Nguyễn Thụy Long |
Chia tay nhau lũ người lận đận
Nhìn nhau buồn chẳng nói năng chi
Cùng một kiếp thương vay khóc mướn
Được thua gì rồi cũng phải đi
Cuộc thế trăm năm là vậy đó
Khóc cười ư cũng chuyện thương tình
Ta đã sống bằng trăm thế kỷ
Bao chuyện động trời tặc lưỡi là xong
Mày viết ngày đêm Vùng mả động
Sống cùng ma quỷ rỡn chơi hoài
Nay mày ra đi về cõi khác
Tao ngồi buồn thắp một nén nhang
Cầu cho mày kiếp sau lại viết
Chép cho đời những chuyện trái ngang
Và uống rượu say rồi cười ngật
Về nhà chắc lại bị vợ nhằn
Cứ ngủ cứ mơ và cứ viết
Trăm năm còn sống còn đi hoang
Khóc cười ta cứ khóc cười mãi
Mặc thây thiên hạ nói năng chi
Mày về bên ấy bao nhiêu mộng
Ta ở bên này ngất ngưởng ngông.
- Sao chị không đưa
anh Long đi xét nghiệm xem khối u nơi má anh ấy thuộc “dạng’’ gì, lành hay dữ?
- Tôi mấy lần năn nỉ
ông ấy chịu khó đi xét nghiệm xem cái khối u này nó thuộc loại gì nhưng ông
không chịu. Vì theo ông thì đến bệnh viện ung bướu chỉ cực cái thân, chẳng giải
quyết được gì cả mà còn thêm phiền não.
- Sao kỳ vậy?
- Nam còn nhớ nhà thơ
Phan Nhự Thức không?
- Sao lại không!
- Phan Nhự Thức nổi
khối u nơi cổ, nếu không tới bệnh viện ung bướu chắc còn sống tới hôm nay. Chỉ
vì tới bệnh viện ung bướu nên giải phẫu cắt đi, rồi “hóa trị’’, “xạ trị’’ và chỉ
mấy tháng là giã từ chúng ta luôn. Mình dứt khoát “sống chung” với khối u,
không xét nghiệm, không giải phẫu, không “hóa trị”, “xạ trị”… gì cả. Sống đươc
bao lâu thì còn viết, trời không cho sống nữa thì ra đi. Hai đứa con gái dòng
thứ nhì của mình ở Mỹ, nó nghe tin minh có khối “u”, nó về thăm mình đấy – Nguyễn
Thụy Long nói nhỏ nhẹ.
- Mấy đứa nhỏ lúc này
khá không?
- Chúng nó mới ra trường
nên cũng tàm tạm.
- Thế còn đứa con gái
lớn của anh ở đường Trường Sơn thì sao?
- Năm nay con Bi về Mỹ
ăn Tết, tranh thủ đưa con về bên ấy chữa bệnh “tự kỷ”.
Cuối năm, con cái
Nguyễn Thụy Long tranh thủ rửa nhà ăn Tết. Cái nhà ở đường Nhiêu Tứ (số 25/12,
F.7, Phú Nhuận) của Nguyễn Thụy Long tuy chỉ là căn nhà cấp bốn nhưng nhờ rộng
gần hai trăm mét vuông nên lúc này trị giá nhiều tỷ đồng. Mặc dầu bệnh tật rề rề
nhưng Nguyễn Thụy Long vẫn luôn ngồi bên cái máy tính làm việc. Theo anh, sáng
tác cũng là một cách “chiến đấu” chống lại thần chết. Càng viết Nguyễn Thụy
Long càng thấy yêu đời, ham sống hơn.
Nguyễn Thụy Long có
ba dòng con, hai dòng ở Mỹ, dòng thứ ba ở Việt Nam. Cô gái lớn dòng thứ ba đang
học năm thứ hai đại học ngành quan hệ quốc tế. Nguyễn Thụy Long tuổi con cọp
(1938), năm nay 72 tuổi.
Nguyễn Thụy Long ra
đi khi đang viết cuốn tiểu thuyết Vùng mả động, cái vùng mà xưa kia là trường
bắn của bót Hàng Keo, nay là nơi mà Nguyễn Thụy Long đang ở, ngày đêm cứ chợp mắt
là gặp các hồn ma. Ngay nơi sân nhà Nguyễn Thụy Long từng có một xác chết bị chặt
đầu chôn đứng mới được cải táng. Theo tiết lộ của Nguyễn Thụy Long, chỉ viết về
chuyện những người sống người chết quanh nhà, cuốn tiểu thuyết đã lên cả mấy
ngàn trang.
- Vùng mả động đã
viết được bao nhiêu trang rồi?
- Mới viết chừng nửa
truyện đã hơn ngàn trang.
- Bao giờ thì hoàn tất?
- Chắc cuối năm thôi.
- Viết có đắc ý
không?
- Rất đắc ý vì các
nhân vật, vừa người cõi âm, vừa người cõi dương. Nhân vật nào cũng có nét
riêng, không lẫn vào đâu được. “Đểu” có, tử tế có, lưu manh có, đàng hoàng có,
vô học có, trí thức có… Các nhân vật cứ quyện vào nhau sống, “chửi bố’’ nhau,
yêu thương nhau…
Câu chuyện cuối năm
lan man trở lại với cái khối u nơi má phải, cái khối u làm cho Nguyễn Thụy Long
gầy sọp hẳn đi.
- Sao ông “ngoan cố”
thế, đi xét nghiệm một lần thử xem!
- Xét nghiệm rồi động
dao động kéo, lôi thôi lắm, tôi tin ở ông trời, sống chết có số cả. Cứ chung sống
với khối u được ngày nào hay ngày ấy, còn sống thì còn viết, chết về với Chúa,
có gì mà phải bận tâm đâu nhỉ!
Nguyễn Thụy Long nói
thế nhưng từ đầu năm tới giờ đã ba lần phải cấp cứu và lần cuối cùng vào Bệnh
viện Nhân dân Gia Định nằm khu chăm sóc đặc biệt, phải cách ly với thiên hạ và
được hơn môt tuần thì ra đi, lúc ấy thân thể chỉ còn có 37 kí lô.
Nguyễn Thụy Long là một
con người khá đặc biêt. Cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với
câu văn: “Đường đi khó, không phải vì ngăn sông cách núi mà lòng người ngại núi
e sông”. Ông cùng cựu học sinh Hồ Ngọc Cẩn đi lính không quân, là hạ sĩ quan tiếp
vận. Vì tiếp xăng cho cái tàu bay C47 do Phan Phụng Tiên lái chở đám sĩ quan nổi
loạn ngày 11 tháng 11 năm 1960, do Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi cầm đầu chạy
sang Nam Vang, nên đã bị ra tòa án quân sự xử mấy năm tù, phải vào Chí Hòa. Ra
tù, Nguyễn Thụy Long làm báo Ngàn khơi của Nhã Ca, viết phóng sư. Rồi
làm báo Sống của Chu Tử, viết các tiểu thuyêt Loan mắt nhung,
Kinh nước đen nổi tiếng như cồn. Loan mắt nhung được đạo diễn Lê
Dân quay thành phim, rất đông người xem.
Trước 1975, Nguyễn Thụy
Long là tiểu thuyết gia viết về xã hội đen nổi đình đám nhất. Sau 1975, Nguyễn
Thụy Long viết về thời đại cũng khá tầm cỡ.
Những năm cuối đời,
Nguyễn Thụy Long luôn ngôi cạnh cái máy tính, hết lên mạng lại viết, ngày nào
ít thì hai ba trang, nhiều thì năm mười trang.
Nguyễn Thụy Long chết
còn tập bản thảo Vùng mả động và cả trăm truyện ngắn chưa in thành
sách.
Nam
CHƯƠNG BỐN
Con đường
Chi Lăng xưa, nay là đường Phan Đăng Lưu, phía trước Lăng ông Bà Chiều, có tòa
Bố của tỉnh Gia Định, thời chế độ Cộng Hòa thành tòa tỉnh trưởng. Bên cạnh tòa
tỉnh trưởng có trại giam, sau này cũng vẫn là trại giam, có bí số bao nhiêu đó
tôi quên mất rồi. Tôi chỉ nhớ gọi là số 4 Phan Đăng Lưu, hầu hết văn nghệ sĩ của
chế độ cũ sau ngày 30-4-75 bị giam ở đó, trước khi bị đưa đi học tập cải tạo ở
các vùng xa xôi. Tôi từng biết nơi đó, từng lêu bêu từ nhà giam này tới nhà
giam khác trước khi tới trại giam Z30A, thuộc miền đông, dưới chân núi Chứa
Chan mà ở đó có "Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ".
Bây giờ khi đi qua con đường Chi Lăng xưa hằng ngày tôi không thể không nhớ nhung, những kỷ niệm và những bằng hữu tôi. Trên con đường Chi Lăng có con đường chạy xuyên ngang ra Suối Đen ấp Đông Ba gọi là đường Nguyễn Huệ, nay là đường Thích Quảng Đức. Con đường Thái Lập Thành, nay là đường Phan Xích Long, hồi xưa có quán ốc, chuyên nấu cơm lá sen của tài tử điện ảnh Văn Giai, quán cơm của anh bị trúng pháo kích ngày 29-4-75 gia đình anh bị mạng vong gần hết. Tôi đã đứng với anh trên đống tro tàn, anh ngẩn ngơ như người mê sảng. Phía đầu đường Nguyễn Huệ Chi Lăng, các bạn bè tôi từng thuê nhà ở đó, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Nguyễn Khắc Nhân, cả họa sĩ Phạm Hoán. Tôi nhớ tựa đề một bài thơ của Trần Dạ Từ nói lên sự khổ cực của anh em bạn bè "Chi Lăng! Chi Lăng! Tiếng ai hò reo.?" Nếu tôi nhớ không lầm đó là tên bản hùng ca của Lưu Hữu Phước.
Căn nhà tôi ở trọ cũng gần với nhà thuê của Trần Dạ Từ - Nhã Ca. Thuở mới vào đời chúng tôi nghèo khổ lắm. Tôi là chú lính đất làm việc ở phi trường Tân Sơn Nhất, các bạn tôi đeo đuổi nghề báo nghề văn, nhưng cũng bữa đói bữa no, hoặc phải kiêm luôn nghề kèm trẻ tư gia để kiếm ăn.
Sự thật là như thế. Nhưng vẫn ngoan cố coi mình là văn sĩ, thi sĩ. Tôi thì mới mơ thành văn sĩ. Thời gian ấy cũng xa xôi lắm rồi, dễ chừng phải 40 năm trước. Một buổi chiều trời sẩm tối tôi di dạo dưới hàng eây sao bên lề đường Chi Lăng, bỗng gặp Viên Linh đi lang thang một mình. Tôi hỏi:
- Sao cậu không ở nhà?
- Nhà bé bằng cái lỗ mũi đông đảo bạn bè quá Thôi mày cũng đừng sang bây giờ, đi với tao ra cà phê Bằng.
Cà phê Bằng ở khu nhà mười căn bên cạnh cư xá Chu Mạnh Trinh, đầu ngã tư Phú Nhuận. Trong khu cư xá đó, nhiều văn nghệ sĩ đã có danh cư ngụ. Cà phê Bằng có căn nhà dưới và trên lầu.
Tôi thích ngồi trên lầu nhìn ra cái cửa sổ rộng, nhìn cái cột điện có những ống sứ mắc dây chằng chịt. Không biết sao tôi lại nghĩ cái cột điện ấy trông thật cô đơn. Những chiều mưa, dây điện đọng nước võng xuống nhỏ từng giọt, những dòng nước khác tiếp tục chạy đến làm thành những giọt khác, những giọt liên tiếp nhau nối thành chuỗi...
Buổi tối hôm ấy, Viên Linh vừa uống cà phê vừa đọc thơ anh mới làm cho tôi nghề, những bài thơ đã đăng báo, anh có vẻ tâm đắc, mấy câu thơ, mà tôi cũng thuộc đến bây giờ:
Sáng ở đầu sông nhớ núi.
Đêm về trong núi nhớ sông
Có tin về hôm giáp Tết
Sống bây giờ long đong
Đồng thời anh nói với tôi về đức Zehova và chuyện thánh thần trong thánh kinh Cựu ước. Quyển thánh kinh Cựu ước đó tôi thấy trong căn nhà thuê ở đường Nguyễn Huệ, không biết do ai mang về. Trước lối đi vào căn nhà đó có bụi tre gai, những cơn điên loạn của Nhã, cô ta lao đầu vào đó. Trên lối cửa vào phòng có ai đó đề hàng chữ L enter des hommes".
Con đường Chi Lăng ở tỉnh Gia Định xưa ngắn ngủi, có thể coi bắt đầu từ tòa tỉnh trưởng Gia Định chạy dài đến ngã tư Phú Nhuận là dứt. Con đường giữa dành cho xe hơi, hai bên có đường phụ dành cho xe đạp. Trên hai con đường phụ đó trồng cột điện và hàng cây sao rợp bóng mát.
ấp Đông Ba, Đông Nhì là những xóm ngoại thành, cây cối la đà. Những căn nhà tranh vách đất, những ngôi chùa ẩn mình dưới rặng tre xanh. Những ngọn điện vào được những căn nhà trong xóm đó còn rất hiếm hoi. Đường đất như những lối mòn trong xóm làng. Cái ồn ào của phố thị chỉ huyên náo ngoài lộ chính.
Tôi sống ở đó hơn nửa đời người, có ngắt quãng một vài điểm thời gian, nhưng cuối cùng tôi lại về đây. Đổi khác nhiều rồi dó, nhà cửa mọc san sát làm mất đi nhắc cảnh xưa cũ. Nhưng tôi vẫn còn nhớ như in. Khó mà quên được vì có những kỷ niệm đậm nét trong cuộc đời Tôi ghi nhận, quan sát, đôi khi cũng có chút hư cấu để viết lên khá nhiều tác phẩm, truyện ngắn, truyện dài, liều thuyết. Kể cả những kỷ niệm với bạn bè, vì rằng căn nhà tôi mua hồi ấy qui tụ khá đông bằng hữu văn nghệ. Cũng từ căn nhà ở ấp Đông Ba xưa, tôi làm nên tác phẩm rồi chính thức bước vào nghề viết văn làm báo. Thành ra những kỷ niệm tội nghiệp cứ luôn trùng điệp trong tôi. Tôi nhàn nhã quá trong những đêm trường thao thức trên căn gác bút, những kỷ niệm đến với tôi bất cứ lúc nào. Tiếng ễnh ương kêu y uổng ở ao hồ nào đó còn sót lại trong xóm tôi, thường thì gây ra những kỷ niệm buồn.
Bây giờ tháng Bảy mưa ngâu, những con mưa đêm chợt đến chợt đi, tôi nghe tiếng ễnh ương kêu ở một vũng nước nào đó bên vườn chùa trong đêm.
Tháng này là tháng xá tội vong nhân. Nhiều nhà sửa soạn cúng cô hồn, những quán cơm chay bên đường Nguyễn Văn Đậu (Ngô Tùng Châu cũ) bắt đầu đông khách. Những tay nghề bẫy chim đem bán làm chim phóng sinh ở cổng lăng ông Bà Chiều hoạt động mạnh. Khách thập phương giầu lòng nhân ái bỏ tiền ra mua bầy chim tội nghiệp ấy thả bay lên trời xanh để rồi chúng lại bị bắt trở lại ở mẻ lưới khác Lại được bầy bán ở cổng lăng, cổng chùa. Người ta vê mãi mà vẫn không tròn quả phúc. Nếu có người nào đó đánh dấu vào chân những con chim chim mình phóng sinh sẽ thấy rằng chúng trở lại lồng của người bán chim để được bán nữa. Vẫn có người mua để phóng sinh cầu phước, tỏ với Trời Phật lòng nhân đức của loài người.
Buổi chiều hôm nay đứng trên gác bút, tôi chứng kiến chú tiểu trong chùa chạy ra xua đuổi lũ chim tham ăn, đậu vào màng lưới rộng trải trên mặt đất. Chú tiểu bị bọn côn đồ bẫy chim đánh cho một trận nhừ tử. Tệ hại hơn nữa chú bị chúng nhét thịt chim nướng vào miệng khiến chú phạm giới. Bọn côn đồ bẫy chim say rượu cười hộc lên như một bầy linh cẩu. Chú tiểu vừa chạy vừa khóc, chùi miệng nhổ phì phì.
Một cảnh như thế mà cười được đấy. Sư cụ trụ trì chắp tay niệm câu "mô phật".
- Hôm nay không trúng mánh mà vui?
Tôi chứng kiến cảnh tượng đó, thấy mình hết ý. Nhưng sao đêm nay vẫn cứ suy nghĩ vẩn vơ Bao nhiêu là điều, bao nhiêu là chuyện đế nói đc viết. Tiếng ễnh ương kêu ở vũng nước vườn chùa buồn bã thế vẫn không đưa nổi tôi vào giấc ngủ.
Tiếng ễnh ương kêu buồn bã trong đêm gây buồn gây nhớ. Nhớ lắm, thương lấm, hỡi những người bạn của tôi. Các anh thoắt hiện thoắt biến trên cõi đời. Còn lại những kỷ niệm, những cái các anh để lại, mà tôi không thể nào quên.
Tôi viết hay tôi đang gậm nhấm những kỷ niệm? Tôi tự do trong tôi, tôi vẫn nghĩ
thế. Đọc một quyển sách, một bài thơ, nghe lại một đoạn nhạc, một lời ca, do
các anh sáng tác tôi lại nhớ đến các anh, lại nhớ nhung, lại ngậm ngùi. Như thấy
các anh còn hiện diện. Những người bạn nghệ sĩ của tôi, nếu chứng kiến cái chết
từ từ của anh, như cây nến cháy tự ăn mình để tồn tại, tôi càng thêm chua xót.
Không gì đau bằng ngồi bên giường bệnh của anh, nhìn anh lịm dần vào giấc ngủ
ngàn thu. Tuy nhiên không phải cái chết nào cũng giống nhau, có cái chết thanh
thản với nụ cười trên môi thì cũng có cái chết oằn oại vì đau đớn, cái chết còn
đọng giọt lệ trên hố mắt. Vâng tôi đã thay, đã thấy nhiều lắm rồi. Có cái chết
đến là ngỡ ngàng, tiếc nuối hay bức xúc vì còn dở dang một điều gì đó chưa trọn
vẹn trên cõi đời. Có cái chết cô đơn, còng queo trong nhà giam, không ai nghe
thấy lời cuối cùng của kẻ bạt mạng như cái chết của nhà văn Dương Hùng Cường.
Nghe tin anh chết, tôi ngỡ ngàng và nhớ đến những tác phẩm của anh. Từ Buồn vui
phi trường đến tên tác phẩm cuối cùng của anh, Vĩnh biệt phượng. Có phải lời
trăn trối của anh không, gửi cho vợ hay người yêu. Tôi bỗng như thấy cái nghênh
ngang của con người anh qua bút hiệu Dê Húc Càn. Cái nghênh ngang ấy đi vào trí
nhớ của tôi. Mới ngày nào anh còn tưng tửng giữa đời, mà nay anh đã là người
thiên cổ. Đã bao nhiêu người bạn tôi nằm xuống.Bây giờ khi đi qua con đường Chi Lăng xưa hằng ngày tôi không thể không nhớ nhung, những kỷ niệm và những bằng hữu tôi. Trên con đường Chi Lăng có con đường chạy xuyên ngang ra Suối Đen ấp Đông Ba gọi là đường Nguyễn Huệ, nay là đường Thích Quảng Đức. Con đường Thái Lập Thành, nay là đường Phan Xích Long, hồi xưa có quán ốc, chuyên nấu cơm lá sen của tài tử điện ảnh Văn Giai, quán cơm của anh bị trúng pháo kích ngày 29-4-75 gia đình anh bị mạng vong gần hết. Tôi đã đứng với anh trên đống tro tàn, anh ngẩn ngơ như người mê sảng. Phía đầu đường Nguyễn Huệ Chi Lăng, các bạn bè tôi từng thuê nhà ở đó, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Viên Linh, Nguyễn Khắc Nhân, cả họa sĩ Phạm Hoán. Tôi nhớ tựa đề một bài thơ của Trần Dạ Từ nói lên sự khổ cực của anh em bạn bè "Chi Lăng! Chi Lăng! Tiếng ai hò reo.?" Nếu tôi nhớ không lầm đó là tên bản hùng ca của Lưu Hữu Phước.
Căn nhà tôi ở trọ cũng gần với nhà thuê của Trần Dạ Từ - Nhã Ca. Thuở mới vào đời chúng tôi nghèo khổ lắm. Tôi là chú lính đất làm việc ở phi trường Tân Sơn Nhất, các bạn tôi đeo đuổi nghề báo nghề văn, nhưng cũng bữa đói bữa no, hoặc phải kiêm luôn nghề kèm trẻ tư gia để kiếm ăn.
Sự thật là như thế. Nhưng vẫn ngoan cố coi mình là văn sĩ, thi sĩ. Tôi thì mới mơ thành văn sĩ. Thời gian ấy cũng xa xôi lắm rồi, dễ chừng phải 40 năm trước. Một buổi chiều trời sẩm tối tôi di dạo dưới hàng eây sao bên lề đường Chi Lăng, bỗng gặp Viên Linh đi lang thang một mình. Tôi hỏi:
- Sao cậu không ở nhà?
- Nhà bé bằng cái lỗ mũi đông đảo bạn bè quá Thôi mày cũng đừng sang bây giờ, đi với tao ra cà phê Bằng.
Cà phê Bằng ở khu nhà mười căn bên cạnh cư xá Chu Mạnh Trinh, đầu ngã tư Phú Nhuận. Trong khu cư xá đó, nhiều văn nghệ sĩ đã có danh cư ngụ. Cà phê Bằng có căn nhà dưới và trên lầu.
Tôi thích ngồi trên lầu nhìn ra cái cửa sổ rộng, nhìn cái cột điện có những ống sứ mắc dây chằng chịt. Không biết sao tôi lại nghĩ cái cột điện ấy trông thật cô đơn. Những chiều mưa, dây điện đọng nước võng xuống nhỏ từng giọt, những dòng nước khác tiếp tục chạy đến làm thành những giọt khác, những giọt liên tiếp nhau nối thành chuỗi...
Buổi tối hôm ấy, Viên Linh vừa uống cà phê vừa đọc thơ anh mới làm cho tôi nghề, những bài thơ đã đăng báo, anh có vẻ tâm đắc, mấy câu thơ, mà tôi cũng thuộc đến bây giờ:
Sáng ở đầu sông nhớ núi.
Đêm về trong núi nhớ sông
Có tin về hôm giáp Tết
Sống bây giờ long đong
Đồng thời anh nói với tôi về đức Zehova và chuyện thánh thần trong thánh kinh Cựu ước. Quyển thánh kinh Cựu ước đó tôi thấy trong căn nhà thuê ở đường Nguyễn Huệ, không biết do ai mang về. Trước lối đi vào căn nhà đó có bụi tre gai, những cơn điên loạn của Nhã, cô ta lao đầu vào đó. Trên lối cửa vào phòng có ai đó đề hàng chữ L enter des hommes".
Con đường Chi Lăng ở tỉnh Gia Định xưa ngắn ngủi, có thể coi bắt đầu từ tòa tỉnh trưởng Gia Định chạy dài đến ngã tư Phú Nhuận là dứt. Con đường giữa dành cho xe hơi, hai bên có đường phụ dành cho xe đạp. Trên hai con đường phụ đó trồng cột điện và hàng cây sao rợp bóng mát.
ấp Đông Ba, Đông Nhì là những xóm ngoại thành, cây cối la đà. Những căn nhà tranh vách đất, những ngôi chùa ẩn mình dưới rặng tre xanh. Những ngọn điện vào được những căn nhà trong xóm đó còn rất hiếm hoi. Đường đất như những lối mòn trong xóm làng. Cái ồn ào của phố thị chỉ huyên náo ngoài lộ chính.
Tôi sống ở đó hơn nửa đời người, có ngắt quãng một vài điểm thời gian, nhưng cuối cùng tôi lại về đây. Đổi khác nhiều rồi dó, nhà cửa mọc san sát làm mất đi nhắc cảnh xưa cũ. Nhưng tôi vẫn còn nhớ như in. Khó mà quên được vì có những kỷ niệm đậm nét trong cuộc đời Tôi ghi nhận, quan sát, đôi khi cũng có chút hư cấu để viết lên khá nhiều tác phẩm, truyện ngắn, truyện dài, liều thuyết. Kể cả những kỷ niệm với bạn bè, vì rằng căn nhà tôi mua hồi ấy qui tụ khá đông bằng hữu văn nghệ. Cũng từ căn nhà ở ấp Đông Ba xưa, tôi làm nên tác phẩm rồi chính thức bước vào nghề viết văn làm báo. Thành ra những kỷ niệm tội nghiệp cứ luôn trùng điệp trong tôi. Tôi nhàn nhã quá trong những đêm trường thao thức trên căn gác bút, những kỷ niệm đến với tôi bất cứ lúc nào. Tiếng ễnh ương kêu y uổng ở ao hồ nào đó còn sót lại trong xóm tôi, thường thì gây ra những kỷ niệm buồn.
Bây giờ tháng Bảy mưa ngâu, những con mưa đêm chợt đến chợt đi, tôi nghe tiếng ễnh ương kêu ở một vũng nước nào đó bên vườn chùa trong đêm.
Tháng này là tháng xá tội vong nhân. Nhiều nhà sửa soạn cúng cô hồn, những quán cơm chay bên đường Nguyễn Văn Đậu (Ngô Tùng Châu cũ) bắt đầu đông khách. Những tay nghề bẫy chim đem bán làm chim phóng sinh ở cổng lăng ông Bà Chiều hoạt động mạnh. Khách thập phương giầu lòng nhân ái bỏ tiền ra mua bầy chim tội nghiệp ấy thả bay lên trời xanh để rồi chúng lại bị bắt trở lại ở mẻ lưới khác Lại được bầy bán ở cổng lăng, cổng chùa. Người ta vê mãi mà vẫn không tròn quả phúc. Nếu có người nào đó đánh dấu vào chân những con chim chim mình phóng sinh sẽ thấy rằng chúng trở lại lồng của người bán chim để được bán nữa. Vẫn có người mua để phóng sinh cầu phước, tỏ với Trời Phật lòng nhân đức của loài người.
Buổi chiều hôm nay đứng trên gác bút, tôi chứng kiến chú tiểu trong chùa chạy ra xua đuổi lũ chim tham ăn, đậu vào màng lưới rộng trải trên mặt đất. Chú tiểu bị bọn côn đồ bẫy chim đánh cho một trận nhừ tử. Tệ hại hơn nữa chú bị chúng nhét thịt chim nướng vào miệng khiến chú phạm giới. Bọn côn đồ bẫy chim say rượu cười hộc lên như một bầy linh cẩu. Chú tiểu vừa chạy vừa khóc, chùi miệng nhổ phì phì.
Một cảnh như thế mà cười được đấy. Sư cụ trụ trì chắp tay niệm câu "mô phật".
- Hôm nay không trúng mánh mà vui?
Tôi chứng kiến cảnh tượng đó, thấy mình hết ý. Nhưng sao đêm nay vẫn cứ suy nghĩ vẩn vơ Bao nhiêu là điều, bao nhiêu là chuyện đế nói đc viết. Tiếng ễnh ương kêu ở vũng nước vườn chùa buồn bã thế vẫn không đưa nổi tôi vào giấc ngủ.
Tiếng ễnh ương kêu buồn bã trong đêm gây buồn gây nhớ. Nhớ lắm, thương lấm, hỡi những người bạn của tôi. Các anh thoắt hiện thoắt biến trên cõi đời. Còn lại những kỷ niệm, những cái các anh để lại, mà tôi không thể nào quên.
Một đêm tôi nằm gục trên bàn viết, cây bút không gác lên mà rời khỏi tay, lăn lóc trên mặt bàn.
Tiếng ễnh ương kêu y uông trong vũng nước, xưa kia nguyên là một hố pháo kích sau vườn chùa Húc Nghiệm đánh thức tôi dậy, đánh thức cả kỷ niệm đang ngủ trong tôi. Tôi nhớ lại bản nhạc thuở nào: Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy nào Bây giờ anh ở đâu con ễnh ương vẫn gọi tên anh...
Đó là lời bài hát mở đầu cho phim Người tình không chân dung của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc. Bài hát buồn đến ray rứt nói về cuộc chiến, một cuộc chiến đau khổ cho Việt Nam từ mấy chục năm trước mà mọi người Việt Nam ở miền Bắc, miền Nam, dù không trực tiếp tham gia thì cũng vẫn ở trong cuộc. Họ đều có những người thân ngã xuống, hay thương tật. Bài hát buồn bã đọng trong đầu tôi từ bao lâu rồi. thỉnh thoảng lại nổi lên như những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn
Máu đổ, nước mắt rơi, bao nhiêu là tử sĩ, bao nhiêu chinh phụ, bao nhiêu những bậc mẹ cha già. Nước mắt người mẹ khóc con, vợ khóc chồng, cha khóc con, đứa trẻ khóc cha đều ai oán như nhau.
Dù bất cứ ở nơi đâu, thuộc phe phái nào, cũng buồn lắm, đau khổ lắm.
Hình ảnh ấy được ghi lại trong băng hình điện ảnh, con ễnh ương tạm trú trong cái mũ sắt thủng của người chiến binh nào đó bỏ lại trên chiến trường. Có thể chiến binh đó còn sống hay đã tử trận, xác thân đã rã, nhưng dấu chiến tích vẫn còn kia, làm nơi trú ẩn cho con ễnh ương ngồi khóc than ảo não trên chiến trường đìu hiu. Hình ảnh đó mở đầu cho cuốn phim chiến tranh Người tình không chân dung kèm theo lời ca buồn đến não lòng làm nền cho cả cuốn phim. Nét tài hoa của một nghệ sĩ, đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc, là ở đó. Anh khai thác nổi từ một hình ảnh nhỏ bé, tầm thường để làm nên cái vĩ đại trong nghệ thuật. Dù rằng điện ảnh Việt Nam thời gian đó còn trong phôi thai.
Trước năm 1975, tôi quen biết đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc, nhưng chỉ là chỉ sơ giao, vì tôi vừa là nhà háo, nhà văn.
Do chú ý đến phim ảnh nên tôi không thể không làm quen một đạo diễn tài ba như Hoàng Vĩnh Lộc. Anh có nét vượt trội hơn nhiều đạo diễn khác, từng được đào tạo qua trường lớp ở nước ngoài. Khán giả nhìn thấy trong phim anh những nét phóng khoáng, hào hoa. Tôi được biệt trước khi làm phim, anh từng là diễn viên trong phim Bến Cũ năm 1950, từng là lực sĩ có thể hình đẹp từng là ca sĩ, kể cả làm liếp viên Hàng Không.
Một buổi tối, trước năm 1975, tôi được mời đến dự tiệc trà ở một nhà hàng, không nhớ rõ là ở Majestic hay Continental. Buổi ra mắt hãng phim Giao Chỉ của hai nghệ sĩ tài danh. Đạo diễn điện ảnh Hoàng Vĩnh Lộc và nữ minh tinh màn bạc Kiều Trinh. Cũng là ngày đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc khởi đầu làm cuốn phim Người tình không chân dung. Chưa tới ngày bấm máy, nhưng đã được báo chí loan tin từ một hai tuần trước
Các hãng phim hồi đó thì nhiều, mà làm thất vọng khách mộ điệu cũng không ít vì trình chiếu những cuốn phim quá gây thất vọng. Khán giả vẫn mơ ước có một cuốn phim coi được.
Trong điện ảnh, Hoàng Vĩnh Lộc, theo anh nói, không xuất thân trong trường lớp nào. Nhưng nhiều người thấy anh có tài, có khả năng. Người ta đánh hơi thấy anh là người làm được và có thể làm hay vì anh có nhiệt tình. Anh đã cho ra mắt mấy cuốn phim trước khi anh thành lập hãng phim Giao Chỉ.
Buổi tiệc trà tối hôm ấy khá đông đủ mặt văn nghệ sĩ. Kịch bản truyện phim, dĩ nhiên là về chiến tranh rồi. Một cuộc chiến đau thương. Giọng nói dễ thương của Dạ Lan hằng đêm gửi người chiến sĩ ở khắp 4 vùng chiến thuật để chia xẻ mọi nỗi niềm.
Có lẽ Hoàng Vĩnh Lộc dựa vào chi tiết ấy để làm nên Người tình không chân dung. Cuốn phim có giá trị nào cũng nên có một bản nhạc nền. Người tình không chân dung cũng vậy Hoàng Vĩnh Lộc cũng mong mỏi có một bản nhạc nền phản ánh cho kịch bản truyện phim, nói lên được điều gì đó sâu thẳm của kịch bản mà tác giả, đạo diễn ấp ủ. Hoàng Vĩnh Lộc nghĩ đến điều đó và anh đã nhờ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng nhạc sĩ họ Trịnh lấy cớ chưa nắm vững kịch bản nên chưa làm được.
Khi cuốn phận trình chiếu, tôi thấy bài hát "con ễnh ương". Lời ca hay và hình ảnh cũng đẹp Khi đó hỏi ra mới biết chính Hoàng Vĩnh Lộc đã sáng tác bản nhạc nền cho cuốn phim của mình, và kiêm cả soạn kịch bản.
Năm 1975, sau ngày "đứt phim", tôi gặp lại Hoàng Vĩnh Lộc. Tôi hơi ngạc nhiên vì anh kẹt lại. Bạn bè chúng tôi còn lại thưa thớt nên dễ thân nhau, thân nhau qua những kỷ mềm và thân phận kẻ đồng cảnh ngộ. Buồn chán thì cùng nhau cụng ly rượu "nước mắt quê hương". Chúng tôi thường xuyên gặp nhau, chia xót với nhau những gì mình có, rủ rê nhau cùng lao vào một điều gì hoặc cho nhau một mối làm ăn nào đó, béo bở hay không hạ hồi phân giải.
Thuở đó miền Nam Việt Nam đã bại trận, nhưng đất nước chưa thống nhất để có tên gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Miền Nam Việt Nam có chính phủ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, quốc kỳ nửa xanh nửa đỏ có ngôi sao vàng ở giữa. Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh và tôi thường đến Alpha Film của đạo diễn "con nhà giàu Thái Thúc Nha ở đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu) sắp sửa trao lại cho nhà nước toàn quyền sử dụng.
Sau này tôi gặp lại Thái Thúc Nha ở một tiệm ảnh nhỏ trên đường Tạ Thu Thâu. Nhà nước đổi cả cơ ngơi điện ảnh của anh để anh lấy tiệm ảnh nhỏ bé này kiếm sống qua ngày. Alpha Film xưa nay có tên xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu. Sau này tôi nghe tin Thái Thúc Nha đã chết. Tại Alpha film, chúng tôi gặp đạo diễn Mai Lộc, một đạo diễn của miền Bắc, từng đạo diễn phim Vợ chồng A Phủ. Khi ấy ông làm Cục trưởng Cục Điện ảnh. Ông mời chúng tôi về làm việc tôi nhớ ngôi nhà ấy ở đường Lê Quí Đôn. Tôi lo phần kịch bản, qua sự góp ý của hai đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc và Minh Đăng Khánh. Một tháng qua, chúng tôi thật tình vẫn chẳng làm được gì vì công việc viết lách không khó khăn mà phức tạp, đủ mọi khuôn phép, đầy những tính nọ tính kia.
Một buổi chiều, ba người chúng tôi gom những đồng tiền rủ nhau ra quán nhậu nốc nước mắt quê hương", sau một cuộc khẩu chiến với ngài biên tập. Rõ ràng là chúng tôi sai trái vì chúng tôi không đi đúng đường lối chính sách. Chúng tôi đồng ý với nhau là phải ngưng ngay lối làm việc này vì chỉ công toi. Chúng tôi là những người cầm bút chưa "xuyên suốt được sợi chỉ hồng". Chúng tôi cám ơn sự giúp đỡ và xin phép được ra về.
Hôm ấy cả ba chúng tôi say la đà. Rượu vào thì lời ra, chúng tôi ăn nói linh tinh, chẳng nhớ nói gì đến lúc sẩm tối. Ba tên chất nhau lên chiếc xích lô của người anh em chở về miễn phí. Hình như trong cảnh bần cùng tất cả mọi người đều hào phóng.
Tôi không ngờ sau buổi chiều ấy Hoàng Vĩnh Lộc bị tố, tôi bị vồ hụt ở nhà Minh Đăng Khánh Trong mẻ lưới ấy hầu hết văn nghệ sĩ chế độ cũ đều bị thu gom vào nhà đá, rồi đi các trại học tập cải tạo.
Tôi may phước biến được xuống Cà Mau làm cu li, vì ở Sài Gòn, tôi đã bị vợ đuổi ra khỏi nhà, lý do đơn giản vì vợ tôi là con nhà liệt sĩ, tôi không biết, trước kia nàng gá nghĩa vợ chồng với tôi là một sai lầm lớn, dù chúng tôi đã có hai mặt con chung. Tôi là đối tượng để căm thù, tôi mang biết bao nhiêu là xấu xa của một vở cải lương tố Ngụy rẻ tiền.
Công việc làm cu li của tôi ở Cà Mau lại không xuôi chèo mát mái. Bởi chủ tôi, ông chủ nhiệm Tổ Hợp Việt Nam Kỹ Thuật phạm một sai lầm lớn là mưu đồ vượt biên trốn đi nước ngoài. Ông không thoát, bị tó.
Tôi lại phải biến về Sài gòn. Về lại chốn này dĩ nhiên tôi tìm gặp lại anh em. Hoàng Vĩnh Lộc ra khỏi tù, một khoảng thời gian ở tù được coi là ngắn ngủi.
Tôi hỏi Lộc:
- Ông làm cách nào ra khỏi tù sớm vậy?
- Tớ học lập tốt nên sớm được về xum họp với gia đình. Vả lại tớ bị bệnh xuyễn kinh niên, thêm bệnh tim nữa nên rất dễ chết. Ông cụ thi sĩ Vũ Hoàng Chương được tha rồi. Khiêng được về nhà thì chết. Thằng bạn chúng ta là thằng nhà báo Sao Biển vẫn phải chạy chợ trời kiếm thuốc cho tớ trong đấy. Thuốc hay đáo để, cứ tọng vào họng một viên tớ chết rồi là sống lại liền.
- Này, ông được tha có giấy tờ chứ?
Hoàng Vĩnh Lộc móc lúi đưa tôi xem giấy tờ có một chữ ký đàng hoàng:
- Đây là giấy tạm tha, chỉ tạm tha thôi, lúc nào người ta muốn vồ lại thì cứ vồ. Trong đợt tha về với tớ đều là giấy tạm tha hết.
- Cụ Vũ Hoàng Chương được tạm tha rồi chết thì tính sao?
- Thì quịt nợ chứ sao nữa, có lẽ tớ cũng sẽ như vậy.
Tôi vỡ nhẽ ra.
Tôi lang thang chợ trời kiếm sống và tiếp tục lui tới nhà Hoàng Vĩnh Lộc chơi. Thời gian này, tài tử xi la ma hết thời Huy Cường cũng thường lui tới với anh. Huy Cường rất quí mến anh. Minh Đăng Khánh thì chưa ra khỏi tù. Hoàng Vĩnh Lộc thường xuyên lên cơn bệnh, vợ anh, chị Hồi Hương phải đưa anh vào bệnh viện Nguyễn văn Học (nay là bệnh viện Nhân Dân Gia Định). Anh cũng thường xuyên chết đi sống lại. Có lần anh đã bị đưa xuống nhà xác nhưng lại sống lại. Anh vẫn tếu như thường. Máu con nhà báo khiến tôi vốn dĩ tò mò, bây giờ lại tò mò đến chuyện khoa học huyền bí. Điêu gì tôi không biết, tôi hỏi cho biết:
- Này ông, ông có chết thật không đấy?
- Chết thật chứ giả sao được, tớ đã từng bị khiêng đi bỏ vào nhà xác rồi.
- Ông thấy thế nào khi chết?
- Nhẹ nhàng lắm, hệt như một giấc ngủ có mơ.
- Ông kể cho tôi nghe được không?.
Sao lại không được, lần nào tớ cũng thấy mình đi đến một bến đò, chỉ đến đấy thôi là tỉnh dậy, vì lý do gì đó, quên cái gì hay lỡ chuyến đò không chừng.
- Lần sống lại cuối cùng này thì sao?
- Cũng vậy thôi, khi tỉnh dậy tớ thấy mụ Hồi ngồi ngay cạnh tớ... Suýt nữa thì tớ la mụ ấy cản đường làm tớ lỡ chuyến đò. Tớ biết mình sống lại không hiểu có phải nhờ thuốc hay ông trời bắt tớ phải liếp tục sống để trả nợ đời. Cậu quên là tớ mới chỉ được tạm tha sao. Tớ còn nợ nhiều lắm, hình như chạy nợ không thoát. Không thể biết được chuyện bí mật của trời đất. Biết đâu chuyến sau tớ mới gặp chuyến tàu suốt để thoát nợ.
Hai mươi năm sau tôi còn nhớ rành rọt từng lời nói của Hoàng Vĩnh Lộc.
Cuối mùa mưa năm ấy tôi nghe tin Hoàng Vĩnh Lộc đi chuyến tàu suốt. Tôi đến nhà Hoàng Vĩnh Lộc trong lúc tang gia bối rối mà lòng vẫn nửa tin nửa ngờ.
Gặp Sao Biển ở đó, tôi hỏi:
- Anh ta chết thật chưa mà đã khâm liệm?
- Thật rồi, lần này anh ấy đi chuyến tàu suốt quên lấy vé khứ hồi. Hồi chiều tớ mới đi sắm được cái sơ mi gỗ cho anh ta. Gớm, người gì mà dài quá, cái chân anh ta hơi khèo một chút. Nhưng vẫn còn hơn chết bó chiếu.
Anh em bạn cũ còn nhớ đến anh lác đác đến. Tất cả đều khóc thương anh. Nổi bật nhất là Huy Cường, anh khóc gào thật tình không phải diễn xuất đóng phim:
- Anh Lộc ơi, sao anh bỏ anh em, anh không chờ em đi với, em cũng chán sống rồi. Tôi thường thấy Huy Cường khóc những lúc ngồi uống rượu một mình. Huy Cường uống rượu khan và uống như hũ chìm, không bao giờ dùng đồ mồi, dù chỉ một hạt đậu phong đưa cay. Một người nghiện rượu chân chính.
Một năm sau, khi tôi ở trong nhà tù, nhận được mảnh báo gói đồ thăm nuôi, có cáo phó đăng tin Huy Cường tử nạn, tức Vũ Minh Chính bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử. Tôi tự hỏi có phải ngày nào anh đã nói gở không?
Huyệt chôn Hoàng Vĩnh Lộc ngập nước mưa. Chuyến ra đi của anh thật ướt át. Tôi lại nhớ hình ảnh con anh ương nằm trong nón sắt vẫn gọi tên anh.
Hoàng Vĩnh Lộc đã trốn thoát nợ đời hơn hai chục năm qua. Biết bao vật đổi sao dời, không biết phần mộ của anh còn không? Vợ con anh đã xa biệt Việt Nam. ở tại Việt Nam, anh còn người thân nào? Tôi không biết. Nghĩa địa trong thành phố hoặc ven đô từng bị đào xới, di dời. Tôi thường nghe nói những phần mộ, những nắm xương tàn vô thừa nhận được xử lý có tình có lý. Tôi chỉ nghe nói như vậy. Ngày cuối năm, tôi muốn đến phần mộ Hoàng Vĩnh Lộc cắm cho anh nén nhang. Nhưng không biết anh nằm đâu, xương cốt anh giờ cũng phiêu linh.
Đêm khuya ngồi với bầy muối đói, tôi đốt một điếu thuốc Bastos, tưởng nhớ đến bạn xưa. Tôi nghĩ đến cái mũ sắt bị bỏ rơi trên chiến trường, bên bờ lau sậy, con ễnh ương cô đơn ngồi làm tổ không ngớt gọi tên anh.
Đêm nay trời mưa bão, tôi nhớ hai mươi mấy năm trước, Hoàng Vĩnh Lộc đã nằm xuống vào mùa mưa bão này. Tôi không còn thớ được chính xác ngày tháng anh em bạn bè nằm xuống như Minh Đăng Khánh, Dương Hùng Cường, Huy Cường và nhiều anh em khác nữa. Nhưng tôi nhớ đến họ và viết về họ để cốt nói lên cái chất của họ. Họ như còn sống mãi bên tôi, tiếng cười câu nói của họ vang mãi trong đầu tôi.
CHƯƠNG NĂM
Vẫn là những
người quen biết nằm xuống. Tôi biết tin thi sĩ Bùi Giáng mất qua một mẩu tin ngắn
trên báo. Dù là tin ngắn mà khá cảm động.
Bài báo nói sơ qua thân thế của Bùi Giáng, ông thọ 73 buổi, tuổi Đinh Dần. Người Sài Gòn ai cũng biết ông: ông điên, cái điên của ông có nhiều dạng, như thật, như giả, như cuồng chữ. Như tác giả bài báo đã nói. Ai cũng nói thế, chung chung là ông điên. Ông điên một mình, chẳng hại đến ai cả. Vì ông có thời gian để điên, để rong chơi với cái điên, cái tâm thần bất ổn của mình, có lần ông đã nói với tôi như vậy. Lần cuối cùng tôi gặp ông, không lâu lắm, thấy ông ngồi giữa đường Lê Quang Định thuộc quận Bình Thạnh (tỉnh Gia Định xưa). Phía trước ngõ vào chùa Già Lam, áng chừng ông tạm trú nơi đó.
Ông vốn là người từ xưa đến giờ chưa biết đến tờ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân là gì ông là người vô sản chân chính, chẳng thèm bon chen với đời. Điều không ai có thể chối cãi được ông là người trí thức, trí thức hơn nhiều người trí thức khác, ông là người bằng cấp đầy mình cũng được, không cũng chẳng sao. Ông đã từng dạy học, giáo sư Việt văn, cấp trung học và dậy cả đại học. Đại học Vạn Hạnh, thuở thầy Thích Minh Châu làm viện trưởng. Viết sách, dịch thuật làm thơ.
Thuở đó đã lâu lắm rồi, hồi nam 1952 ở Sài Gòn, tôi là học sinh trung học trường Kiến Thiết. Tôi là học trò của thầy Bùi Giáng. Giờ Việt văn, thầy thản nhiên đọc thơ tình, thơ của thầy Bài thơ nào đó ca tụng người vợ đã mất của thầy rồi thầy bỏ lên núi ít năm, núi gì đó ở Quảng Nam, quê hương của thầy.
Khi đó cuối cuộc chiến Việt Pháp, Việt Nam giành Độc Lập. Tình hình thành Phố Sài Gòn sôi động, học sinh các trường đều tham gia, biểu tình, phá rối. Nhiều thế lực chính trị lợi dụng lòng nhiệt tình của tầng lớp trẻ.
Có phá rối, chắc chắn là chính quyền cai trị thuở đó phải đàn áp. Sân trường Kiến Thiết hỗn loạn vì cả trung đội Công An Xung Phong, đội mũ bê rê xanh, Bình Xuyên, của tướng Bẩy Viễn xông vào đàn áp. Các lớp học không thể học được, thầy giáo và học sinh nào không tham dự thì đứng trên hành lang nhìn xuống. Máu tôi cũng sôi lên, tôi đứng cạnh thầy Bùi Giáng. Tôi hỏi thầy:
- Thầy nghĩ sao về bọn công an đàn áp học sinh?
Thầy Bùi Giáng cười, đôi mắt hấp háy sau cặp kính trắng:
- Em muốn tôi cho em một lời khuyên phải làm gì hả?
- Dạ thưa thầy, đúng vậy.
Thầy lại cười, nụ cười dễ chịu và lần này tôi nhìn thấy rõ hơn trên trán thầy có một vết sẹo nhỏ, tóc cắt ca rê, rất ngắn:
- Vậy thì thầy chẳng có lời khuyên nào cả vì thầy đứng ngoài những chuyện này, thầy dạy học, làm thơ và rong chơi bất cứ trong hoàn cảnh nào.
Đúng thế, thuở đó tại trường Kiến Thiết không thiếu gì các thầy đứng lên làm chính trị, không phe này cũng phái kia, nhân danh lòng yêu nước. Học sinh là đối lượng chính của các thầy dùng làm công cụ củng cố cho phe nhóm của mình. Truyền đơn truyền tay nhau rồi học sinh đi thả, đi dán trên tường đường phố. Học sinh bị bắt bớ, bị đánh hộc xì dầu, rồi bị bỏ tù. Bạn tôi, Trịnh Nhiên bị bắt bỏ tù trong tòa Bố Gia Định, nằm đếm lịch tới mùa hè nhìn hoa phượng nở đỏ rực ngoài song cửa tù mà buồn. Tôi nhớ mãi nụ cười hiền lành của thầy, đôi mắt kính trắng, vết sẹo trên trán và mái tóc cắt ngắt.
Năm 1954. Hiệp định Genève, đất nước chia đôi, cuộc di cư ào ạt. Một số bạn bè tôi ở miền Nam tập kết ra Bắc học và làm cách mạng. Tôi ở lại Sài Gòn và tiếp tục thấy thầy Bùi Giáng cho đến tận những ngày cuối cùng của đời thầy. Thấy và nghe nhiều về thầy và chứng điên loạn của thầy. Tôi chẳng biết nói thế nào về thầy cho đúng, mấy ai đã đủ tư cách nói về thi sĩ "điên" Bùi Giáng.
Nay thì trên đường phố Sài Gòn đã vắng bóng lang thang của thi sĩ điên Bùi Giáng. Có phải là một mất mát không, ở một thành phố tự hào có lịch sử 300 năm? Thi sĩ Bùi Giáng cũng là nhân vật của Sài Gòn đó, nói theo lối nói chuyện của cố học giả Vương Hồng Sến.
Một buổi chầu mùa thu ở Sài Gòn, trời cũng khá đẹp mặc dầu báo đài có thông báo cơn áp thấp nhiệt đới như mọi năm. Rồi tai ương đổ xuống. Nắng vàng ánh bạc trên kinh Nhiêu Lộc ở những căn nhà bị giải tỏa nham nhở hai bên bờ. Tôi qua cầu Công Lý xưa, đến chùa Vĩnh Nghiêm, xác của thi sĩ Bùi Giáng quàn ở Vãng Sinh Đường hay nhà Vĩnh Biệt cũng vậy. Ngay trên cửa vào trẹo một tấm "băng đờ rôn " màu đỏ khá lớn, chữ sơn trắng: Lễ truy điệu thi sĩ Bùi Giáng.
Tôi vào nhà rạp. Quan tài thi sĩ Bùi Giáng khá đẹp các sư đang tụng kinh. Khách khứa đến khá đông nhưng tôi thấy lạ hoặc, hoặc tôi kém cỏi ít giao tiếp nên không biết đến các vị ấy, những thi văn nghệ sĩ đương thời, những sao bắc đẩu núi thái sơn, họ lia chia ghi ghi chép chép vào sổ lưu niệm. Tôi thấy cả những bài thơ khóc Bùi Giáng. Tôi tự thấy mình chẳng là cái thá gì mà bon chen ghi sổ. Kìa có hai vị đang ca tụng nhau lời lời châu ngọc. Tôi có điều suy nghĩ về chuyện này, về cả con người của Bùi Giáng. Tấm hình thi sĩ phóng thật to, có nét tiên phong đạo cốt lẩm, nhưng gầy guộc hom hem. Thơ ông đề bên dưới:
Hỏi rằng ông ớ quê đâu
Thưa rằng người ở rất lâu quê nhà
Bên trong, chỗ để quan tài, nơi các nhà sư đang tụng niệm, tôi thấy có người mặc quần áo tang, nhưng tôi không rõ là bà con thế nào với thi sĩ Bùi Giáng. Bên ngoài, tít tận trên cao có hàng chữ đề lớn, viết tháu, kiểu thư họa: "Chúng rồi đã bỏ quên anh "
Một thông báo khác bên cạnh nhắc nhở những người anh em văn nghệ tối hôm ấy đến họp mặt, thơ văn tự do không giới hạn. Tôi dắt xe đạp ra khỏi Vãng Sinh Đường chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi quên cả cắm nhang cho ông, tôi cảm thấy lạc lõng.
Trong cái xôn xao của buổi chiều Sài Gòn, tôi còn như thấy bóng hình của thầy Bùi Giáng tưng tưng giữa đời. Trên người thầy đeo đủ thứ quái dị, nhưng mỗi thứ là một biểu tượng đấy tôi suy ra thế.
Người ta nói thầy Bùi Giáng điên, thời thượng thì người ta nói thầy bị bệnh tâm thần, khi điên khi tỉnh, khi thật khi giả. Người bình dân khố rách áo ôm, có dịp gần gũi thầy thì bảo rằng thầy "khùng-điên-ba trợn". Cổ người nói thầy có bệnh cuồng.
Tôi đi theo dòng người, miên man nghĩ về thầy Ngày mai người ta mang xác thấy đi chôn ở Gò Dưa Thủ Đức. Tôi không biết vị Mạnh Thường Quân nào bỏ tiền ra làm đám ma cho thầy. Thời buổi này chết cũng mắc mỏ lắm. Hai mươi triệu đồng Việt Nam cho một đám ma là chuyện thường.
Tôi nghĩ hoài về câu thương tiếc chúng tôi đã bô quên anh. Ai nói câu đó thế?
Nói về những cơn điên loạn của thầy Bùi Giáng thì nhiều lắm. Tôi nghe kể lại về thầy cũng có mà chứng kiến cũng có. Tất cả đều trở thành giai thoại. Có thật và có giả, hay người đời thêm mắm thêm muối ra cũng nên. Nhưng chẳng có giai thoại nào có hại cho thanh danh tư cách của thầy, một người điên hòa nhập với đời sống mà lại là đứng ngoài cuộc đời, sống với đời mà không dính dáng gì cả, bao nhiêu năm qua rồi mà như kẻ bàng quan. Ông thi sĩ điên chứ không phải thằng điên.
Không ai rõ thầy khùng liên từ bao giờ. Những dấu hiệu cho thấy nhưng đôi khi vẫn bị coi là thầy giả vờ, để thi vị hóa cuộc đời mình, mà có lời giải thích nào đâu. Ông thi sĩ Bùi Giáng vẫn rong chơi, vẫn tưng tưng giữa đời bất cứ qua chế độ nào.
Thi sĩ thì phải có cuộc đời tình ái, người ta không biết, do chính thầy "làm" ra hay thầy thấy sao nói vậy. Thuở tôi còn học thầy, tôi nghe thầy đọc bài thơ dài lê thê ca tụng người vợ thầy đã khuất bóng, khi đó thầy còn rất trẻ. Một ngày vào những năm 1963, thi sĩ Viên Linh, bạn tôi nói rằng anh mới đèo xe đạp chở thi sĩ Bùi Giáng đi thăm người tình. Cô ta là ai, Viên Linh không biết, nhưng có chở thầy đến tận nhà cô ta ở Cống Bà Xếp, đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám). Thi sĩ Bùi Giáng rất trang trọng trong cuộc đi thăm này. Trước khi đi, ông mặc gần một chục chiếc sơ mi chồng lên nhau, áo sạch giặt ủi đàng hoàng. Ra khỏi cửa ông lột chiếc sơ mi đầu tiên ném xuống đường, hối Viên Linh đi, rồi lần lượt ném gần hết áo, tới trước nhà người yêu ông cởi đến chiếc kế chót, còn lại chiếc chót ông mới bước vào nhà người yêu. Một lúc sau ông trở ra hí hửng. Viên Linh hỏi ông:
- Sao ông mặc nhiều áo thế rồi cứ cởi ra vứt đi vậy?
Tau phải làm thế, đến với người yêu thì phải trong sạch từ tâm hồn đến thể xác. Những chiếc áo bận đi đường bị nhuốm bụi hồng trần, tau đến với nàng phải là chiếc áo tinh khiết nhất như tâm hồn tau vậy...
Nhà văn Cung Tích Biền, người đồng hương với Bùi Giáng kể rằng: Thầy Bùi Giáng được một trường trung học ở Mỹ Tho mời dạy. Trong lớp học, thầy liên miên giảng truyện Kiều. Thầy say sưa giảng dạy, ca tụng nàng Kiều, tự cảm động về số phận nàng, thầy đau xót, thầy bật khóc tu tu trước mặt học trò, đến đỗi thày phải ra sân trường leo lên cây ngồi khóc cho hả cơn thương xót. Rồi thầy bỏ trường đi biến. Hiệu trưởng, học trò nháo lên đi tìm thầy, họ tìm thấy thầy ở Sài Gòn. Hỏi thầy sao bỏ dạy học? Thầy trả lời rất đơn giản là thầy không dậy được vì khi giảng về nàng Kiều thầy xúc động quá, yêu nàng quá, có thế thôi.
Khoảng 1967-68, thuở thịnh thời của nhật báo Sống, do nhà văn Chu Tử làm chủ nhiệm, độc giả rất thú vị và say mê mục Ao Thả Vịt của Chu Tử. Độc giả cười nghiêng ngửa khi ATV loan tin rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu say đắm kỳ nữ Kim Cương. Ông yêu đến đỗi phải làm thơ gọi Kim Cương là Mẫu thân. Kỳ nữ Kim Cương cũng phải chới với qua tình yêu mãnh liệt, kỳ quái của thi sĩ Bùi Giáng. Khối tình đó bền bỉ trong Bùi Giáng, có lẽ đến lúc ông nằm xuống. Giã từ cuộc đời rong chơi của ông.
Một thời gian sau tôi thấy thầy Bùi Giáng ở đại học Vạn Hạnh của Phật giáo. Tôi không nhớ thầy có dạy ở đó không, nhưng các thầy rất nể vì sở học của Bùi Giáng.
Thi sĩ Bùi Giáng có một phòng riêng tại viện đại học này. Thầy chuyên ăn khoai lang luộc, những củ khoai mốc xanh mốc đỏ, và thầy có lý luận riêng khi ăn những củ khoai lên men ấy. Cái áo của thầy có rất nhiều túi, mỗi cái túi đựng một chó con, thầy chơi với chúng. Tối, nhiều khi thầy bỏ phòng trong viện đại học ra sạp chợ nằm ngủ với bầy chó con.
Thuở đó nhiều người nói thầy điên rồi, kể cả những bài thơ của thầy cũng kỳ quái, dù rất có duyên, đầy ấp chất Bùi Giáng, điên điên mà phóng khoáng. Khi đó Bùi Giáng làm rất nhiều thơ kể cả dịch thơ của một số thi sĩ nước ngoài. Văn thì dịch Hoàng Tử Bé (Le petit prince) của Saint Exupery. Ông in nhiều tập thơ. Nghe đâu tiền tài trợ in thơ do bác sĩ Bùi Kiện Tín, vị bác sĩ nổi danh bào chế ra dầu gió Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín bán chạy trên toàn quốc. Ông bác sĩ này nghe đâu là anh họ của Bùi Giáng.
Sau năm 1975, Sài Gòn kẻ ở người đi, tôi là kẻ sót lại nên gặp lại thầy Bùi Giáng. Thời gian này thầy có vẻ điên dữ. Trong khi đó Sài Gòn sau cơn biến loạn có nhiều người điên, các dạng điên khác nhau.
Bùi Giáng cũng điên, nhưng là cái điên có phong cách riêng của thầy. Tôi muốn nói hình như cái điên của thầy vẫn là nói lên một điều gì ẩn ức. Tất cả những cơn điên của thầy đều là những biểu tượng, mang một ý nghĩa nào đó chỉ có mình thầy biết.
Dân Sài Gòn cũ ùa ra đường kiếm sống, quán cà phê, chợ trời mọc lên khắp nơi để tự cứu mình thuở gạo châu củi quế". Sĩ quan, ngụy quân, ngụy quyền lên đường đi học tập cải tạo, đời sống khó khăn cả vật chất lẫn linh thần. Người ta nói con người đang sống lùi lại thời đồ đá ăn lông ở lỗ.
Thi sĩ Bùi Giáng là dân thành phố, ông sống lang thang và có vẻ điên hơn. Tôi cũng bắt chước mọi người khác kiếm sống, mở một quán cà phê nhỏ ở lề đường, dưới một gốc cây nhìn ra hồ Con Rùa, phía trước Viện Đại Học Sài Gòn. ở đây tôi gặp lại nhiều anh cai cũ, thăm hỏi nhau, ai còn ai mất, ai đi ai ở.
Tôi hỏi về Bùi Giáng, anh em nói ông vẫn còn đó. Vẫn sống như không có chuyện gì xảy ra. Ông đang ở nhờ một ngôi chùa ở đường Lạc Long Quân. Để khỏi làm phiền đến sư cụ trụ trì về vấn đề cư trú ông ra ngoài vườn chùa đào một cái lỗ chui lọt người vào nằm. Ông nói ông đang ăn lông ở lỗ.
Không biết chuyện ấy có thật hay anh em nói chơi, nhưng tôi cứ ghi lại.
Tôi quan tâm đến thầy, tôi thấy chuyện có chất của Bùi Giáng, nên cũng không hỏi lại. Ban ngày Bùi Giáng đi lang thang, ăn mặc rách rưới, làm trò cười cho mọi người để đỡ buồn. Một hôm ông ghé qua quán tôi, gần trần như nhộng, tóc tai bù xù. Cặp kính trắng vẫn ngạo nghễ trên mắt. Ông nói "tau " đang ăn lông ở lỗ.
Có hôm gặp ông ngoài đường. Ông mặc quân phục chế độ cũ, lon lá huy chương đầy mình. Mọi người sợ hết hồn, vì thời gian ấy các sĩ quan chế độ cũ phải lên đường đi học tập cải tạo kẻ nào trốn cũng khó thoát khỏi lưới tình báo nhân dân". Kể cả những anh trước kia đeo lon giả để lòe gái hay trốn lính cũng bị tố cáo. Có anh nằm trong trại tù làm cả chục lá đơn minh oan vẫn chưa được phóng thích. Ông thi sĩ Bùi Giáng lại đâm đầu vào chuyện oan nghiệt ấy, không hề sợ hãi, phom phom nhận mình là sĩ quan quân đội chế độ cũ, sĩ quan cao cấp kia, từng "có nợ máu với nhân dân", bây giờ "ngã ngựa" rồi xin được đi học tập cải tạo để được trở thành người tốt đủ tư cách xây dựng đất nước đẹp bằng mười ngày xưa. Ông lang thang khắp các chợ trời, trên người đeo lỉnh kỉnh đủ các thứ đồ.
Có hôm ông đeo cả mấy chục cái lon đồ hộp trên người. Ông nói ông là người có nhiều "lon" nhất trên đời vậy mà ông vẫn yên ổn. Có hôm ông vào chợ cá Trần Quốc Toán, khi ấy trở thành chợ xe đạp. Ông "thó" một cái ghi đông xe cũ rích, rồi bỏ đi, người ta la lên ông ăn cắp. Ông trả lại liền, càu nhàu:
- Mẹ lụi bay, bị mất tất cả mà phải câm, tau chỉ ăn cắp cái ghi đông mà la rầm trời, có kẻ đang ăn cắp đấy... làm gì nó nào?
Ai mà chấp một người điên, khi biết người đó là thi sĩ Bùi Giáng. Hình ảnh Bùi Giáng trở thành quá quen thuộc với thị dân kể cả những người mới giữ gìn trật tự trong thành phố này. Thời gian này, Bùi Giáng dở chứng nói bậy và nói tục kinh khủng, mà có ai làm gì đâu. Kéo dài cả chục năm hơn, Bùi Giáng vẫn sống nhăn. Ông hiện hữu trong cái bái nháo của đời sống, trong sự chuyển mình của đất nước. Nghe nói ông vẫn làm thơ, chẳng phải để đăng báo, in sách, ông cóc cần điều đó. Những bài thơ ông ghi vội trên một tờ giấy nhàu nát, hoặc một bao thuốc lá.
Uống chén rượu, ăn tô phở ông điên, ông tỉnh, ông làm trò, chẳng một ai đụng đến ông. Tôi biết rõ một điều là ai cũng quí mến và chiều chuộng ông. Ông vẫn chung thủy với mối tình đơn phương dành cho kỳ nữ Kim Cương như thuở nào. Có hôm ông ngất ngưởng ngồi xe xích lô đến tận nhà thăm nàng. Ông sơn móng chân móng tay, đánh phấn thoa son cẩn thận. Gọi cửa nàng không ra, ông lấy đá chọi rầm rầm vào nhà. Nàng phải xuất hiện để ông thấy mặt và ông nói vài lời rồi ông ra đi, chỉ có thế thôi, cũng trữ tình ra phết.
Có một thời Hãng phim Giải Phóng ở thành phố, mời ông đóng phim, làm tài tử "xi la ma". Báo Điện ảnh có đăng tin và in hình ảnh ông. Tôi không biết ông đóng phim gì, nhưng ông có lãnh "cát sê" cẩn thận. Hôm ấy, ông ngồi xích lô đi từ xưởng phim đến đường Bà Huyện Thanh Quan, rải tiền đầy đường, trẻ con, người lớn chạy theo xe ông lượm tiền như một đám rước Bùi Giáng.
Bùi Giáng dừng lại sạp báo của nhà báo Nguyễn Kinh Châu hồi trước. Ông đề vội mấy câu thơ tặng bạn rồi lại ra đi phát nốt số tiền còn lại. Ông tới Hội Văn Nghệ thành phố uống bia say la đà.
Thời mở cửa, kinh tế thị trường mà sao tôi vấn khổ quá vì vấn đề cơm áo.
Gặp thầy Bùi Giáng, khi đó thầy có vẻ tỉnh táo. Tôi tâm sự với thầy về hoàn cảnh của mình, văn chương là nghề chính mà ế ẩm, bút phải gác lên mái lều, làm nghề lao động chân tay để nuôi vợ con, sức khỏe ngày một suy yếu. nghèo rớt mồng tơi. Tôi thật tình muốn điên, muốn tâm thần để kệ mẹ đời.
Tôi hỏi thầy vì thầy có kinh nghiệm điên:
- Em muốn điên thầy ạ!
Thái độ vừa bình ĩlnh vừa chậm rãi:
- Mày muốn điên thật hả?
- Dạ thật!
- Mày chưa đủ tư cách làm người điên vì mày mắc míu nhiều quá. Mày không có thì giờ để điên, lâu mới có thì giờ điên. Tau chửi mày là đồ ngu chứ không chửi mày là đồ điên.
Sau đó thầy Bùi Giáng "xuất chiêu " làm một loạt động tác điên, tôi thất kinh và thấy lời thầy dạy có lý quá. Nếu tôi điên thì "trật giuộc" hết trơn.
Đã nhiều năm tôi tự nguyện xa lánh các cuộc vui tụ tập ăn uống hay đàn ca hát xướng. Ngoài chuyện lo kiếm ăn tự nuôi sống mình và gia đình, tôi ở tịt nhà với vợ con, tôi không đi đến đâu và cũng chẳng gặp gỡ ai. Tôi sợ những chuyện thị phi nơi gió tanh mưa máu. Phải chăng tôi tự cô lập mình? Hay hoàn cảnh bắt buộc như thế?
Tôi không dự đám tang thầy Bùi Giáng sáng ngày hôm sau, nên không biết có bao nhiêu người đưa tiễn thầy?
Người ta không bỏ quên thầy, thế là mãn nguyện lắm rồi. Câu này dành cho những người sống hơn là người chết.
Thi sĩ Bùi Giáng là một con người ngạo mạn với đời. Ông chăng cần lưu danh vì một câu an ủi. Một cuộc đời với hơn năm mươi tác phẩm biên khảo, dịch thuật và hơn mười tập thơ Đó là một gia tài không nhỏ ông để lại cho đời.
Bài báo nói sơ qua thân thế của Bùi Giáng, ông thọ 73 buổi, tuổi Đinh Dần. Người Sài Gòn ai cũng biết ông: ông điên, cái điên của ông có nhiều dạng, như thật, như giả, như cuồng chữ. Như tác giả bài báo đã nói. Ai cũng nói thế, chung chung là ông điên. Ông điên một mình, chẳng hại đến ai cả. Vì ông có thời gian để điên, để rong chơi với cái điên, cái tâm thần bất ổn của mình, có lần ông đã nói với tôi như vậy. Lần cuối cùng tôi gặp ông, không lâu lắm, thấy ông ngồi giữa đường Lê Quang Định thuộc quận Bình Thạnh (tỉnh Gia Định xưa). Phía trước ngõ vào chùa Già Lam, áng chừng ông tạm trú nơi đó.
Ông vốn là người từ xưa đến giờ chưa biết đến tờ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân là gì ông là người vô sản chân chính, chẳng thèm bon chen với đời. Điều không ai có thể chối cãi được ông là người trí thức, trí thức hơn nhiều người trí thức khác, ông là người bằng cấp đầy mình cũng được, không cũng chẳng sao. Ông đã từng dạy học, giáo sư Việt văn, cấp trung học và dậy cả đại học. Đại học Vạn Hạnh, thuở thầy Thích Minh Châu làm viện trưởng. Viết sách, dịch thuật làm thơ.
Thuở đó đã lâu lắm rồi, hồi nam 1952 ở Sài Gòn, tôi là học sinh trung học trường Kiến Thiết. Tôi là học trò của thầy Bùi Giáng. Giờ Việt văn, thầy thản nhiên đọc thơ tình, thơ của thầy Bài thơ nào đó ca tụng người vợ đã mất của thầy rồi thầy bỏ lên núi ít năm, núi gì đó ở Quảng Nam, quê hương của thầy.
Khi đó cuối cuộc chiến Việt Pháp, Việt Nam giành Độc Lập. Tình hình thành Phố Sài Gòn sôi động, học sinh các trường đều tham gia, biểu tình, phá rối. Nhiều thế lực chính trị lợi dụng lòng nhiệt tình của tầng lớp trẻ.
Có phá rối, chắc chắn là chính quyền cai trị thuở đó phải đàn áp. Sân trường Kiến Thiết hỗn loạn vì cả trung đội Công An Xung Phong, đội mũ bê rê xanh, Bình Xuyên, của tướng Bẩy Viễn xông vào đàn áp. Các lớp học không thể học được, thầy giáo và học sinh nào không tham dự thì đứng trên hành lang nhìn xuống. Máu tôi cũng sôi lên, tôi đứng cạnh thầy Bùi Giáng. Tôi hỏi thầy:
- Thầy nghĩ sao về bọn công an đàn áp học sinh?
Thầy Bùi Giáng cười, đôi mắt hấp háy sau cặp kính trắng:
- Em muốn tôi cho em một lời khuyên phải làm gì hả?
- Dạ thưa thầy, đúng vậy.
Thầy lại cười, nụ cười dễ chịu và lần này tôi nhìn thấy rõ hơn trên trán thầy có một vết sẹo nhỏ, tóc cắt ca rê, rất ngắn:
- Vậy thì thầy chẳng có lời khuyên nào cả vì thầy đứng ngoài những chuyện này, thầy dạy học, làm thơ và rong chơi bất cứ trong hoàn cảnh nào.
Đúng thế, thuở đó tại trường Kiến Thiết không thiếu gì các thầy đứng lên làm chính trị, không phe này cũng phái kia, nhân danh lòng yêu nước. Học sinh là đối lượng chính của các thầy dùng làm công cụ củng cố cho phe nhóm của mình. Truyền đơn truyền tay nhau rồi học sinh đi thả, đi dán trên tường đường phố. Học sinh bị bắt bớ, bị đánh hộc xì dầu, rồi bị bỏ tù. Bạn tôi, Trịnh Nhiên bị bắt bỏ tù trong tòa Bố Gia Định, nằm đếm lịch tới mùa hè nhìn hoa phượng nở đỏ rực ngoài song cửa tù mà buồn. Tôi nhớ mãi nụ cười hiền lành của thầy, đôi mắt kính trắng, vết sẹo trên trán và mái tóc cắt ngắt.
Năm 1954. Hiệp định Genève, đất nước chia đôi, cuộc di cư ào ạt. Một số bạn bè tôi ở miền Nam tập kết ra Bắc học và làm cách mạng. Tôi ở lại Sài Gòn và tiếp tục thấy thầy Bùi Giáng cho đến tận những ngày cuối cùng của đời thầy. Thấy và nghe nhiều về thầy và chứng điên loạn của thầy. Tôi chẳng biết nói thế nào về thầy cho đúng, mấy ai đã đủ tư cách nói về thi sĩ "điên" Bùi Giáng.
Nay thì trên đường phố Sài Gòn đã vắng bóng lang thang của thi sĩ điên Bùi Giáng. Có phải là một mất mát không, ở một thành phố tự hào có lịch sử 300 năm? Thi sĩ Bùi Giáng cũng là nhân vật của Sài Gòn đó, nói theo lối nói chuyện của cố học giả Vương Hồng Sến.
Một buổi chầu mùa thu ở Sài Gòn, trời cũng khá đẹp mặc dầu báo đài có thông báo cơn áp thấp nhiệt đới như mọi năm. Rồi tai ương đổ xuống. Nắng vàng ánh bạc trên kinh Nhiêu Lộc ở những căn nhà bị giải tỏa nham nhở hai bên bờ. Tôi qua cầu Công Lý xưa, đến chùa Vĩnh Nghiêm, xác của thi sĩ Bùi Giáng quàn ở Vãng Sinh Đường hay nhà Vĩnh Biệt cũng vậy. Ngay trên cửa vào trẹo một tấm "băng đờ rôn " màu đỏ khá lớn, chữ sơn trắng: Lễ truy điệu thi sĩ Bùi Giáng.
Tôi vào nhà rạp. Quan tài thi sĩ Bùi Giáng khá đẹp các sư đang tụng kinh. Khách khứa đến khá đông nhưng tôi thấy lạ hoặc, hoặc tôi kém cỏi ít giao tiếp nên không biết đến các vị ấy, những thi văn nghệ sĩ đương thời, những sao bắc đẩu núi thái sơn, họ lia chia ghi ghi chép chép vào sổ lưu niệm. Tôi thấy cả những bài thơ khóc Bùi Giáng. Tôi tự thấy mình chẳng là cái thá gì mà bon chen ghi sổ. Kìa có hai vị đang ca tụng nhau lời lời châu ngọc. Tôi có điều suy nghĩ về chuyện này, về cả con người của Bùi Giáng. Tấm hình thi sĩ phóng thật to, có nét tiên phong đạo cốt lẩm, nhưng gầy guộc hom hem. Thơ ông đề bên dưới:
Hỏi rằng ông ớ quê đâu
Thưa rằng người ở rất lâu quê nhà
Bên trong, chỗ để quan tài, nơi các nhà sư đang tụng niệm, tôi thấy có người mặc quần áo tang, nhưng tôi không rõ là bà con thế nào với thi sĩ Bùi Giáng. Bên ngoài, tít tận trên cao có hàng chữ đề lớn, viết tháu, kiểu thư họa: "Chúng rồi đã bỏ quên anh "
Một thông báo khác bên cạnh nhắc nhở những người anh em văn nghệ tối hôm ấy đến họp mặt, thơ văn tự do không giới hạn. Tôi dắt xe đạp ra khỏi Vãng Sinh Đường chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi quên cả cắm nhang cho ông, tôi cảm thấy lạc lõng.
Trong cái xôn xao của buổi chiều Sài Gòn, tôi còn như thấy bóng hình của thầy Bùi Giáng tưng tưng giữa đời. Trên người thầy đeo đủ thứ quái dị, nhưng mỗi thứ là một biểu tượng đấy tôi suy ra thế.
Người ta nói thầy Bùi Giáng điên, thời thượng thì người ta nói thầy bị bệnh tâm thần, khi điên khi tỉnh, khi thật khi giả. Người bình dân khố rách áo ôm, có dịp gần gũi thầy thì bảo rằng thầy "khùng-điên-ba trợn". Cổ người nói thầy có bệnh cuồng.
Tôi đi theo dòng người, miên man nghĩ về thầy Ngày mai người ta mang xác thấy đi chôn ở Gò Dưa Thủ Đức. Tôi không biết vị Mạnh Thường Quân nào bỏ tiền ra làm đám ma cho thầy. Thời buổi này chết cũng mắc mỏ lắm. Hai mươi triệu đồng Việt Nam cho một đám ma là chuyện thường.
Tôi nghĩ hoài về câu thương tiếc chúng tôi đã bô quên anh. Ai nói câu đó thế?
Nói về những cơn điên loạn của thầy Bùi Giáng thì nhiều lắm. Tôi nghe kể lại về thầy cũng có mà chứng kiến cũng có. Tất cả đều trở thành giai thoại. Có thật và có giả, hay người đời thêm mắm thêm muối ra cũng nên. Nhưng chẳng có giai thoại nào có hại cho thanh danh tư cách của thầy, một người điên hòa nhập với đời sống mà lại là đứng ngoài cuộc đời, sống với đời mà không dính dáng gì cả, bao nhiêu năm qua rồi mà như kẻ bàng quan. Ông thi sĩ điên chứ không phải thằng điên.
Không ai rõ thầy khùng liên từ bao giờ. Những dấu hiệu cho thấy nhưng đôi khi vẫn bị coi là thầy giả vờ, để thi vị hóa cuộc đời mình, mà có lời giải thích nào đâu. Ông thi sĩ Bùi Giáng vẫn rong chơi, vẫn tưng tưng giữa đời bất cứ qua chế độ nào.
Thi sĩ thì phải có cuộc đời tình ái, người ta không biết, do chính thầy "làm" ra hay thầy thấy sao nói vậy. Thuở tôi còn học thầy, tôi nghe thầy đọc bài thơ dài lê thê ca tụng người vợ thầy đã khuất bóng, khi đó thầy còn rất trẻ. Một ngày vào những năm 1963, thi sĩ Viên Linh, bạn tôi nói rằng anh mới đèo xe đạp chở thi sĩ Bùi Giáng đi thăm người tình. Cô ta là ai, Viên Linh không biết, nhưng có chở thầy đến tận nhà cô ta ở Cống Bà Xếp, đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám). Thi sĩ Bùi Giáng rất trang trọng trong cuộc đi thăm này. Trước khi đi, ông mặc gần một chục chiếc sơ mi chồng lên nhau, áo sạch giặt ủi đàng hoàng. Ra khỏi cửa ông lột chiếc sơ mi đầu tiên ném xuống đường, hối Viên Linh đi, rồi lần lượt ném gần hết áo, tới trước nhà người yêu ông cởi đến chiếc kế chót, còn lại chiếc chót ông mới bước vào nhà người yêu. Một lúc sau ông trở ra hí hửng. Viên Linh hỏi ông:
- Sao ông mặc nhiều áo thế rồi cứ cởi ra vứt đi vậy?
Tau phải làm thế, đến với người yêu thì phải trong sạch từ tâm hồn đến thể xác. Những chiếc áo bận đi đường bị nhuốm bụi hồng trần, tau đến với nàng phải là chiếc áo tinh khiết nhất như tâm hồn tau vậy...
Nhà văn Cung Tích Biền, người đồng hương với Bùi Giáng kể rằng: Thầy Bùi Giáng được một trường trung học ở Mỹ Tho mời dạy. Trong lớp học, thầy liên miên giảng truyện Kiều. Thầy say sưa giảng dạy, ca tụng nàng Kiều, tự cảm động về số phận nàng, thầy đau xót, thầy bật khóc tu tu trước mặt học trò, đến đỗi thày phải ra sân trường leo lên cây ngồi khóc cho hả cơn thương xót. Rồi thầy bỏ trường đi biến. Hiệu trưởng, học trò nháo lên đi tìm thầy, họ tìm thấy thầy ở Sài Gòn. Hỏi thầy sao bỏ dạy học? Thầy trả lời rất đơn giản là thầy không dậy được vì khi giảng về nàng Kiều thầy xúc động quá, yêu nàng quá, có thế thôi.
Khoảng 1967-68, thuở thịnh thời của nhật báo Sống, do nhà văn Chu Tử làm chủ nhiệm, độc giả rất thú vị và say mê mục Ao Thả Vịt của Chu Tử. Độc giả cười nghiêng ngửa khi ATV loan tin rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu say đắm kỳ nữ Kim Cương. Ông yêu đến đỗi phải làm thơ gọi Kim Cương là Mẫu thân. Kỳ nữ Kim Cương cũng phải chới với qua tình yêu mãnh liệt, kỳ quái của thi sĩ Bùi Giáng. Khối tình đó bền bỉ trong Bùi Giáng, có lẽ đến lúc ông nằm xuống. Giã từ cuộc đời rong chơi của ông.
Một thời gian sau tôi thấy thầy Bùi Giáng ở đại học Vạn Hạnh của Phật giáo. Tôi không nhớ thầy có dạy ở đó không, nhưng các thầy rất nể vì sở học của Bùi Giáng.
Thi sĩ Bùi Giáng có một phòng riêng tại viện đại học này. Thầy chuyên ăn khoai lang luộc, những củ khoai mốc xanh mốc đỏ, và thầy có lý luận riêng khi ăn những củ khoai lên men ấy. Cái áo của thầy có rất nhiều túi, mỗi cái túi đựng một chó con, thầy chơi với chúng. Tối, nhiều khi thầy bỏ phòng trong viện đại học ra sạp chợ nằm ngủ với bầy chó con.
Thuở đó nhiều người nói thầy điên rồi, kể cả những bài thơ của thầy cũng kỳ quái, dù rất có duyên, đầy ấp chất Bùi Giáng, điên điên mà phóng khoáng. Khi đó Bùi Giáng làm rất nhiều thơ kể cả dịch thơ của một số thi sĩ nước ngoài. Văn thì dịch Hoàng Tử Bé (Le petit prince) của Saint Exupery. Ông in nhiều tập thơ. Nghe đâu tiền tài trợ in thơ do bác sĩ Bùi Kiện Tín, vị bác sĩ nổi danh bào chế ra dầu gió Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín bán chạy trên toàn quốc. Ông bác sĩ này nghe đâu là anh họ của Bùi Giáng.
Sau năm 1975, Sài Gòn kẻ ở người đi, tôi là kẻ sót lại nên gặp lại thầy Bùi Giáng. Thời gian này thầy có vẻ điên dữ. Trong khi đó Sài Gòn sau cơn biến loạn có nhiều người điên, các dạng điên khác nhau.
Bùi Giáng cũng điên, nhưng là cái điên có phong cách riêng của thầy. Tôi muốn nói hình như cái điên của thầy vẫn là nói lên một điều gì ẩn ức. Tất cả những cơn điên của thầy đều là những biểu tượng, mang một ý nghĩa nào đó chỉ có mình thầy biết.
Dân Sài Gòn cũ ùa ra đường kiếm sống, quán cà phê, chợ trời mọc lên khắp nơi để tự cứu mình thuở gạo châu củi quế". Sĩ quan, ngụy quân, ngụy quyền lên đường đi học tập cải tạo, đời sống khó khăn cả vật chất lẫn linh thần. Người ta nói con người đang sống lùi lại thời đồ đá ăn lông ở lỗ.
Thi sĩ Bùi Giáng là dân thành phố, ông sống lang thang và có vẻ điên hơn. Tôi cũng bắt chước mọi người khác kiếm sống, mở một quán cà phê nhỏ ở lề đường, dưới một gốc cây nhìn ra hồ Con Rùa, phía trước Viện Đại Học Sài Gòn. ở đây tôi gặp lại nhiều anh cai cũ, thăm hỏi nhau, ai còn ai mất, ai đi ai ở.
Tôi hỏi về Bùi Giáng, anh em nói ông vẫn còn đó. Vẫn sống như không có chuyện gì xảy ra. Ông đang ở nhờ một ngôi chùa ở đường Lạc Long Quân. Để khỏi làm phiền đến sư cụ trụ trì về vấn đề cư trú ông ra ngoài vườn chùa đào một cái lỗ chui lọt người vào nằm. Ông nói ông đang ăn lông ở lỗ.
Không biết chuyện ấy có thật hay anh em nói chơi, nhưng tôi cứ ghi lại.
Tôi quan tâm đến thầy, tôi thấy chuyện có chất của Bùi Giáng, nên cũng không hỏi lại. Ban ngày Bùi Giáng đi lang thang, ăn mặc rách rưới, làm trò cười cho mọi người để đỡ buồn. Một hôm ông ghé qua quán tôi, gần trần như nhộng, tóc tai bù xù. Cặp kính trắng vẫn ngạo nghễ trên mắt. Ông nói "tau " đang ăn lông ở lỗ.
Có hôm gặp ông ngoài đường. Ông mặc quân phục chế độ cũ, lon lá huy chương đầy mình. Mọi người sợ hết hồn, vì thời gian ấy các sĩ quan chế độ cũ phải lên đường đi học tập cải tạo kẻ nào trốn cũng khó thoát khỏi lưới tình báo nhân dân". Kể cả những anh trước kia đeo lon giả để lòe gái hay trốn lính cũng bị tố cáo. Có anh nằm trong trại tù làm cả chục lá đơn minh oan vẫn chưa được phóng thích. Ông thi sĩ Bùi Giáng lại đâm đầu vào chuyện oan nghiệt ấy, không hề sợ hãi, phom phom nhận mình là sĩ quan quân đội chế độ cũ, sĩ quan cao cấp kia, từng "có nợ máu với nhân dân", bây giờ "ngã ngựa" rồi xin được đi học tập cải tạo để được trở thành người tốt đủ tư cách xây dựng đất nước đẹp bằng mười ngày xưa. Ông lang thang khắp các chợ trời, trên người đeo lỉnh kỉnh đủ các thứ đồ.
Có hôm ông đeo cả mấy chục cái lon đồ hộp trên người. Ông nói ông là người có nhiều "lon" nhất trên đời vậy mà ông vẫn yên ổn. Có hôm ông vào chợ cá Trần Quốc Toán, khi ấy trở thành chợ xe đạp. Ông "thó" một cái ghi đông xe cũ rích, rồi bỏ đi, người ta la lên ông ăn cắp. Ông trả lại liền, càu nhàu:
- Mẹ lụi bay, bị mất tất cả mà phải câm, tau chỉ ăn cắp cái ghi đông mà la rầm trời, có kẻ đang ăn cắp đấy... làm gì nó nào?
Ai mà chấp một người điên, khi biết người đó là thi sĩ Bùi Giáng. Hình ảnh Bùi Giáng trở thành quá quen thuộc với thị dân kể cả những người mới giữ gìn trật tự trong thành phố này. Thời gian này, Bùi Giáng dở chứng nói bậy và nói tục kinh khủng, mà có ai làm gì đâu. Kéo dài cả chục năm hơn, Bùi Giáng vẫn sống nhăn. Ông hiện hữu trong cái bái nháo của đời sống, trong sự chuyển mình của đất nước. Nghe nói ông vẫn làm thơ, chẳng phải để đăng báo, in sách, ông cóc cần điều đó. Những bài thơ ông ghi vội trên một tờ giấy nhàu nát, hoặc một bao thuốc lá.
Uống chén rượu, ăn tô phở ông điên, ông tỉnh, ông làm trò, chẳng một ai đụng đến ông. Tôi biết rõ một điều là ai cũng quí mến và chiều chuộng ông. Ông vẫn chung thủy với mối tình đơn phương dành cho kỳ nữ Kim Cương như thuở nào. Có hôm ông ngất ngưởng ngồi xe xích lô đến tận nhà thăm nàng. Ông sơn móng chân móng tay, đánh phấn thoa son cẩn thận. Gọi cửa nàng không ra, ông lấy đá chọi rầm rầm vào nhà. Nàng phải xuất hiện để ông thấy mặt và ông nói vài lời rồi ông ra đi, chỉ có thế thôi, cũng trữ tình ra phết.
Có một thời Hãng phim Giải Phóng ở thành phố, mời ông đóng phim, làm tài tử "xi la ma". Báo Điện ảnh có đăng tin và in hình ảnh ông. Tôi không biết ông đóng phim gì, nhưng ông có lãnh "cát sê" cẩn thận. Hôm ấy, ông ngồi xích lô đi từ xưởng phim đến đường Bà Huyện Thanh Quan, rải tiền đầy đường, trẻ con, người lớn chạy theo xe ông lượm tiền như một đám rước Bùi Giáng.
Bùi Giáng dừng lại sạp báo của nhà báo Nguyễn Kinh Châu hồi trước. Ông đề vội mấy câu thơ tặng bạn rồi lại ra đi phát nốt số tiền còn lại. Ông tới Hội Văn Nghệ thành phố uống bia say la đà.
Thời mở cửa, kinh tế thị trường mà sao tôi vấn khổ quá vì vấn đề cơm áo.
Gặp thầy Bùi Giáng, khi đó thầy có vẻ tỉnh táo. Tôi tâm sự với thầy về hoàn cảnh của mình, văn chương là nghề chính mà ế ẩm, bút phải gác lên mái lều, làm nghề lao động chân tay để nuôi vợ con, sức khỏe ngày một suy yếu. nghèo rớt mồng tơi. Tôi thật tình muốn điên, muốn tâm thần để kệ mẹ đời.
Tôi hỏi thầy vì thầy có kinh nghiệm điên:
- Em muốn điên thầy ạ!
Thái độ vừa bình ĩlnh vừa chậm rãi:
- Mày muốn điên thật hả?
- Dạ thật!
- Mày chưa đủ tư cách làm người điên vì mày mắc míu nhiều quá. Mày không có thì giờ để điên, lâu mới có thì giờ điên. Tau chửi mày là đồ ngu chứ không chửi mày là đồ điên.
Sau đó thầy Bùi Giáng "xuất chiêu " làm một loạt động tác điên, tôi thất kinh và thấy lời thầy dạy có lý quá. Nếu tôi điên thì "trật giuộc" hết trơn.
Đã nhiều năm tôi tự nguyện xa lánh các cuộc vui tụ tập ăn uống hay đàn ca hát xướng. Ngoài chuyện lo kiếm ăn tự nuôi sống mình và gia đình, tôi ở tịt nhà với vợ con, tôi không đi đến đâu và cũng chẳng gặp gỡ ai. Tôi sợ những chuyện thị phi nơi gió tanh mưa máu. Phải chăng tôi tự cô lập mình? Hay hoàn cảnh bắt buộc như thế?
Tôi không dự đám tang thầy Bùi Giáng sáng ngày hôm sau, nên không biết có bao nhiêu người đưa tiễn thầy?
Người ta không bỏ quên thầy, thế là mãn nguyện lắm rồi. Câu này dành cho những người sống hơn là người chết.
Thi sĩ Bùi Giáng là một con người ngạo mạn với đời. Ông chăng cần lưu danh vì một câu an ủi. Một cuộc đời với hơn năm mươi tác phẩm biên khảo, dịch thuật và hơn mười tập thơ Đó là một gia tài không nhỏ ông để lại cho đời.
CHƯƠNG SÁU
Viết hồi
ký, viết hoài về chuyện chết chóc, sự khốn khổ của kiếp người, chính người viết
cũng thấy nản. Nhưng làm sao được, vì chính những người nằm xuống đó là chỗ
thân tình của tác giả, anh em, bạn bè, hoặc là người mà tác giả ngưỡng mộ, một
nhà văn, một nhà báo, một thi sĩ nào đó. Tôi nghĩ cũng là chuyện thường thôi,
không oán trời oán đất gì hết, hay đổ lỗi cho ai. Con người ta chẳng qua có một
số mạng, trời cho sướng thì được sướng, trời bắt khổ thì phải khổ mà thôi. Như
một lần nhà văn Lê Xuyên nói với tôi.
Đời sống tiêu cực chăng? Tôi không biết nữa. Nói chung chung đời sống chúng ta như bị cấy sinh tử phù, dở sống dở chết. Thôi cũng được. Người ta già mà chết, tai nạn mà chết, hoặc khổ quá mà chết thì cũng là chết vậy. Tôi không muốn nói đến chuyện chết chóc nữa. Bây giờ già rồi, có thì giờ thì dạo chơi, đi thăm bạn bè mà không lốt sao, chúc cho nhau câu sống lâu trăm tuổi. Còn khối người bạn vẫn sống đó, hoặc thành công, hoặc thất bại, hoặc ngất ngư, bị dính "sinh tử phù".
Những người bạn thành công trên đường đời hãy khoan, tôi chưa đi thăm vội, tôi đi thăm những người bạn ngất ngư trước đã.
Hình như tôi cũng có nhiều thì giờ, tôi thuộc về loại đàn ông bây giờ vô tích sự, ăn bám vợ con, tự nhiên thích rong chơi, thăm anh bạn này, anh bạn kia đau ốm, hoặc có chuyện khốn khổ chi đó.
Sau cơn bão, áp thấp nhiệt đới số 4 và số 5, trời lại đẹp. Buổi sáng ở thành phố Sài Gòn, không khí trở nên trong lành, se se lạnh như trời thu Hà Nội. Tôi, nhà báo hết thời, làm báo từ khi còn in báo từ máy in ty po bỗng thấy ngứa nghề, nhớ nhung vẩn vơ và thích chạy rong. Tôi có thể ngồi nhà, trên căn gác bút mà gặm nhấm kỷ niệm, dĩ vãng coi như lùi vào quên lãng cho đỡ buồn. Mà sao cẳng tôi như cuồng lên, nhớ nhung gì đâu không. Muốn ngồi quán cà phê lúc trời tảng sáng, muốn ngửi mùi giấy thơm mực in của những tờ báo mới được nhả ra từ máy in, cái không khí âm âm của tòa soạn, tiếng máy đánh chữ lách tách. Hoặc được phóng chạy như một phóng viên đi nhặt tin giờ chót, làm phóng sự: vẫn còn một cột tin giờ chót để cho anh đấy trước khi báo lên máy". Lời anh tổng thư ký tòa soạn như còn vẳng bên tai tôi.
Đã gần ba chục năm nay mà sao tôi thấy gần gũi như mới nghe sáng nay. Ôi nhớ nhung vô vàn. Tôi yêu nghề, nâng niu nghề nghiệp của mình đến trọn đời. Vậy sao nay tôi lại gác bút đến hai mươi mấy năm trời, như một số anh em khác. Do lý do tế nhị khó nói ra nên ai hiểu sao cũng được. Nhưng những dự định viết cái gì đó trong đầu người cầm bút vẫn còn đó, mãi mãi như một nỗi bất hạnh dai dẳng... Tôi đã thấy điều đó từ nhiều năm qua.
Sau cơn áp thấp nhiệt đới trời đẹp, tôi lại ngứa nghề, muốn lên đường để nhìn ngó lung tung, muốn đi trở lại những con đường mà trước đây tôi từng in dấu chân thuở viết văn làm báo, thăm lại một số bạn bè xưa.
Thế là tôi rời căn gác bút, ra đường tròn chiếc xe đạp cũ rích, cà là làng đi trên các nẻo đường, từng quen thuộc mà nay hơi xa lạ đấy. Thành phố thanh bình như khi tôi còn hành nghề phóng viên, bên ngoài thành phố khi đó vẫn ì ầm tiếng súng, chiến tranh khắp mọi nơi, thành phố khi ấy chỉ là phồn hoa giả tạo.
Hôm nay thành phố vẫn đẹp, vẫn văn minh mà dân quê vẫn hứng chịu mọi bất công, thối nát, đói nghèo. Nạn nhân chính của thiên tai lũ lụt trên đồng bằng sông Cửu Long, miền trung đất cầy lên sỏi đá. Thành phố chỉ có một bộ mặt thanh bình, văn minh, nhưng mặt trái của nó thì khác. Xe hơi, xe gắn máy đời mới chạy nườm nượp trên đường. Tôi chóng mặt, nhảy xuống khỏi xe đạp dẫn bộ, nhưng mà sao cứ vẫn chệnh choạng. Tiếng xe hơi thắng kít sau lưng tôi, tôi nhìn, một thanh niên trẻ lái ô tô con thò cổ ra cửa, ngoạc mồm chửi:
- Địt mẹ thằng già, chán sống rồi hả?
Tôi ghét mặt ra, anh ta chỉ đáng tuổi con tôi mà phát ngôn được một câu độc chiêu như vậy. Tôi ngỡ ngàng đến không kịp phản ứng, chiếc xe hơi bóng loáng phóng vút đi bỏ lại một nắm khói xộc thẳng vào mũi tôi, chạy xuyên suốt lên óc. Có lẽ cậu bé thuộc loại con ông cháu cha, hoặc giả là ông bé mà làm lớn, loại này ở đây thì nhiều lắm. Tôi, dân đen, thấp cổ bé miệng chịu đựng xử sự của những người thuộc loại đó nhiều năm và quen rồi.
Tôi nở nụ cười ngu ngơ đứng xem một đoàn du khách nước ngoài "tham quan" Sài Gòn 300 năm, thành phố Hồ Chí Minh. ở những con dường chính, tôi đã "tham quan" coi như hết rồi. Tôi đã đi qua nhiều, xưa kia là tòa báo tôi đã làm việc. Bây giờ thì tôi đi thăm ai đây?
Tôi dừng lại ở đầu đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) và đường Nguyễn Trung Trực. Tại nơi này nhìn qua thư viện Quốc Gia, đại học Văn Khoa hồi xưa, có một kiosque bán cà phê, nhìn sang bên kia đường là tòa báo Đại Dân Tộc, phía góc đường Thủ Khoa Huân, Gia Long là báo Sống. Nói tóm lại có rất nhiều tòa báo trên quãng đường ấy. Ký giả, phóng viên, nhà văn sáng sáng ngồi đầy các quán cà phê lề đường, tất cả đều quen nhau, thân thiết đến độ xộc thẳng vào đời tư của nhau, nên tình nghĩa bạn bè cũng rộn rã. Sau năm 1975, ngày đứt phim", báo chí thuộc chế độ cũ dẹp tiệm, ký giả nhà văn có người đi mất, người còn sót lại lêu bêu. Tôi ở trong số đó. Buồn quá đi thôi, bỗng dưng tôi phải buông bút (mới chỉ buông chứ chưa gác), vẫn còn nghĩ mình dùng được ngòi bút để phục vụ độc giả. Sau vài lần "vỡ mặt" mới sáng mắt ra. Nơi tôi đứng là một lề đường rộng, cái kiosque sơn màu xám xỉn cũ kỹ nay đã biến mất. Nơi đó tôi từng ngồi, thân thiết chủ quán đến độ có thể ghi sổ nợ từng ly cà phê, điếu thuốc thơm trợ hứng cho lúc viết bài hay trang feuilleton đăng trên nhật báo. Chẳng phải riêng mình tôi mà nhiều anh em đồng nghiệp cũng thế. Sau ngày đứt phim tôi còn thấy lai rai vài người. Họ vớt vát cái gì, hay chờ đợi như ngày anh em tụ lại với nhau khi báo được lệnh đóng cửa, hình ảnh nhà văn Lê Xuyên, anh cai quen đùa gọi là chú Tư Cầu, tên tác phẩm nổi tiếng của anh viết về đồng quê Nam Bộ, dĩ nhiên là có những mối tình quê mùa mà không kém đam mê, tiêu biểu là nhân vật chú Tư Cầu. Trước ngày miền Nam bại trận, Lê Xuyên là tổng thư ký báo Sài Gòn Mai rồi Đại Dân Tộc, anh có cái nhạy cảm của người làm báo cùng với sự sâu sắc của người viết văn. Anh đã có cả lô tiểu thuyết ấn hành, tôi không nhớ hết. Nhà văn Lê Xuyên hay nhà báo Lê Xuyên cũng được. Nhưng anh em gọi anh là chú Tư Cầu cho thêm phần thân mật. Nhưng hình ảnh của nhà văn Lê Xuyên gây ấn tượng nhất cho tôi là sau ngày chế độ Sài Gòn bại trận, tôi vẫn còn thấy anh ngồi ở quán cà phê đó vào những buổi sáng kế tiếp. Mắt nhìn lên tòa soạn xưa buồn rười rượi, y nguyên như ngồi uống cà phê chờ anh chen ty po xuống báo cáo đã đủ khuôn, xin lệnh chạy máy, hay cần lấp một lỗ hổng. Bây giờ không còn gì nữa, không vắng lặng mà có cái xôn xao của cờ quạt, biểu ngữ khẩu hiệu và các trẻ thơ nối vòng tay lớn nhảy múa như cuồng ở góc đường, góc công viên.
Lê Xuyên vẫn cái áo sơ mi bỏ ngoài quần Tây, cái mũ phở giản dị, đôi dép. Tôi chưa bao giờ thấy ở anh một sự "se sủa " thời trang nào. Con người anh rất giản dị, cái giản dị của người miệt quê Nam bộ, nên gọi anh là chú Tư Cầu cũng rất đúng, không từ nào chính xác bằng. Tôi đã ngồi đó nói chuyện với Lê Xuyên, tôi không nhớ mình nói gì, anh nói gì. Sau đó các văn nghệ sĩ nhà văn nhà báo chúng tôi hầu hết bị vồ đi học tập cải tạo, Lê Xuyên đương nhiên có mặt trong đám học viên" đó. Anh về sớm, tôi lại gặp anh đạp xe trên những nẻo đường đi bán bánh tiêu bánh bò, rồi anh mở quầy bán thuốc lá lẻ ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn gần nhà anh. Tôi ngồi sửa xe đạp ở góc đường Nguyễn Kim gần đó, nên thỉnh thoảng tại qua gặp nhau. Đã lâu rồi, đến hai ba năm tôi không có dịp ghé qua anh. Sáng nay tại sao tôi không ghé, lần sau cùng gặp anh coi bộ anh yếu lắm. Khi đó anh nói với tôi anh tròn 70 tuổi. Đường về Chợ Lớn đối với tôi bây giờ xa vời vợi, nhưng phải đi chứ. Thăm một người bạn sau nhiều năm giam mình ở ấp Đông Ba cũng là một điều hay.
Kia kìa, chú Tư Cầu còn đó, sau cái quầy bán thuốc lá cũ rích, con người anh cũng cũ rích, gầy guộc và đầy chất Nam bộ chân chất. Cái mũ bánh tiêu rúm ró chụp trên đầu, cái sơ mi mỏng lét mòn cả vai, cái quần Tây màu nâu ống cao ống thấp, đôi dép không rõ bằng vật liệu gì nữa. Mặt anh gầy rộc, xanh mét. Tôi gọi anh:
- Chú Tư Cầu!
Anh nhìn tôi một giây xong mới hỏi:
- Có phải Trâu Nước không?
- Chính tớ mà sao ông gầy thực, có khỏe không?
Ông cũng chẳng hơn gì tôi, tôi suy yếu toàn diện rồi, 72 tuổi, hai mươi năm ngồi bán thuốc lá lẻ ở lề đường, trên góc đường này còn gì. Cám ơn, ông mò đến tôi mới nhớ mình là Lê Xuyên, chú Tư Cầu...
Niềm hãnh diện còn lại của một kiếp người cầm bút Niềm xót xa của một nhà văn đã từng có một thời vang bóng. Nay anh ngồi đây trong sự lãng quên, hai mươi năm ngồi ở một góc đường. Trước mặt, bên kia đường có cái đình tên Vĩnh Viễn, bên cạnh đình có một căn nhà có bảng đề BCH phường đội 8 ".
Tôi nói với anh tôi mới đi thăm thành phố Sài Gòn về, tức là thuộc khu vực quận 1 quận 3. Anh nói:
- Tớ 15 năm nay không lên đến thành phố Sài Gòn, chẳng biết bây giờ nó ra sao nữa? To cao lắm, đúng là chốn phồn hoa đô hội, cũng đã lâu lắm tớ không tới đó, giống như gã nhà quê ra tỉnh...
- Chúng ta giống nhau.
Nhìn cái quầy thuốc lá cũ rích, long đinh, tróc sơln thấp tè lè của Lê Xuyên, tôi lại lo lắng cho anh trong trận mưa chiều ngày 9 tháng 1 1 vừa qua nhiều con đường ngập lụt, hàng hóa chợ Bình Tây bị nước úng hư hỏng thiệt hại bạc tỉ. Lê Xuyên cũng chỉ cười.
Anh cố ép tôi hút một điếu thuốc Con Mèo. Trong câu chuyện của anh, tôi rút ra được có một câu: Tớ suy sụp toàn diện rồi ". Tôi cũng được biết hoàn cảnh gia đình anh, bà vợ bị mắc bệnh hiểm nghèo từ mấy năm nay, một đứa con gái của anh đã chết vì ung thư bỏ lại hai đứa con và cái quầy thuốc lá này cho anh, anh là ông ngoại của chúng. Tôi hỏi về sự học của hai đứa cháu mồ côi, anh có vẻ ngạc nhiên. Qua câu nói của anh, tôi biết anh không đủ sức nuôi hai cháu ăn học. Một quầy bán thuốc lá lá như vầy ở đầu đường kiếm chác được bao nhiêu, nuôi bao nhiêu miệng ăn, đã thế lại phải lo thuốc thang cho người bệnh. Tôi cũng đang mệt nhọc vì còn ba đứa con đi học nên rất đồng cảm với anh.
Xoay sang chuyện văn học nghệ thuật, Lê Xuyên than phiền với tôi rằng anh mới đọc một bài báo nói về các tác giả làm văn học Việt Nam từ năm chục năm trở lại đây, những nhà văn nhà thơ ở miền Nam đã từng cầm bút và có danh không được nhắc đến một ai, nghĩa là bị gạt ra ngoài lề. Tôi nói có biết đến quyển từ điển văn học ấy.
Báo Kiến Thức Ngày Nay số 297 trang 186, mục "Ai sao? " có một độc giả tên Lê Minh (Khánh Hòa) hỏi: Vì sao các nhà văn Võ Hồng, Sơn Nam, Nguyễn văn Xuân, Kiên Giang, Bình Nguyên Lộc không có tên trong Từ Điển Văn Học do nhà xuân bản Khoa học Xã Hội in năm 1983- 84? Người tòa soạn có tên là Phan Hoàng trả lời: Chúng tôi thiết nghĩ ông nên gởi thẳng câu hỏi này về Ban Biên Tập Từ Điển Văn Học là NXB- KHXH. Tin rằng ông sẽ nhận được hồi âm cho thắc mắc mà dường như tất cả những người yêu thích lăn chương đều quan tâm. Chúng tôi chỉ xin lưu ý bên cạnh những nhà văn trên đây, còn rất nhiều tên tuổi văn học đáng kính khác cũng không hề được nhắc đến, dù chỉ cái tên, trong bộ từ điển tầm cỡ quốc gia này. Chẳng hạn, các bậc tiền bối thời tiền chiến: Hoàng Đạo, Đinh Hùng, Nguyễn Vỹ, Phạm Hầu, Đoàn Phú Tứ, Bằng Bá Lân... cho đến những nhà văn nhà thơ góp phần đáng kể vào diện mạo văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua: Lý văn Sâm, Dương Tư Giang, Vũ Anh Khanh, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng..
Những nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ tầm cỡ như thế còn chưa được ngồi sau porte bagage đèo xe đạp vào Văn Học Sử nữa là...
Đừng nói là người ta thiếu sót trong việc biên soạn, vì ban biên tập toàn là người có đầu óc, có văn hóa được đào luyện. Sỏi đá xôn xao. Chúng tôi cười xòa, cũng xong cả thôi. Quan tâm làm đếch gì đến chuyện đó.
Bạn bè lâu ngày gặp nhau không cà kê dê ngỗng, thì cũng dây cà ra dây muống. Tôi hỏi anh về việc cư trú, anh nói anh chưa có hộ khẩu đương nhiên không thể có chứng minh nhân dân, chẳng có giấy lờ mẹ gì cho biết anh là một con người sống trong chế độ.
- Ông có xin nhập hộ khẩu sau khi đi học tập cải tạo về không?
- Có chứ sao không, xin nhiều lần rồi mà người ta không cho, đôi khi còn bị mắng mỏ khi xin giấy lờ, nên đành ì ra, bị phạt thì chịu thôi, chán rồi người ta cũng nản.
Đến lúc ấy tôi mới thấy Lê Xuyên xì ra chuyện sống chết.
- Tớ cũng nghĩ về những trường hợp của những người chết chui.
Tôi ở dưới chế độ này lâu năm nên hiểu rất rõ từ "chui" là gì, từ này được nhập cảng vào miền Nam sau năm 1975. Chui có nghĩa là lậu, buôn chui, bán chui, phở chui. Những thứ không được công nhận. Chết chui thì thảm lắm, thảm còn hơn phở chui lèo tèo mấy miếng, nước lèo thì nhạt thếch nhạt thác đựng trong bình thủy, bát phở không hành ngò. Nói theo kiểu thời thượng là "phở không người lái ".
Thi sĩ Bùi Giáng chết, cũng ở dạng chết chui, nhưng vì ăn ở có đức nên được chôn cất đàng hoàng. Lại được người đời vớt cho được một câu: chúng tôi đã bỏ quên anh." Dù rằng với cách sống của ông thì ông cóc cần. Khoác thêm cho cái xác lạnh tanh ấy một sơ mi gỗ hay đội lên đầu thêm vòng nguyệt quế nữa thì nhằm nhỏ gì.
Thuở còn ăn mắm mút dòi, gạo châu củi quế người dân khoái xài đồ chui hơn là đồ quốc doanh. Vì, muốn ăn một bát phở quốc doanh phải xếp hàng cả buổi, nhân viên phụ trách khâu bưng phở mặt vác lên như ba cái thớt chồng lên nhau, dằn tô phở trước người mua phiếu như ra ơn ban phát, bố thí, phở đồng loạt là phở chín, khách hàng không nên đòi chín nạm gầu hoặc xin thêm nước béo hành trần lôi thôi, chẳng ngon lành gì hơn phở chui.
Người ta thèm nụ cười cầu tài của anh bán phở chui, lấy chuyện đó làm hài lòng nên cũng ấm cái bụng. Chứ không treo bảng "khách hàng là thượng đế" như bây giờ.
Nhìn sang bên kia đường tôi thấy một sạp báo. Báo chí đủ các thể loại phục vụ độc giả, sắc màu rực rỡ, hấp dẫn, in ấn đẹp bằng mười ngày xưa hơn thuở tôi còn xách bút chạy rong nhiều. Sự tiến bộ trong ngành báo chí trông thấy ngay trước mắt. Tôi nói với Lê Xuyên:
- Có một dạo tôi tính mở một sạp báo bán cho đỡ buồn, nhưng rồi lại thôi, dù có mượn được vốn.
-Tại sao vậy?
Tôi lắc đầu:
- Sau những ngày thực lập nghề bán báo, tôi bỗng cảm thấy buồn, vì ngày nào cũng đụng đến báo chí tự nhiên mình thấy nhớ nhung gì đâu không, cái dĩ vãng làm báo lội nghiệp của tôi ám ảnh tôi quá nhiều.
Lê Xuyên vốn là tổng thư ký của nhiều nhật báo gật gật đầu:
- ờ, ông nói có lý đấy, chúng ta không thể hành nghề bán báo được, sẽ buồn lắm không như nghề bán thuốc lá lẻ của tôi.
Có một người khách ghé mua một gói thuốc lào. Bây giờ tôi mới biết anh còn bán cả thuốc lào đượm khói dân tộc nữa, nhặt nhạnh từng cắc một, quả là con người lương thiện từ đầu đến chân.
Chia tay chú Tư Cầu vì trời đã muộn. Gặp anh tôi không thể không nhớ đến nhan đề một truyện dài của anh là Gió đưa trăng. Sau này tôi biết anh lấy từ câu hò trữ tình trên sông nước Cửu Long. Câu hò như thế này: Gió đưa trăng, trăng đưa gió, trăng lặn rồi gió biết đưa ai?...
Tôi như nghe thấy tiếng ca trữ lình vút lên thinh không, man mác trên sông nước Cửu Long, đồng bằng lúa gạo Nam bộ. Tính chất Nam bộ trải dài trong tác phẩm của anh và ở ngay chính con người anh. Trăng lặn rồi gió biết đưa ai? Có phải một câu than thở không? Tôi lẩn thẩn mãi với câu hỏi ấy trong đầu. Tôi nghĩ đến hát ru Nam bộ mà Lê Xuyên đặt tên cho tác phẩm của mình, có một câu bỏ lửng.
Tôi về đến nhà ở ấp Đông Ba xưa vào buổi trưa, mở truyền hình lên coi. Tôi nhận được tin cơn bão số 6 đang trên đường đổ vào bờ biển Việt Nam. Sao mà khổ thế nhỉ, bao nhiêu là tai ương. Người ta kêu gọi nhân dân chống bão lụt. Tôi nghĩ hoài về nhà văn Lê Xuyên. Mưa ập xuống ngập đường như sông. Trên con đường Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ nước ngập đến bụng, liệu Lê Xuyên có khiêng nổi xe thuốc đội lên vai lên đầu để tránh ướt không, bảo vệ cái vốn liếng nhỏ bé, duy nhất của gia đình anh trên đôi vai còm cõi.
Tôi lo lắng, thương xót bạn, thầm cầu xin sự an lành đến với anh. Năm hết tết đến rồi. Anh từng nói từ lâu rồi anh không có mùa xuân.
Đời sống tiêu cực chăng? Tôi không biết nữa. Nói chung chung đời sống chúng ta như bị cấy sinh tử phù, dở sống dở chết. Thôi cũng được. Người ta già mà chết, tai nạn mà chết, hoặc khổ quá mà chết thì cũng là chết vậy. Tôi không muốn nói đến chuyện chết chóc nữa. Bây giờ già rồi, có thì giờ thì dạo chơi, đi thăm bạn bè mà không lốt sao, chúc cho nhau câu sống lâu trăm tuổi. Còn khối người bạn vẫn sống đó, hoặc thành công, hoặc thất bại, hoặc ngất ngư, bị dính "sinh tử phù".
Những người bạn thành công trên đường đời hãy khoan, tôi chưa đi thăm vội, tôi đi thăm những người bạn ngất ngư trước đã.
Hình như tôi cũng có nhiều thì giờ, tôi thuộc về loại đàn ông bây giờ vô tích sự, ăn bám vợ con, tự nhiên thích rong chơi, thăm anh bạn này, anh bạn kia đau ốm, hoặc có chuyện khốn khổ chi đó.
Sau cơn bão, áp thấp nhiệt đới số 4 và số 5, trời lại đẹp. Buổi sáng ở thành phố Sài Gòn, không khí trở nên trong lành, se se lạnh như trời thu Hà Nội. Tôi, nhà báo hết thời, làm báo từ khi còn in báo từ máy in ty po bỗng thấy ngứa nghề, nhớ nhung vẩn vơ và thích chạy rong. Tôi có thể ngồi nhà, trên căn gác bút mà gặm nhấm kỷ niệm, dĩ vãng coi như lùi vào quên lãng cho đỡ buồn. Mà sao cẳng tôi như cuồng lên, nhớ nhung gì đâu không. Muốn ngồi quán cà phê lúc trời tảng sáng, muốn ngửi mùi giấy thơm mực in của những tờ báo mới được nhả ra từ máy in, cái không khí âm âm của tòa soạn, tiếng máy đánh chữ lách tách. Hoặc được phóng chạy như một phóng viên đi nhặt tin giờ chót, làm phóng sự: vẫn còn một cột tin giờ chót để cho anh đấy trước khi báo lên máy". Lời anh tổng thư ký tòa soạn như còn vẳng bên tai tôi.
Đã gần ba chục năm nay mà sao tôi thấy gần gũi như mới nghe sáng nay. Ôi nhớ nhung vô vàn. Tôi yêu nghề, nâng niu nghề nghiệp của mình đến trọn đời. Vậy sao nay tôi lại gác bút đến hai mươi mấy năm trời, như một số anh em khác. Do lý do tế nhị khó nói ra nên ai hiểu sao cũng được. Nhưng những dự định viết cái gì đó trong đầu người cầm bút vẫn còn đó, mãi mãi như một nỗi bất hạnh dai dẳng... Tôi đã thấy điều đó từ nhiều năm qua.
Sau cơn áp thấp nhiệt đới trời đẹp, tôi lại ngứa nghề, muốn lên đường để nhìn ngó lung tung, muốn đi trở lại những con đường mà trước đây tôi từng in dấu chân thuở viết văn làm báo, thăm lại một số bạn bè xưa.
Thế là tôi rời căn gác bút, ra đường tròn chiếc xe đạp cũ rích, cà là làng đi trên các nẻo đường, từng quen thuộc mà nay hơi xa lạ đấy. Thành phố thanh bình như khi tôi còn hành nghề phóng viên, bên ngoài thành phố khi đó vẫn ì ầm tiếng súng, chiến tranh khắp mọi nơi, thành phố khi ấy chỉ là phồn hoa giả tạo.
Hôm nay thành phố vẫn đẹp, vẫn văn minh mà dân quê vẫn hứng chịu mọi bất công, thối nát, đói nghèo. Nạn nhân chính của thiên tai lũ lụt trên đồng bằng sông Cửu Long, miền trung đất cầy lên sỏi đá. Thành phố chỉ có một bộ mặt thanh bình, văn minh, nhưng mặt trái của nó thì khác. Xe hơi, xe gắn máy đời mới chạy nườm nượp trên đường. Tôi chóng mặt, nhảy xuống khỏi xe đạp dẫn bộ, nhưng mà sao cứ vẫn chệnh choạng. Tiếng xe hơi thắng kít sau lưng tôi, tôi nhìn, một thanh niên trẻ lái ô tô con thò cổ ra cửa, ngoạc mồm chửi:
- Địt mẹ thằng già, chán sống rồi hả?
Tôi ghét mặt ra, anh ta chỉ đáng tuổi con tôi mà phát ngôn được một câu độc chiêu như vậy. Tôi ngỡ ngàng đến không kịp phản ứng, chiếc xe hơi bóng loáng phóng vút đi bỏ lại một nắm khói xộc thẳng vào mũi tôi, chạy xuyên suốt lên óc. Có lẽ cậu bé thuộc loại con ông cháu cha, hoặc giả là ông bé mà làm lớn, loại này ở đây thì nhiều lắm. Tôi, dân đen, thấp cổ bé miệng chịu đựng xử sự của những người thuộc loại đó nhiều năm và quen rồi.
Tôi nở nụ cười ngu ngơ đứng xem một đoàn du khách nước ngoài "tham quan" Sài Gòn 300 năm, thành phố Hồ Chí Minh. ở những con dường chính, tôi đã "tham quan" coi như hết rồi. Tôi đã đi qua nhiều, xưa kia là tòa báo tôi đã làm việc. Bây giờ thì tôi đi thăm ai đây?
Tôi dừng lại ở đầu đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) và đường Nguyễn Trung Trực. Tại nơi này nhìn qua thư viện Quốc Gia, đại học Văn Khoa hồi xưa, có một kiosque bán cà phê, nhìn sang bên kia đường là tòa báo Đại Dân Tộc, phía góc đường Thủ Khoa Huân, Gia Long là báo Sống. Nói tóm lại có rất nhiều tòa báo trên quãng đường ấy. Ký giả, phóng viên, nhà văn sáng sáng ngồi đầy các quán cà phê lề đường, tất cả đều quen nhau, thân thiết đến độ xộc thẳng vào đời tư của nhau, nên tình nghĩa bạn bè cũng rộn rã. Sau năm 1975, ngày đứt phim", báo chí thuộc chế độ cũ dẹp tiệm, ký giả nhà văn có người đi mất, người còn sót lại lêu bêu. Tôi ở trong số đó. Buồn quá đi thôi, bỗng dưng tôi phải buông bút (mới chỉ buông chứ chưa gác), vẫn còn nghĩ mình dùng được ngòi bút để phục vụ độc giả. Sau vài lần "vỡ mặt" mới sáng mắt ra. Nơi tôi đứng là một lề đường rộng, cái kiosque sơn màu xám xỉn cũ kỹ nay đã biến mất. Nơi đó tôi từng ngồi, thân thiết chủ quán đến độ có thể ghi sổ nợ từng ly cà phê, điếu thuốc thơm trợ hứng cho lúc viết bài hay trang feuilleton đăng trên nhật báo. Chẳng phải riêng mình tôi mà nhiều anh em đồng nghiệp cũng thế. Sau ngày đứt phim tôi còn thấy lai rai vài người. Họ vớt vát cái gì, hay chờ đợi như ngày anh em tụ lại với nhau khi báo được lệnh đóng cửa, hình ảnh nhà văn Lê Xuyên, anh cai quen đùa gọi là chú Tư Cầu, tên tác phẩm nổi tiếng của anh viết về đồng quê Nam Bộ, dĩ nhiên là có những mối tình quê mùa mà không kém đam mê, tiêu biểu là nhân vật chú Tư Cầu. Trước ngày miền Nam bại trận, Lê Xuyên là tổng thư ký báo Sài Gòn Mai rồi Đại Dân Tộc, anh có cái nhạy cảm của người làm báo cùng với sự sâu sắc của người viết văn. Anh đã có cả lô tiểu thuyết ấn hành, tôi không nhớ hết. Nhà văn Lê Xuyên hay nhà báo Lê Xuyên cũng được. Nhưng anh em gọi anh là chú Tư Cầu cho thêm phần thân mật. Nhưng hình ảnh của nhà văn Lê Xuyên gây ấn tượng nhất cho tôi là sau ngày chế độ Sài Gòn bại trận, tôi vẫn còn thấy anh ngồi ở quán cà phê đó vào những buổi sáng kế tiếp. Mắt nhìn lên tòa soạn xưa buồn rười rượi, y nguyên như ngồi uống cà phê chờ anh chen ty po xuống báo cáo đã đủ khuôn, xin lệnh chạy máy, hay cần lấp một lỗ hổng. Bây giờ không còn gì nữa, không vắng lặng mà có cái xôn xao của cờ quạt, biểu ngữ khẩu hiệu và các trẻ thơ nối vòng tay lớn nhảy múa như cuồng ở góc đường, góc công viên.
Lê Xuyên vẫn cái áo sơ mi bỏ ngoài quần Tây, cái mũ phở giản dị, đôi dép. Tôi chưa bao giờ thấy ở anh một sự "se sủa " thời trang nào. Con người anh rất giản dị, cái giản dị của người miệt quê Nam bộ, nên gọi anh là chú Tư Cầu cũng rất đúng, không từ nào chính xác bằng. Tôi đã ngồi đó nói chuyện với Lê Xuyên, tôi không nhớ mình nói gì, anh nói gì. Sau đó các văn nghệ sĩ nhà văn nhà báo chúng tôi hầu hết bị vồ đi học tập cải tạo, Lê Xuyên đương nhiên có mặt trong đám học viên" đó. Anh về sớm, tôi lại gặp anh đạp xe trên những nẻo đường đi bán bánh tiêu bánh bò, rồi anh mở quầy bán thuốc lá lẻ ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn gần nhà anh. Tôi ngồi sửa xe đạp ở góc đường Nguyễn Kim gần đó, nên thỉnh thoảng tại qua gặp nhau. Đã lâu rồi, đến hai ba năm tôi không có dịp ghé qua anh. Sáng nay tại sao tôi không ghé, lần sau cùng gặp anh coi bộ anh yếu lắm. Khi đó anh nói với tôi anh tròn 70 tuổi. Đường về Chợ Lớn đối với tôi bây giờ xa vời vợi, nhưng phải đi chứ. Thăm một người bạn sau nhiều năm giam mình ở ấp Đông Ba cũng là một điều hay.
Kia kìa, chú Tư Cầu còn đó, sau cái quầy bán thuốc lá cũ rích, con người anh cũng cũ rích, gầy guộc và đầy chất Nam bộ chân chất. Cái mũ bánh tiêu rúm ró chụp trên đầu, cái sơ mi mỏng lét mòn cả vai, cái quần Tây màu nâu ống cao ống thấp, đôi dép không rõ bằng vật liệu gì nữa. Mặt anh gầy rộc, xanh mét. Tôi gọi anh:
- Chú Tư Cầu!
Anh nhìn tôi một giây xong mới hỏi:
- Có phải Trâu Nước không?
- Chính tớ mà sao ông gầy thực, có khỏe không?
Ông cũng chẳng hơn gì tôi, tôi suy yếu toàn diện rồi, 72 tuổi, hai mươi năm ngồi bán thuốc lá lẻ ở lề đường, trên góc đường này còn gì. Cám ơn, ông mò đến tôi mới nhớ mình là Lê Xuyên, chú Tư Cầu...
Niềm hãnh diện còn lại của một kiếp người cầm bút Niềm xót xa của một nhà văn đã từng có một thời vang bóng. Nay anh ngồi đây trong sự lãng quên, hai mươi năm ngồi ở một góc đường. Trước mặt, bên kia đường có cái đình tên Vĩnh Viễn, bên cạnh đình có một căn nhà có bảng đề BCH phường đội 8 ".
Tôi nói với anh tôi mới đi thăm thành phố Sài Gòn về, tức là thuộc khu vực quận 1 quận 3. Anh nói:
- Tớ 15 năm nay không lên đến thành phố Sài Gòn, chẳng biết bây giờ nó ra sao nữa? To cao lắm, đúng là chốn phồn hoa đô hội, cũng đã lâu lắm tớ không tới đó, giống như gã nhà quê ra tỉnh...
- Chúng ta giống nhau.
Nhìn cái quầy thuốc lá cũ rích, long đinh, tróc sơln thấp tè lè của Lê Xuyên, tôi lại lo lắng cho anh trong trận mưa chiều ngày 9 tháng 1 1 vừa qua nhiều con đường ngập lụt, hàng hóa chợ Bình Tây bị nước úng hư hỏng thiệt hại bạc tỉ. Lê Xuyên cũng chỉ cười.
Anh cố ép tôi hút một điếu thuốc Con Mèo. Trong câu chuyện của anh, tôi rút ra được có một câu: Tớ suy sụp toàn diện rồi ". Tôi cũng được biết hoàn cảnh gia đình anh, bà vợ bị mắc bệnh hiểm nghèo từ mấy năm nay, một đứa con gái của anh đã chết vì ung thư bỏ lại hai đứa con và cái quầy thuốc lá này cho anh, anh là ông ngoại của chúng. Tôi hỏi về sự học của hai đứa cháu mồ côi, anh có vẻ ngạc nhiên. Qua câu nói của anh, tôi biết anh không đủ sức nuôi hai cháu ăn học. Một quầy bán thuốc lá lá như vầy ở đầu đường kiếm chác được bao nhiêu, nuôi bao nhiêu miệng ăn, đã thế lại phải lo thuốc thang cho người bệnh. Tôi cũng đang mệt nhọc vì còn ba đứa con đi học nên rất đồng cảm với anh.
Xoay sang chuyện văn học nghệ thuật, Lê Xuyên than phiền với tôi rằng anh mới đọc một bài báo nói về các tác giả làm văn học Việt Nam từ năm chục năm trở lại đây, những nhà văn nhà thơ ở miền Nam đã từng cầm bút và có danh không được nhắc đến một ai, nghĩa là bị gạt ra ngoài lề. Tôi nói có biết đến quyển từ điển văn học ấy.
Báo Kiến Thức Ngày Nay số 297 trang 186, mục "Ai sao? " có một độc giả tên Lê Minh (Khánh Hòa) hỏi: Vì sao các nhà văn Võ Hồng, Sơn Nam, Nguyễn văn Xuân, Kiên Giang, Bình Nguyên Lộc không có tên trong Từ Điển Văn Học do nhà xuân bản Khoa học Xã Hội in năm 1983- 84? Người tòa soạn có tên là Phan Hoàng trả lời: Chúng tôi thiết nghĩ ông nên gởi thẳng câu hỏi này về Ban Biên Tập Từ Điển Văn Học là NXB- KHXH. Tin rằng ông sẽ nhận được hồi âm cho thắc mắc mà dường như tất cả những người yêu thích lăn chương đều quan tâm. Chúng tôi chỉ xin lưu ý bên cạnh những nhà văn trên đây, còn rất nhiều tên tuổi văn học đáng kính khác cũng không hề được nhắc đến, dù chỉ cái tên, trong bộ từ điển tầm cỡ quốc gia này. Chẳng hạn, các bậc tiền bối thời tiền chiến: Hoàng Đạo, Đinh Hùng, Nguyễn Vỹ, Phạm Hầu, Đoàn Phú Tứ, Bằng Bá Lân... cho đến những nhà văn nhà thơ góp phần đáng kể vào diện mạo văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua: Lý văn Sâm, Dương Tư Giang, Vũ Anh Khanh, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng..
Những nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ tầm cỡ như thế còn chưa được ngồi sau porte bagage đèo xe đạp vào Văn Học Sử nữa là...
Đừng nói là người ta thiếu sót trong việc biên soạn, vì ban biên tập toàn là người có đầu óc, có văn hóa được đào luyện. Sỏi đá xôn xao. Chúng tôi cười xòa, cũng xong cả thôi. Quan tâm làm đếch gì đến chuyện đó.
Bạn bè lâu ngày gặp nhau không cà kê dê ngỗng, thì cũng dây cà ra dây muống. Tôi hỏi anh về việc cư trú, anh nói anh chưa có hộ khẩu đương nhiên không thể có chứng minh nhân dân, chẳng có giấy lờ mẹ gì cho biết anh là một con người sống trong chế độ.
- Ông có xin nhập hộ khẩu sau khi đi học tập cải tạo về không?
- Có chứ sao không, xin nhiều lần rồi mà người ta không cho, đôi khi còn bị mắng mỏ khi xin giấy lờ, nên đành ì ra, bị phạt thì chịu thôi, chán rồi người ta cũng nản.
Đến lúc ấy tôi mới thấy Lê Xuyên xì ra chuyện sống chết.
- Tớ cũng nghĩ về những trường hợp của những người chết chui.
Tôi ở dưới chế độ này lâu năm nên hiểu rất rõ từ "chui" là gì, từ này được nhập cảng vào miền Nam sau năm 1975. Chui có nghĩa là lậu, buôn chui, bán chui, phở chui. Những thứ không được công nhận. Chết chui thì thảm lắm, thảm còn hơn phở chui lèo tèo mấy miếng, nước lèo thì nhạt thếch nhạt thác đựng trong bình thủy, bát phở không hành ngò. Nói theo kiểu thời thượng là "phở không người lái ".
Thi sĩ Bùi Giáng chết, cũng ở dạng chết chui, nhưng vì ăn ở có đức nên được chôn cất đàng hoàng. Lại được người đời vớt cho được một câu: chúng tôi đã bỏ quên anh." Dù rằng với cách sống của ông thì ông cóc cần. Khoác thêm cho cái xác lạnh tanh ấy một sơ mi gỗ hay đội lên đầu thêm vòng nguyệt quế nữa thì nhằm nhỏ gì.
Thuở còn ăn mắm mút dòi, gạo châu củi quế người dân khoái xài đồ chui hơn là đồ quốc doanh. Vì, muốn ăn một bát phở quốc doanh phải xếp hàng cả buổi, nhân viên phụ trách khâu bưng phở mặt vác lên như ba cái thớt chồng lên nhau, dằn tô phở trước người mua phiếu như ra ơn ban phát, bố thí, phở đồng loạt là phở chín, khách hàng không nên đòi chín nạm gầu hoặc xin thêm nước béo hành trần lôi thôi, chẳng ngon lành gì hơn phở chui.
Người ta thèm nụ cười cầu tài của anh bán phở chui, lấy chuyện đó làm hài lòng nên cũng ấm cái bụng. Chứ không treo bảng "khách hàng là thượng đế" như bây giờ.
Nhìn sang bên kia đường tôi thấy một sạp báo. Báo chí đủ các thể loại phục vụ độc giả, sắc màu rực rỡ, hấp dẫn, in ấn đẹp bằng mười ngày xưa hơn thuở tôi còn xách bút chạy rong nhiều. Sự tiến bộ trong ngành báo chí trông thấy ngay trước mắt. Tôi nói với Lê Xuyên:
- Có một dạo tôi tính mở một sạp báo bán cho đỡ buồn, nhưng rồi lại thôi, dù có mượn được vốn.
-Tại sao vậy?
Tôi lắc đầu:
- Sau những ngày thực lập nghề bán báo, tôi bỗng cảm thấy buồn, vì ngày nào cũng đụng đến báo chí tự nhiên mình thấy nhớ nhung gì đâu không, cái dĩ vãng làm báo lội nghiệp của tôi ám ảnh tôi quá nhiều.
Lê Xuyên vốn là tổng thư ký của nhiều nhật báo gật gật đầu:
- ờ, ông nói có lý đấy, chúng ta không thể hành nghề bán báo được, sẽ buồn lắm không như nghề bán thuốc lá lẻ của tôi.
Có một người khách ghé mua một gói thuốc lào. Bây giờ tôi mới biết anh còn bán cả thuốc lào đượm khói dân tộc nữa, nhặt nhạnh từng cắc một, quả là con người lương thiện từ đầu đến chân.
Chia tay chú Tư Cầu vì trời đã muộn. Gặp anh tôi không thể không nhớ đến nhan đề một truyện dài của anh là Gió đưa trăng. Sau này tôi biết anh lấy từ câu hò trữ tình trên sông nước Cửu Long. Câu hò như thế này: Gió đưa trăng, trăng đưa gió, trăng lặn rồi gió biết đưa ai?...
Tôi như nghe thấy tiếng ca trữ lình vút lên thinh không, man mác trên sông nước Cửu Long, đồng bằng lúa gạo Nam bộ. Tính chất Nam bộ trải dài trong tác phẩm của anh và ở ngay chính con người anh. Trăng lặn rồi gió biết đưa ai? Có phải một câu than thở không? Tôi lẩn thẩn mãi với câu hỏi ấy trong đầu. Tôi nghĩ đến hát ru Nam bộ mà Lê Xuyên đặt tên cho tác phẩm của mình, có một câu bỏ lửng.
Tôi về đến nhà ở ấp Đông Ba xưa vào buổi trưa, mở truyền hình lên coi. Tôi nhận được tin cơn bão số 6 đang trên đường đổ vào bờ biển Việt Nam. Sao mà khổ thế nhỉ, bao nhiêu là tai ương. Người ta kêu gọi nhân dân chống bão lụt. Tôi nghĩ hoài về nhà văn Lê Xuyên. Mưa ập xuống ngập đường như sông. Trên con đường Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ nước ngập đến bụng, liệu Lê Xuyên có khiêng nổi xe thuốc đội lên vai lên đầu để tránh ướt không, bảo vệ cái vốn liếng nhỏ bé, duy nhất của gia đình anh trên đôi vai còm cõi.
Tôi lo lắng, thương xót bạn, thầm cầu xin sự an lành đến với anh. Năm hết tết đến rồi. Anh từng nói từ lâu rồi anh không có mùa xuân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét