháu Nguyễn Lương Bằng),
Lê Điểu (con Lê Duẩn) v.v.. – chống cộng sản ngoạn mục ra sao. Đấy, lý do tôi
suy tư nhiều về tuổi trẻ. Sự suy tư không mang cho tôi một lợi lộc gì mà còn đẩy
tôi vào giữa gọng kìm của phỉ quyền và tàn dư ngụy quyền và bọn kháng chiến ảo
tưởng, bịp bợm. Bởi vì, tôi nghĩ, cuộc chiến đấu giải thoát dân tộc và mưu cầu
hạnh phúc cho dân tộc của tuổi trẻ là phải tiêu diệt phỉ quyền, loại bỏ ngụy
quyền và bọn mưu đồ phục hồi quyền bính tham nhũng, thối nát cũ. Bộ tiểu thuyết Hồn
say phấn lạ của tôi chưa xuất bản, chưa phát hành dù tôi đã hoàn tất từ cuối
tháng 11-1985, mới chỉ đường tạp chí Ngày Nay ở Wichita – Kansa (Hoa
Kỳ) – “dọa” phát hành đầu tháng 4-1987 1 mà
đã có một “tờ báo” chụp nguyên trang quảng cáo Hồn say phấn lạ, đánh máy
thêm những dòng báo động:
Tại nhiều cộng đồng người Việt hải ngoại, nạn thanh niên du đãng và trụy lạc,
chìm đắm trong tội ác, mỗi ngày một trầm trọng. Không ai chối cãi được. Vậy có
cần loại tiểu thuyết này để tiếp sức đầu độc và vạch đường chỉ lối không ? Các
chiến sĩ quốc gia nghĩ sao?
Thưa ông “tờ báo” mà tôi không biết tên (bạn tôi chỉ cắt trang ông chụp trang
quảng cáo Hồn say phấn lạ), ông báo động hơi sớm đấy. Tiểu thuyết chưa hề
xuất bản, ông biết gì mà bảo nó “tiếp sức đầu độc”. Chừng Hồn say phấn lạ phát
hành, mua trọn bộ về nghiền ngẫm kỹ lưỡng, nếu lương thiện, ông sẽ quảng cáo
giùm. Loại tiểu thuyết này vạch đường chỉ lối cho tuổi trẻ quốc nội (xin yên
tâm, không dính dáng chi đến quốc ngoại cả) vận động cuộc cách mạng Tây Sơn mới,
tiêu diệt cộng sản. Các chiến sĩ quốc gia (của ông thôi) nên mua càng nhiều
càng tốt về học tập. Riêng ông thì học cách làm báo cho hay bằng báo bí mật Đạn
lên nòng của tuổi trẻ Sàigòn đánh cộng sản.
Một điểm nhỏ vừa nêu đủ nói lên sự “khó khăn” cho suy tư của tôi. Tôi có nên
bán đứt bản quyền Hồn say phấn lạ cho cộng sản để họ đốt đi không nhỉ?
Chống cộng sản, bây giờ, còn gặp cả trở ngại quốc gia bẩn, quốc gia rắn rết, quốc
gia “nghĩ sao” những điều mình chưa biết. Nhưng cần gì, “chó sủa mặc chó, đoàn
lữ hành cứ đi”. Bao giờ và ở đâu thì tôi cũng vẫn chỉ là kẻ chống cộng tự nguyện,
chống cộng không ăn cái giải gì mà bị ăn hơi kỹ cơm tù và nọc rắn. Cộng sản chửi
tôi :” Từ Hoa thiên lý, Duyên Anh cho là đã viết với “niềm xúc động thật
tình”. là một truyện chống cộng khá thâm hiểm. Thông qua câu chuyện tưởng như
truyện tình cảm thuần túy, Duyên Anh đã quỷ quyệt gieo vào lòng người đọc tình
cảm sai về miền Bắc” 2. Vẫn cộng
sản chửi: “Đa số những truyện, ký của Duyên Anh đều sặc mùi phản động. Duyên
Anh đã chống cộng với tất cả mối thâm thù cách mạng” 3. Cộng
sản tiếp tục chửi: “Chỉ cần đọc câu: ‘Thôi đành chống cộng sản bằng cách gọi
cái sự thấy mỗi cuối tháng của đàn bà bình thường là kéo cờ cộng sản
vậy’ thì dù có hiền lành đến mấy đi cũng phải sôi gan” 4). Cộng
sản lên án: “Thực ra, phải nói Duyên Anh căm thù cách mạng mới thật đúng với
lòng dạ của hắn. Hắn căm thù cách mạng đến độ hầu như không một cuốn truyện
nào, bài báo nào của hắn mà không có những đoạn, những câu nói xấu cách mạng,
xuyên tạc, chửi rủa cộng sản” 5. Công
sản cay cú: “Chẳng những hắn biện hộ, ca ngợi bọn du đãng mà còn không bỏ lỡ cơ
hội nào để xuyên tạc, phỉ báng phong trào sinh viên học sinh và nói xấu cộng sản,
nói xấu cách mạng . Ý đồ chống cách mạng của Duyên Anh trong loại tiểu thuyết
du đãng còn lộ liễu trắng trợn hơn. Cái đuôi chống cách mạng của hắn đã thò ra
ngay từ cuốn truyện du đãng đầu tiên” 6 Cộng
sản đánh nhầu tôi, lôi cả ông nội tôi, bố tôi, em tôi, vợ tôi ra chửi. Quốc gia
bẩn thì nhục mạ tôi… làm việc cho cộng sản, tay sai cộng sản! Cộng sản khẳng định
truyện du đãng của tôi chống cách mạng cộng sản. Quốc gia bẩn bảo truyện du
đãng của tôi “đầu độc quốc gia… bẩn”. Kể ra cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Bởi tôi
đứng về chiến tuyến quốc gia chân chính. Mà quốc gia chân chính sẽ làm chính
quyền, phải làm chính quyền. Chính quyền không dung dưỡng phỉ quyền, không chứa
chấp ngụy quyền. Chính quyền sẽ nằm trong tay của tuổi trẻ lỗi lạc, sáng suốt,
nhiệt tình và lương thiện. Chính quyền của nước Việt Nam tương lai khu trừ gốc
rễ cộng sản, đã đành, còn loại bỏ toàn bô cơ cấu ngụy quyền tham nhũng, thối
nát, ngu dốt, phản phúc. Vậy thì cộng sản nguyền rủa tôi, quốc gia bẩn của nguy
quyền nham nhở nguyền rủa tôi chả là một song kiếm hợp nhất diệt kẻ
thù chung. Rất lô gích. Vì, cộng sản đã nêu cao chính nghĩa nhờ quốc gia bẩn,
quốc gia bẩn kiếm chác khấm khá nhờ chiêu bài độc quyền đấu thầu chống cộng sản.
Phỉ quyền và ngụy quyền đã nương nhau, đã dựa dẫm nhau mà sống, mà moi ruột tổ
quốc, mà móc mắt dân tộc, mà dẫm nát tình nghĩa đồng bào, mà làm băng hoại đất
nước Việt Nam yêu dấu, mà tước đoạt quyền sống con người. Nhưng khi dân tộc ta,
đất nước ta, tổ quốc chúng ta có chính quyền, bắt buộc, phỉ quyền và ngụy quyền
sẽ bị tận diệt cùng một lúc. Không có đất sống cho phỉ quyền và ngụy quyền trên
giang sơn gấm vóc của Lý Thường Kiệt, của Trần Hưng Đạo, của Quang Trung.. Phỉ
quyền và ngụy quyền đều sợ hãi chính quyền. Là bởi chính quyền có chính danh,
chính nghĩa, chính đạo. Chúng là bọn giả danh, giả nghĩa, giả đạo, giả mạo, giả
nhân. Từ bản chất, chúng đã giả. Chân lý không của bọn giả danh, không của phỉ
quyền và ngụy quyền. Tất cả đều đã nhìn rõ. Người tuổi trẻ hôm nay cần nhìn rõ
hơn. Để nhận đường chiến đấu. Nếu không, mọi dấn thân sẽ chỉ đóng góp cho bè lũ
tôi đòi vọng ngoai âm mưu phục hồi quyền bính bệ rạc dĩ vãng. Mãi mãi, dân tộc
khốn khổ, Việt Nam sẽ bị thống trị bởi phỉ quyền và ngụy quyền, hoặc thời thống
trị độc quyền của phỉ quyền, hoặc thời thống tri độc quyền của ngụy quyền. Còn
bóng dáng phỉ quyền và ngụy quyền, dân tộc ta còn quằn quại, đau thương. Tôi muốn
ví, ở bối cảnh lịch sử này, phỉ quyền như chúa Trịnh đàng ngoài, tàn dư ngụy
quyền như chúa Nguyễn đàng trong. Chúng ta cần một cuộc cách mạng Tây Sơn mới.
Của tuổi trẻ. Chừng nào chúng ta có chủ thuyết tiểu tư sản do người Việt Nam lập
thuvết làm nòng cốt cho tân cách mạng Tây Sơn, chừng đó dân tộc ta mới được giải
thoát, mới được sống hạnh phúc trong thương yêu 7
Nhưng, trước hết, một điều kiện tiên quyết, tuổi trẻ Việt Nam phải khước từ
lãnh tụ già nua, phải chối bỏ lãnh tụ mù lòa, phải đạp đổ lãnh tụ giả mạo. Tôi
hoàn toàn đồng ý với người tuổi trẻ tên là Độc Ngữ trong bài thơ dưới đây:
Những con
chó già
vẫn tưởng
răng mình
còn sắc
Tuy đã
rụng lông
và
trên lưng
từng mảng
ghẻ.
Những con
mèo
ngu si
vẫn tưởng
mình cốt
cách
sư tử
nhưng chết
khó hóa
thành
cáo.
Những lão
bình vôi
vẫn tưởng
nhờ mình
cây đa
được trọng
nể
mà quên
ông thần.
Những tên
văn nghệ khụ khị
vẫn tưởng
thốn tâm
thiên cổ
bằng tác
phẩm
củi mục
và huyênh
hoang
sau mình
đại hồng
thủy
Bọn lãnh
tụ
Bọn lãnh
tụ
chúng nó
đấy :
chó ghẻ
mèo ngu
bình vôi
củi mục
Trong mọi
lãnh vực
chúng nó
ngăn chận
tuổi trẻ
ta
Cách mạng
:
-Chúng nó
Văn hóa :
- Chúng
nó
Xã hội :
- Chúng
nó
Chính trị
:
-Chúng nó
Thụ hưởng
:
-Chúng nó
Còn chúng
ta
hít khói
lựu đạn
cay
Còn chúng
ta
ăn báng
súng
dài dài
Chúng ta
lãnh đòn
cảnh sát
vào khám
ra tù
hụt hơi
mù mắt
Chúng ta
làm guốc
để chúng
nó đi
Chúng tự
cho mình là
đại dương
Còn chúng
ta
kinh rạch
Chúng tự
cho mình là
trái núi
Còn chúng
ta
cỏ mục dưới
chân
Đã phẫn nộ
chưa
tuổi trẻ
hào hùng
bất cứ
giai đoạn
lịch sử nào
Chúng ta
cũng đều
biến
thành
vật tế thần
của tham
vọng
cá nhân
Chúng nó
cần ta
mà cứ
khinh ta bé nhỏ
Chúng nó
sử dụng ta
như những
tên
nô lệ
như những
trái chanh
vắt hết
nước
liệng
ngay
chằng hề
thương
xót
Bọn lãnh
tụ
Bọn lãnh
tụ
chúng nó
đấy :
chó ghẻ
mèo ngu
củi mục
bình vôi
Chó ghẻ
bên trong
chó ghẻ
bên ngoài
Chó ghẻ
hôm qua
chó ghẻ
hôm nay
Chó ghẻ
xà mâu
giả hình
sư tử
Tuổi trẻ
ta đâu
hãy đứng
lên
dang chân
đạp lãnh
tụ
Lãnh tụ
bên trong
Lãnh tụ
bên ngoài
Lãnh tụ ù
lỳ
Lãnh tụ
tay sai
Lãnh tụ lạc
quyên
Lãnh tụ
thỏa hiệp
Lãnh tụ cộng
sản
Lãnh tụ
lưu vong
rặt những
thằng
khốn kiếp
thứ củi mục
hết xài
thứ bình
vôi
đặc xịt
thứ hòn
bi
thích ăn
thèm uống
thứ côn
trùng
nhầy nhụa
háo danh
đã đục rỗng
ba mươi
năm
đất nước
Phải xổ
sán giun
khỏi
ruột non
ruột già
tổ quốc
Phải
phóng
nhiệt
tình
và lòng tự
phụ
vào trận
địa
Dấn Thân
Tuổi trẻ
ta đâu
kèn đã dục
kết đoàn
Bởi vì
chúng ta
mới thật
là
Sư Tử
Chúng ta
hiện tại
mặt trời
trăng sao
quá khứ
Xuống
thuyền thôi
Lịch sử
đang chờ
(Đạp đổ lãnh tụ, thơ Độc Ngữ)
Tôi mong
rằng, tuổi trẻ Việt Nam hôm nay, sẽ luôn luôn truy nã bản thân mình, truy nã
thân phận dân tộc mình. Sự truy nã thường xuyên sẽ soi rõ con đường chiến đấu của
mình. Để không còn thất bại. Để tự hào là sư tử của tổ quốc. Tôi xin phép được
khẳng định vị thế của tôi trong cuộc chiến đấu giải thoát giống nòi của tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là lãnh tụ cao quý của tôi. Tôi chỉ ngưỡng mộ tuổi trẻ lý tưởng và phục
vụ lý tưởng của tuổi trẻ như một tên lính thổi kèn đi tiên phong.
Thôi, tôi phải về Z30 D, nơi tôi bị phỉ quyền cộng sản giam giữ và hành hạ khổ
sai lao động vì đã dám chống đối cách mạng vô sản và xúi dục tuổi trẻ chống đối
cách mạng vô sản.
--------------------------------
Vì Hồn say phấn lạ dầy quá, tạp chí Ngày Nay không đủ
phương tiện xuất bản. Nên cứ … doạ mãi. Rốt cuộc Xuân Thu sẽ phát hành.
|
|
Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận
văn hóa tư tưởng.
|
|
Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận
văn hóa tư tưởng.
|
|
Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận
văn hóa tư tưởng.
|
|
Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận
văn hóa tư tưởng.
|
|
Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận
văn hóa tư tưởng.
|
|
Tác giả đã gợi ý cho tuổi trẻ Việt Nam về chủ thuyết tiểu tư sản
và tân cách mạng Tây Sơn ở những tiểu thuyết Sỏi đá ngậm ngùi, Bầy sư tử
lãng mạn, Một người tên là Trần văn Bá và rõ rệt nhất ở Hồn say phấn
lạ. Theo tác giả, hai chủ nghĩa tư bản và vô sản đã bất lực trong mưu cầu
hạnh phúc cho nhân loại, đã cầy nát dân tộc Việt Nam, đã đưa dân tộc Việt Nam
vào chiến tranh, thù hận, ngục tù, đói khổ, ngu dốt, lạc hậu.
|
CHƯƠNG 17
Chuyện
nghe kể về một trại cải tạo.
Trại ấy tên là An Hòa, cách thị xã Đà Nẵng 60 cây số về phía Tây, gần biên giới
Ai Lao. Chúng ta đều biết rằng, cộng sản chiếm Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng rồi
mới thừa thắng tràn xuống phía Nam. Tổng Y viện Duy Tân của Quân Đoàn 1, Vùng 1
chiến thuật nằm ở thị xã Đà Nẵng. Khi cộng sản băng qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng,
Tổng Y viện Duy Tân còn khá đông y sĩ ở lại với thương bệnh binh. Lương tâm thầy
thuốc không cho phép họ đào tẩu. Cộng sản tiếp thư Tổng Y viện Duy Tân, chỉ định
bác sĩ Phạm văn Lương làm chỉ huy trưởng lâm thời Tổng Y viện này.
Bác sĩ Phạm văn Lương, người hùng đảo chính Trường Y khoa quân đội năm 1963
(*), hồi còn là sinh viên. Là bạn thân của Hà Thúc Nhơn, người hùng chống tham
nhũng ở Quân Y viện Nguyễn Huệ, Nha Trang, bị thảm sát bởi tập đoàn Ngô
Du, Vũ Ngọc Hoàn, Huỳnh Bá Phẩm, ông thực sự nổi tiếng khi ôm lựu đạn ngồi trước
cửa Hạ Viện bầy tỏ thái độ chống tham nhũng, thối nát của ông. Phải nói, ông là
biểu tượng của sĩ khí còn lại sau cơn lốc đô la. Một mình một ngựa, người tuổi
trẻ Phạm văn Lương xông xáo vào trận tuyến làm đẹp đất nước. « Một người còn có
một tin tưởng vào một số tín điều nào đó, tất nhiên phải nhìn những biến thiên
của xã hội hôm nay bằng một con mắt nghiêm khắc, nếu không muốn nói là thù hận.
Sự tin tưởng sâu xa và sự cuồng tín chỉ là hai mặt của một vấn đề »(**). Phạm
văn Lương là con người đó. Sự cuồng tín của ông ta đã đưa ông ta vào cô đơn. Và
ông đã dẫy dụa trong lưới ngộ nhận cố tình của bọn thống trị độc ác. Phạm văn
Lương giáo dục con cái nghiêm khắc như ông nhìn xã hội vậy. Ông chính là con gọng
vó bơi ngược dòng nghịch lũ. Cuối cùng, ông thả dài mộng ước hư hao ở tổng
y viện.
Tháng 6-1975, như tất cả sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, các y sĩ quân đội
phải đi trình diện học tập cải tạo. Y sĩ Tổng y viện Duy Tân trình diện tại chỗ
và được đưa vào trại cải tạo An Hòa cùng một số lớn thuốc và dụng cụ Y khoa. Trại
An Hòa được kể là trại lao cải lớn của Vùng 1. Sĩ quan của Sư đoàn 1 bộ binh,
các viên chức cao cấp của chế độ cũ, nhất là những người gốc gác Thừa Thiên, đều
đã chạy cả vào Đà Nẵng rồi trình diện ở Đà Nẵng và vô An Hòa. Huế vốn lừng danh
sắt máu. Huế của Tố Hữu 1945 xử tử Phạm Quỳnh. Huế của Mậu Thân 1968, của Hoàng
Phủ Ngọc Tường tàn sát, chôn sống tập thể. Huế của 1975, của Tống Nhạn sẽ tái
diễn Huế 1968. Người ta sợ hãi « biển máu » ở Huế và người ta chạy tuốt vào Sài
gòn hay tạm dừng ở Đà Nẵng.
Tất cả các trại tập trung cải tạo « ngụy quân, ngụy quyền » từ tháng 6-1975 đến
cuối năm 1978 đều do quân đội nhân dân quản lý. Nói rõ rệt, Bộ quốc phòng quản
lý. Khi ổn định tình hình Huế, chính quyền cách mạng của Huế mới nghĩ chuyện trả
thù những kẻ « có nợ máu » với nhân dân. Họ lập một danh sách những tù nhân cần
thiết phải đem về địa phương để xử tử. Và danh sách đó gửi tới An Hòa. Ban giám
thị trại An Hòa không trả lời. Huế cử một phái đoàn vào An Hòa lãnh tù nhân
sinh trưởng tại Huế về « cải tạo ». Ban giám thị trại An Hòa từ chối. Huế làm dữ.
Mỗi ngày một phái đoàn vào An Hòa. Ban giám thị phải hỏi ý kiến Bộ quốc phòng.
Bộ quốc phòng hỏi ý kiến Bộ chính trị trung ương Đảng. Quân ủy và Đảng ủy họp.
Hai vấn đề được đặt ra :
Giao tù
nhân cho địa phương là sai nguyên tắc, sai chính sách học tập cải tạo.
Tù nhân sẽ
nổi loạn nếu biết địa phương đem về xử tử.
Đặt vấn đề
xong là giải quyết ngay : Thủ tiêu các tù nhân cải tạo gốc Huế mà Huế đòi hỏi
trong danh sách. Các y sĩ của Tổng y viện Duy Tân còn sót lại và đi trình diện
học tập cải tạo bị chỉ định công tác sát nhân này. Có 2 lý do khiến họ phải cất
lương tâm một chỗ thật kín.
Bị đe dọa
nếu không thi hành công tác, vợ con sẽ bị tàn sát.
Bị đe dọa
sẽ chết thảm nếu không thi hành công tác.
Họ cần sống,
họ sợ chết đau đớn, chết kiểu chôn sống. Và họ đã giết mỗi ngày vài tù nhân gốc
Huế cho đến khi danh sách những kẻ « nợ máu » của nhân dân Huế không còn ai. Huế
đến đòi. Anh Hòa báo cáo tù nhân đã chết bệnh, có biên bản và y chứng. Nhưng Huế
biết tù nhân « nợ máu » bị thủ tiêu cả. Sau hai năm sống với nỗi ray rứt lương
tâm, ám ảnh tội ác, các y sĩ của Tổng y viện Duy Tân cải tạo ở trại An Hòa đã lần
lượt tự sát. Chính xác tên tuổi và ngày tháng tự sát là bác sĩ Vũ Đức Giang.
Bác sĩ Giang tự sát ngày 30 tháng Chạp năm Tị, 1977. Ông đã chọn một ngày cuối
năm cho một ngày cuối đời. Bác sĩ Giang còn rất trẻ. Người yêu ông vượt biển
sang Gia nã đại. Nàng chỉ yêu ông. Và nàng trở nên lạnh lùng với tình ái khi
hay tin ông tự sát. Nàng đã bị kẻ yêu nàng mà không được nàng yêu hạ sát. Bác
sĩ Giang tự tử đúng ngày sinh của ông. Người y sĩ cuối cùng tự sát là Phạm văn
Lương.
- Các y sĩ thủ tiêu tù nhân bằng thuốc gì ?
- Thiếu gì thuốc. Nhưng việt cộng có một thứ thuốc thủ tiêu rất êm.
- Thuốc gì ?
- 20 xen ti mét khối không khí vào mạch máu !
- Các y sĩ cũng chết bằng cách đó ?
- Có lẽ.
Bài thơ về một người tù
Em bé Việt Nam
Sinh tháng 8-1975
Năm 79 chưa đầy bốn tuổi
Theo mẹ vượt biên tìm cha trốn khỏi quê hương
Chẳng may bị bắt giữa đường
Em bé đến trường cải tạo
Chế độ khoan hồng nhân đạo
Nhốt em với mẹ chung phòng
Em có hồ sơ riêng
Được đối xử công bằng
Do xã hội ưu việt
Do giáo điều tinh khiết
Do luật pháp quang minh
Do lãnh tụ tài tình
Em can tội khước từ chủ nghĩa
Em can tội chống ý thức hệ
Em bé mút ngón tay học tập làm người
Khi em trở lại cuộc đời
Cầm tấm giấy ra tù
Vẫn chưa biết mình là thần đồng phản động.
Và một bài thơ có nhan đề Cổ tích
Có một đàn kiến lửa
rủ nhau vào cachot
thấy nằm đó gã tù
tay còng chân đeo xích
Tù nhân không nhúc nhích
Kiến chúa nhớ thù người
Vuốt râu nhếch mép cười
Đã đúng giờ tuyết hận
Ôi con người khốn nạn
Sát hại kiến dài dài
Gót giầy dẫm cả bầy
chẳng mảy may thương xót
Kiến dậy lòng căm tức
định hành hạ tù nhân
Một giây sáng lương tâm
chê con người bần tiện
thiếu linh hồn loài kiến
ghét nhau bắt nhốt nhau
đầy đọa nhau thảm sầu
nhục nhằn rồi chết rũ
Kiến quên nhanh thù cũ
phun lửa chảy xích còng
Tù nhân khóc rưng rưng
Con người thua con kiến
Cuối tháng 12-1980, khu A biên chế các đội lung tung, xào xáo. Nguyễn văn Hải
và tôi bị biên chế vào đội linh tinh và tách ra tổ vệ sinh khu A. Tất cả các đội
khu A dọn sang khu B, xóm nhà lá. Riêng đội xây cất, đội mà danh ca Duy Trác đã
ở, còn được cư ngụ tại nhà gạch khu A. Ông già Tới cầm Giấy ra trại. Thiếu
tá nhảy dù Phạm Đình Cung, hỗn danh Cung củ đậu (***) nhậm chức trật tự viên,
thay thế ông già Tới. Cung củ đậu quen biết tôi ngoài đời, hồi Phạm Huy Sảnh
còn làm chỉ huy trưởng Cảnh sát dã chiến Biệt đoàn Con nhện 222 và Nguyên Duy
Am, chỉ huy phó. Anh ta có máu lai Chà và, bụng to, thân xác to nhưng óc nhỏ.
Tôi không hiểu tại sao Z30 D lại tin tưởng sĩ quan nhảy dù. Cung củ đậu sang
làm trật tự khu A một tuần lễ thì tổ vệ sinh của chúng tôi nhận chỉ thị cọ rửa
sạch các hồ nước và bơm đầy nước vào hồ. Rồi các nhà trống cũng được quét dọn,
lau rửa sạch sẽ. Có biến cố gì chăng ?
Tôi đã sống ở Sa Ác ngót hai năm và đã hiểu cung cách quản lý tù nhân. Cứ ba bốn
tháng, các đội lại bị biên chế. Người ta không muốn tù nhân sống chung lâu với
nhau cùng đội, cùng nhà. Tôi đã tưởng các đội khu B sang khu A. Không, bạn tù
lâu năm của Z30 D bảo không hề có đón tiếp nồng hậu thế. Vậy đón ai ? Khoảng 20
tháng 1-1981 tôi có câu trả lời. Tù nhân sĩ quan cải tạo từ trại Hà Nam Ninh
(trại Đầm Đùn) từ Bắc về Nam. Z30 D tiếp nhận 500 tù nhân đặc biệt này. Họ về với
cả chổi cùn dế rách, lồng chim, lồng gà. Chim chào mào đít đỏ và gà vẫn sống
nhăn răng sau cuộc hành trình đường sắt. Họ xuống ga Phan Thiết. Từ ga Phan thiết,
họ bị dồn lên xe tải, hai người một còng số 8, về Z30 D. Hành lý chở riêng mấy
xe đầy nhóc. Hành lý đến trước người. Chúng tôi, tổ vệ sinh, vác hành lý để một
góc sân xếp riêng một chỗ theo tên tù nhân viết ngoài bao bố, ba lô, túi vải, bị
cói. Công việc vừa xong thì xe chở tù nhân tới. Còng tay được mở ngay lúc họ xuống
xe. Hàng đôi, họ vô trại. Vệ binh bố trí quanh trại. Đại liên, trung liên nạp đạn
sẵn sàng. Thủ tục nhập trại của họ rất khẩn trương. Trước hết, họ nhận hành lý.
Rồi theo dõi tên đọc trong danh sách, khuân hành lý xếp hàng trật tự. Họ được
biên chế đúng 10 đội, đủ 10 căn nhà. Đội xây cất lại dọn sang khu B. Tổ vệ sinh
tạm trú ở phòng ăn Nhà 1. Mỗi đội khuân hành lý, theo quản giáo và vệ binh nhận
nhà. Hành lý của họ được kiểm tra thật nhanh. Không món nào bị tịch thu cả.
Tất cả tù nhân từ một trại đến một trại đều nằm trong quy luật này: cửa nhà
đóng chặt, khóa kỹ, chỉ mở lúc chia cơm nước. Ba ngày sau mới được đi tắm. Tù
nhân Hà Nam Ninh đúng là “thượng khách” của Z30 D. Cửa mở tung, đi lại tự do.
Nước đầy hồ, mặc sức tắm. Cạn thì bơm đầy. Họ ca cóng ngay. Chúng tôi phải kéo
đẩy mấy chuyến xe cải tiến củi, cho họ mượn dao chẻ nhỏ mà nấu nướng. Trong số
tù nhân Hà Nam Ninh, tôi quen biết vài người. Quân đội có Vũ Xuân Thông, trung
tá, Lữ đoàn phó Biệt cách 81. Lữ đoàn trưởng còn kẹt lại Hà Nam Ninh A vân vân.
Dân sự có Ruyện hay Ruyệt (tôi nhớ không rõ), Quốc gia hành chánh, cùng khóa Đỗ
Tiến Đức, đã làm việc chung phòng với tôi ở Tổng nha thanh niên thời Cao Xuân Vỹ,
phó tỉnh trưởng vân vân. Người đầu tiên nhận ra tôi và tìm gặp tôi là Vũ Xuân
Thông, tài tử điện ảnh, vai chính của Người tình không chân dung. Vũ Xuân
Thông và tôi là chỗ thân tình, kém tôi vài tuổi mà Thông cứ xưng em với tôi,
ngoài đời như trong tù.
- Không ngờ gặp anh ở đây.
- Ông biết tôi bị bắt không ?
- Biết. Em đã sống với anh Văn Quang. Anh Văn Quang chịu đựng nổi, anh cũng chịu
đựng nổi.
Tôi kể chuyện Sở công an, đề lao Gia định, khám lớn Chí hòa, Sa Ác cho Thông
nghe. Thông kể chuyện Lào Kay, vùng kinh tế núi Văn Bàng, Hoàng Liên Sơn, Yên
Bái và bến đò Khô Lâu, Sơn La, ruồi vàng to bằng đốt ngón tay cắn chảy máu người,
ăn bo bo đen, chịu sốt vàng da… Chúng tôi ôm nhau khóc. Và cười.
- Em vẫn mơ ngày vẽ bộ truyện tranh Dzũng Đa kao
- Chuyện ấy tính sau.
Vũ Xuân Thông kể chuyện Bầy sư tử lãng mạn (****) đánh thức Hà Nam
Ninh B vùng dậy. Và kết quả là chuyển trại về Nam.
- Anh nghĩ gì ?
- Nghĩ gì ?
- Chuyện đưa anh em về đây.
- Tôi không hiểu, hoàn toàn không hiểu. Nó đã đón tiếp Hà Nam Ninh nồng hậu.
Thanh Nghệ Tĩnh về đây âm thầm lắm. Có điều đừng suy diễn hoàn toàn lợi cho
mình. Hay nhất là im lặng, wait and see. Ô kê ?
- Đồng ý với anh. Nhưng anh em quá khích hơi đông. Đầu óc lại hơi ít.
- Ai là đầu óc lớn ? Mà thôi, đừng tiết lộ.
- Tại sao, anh Duyên Anh ?
- Tại tôi không thích biết quá nhiều nữa. Còn ông, lớn hay nhỏ ?
- Không lớn vẫn bị tụi nó đánh dấu … Biệt cách 81.
- Bọn Z30 D nhận chỉ thị trực tiếp của bộ nội vụ. Chúng nó cáo lắm. Chân ướt
chân ráo nên im lặng là tốt. Nó cũng đang chờ các ông tỏ thái độ đấy.
- Sao anh biết ?
- Rồi ông xem. Nó đưa thằng Cung củ đậu làm trật tự trước khi các ông về. Nó đã
đề phòng. Nó lấy độc trị độc.
- Em phải bàn với anh em.
Tôi nấu mì chiêu đãi Vũ Xuân Thông, người lính hào hùng, người tài tử đẹp trai
của tôi. Tổ vệ sinh đã làm tất cả những gì có thể làm để giúp đỡ anh em Hà Nam
Ninh. Đêm đầu tiên hoàn toàn im lặng. Vì mấy ngày đường mệt mỏi, anh em ngủ
ngon lành. Hôm sau, anh em được viết thư báo tin cho gia đình. Trại hứa đem hết
thư về Sài gòn và yêu cầu Bưu điện Sài gòn phát thư khẩn trương. « Đầu óc lớn »
chưa làm việc. Tốt. « Mặt trận miền Tây vẫn yên lặng ». Một trung úy của Phủ đặc
ủy trung ương tình báo, độc giả của tôi, tên Thọ, đến tìm tôi.
- Anh thân với anh Vũ Xuân Thông lắm, phải không ?
- Thân.
- Anh Thông thật tốt, thật bao dung. Anh ấy chỉ là nghệ sĩ khoác áo lính, làm
việc khác không được đâu. Anh ấy ba phải, bị thiên hạ dùng làm bia.
- Cậu nói gì tôi không hiểu. Nhưng đừng nên nói nữa. Anh em mình gặp nhau là
vui. Chúng ta lại mới biết nhau. Đừng tâm sự thì khỏi ngờ vực, đề phòng. Kinh
nghiệm ở tù dạy tôi từ chối nghe chuyện kín.
- Anh thủ đến thế ư ?
- Tôi tránh phiền phức cho cậu. Sợ rằng thương tôi cậu mất công thanh minh cho
tôi rồi sẽ mất cả bạn lẫn chiến hữu.
- Đã xảy cho anh chuyện đau lòng vậy à, anh ?
- Sẽ, xẩy ra.
- Anh có gì khuyên em ?
- Cậu thuộc bài Khóc Bằng Phi của Tự Đức chứ ?
- Thuộc.
- Một câu trong đó là lời khuyên.
- Câu nào, thưa anh ?
- Xếp tàn y lại để dành hơi.
- Cám ơn anh, em vẫn chủ trương thế. Anh Duyên Anh ạ ?
- Gì ?
- Nghề nghiệp của em dạy em biết đánh giá con người, sự việc và tin tức. Những
người lãnh đạo vụ Hà Nam Ninh B đều bị ghim trong danh sách đỏ. Và hồ sơ theo
tù nhân đến trại mới. Em nghĩ anh chẳng cần thủ.
- Ở tù, bất đồng quan điểm là một tội nặng, cậu hiểu chứ ?
- Anh bất đồng quan điểm gì ?
- Nhiều lắm.
- Thí dụ ?
- Một số người mơ mộng dẹp tan cộng sản sẽ lên lon ầm ầm, sẽ lãnh vô kể tiền
ráp pen, sẽ trở thành những cái rốn của tổ quốc. Tôi thì lại mong tất cả khởi sự
từ zê rô.
- Gì nữa ?
- Một số người lấy thành tích ngục tù là cái gì ghê gớm lắm, dân tộc phải biết
ơn họ, ngưỡng mộ họ. Tôi thì cho chuyện ở tù là một vụ nghỉ hè dài trong đời sống.
- Gì nữa ?
- Tôi quan niệm việc làm là việc làm, lớn hay nhỏ, tôi cố gắng làm đến nơi đến
chốn. Tôi lao động đúng yêu cầu của cộng sản. Để biết sức của tôi và để tập
hoàn thành một công việc bị cưỡng bức. Còn để chứng tỏ thái độ của nhà văn. Một
số người cho rằng tôi sợ hãi, khiếp nhược. Họ muốn tôi phải là nhân vật người
hùng của tiểu thuyết của tôi.
- Gì nữa ?
- Tôi không thích thù hận bọn công an coi tù, nói chung, tôi không thích thù hận
công cụ của chủ nghĩa cộng sản và lãnh tụ của nó. Tôi chỉ muốn hủy diệt chủ
nghĩa cộng sản và lãnh tụ cộng sản. Người ta không thể giết chết con rắn độc bằng
cách chỉ đập nát cái đuôi. Tôi bị coi là thân cộng sản, đầu hàng cộng sản.
- Tầm bậy. Em đồng ý với quan điểm của anh. Còn nổi loạn trong tù ?
- Cộng sản sợ hãi sự im lặng.
- Nổi loạn vô ích ?
- Thử nổi loạn đi, sẽ có kinh nghiệm lớn.
- Em vốn bất động từ vào tù. Em muốn có kinh nghiệm từ anh.
- Tôi chưa nổi loạn trong tù, không bao giờ nổi loạn trong tù. Tôi chống bạo lực
bằng chữ nghĩa và tư tưởng. Nhà văn xử dụng võ khí của nhà văn. Tôi chưa hề xuống
đường hoan hô, đả đảo. Cậu nên nhớ rằng, sĩ quan quân đội của ta không được coi
như tù binh chiến tranh. Vậy không có Quy ước, Thỏa hiệp quốc tế nào bảo vệ. Với
cộng sản, dẫu có, họ cũng dẫm lên những Quy ước – Thỏa hiệp bằng giép râu. Thí
dụ sĩ quan quân đội của ta được coi là tù binh chiến tranh, thì Quy ước quốc tế
về tù binh chiến tranh ký kết tại Geneve, hình như, năm 1951, cũng có điều khoản
cấm tù binh nổi loạn trong các trại tù và cho phép những kẻ canh giữ tù binh
đàn áp mọi nổi loạn trong trại tù. Còn có cả điều khoản tù binh chiến bại phải
chào kính kẻ chiến thắng canh giữ, nếu kẻ chiến thắng yêu cầu. Nổi loạn trong
tù là hạ sách, có lẽ, là chuyện phiêu lưu vô vọng. Vậy nằm tù cộng sản có hai
thái độ chọn lựa. Một là, tuyệt vọng như con hổ trong chuồng sắt sở thú : Than
ôi, thời oanh liệt nay còn đâu ! Hai là, suy tư một câu thơ của Tự Đức : Xếp
tàn y lại để dành hơi. Tôi chọn thơ Tự Đức.
Trung úy Thọ, người bạn tuổi nhỏ của tôi, không hỏi thêm gì nữa. Anh ta hút thuốc
lào rồi nói chuyện văn nghệ. Ngày thứ ba, anh ta lại tìm tôi. Và chúng tôi mạn
đàm thân mật.
- Hỏng rồi, anh Duyên Anh ơi !
- Chuyện gì ?
- Đàn anh qua khu B được các đàn em tâng bốc và đốc thúc « phải cho nổ », đừng
để đàn em thất vọng như đã thất vọng Thanh Nghệ Tĩnh.
- Rồi sao ?
- Các anh ấy họp.
- Đến đây thì tôi xin cậu ngưng lại.
Trung úy Thọ lắc đầu :
- Vâng, em nghe anh. Cho em phê bình một câu được không ?
Tôi hỏi :
- Phê bình tôi ?
Thọ đáp :
- Phê bình đàn anh của em.
- Thử phê bình xem sao.
- Quân đội không biết làm chính trị. Các anh lớn đánh giặc giỏi, khí khái, quả
cảm nhưng thiếu thủ đoạn.
- Tại sao cậu không giúp ?
- Em nhỏ và luôn luôn bị coi phá bĩnh.
- Mình nói chuyện khác, Thọ ạ !
Thọ ngồi chơi một lát rồi về. Vũ Xuân Thông tới, kể tiếp chuyện Văn Quang vồ
ngóe nướng ăn và rình mò đập chết cả chim nữa. Tôi hỏi Thông :
- Đầu óc lớn đã có nhận xét chính xác về Z30 D chưa ?
Thông cười rất tươi :
- Thuận lợi 100 phần 100.
- Dựa vào những sự kiện nào ?
- Suy diễn.
- Ra sao ?
- Cộng sản đưa một nửa trại Hà Nam Ninh B về Nam, chứng tỏ nó đã hết chịu nổi
áp lực của Mỹ. Nó đối xử đẹp và nhún nhường chưa từng thấy từ trại này qua trại
khác ở ngoài Bắc cũng như trong Nam. Chắc chắn sẽ có một biến cố.
- Đợi chờ biến cố xẩy ra chứ ?
- Vâng.
- Nhưng do đâu biết tin Mỹ can thiệp cho tù nhân sĩ quan cải tạo ?
- Anh em khu B nói.
Tôi vỗ vai Vũ Xuân Thông :
- Bạn ơi, ở Sa Ác, người ta đang chờ Mỹ đem trực thăng đến bốc sĩ quan cải tạo
từ trại ra thẳng Hạm đội 7. Bạn ta biết tin từ đâu không ?
- Không.
- Từ ban giám thị, từ cộng sản. Bạn ạ, ở tù cộng sản phương pháp 3 W chưa đủ, 4
W vẫn chưa đủ. Who, What, Where, When vất đi hết. Các bình luận gia lỗi lạc của
thế giới đều đã trật lất khi suy đoán, tiên đoán về cộng sản. Với cộng sản, chỉ
khi công khai hóa một vấn đề, cụ thể hóa một sự kiện, người ta mới ngã bổ chửng.
Không ai đoán nổi, hiểu nổi cộng sản sắp làm gì, sẽ làm gì, mà chỉ vỡ lẽ cộng sản
đã làm gì ! Anh Nguyễn Mạnh Côn, tác giả Cộng sản là gì, người tự cho mình
hiểu cộng sản hơn bất cứ người nào chống cộng sản, đã tưởng mình tuyệt thực dọa,
cộng sản sẽ lạy mình ăn, sẽ đè ra chích nước biển và bồi dưỡng cả két sữa đặc
như Như Phong, nhưng kết cuộc thấy mình lầm lớn, mình chưa hiểu nổi những giai
đoạn, những đối tượng cộng sản cần đối phó. Bạn ta biết cộng sản mỉa mai ra sao
không ?
- Ra sao ?
- Nó nhún vai : Trò rẻ tiền xuống đường, tự thiêu, tuyệt thực chỉ xẩy ra thời
ngụy. Bây giờ là thời của xã hội chủ nghĩa. Thời này, kể tuyệt thực chết, tự
thiêu chết, thắt cổ chết bị đánh thuế ngu. Thân nhân kẻ chết ngu phải nộp thuế
ngu cho Nhà nước.
Vũ Xuân Thông bần thần suy nghĩ. Tôi nói :
- Bạn ta ơi, tôi chưa hề thấy người hùng của chiến trường miền Nam cũng là người
hùng của chính trường miền Nam.
Và tiếp :
- Từ Trần Phú, Lê Hồng Phong đến Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Tố Hữu … vân vân đều đã
như những con chó câm trong ngục tù thực dân hàng chục năm. Có đứa 20 năm. Cuối
cùng, nhờ biết làm chó câm, chúng nó lần lượt trở thành vĩ đại. Những thằng sủa
và bị hích sủa thì thành liệt sĩ ngu đần. Liệt sĩ Bế văn Đàn khom lưng cho đại
liên kê lên vài bắn cháy mẹ nó da thịt, liệt sĩ Cù Chính Lan lao mình vào lỗ
châu mai hứng đạn, thế giới đếch thèm biết tên mà chỉ biết Võ Nguyên Giáp, anh
hùng, vĩ nhân Điện Biên Phủ. Vậy bạn ta muốn thay đổi vận mệnh dân tộc, muốn lật
ngược thế thời hay chỉ muốn được đám tù nhân Z30 D ca ngợi ?
Vũ Xuân Thông cầm tay tôi :
- Em sẽ đem tặng anh cái điếu cày em thửa ở Sơn La.
--------------------------------
Bác sĩ
Hoàng văn Đức, chỉ huy trưởng Trường Quân y đến 11-1963.
|
|
Ký giả
Lô Răng, Đọc Ngựa chứng trong sân trường, Tạp Ghi, báo Tiền Tuyến.
|
|
Khi tôi
về, bạn tù về sau kể rằng, thiếu tá nhảy dù Đàng, tự Đàng sứt, Cò quận 4, từ
Bắc vô nam đã làm tới chức Trưởng ban trật tự K1 Z30 D.
|
|
Nam Á,
Paris, 1986.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét