Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

HỒ CHÍ MINH, CUỘC ĐỜI CỦA MỘT CON NGỰA HOANG By WILLIAM DUIKER - KỲ 3


1     2      3      4      5      6

MẤT HÚT
N ăm 1931 là năm các chính quyền thuộc địa tại Đông Á ra tay ngăn chặn làn sóng cộng sản đang dấy lên. Tháng 6, cảnh sát Singapore bắt Serge Lefranc, đặc vụ của QTCS đang đi tour khu vực Đông Nam A theo chỉ thị của văn phòng Thượng hải. Ngày 5/6, phái viên của ICP tại FEB Lê Quang Đạt bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sáng hôm sau, NAQ và đồng chí của mình là Lý Sâm bị bắt tại Hồng kông. Vài ngày sau đến lượt Hilaire Noulens và vợ. Ông này tự khai là công dân Bỉ nhưng đã bị nhanh chóng vạch trần khi lận theo người đến mấy quyển hộ chiếu khác nhau và lãnh sự Bỉ từ chối xác nhận. Mặc dù chẳng có thể gán được cho Noulens tội gì rõ ràng, các quan chức thuộc địa tin chắc rằng ông này là cộng sản gộc và chuyển giao cho chính quyền Quốc dân đảng tại Giang tây. Tại đây Noulens bị kết án chung thân, sau Liên xô thông qua tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế đã can thiệp để đưa về Matxcova. 
NAQ (dưới bí danh là phóng viên Trung quốc Tống Mãn Châu) bị bắt mà không có trát của toà do cảnh sát nghi ngờ là có những hoạt động liên quan đến QTCS. Mặc dù Q chẳng phạm tội gì của HK, chính sách của Anh lúc đó là không cho phép sử dụng lãnh thổ mình để tiến hành các hoạt động lật đổ. Chính quyền sở tại tin chắc ông là NAQ và hy vọng có thể tìm cách để trục xuất Q sang Đông dương. Tuy nhiên do lúc đó giữa Pháp và Anh chưa có thoả thuận về dẫn độ tội phạm chính trị, cách duy nhất mà chính quyền có thể làm là đề nghị toà ra lệnh trục xuất Q ra khỏi HK trên một con tàu và đến một địa điểm đã chỉ định sẵn. 1

Do không có hộ chiếu và Q kiên quyết khẳng định mình là người Hoa chứ không phải người Việt nam, toà phải mở phiên điều trần vào ngày 10/7/1931. Tại phiên điều trần này, Q chỉ dùng tiếng Anh, khai mình sinh ở Đông hưng (thành phố thuộc Quảng đông gần biên giới với Đông dương). Ông thừa nhận mình đã sang Pháp, nhưng chưa hề tới Nga và càng không liên quan gì đến QTCS. Ông cũng phủ nhận mình có quen biết Lefranc mặc dù công nhận là mình đã ký vào bưu thiếp tìm thấy trong túi của Lefranc. Cuối cùng Q đề nghị được dẫn độ sang Anh chứ không phải trục xuất sang Đông dương. Gần cuối phiên điều trần, Q bất ngờ nhận được sự trợ giúp về pháp luật từ bên ngoài. Cho đến nay vẫn chưa rõ là làm thế nào mà luật sư Frank Loseby lại trở thành một nhân vật quan trọng của vụ án này? Có nguồn tin cho rằng ông ta có một trợ lý người Việt, anh này đã kể lại với ông chủ về Q. HCM thì nói rằng mình và Loseby có chung một người bạn giấu tên ở HK. Theo thông tin chính thức của Hà nội, Loseby được Tổ chức cứu trợ Đỏ quốc tế và Mặt trận phản đế (một công cụ của Moscow để cứu giúp các đồng chí của mình bị sa cơ) thuê 2. Loseby lập tức phản đối việc trục xuất Q theo những thủ tục bình thường vì điều đó sẽ gây nguy hiểm cho Q và Lý Sâm (cô gái cùng bị bắt với Q). Lý do đơn giản là chính quyền Pháp ở Đông dương đang theo dõi sát sao vụ này và đã đề nghị chinh quyền HK thông báo địa điểm và thời gian trục xuất. Loseby muốn các thân chủ của mình phải được rời HK theo sự sắp xếp của chính họ. Thống đốc HK lưỡng lự nhưng cũng đồng ý. Ngày 24/7 ông này điện cho Bộ Thuộc địa ở London đề nghị thả tự do cho Q và buộc phải rời HK trong 7 ngày. Theo ông nếu trục xuất Q sang Đông dương thì chẳng khác gì dẫn độ và "mâu thuẫn với những nguyên tắc của nước Anh". Tuy nhiên, sự việc diễn ra không đơn giản. Jules Cambon, đại sứ Pháp tại London chính thức lên tiếng phản đối quyết định thả Q. Ông ta cho rằng Q là một sự nguy hiểm quốc tế và cần phải bị kiềm chế. Mặc dù Pháp không có đủ thẩm quyền pháp lý để đòi hỏi dẫn độ Q, chính phủ Pháp muốn chính phủ Anh hiểu rõ quan điểm của mình. Ông này cũng nhắc lại đề nghị của tổng lãnh sự Pháp tại HK đề nghị trục xuất Q sang Đông dương. Bộ Ngoại giao Anh, muốn lấy lòng Pháp trong việc chung sức chống lại các hoạt động lật đổ đã đồng ý với quan điểm này 3.

Yêu cầu của Bộ ngoại giao đã gây ra cãi nhau to trong Bộ thuộc địa. Mặc dù có nhiều quan chức phản đối cho rằng làm thế khác gì dí cổ Q vào lưỡi dao của Pháp, cũng có những quan chức đồng tình với Bộ ngoại giao. Bài phát biểu sau có thể làm rõ quan điểm đó:

Cá nhân tôi nhát trí với quan điểm của Bộ ngoại giao là trả lại tay này về Đông dương. Hắn là một tay kích động xấu xa bị bắt cùng một rọ với Le Franc ở Thượng hải. Chúng ta quả là không may vì không tìm được đủ chứng cớ để tống cổ hắn vào tù ở HK. Có vẻ các vị cảm thấy là nhân đạo khi cho hắn sang Nga thay vì đẩy vào tay kẻ thù của hắn. Nhưng hãy để ý rằng, các hoạt động cách mạng ở Đông dương là bẩn thỉu, phần nhiều liên quan đến giết người, đốt nhà hoặc tra tấn dã man. Tuy không trực tiếp nhúng tay, nhưng đa phần các vụ này đều do Nguyễn chịu trách nhiệm. Nếu hắn ta được tự do, hắn lại tiếp tục những hành động như vậy. Bởi thế tôi đồng ý quan điểm của chính phủ Pháp là các thế lực Thuộc địa cần đoàn kết với nhau để dập tắt những ổ dịch cách mạng lây lan nhanh chóng này bảo vệ lợi ích của văn minh ở phương Đông.

Trước sức ép của Bộ ngoại giao, cuối cùng thống đốc HK đã ra lệnh trục xuất Q sang Đông dương. Đoán trước được ý định đó, Loseby đã sử dụng lên đình quyền giam giữ yêu cầu mở phiên toà công khai để xem xét tính pháp lý của vấn đề. Ngày 14/8, toà tối cao HK đã mở phiên xét xử kéo dài trong mấy tuần. Tại phiên toà, Loseby đã chứng minh là chính quyền đã vi phạm pháp luật khi đặt những câu hỏi có nội dung chính trị, không liên quan gì đến vụ việc, trong lần thẩm vấn Q trước đó. Cảm thấy quan toà Ngài Joseph Kemp có thể huỷ bỏ lệnh trục xuất hiện tại, các quan chức HK vội vàng thảo một lệnh theo một chương khác của Pháp lệnh về trục xuất năm 1917. Toà đã chấp nhận lệnh mới, nhấn mạnh rằng mặc dù việc trục xuất có thể dẫn đến những hậu quả tương đương như dẫn độ, nhưng cũng chẳng có gì trái với luật pháp nước Anh cả. Lý Sâm được trả tự do, còn Q lại đối mặt với nguy cơ bị đưa về Đông dương 4.

Ngay lập tức Loseby chống án lên Hội đồng cơ mật tại London, cho rằng chính quyền đã lạm dụng quyền lực. Được Hội đồng chấp nhận đơn, Q có cơ hội thay đổi không khí vì ít nhất là cũng vài tháng sau vụ việc mới được xem xét. Ông được chuyển sang bệnh viện Đường Bowen vì lý do sức khỏe. Mặc dù không có biểu hiện bệnh tật rõ ràng, Q bị kiệt sức và trông hốc hác. Trong hồi ký của mình, Q miêu tả giai đoạn này khá tăm tối, bị ngược đãi, ăn cơm hẩm, cá thiu và thú vui duy nhất là săn rận. Tuy nhiên một số nguồn thông tin khác cho rằng, trong thời gian ở bệnh viện, Q sống khá thoải mái, thường xuyên được vợ chồng một quan chức thuộc địa (bạn Loseby) và một số người châu Âu khác viếng thăm. Loseby cũng bố trí cơm nước cho Q từ một nhà hàng cạnh bệnh viện. Q dành thời gian rỗi để đọc và thậm chí đã hoàn thành một cuốn sách bằng tiếng Anh. Đáng tiếc là Loseby đã đánh mất nó trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Như thường lệ, Q cũng không bỏ lỡ cơ hội để tiến hành tuyên truyền cho những tư tưởng cách mạng của mình. Trong một câu chuyện của mình, Q kể:

Một hôm, có một cô hộ lýTQ thì thầm hỏi: "Bác ơi, chủ nghĩa cộng sản là gi ạ, bác có phải là người cộng sản không, bác đã làm gì mà bị bắt?" Cô ấy biết rằng, những người cộng sản không phải là trộm cướp, buôn lậu, giết người, cho nên không hiểu vì sao họ lại bị bắt. "Thế này, cháu ạ, nói một cách đơn giản, những người cộng sản muốn xây dựng một chế độ mà các hộ lý Trung quốc không phải phục tùng các quan lớn người Anh nữa"

B ức thư đầu tiên mà Q gửi từ trong tù là cho Lâm Đức Thụ, thông báo đã ở tù 3 tuần. Q nói "rất xấu hổ và không có ai để chứng thực cho sự vô tội" của mình. Q đề nghị Thụ làm hết sức mình để được tự do và hứa sẽ biết ơn đời đời. Tất nhiên là chẳng có ích gì. Mặc dù biết rõ quan hệ tay đôi của người đồng chí cũ của mình, Q vẫn giữ liên lạc và đề nghị Thụ đừng đến thăm vì sợ bị liên luỵ. Sau đó vài tháng Thụ đã báo cho chỉ huy người Pháp của mình là Q đã xin 1000 đô HK để được đưa sang châu Âu. Khi Thụ nói không có tiền, Q đã đề nghị vợ Thụ bán đi một số đồ trang sức 5.

Đây chắc cũng là một giai đoạn cô đơn của Q. Người tình mới Nguyễn Thị Minh Khai thì ở trong tù, cha mới chết trước đó 2 năm tại Nam bộ, không một xu dính túi. Thỉnh thoảng Q mới có liên lạc với các anh chị. Anh Khiêm, từng bị bắt vì tạo phản năm 1914, được tha năm 20, sống ở Huế, chủ yếu làm thuốc và xem địa lý để tiếp tục hoạt động nhưng cũng rất túng thiếu. Năm 1926, Q đã nhờ Phan Bội Châu gửi cho anh mình một ít tiền. Chị Thanh cũng đầy tai tiếng với chính quyền, bị bắt năm 1918 vì tội tàng trữ vũ khí, được tha năm 22, cũng sống và làm thuốc ở Huế, sau khi cha chết năm 1929, chị có về Kim liên để thắp hương cho bà con 6.

Trong lúc đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tranh cãi. Bộ thuộc địa thì đồng ý với chính quyền HK về việc trục xuất và để cho Q tuỳ nghi di tản. Bộ ngoại giao thì sợ Pháp phật ý, lại muốn tham khảo chính quyền Pháp về các hình phạt có thể áp dụng với Q. Tuy nhiên cả hai đều đồng ý chưa có hành động nào trứơc khi Hội đồng cơ mật ở London đưa ra quyết định cuối cùng. Ngày 22/12, Đại sứ Pháp tại London, Jaques Truelle đã trả lời yêu cầu của Anh về các tội Q đang bị xử ở Đông dương. Theo ông này, Q đích thị là đặc vụ của QTCS tại Đông Nam Á trong đó có nhiệm vụ trợ giúp cả Đảng cộng sản Malay, đang là thuộc địa của Anh. Truelle cũng xác nhận toà án Nam triều đã kết án Q tử hình về tội mưu toan lật đổ. Tháng 10/1929, bản án này đã được xem xét lại và hạ xuống khổ sai chung thân. Truelle thông báo là Q sẽ được xét xử lại, bản án sẽ được Toàn quyền Đông dương phê duyệt, và mặc dù tội danh vẫn không thay đổi, Pháp bảo đảm sẽ không kết án tử hình Q. Cuối năm 1931, đơn khiếu kiện của Q được Hội đồng cơ mật đưa ra xem xét. Quyền lợi của Q được luật sư D.N Pritt (hãng Light và Futon) bảo vệ. Đảng viên Đảng Lao động Stafford Cripps đại diện cho chính quyền HK. Ông này, một mặt sợ mất mặt chính quyền HK, mặt khác được mấy người bạn ở Bộ thuộc địa có tư tưởng thân cách mạng khuyên bảo, đã đề nghị thoả hiệp. Ngày 27/6/1932, chính phủ Anh đồng ý trả tiền khiếu nại và hỗ trợ Q đi đến bất cứ nơi nào Q muốn. Cũng có tin đồn là Q được tha vì đồng ý nhận làm điệp viên cho Anh 7. Đầu tiên Q được thông báo là chính phủ Anh đồng ý cho tị nạn chính trị, tuy nhiên chẳng có đường nào đến Anh mà lại tránh được cảnh sát Pháp. Nếu qua kênh Suez, Q có thể bị bắt ở Port Said (Ai cập). Qua Nam Phi hoặc Úc thì các chính phủ này lại không đồng ý. Buồn cười nhất là cuối cùng hoá ra chính phủ Anh cũng không đồng ý nhận. Không hiểu sao chữ "không" trong từ "không đồng ý" trong bức điện của London gửi HK lại bị ai đó xoá đi mất.

Chính quyền đã bắt đầu sốt ruột với vị khách rắc rối này. Ngày 28/12/1932, Q được thả ra khỏi bệnh viện và phải rời HK trong vòng 21 ngày. Trước đó, để đánh lừa Pháp, ông Loseby đã tung tin Q bị chết vì lao phổi. Tờ "Công nhân hàng ngày" của QTCS tại London đã đưa tin về cái chết của ông trong số ngày 11/8/1932. Q phải đóng giả một ông đồ nho, sống tại khách sạn YMCA tại Cửu long vài ngày rồi lên tàu đi Singapore. Rủi thay, cơ quan nhập cảnh Sing lại tống cổ Q trở lại HK trên tàu Ho Sang. Đến HK, cảnh sát lại bắt Q vì tội thiếu giấy tờ. Tuy nhiên chính quyền HK đã can thiệp, trả tự do cho Q ngày 22/1 và cho 3 ngày để tìm đường thoát khỏi thuộc địa. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby, tối ngày 25, cảnh sát mặc thường phục đã dùng xuồng máy đưa Q ra ngoài khơi đến một con tàu Trung quốc đang nhổ neo đi Hạ môn 8.

Q và người phiên dịch xuống Hạ môn vào sáng hôm sau (thành phố này lúc đó được phương Tây gọi là Amoy) và nhận phòng tại YMCA ở khu Trung quốc. Nhờ một người Hoa địa phương giàu có, bạn của Loseby chu cấp, Q chơi bời nghỉ ngơi vài tuần qua Tết ở Hạ môn trước khi lên tàu đi Thượng Hải trong vai một thương nhân người Hoa. Lúc này cảnh sát Pháp đã đánh hơi được Q đang ở đâu đó Nam Trung quốc và tăng cường truy nã. Các đảng viên CCP thì đã phải rút hết vào bí mật từ sau vụ tàn sát 1927. May mắn cho Q, đúng lúc đó có đoàn đại biểu chống chiến tranh của Quốc hội Pháp do bạn ông từ thời FCP, Paul Couturier dẫn đầu đang ở thăm Thượng hải. Q quyết định dùng con bài cuối cùng: vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. Anh thuê một xe taxi, liều mạng phi đến biệt thự của bà này tại Rue Moliere nhượng địa Pháp để bỏ một bức thư vào hộp thư. Trên đường về, nhờ chiếc xe trông quá xịn, Q đã thoát được một cuộc vây bắt của cảnh sát Pháp. Madam Tống đã giúp Q gặp được Couturier, ông này liên lạc với CCP và bố trí đưa Q lên một chiếc tàu Liên xô chuẩn bị đến Vladivostok. Q đến Matxcova mùa xuân năm 1934. Nước Nga xô viết đang ở trong ánh hào quang của giai đoạn công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đối với các khách du lịch ngắn ngày và không đi quá xa ra khỏi Mat, Len và các thành phố lớn, tình hình quả là được cải thiện đáng kể so với thập kỷ trước. Nhà viết kịch Bernard Shaw đã miêu tả những điều nhìn thấy như một "Cuộc thử nghiệm xã hội vĩ đại". Tuy nhiên đối với nhiều triệu người dân Xô viết tình hình lại không được khả quan như vậy. Giai cấp trung nông, tiếng Nga gọi là Culac (có nghĩa là nắm đấm) bị tiêu diệt trong công cuộc tập thể hoá nông nghiệp. Của cải của nông dân bị tước đoạt để trang hoàng cho các quầy tạp hoá ở đô thị. Những kẻ chống đối hoặc bị giết hoặc bị đưa đi đày ở Siberia. Hàng ngàn người bị bắt lao động khổ sai tại những công trình thế kỷ như kênh đào Kareli nối vịnh Phần lan với Bạch hải. Nạn đói đã nổ ra tại Ucrain năm 1932, trong 2 năm sau đó, ước tính đã có từ 5-7 triệu người chết đói. Khoảng giữa những năm 30, phong trào chống đối kế hoạch hoang tưởng của Stalin trong đảng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên Stalin đã ra tay, Trosky bị đẩy đi lưu vong. Kamenev và Zinoviev bị cô lập. Ngôi sao đang lên Kirov bị ám sát. Một cuộc thanh trừng tập thể được tiến hành nhằm vào tầng lớp Bolsevic cũ đã từng cùng với Lenin tiến hành khởi nghĩa. Trong năm 1935, hơn 100,000 người đã bị bắt với tội danh "kẻ thù của quốc gia" chỉ riêng ở Leningrat.

Trên danh nghĩa, những biến động đó chẳng ảnh hưởng đến cá nhân Q. Anh được tiếp đón trọng vọng ở văn phòng Dalburo (lúc đó đang do một người cộng sản Phần lan Otto Kuusinen lãnh đạo). Q lập tức được phân quản lý 144 sinh viên Việt nam đang học tại học viện Stalin (lúc đó đã được đổi tên thành Học viện các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa). Cần phải nhắc lại rằng, các sinh viên VN ở đây đã từng tổ chức lễ truy điệu Q và Trần Phú trước đó. Ông Nguyễn Khánh Toàn, một cựu sinh viên kể lại về giai đoạn này: Bác Hồ cực kỳ gần gũi với các sinh viên Việt nam. Thông thường Bác hay đến buổi tối để chia sẻ các kinh nghiệm hoạt động của mình liên quan đến đạo đức của người cách mạng và tình đoàn kết. Có một số học viên trẻ kiêu ngạo hoặc tự ái hay cãi nhau những chuyện lặt vặt, Bác lại là người đứng ra phân xử. Bác nói: "Nếu chúng ta không giữ được đoàn kết trong một nhóm nhỏ thế này, làm sao có thể nghĩ đến chuyện thống nhất quần chúng để lật đổ chế độ thuộc địa khi về nước" 9

Q cũng như các học viên học viện được sống khá dễ thở trong chế độ bao cấp: ăn, ở và dịch vụ y tế miến phí. Hè được đi nghỉ ở Crum. Mỗi tháng lĩnh 140 rub tiêu vặt. Bởi thế cũng dễ hiểu là Q có thể chẳng biết gì về những bi kịch đang diễn ra trong xã hội xô-viết. Sức khỏe Q không được tốt. Tháng 9/1934, Q đi dưỡng bệnh vài tuần ở Crưm, sau đó anh nhập học một khoá 6 tháng ở Trường Đại học Lenin, chuyên việc đào tạo cán bộ cho các Đảng cộng sản anh em. Không có nhiều thông tin lắm về những tháng đầu tiên Q tới Nga. Chỉ biết rằng, Q rất tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tranh cãi bảo vệ quyền lợi cho các đồng chí Việt nam và cách mạng Việt nam. Ở nhà, anh chịu khó tập thể dục để phục hồi sức khoẻ. Quan điểm trước đây của các nhà sử học là Q may mắn đứng ngoài rìa những cuộc thanh trừng tập thể đang diễn ra lúc đó. Những thông tin mới được tiết lộ gần đây nhất ở Moscow cho thấy thực tế không phải như vậy. Có vẻ như Q đã bị một toà án gồm có ông bạn cũ Manuilsky, chiến binh đa mưu của CCP - Khang Sinh và bà Valeria Vasilieva xét hỏi. Không rõ tội danh của Q là gì, tuy nhiên chỉ riêng việc ông có những quan điểm trái ngược với đường lối của Đại hội QTCS lần 6 về cách mạng dân tộc, thêm vào đó lại là bạn thân của Borodin đang bị xét xử cũng đã quá đủ để Stalin nghi ngờ. Việc Anh thả Q tháng 12/1932 cũng làm dấy lên một số nghi vấn là ông đã nhận làm gián điệp để đổi lấy tự do. Chắc là nhờ sự bảo trợ của Manuilsky và đặc biệt là Vasilieva, Q đã thoát tội. Bà này đại diện cho bộ máy của QTCS trong việc tiếp xúc với các sinh viên Việt nam và rất nhiệt tình bảo vệ Q cho rằng lỗi duy nhất của ông là thiếu kinh nghiệm. Trong một bức thư gửi cho lãnh đạo của ICP tại Nam Trung quốc, bà đã viết: "liên quan đến NAQ, anh ta cần phải học thật tốt trong 2 năm tới và không làm gì khác. Sau khi anh ta học xong, chúng tôi sẽ có kế hoạch sử dụng"

Trong khi Q đang ở Moscow, các chiến hữu ở trong nước đang ra sức khôi phục lại bộ máy của Đảng sau khi các lãnh đạo cao cấp bị bắt từ tháng 4/1931 tại Nam bộ. Để giúp đỡ ICP, QTCS đã kêu gọi tất cả các đảng CS lên tiếng ủng hộ cuộc "khởi nghĩa" của công nhân ở Đông dương. Hơn 30 học sinh VN tại Moscow được lệnh hồi hương để giúp đỡ các đồng chí của mình. Mặc dù đa số bị Pháp bắt hoặc đào ngũ (một nguồn tin nói 22 trong số 35 người đã bị vô hiệu hoá), một số cũng đến được đích. Trong đó có Lê Hồng Phong, đệ tử cũ của Q ở Tâm tâm xã. Phong học lái máy bay ở Leningrad, sau đó chuyển đến trường Stalin năm 1929, rời Liên xô năm 1931. Tháng 4/1932, Phong về đến Long châu, một thành phố nhỏ ở biên giới Quảng tây và VN. Sau đó cùng với 2 đồng môn Phùng Chí Kiên và Hà Huy Tập, Phong chuyển đến Nam ninh và lập ra Ban chỉ huy hải ngoại có nhiệm vụ làm cầu nối giữa QTCS và bộ máy đảng ở trong nước. Đảng cũng chia ra theo các vùng để dễ bề khôi phục. Đến giữa những năm 30, dân số Việt nam vào khoảng 18 triệu, trong đó 4 triệu ở Nam bộ, 5 triệu ở Trung bộ, còn lại ở Bắc bộ. Một cựu học viên của trường Stalin, ông Trần Văn Giàu, chịu trách nhiệm khôi phục lại bộ máy ở Nam bộ. ông này về Sài gòn đầu năm 1933. Đường lối của Moscow lúc đó là chỉ chiêu nạp đảng viên trong tầng lớp công nhân thành thị. Tuy nhiên mặc dù thất nghiệp tràn lan do cuộc đại khủng hoảng, công nhân vẫn có vẻ thờ ơ với chính trị. Đảng có ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều trong nông dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu long vốn chẳng ưa gì tầng lớp địa chủ và quan lại tham nhũng. Lợi dụng chính sách có vẻ "thoáng" hơn của chính quyền, một số thành viên theo trường phái Trosky đã xuất bản tạp chí La Lutte. Thậm chí có cán bộ Đảng còn đăng ký chạy đua vào hội đồng thành phố. Giữa năm 1933, xứ ủy Nam kỳ được thành lập với 2 tiểu ban phụ trách các tỉnh miền đông và miền tây và một trường đào tạo cán bộ. Phòng Nhì Pháp bất lực vì không được lệnh ra tay. Trần Văn Giàu đã bị bắt nhưng lại được tha vì không có chứng cớ. Chỉ có tay ám sát chuyên nghiệp Lê Hồng Sơn, sau một hồi lẩn trốn, cuối cùng cũng bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sau đó Sơn bị dẫn độ về VN và bị triều đình xử tử vào 2/1933 tại Vinh. Tình hình ở các vùng khác không được khả quan lắm. Tại Annam, một số đảng viên từ Xiêm về tìm cách kết hợp với các đảng viên bị bắt trong đợt Xô viết Nghệ tĩnh mới được tha để phục hồi lại cơ sở đảng. Tuy nhiên có sự nghi kỵ đối với các đảng viên đã từng ở tù. Tỉnh uỷ Nghệ an còn ra tuyên bố: "trong 100 đảng viên cộng sản cú, chỉ có một có khả năng trung thành với các học thuyết của đảng". Dù sao, đến giữa năm 1934, ba khu uỷ đã được thành lập, mỗi uỷ ban phụ trách từ 5-7 tỉnh. Tonkin là vùng trắng cho đến năm 1934 khi một số đảng viên bắt đầu hoạt động lại ở Việt bắc. Sau đó nhờ có sự móc nối của Lê Hồng Phong, xứ uỷ Bắc kỳ mới được thành lập lại. Cũng vào khoảng thời gian đó, một số đảng viên do Q gây dựng từ những năm trước đã thành lập ủy ban trung ương lâm thời tại cao nguyên Khorat để tuyển mộ và đào tạo thành viên cho các hoạt động trong nước. Uỷ ban này sau đó đã tự xưng là văn phòng liên lạc của xứ uỷ Nam kỳ và Trung kỳ với thế giới bên ngoài. Các uỷ ban tương tự cũng được thành lập ở Lào và Campuchia.



Vấn đề quan trọng của đảng là xem xét lại chiến lược của mình sau những tổn thất lớn lao trong XVNT. Khoảng giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng với một số đồng chí nữa đã dự thảo cương lĩnh mới. Cương lĩnh này hiển nhiên chịu ảnh hưởng của xu thế chính trị lúc đó tại Matxcova nên mang nặng tính bè phái và thiên tả. Cương lĩnh nhấn mạnh tầm quan trọng của cách mạng phản phong so với cuộc đấu tranh phản đế và hết sức nghi ngờ các đảng phái có tính dân tộc. TờBolsevic, cơ quan của uỷ ban hải ngoại cũng tập trung vào những luận điểm tương tự. Các bài báo được cho là của Hà Huy Tập đã phê phán những quan điểm "tiểu tư sản" như "cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng XHCN". Tập cũng chỉ trích các cơ sở đảng trong nước quá chú trọng trong việc huy động nông dân và yêu cầu họ tuyển mộ nhiều công nhân hơn nữa. Theo Tập, nông dân "tham lam sở hữu, không chính kiến, không đoàn kết, chậm hiểu biết các tư tưởng mới và không thể trở thành lực lượng cách mạng". Tuy những lời phê phán không nhằm vào ai cụ thể, rõ ràng mục tiêu của ban biên tập là những luận điểm và chính sách của NAQ. Một bài báo, sau khi đề cập việc "một số đồng chí trong nước cho rằng địa chủ và tư sản dân tộc cũng có tinh thần chống đế quốc và như vậy có thể trở thành một phần của cách mạng" đã nói toẹt rằng đó chính là những quan điểm của NAQ tại đại hội thống nhất tháng 2/1930, nhưng sau đó đã bị các lãnh đạo mới của đảng loại bỏ. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân chứ không phải của tất cả quần chúng. Bài báo viết: "Đảng cộng sản lánh đạo cuộc đấu tranh giai cấp chứ không phải đấu tranh dân tộc. Bởi vì đây là đảng của giai cấp công nhân, trên tinh thần vô sản quốc tế, đảng phải kiên quyết chống lại những tư tưởng dân tộc và những tuyên truyền sáo rỗng kiểu: khôi phục đất nước của những con rồng, cháu tiên. Chúng ta chống lại thực dân Pháp, nhưng không có nghĩa là chúng ta ủng hộ các tư tưởng dân tộc."

Hà Huy Tập còn chỉ trích gay gắt hơn

"Chúng ta chịu ơn NAQ, nhưng các đồng chí không được quên bản chất dân tộc của NAQ và những chỉ đạo sai lầm của ông về các vấn đề cách mạng tư sản dân tộc, cũng như những lý thuyết có tính cơ hội mà ông đã gieo rắc trong các thành viên Thanh niên Hội và Tân Việt...Ông không chịu tuân theo những chỉ thị của QTCS trong việc sát nhập. Bản cương lĩnh chính trị tháng 2/30 cũng như đảng thống nhất mới đã không tuân thủ những nguyên tắc của QTCS. NAQ còn lớn tiếng ửng hộ những chiến thuật sai lầm và thoả hiệp như "trung lập với giai cấp tư sản và địa chủ, liên kết với các trung nông và nông dân". Do đó từ tháng 1 đến 10/30, ICP đã tiến hành một đường lối đối lập với QTCS. Mặc dù đảng đã hăng hái lãnh đạo quần chúng vùng lên, các xô viết trong XVNT cũng đã không làm theo các đường lối chính trị đúng đắn"10.

Tháng 6/1934 Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đã triệu tập hội nghị tại Makao để bàn về đường lối tương lai cũng như chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ nhất. Nghị quyết của hội nghị này đã phê phán các nhà cải lương dân tộc như Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Nghị quyết cho rằng hội này rất nguy hiểm vì "giả danh bảo vệ các tầng lớp lao động, chống lại chính quyền, đòi hỏi các cải cách hiến pháp, thống nhất giai cấp chỉ nhằm mục đích đưa nhân dân khỏi con đường cách mạng". Bởi thế nhiệm vụ quan trọng của đảng là chống lại sự ảnh hưởng của những nhóm tương tự, cũng như những tư tưởng rơi rớt từ Thanh niên Hội và Tân Việt 11.

Hội nghị cũng quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất tại Hồng kông vào tháng Giêng 1935. Tuy nhiên theo nguồn của mật thám Pháp, QTCS đã đề nghị chuyển sang tháng 3. Địa điểm cũng được quyết định lại là Macao. Từ cuối mùa hè năm 34, các lãnh đạo đảng đã dự thảo những văn kiện sẽ thảo luận tại đại hội. Giấy mời cũng được gửi đi các nơi, yêu cầu tập trung vào ngày 15/3. Ban lãnh đạo rất hy vọng là Moscow sẽ cử đoàn đại biểu chính thức tham dự. Khoảng đầu tháng 8, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai (mới được thả ở Quảng châu, lấy tên là Vân) và Hoàng Văn Nón (đảng viên từ Cao bằng) lên đường đi dự đại hội 7 QTCS dự kiến sẽ tổ chức ở Moscow hè năm sau 12. Hà Huy Tập đương nhiên nhận trách nhiệm chuẩn bị đại hội Đảng. Tập sinh ở Nghệ an, đầu tiên tham gia Tân việt, sau đó trốn sang Thanh niên Hội. Khi học ở trường Stalin, Tập tỏ ra rất nhạy bén về lý thuyết và lớn tiếng phê phán những thiếu sót về tư tưởng của Hội. Trong con mắt của mật thám Pháp, Tập là người kiêu ngạo, gian giảo và đa nghi đến cực điểm. Tập thường xuyên gây vấn đề với các đồng chí của mình và được gọi là "Ông Lùn" vì tầm vóc thấp bé của mình. Quan hệ căng thẳng nhất là với Trần Văn Giàu. Ông này đến Macao từ Nam bộ vào tháng 9/1934, một mặt để báo cáo tình hình, mặt khác tham gia vào quá trình chuẩn bị đại hội. Giàu chắc chắn coi Tập là chíp hôi. Còn Tập thì nghi ngờ vì sự ngạo mạn và độc lập của Giàu. Thậm chí Tập còn nghi Giàu là mật thám Pháp và viết thư mách về Moscow. Mãi sau này, khi có tin về việc Pháp lục soát khám xét nhà Giàu, Tập mới thừa nhận là mình không có cơ sở.

Kẻ phá hoại hoá ra nằm ở chỗ khác. Ngay trước thềm đại hội, một đảng viên kiêm nấu bếp tên là Nguyễn Văn Trâm đã cuỗm toàn bộ tiền quỹ của đảng và trốn sang HK 13. Vì Trầm nằm trong thành phần đi chọn địa điểm đại hội, ban lãnh đạo quyết định phải thay đổi địa điểm. Tập còn nghi một thành viên nữa là Nguyễn Hữu Cần có thể đã báo tin cho cảnh sát Pháp. Tập định lừa mật thám bằng cách ngầm cho Cần này biết là do khó khăn nên đại hội đảng có thể không tổ chức được. Trần Văn Giàu được phái về Nam bộ để xây dựng bộ máy. Cuối cùng thì đại hội cũng được tổ chức vào 27/3. Có Tập, Hoàng Đình Gióng, Phùng Chí Kiên và độ mươi đại biểu khác. Không có đoàn nào từ QTCS và cũng chẳng có đại diện của đảng cộng sản nào. Thời điểm đó, đảng có khoảng 800 đảng viên ở Đông dương và Xiêm. Đa số là người Kinh và ở quãng tuổi 20-30. Sự có mặt của Minh Khai, người tình một thời của NAQ trong bộ máy lãnh đạo chứng tỏ không có sự phân biệt nam nữ đáng kể. Mặc dù ở Moscow, gió đã có vẻ đổi chiều, đại hội vẫn thông qua nghị quyết giữ nguyên đường lối cũ, xây dựng mặt trận thống nhất trong phạm vi hẹp, thâm nhập các đảng dân tộc để lùa các thành viên sang bên ta. Uỷ ban trung ương gồm 9 thành viên do Hà Huy Tập làm tổng bí thư sẽ đóng trụ sở tại Sài gòn. Ban liên lạc hải ngoại của Phong được chuyển sang Thượng hải. Trong báo cáo gửi QTCS ngày 31/3, Tập còn tranh thủ đả NAQ mấy phát nữa. Tập viết: toàn đảng đang tiến hành cuộc chiến chóng lại những tư tưởng "cách mạng dân tộc rơi rớt từ thời Thanh niên Hội dưới sự lãnh đạo của NAQ. Những tư tưởng đó là trở ngại chính cho chủ nghĩa cộng sản". Tập còn đề xuất NAQ phải viết bản tự kiểm điểm. Vài tuần sau, Tập lại tấn công tiếp, dẫn lời một số đại biểu đại hội đã quy một phần trách nhiệm cho Quốc trong việc hàng trăm đảng viên ICP bị bắt. Tập buộc tội Quốc đã tiếp tục dùng Lâm Đức Thụ mặc dù biết rõ tay này là mật thám Pháp, Q còn bắt các học viên trường thanh niên Quảng châu nộp ảnh và khai tên tuổi họ hàng. Những thông tin này sau bị rơi vào tay Pháp. Cuối cùng Tập kết luận "NAQ không thể chối bỏ trách nhiệm trong những vụ việc này"

Q chắc chắn là được đọc hết những bài viết này của Tập. Không rõ ông nghĩ gì về các phê phán của Tập đối với mình. Chỉ thấy Q phàn nàn trong thư gửi Dalburo thâng 1/1935 là trình độ lý luận của một số sinh viên Việt nam trong trường Stalin quá thấp: nhiều người không hiểu thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, cũng chẳng hiểu cách mạng ruộng đất có liên quan gì đến sự nghiệp chống đế quốc. Q cho rằng mặc dù các vấn đề này có từ những năm 1930-31 nhưng gần đây đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng do các đồng chí lãnh đạo còn quá trẻ. Không hiểu là ông định ám chỉ Tập hay kẻ đã chết là Trần Phú. Đại hội lần thứ 7 của QTCS được khai mạc ngày 25/7/1935 tại Nhà Công đoàn đầy ngóc ngách. Trong khi khẩu hiệu trên hội trường thông báo về chiến thắng đang đến gần của giai cấp vô sản, bên ngoài đại hội là không khi rất căng thẳng của vụ xử tử hai lãnh tụ cũ là Kamenev và Zinoviev. Các đại biểu bị tập trung cả vào khách sạn Lux và bị cấm ra vào điện Kremlin. Đoàn Việt nam có ba đại biểu: Lê Hồng Phong (còn có các tên khác là Litvinov, Hải An, Chajan, Chayan); Nguyễn Thị Minh Khai (Vân hay Phan Lan) và Hoàng Văn Nón. Hai đại biểu nữa cũng đã xuất phát từ Việt nam nhưng không bao giờ đến nơi. Cả ba đều đã đăng đàn phát biểu. Minh Khai nói về sự bóc lột phụ nữ và tầm quan trọng của phụ nữ trong cách mạng; Nón phát biểu về các phương pháp huy động quần chúng. Bài phát biểu chính của Phong nói về những sai lầm đã qua và nhiệm vụ hiện tại của Đảng. Các bài phát biểu đều đã không "gãi" đúng vào mục đích của đại hội 7, nhằm xác định chiến lược mới cho các đảng cộng sản. Chiến lược này gần với các ý tưởng của Q thời Thanh niên hội hơn là chiến lược cực tả của đại hội Sáu. Nguyên nhân chính dẫn đến thay đổi là sự lớn mạnh nhanh chóng và nguy hiểm của Hitler và chủ nghĩa phát xít. Stalin đã tin rằng sự lên ngôi của Hitler tại Đức năm 1933 đã phản ánh giai đoạn sụp đổ của chủ nghĩa tư bản dẫn đến chính quyền của đảng CS. Tuy nhiên sau đó ông đã thay đổi quan điểm và coi chủ nghĩa phát xít như hiểm hoạ trực tiếp và quan trọng nhất của Liên xô. Thư ký mới của QTCS, ông Dimitrov, đã lờ đi nhiệm vụ cách mạng vô sản và chính quyền xô viết do đại hội Sáu đề ra. Ông nhấn mạnh sự nguy hiểm của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các đảng CS huy động hoặc tham gia vào các phong trào tiến bộ, nhằm thành lập mặt trận rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Cuối đại hội, ICP được kết nạp vào QTCS và Phong được bầu lên chủ tịch đoàn. Q tham gia đại hội với tư cách quan sát viên từ Dalburo với mật danh là Linov. Mặc dù không phát biểu chính thức nhưng chắc chắn là Q rất tích cực sau hậu trường, la cà trò chuyện. Q cũng tham gia vào bữa tiệc chào mừng việc kết nạp ICP do Maurice Thorez, một lãnh đạo đảng CS Pháp tổ chức. Tuy chiến lược mới làm Q hài lòng vì nó phù hợp với tư tưởng mặt trận rộng rãi mà ông đã đặt ra cho Thanh niên Hội và vẫn giữ vai trò là người phát ngôn chủ yếu cho Đông Nam á tại Ban chấp hành QTCS, chắc hẳn là Q không dễ chịu khi phải ngồi ngoài lề đại hội và nhìn LHP xuất hiện trong hào quang như một nhà lãnh đạo của ICP mới. Tệ hơn nữa, mối tình với Minh Khai cũng đi đên hồi kết. Chẳng mấy chốc sau khi đại hội kết thúc Minh Khai và Phong làm lễ kết hôn tại Matxcova. Trong khi đó, tất cả các tài liệu của lãnh đạo ICP gửi đi từ Makao cho QTCS trước đại hội đều nhấn mạnh là "vợ đ/c Quốc" (Le femme de Quoc) tức Minh Khai (MK) sẽ có mặt trong thành phần đoàn. Chỉ có khả năng là Phong đã cưa đổ MK trên đường đi dự đại hội. Sao lại đến nông nỗi vậy? Có nguồn cho rằng chẳng qua Q và MK đã bị xa nhau quá lâu. Cũng có nguồn cho rằng QTCS đã cấp cho Q "một người vợ tạm thời". Lại có tin đồn là Q đã có con gái với một cô bạn người Nga.

Quan hệ giữa Q và MK là một trong những vấn đề gây bối rối nhất trong cuộc đời ông. Mặc dù Q không bao giờ nhắc đến chuyện này, các nguồn tin chính thức của đảng đều phủ nhận, tuy nhiên các bằng chứng cho thấy họ đã có quan hệ khá khăng khít. Ít nhất là các đồng chí của họ đều coi họ là vợ chồng. Tuy nhiên nếu nói như một nhà sử học nào đó là Q đã bị "thất bại kép": mất cả vợ và chức lãnh đạo đảng vào tay LHP thì cũng chưa thực sự ổn lắm. Thực tế cuộc đời Q đã cho thấy ông ưa chuộng những mối quan hệ ngẫu hứng để khỏi ảnh hưởng đến các mục đích chính trị của mình. Có thể ngay từ đầu Q đã coi mối quan hệ với MK là tạm thời.

Sau khi cưới xong, Phong ngay lập tức trở về TQ để báo cáo tình hình. Mãi đến hè năm 1936, MK và Hoàng Văn Nón mới rời Matxcova đi Pháp trong vai một cặp vợ chồng nhà buôn người Hoa giàu có đi nghỉ mát. Sau đó hai người qua Hồng kông, Thượng hải. Tại đây MK tái ngộ LHP và cùng trở về Sài gòn. MK được bầu làm uỷ viên trung ương xứ uỷ Nam kỳ. MK và Phong chắc không biết được rằng số mệnh đã giao cho họ trở thành cặp liệt sĩ quan trọng nhất của cách mạng Việt nam 14. Trước khi rời Moscow, MK và Nón có đến gặp Q. Tình hình lúc đó đã có một số thay đổi theo đường lối mới của đại hội 7. Tại Pháp, Mặt trận bình dân thắng cử và thành lập chính phủ mới được FCP ủng hộ. Chính phủ kêu gọi chống phát xít, hỗ trợ Liên xô, cải cách tại các thuộc địa. Q viết cho các đồng chí mình:

Thắng lợi của MTBD tại Pháp là cơ hội hiếm có mà chúng ta phải sử dụng. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là sự thống nhất của Đảng, đặc biệt giữa các cơ sở trong và ngoài nước. Khi về đến Sài gòn, hãy nói với đồng chí LHP 3 điều:

1. U ỷ ban hải ngoại phải ngay lập tức trở về Việt nam để đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào, chỉ để lại vài đồng chí giữ quan hệ với thế giới bên ngoài.

2. Đảng phải kiên quyết tách xa khỏi bọn Troskist đang phản bội lợi ích của cách mạng

3. Tập trung hết sức lực để xây dựng mặt trận rộng rãi chống phát xít và chiến tranh. Đoàn kết các lực lượng yêu nước cứu nước nhưng kiên quyết duy trì sự lãnh đạo của đảng và giai cấp lao động

Chiến lược xây dựng mặt trận rộng rãi nhưng kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo đã từng được Q áp dụng trong việc xây dựng Thanh niên Hội. Q chắc bị áp lực khi chỉ đạo bài xích các phần tử Troskist. Lúc đó Stalin đang phải vất vả chiến đấu với các thế lực theo Troski trong phong trào cách mạng thế giới. Mặc dù Q không đồng tình với lý thuyết phi thực tế "cách mạng liên tục và khắp nơi" của Troski, hẳn là ông thừa hiểu rằng những người Troskist còn tốt hơn khối lần các kẻ thù thực sự của cách mạng. Nếu được tự do lựa chọn, Q sẽ tìm cách thuyết phục họ chấp nhận sự lãnh đạo của ICP.

Sau khi các đồng chí về hết, Q càng cảm thấy vô dụng. Từ năm 1935, Q đã nói với nhà báo xô viết Ilia Erenburg rằng ước muốn duy nhất của mình là được về nước hoạt động càng sớm càng tốt. Sau khi đại hội 7 kết thúc, Q đã chính thức xin phép về nước nhưng bị từ chối với lý do là tình hình Đông dương rất phức tạp. Mùa hè năm 1936, Q lại xin phép hồi hương qua đường Berlin và Paris. Giấy tờ đang được chuẩn bị thì chuyến đi bị huỷ do cuộc nội chiến Tây ban nha và sự khủng bố ở Pháp. Trong lúc chờ đợi, Q đăng ký vào học tại Học viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa (trường Stalin cũ) và chuyển đến một căn hộ độc thân ở phố Bolsaia Bronaia. Trong lúc rảnh rỗi Q dịch các tác phẩm: Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx và Bệnh ấu trí tả khuynh của Lenin ra tiếng Việt. Ông còn viết bản khoá luận về "Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam á". Đối với một nhà hoạt động tích cực và ít quan tâm đến các lý thuyết giáo điều như Q, phải ngồi nhai giáo án khô khốc, dịch tác phẩm lý luận của những danh nhân hẳn phải là một cực hình. Tháng 6/1938 Q viết một lá thư tuyệt vọng cho Trung ương QTCS: "Làm gì với tôi thì làm, cho tôi ở đâu thì ở, nhưng đừng bắt tôi bất lực và ở ngoài đảng" . Với sự giúp đỡ của Vassilieva, cuối cùng Q được cho phép về Trung quốc qua Trung Á. Ngày 29/9/1938, Q ra khỏi trường. Hồ sơ của trường ngày 30/9 chính thức xác nhận sinh viên số 19 mang tên Lin được giải phóng.

Nếu không có thêm hồ sơ mật giai đoạn những năm 30 được Matxcova cho phép sử dụng, rất khó lý giải tại sao cuối cùng Matxcova lại giải phóng Q khỏi giai đoạn cải tạo nhiều năm vì bị nghi ngờ là đồng ý cung cấp thông tin cho Anh để đổi lấy tự do trong phiên toà ở HK. Cũng có vẻ như không phải là Stalin không ưa chuộng những quan điểm dị giáo của Q trước đây. Bởi nếu vậy, sau đại hội 7, Q đã bị phái đi ngay để thực thi những chiến lược mới. Tình hình TQ lúc đó đang thay đổi nhanh chóng: trước sức ép to lớn của Tưởng, Mao phải từ bỏ căn cứ phía nam sông Dương tử tiến hành cuộc Trường chinh đến Di An. Có thể dự đoán Matxcova cần người nắm vững thông tin về TQ. Đối với Q đây là cơ hội để ông chung sức cùng các đồng chí của mình bước vào giai đoạn mới của cách mạng Việt nam.

--------------------------------
1
Tài liệu tốt nhất về vụ bắt NAQ là cuốn "HCM in HK" của Ducanson.
2
Theo T. Lan, "Vừa đi đường vừa kể chuyện", Hồ Tùng Mậu đã kể chuyện Q bị bắt với L, ông này rõ ràng là có quan hệ với cộng sản.
3
Thư của Howard Smith, Bộ Ngoại giao gửi thư ký Bộ Thuộc địa, 28/7/1931.
4
HK Weekly Press, 28-8-1931: NAQ được bồi thường HKD 7500 vì những sai sót trong quá trình thẩm vấn. Cô gái trẻ có cái tên trong hồ sơ của Pháp là Lê ứng Thuần được thả khỏi nhà tù Victoria ngày 20-8. Sau đó, trong tháng 9 cô ta đến Nam Kinh ở nhà bố chồng là Hồ Học Lâm - một sĩ quan quốc dân đảng có cảm tình với ICP. Chính Phan Bội Châu cũng đã ở nhà Lâm ở Hàng Châu trước khi bị Pháp bắt. Trước khi ra tù, cô gái đã đến gặp Q trong nhà tù và hứa sẽ thực hiện những chỉ thị của ông.
5
Thư trao đổi với Phát Chân (Lâm Đức Thụ). Các nguồn tin Pháp cho rằng Q đã tìm cách nhờ các đồng chí trong CCP hoạt động ở HK giúp đỡ nhưng không có kết quả.
6
Theo "Những mẩu chuyện niên thiếu", bà Thanh đã buộc chính quyền Pháp từ bỏ ý định triệt hạ làng Kim liên sau XVNT. Bà cũng được phép đi thăm bố đang hấp hối và mang hài cốt của ông vềề 110). Có những báo cáo khác nhau về Tăng Tuyết Minh, vợ Q. Một đồng chí của Q tại Thượng hải, Lê Quang Đạt đã khai với mật thám Pháp là Q nói với ông này rằng vợ ông không đến thăm chồng vào mùa đông 1929-1930. Lâm Đức Thụ lại báo với Noel là bà này có đến thăm, thậm chí sau khi Q bị bắt, còn liên lạc với Luseby để biết tin chồng. (Báo cáo của Noel, No 660, 23/5/1932).
7
Xem hồi ký của Pritt tại Bảo tàng HCM. Về xu hướng chính trị của Cripps, xem thêm cuốn "HCM ở HK" của Duncanson. Cripps sau này trở thành đại sứ Anh tại USSR. Nguồn tin Q là điệp viên của Anh được trích dẫn từ cuốn "Từ chủ nghĩa thực dân đến chủ nghĩa CS" của Hoàng Văn Chi - NewYork, Praeger, 1964, tr. 50. Ông này chắc đã lấy tin từ nguồn của cảnh sát Pháp , dossier CAEO/2b.
8
Theo hồ sơ của cảnh sát HK, quyết định thả Q của chính quyền đã làm cảnh sát HK và Singapore rất bực mình.
9
Xem Nguyễn Khánh Toàn "ở Liên xô với Bác Hồ", tạp chí Souvernir, tr 143-145.
Hà Huy Tập viết dưới bút danh Hồng Thế Cộng ("Đỏ sẽ mang lại chủ nghĩa cộng sản"). Nhiều năm sau, tác giả đã phỏng vấn em của Tập là Hà Huy Giáp. Ông này thừa nhận anh mình đã sai khi tách rời vấn đề dân tộc.
Nguyễn An Ninh được đưa vào danh sách này là điều hơi lạ vì ông này đã bắt đầu cộng tác với ICP ở Saigon. Theo tài liệu của mật thám Pháp, tham dự hội nghị còn có Nguyen Van Dut, Tran Van Chan và Nguyen Van Than.
Note periodique, second quarter 1935, pp 21, 58. Đại hội ICP dự kiến sẽ được tổ chức tại căn hộ của Hà Huy Tập tại Macao. Đoàn đại biểu QTCS được phân 1 giường. Xem thêm Nguyễn Văn Khoan, Triều Hiên "Lê Hồng Phong" p 10.
Theo một số nguồn từ ICP, trước khi trốn Trâm đã hãm hiếp một nữ đảng viên khác. Cô này sau đó bị chết vì các vết thương quá nặng.
Có một số tranh luận về ngày rời Matxcova của MK. Sophie Quinn-Judge cho là vào khoảng tháng 2/1937 còn Tôn Quang Duyệt lại tin rằng đó là năm 1936. Thông tin về đám cưới MK+LHP, xem Kobelev, pp 116,118. Con gái của Vasileva sau này có kể lại rằng Q có vài lần đến thăm mẹ bà ta với một phụ nữ trẻ tự xưng là Phan Lan - xem Quinn-Judge: Hồ Chí Minh. Tin đồn về vợ "tạm" và con, xem Hoàng Văn Chi, Từ chủ nghĩa thực dân, p. 51 Bảo Đại Con rồng An nam (Paris: plon, 1980 p 134, hoặc China New Analysis, 12/12/1969).

TRONG HANG PAC BO


Năm 1938 Trung quốc đang trong tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến khởi nguồn từ năm 1931 khi bọn quân phiệt Nhật bất ngờ chiếm Mãn châu và thành lập chế độ bù nhìn Mãn châu quốc. Trong những năm sau đó, chúng tiến dần xuống phía nam, chiếm đóng các tỉnh Đông bắc quanh kinh đô cũ là Bắc kinh. Ban đầu Tưởng Giới Thạch chẳng quan tâm lắm đến điều đó. Bỏ qua sự quân sư của các đồng sự, Tưởng tiếp tục chiến dịch quét sạch cộng sản ở bờ nam sông Dương tử làm Mao phải bỏ chạy lên Di an. Năm 1937, Tưởng bị các đồng chí của mình bắt cóc khi đang đi thăm Tây an và buộc phải thay đổi thái độ. Lần thứ hai, liên minh Quốc-Cộng được thành lập nhằm chống lại sự xâm lược của Nhật. Cuộc chiến bùng nổ sau đó vài tháng sau trận đánh trên cầu Marco Polo. Cuộc xâm lược của Nhật mang đến sự thống khổ cùng cực cho nhân dân TQ nhưng lại mở ra một cơ hội mới cho NAQ. Nhờ có liên minh Q-C mới, Q có thể di chuyển tự do để liên lạc với các đồng chí của mình. Cuộc chiến cũng đe doạ sẽ lan đến các vùng khác của châu á, có thể kết liễu sự thống trị của Pháp tại Đông dương.



Q rời Matxcova đầu thu 1938, đi tàu hoả qua những thảo nguyên Trung á bát ngát. Sau vài ngày nghỉ ngơi ở Alma-Ata, Q theo một đoàn xe qua Urumgi đến Lan châu, thành phố phía đông của con đường tơ lụa nổi tiếng thời Trung cổ. Đại diện của CCP tại Lan châu đã giúp Q đến Tây an. Tại đó tư lệnh quân giải phóng Trung quốc (PLA) Vũ Thiếu Quân đã được lệnh của thượng cấp "phải tiếp đón một vị khách châu á quan trọng, chăm sóc cẩn thận và hộ tống ông ta đến Di an" 1. Đường đến Di an phải qua vô số những trạm kiểm soát của Quốc dân Đảng. Q phải đóng vai một anh đánh xe chở quần áo và thực phẩm cho các bộ tộc trên núi và hầu như phải đi bộ suốt chặng đường 200 dặm này. Di an lúc đó tràn ngập quân phục màu xanh của 200,000 binh lính và sĩ quan PLA. Họ ở trong những cái hang khoét vào vách núi để tránh cái nắng nóng mùa hè và hưởng chút hơi ấm mùa đông. Q may mắn hơn, được xếp ở trong toà biệt thự Đào Viên, sau này trở thành nhà ở của Mao. Có vẻ như Q không gặp Mao, lúc đó đang thu nhập ảnh hưởng to lớn trong Đảng. Ở Di an hai tuần, Q cùng với tướng Ze Tianying nam tiến Quế lâm trên một đoàn 5 chiếc xe hơi với cái tên mới: Hồ Quang.



Quế lâm là thành phố khá quê mùa ở Quảng tây, rất nổi tiếng với những cánh rừng đá đã tạo cảm hứng cho biết bao hoạ sĩ thuỷ mặc Trung hoa. Tại đây, Q làm việc cho Văn phòng cứu quốc, một tổ chức quần chúng của liên minh Quốc-Cộng. Ông ở luôn tại bộ chỉ huy của Bát lộ quân ở làng Lộ mã, ngay ngoại ô thành phố. Một người bạn TQ của Q tại đây nhớ lại:


Tôi làm việc với HCM tại bộ chỉ huy Bát lộ quân ở Quế lâm từ cuối năm 1938 đến mùa hè năm 1939. Chúng tôi sống với nhau trong một căn nhà rộng phía tây làng Lộ mã. HCM khi đó lấy tên là Hồ Quang và nghe giọng, tôi cho ông là người Quảng đông. Văn phòng của chúng tôi hoạt động như một câu lạc bộ kiêm thêm nhiệm vụ giáo dục và văn hoá. Có nhiều cán bộ, phụ trách từ sức khoẻ, tài chính đến tuyên truyền. HCM vừa là cán bộ vệ sinh vừa là nhà báo. Ông có những tiêu chuẩn vệ sinh rất cao và sẵn sàng phê phán không khoan nhượng. Ông thiết kế bìa, đầu đề, viết rất nhiều bài và thơ cho Thời báo Sinh hoạt của chúng tôi lúc đó.

Ông tạo ấn tượng mạnh. Sáng dậy rất sớm, tập thể dục và quét nhà bụi mù lên, che miệng bằng một miếng vải. Công việc viết báo và thanh tra vệ sinh chiếm khoảng 1/3->nửa thời gian, còn lại chẳng hiểu ông viết cái gì đó rất thành thạo trên chiếc máy chữ ngoại quốc của mình. Lúc đó tôi không biết Hồ Quang là ai, nhưng biết là ông có thế lực. Một lần tôi có nhắc nhở ông ta chuyện gì đó, cũng bình thường thôi. Sáng hôm sau đã thấy cán bộ Đảng gọi lên hỏi: ai cho phép anh phê phán mọi người một cách bừa bãi? NAQ rất có ý thức xây dựng mối quan hệ hữu hảo với các đồng nghiệp. Một lần có anh bạn hay đi Hồng kong và Hải phòng mua hộ ông một chiếc máy chữ Pháp để thay thế cái máy kiểu Anh ông đang dùng, Q đã dẫn anh này đi chiêu đãi, uống hết 2 chai rượu. Một số bài viết của Q được gửi về Hà nội và đăng trên tờ báo tiếng Pháp: Notre Voix với bút danh là P.C. Lin. Các bài này chủ yếu nói về tình hình cuộc chiến chống Nhật của nhân dân Trung quốc. Có bài châm biếm sứ mạng "khai hoá văn minh" cho Trung hoa của phát xít Nhật trong khi giết hại dã man hàng vạn thường dân tại Nam kinh đầu năm 1938. Bài khác ca ngợi mặt trận liên minh Quốc-Cộng chống Nhật. Bài thứ ba thì chỉ rõ lợi thế công nghệ của Nhật trong cuộc chiến chỉ mang lại những thắng lợi tạm thời ban đầu. Các xe cơ giới của Nhật sa lầy trên những đường mòn Trung quốc. Chính phủ Nhật đã hứa kết thúc chiến tranh trong 3 tháng rồi 6 tháng, mà vẫn chưa biết đến bao giờ mới thực hiện được.

Notre Voix một tờ báo công khai của ICP là kết quả của những thay đổi dễ thở hơn tại thuộc địa do thắng lợi của Mặt trận Bình dân tại Pháp năm 1936 mang lại. Cùng với chính sách mới liên minh rộng rãi chống phát xít được thông qua tại Đại hội QTCS lần thứ 7, những đường lối thiên tả của ICP thông qua tại đại hội Macao tỏ ra lỗi thời. Tháng 7/1936, Lê Hồng Phong trở về từ Moscow triệu tập hội nghị Trung ương để phổ biến chính sách mới: Mặt trận dân chủ Đông dương được thành lập; ICP gửi thư tới VNQDĐ và các đảng phái chính trị khác đề nghị hợp tác đấu tranh dành độc lập dân tộc 2. UBTU cũng quyết định sẽ chuyển trụ sở về Hóc môn. LHP với tư cách là đại diện của QTCS cũng về theo. Hai năm tiếp theo chứng kiến sự bành trướng công khai của ICP. Số lượng đảng viên tăng lên vài lần. Các tổ chức "hội phản đế" mọc ra khắp nơi, trở thành những trung tâm đào tạo và tuyển mộ. Một số gương mặt trẻ, ôn hoà xuất hiện như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Trần Huy Liệu. Chính sách mới cũng là một liều thuốc đắng cho những người chủ trương cứng rắn và giáo điều như Hà Huy Tập. Tại hội nghị TW 1938, HHT và LHP đã cãi vã kịch liệt về Mặt trận Bình dân và chính sách liên minh với các đảng nhỏ khác. Cuối cùng, Nguyễn Văn Cừ, đảng viên từ Bắc bộ, theo chủ trương cân bằng giữa công khai và bí mật đã được bầu làm Tổng bí thư thay Tập vốn chẳng được mấy người ưa 3.

Q quan sát những thay đổi trên từ căn cứ tạm thời của mình ở phía nam Trung quốc. Ông hy vọng các đồng chí của mình sẽ nhận ra mình qua phong cách và nội dung các bài báo trong Notre Voix được viết dưới bút danh Lin (mà ông đã từng dùng ở Matxcova). Tháng 7/1939 Q đã liều hơn, gửi thẳng thư tay có địa chỉ của mình qua người quen cho các uỷ viên trung ương. Bức thư là bản tuyên ngôn ủng hộ chính sách mặt trận rộng rãi đã được đại hội 7 của QTCS thông qua.

1. Vào thời điểm này đảng cần phải kiềm chế không đòi hỏi như độc lập dân tộc, lập nghị viện... Điều đó chỉ có lợi cho bọn phát xít Nhật. Cần tập trung vào việc đòi các quyền dân chủ như tự do hội họp, tự do báo chí, tự do tổ chức, tự do ngôn luận và đưa đảng ra công khai.

2.Muốn đạt được điều đó, phải thành lập mặt trận liên minh rộng rãi bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông dương và giai cấp tư sản dân tộc.

3. Đảng phải bằng mọi cách lôi kéo được những tầng lớp tư sản có thể lôi kéo được, trung lập hóa những phần tử có thể trung lập được. Kiên quyết không để họ rơi vào tay bọn phản động kẻ thù của cách mạng.

4. Không thoả hiệp với bọn Troskist đang trở thành chó săn của chủ nghĩa phát xít. 5, Mặt trận dân tộc Đông dương cần phải có quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Bình dân của Pháp để đấu tranh cho tự do và dân chủ.

6. Đảng không được phép đòi hỏi quyền lãnh đạo mặt trận. Ngược lại phải thể hiện đảng là lực lượng tích cực nhất, trung thành nhất và hy sinh nhiều nhất. Chỉ có qua cuộc chiến đấu hàng ngày, nhân dân mới có thể hiểu được những chính sách đúng đắn của đảng và thừa nhận vai trò lãnh đạo của đảng.

7. Đảng phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa bè phái, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chính trị của đảng viên và giúp đỡ những người chưa phải là đảng viên nâng cao trình độ. Đảng cũng phải duy trì những quan hệ mật thiết với đảng cộng sản Pháp

NAQ gửi kèm bức thư này trong báo cáo chính thức đầu tiên cho QTCS. Q giải thích về sự chậm trễ này là do tình hình thực tế xấu đi. Q cũng xin lỗi và nhờ (có thể có chút châm biếm ở đây) các đồng chí tại Matxcova xem hộ liệu có sai sót gì về tư tưởng trong bức thư gửi ICP. Q nói đã mất hết tài liệu chính thức của đại hội 7 và chỉ dựa vào trí nhớ. Q cũng thông bâo, mặc dù Mặt trận bình dân Pháp đã mang lại một số cải cách tại Đông dương, chính sách thiên hữu của chính phủ Daladier từ năm 1938 đang có nguy cơ xoá sách những cải cách đó. Một số cuộc đấu tranh của công nhân đã bùng phát trở lại và được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng.

Tháng hai năm 1939, Quốc - Cộng liên minh mở trường đào tạo quân sự tại Hằng dương, 200km về phía đông bắc Quế lâm. Khoá học đầu tiên bắt đầu từ 15/2 và kết thúc vào giữa tháng 5. Tưởng chỉ thị tướng Gia Gian Anh tìm một vài cán bộ cộng sản để giúp đỡ. NAQ lúc đó vẫn với tên là Hồ Quang những đã mang hàm thiếu tá, được phân về làm quản lý, kiêm luôn phụ trách liên lạc vô tuyến. Sau khi kết thúc nhiệm vụ vào tháng 9, Q trở về Quế lâm, vài ngày sau lên đường đi Long châu để bắt liên lạc với hai đồng chí được ICP cử sang. Đáng tiếc là khi Q đến nơi, hai đồng chí nọ đã tiêu hết tiền đành phải quay về. Thất bại, Q lại trở về Quế lâm tìm cách khác. Ông quyết định đi Trùng Khánh, thủ đô kháng chiến của Quốc dân đảng sau khi Nhật chiếm lưu vực sông Dương tử. Trên đường đi, Q nghỉ lại tại tầng thượng của văn phòng Bát lộ quân ở Quế dương, thủ phủ Quế châu cho đến tháng 7/11. Tại Trùng Khánh, Quốc nối lại quan hệ với Chu Ân Lai lúc đó đang phụ trách văn phòng đại diện của Đảng cộng sản. Q đã quen Chu từ thời Paris, sau đó là thời gian Chu làm chính uỷ của học viện Hoàng Phố. Sau này Chu kể lại, Q sống rất đơn giản như một ông nông dân và lúc nào cũng cặp kè cái máy chữ bên mình. Rất ít người trong văn phòng biết nhân thân của Q. Thật trớ trêu, Phùng Chí Kiên và Đặng Văn Cáp, đại diện cho chi nhánh Côn minh của ICP (cùng với Hoàng Văn Hoan và Vũ Anh) đã đến Quế dương để gặp Q vào ngày 11/11. Biết Q đã đi Trùng Khánh Kiên quay lại và để Cáp ở lại đợi. Ngày 18/11, Q trở về Quế dương, nhưng Cáp lại bị lạc trong những ngõ hẻm gần văn phòng và không gặp được Q. Dù sao, Q cũng đã biết được sự tồn tại của ICP tại Côn minh. Tháng 2/1940, Q lên đường đi gặp Phùng Chí Kiên và các đồng chí khác. Vũ Anh (lúc đó có bí danh là Trịnh Đông Hải) hồi tưởng lại:

Một người đàn ông trung niên, cổ cồn cà vạt tiến tới hỏi tôI :ở đây có ai tên là Trịnh Đồng Hải. Khi được biết đó chính là tôI, ông ta xưng danh là Trần và hạ giọng mời tôI ra quảng trường thành phố nói chuyện. Trên đường tôI đặc biệt ấn tượng về tác phong nhanh nhẹn và đôI mắt sáng ngời của ông. TôI lờ mờ đoán ra đó chính là NAQ, người mà Đảng đã cất công tìm kiếm lâu nay. Điều đó đem lại cho tôI sự tự tin. Vũ Anh giới thiệu về mạng lưới ngầm của Đảng ở Côn minh dưới vỏ bọc của một hãng buôn, sau đó dẫn Q đI gặp Phùng Chí Kiên. Họ cũng gặp Hoàng Văn Hoan, người đã từng dự lớp huấn luyện cua Thanh niên Hội, sau đó đã công tác nhiều năm ở Xiêm, hiện đang làm thợ may ở Côn minh. Q ở trong một hiệu sách và tham gia các hoạt động cách mạng. Như thường lệ lúc nào ông cũng kè kè cáI máy chứ bên cạnh và viết rất nhiều bài báo cho báo Đồng Thanh của đảng. Tháng 4/1940, Q & PCK đI thăm các cơ sơ dọc theo tuyến đường sắt Côn minh - Hà nội mới được Pháp xây dựng. Cuối tháng 5, Q trở về Côn minh 4.

Điều kiện hoạt động của đảng tại Đông dương càng ngày càng trở nên khó khăn. Chính phủ Dadalier đang đặt dấu chấm hết cho Mặt trận Bình dân tại Pháp. Chính quyền tại thuộc địa được thể đặt thêm nhièu kìm cặp với hoạt động của đảng. Tháng 8 năm đó, nước Đức phát xít ký hiệp ước không xâm lược với Liên xô. Một tuần sau quân Đức vượt biên giới Balan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Diễn biến này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của đảng. Toàn quyền Castraux ra lệnh triệt phá tất cả những hoạt động chống đối của ICP và các đảng cánh tả khác. Lê Hồng Phong bị bắt lại vào tháng 9 tại Sài gòn. Hà Huy Tập thì đang ở tù sau những cuộc biểu tình tháng Năm từ năm ngoái. Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ vội vã triệu tập hội nghị TW tại ngoại ô Sài gòn để bàn biện pháp đối phó. Dưới sự truy đuổi gắt gao, chỉ có 4 thành viên có mặt trong đó không có đại diện Bắc bộ. Hội nghị nhận định, mặc dù sự đàn áp của Pháp bắt đảng phảI rút vào hoạt động bí mật, thế chiến thứ hai bùng nổ sẽ là cơ hội tốt cho các mạng Việt nam giành độc lập như Lê nin đã từng chỉ ra. Lần đầu tiên từ khi Thanh niên Hội tan rã, vấn đề độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu. Hội nghị cũng quyết định chấm dứt chiến lược Mặt trận bình dân, thảo ra những chính sách mới chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Hai tháng sau, Nguyễn Văn Cừ cùng một uỷ viên TW trẻ mới là Lê Duẩn bị bắt và tống vào nhà lao Sài gòn 5.

Sau khi Q quay về Côn minh, BCH TƯ đã cử hai đồng chí trẻ để tham gia huấn luyện: đó là Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Đồng sinh năm 1908 tại Quảng ngãI trong gia đình mà bố làm đến chức thượng thư dưới thời Duy Tân. Tốt nghiệp Quốc học Huế, Đồng trốn sang Quảng châu và học tại trường quân sự Hoàng Phố. Năm 1929, Đồng đã từng tham gia đại hội của Thanh niên Hội tại Hồng kông. Gò má cao, mắt sâu, phong cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, Đồng được anh em tôn làm thủ lĩnh. Sau khi bị bắt năm 1931 tại Sài gòn, Đồng được nếm mùi "chuồng cọp" Côn đảo và chỉ được ân xá năm 1937 trong thời kỳ Mặt trận bình dân.

Giáp sinh năm 1910 tại Quảng bình cũng trong một gia đình quan lại. Tuy nhiên cha Giáp tham gia kháng chiến từ những năm 1880s. Năm 1924, Giáp vào học viện quốc gia tại Huế. Tính dữ dội và mãnh liệt, sau vụ đám tang Phan Chu Trinh, Giáp bị cuốn vào các hoạt động cách mạnh và bị đuổi khỏi trường năm 1927. Giáp gia nhập Tân Việt nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang ICP. Bị bắt tại Huế vì tham gia các hoạt động ủng hộ Xô viết nghệ tĩnh, năm 1933 Giáp được tha và tiếp tục đI học. Sau khi lấy bằng Luật tại đại học Hà nội, Giáp dạy sử tại một trường tư. Tại đây, ông đã gặp Nguyễn Thị Minh Thái, em gáI của Nguyễn Thị Minh Khai (được cho là vợ Q) và có một con gái. Giáp thường viết bài cho báo đảng Notre Voix và hợp tác với Trường Chinh trong việc xuất bản các cuốn sách mỏng về tình hình nông thôn. Lúc rảnh rỗi, Giáp thích được đọc về lịch sử quân sự trong thư viện thành phố Hà nội. Người giới thiệu Giáp đi Côn minh là Hoàng Văn Thụ, một người dân tộc Thổ, uỷ viên TƯ từ năm 1938 và là bí thư chi bộ Bắc bộ. Thụ cũng hay nói chuyện với Giáp về các vấn đề quân sự. Một ngày đầu tháng Năm, sau khi tan lớp, Giáp chia tay với người vợ trẻ và đứa con thơ tại Hồ Tây mà không biết đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng của họ. Giáp nhập nhóm với Đồng và theo tàu lên Lào cai vượt biên giới đi Côn minh.

Tại Côn minh, Giáp và Đồng được Kiên & Vũ Anh dẫn đi gặp ông Vương (chính là NAQ) tại một địa điểm thơ mộng là Hồ Xanh. Vương khuyên hai thanh niên đi Diên an để theo học trường quân sự của CCP tại đó. Giáp & Đồng đến Quế dương để xin cấp các giấy tờ đi Diên an. Tại đây họ được lệnh chưa đi vội mà đợi ô Vương đến cùng đi. Q có lý do để thay đổi kế hoạch. Ngày 20/6 Đức buộc Pháp đầu hàng và dựng lên một chính quyền bù nhìn. "Chắc chắn tình hình ở Đông dương sẽ thay đổi". Mấy ngày sau, Kiên và Anh cũng đến Quế dương, sau đó cả hội đi Quế lâm và Q tổ chức cuộc họp ban biên tập tạp chí Đ.T. Quốc nhận định "Thất bại của Pháp là cơ hội to lớn của cách mạng Việt nam, chúng ta phải ngay lập tức tìm đường về nước để lợi dụng cơ hội này". Khi ai đó hỏi "vũ khí ở đâu?", Q trả lời:

Đây là vấn đề quan trọng nhất của cách mạng. Nếu chúng ta có vũ khí bây giờ, ai sẽ là người cầm vũ khí. Vì vậy chúng ta phải về nước và dộng viên quần chúng. Khi nhân dân đứng dậy, họ sẽ có vũ khí

Q chỉ thị cho Kiên & Anh cùng với Đồng Giáp chuẩn bị chuyển trụ sở hải ngoại của đảng về Đông dương. Một đ/c khác được phái đi liên lạc với Diên an, Q thì đi Trùng Khánh tư vấn với Chu Ân Lai và một số lãnh đạo TQ khác. Cuối tháng 7, Q trở về Côn minh. Tại đây ông nhận được một lá thư của Hồ Học Lâm, đảng viên QDĐ nhưng có cảm tình với cách mạng VN từ những năm 20. Lám thông báo: tướng Trương Bội Công, gốc Việt, khét tiếng chống cộng đã được lệnh chuyển về biên giới phía bắc Cao bằng để tập hợp lực lượng yêu nước từ Việt nam. Lâm khuyên Q nên cử các đồng chí của mình về khu vực này để bảo vệ quyền lợi của Đảng.

Sở dĩ TQ đột nhiên quan tâm đến Đông dương thuộc Pháp là vì sự xuất hiện của quân đội Nhật tại vùng này. Từ đầu năm 40, Nhật đã tiến dần xuống phía nam, chiếm đảo Hải nam và quần đảo Paracel. Cuối mùa xuân, Tokyo gây sức ép đòi Castreaux phải đóng cửa biên giới không cho các đoàn tàu ngược sông Hồng tiếp tế cho quân TQ. Không được sự hỗ trợ của Paris, Mỹ thì đang lo bảo vệ những quyền lợi của mình, Castreaux phải nhượng bộ và vì thế bị mất chức. Toàn quyền mới Decoux lập tức phải đối diện với những đòi hỏi ngang ngược hơn của Tokyo: được đóng quân và sử dụng các sân bay tại Bắc bộ. Chưa biết tính sao, thì ngày 22/9, quân Nhật tấn công khiêu khích dọc biên giới Lạng sơn. Cùng chiến đấu với quân Nhật có các đồng minh Việt nam từ Quang phục Hội do Cường Để lãnh đạo.

ICP đã may mắn có được ảnh hưởng ở khu vực gồm toàn các dân tộc Tày, Nùng, Thổ này từ đầu những năm 30. Năm 1935, một lãnh tụ người Tày là Hoàng Đình Gióng đã được bầu vào ban chấp hành TƯ tại Makao. Vài năm sau lại đến lượt Hoàng Văn Thụ. Các đảng viên đã thu phục đồng bào dân tộc bằng lời hứa quyền tự trị trong nước Việt nam cách mạng tương lai. Chớp thời cơ các đồn binh Pháp đang hoang mang sau cuộc tấn công của Nhật, ngày 27/9 cơ sơ đảng địa phương đã xúi giục các bộ tộc tấn công và chiếm huyện lỵ Bắc sơn và một số xã, thu vũ khí. Tuy nhiên sau khi đạt được thoả thuận với Nhật, quân Pháp đã quay lại đàn áp. Quân khởi nghĩa phải chia thành từng nhóm nhỏ rút vào núi và vượt biên giới hy vọng tìm sự giúp đỡ của Trương Bội Công. Trong khi đó, Q suy nghĩ kế hoạch thành lập một mặt trận đồng minh mới để lôi kéo các thành phần yêu nước ngoài đảng và được sự công nhận của Quốc dân đảng ở phía nam lúc đó do tướng Lí Jishen, khét tiếng về vụ tàn sát cộng sản ở Thượng hải năm 1927 lãnh đạo. Sau khi cân nhắc, Q đã quyết định lựa chọn cái tên là Việt nam Độc lập đồng minh Hội, gọi tắt là Việt minh. Tên này đã được Hồ Học Lâm dùng để liên kết các đảng viên cộng sản và quốc dân đảng Việt nam tại Nam ninh trước đó vài năm. Q cũng mời luôn Lâm làm chủ tịch, còn Phạm Văn Đồng làm phó dưới cái tên Lâm Bá Kiệt. Dưới vỏ bọc mới, đoàn đã tiếp cận tướng Lí nhờ giúp đỡ trong việc huy động nhân dân cho cuộc chiến đấu tương lai ở Đông dương. Tuy còn nghi ngờ, Lí đã đồng ý công nhận Việt minh với điều kiện không để cho Đảng cộng sản thống trị

Trong thời gian này, hoạt động của UBTƯ tại Sài gòn bị rối loạn, trừ Phan Đăng Lưu tất cả các thành viên đều vào tù. Trần Văn Giàu được tha tháng 5/1940 nhưng sau đó 5 ngày lại bị bắt lại. Liên lạc với các xứ uỷ khác cũng như với uỷ ban Hải ngoại bị cắt đứt. Mặc dù tình hình mùa màng tại Nam bộ có khá hơn các vùng khác của cả nước, thuế quá cao làm nông dân không hài lòng, ước tính có tới 30% nhân dân có cảm tình với đảng cộng sản. Mùa xuân năm ấy, Pháp quyết định tuyển mộ quân tại địa phương để tham chiến ở châu Âu và đặc biệt đưa đi Cambodia chuẩn bị cho cuộc đụng độ với Xiêm, đang nhân cơ hội đòi lại phần đất bị Pháp chiếm năm 1907. Các đảng viên đã nhanh chóng lợi dùng tình hình đưa ra khẩu hiệu "đừng chết cho bọn Colons (gọi người Pháp ở ĐD) tại Cambodia" kích động sự chống đối của nông dân. Tháng 7, xứ uỷ Nam kỳ dưới sự lãnh đạo của Tạ Uyên quyết định tiến hành khởi nghĩa theo nghị quyết của hội nghị TƯ 6 11/1939. Phan Đăng Lưu được cử đi tư vấn với các đồng chí ở Bắc kỳ. Lưu chưa kịp trở về thì hàng ngàn binh sĩ nổi lên làm binh biến chống việc gửi sang biên giới Xiêm. Uyên vội vàng ra lệnh khởi nghĩa vào cuối tháng 11/1940. Trên thực tế, Lưu đã họp với các đồng chí của mình tại ngoại ô Hà nội. Rút kinh nghiệm từ thất bại ở Bắc sơn, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hoàng Văn Thụ đều phản đối kế hoạch vội vã của Uyên, cho rằng phải chuẩn bị từ từ và đợi thời cơ chín muồi. Cuộc họp cũng cử HVT tổ chức lại các lực lượng bị tan rã ở Bắc sơn để tiến hành chiến tranh du kích. Xét thấy BCHTƯ thực chất đã bị bắt hết, xứ uỷ Bắc kỳ qưyết định chuyển mình thành UBTƯ lâm thời và cử Trường Chinh làm bí thư 6.

Hội nghị cử Lưu quay về ngay mang theo lệnh tạm hoạn cuộc khởi nghĩa. Lưu về đến Sài gòn ngày 23/11 và bị bắt ngay khi vừa xuống ga. Mọi sự đã quá muộn, cuộc khởi nghĩa đã bùng phát ở nông thôn trước đó một ngày, một số huyện ở tây nam Sài gòn đã bị quân khởi nghĩa chiếm. Khởi nghĩa cũng nổ ra ở nội đô Sài gòn nhưng do được báo trước nên chính quyền đã đàn áp một cách dễ dàng. 4 ngày sau, quân Pháp phản công và dìm cuộc khởi nghĩa vào biển máu. Hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị bắt. Trong đó có vợ cũ của Q: Nguyễn Thị Minh Khai. Tháng 3/1941, toà án binh Pháp xử tử hình Minh Khai, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ. Tạ Uyên bị giết trong cuộc khởi nghĩa. Trước khi chết Minh Khai được gặp lại chồng mình đã bị giam từ 6/1939. Lê Hồng Phong sau đó chết vì bị tra tấn dã man vào tháng 9/1942 tại Côn đảo.

Tại Quế lâm, Q nghe tin Bội Công đang tích cực chiêu mộ quân ở Jingxi bèn gửi Giáp và Vũ Anh đến xem xét tình hình. Tại đó 2 anh này đã thuyết phục được Công mời chủ tịch Việt minh là Học Lâm đến để cùng hợp tác. Biết chuyện khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, Q căn dặn các đồng nghiệp "Tình hình trong nước và quốc tế đang có lợi cho ta. Tuy vậy giờ khởi nghĩa vẫn chưa điểm. Đã chót vùng lên rồi thì bây giờ phải tìm đường lui càng nhanh càng tốt để bảo toàn lực lượng". Trên thực tế tình hình thế giới đang biến đổi rất khó lường. Sau khi chiếm nước Pháp, Đức chuẩn bị làm cỏ nước Anh bằng không quân. Mặc dù hiệp định XôĐức vẫn còn hiệu lực, việc Đức đưa quân vào Bankan rất gây căng thẳng. Tại TQ, Nhật tiếp tục tiến sâu vào trung nguyên và đưa quân vào Đông dương. Để tận dụng đội ngũ cách mạng sẵn có ở Jingxi, Q quyết định chuyển trụ sở hải ngoại về đó. Đồng thời cử Vũ Anh vượt biên về nước thăm dò để tìm địa điểm cho hội nghị TƯ sắp tới. Tại Jingxi, Q cùng với Kiên, Đồng, Giáp tổ chức các khoá học 2 tuần cho thanh niên, dạy về tình hình thế giới, vận động quần chúng và các phương pháp tổ chức tuyên truyền. Như thường lệ, Q chuẩn bị tài liệu dưới dạng tờ rơi gọi là "Con đường giải phóng". Q thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối xử với dân địa phương, yêu cầu các học viên học tiếng và ăn mặc như người địa phương. Tại lễ tốt nghiệp, các học viên hôn biểu tượng của đất nước độc lập trong tương lai: lá cờ đỏ sao vàng trước khi trở về nước. Để xây dựng quan hệ tốt với Công, Q đề xuất thành lập Việt nam Dân tộc giải phóng Uỷ viên Hội gồm thành viên của cả QDĐ và ICP, đồng thời đứng luôn chân chủ tịch thường vụ với bí danh Hoàng Quojun.

Tuy nhiên đa số thời gian Q dành cho việc chuẩn bị cho hội nghị TƯ sắp tới, sẽ được ghi nhận trong lịch sử đảng như Hội nghị 8 nổi tiếng. Đầu tháng Giêng 1941, BCH lâm thời gồm Chinh, Thụ, Việt cũng đã có mặt ở Jingxi. Vũ Anh cũng đã trở về báo cáo tìm được địa điểm thích hợp ở hang Cốc bó (Nguồn) cạnh làng Pacbó. Ngày 28/1, sau khi ăn Tết âm lịch, Q cùng với Vũ Anh, Kiên và Lê Quảng Ba và một số đồng chí khác lên đường về nước. Chặng đường có chừng 40 dặm nhưng khá vất vả vì luồn rừng lội suối. Đầu tháng 2, họ đến biên giới và từ đó xuôi về Pacbó cách biên giới khoảng hơn nửa dặm. Sau này, Q và các đồng chí của mình luôn nhớ lại những ngày ở Pacbo là những kỷ niệm khó quên nhất. Đốt lửa sưởi ấm, bắt cá, tắm suối, dịch sách, viết báo... Giáp kể lại: "Hàng đêm chúng tôi ngôi quây quanh bếp lửa nghe Q kể chuyện lịch sử thế giới và cách mạng như những đứa trẻ nghe chuyện thần thoại" Trong vòng 3 tháng sau đó, Q xuất bản tờ báo Việt nam độc lập (bán hẳn hoi để có giá) và thành lập Hội cứu quốc. Hội nghị 8 được tiến hành ngày 10/5/1941 tại Pacbó. Q chủ trì hội nghị với tư cách đại diện của QTCS. Đây là lần đầu tiên Q chủ tri một cuộc họp của đảng kể từ hội nghị thống nhất tháng 2/1930. Tham dự có Vũ Anh, Chinh, Thụ, Việt, Kiên và một số đồng chí khác từ các vùng của Đông dương. Hoan, Giáp, Đồng vẫn ở Jingxi để cùng với Công chuẩn bị hoạt động cho Giải phóng Uỷ viên Hội. Mục tiêu chủ yếu của hội nghị là chính thức tuyên bố thành lập Việt minh (Việt nam độc lập đồng minh Hội). Tên gọi của tổ chức mới cho thấy trọng tâm chủ yếu của đảng là Độc lập và cho Việt nam, chính thức từ bỏ quan điểm của hội nghị tháng 10/30 về việc thành lập liên bang Đông dương, tiến tới tiến hành cách mạng thế giới. Nhiệm vụ của Việt minh là chuẩn bị để giành chính quyền vào thời điểm thích hợp. Hai cương lĩnh chính của Việt minh là độc lập dân tộc và công bằng xã hội. Bằng việc thành lập Việt minh, Q đã chơi một canh bài đánh cược vào việc Nhật sẽ làm Pháp suy yếu và thắng lợi cuối cùng của đồng minh. Không thể áp dụng chính sách khởi nghĩa thành thị của Nga, không có được nông thôn rộng lớn của Mao, Q cho rằng vấn đề không phải là phương pháp mà thời cơ. Trong lúc thời cơ chưa đến, đảng phải kiên trì chờ đợi, xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi, chuẩn bị lực lượng quân sự nhỏ để có thể chớp lấy thời cơ tiến hành khởi nghĩa. Nhiệm vụ cuối cùng của hội nghị 8 là bầu ban chấp hành mới. Do Q kiên quyết từ chối, chức Tổng bí thư được trao cho Chinh người đang tạm thời giữ cương vị này từ mùa thu 1940. Chinh (tên thật là Đặng Xuân Khu) sinh năm 1907 trong một gia đình nhà giáo ở đồng bằng bắc bộ. Chinh đã tốt nghiệp trường Albert Sarraut nổi tiếng ở Hà nội. Tham gia Thanh niên Hội vào cuối những năm 20, bị bắt giam cho đến tận năm 1936, sau đó Chinh trở thành phóng viên đồng thời cũng là thành viên quan trọng của xứ uỷ Bắc kỳ. Kiêu hãnh trong thái độ, thận trọng và chu đáo trong suy nghĩ, mô phạm trong quan hệ với đồng chí, Chinh không có được sự hấp dẫn cá nhân như Q. Nhưng rõ ràng là trong giai đoạn mới này, đảng cần có tiếng nói chín chắn của Chinh. Sau khi hội nghị kết thúc ngày 19/5, Chinh trở về Hà nội để tìm trụ sở cho UBTƯ mới.

Q rất vui được trở lại quê hương sau 30 năm. Khi trốn lên tàu đi Hạ môn ở HK, vai trò lãnh đạo của Q rất mờ nhạt. Chiến lược được Q xác định từ thời Thanh niên Hội đang bị Matxcova xem xét lại, các đồng nghiệp trẻ phần đông tốt nghiệp từ trường Stalin cũng liên tục tấn công những quan điểm tư tưởng của ông. Vậy mà lần này quay lại, xem ra vai trò lãnh đạo của Q được tất cả chấp nhận một cách không do dự. Một phần chắc chắn là những thay đổi về trong chiến lược của đại hội QTCS lần thứ 7 trùng với những quan điểm của Q cho rằng cách mạng châu á có những đặc thù riêng và không thể copy mù quáng mô hình bolsevic. Q cũng phải cám ơn phòng Nhì Pháp đã hoạt động quá tốt và loại bỏ tất cả những đối thủ chính trị của ông như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong. Tại thời điểm này không ai có thể thách thức được vai trò lãnh đạo của Q trong đảng. Vậy thì vì cớ gì mà ông không chịu nhận chức vụ TBT? Phải chăng Q vẫn tự cho mình là chiến sĩ quốc tế một ngày nào đó sẽ lại lãnh đạo cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc khắp vùng ĐNA. Cũng có thể Q đã ngắm đến trong tương lai chức chủ tịch sẽ giúp ông đứng trên đấu tranh giai cấp để đại diện cho tất cả nhân dân đấu tranh cho một Việt nam độc lập và giàu mạnh.
--------------------------------
1
Vũ Thiếu Quân Con đường của tôi (Nhà xuất bản PLA 1984, p 61). Năm 1950 khi HCM sang thăm TQ và gặp lại Vũ ông mới biết người khách châu á của mình lúc trước là ai.
2
Tham gia tại hội nghị TW 7/36 có: LHP, HHT, Hoàng Đình Gióng, Võ Văn Ngân, Phùng Chí Kiên. Các biên bản tại hội nghị này đều đã bị thất lạc. Các báo cáo đêù phải dựa trên trí nhớ của những người tham gia và những quyết định được ban hành sau đó. Xem thêm Vũ Thư Một số vấn đề lịch sử Đảng thời kỳỳ 39đăng trên tạp chí NCLS, số 85 (4/1966).
3
Tham dự hội nghị này còn có Nguyễn Chí Điều, Phan Đăng Lưu, Hoàng Quốc Việt và ngôi sao mới nổi Lê Duẩn. Nguyễn Văn Cừ đã được Pháp chú ý từ trước và đặt mật danh là "Chột". Đầu những năm 30, Cừ cũng đã viết một bài có tên là "Tự chỉ trích" nhưng đả khá nhiều vào chính sách thoả hiệp của Lê Hồng Phong. Phỏng vấn ông Nguyễn Thanh, 3/12/1990, Phạm Xanh 12/12/1990.
4
Hoàng Văn Hoan trong hồi ký Giọt nước trong biển cả của mình đã nhận xét: Mr. Trần hướng dẫn rất nhiều về cách viết báo cho những người như Hải (Vũ Anh) vốn xuất thân từ công nhân hiểu. Ông còn đề xuất đổi tên báo thành D.T. để có thể hiểu là Đấu Tranh, Đánh Tây, Đảng Ta... Thông tin về chuyến đi dọc đường sắt, có thể tham khảo Hoàng Quang Bình "Au Yunam", tạp chí Souvernirs,p.p. 135-152 trong đó có những câu chuyện đã thành huyền thoại về nếp sống giản dị hàng ngày của Q. Quốc đã ở nhà Binh, tuy trả tiền thuê nhưng vẫn tham gia việc nhà, còn chỉnh đốn anh này vì tội đánh vợ.
5
Ngoài Cừ, Duẩn, hai thành viên khác là Phan Đăng Lưu và Võ Văn Tần.
6
Trong sử đảng, cuộc họp này được gọi là hội nghị TƯ 7, tuy nhiên nhiều nguồn tin cho rằng, ban đầu đây chỉ là cuộc họp xứ uỷBK.

TRIỀU DÂNG


Sau h ội nghị trung ương 5/41, các thành viên tản ra khắp nơi. Chinh cùng với Việt, Thụ trở về xây dựng trụ sở TƯ tại ngoại ô Hà nội. Một số khác chạy ra các tỉnh lân cận xây dựng các đội du kích, mở rộng căn cứ tại Việt bắc. Một số vượt biên tiếp tục củng cố quan hệ đồng minh lỏng lẻo với các phần tử dân tộc không cộng sản. Q vẫn ở lại Pacbo, chuẩn bị cho công cuộc nam tiến. Cũng như ở thời gian ở Thái, không để phí thời gian Q liền biến mình thành người thầy và người cha cho đám quần chúng - con chiên. Q tổ chức các khoá học ngắn ngày về chủ nghĩa Max-Lê và các kỹ năng quân sự biến các cán bộ địa phương vừa là chiến binh vừa là tông đồ. Q đích thân giảng dạy các khoá này, giải thích về tình hình và tương quan lực lượng trên thế giới. Giáo trình về cách thức tổ chức chiến tranh du kích cũng do Q chuẩn bị, chắc là nhờ những kinh nghiệm học được trong thời gian ở trong bát lộ quân. Q cũng thường xuyên viết bài cho tờ Việt nam độc lập in trên giấy được chế từ bột tre. Để cho dân chúng có thể đọc được báo, chương trình xoá mù chữ được tiến hành trong vùng. Các bài báo của Q đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm cả lịch sử đảng và phong trào cách mạng thế giới nhưng tựu trung là đều kêu gọi quần chúng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù. Ví dụ như bài "Phụ nữ" trong số 104:


(tìm nguyên tác) .....



Trong các bài viết của mình, Q luôn nhắc đến việc dành độc lập cho đất nước như một nghĩa vụ thiêng liêng. Trong bài thơ "Lịch sử nước ta", ngay trang đầu Q đã viết: "Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt nam" và kết luận: "Dân ta xin nhớ chữ đồng, Đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh". Cuối bài này, Q đã liệt kê ra một loạt những mốc thời gian quan trọng của Việt nam. Thời điểm cuối cùng là năm 1945, Việt nam độc lập. Khi các đồng chí hỏi tại sao ông lại biết trước là năm 45 nước ta sẽ được độc lập, Q chỉ trả lời: để rồi xem.


Trong lúc đó, PCKiên được chỉ thị đi tìm địa điểm cho căn cứ cách mạng đã quyết định dừng chân tại một vùng núi giữa hai huyện Nguyên Bình và Hoà An phía tây tỉnh lỵ Cao bằng. Căn cứ này nằm trong thung lũng nhỏ bao quanh bằng những tảng đá đỏ nên được Võ Nguyên Giáp gọi là Lô cốt đỏ. Bản thân trụ sở thì chỉ là một túp lều nhưng so với hang Pacbo thì quả là đã quá sang trọng. Tháng 1/42, trong bộ quần áo người Nùng mang theo chiếc máy chữ và những dụng cụ luyện tập thể dục, Q cùng với một vài đồng chí nữa rời Pác bó đi bộ đến căn cứ mới. Trên đường có lúc cả đoàn bị lạc nhưng Q chỉ cười to "Thế này đâm ra hay, biết đâu sau này lại dùng được đường này để chạy trốn". Q đặt tên cho căn cứ mới là Lam sơn và lại bắt tay vào công việc đào tạo và khích lệ một số đồng chí sốt ruột vì cuộc đấu tranh không có hồi kết. Q nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ nòng cốt. Ông nói: "cách mạng như nước thuỷ triều, có lúc lên lúc xuống. Cán bộ nòng cốt chính là những cột cừ giữ đất khi nước xuống". Tuy điều kiện ở tốt hơn nhưng căn cứ mới dễ bị Pháp truy quét. Thỉnh thoảng cả bọn lại phải trốn vào rừng rậm hoang sơ rất vất vả. Q luôn sẵn sàng chia sẻ những điều kiện khó khăn nhất với các đồng chí của mình. Khi tinh thần xuống, ông động viên: người cách mạng cần nhất 3 tính cách: kiên trì, bình tĩnh và cảnh giác"

Từ những năm 30, Đảng đã chủ trương chọn Việt bắc để xây dựng căn cứ hỗ trợ cho mình. Đại hội I năm 1935 đã hứa sẽ dành cho tất cả các dân tộc sống ở trong khu vực này quyền tự trị trong liên bang Đông dương độc lập trong tương lai. Được Q khuyến khích, rất nhiều cán bộ đã học tiếng cũng như các phong tục địa phương, tham gia vào các hoạt động cộng đồng, một số lập gia đình tại chỗ. Q luôn nhắc các đồng chí của mình: Tuyên truyền là công tác quan trọng nhất của cách mạng, và là bảo đảm cho thành công. 7/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Mỹ ở Trân Châu Cảng. Ngay lập tức trên báo Độc lập, Q có bài phân tích tình hình, nhận định cuộc chiến trên Thái Bình Dương đã trở thành cuộc xung đột có tính toàn cầu, và cách mạng Việt nam cần có những điều chỉnh để có thể tập hợp lực lượng sẵn sàng cho những thách thức mới. Q cho rằng từ Cao bằng phải mở rộng liên kết với những đội du kích đang hoạt động ở Bắc sơn, Võ nhai do Chu Văn Tấn chỉ huy, tiến tới mở hành lang xuống đồng bằng Bắc bộ. Cũng trong thời gian này, quân Pháp tăng cường càn quét, lùng sục. Phùng Chí Kiên bị giết trong một trận càn. Tháng 6 năm 1942, Q quyết định rời Lam sơn về lại Pacbo trong vai một thầy cúng đi chữa bệnh cho vợ.

Ngày 13/8/1942 Q cùng Lê Quảng Ba lên đường sang Tàu để tìm kiếm thêm sự hỗ trợ quốc tế. Họ đi bộ, ngày nghỉ, đêm đi để tránh mật thám Pháp, đến được thị trấn biên giới nhỏ Bamong ngày 25/8. Sau khi nghỉ 2 ngày tại nhà một nông dân có cảm tình với cách mạng Việt nam Xu Weisan, cùng với một liên lạc viên trẻ TQ, Q lên đường tới kinh đô cách mạng Trùng khánh, để LQ Ba lại ở Bamong. Chưa đi được bao xa thì cảhai đã bị cảnh sát TQ bắt tại làng Teyuan, gần thị trấn Debao, 20 dặm về phía Đông bắc của Giang tây. Chính quyền địa phương nghi họ là gián điệp của Nhật vì cả giấy chứng nhận của Hội Chống xâm lăng, thẻ nhà báo mang tên Hồ Chí Minh của Tân xã quốc tế, lẫn chứng minh thư của Quân đoàn 4 mà Q mang theo người đều đã hết hạn. Mục tiêu chuyến đi TQ này của Q cũng là một câu hỏi được nhiều người quan tâm. Trong hồi ký của mình, Q tự nhận là nhằm tìm kiếm mối quan hệ với Tưởng và nhờ chính phủ Quốc dân đảng giúp đỡ đuổi Nhật. Một số nhà sử học thì cho rằng chẳng qua Q muốn bắt liên lạc với các đồng chí của mình ở CCP. Sự thật thì chắc là cả hai. Hiển nhiên là Q muốn gặp lại Chu Ân Lai và những người quen cũ mà ông đã không gặp từ năm 1938 tại ở Diên An, nhưng mục đích chính của Q chắc là tìm sự ủng hộ của Tưởng. Q thừa biết sau chiến thắng Midway, quân đồng minh đang chiếm ưu thế và chính phủ Tưởng được đồng minh ủng hộ, có nhiều khả năng sống sót sau hậu chiến. Q cũng cần chính phủ Tưởng làm ngơ cho các hoạt động của Việt minh ở phía Nam TQ. Người mà Q muốn liên lạc để giới thiệu nhiều khả năng là Tống Khánh Linh, đang phụ trách chi nhánh TQ của Hội Chống xâm lăng. Hoa mắt với đống giấy tờ giả, chính quyền địa phương cho rằng kẻ bị bắt chắc phải có tầm quan trọng lớn. Họ đã liên lạc với toà án quân sự ở Quế lâm, thủ phủ Quảng tây. Toà này yêu cầu dẫn giải Q đến để xét xử. Mặc dù Xu Weisan có người quen trong chính quyền nhưng vẫn không can thiệp được. Ngày 29/8, Q bị tống vào nhà giam Quốc dân đảng ở Jingxi, để tiếp tục đợi lệnh trên. Chính trong điều kiện tù ngục khó khăn này, tập thơ nổi tiếng của Q "Nhật ký trong tù" đã ra đời. 1

Ngâm thơ ta vốn không ham

Nhưng ngồi trong ngục biết làm chi đây

Ngồi buồn ngâm vịnh cho khuây

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

Ngày 10/10, kỷ niệm 31 năm cách mạng tư sản TQ, Q bị chuyển sang Debao. Trong thời gian này, được tin Wendell Willkie, đặc phái viên của Rusevelt cũng đến Trùng khánh và được tiếp đón nồng nhiệt, Q đã cám cảnh làm bài thơ:

Tôi với ông.....

Từ Debao, Q bị chuyển qua Tiandong và Lungan tới Nam ninh. Tình hình có vẻ như cũng được cải thiện. Ngày 9/12, Q được đưa lên tàu chuyển về Liễu Châu, trụ sở của quân khu 4. Tư lệnh vùng là tướng Trương Phát Khuê, cũng không chia sẻ quan điểm chống cộng điên cuồng của Tưởng và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt nam. Q hy vọng là vụ việc sẽ được báo cáo lên ông này. Tuy nhiên, chẳng có gì xảy ra cả, ngày hôm sau Q bị đưa đi Quế lâm. Tại đây Q khai trước thẩm phán toà quân sự là có quan hệ với phong trào cộng sản ở Đông dương nhưng không liên quan gì đến CCP cả. Thẩm phán tuyên bố Q là tù chính trị và được trả lại Liễu châu cho Phòng chính trị quân khu xử. Q về lại đến Liễu châu đầu tháng 2 năm 1943.

Tin Q bị bắt về đến Pacbo vào cuối tháng 10. Các đồng chí của ông đã gửi thư phản đối khắp nơi cho các hãng thông tấn như AP, Reuters, UPI, Tass. Trong điện gửi Tass, họ khoe rằng Hội Chống xâm lăng Việt nam có đến 200,000 thành viên và Q là nhân vật chủ chốt của Hội. Một cán bộ của Đảng là Hoàng Đình Gióng đã được cử đi đưa một bức thư đến tận tay Tôn Kế, con trai Tôn Trung Sơn, hiện là chủ tịch Nghị viện. Bức thư viết: Kính thưa Tôn Chủ tịch

Đại diện của chúng tôi, ông Hồ Chí Minh đã bị bắt trên đường đến diện kiến Tưởng Nguyên soái. Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu ngài can thiệp để thả ông ấy ra càng sớm càng tốt

Mặc dù chẳng biết HCM là ai, Tôn chuyển vụ việc cho Vũ Thế Chương (Wu Tiecheng), tổng thư ký của Ban thường vụ TƯ Quốc dân đảng. Ngày 9/11, ông này điện xuống Quế lâm và Liễu châu đề nghị nghiên cứu vụ việc và nếu được thì thả Q ra. Đáng tiếc là lúc đó Q vẫn còn đang ở trên đường từ Debao đến Nam ninh. 2

Khoảng mùa đông năm 1942-1943, một cán bộ Đảng được cử đi tìm gặp Q mới trở về thông báo là Q đã chết tại nhà tù ở Liễu châu. Các lãnh đạo ở Việt bắc vội báo ngay tin cho các đồng chí của mình đang đóng gần Hà nội và cử Phạm Văn Đồng phụ trách việc tang lễ. Vài tuần sau, khi sự việc còn đang tù mù, bỗng có tờ báo đến từ TQ, trên đó có mấy dòng viết tay nét chữ của Q: "Gửi các chíên hữu. Chúc khoẻ và dũng cảm trong công việc" kèm theo là bài thơ:

Núi ấp ôm mây, mây ấp nũi

Lòng sông gương sáng bụi không mờ

Bòi hồi dạo bước Tây phong lĩnh

Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa

Anh em mừng hú, mới gọi tay cán bộ kia ra tra hỏi. Tay này khẳng định là chính Tỉnh trưởng thông báo tin này. Vặn vẹo kỹ mới vỡ lẽ là tay này kém tiếng Tàu, nghe nhầm chữ Shi tức là OK thành Xi tức chết 3.

Trong tập NKTT, Q ví mình như quả bóng bị đá đi đá lại giữa các nhà tù. Trong 5 tháng cuối, ông đã từng qua đến 18 nhà tù của 13 huyện nam Trung hoa. Cuộc sống đã dễ thở hơn. Thức ăn đã tạm được, tối ngủ không bị xiềng, thỉnh thoảng ban ngày còn được đi dạo, thậm chí còn được đọc sách báo. Q thường tận dụng cơ hội liên lạc với các đồng chí của mình bằng cách viết bằng nước cơm lên mép của các quyển tạp chí. Để giết thời gian, Q đã dịch cuốn Nguyên tắc Tam dân của Tôn Trung Sơn sang tiếng Việt. Khoảng mùa xuân năm 1943, Trương Phát Khuê cũng hiểu ra rằng tay tù chính trị của mình là ai, hay ít nhất cũng nắm được rằng tay này là cộng sản. Theo Hoàng Văn Hoan, chính một thành viên quốc dân đảng Việt nam tên là Trần Bao đã khai ra Q chính là đặc vụ của QTCS. Tuy nhiên trong hồi ký của mình sau này, trưởng phòng chính trị QK 4, tướng Lương Hoa Sinh kể rằng khi thẩm vấn Q, ông đã hiểu ngay tay này là cộng sản và đề nghị thủ tiêu. Không hiểu sao, Trùng khánh lại phản đối và yêu cầu Lương "cải tạo" tay tù này. Quan điểm của chính phủ TW có thể bị Chu Ân Lai, lúc đó là trưởng đại diện của CCP tai Cq ảnh hưởng. Nghe tin Q bị bắt, Chu đã liên hệ với tướng Phương Yuxiang, một trong những đối thủ của Tưởng những năm 20-30, giúp đỡ. Phương đã tư vấn với đại điện Xô viết ở Cq, rồi cùng với Phó chủ tịch chính phủ là Lý Trung Nhân đến gặp Tưởng. Phương nói với Tưởng, việc Q là cộng sản VN chẳng ảnh hưởng gi đến QD đảng, Trung cộng rồi Xô cộng đều có đại diện tại Cq, đâu có ai bị bắt bớ gì? Chưa nói đến VN đang đứng cùng bên với Tưởng trong cuộc chiến chống Nhật, xử Q như tội phạm sẽ làm mất uy tín chính phủ, có thể ảnh hưởng đến sự ủng hộ của thế giới. Lý cũng hùa vào, đề nghị giao cho vụ việc cho địa phương xử lý. Tưởng miễn cưỡng đồng ý, điện cho QK 4 thả Q ra dưới sự giám sát và tìm cách lợi dụng Q cho các mục đích của QDĐ.

Không rõ bức điện này có tác dụng gì không! Trong một cuộc phỏng vấn sau này ở Mỹ, Trương Phát khuê cho rằng mình chưa bao giờ hành động theo lệnh trên trong vụ giam giữ HCM. Khi biết được Q là đại diện của phong trào cộng sản VN, Trương đã giao cho trưởng phòng chính trị mới là tướng Hầu Chíminh nhiệm vụ dụ dỗ Q hợp tác để đổi lấy tự do. Trương cho biết ông đã trực tiếp thẩm vấn và bị thuyết phục bởi năng lực tổ chức và nhiệt huyết chống Pháp của Q. Q thông báo đảng CS VN đặt mục tiêu hàng đầu là độc lập và tự do của dân tộc mình. Q đề nghị giúp đỡ Trương trong việc tổ chức lại các lực lượng VN yêu nước ở Nam Trung hoa và cam kết sẽ không xây dựng xã hội cộng sản tại VN trong ít nhất là 50 năm.

Trương hiển nhiên là có những mưu đồ chính trị dài hạn riêng trong việc thả Q. Xuất thân từ Quảng đông, đã từng tham gia cuộc hành quân Bắc phạt, Trương lại bị cho ra rìa trong các quan hệ chính trị Quốc - Cộng. Trương ghét cả Nhật và Pháp và không loại trừ có cảm tình với tham vọng dành độc lập của nhân dân Việt nam. Là tư lệnh QK4, Trương cần phải chuẩn bị lực lượng để có thể tấn công quân Nhật ở Đông dương khi cần thiết. Kế hoạch tập hợp lực lượng Việt nam của Trương đang bị nhiều vấn đề nghiêm trọng. Cuối năm 1941, Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt nam, liên minh giữa Quốc dân đảng và ICP tan vỡ do các lãnh tụ QDĐ phát hiện ra mưu đồ của Giáp và Đồng. Sau đó thì chính Tường Tam, Hải Thần và Nghiêm Kế Tộ hục hặc lẫn nhau, Nhà tài trợ chính Trương Bội Công bị bắt vì tội hối lộ. Mùa hè 1942, Trương quyết định tổ chức lại, thành lập Việt nam cách mạng đồng minh Hội, do tướng Hau Chiminh làm cố vấn. Tuy nhiên Hội này cũng chẳng hơn gì Uỷ ban trước do các lãnh đạo suốt ngày đấu đá. Có lẽ Trương hy vọng là Q sẽ mang lại được nguồn sinh khí mới cho đám tay chân VN của mình. Ngày 10/9/1943, Q được trả tự do. Một thành viên phòng chính trị kể rằng, ông ta đang ăn thì bỗng thấy tay tù bước vào sà xuống tán phét với tướng Hầu Chiminh và các cộng sự khác 4. Mùa thu 43, Trương tuyên bố sẽ quan tâm trực tiếp đến Đồng minh Hội và cử phó của mình là tướng Tiêu Văn làm cố vấn. Hồ Chí Minh được bổ nhiệm làm phó chủ tịch. Chủ tịch hội lúc đó là Nguyễn Hải Thần chắc chắn là rất khó chịu nhưng không dám làm mất lòng người đỡ đầu của mình. Trong một bữa chiêu đãi, Hải Thần đã đưa ra câu đối: "Hồ Chí Minh, Hầu Chí Minh, hai đồng chí cùng quyết chí minh". HCM đã trả lời: "Anh cách mạng, tôi cách mạng, chúng ta sẽ cùng nhau cách mạng" . Được sự ưu ái của Trương, Q càng ngày càng hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội. Ô chuyển đến sống ở trụ sở Hội và thường xuyên tham gia giảng dạy về các vấn đề quốc tế và địa phương. Q thường nói với các học viên là Trung hoa là động lực hòa bình, Nhật sẽ thất bại trước Đồng minh trong khoảng 1 năm nữa và TQ sẽ giúp VN trở thành một quốc gia thống nhất, hòa bình, độc lập và dân chủ ỏ Đông Nam á.

Cảm thấy yên tâm, Trương đề nghị Q giúp đỡ để tổ chức đại hội lần 2 của ĐMH. Q đồng ý và đề xuất hội nghị trù bị vào cuối tháng 2 năm 1944. Tại hội nghị này, Q kêu gọi ĐMH mở rộng cửa cho Việt minh cũng như tất cả các tổ chức Việt nam yêu nước và chống phát xít khác. Đề cập đến nỗi sợ cộng sản của các đại biểu, Q nhấn mạnh ICP hiện là tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất và "nhân dân Việt nam không có gì phảI sợ chủ nghĩa cộng sản". Chủ nghĩa cộng sản sẽ lan tỏa tư tưởng bình đẳng kinh tế trên toàn thế giới, như sự bình đẳng chính trị do Cách mạng Pháp khởi xướng năm 1789 được dân chủ gieo rắc khắp châu Âu. Theo ông, các đảng phái chính trị phải đoàn kết vì mục tiêu chung như nước Trung hoa tam dân đã liên kết với đế quốc Anh, cộng sản Nga và tư bản Mỹ để chống lại chủ nghĩa phát xít. Trương Phát Khuê nghe rất sướng tai, đề nghị Hồ tổ chức đại hội vào cuối tháng 3 5. Mặc dù một số phần tử không cộng sản chẳng thích thú gì với ý tưởng mở rộng phong trào của Hồ ra sức chống đối, tuy nhiên do Trương "đại ca" đích thân đứng ra đốc thúc và bảo kê, đại hội vẫn được tổ chức vào ngày 24/3/1944 với 15 đại biểu từ ICP, VNQDD và Đại Việt. 2 đại diện của Việt minh là Phạm Văn Đồng và Lê Tống Sơn. Đại hội đã bầu ra ban chấp hành 7 thành viên trong đó có H. Sau đại hội, Trương hoàn toàn tin tưởng rằng là H mới là người có thể đứng ra lãnh đạo được các họat động của Đồng minh hội (ĐMH) và ủy quyền cho H toàn quyền hành động với lời hứa sẽ gửi H trở lại Việt nam. Để chứng minh sự "trung thành" của mình, H lập kế hoạch mở rộng ĐMH (kêu gọi cả những đảng được coi là bù nhìn như đảng Hiến pháp), tuyên truyền thiện chí của TQ với nền độc lập của VN, tăng cường các hoạt động vũ trang để chuẩn bị cơ sở để đón quân đội TQ vào Việt nam đánh Nhật... và đề nghị Trương cung cấp tài chính, vũ khí. Trương đã khôn khéo "né" và hứa chỉ cung cấp hộ chiếu, tiền bạc cũng như các phương tiện đi lại cho H, còn giúp đỡ trực tiếp những hoạt động kháng Nhật bên trong Đông dương thì còn phải xem xét.

Trước khi rời Lưu châu, H tới thăm tướng Tiêu Văn, cố vấn của Trương cho ĐMH và là người đã giúp H chuẩn bị cho chuyến trở lại VN. Trong lúc trà dư tửu hậu, H đã thề với Tiêu: "99% những điều tôi nói về cách mạng VN là đúng, chỉ có 1% chưa nói với tướng quân thôi". Có lẽ H ám chỉ lời hứa với Trương về việc không xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở VN trong 50 năm. Cuối tháng 8, H cùng 18 học sinh VN từ trường đào tạo của Trương, trong quân phục Tưởng, qua Long châu, Jingxi lên đường về Việt nam. Sau khi nghỉ lại vài ngày ở thị trấn biên giới Pingmeng để dưỡng sức và đảm bảo an toàn, cả đoàn về đến Pacbo vào ngày 20/9 6.

Trong thời gian Q vắng mặt, tình hình VN đã có nhiều biến đổi. Cuộc chiến Thái bình dương bùng nổ đã mang lại cơ hội cũng như thách thức mới cho VN với sự có mặt của Anh, Mỹ và Tàu Tưởng. Sau một số thắng lợi ban đầu của phong trào cách mạng, Pháp đã xiết chặt kiểm soát và bố ráp trong năm 1943, Hoàng Văn Thụ bị bắt và tử hình. Trường Chinh thoát chết vì kịp thời cải trang thành nông dân. Tuy nhiên từ giữa 1944, các nhóm cách mạng nhỏ bị Pháp truy quét lại có cơ hội tập hợp lực lượng lại, tình hình kinh tế tiếp tục bi đát dẫn đến sự bất bình của dân chúng ở thành thị và nông thôn tạo thành môi trường lý tưởng để nuôi dưỡng những hạt nhân cách mạng. Trong hội nghị tháng 7/1944 có đại diện của ICP tại 3 tỉnh biên giới, các đại biểu đã cãi nhau kịch liệt về đề nghị của Giáp về việc phát động chiến tranh du kích để thành lập khu giải phóng và xây dựng quân đội chính quy. Hội nghị tạm thời đồng ý với Giáp về chiến tranh du kích nhưng chưa xác định được thời điểm khởi động. Hội nghị cũng không thống nhất được về việc thành lập quân đội. Trong chuyến đi cùng Vũ Anh đón H về Pacbo, Giáp đã trình bày về kế hoạch của mình cũng như những nghị quyết của hội nghị tháng 7. H đã không đồng ý với Giáp và chỉ rõ: "quyết định mở cuộc tấn công ở Việtbắc là chỉ dựa vào tình hình địa phương và chưa đánh giá tình hình cả nước. Do chưa có nơi nào có phong trào mạnh, nên sẽ không thể cùng đứng lên ủng hộ. Pháp sẽ dễ dàng có điều kiện tập trung lực lượng và đàn áp. Giai đoạn cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời khắc tổng tiến công vẫn chưa tới. Trước mắt các hoạt động tuyên truyền chính trị vẫn phải được ưu tiên". Để bù lại cho nỗi thất vọng của người đồng chí trẻ, H đề nghị Giáp bắt tay vào xây dựng những đơn vị đầu tiên của quân đội và đặt tên là đội "Việt nam tuyên truyền giải phóng quân". H còn căn dặn tiêu chí đầu tiên của đội là "bí mật, luôn luôn bí mật. Địch nghĩ ta ở tây thì ta đang ở đông. Đánh bất ngờ, rút ngay khi địch chưa kịp trở tay". Ngày 22/12, Giáp đã tập hợp 34 thành viên trong một khu rừng Việt bắc, khởi đầu cho một đội quân huyền thoại. 2 ngày sau khi chào đời, đội quân mới thành lập đánh chiếm 2 đồn Na ngần, Phai khắt. Ngoài vô khối vũ khí thu được, tin thắng trận lan như lửa cháy rừng trong toàn Việt bắc.

Ngày 11/11/1944, máy bay trinh sát của trung úy Rudolph Shaw bị trục trặc động cơ và Shaw phải nhảy dù xuống những cánh rừng Việt bắc. Việt minh là những người đầu tiên tìm ra anh ta. Shaw kêu lên: "Viet minh, Viet minh", những người còn lại hét "America, Roosevelt!" và đó cũng là cuộc nói chuyện duy nhất của họ. Việt minh quyết định đưa viên phi công đến chỗ HCM. Đêm đi, ngày nghỉ để tránh quân Nhật, trèo đèo, lội suối, họ đã mất gần một tháng để vượt qua quãng đường có 40 dặm. H chào đón Shaw bằng thứ tiếng Anh thông dụng: "how do u do, pilot! Where are u from?". Viên phi công ứa nước mắt ôm chầm lấy H và nói "tôi nghe giọng ông mà như nghe tiếng bố tôi ở US". H đã không chờ đợi cuộc gặp gỡ bất ngờ này với viên phi công Mỹ. Mặc dù khi Mỹ bắt đầu tham chiến, H đã coi sự ủng hộ của Mỹ là quân chủ bài mà mình phải có để đánh Pháp, đuổi Nhật để dành độc lập. Trong thời gian ở Lưu châu, H đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu các tài liệu của thư viện Văn phòng Thông tin chiến tranh Mỹ (OWI). Hiển nhiên là H biết Roosevelt không có cảm tình với chủ nghĩa thực dân châu Âu và ủng hộ việc trao trả lại độc lập cho các thuộc địa ở châu á sau chiến tranh. Về Đông dương, R đã từng nói: "Pháp đã vắt kiệt mảnh đất này trong 100 năm, các dân tộc Đông dương xứng đáng một số phận tốt hơn thế". Mặc dù thừa biết chế độ Mỹ là một chế độ tư bản, H khâm phục cam kết của nước Mỹ với những nguyên tắc dân chủ và tin tưởng R sẽ dẫn dắt nước Mỹ tiến tới bình đẳng hơn về kinh tế và xã hội.

Các viên chức Mỹ ở Nam Trung hoa cũng đã biết đến H từ lâu trước khi H được phóng thích. Từ mùa thu năm 1942, báo chí địa phương đã đưa tin về một tù nhân chính trị tên là Ho Chih Chi vì những quan hệ với một chính phủ Việt nam lâm thời thân Đồng minh. Khi các nhân viên đại sứ quán Mỹ liên lạc với đại diện của phong trào Nước Pháp tự do, tay này đã phủ nhận những tin này. Tuy nhiên, đại sứ Clarence Gauss cũng vẫn điện báo cho bộ ngoại giao ngày 31/12/1942 tin về vụ bắt bớ, và ra lệnh cho các nhân viên của mình tìm hiểu thêm. Vì không có sự hợp tác từ phía chính phủ Trùng khánh, họ chẳng tìm được gì và cho rằng cái phong trào nào đó ở Đông dương chẳng có tí ý nghĩa nào với nước Mỹ. Nhưng có những người Mỹ khác không nghĩ như vậy. Mùa hè năm 1943, Chu ân Lai tiếp cận các quan chức OSS để nhờ thả H đổi lấy sự ủng hộ quân đội Đồng minh tại Đông dương. OSS đã trao đổi với một viên chức OWI mà H đã từng đến xin làm phiên dịch và một nhân viên sứ quán để tìm cách can thiệp với chính phủ TQ thả H và thảo luận sự cộng tác. Không rõ kế hoạch này có ảnh hưởng gì đến quyết định của Trương Phát Khuê nhưng ít nhất là cũng không thấy H hợp tác ngay với quân Mỹ, ngoài việc sứ quán Mỹ nhận được điện của Phân hội Việt nam của Hội quốc tế chống xâm lược nhờ xin thả H để tham gia vào các hoạt động chống Nhật tháng 11/1943 7. Một viên chức sứ quán tên là Philip Sprouse nhận ra ngay tên của người tù từ năm ngoái. Tuy nhiên đại diện của phong trào Nước Pháp Tự do đã thuyết phục Sprouse rằng chẳng qua các Hội, đoàn này chỉ là trò chính trị vớ vẩn phục vụ mục đích của Trung quốc và không nên bận tâm làm gì. Đại sứ Gauss đã gửi cả bức thư xin cũng như lời giải thích của ông về việc "Không trả lời" cho bộ Ngoại giao và vụ việc "chim nghỉm" ở Washington. Mùa xuân 1944, đại diện Vietminh tại Nam Trung hoa lại tiếp tục gửi thư đến văn phòng OSS, OWI và Sứ quán Mỹ đề nghị chiến đấu cùng Đồng minh chống Nhật tại Đông dương và nhờ Mỹ giúp đỡ giành độc lập. Ngày 18/8, đại diện OSS đã chuyển thư đến tùy viên sứ quán William Langdon kèm theo lời bình: "Đông dương hậu chiến sẽ đại loạn nếu chúng ta không dựng lên một cơ chế tự trị trước đó". Ngày 8/9 Langdon tiếp đoàn Việt minh, hứa sẽ chuyển thư cho Đại sứ, nhắc lại sự ủng hộ độc lập cho các dân tộc phương đông, trong đó có Việt nam. Ông này cũng khôn khéo lờ đi việc giúp đỡ trực tiếp :"các bạn đang là công dân Pháp mà chúng tôi lại đang sát cánh với Pháp để đánh lại phe Trục. Không có lý gì Mỹ lại cùng lúc vừa tốn xương máu, tiền bạc để cứu nước Pháp vừa giúp đỡ người khác lật đổ đế chế Pháp". Đại diện Việt minh là Phạm Việt Tú ra sức thuyết phục là VM chỉ đánh Nhật chứ không đánh Pháp, và mong được sự độc lập. Langdon không lay chuyển, viện cớ tướng Đờ Gôn đã tuyên bố ở Wasinhton là sẽ trao cho các nước thuộc đế quốc Pháp những quyền tự trị, và nếu VM không hài lòng, có thể nói chuyện trực tiếp với người Pháp. Mặc dù OSS báo cáo tương đối lạc quan về cuộc gặp gỡ, Langdon và OWI cho rằng các phần tử dân tộc chủ nghĩa VN tại Nam Trung hoa chưa có đủ kinh nghiệm để điều hành đất nước và những hội, nhóm của họ không có ý nghĩa nào cả trong Đông dương. Các nguồn Pháp còn tung tin Việt minh chỉ là bộ mặt cho vài trí thức bất mãn và không được dân chúng hưởng ứng.

HCM không liên quan trực tiếp đến vụ này, nhưng có vẻ như H đã có contact với Tú và các đồng chí của anh ta để đề xuất cuộc gặp với các viên chức Mỹ tại Côn minh. Sau khi ra tù tháng 9 năm 1943, H đã lân lan làm quen, tạo niềm tin và giữ quan hệ tốt với các nhân viên OWI tại Lưu châu. Văn phòng OWI tại đây chính là người đã tìm cách sắp xếp để H đi San Francisco tháng 8/1944. Lãnh sự quán tại Côn minh đã xin ý kiến chỉ đạo của Bộ ngoại giao trước yêu cầu của OWI cấp visa cho một người có tên là Ho Tinh-ching (được miêu tả là người Việt gốc Hoa) sang Mỹ để cung cấp một số tin tức về Việt nam. Viên chức bộ ngoại giao xử lý yêu cầu này lại chính là Sprouse. Anh này nhận ra Mr. Ho và viết thư giới thiệu, ghi nhận thành tích của H giúp quốc dân đảng tuyên truyền trong Việt nam. Vụ Viễn đông đồng ý cấp visa nhưng Vụ châu Âu phản đối vì sợ những rắc rối với Pháp. Mặc dù OWI ra sức bảo vệ rằng những hoạt động của H trên đất Mỹ sẽ được kiểm soát chặt chẽ, cuối cùng bộ ngoại giao đã từ chối cấp visa cho H. Tại sao H lại muốn đi Mỹ vào lúc này? Tình hình mặt trận Thái bình dương đang biến chuyển có lợi cho Đồng minh và chiến thắng rất có thể đến vào năm sau. H thừa biết phải có mặt ở VN vào thời điểm đó để lãnh đạo cuộc đấu tranh. Có thể tại thời điểm tháng 8/44, Trương Phát Khuê vẫn chưa đồng ý cho H quay về VN, và H định xin sang Mỹ để trực tiếp nhờ các quan chức cao cấp Mỹ can thiệp cho ông được trở về VN.

Vụ trung uý Shaw tự nhiên dẫn xác đến trước cửa đã tạo cơ hội vàng để H có thể đề nghị Mỹ giúp đỡ Việt minh. Ngay lập tức, lấy cớ phải đi công tác cùng, H đã cùng 2 chiến sĩ trẻ nữa hộ tống Shaw sang Côn minh. Sang bên kia biên giới, Shaw bắt được liên lạc với tổ chức cứu trợ phi công Mỹ (AGAS) và được đưa ngay về Côn minh (CM) bằng máy bay. Không nản chí, H quyết định đi bộ đến CM, trong vai người tuần đường trên tuyến đường sắt HN-CM 8. Nếu gặp người có lòng, họ nghỉ đêm nhờ, còn không thì ngủ ngoài trời. Lúc qua Y lương, một thành phố nhỏ trên đường, cả đoàn đã gặp Hoàng Quảng Bình, một người quen cũ cách đây 4 năm của H ở CM, hiện đang hành nghề cắt tóc. Theo lời Bình, trông Hồ rất ốm yếu và trầm uất, ăn ít, quần áo thì rách rưới, giầy thủng lỗ chỗ, lại đang sốt do lây của những người đi đường. Vậy mà khi Bình nhắc đến chuyện từ chối sự lôi kéo của Đồng Minh Hội, mắt H sáng lên. H khuyên Bình phải gia nhập ngay Đồng minh Hội rồi tuyên truyền kéo người từ đó sang với Đảng 9. Sau khi ở lại Ylương vài ngày cho khỏe, cả đoàn lại lên đường và đến Côn minh trong những tuần đầu tiên của năm 1945. Đáng tiếc là khi đến nơi thì Shaw đã bay về Mỹ. H ở cùng với Tống Minh Phương, đại diện Việt minh tại địa phương, một sinh viên Hà nội sang đây từ năm 1943, mở quán ngay cạnh trụ sở OSS 10. H quyết định liên lạc với AGAS, hy vọng có thể nhờ họ dàn xếp gặp mặt với tướng Chennault, tư lệnh Sư đoàn không quân số 14. Đồng thời H cũng liên lạc với văn phòng OSS, những người đã giúp Phương gửi lá thư cho đại sứ Gauss.

H đã cực kỳ gặp may và đến CM đúng thời điểm. Cách đây vài tháng AGAS được chỉ thị ngoài việc cứu phi công còn phải tăng cường thu nhập thông tin tình báo về quân Nhật trong Đông dương. Nguồn chính của AGAS là nhóm được gọi là GBT (do tên đầu của 3 người: Canada LL Gordon, Mỹ: Harry Bernard và một người Mỹ gốc Tàu: Frank Tan). Nhóm này làm việc trong một hãng dầu và sử dụng các nguồn địa phương để thu nhập tin tức. Ngày 9/3/1945, Nhật chính thức truất quyền Pháp ở Đông dương, những người nước ngoài bị thuyên chuyển, theo dõi, thậm chí bắt giữ. Nhóm GBT tháo chạy sang Nam Trung hoa. AGAS mất một nguồn tin quan trọng. Các quan chức Mỹ ở Wasinhton tháo dỡ lệnh cấm, cho phép liên lạc với các nhóm kháng chiến chống Pháp để thu nhập tin tình báo (trước đây Mỹ từ chối liên lạc với các nhóm này vì sợ mất lòng Pháp). Khoảng giữa tháng 3, người chịu trách nhiệm về GBT ở AGAS - trung úy thủy quân lục chiến Charles Fen, được thông báo là có một cụ già đã từng cứu sống một phi công Mỹ, hiện đang ở Côn minh và có thể có những quan hệ trong nước để thu thập tin tình báo. Trung úy Fen vốn là một phóng viên sinh ra tại Ailen, được chuyển đến TQ vì biết tiếng Hoa và am hiểu châu á. Fen liền đề nghị sắp xếp cuộc gặp với H, lúc đó đang suốt ngày ngồi tại thư viện OWI đọc từ tờ Thời báo đến Từ điến bách khoa Mỹ. Cuộc gặp đã diễn ra ngày 17/3/1945 và được Fen ghi lại trong hồi ký của mình như sau:

Hồ đi cùng với một thanh niên tên la Fam. Không hoàn toàn như tôi tưởng. Nhất là H không "già", tuy bộ râu bạc có dấu hiệu tuổi tác nhưng khuôn mặt đầy sức sống, đôi mắt tinh tường và ánh lên những tia sáng. Chúng tôi nói bằng tiếng Pháp. H đã gặp Hall, Blass và Sibours (những sĩ quan OSS khác) nhưng có vẻ như chẳng đi đến đâu.. Tôi hỏi ông muốn gì khi gặp bọn họ, H nói: chỉ cần sự công nhận tổ chức của ông ta (Việt minh). Đã từng nghe đến tổ chức này có xu hướng cộng sản, tôi liền hỏi luôn H. Ông ta trả lời: người Pháp gọi tất cả những người muốn độc lập là cộng sản. Tôi giải thích những yêu cầu của AGAS và hỏi không biết ông có giúp được không?H đồng ý ngay nhưng nói rằng ông ta không có điện đài viên cũng như các phương tiện kỹ thuật. Chúng tôi bàn với nhau về điện đài, máy phát và điện đài viên. H đề nghị dùng pin thay cho máy phát vì sợ ồn dễ bị quân Nhật phát hiện. Tôi nói, pin không dùng được vì không đủ công suất. Khi được hỏi muốn được chúng tôi giúp gì để trao đổi, Ho nói ngay: thuốc men và vũ khí. Tôi từ chối ngay vũ khí vì rất rách việc với Pháp. Chúng tôi lại thảo luận về Pháp. H khẳng định lại Việt minh là một tổ chức chống Nhật. Tôi rất ấn tượng về cách ăn nói gãy gọn của H. Nếu không để ý đến những ngón tay nhăn nheo luôn động đậy, dáng ngồi của ông ta rất giống Đức Phật. Fam ghi lại nội dung cuộc gặp và chúng tôi thống nhất sẽ gặp nhau nữa. Khi ra về cả hai để lại tên của họ viết bằng chữ Hán, có thể đọc phiên âm là Pham Phuc Pao và Ho Tchi Ming

Fenn trao đổi với các đồng nghiệp của mình và quyết định chuẩn bị gửi Già Hồ (mặc dù mật hiệu của H là Lucius, hội này vẫn thích gọi là Già Hồ) về Đông dương cùng với một điện đài viên người TQ. Ba ngày sau họ gặp lại

Chúng tôi gặp những người VN lần thứ hai tại một quán cafe trên đường Chin Pi. Có vẻ như chủ quán là bạn họ. Chúng tôi ngồi trên tầng 2, uống cafe fin, kiểu Pháp, rất đặc và ngon. Xung quanh chẳng có ai nhưng H bảo cứ phải cẩn thận. Chúng tôi gọi người TQ là "bạn", Mỹ là "anh em", Pháp là "trung lập", Nhật là "chiếm đóng" còn người Việt nam là "bản xứ". H nói rằng mang cả hai điện đài viên người Hoa đi rất dễ lộ đặc biệt là anh người Mỹ gốc Hoa. Nhóm của H thi lại hay nghi ngờ người Hoa. Tốt hết là để Frank Tan lại, sau đó gửi cho ông một sĩ quan Mỹ. H hỏi tôi có đi được không và tôi sẽ rất được hoan nghênh. Sau đó chúng tôi bàn về những đồ tiếp tế khác. Fam nhắc đến loại "thuốc nổ cao cấp" nào đó mà Hall đã hứa, làm tôi phải lờ ngay đi. Tuy nhiên chúng tôi thống nhất là có thể thả một số vũ khí nhẹ, thuốc men và một bộ điện đài nữa. Người của tôi sẽ huấn luyện quân H sử dụng điện đài. H còn muốn gặp Chennault. Tôi đồng ý thu xếp nhưng bắt H phải hứa không được mè nheo Chennault giúp đỡ bất cứ thứ gì. Già Hồ mặc quần bông, áo kaki cài cúc cổ màu cát, chòm râu bạc, thưa. Đôi mày nâu chuyển sang xám ở đuôi, tóc vẫn đen nhưng đã hơi rụng. Fạm còn trẻ, mặc đồ âu, xương gò má cao, cằm bự. Cả hai nói chuyện thì thầm nhưng thỉnh thoảng như bị nén lại. Tóm lại là chúng tôi đã có cuộc gặp gỡ thú vị.

Sau cuộc gặp, Fenn kiểm tra lại thì biết rằng mặc dù Pháp dán cho Việt minh cái nhãn cộng sản, Trung hoa quốc dân đảng chỉ coi đây là một tổ chức cơ hội. Khi Fenn hỏi về chỉ huy sở ở Trùng khánh thì được lệnh: "cứ cái gì có lợi thì làm, có điều đừng can thiệp vao chuyện chính trị giữa Pháp và dân bản xứ". Mấy ngày sau, Fenn thu xếp H gặp tướng Chennault tại chỉ huy sở của sư đoàn 14, sau khi đã nhắc lại H không được chính thức đề nghị giúp đỡ gì. H đến cuộc gặp vẫn trong bộ kaki cũ, có điều một chiếc cúc cổ bị mất đã được đơm lại. Chennault là người đặc biệt thích phô trương bề ngoài của mình nên diện bộ đại lễ phục nhà binh. Viên tướng này nổi tiếng ở Trung hoa nhờ chỉ huy phi đội "Phi Hổ" giúp Hoa kháng Nhật trong những năm 30. Trong cuộc gặp, Ch cảm ơn H đã cứu phi công Shaw và không đả động gì đến chính trị. H cũng làm đúng như lời hứa, không đòi hỏi giúp đỡ gì, lại còn tỏ ra tâng bốc đội Phi Hổ. Đến cuối buổi gặp, bỗng nhiên H ngỏ ý xin một tấm ảnh có chữ ký.

Chennault đặc biệt thích cho ảnh. Bởi vậy ông ta ấn nút gọi ngay thư ký riêng Doreen. Một cô gái mang vào một anbum dày 8x6. "Lấy một cái đi" Chennault nói. H chọn một tấm và nhờ Ch ký tặng. Doreen đưa ra chiếc Parker 51 và Ch viết vào tấm ảnh "Bạn chân thành của anh, Clair L. Chennault". Và chúng tôi chui ra khỏi căn phòng để hoà với không khí rộn ràng của Côn minh.

Thế là HCM đã xây dựng được quan hệ với những quan chức Mỹ chủ chốt ở Côn minh. Tuy nhiên, Việt minh vẫn không được Mỹ chính thức thừa nhận và H phải bằng lòng với những sự trợ giúp hết sức khiêm tốn. Trước khi lên đường, H được Fenn cấp cho 6 khẩu Colt 45 mới cóng nguyên hộp. Cuối tháng 3.45, H và một điện đài viên nữa được máy bay Mỹ chở đến thành phố Paise, 60 dặm phía bắc Jingxi. Sau chiến dịch "Số 1" ở nam Trung hoa, tháng 11 năm ngoái, Nhật chiếm Lưu Châu, Trương Phát Khuê phải chuyển chỉ huy sở của quân đoàn 4 đến thành phố Paise này. Mục đích đến Paise của H là bắt liên lạc với Đồng minh Hội để biến hội này thành phương tiện phục vụ các mục tiêu của Việt minh. Hội này hầu như đã tan rã sau khi H rời Lưu châu tháng 8 năm ngoái, vì Tàu tưởng không quan tâm, một số thành viên không cộng sản chủ chốt thì lại quyết định quay về Vân nam. Thông qua đại diện của Việt minh là Lê Tống Sơn, H thành lập "Uỷ ban hành động" gồm toàn tay chân của mình. Để trấn an một số phần tử còn nghi hoặc, H xem ảnh có chữ ký của Chennault và phát cho mỗi thành viên một khẩu Colt. Tuy nhiên, vài ngày sau, Tiêu Văn, vốn rất nghi ngờ Việt minh, đã ra lệnh giải tán uỷ ban hành động để thành lập một uỷ ban khác có đông đảo đại diện hơn, bao gồm cả H. Không còn gì để làm, H lên đường về Pắc bó 11.

Tháng tư 1945, đại uý Archimes Al' Patti tới Côn minh với chức vụ trợ lý cho đại tá Paul Helliwell phụ trách công tác của OSS tại Đông dương. Patti chiến đấu ở châu Âu đến 1/1944 thì được chuyển về phòng Đông dương tại trụ sở OSS ở Washinhton. Patti rất tôn trọng lịch sử và coi thường chế độ thực dân của Pháp. Trong thời gian lục lọi đống tài liệu, Patti đã được biết về các hoạt động của Việt minh và vị lãnh đạo huyền bí của họ "Già Hồ". Trong một cuộc họp ngay sau khi Patti nhậm chức, AGAS đã thông báo việc H đồng ý hợp tác tổ chức mạng lưới tình báo ở Đông dương. Một sĩ quan khác cũng cho biết H tham gia vào một chiến dịch tâm lý cùng với cơ quan tuyên truyền của Tưởng và sự hỗ trợ của văn phòng OWI 12. Rõ ràng là tổ chức của H là công cụ hợp lý nhất để Patti thực hiện các nhiệm vụ của mình, mặc dù có thể có những trở ngại trong quan hệ với Tưởng và phong trào nước Pháp Tự do. Có trong tay chỉ thị của Washington về việc thu nhập thông tin tình báo bằng mọi giá, Patti yêu cầu được gặp Hồ lúc đó đã rời Côn minh. Cũng may là ngay sau khi mới đến P có được tiếp Phương, đại diện Việt minh ở CM. Anh này cho biết có thể gặp H lúc đó đang ở Jingxi. Xếp của Patti ở Trùng khánh là Heppner hơi do dự vì lúc đó đại sứ mới của Mỹ là Hurley rất thân Tưởng và không thích những hoạt động của OSS nhằm xây dựng liên minh Quốc-Cộng. Hurley cảnh báo là Tưởng và Pháp sẽ rất không hài lòng nếu Mỹ liên lạc với Việt minh vì phòng nhì Pháp đã xác định chính xác H là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên, ngày 26/4, Heppner nhận được công điện của tướng Albert Wedemayer, tư lệnh quân đội Mỹ ở Trung hoa cho phép tiến hành các hoạt động của OSS ở Đông dương. Heppner bật đèn xanh cho Patti, không quên dặn ông này đừng làm mất lòng Tưởng và Pháp. Ngày hôm sau Patti bay đến Jingxi và được đại diện Việt minh dẫn đi gặp H tại một ngôi làng cách thành phố chừng 10km. Sau khi thăm dò danh tính và quan điểm của đối tác, H nhanh chóng miêu tả tình hình Đông dương, thông báo rằng VM có thể tiến hành rất nhiều hoạt động chiến tranh và tình báo có hiệu quả nếu được cung cấp thuốc men, vũ khí và phương tiện liên lạc. Patti không cam kết nhưng hứa sẽ xem xét. Theo như hồi ký, có vẻ P rất hài lòng. Một tuần sau đó, H trở về Pacbo với đoàn tháp tùng hơn 40 người, trong đó có điện đài viên Mỹ, anh Mac Shin và Frank Tan, thành viên cũ của nhóm GBT. H bắt đầu cung cấp những thông tin bổ ích, trong đó có cả thời tiết, cứu sống một số phi công Mỹ. OSS cũng thả dù thêm một bộ điện đài, vũ khí và thuốc men. Việt Minh đã chính thức chiến đấu cùng với lực lượng đồng minh.

Tình hình tại chiến trường Thái bình dương càng ngày càng thuận lợi cho quân Đồng minh. Các thành phố Nhật tan hoang do các phi đội B29. Nhà trắng xem xét phương án tấn công Đông dương với sự hỗ trợ của quân Tưởng từ phía Nam trung hoa đánh xuống. Trong khi đó, tại Đông dương, nạn đói đang hoành hành do hạn hán từ cuối năm 1944, cộng với việc trưng thu thóc và bắt nhổ lúa trồng đay của quân Nhật. Chính quyền Nhật từ chối mở cửa các kho thóc hay tăng cường việc vận chuyển gạo từ phía nam ra. Nông dân ăn hết khoai sắn, chuyển sang các loại rau, củ, cùng đường phải ăn vỏ cây, lá cây. Nạn đói lan dần đến thành phố. Giá hàng tiêu dùng phi mã. Thị dân phải đem đổi các đồ dùng trong nhà để mua gạo. Xác chết chất đống 2 bên đường, nông dân lang thang từng đám kiếm ăn 13. Cho dù hậu quả của cơn đói có nặng nề thế nào đi nữa, nó đã cho Việt minh một cơ hội vàng để thu phục lòng dân. VM đã kích động nông dân phá kho thóc để chia cho dân nghèo, khơi dậy lòng căm thù cả Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói. Sau chiến thắng ban đầu tại Nà ngần, Phai khắt, đội quân của Giáp tiến lên phía bắc gần biên giới Việt - Trung, giải phóng các làng dân tộc 2 bên đường. Khi quân Pháp phản kích ác liệt, Giáp lui về khu rừng nằm giữa Cao bằng và Bắc cạn, gọi là chiến khu Hoàng Hoa Thám, cùng với Vũ Anh và Phạm Văn Đồng bàn kế hoạch Nam tiến.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, thành lập chính phủ bù nhìn do Bảo đại cầm đầu. Vì thế toàn bộ vùng phía bắc châu thổ sông Hồng trở nên mảnh đất màu mỡ cho cách mạng phát triển. Trước đó 1 ngày, thấy trước tình huống Trường Chinh đã triệu tập cuộc họp trung ương tại làng Đình bảng, khoảng 12 dặm phía bắc Hà nội. Phân tích các yếu tố có lợi: khoảng trống quyền lực do cuộc đảo chính, nạn đói và khả năng Đồng minh tấn công Đông dương, TƯ đã ra nghị quyết đặt ưu tiên cao nhất cho đấu tranh quân sự, phát triển các căn cứ du kích, mở rộng cơ sở chính trị của Việt minh và tập hợp các đội quân khác nhau dưới chung một ngọn cờ Giải phóng quân Việt nam. Tuy nhiên Trường Chinh cũng cẩn thận nhắc các cơ sở Đảng không được manh động, chỉ hoạt động phía sau lưng Nhật để đợi cho quân Đồng minh bắt đầu tiến công mới được ra tay. Trong trường hợp Nhật đầu hàng trước khi Đồng minh tấn công, cũng có thể lợi dụng cơ hội để tổng khởi nghĩa. Trước khi rời Côn minh, H đã gửi văn bản ký tên Lực cho OSS để đưa ra nhận định của mình về sự kiện 9/3. Mục tiêu của văn bản này là thuyết phục Đồng minh tấn công Đông dương. Như mọi khi, H dùng ngôn ngữ ví von: "từ đảo Nhật bản đến New Guinea, quân Nhật như con rắn mà cổ nó là Đông dương. Nếu đập gẫy cổ, con rắn sẽ hết cựa quậy". Lực nhận xét: "Con sói thực dân Pháp đã bị phát xít Nhật hất khỏi Việt nam sau 87 năm. Đối với thế giới đang chiến tranh, sự kiện đó chỉ là tích tắc, nhưng chắc chắn nó sẽ có hậu quả sâu sắc đối với Đông dương, Phát, Nhật và Trung quốc" 14 Tại Cao bằng các lãnh đạo đảng cũng đưa ra nhận định của mình phải tăng cường cuộc đấu tranh vũ trang. Giáp đưa đội quân của mình Nam tiến, giải phóng các làng trên đường và liên tục tuyển mộ quân. Sau khi vượt qua Chợ Chu, cuối cùng Giáp đã hội quân với Cứu quốc quân của Chu Văn Tấn ở một làng nhỏ có tên là Kim Lũng nằm sâu trong rừng giữa Thái nguyên và Tuyên quang. Đầu tháng 4/1945, TƯ quyết định tổ chức hội nghị quân sự tại Hiệp hoà. Hội nghị đã đưa ra nhận định, chỉ tổng tấn công khi quân Đồng minh đã đánh nhau với quân Nhật bên trong Đông dương, hoặc khi Nhật đã đầu hàng Đồng minh trước đó. Cũng trong hội nghị này, Giáp được tin vợ mình (Nguyễn Thị Minh Thái) đã chết trước đó 3 năm. Được tin H đã trở lại VN, về đến Cao bằng sau hội nghị, Giáp lập tức lên đường đi đón.

Cuối tháng 4, H về đến Pacbo và gửi báo cáo tình báo đầu tiên cho Patti, kèm theo hai bức thư: một cho các lãnh đạo Đồng Minh và một cho tổ chức vừa mới thành lập là Liên hợp quốc. Nội dung của cả hai bức thư là đề nghị công nhận Việt minh và Việt nam. Cả hai tài liệu này đều được đứng tên là Đảng Dân tộc Đông dương, tổ chức tự xưng là đã thành lập Đồng minh Hội, sau đó sát nhập với Việt minh. Patti đã chuyển các tài liệu này cho chính quyền Mỹ ở Trùng khánh. Ngày 4/5, trong vai một ông già Nùng được các vệ sĩ và nhóm AGAS tháp tùng, H lên đường đi Kim Lũng, nơi hội quân của các lực lượng cách mạng. Tại Lam sơn họ gặp Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng và Vũ Anh. H gửi báo cáo cho Fenn cám ơn ông này đã gửi thiết bị liên lạc và huấn luyện cho quân. Ngày 9/5 cả đoàn đi Ngân sơn. Ngày 17, tại Nà kiên H gặp Giáp đang đi lên phía bắc. Hai người chưa gặp nhau từ cuối năm ngoái khi thành lập Việt nam tuyên truyền giải phóng quân. Giáp báo cáo với H về tình hình trong nước và kết quả của hội nghị Hiệp hoà. H cũng thông tin về tình hình thế giới. Cả hai bàn bạc việc chọn địa điểm để xây dựng căn cứ địa cách mạng và đã thống nhất chọn Kim Lũng. Cảm nhận được ngôi làng nhỏ bé này sẽ trở thành địa danh lịch sử của cách mạng Việt nam, H đã quyết định đổi tên thành Tân Trào (Thuỷ triều mới).

Cả đoàn tiếp tục nam tiến, ngày 21/5 họ vượt sông Đáy, đến Tân trào. Thoạt đầu H ở trong một nhà dân, còn hai sĩ quan liên lạc Mỹ được cho ở ngoài rừng. Sau đó dân làng đã dựng lên một ngôi nhà sàn để làm trụ sở. Còn H đích thân chọn chỗ để dựng lán cho mình trong một khu rừng tre. Để chuẩn bị khởi nghĩa, H ra lệnh triệu tập Hội nghị cán sự vào đầu tháng 6. Hội nghị đã thống nhất tất cả các lực lượng vũ trang tại 6 tỉnh Việt bắc (Cao bằng, Bắc kạn, Lạng sơn, Hà giang, Tuyên quang, Thái nguyên) thành Quân giải phóng Việt nam (VLA). Chính quyền dân sự do Uỷ ban lâm thời điều hành, tiến hành tuyển cử bầu ra các cơ quan hành chính địa phương, cải cách ruộng đất và xoá mù chữ. Giáp được chỉ định đứng ra để điều phối các công việc tương tự trong toàn quốc, dưới sự cố vấn của H. Trong hai tháng tiếp theo, một nhiệm vụ quan trọng của H là giữ vững liên lạc với các nhà bảo trợ Mỹ ở Nam Trung quốc. Trong một báo cáo, H đã đề nghị sử dụng đội du kích hàng ngàn người ở Chợ Chu để tấn công quân Nhật. Mặc dù e ngại những rắc rối chính trị khi có quan hệ chính thức với Việt minh, Patti vẫn được cấp trên là đại tá Helliwell "bật đèn xanh", sau khi thấy rõ sự bất lực của đội tàn quân Pháp chạy trốn do tướng Gabriel Sabatier chỉ huy. Patti điện cho H chuẩn bị một sân bay nhỏ để tiếp đón vũ khí và quân đội. Ngày 30/6 H đồng ý tiếp nhận với điều kiện không được có người Pháp tham gia vào chiến dịch. Trung uý Dan Phelan được thả dù xuống Tân trào từ trước làm đại diện cho OSS. Ngày 16/7, thiếu tá Allison Thomas cùng đội "Con nai" của OSS nhày dù xuống Tân trào để nghiên cứu tình hình và giúp đỡ Việt minh chống Nhật trong sự chào mừng của hàng trăm du kích. Thomas kể lại:

Tôi được dấn đến gặp Ông Hồ, một lãnh đạo lớn của VML (Việt minh League). Ông ta nói tiếng Anh thành thạo, nhưng trông rất yếu vì mới đi bộ từ TQ về. Người ta đã dựng cho chúng tôi những cái lán tre có sàn cao và mái lợp lá cọ. Người ta còn giết một con bò để chiêu đãi, và chúng tôi được chén bữa tối gồm bia, cơm, măng rừng và beefsteak. Cũng có những người trong nhóm Con nai không được chào đón. Ví dụ như trung uý Pháp Montfort. Sáng hôm sau, H nói với Thomas: "Tôi không có vấn đề gì với người Pháp, nhưng nếu quân tôi mà biết tay này là người Pháp, họ đã bắn chết tươi rồi". Montfort cùng hai sĩ quan Pháp nữa được lệnh biến khỏi làng càng sớm càng tốt và nhập vào đoàn người di tản sang TQ. Sau đó H gọi một tay đầu bếp đến để dạy cách quay gà theo kiểu Mỹ, và sai người đi kiếm vài chai Sâmpanh và Dubonnet để mở tiệc chào mừng.

Ngay ngày hôm sau, H đã đề nghị qua Thomas báo cáo với chính quyền Mỹ là Việt minh sẵn sàng đàm phán với đại diện cấp cao của Pháp. Patti đã chuyển thông điệp này cho thiếu tá Jean Sainteny, đại diện của phái bộ quân sự Nước Pháp Tự do mới được cử đến để tiếp nhận lại Đông dương sau chiến tranh. Vài ngày sau, H lại gửi lời kêu gọi sẵn sàng tiếp xúc với Pháp ở trong Đông dương hoặc Trung quốc. Trong lời kêu gọi, H đề nghị tổ chức nghị viện thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu, trả lại các nguồn tài nguyên cho nhân dân Việt nam, cấm buôn bán thuốc phiện, và cam kết phục hồi độc lập cho Việt nam theo những quy định của Hiến chương LHQ trong vòng từ 5-10 năm. Pháp vẫn lờ đi những đề nghị của H.

Trong lúc đó các sĩ quan Mỹ vẫn tiếp tục huấn luyện hơn 100 quân du kích cách sử dụng các loại vũ khí Mỹ (súng trường M1, carbin, bazooka) và các kỹ thuật chiến tranh du kích tại một địa điểm cách Tân trào khoảng 2 dặm. Henri Prunier, một "thầy" Mỹ tỏ ra rất ấn tượng về khả năng học hỏi nhanh của quân du kích. H cũng nhanh chóng đả thông về mặt tư tưởng cho các sĩ quan Mỹ. Thomas đã viết trong một báo cáo gửi về Côn minh: "Quên ngay mấy cái nghi ngờ vớ vẩn. VM không phải là cộng sản. Đấu tranh cho tự do và cải cách nhằm thoát khỏi sự tàn bạo của Pháp". Phelan cũng đã từng ngần ngại tham gia chiến dịch này vì nghe đồn là H có tư tưởng cộng sản. Một lần H hỏi Phelan có nhớ những câu mở đầu của tuyên ngôn Độc lập Mỹ để ông ta cho vào bản tuyên ngôn Độc lập của đất nước mình. "Nhưng rõ ràng là ông ta biết nhiều hơn tôi" Phelan nhớ lại và báo cáo VM "... là những người yêu nước đáng được sự tin cậy và giúp đỡ toàn diện". Sau này, Phelan cũng không bao giờ thay đổi lập trường của mình. Nhiều năm sau, ông đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Robert Shaplen, miêu tả H như "Một con người cực kỳ dễ chịu. Nếu tôi phải chọn một tính cách của con người nhỏ bé đó, ngồi trên ngọn đồi trong những cánh rừng già, thì đó chính là sự dịu dàng của ông ta" 15.

Sức khôe của H vốn đã suy sụp sau khi mắc bệnh lao trong những tháng ngồi tù ở TQ, lại bị đày đoạ bởi chuyến đi bộ sang Côn minh. H đã bị ốm nặng trên đường đến Jingxi những vẫn tiếp tục hành trình của mình. Giờ đây H đang rất yếu. Võ Nguyên Giáp kể lại: Bác ốm. Mặc dù mệt và sốt, Bác vẫn tiếp tục làm việc. Ngày nào lên báo cáo tình hình tôi cũng cảm thấy lo lắng. Nhưng Bác nói: "yên tâm, mọi sự sẽ qua thôi, báo cáo tình hình cho Bác đi". Tuy nhiên tôi nhận thấy B yếu đi và gầy đi rõ ràng. Chúng tôi chẳng có thuốc thang gì ngoài mấy viên aspirin và ký ninh nhưng tình hình vẫn xấu đi. Một hôm tôi thấy B mệt lả đi, bình thường trừ những lúc ngủ, B chắc bao giờ chịu nằm nhưng giờ đây B nằm sốt li bì trong ổ rơm. Trong những đồng chí hay ở bên B chỉ còn tôi lúc đó đang ở Tân trào. Tôi xin phép B được ở lại cùng với người một đêm, chỉ thấy B hơi mở mắt và khẽ gật đầu đồng ý. Đêm tối mịt mùng và rừng sâu bao quanh căn lán nhỏ. Mỗi khi tỉnh dậy, B lại quay lại tình hình hiện tại: "điều kiện đang rất thuận lợi cho cách mạng, dù có phải đốt cháy dãy Trường sơn cũng phải dành cho được độc lập", B nhắc lại những quan điểm vẫn hay thường nói hàng ngày: "trong chiến tranh du kích, khi phong trào lên, phải tận dụng thời cơ để mở rộng căn cứ, chuẩn bị cho những thời điểm quyết định". Dù không muốn tin, tôi vẫn nhận ra rằng, có lẽ B đang cố gắng truyền lại những lời di chúc cuối cùng của mình. Cứ thế suốt đêm, mê man nối tiếp những phút tỉnh táo. Sáng hôm sau, tôi báo tin ngay lập tức cho Trung ương, đồng thời hỏi bà con dân tộc xem có ai có bài thuốc gì. Dân làng mách có một ông lang chuyên chữa sốt. Tôi liền cử người đi đón về ngay. Sau khi bắt mạch, ông lang sắc một niêu thuốc từ một thừ rễ cây ông đào trong rừng, hoà với một bát cháo và đút cho B. Điều kỳ diệu đã xảy ra. B tỉnh dậy. Ngày hôm sau, B uống thêm 2, 3 bát thuốc nữa. Cơn sốt lui dần, B đã đứng dậy được và có thể tiếp tục công việc 16.

Về chuyện này, người Mỹ có một câu chuyện khác. Một nhân viên OSS là y tá. Anh này đã khám bệnh cho H, chẩn đoán là sốt rét và ỉa chảy và đã tiêm mấy mũi kí ninh cùng với sulfa. Không rõ điều này có tác dụng đến đâu, Thomas ghi lại sau này: "Mặc dù H bệnh nặng, nhưng tôi cũng không chắc chắn là nếu không có chúng tôi thì ông ta sẽ chết" . Viên y tá đã khám cho H là Paul Hoagland thì một mực cho rằng chính thuốc của ông ta đã cứu sống H.

Đầu tháng 8, sau khi nghe tin Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima, H đã chỉ thị cho tổng bộ Việt minh từ khắp nước ngay lập tức cử đại biểu về Tân trào để tham dự Quốc dân Đại hội. Ngày đại hội dự kiến là ngày 16/8. Hội nghị TƯ đảng lần thứ 9 được dự kiến họp trước đó 3 ngày. Qua chiếc radio của Thomas, H cảm được cuộc chiến đã đến hồi kết: thành lập Liên hiệp quốc, Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ hai, Nga trực tiếp tham chiến. Trước đó sau một hồi lưỡng lự, H đã đồng ý đi gặp phong trào Nước Pháp tự do tại Côn minh. Có lần H đã ra đứng đợi ở đường băng nhưng vì thời tiết xấu máy bay không hạ cánh được. Sau sự kiện Hiroshima, H đã huỷ bỏ ý định này. Ngày 12/8, các lãnh đạo Đảng đã quyết định kêu gọi tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, và quyết định vẫn triệu tập Hội nghị TW lần thứ 9 vào ngày hôm sau mặc dù một số đại biểu vẫn chưa đến được. Hội nghị đã bầu ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh làm chủ tịch và ra lời hiệu triệu khởi nghĩa. Ngày 16/8 Tổng bộ Việt minh tiến hành Đại hội Quốc dân tại Tân trào. Có hơn 60 đại biểu từ khắp nước về dự. Có người đã phải đi hàng tuần. Nhiều người mang theo quà là gạo và thịt. Một đại biểu dân tộc còn dắt theo cả một con trâu. Đại hội được tiến hành trong một ngôi đình 3 gian bên bờ suối. Gian trái treo ảnh Lenin, Mao và tướng Clair Chennault, gian giữa bày các vũ khí chiếm được của Nhật còn gian phải là thư viện kiêm luôn nhà ăn của các đại biểu. Sau khi Trường Chinh khai mạc, HCM lên phát biểu. Do Ban tổ chức chỉ giới thiệu HCM như một nhà cách mạng lão thành nên nhiều đại biểu cũng không rõ nhân thân của H. Tuy nhiên sau đó đã có tiếng thì thầm, HCM chính là Nguyễn ái Quốc. Trong bài phát biểu của mình, H nhắc lại việc phải nhanh chóng chiếm chính quyền để có thể chào đón quân đồng minh trên thế mạnh. Tránh đối đầu mà dùng biện pháp mềm dẻo để thu phục quân Nhật. H cũng cảnh báo rằng Pháp có thể dựa vào Đồng minh để mở cuộc tiến công chiếm lại Đông dương và chúng ta sẽ phải tiến hành cuộc đấu tranh kéo dài để có được nền độc lập hoàn toàn. Đại hội đã phê duyệt "10 quốc sách" của Việt minh, quyết định quốc kỳ, quốc ca của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, một quốc gia dân chủ, theo đuổi sự công bằng kinh tế và xã hội. Đại hội cũng bầu ra Uỷ ban giải phóng Dân tộc gồm 5 người do HCM làm Chủ tịch, sẽ chỉ đạo khởi nghĩa và hoạt động như chính phủ lâm thời. Ngày hôm sau, H đã cùng các đại biểu làm lễ tuyên thệ ngay trên bờ suối. Bản "Kêu gọi khởi nghĩa" được phát ra Giờ quyết định cho dân tộc đã điểm. Hãy đứng lên giải phóng bản thân mình. Các dân tộc bị áp bức trên thế giới đều đang đua tranh giành lại độc lập, chúng ta không thể lạc hậu. Tiến lên, Tiến lên dưới ngọn cờ Việt minh, Dũng cảm tiến lên.

Đây cũng là văn bản cuối cùng được ký tên NGUYỄN ÁI QUỐC.
--------------------------------

1
Thơ do tác giả tự dịch. .Một trong những cai ngục là người quen của gia đình Xu Weisan, chắc đã tuồn giấy bút vào cho Q. Xem thêm phỏng vấn Wang xiji, HZYZ, pp 83-84 ngày 24/6/1981.
2
Một báo cáo của Văn phòng Trương Phát Khuê ngày 23/1/1944 đã cho thấy sự phức tạp của vụ việc này. Từ Teyuan chyển lên Debao, rồi lên chính quyền Quế lâm, chuyển cho đại diện Trung ương ở Quế lâm, chuyển cho Hội đồng quân sự quốc gia trước khi đưa về trụ sở của quân khu 4.
3
Tay cán bộ này chắc là Đặng Văn Cáp. Xem Hồ Chí Minh của Võ Nguyên Giáp, pp 196-197. Vũ Anh có một lời kể khác, theo đó sau khi nghe Cáp báo tin, Đảng dã cử một cán bộ nữa đi thẩm tra lại. Anh này mới phát hiện ra Cáp nghe nhầm: "Bạn tù của Q đã chết" thành "Q đã chết".
4
Trương kể rằng ông chỉ thông báo cho chính quyền TƯ và được phê duyệt. Trương còn bình thêm: "Hồ nói chuyện rất cẩn trọng, vuốt ve bộ râu. Ông có một cái đầu lạnh, suy nghĩ sâu và khả năng làm việc lớn" Cũng cần nói thêm là HCM rất thành thạo tiếng Tàu và điều này chắc cũng giúp ông nhiều.
5
Theo một số nguồn phương Tây, hội nghị đã thành lập chính phủ lâm thời cho Việt nam, nhưng trên thực tế đó chỉ là đề xuất của một số đại biểu và bị phản đối. Giọt nước trong biển cả, Hoàng Văn Hoan, p 200. Một tác giả khác là Chang Yung- Ching trong cuốnHu Zhi-minh, p 167-168, cho rằng, sau hội nghị một số đại biểu "cộng sản" đã gây sức ép để thành lập chính phủ, tuy nhiên Trùng khánh đã phản đối vì sợ Đồng minh nổi giận. Bản thân H không thấy liên quan gì đến vụ việc.
6
Theo HZYZ p 106 và Hoàng Văn Hoan, p 202: Kinh Chen nói rằng chỉ có 16 người theo H từ Lưu châu.

N ếu đúng vậy thì 2 người còn lại chắc là Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đã đón H ở Jingxi đẻ cùng về Pacbo.
7
Theo Patti Why Vietnam, bức thư này do Phạm Văn Đồng gửi.
8
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, p.203. Mặc dù các nguồn VN đều cho rằng H được mời đến CM, không ai biết chắc chắn là AGAS hoặc tổ chức nào khác của Mỹ có mời H đến CM hay không. Theo một số tài liệu, cả tướng Chennault lẫn văn phòng OSS địa phương đều không biết đến sự tồn tại của H. Tổ chức có khả năng biết H nhất là AGAS, nhưng Charles Fen khẳng định rằng ông chỉ làm quen với H khi gặp H ở CM.
9
Quán này có tên là Quang Lac restaurant, ở phố Tai Ho Gai.
Hoàng Quang Bình "ở Vân nam" trong cuốn Với Bác Hồ , NXB ngoại ngữ, 1972, pp 239-240
Xem thêm Chúng tôi làm ngoại giao với Bác Hồ (Mai Văn Bộ, Nhà xuất bản Trẻ, HCM, 1998, p 41) về sự nghi ngờ của Xiao Wen với Việt minh. Theo Hoàng Văn Hoan (Giọt nước...) nếu H dừng ở Bose (Paise) thì phải dừng trên đường tới Jingxi. Theo Kinh ChenViệt nam and China, pp95-96 H còn ở Paise ít nhất là đến ngày 12/4. Fenn thì không nhắc gì đến chuyện ở Paise. Ông này nói H đi thẳng về Pắc bó, nhưng có nhắc đến chuyện một bạn đồng hành của H kể về cuộc gặp gỡ với một số phần tử dân tộc tỏ ý nghi ngờ quan hệ của H với Mỹ. Fenn nói rằng có cảm giác như cuộc gặp đó xảy ra ở Việt nam, nhưng chắc đó chính là cuộc gặp với các thành viên của Đồng minh hội.
Đây là "Chiến dịch Quail" do chi nhánh đặc biệt của OSS ở Trung quốc thực hiện. Xem thêm báo cáo "Dự án Quail" trong hồ sơ OSS, 26/2/1945. Có vẻ như Patti cho mình là người ra quyết định chiêu mộ H, nhưng theo Fenn, chính giám đốc OSS là William Donovan muốn điều đó và Patti được giao nhiệm vụ đi tìm H. Xem thêm Patti Việt nam p. 67 và Fenn Trial run to Dooms day p 265.
Patti (trong Why Vietnam, p 86) kể rằng H đã đưa cho P một cuốn sách ảnh gọi là "Sách đen" miêu tả sự khủng khiếp của nạn đói. P đã gửi cuốn sách cho sứ quán Mỹ tuy nhiên sau đó cuốn sách bị thất lạc. Theo các nguồn Việt nam, sản lượng lương thực trung bình lúc đó khoảng 1.1 triệu tấn. Do mất mùa, sản lượng năm 1944 chỉ còn khoảng 800,000 tấn. Nhật tịch thu 125,000 tấn để lại tiêu dùng chỉ cỡ 700,000 tấn. Xem thêm Marr Vietnam 1945, pp96-107 hoặc Nguyễn Kiên Giang, Vietnam, năm đầu tiên sau CMT8, NXB Sự thật, 1961.
Tonession, Vietnam revolution p 238, 337. Tonession cho rằng tiếng Anh trong văn bản này quá chuẩn, có lẽ H đã có người giúp đỡ. Tuy nhiên tại thời điểm đó tiếng Anh của H đã khá tốt.
Xem thêm Shaplen Lost Revolution, p.29. Phelan xem ra không hào hứng lắm với các đồng chí khác của H: "họ suốt ngày hô khẩu hiệu độc lập, nhưng ít nhất cũng phải 75% trong số họ chẳng hiểu ý nghĩa của hai từ đấy là gì".
Võ Nguyên Giáp Hồ Chí Minh, pp 210-211.

1     2      3      4      5      6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét