Tôi có ý định viết lại phần đời, sau tháng 4-1975 này, thành một
tập hồi ký riêng. Nhưng tôi hoài nghi mình sẽ không còn thời gian đủ để làm việc
đó. Tôi vừa thoát qua cơn bệnh hiểm nghèo, không biết thời gian “tạm ứng” tiếp
cho tôi sẽ được bao lâu. Phần một của tập Hồi ký tôi mất một năm rưỡi để viết.
Tôi đã bắt đầu ngay khi vừa phục hồi sức khoẻ (từ cuối tháng 12-2002). Khi viết
đến những dòng này – ngày 01-3-2004 – tôi được tin người bạn thân và đồng hành
với tôi trước 1975 trong thời gian chống Mỹ - Thiệu, cựu dân biểu Nguyễn Hữu
Chung (Chung Nguyễn), đã mất ngày 26-2-2004. Khi tôi lâm bệnh hồi cuối tháng
6-2002, từ Canada, Chung Nguyễn điện thoại về thăm tôi. Anh tế nhị không đề cập
đến bệnh tình của tôi vì có lẽ anh đã nghe thông tin ban đầu là tôi khó thoát
qua... (chẩn đoán đầu tiên có bác sĩ nói tôi không sống hơn... một tháng!). Điều
không thể ngờ là chỉ sau đó ít tháng thì tôi nhận được tin Chung Nguyễn bị ung
thư phổi. Và tôi chưa kịp “đi” thì Chung Nguyễn đã “đi” trước!
Do đó tôi xin tóm gọn lại cuộc đời sau năm 1975 của mình trong
chương sau cùng này. Nếu thời gian còn cho phép, tôi sẽ trở lại thực hiện đầy
đủ và trọn vẹn tập hai. Thận trọng lúc này là cần thiết.
...Cuộc đời hoạt động của tôi trước năm 1975, chỉ có khoảng 13
năm (bắt đầu vào nghề báo năm 1962). Cuộc đời sau năm 1975, cho đến hôm nay, đã
gần 30 năm, chủ yếu viết báo và làm báo.
...Nói cách nào đó, tôi có hai cuộc đời. Trước và sau năm 1975.
Dĩ nhiên hai cuộc đời này không tách bạch với nhau, vẫn hoà quyện với nhau,
nhưng ở hai chế độ chính trị, hai môi trường sống hoàn toàn khác nhau. Trước
đây tôi không tưởng tượng nổi đời mình lại có cơ hội được sống và cống hiến cho
đất nước qua hai thời kỳ lịch sử, dưới hai chế độ đối nghịch nhau.
Ngay sau tháng 4-1975, thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội
nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc trong thành phần đoàn đại biểu miền Nam.
Với riêng tôi, sự kiện đó có một ý nghĩa lớn với đời mình: sau bao nhiêu năm
đấu tranh cho độc lập và mơ ước sự hợp nhất của hai miền Nam-Bắc thì giờ đây
tôi là người được đưa tay lên biểu quyết sự thống nhất của Tổ quốc. Còn gì vinh
hạnh và hạnh phúc hơn! Dù cho trong giây phút ấy, tôi không thể quên cũng tại
nơi đây trước đó không lâu tôi cũng đã đưa tay lên nhưng để... đầu hàng!
Tôi biết có một người cũng coi việc mình tham dự Hội nghị Hiệp
thương Thống nhất Tổ quốc như một sự kiện không thể quên của đời mình: bà luật
sư Ngô Bá Thành. Trong phần tiểu sử của bà được đọc lên tại buổi lễ tưởng niệm
bà do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc TP.HCM và Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tổ chức tại Bảo
tàng Phụ nữ TP.HCM ngày 15-3-2004 (sau 42 ngày mất của bà), tôi có nghe nhắc
lại chi tiết bà là thành viên phái đoàn miền Nam tại Hội nghị Hiệp thương Thống
nhất Tổ quốc. Đối với những người trí thức Sài Gòn đến cuối con đường đấu tranh
của mình như chúng tôi, có mặt trong một hội nghị như thế là một sự thoả mãn
tinh thần cực kỳ lớn.
...Suốt 30 năm của cuộc đời thứ hai, tôi chỉ viết báo và làm
báo, đó là cái nghề tôi yêu và say mê – cái nghề duy nhất tôi chọn lựa cho đời
mình. Cho nên 30 năm qua, tôi vô cùng thỏa nguyện được sống trọn vẹn với nghề
này, bất chấp những lao đao và những hoàn cảnh không phải lúc nào cũng suôn sẻ.
Tôi không bao giờ than phiền về những khó khăn mà tôi phải đối đầu, bởi làm sao
tin được rằng một cựu bộ trưởng thông tin của “ngụy quyền Sài Gòn” lại được tự
do viết báo trong chế độ cộng sản? Hơn thế nữa tôi còn ra Hà Nội làm tổng thư
ký tòa soạn báo Lao Động, tờ báo của giai cấp công nhân và một trong những tờ
báo lâu đời nhất của Cách mạng Việt Nam. Nhạc sĩ Văn Cao là một trong những
người đầu tiên làm công việc trình bày cho tờ báo này. Ngày tôi lên máy bay ra
Hà Nội để đảm nhận công việc tại báo Lao Động (năm 1994), tôi gặp ông Đỗ
Phượng, lúc đó là tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam, tại sân bay Nội Bài.
Biết được mục đích chuyến ra Hà Nội của tôi, ông Đỗ Phượng cười, rồi trêu tôi:
“Sao anh đi tập kết trễ thế!”.
Khi ra Hà Nội làm tổng thư ký tòa soạn cho báo Lao Động, thật sự
tôi đã có ý định dời gia đình ra ở hẳn tại Hà Nội, vợ tôi cũng tán thành. Người
vợ sau của tôi lúc này là Trần Hồ Quang Ngọc Cúc (tên gọi thân mật là Cúc
Phượng). Nhưng do trục trặc trong công tác tại báo mà ý định sống hẳn ở Hà Nội
của chúng tôi bất thành.
Tôi yêu Hà Nội ngay từ đầu chạm mặt. Cuối năm 1975, tôi được báo
Tin Sáng cử ra thủ đô lần đầu theo dõi phiên họp của Quốc hội triệu tập sau khi
đất nước thống nhất. Tôi còn nhớ lòng mình xúc động thế nào khi từ sân bay Gia
Lâm về Hà Nội đi ngang qua cầu Long Biên, giáp mặt với một khối sắt khổng lồ
đen sì và cũ kỹ, trên đó đông nghịt người đi xe đạp và hầu như mọi người chỉ
mặc một màu nâu sòng hay màu xanh bộ đội đã bạc... Đồng bào ruột thịt của tôi
là đây! Chiếc cầu Long Biên đứng vững trước hàng trăm cuộc dội bom của phi cơ
Mỹ, là đây! Hà Nội có rất nhiều nơi, nhiều điều tiêu biểu cho cuộc chiến đấu ác
liệt và anh hùng của mình, nhưng không hiểu tại sao với tôi, hình ảnh ấn tượng
nhất vẫn là chiếc cầu Long Biên mà khi còn nhỏ tôi đã được biết qua cái tên
Tây: Paul Doumer.
Khi vào đến Hà Nội, tôi yêu ngay cái thành phố đã có sẵn trong
ký ức của tôi qua các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh. Sự tưởng tượng lãng
mạn của tuổi thơ khi đọc sách, kỳ diệu thay, lại khớp với cảnh vật Hà Nội bày
ra trước mắt. Với tôi Hà Nội dường như đã đứng yên như thế qua bao thập niên
“chờ đợi” tôi. Ngay lúc đó tôi đã nhận ra vẻ đẹp thầm kín và quyến rũ của Hà
Nội sau chuyến đi đó tôi nói với bạn bè ở Sài Gòn rằng Hà Nội là một thủ đô rất
đẹp của đất nước.
Và tôi không thể tưởng tượng ở đó tôi còn có cơ hội gặp lại lần
lượt tất cả những nhân vật huyền thoại mà tôi cứ ngỡ rằng đã thuộc về lịch sử
văn học xa xôi, chỉ tồn tại trong sách vở như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu,
Huy Cận v.v...
Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần đầu không
hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục. Tôi còn nhớ đến thăm
một nữ nghệ sĩ trong đoàn Ca múa nhạc miền Nam vừa trở ra Hà Nội, nhà ở gần hồ
Thuyền Quang, tôi nhìn thấy cái giường của cô đặt sát một cửa sổ không có cánh
cửa, chỉ có một màn sáo rũ xuống không ngăn được hơi lạnh từ bên ngoài vào. Căn
nhà nhỏ nhưng phải chia sẻ chung với hai, ba gia đình. Để giành lại độc lập cho
đất nước, mỗi miền đã chấp nhận sự hy sinh khác nhau nhưng đều là những hy sinh
vô bờ bến. Có thấy cuộc sống khó khăn của Hà Nội thời đó mới càng nhận ra giá
trị những gì chúng ta đạt được ngày hôm nay.
Sau này khi ra Hà Nội nhiều lần tôi thường ghé lại thăm ông
Nguyễn Tuân và ông Văn Cao. Khi có dịp vào TP. HCM, hai ông cũng thường đến
dùng cơm tại nhà tôi. Hai người có cách sống hoàn toàn khác nhau. Căn phòng của
ông Tuân ấm cúng và sắp xếp như một appartement của một người sống độc thân...
ở Paris. Căn phòng vừa là nơi ăn ngủ làm việc và tiếp khách. Lúc nào ông cũng
có rượu Tây loại ngon. Mùa đông có một lò sưởi cá nhân tự tạo đặt kế bên
giường. Ông nói chuyện duyên dáng, dí dỏm và không né tránh những nhận xét đầy
hình tượng dành cho các đồng nghiệp hoặc các nhân vật nổi tiếng khác cùng thời.
Căn nhà của ông Văn Cao có vị trí thoáng đẹp hơn. Bao giờ ông tiếp khách cũng
có vợ ông, bà Băng. Tại phòng khách có treo bức chân dung rất đẹp của bà Băng
thời trẻ do ông Văn Cao vẽ. Bất cứ lãnh vực nào mà Văn Cao đặt tay vào cũng đều
đạt đỉnh cao từ âm nhạc, thơ cho đến họa. Thường ông ngồi im lặng như pho
tượng. Tôi có cảm tưởng: có lẽ người gần như duy nhất gây cho ông sự hứng thú
để trao đổi là Trịnh Công Sơn. Cùng với Trịnh Công Sơn bên cạnh, ông đã đồng ý
xuất hiện một lần tại Nhà Văn hoá Thanh Niên trong buổi giao lưu với thanh niên
TP. HCM.
...Trở lại cuộc sống của riêng tôi và gia đình tôi sau tháng
4-1975 phải nói là may mắn hơn nhiều người nhưng không phải đều thuận lợi dễ
dàng. Thậm chí còn có những bi kịch.
...Tôi không thể quên được lúc nhà của cha mẹ tôi bị bộ đội ở
phường “đóng chốt” và được lệnh giao cho chính quyền phường vì bị qui vào diện
tư sản chỉ vì mẹ tôi có một tiệm tạp hóa ở chung cư Nguyễn Văn Thoại. Còn cha
tôi bị bắt về phường ở một đêm vì chính quyền phường tưởng lầm cha tôi là một
sĩ quan ngụy cao cấp do có thông tin cha tôi từng là phó đô trưởng Sài Gòn
(thật ra phải là phó đô trưởng nội an mới mang lon trung tá hoặc đại tá; cha
tôi là phó đô trưởng hành chính thuộc ngạch công chức hành chính, hơn nữa đã bị
cách chức hai năm trước ngày 30-4-1975 vì có con hoạt động chống Nguyễn Văn
Thiệu!). Tôi hay tin nhà cha mẹ tôi bị “đóng chốt” và bị kiểm kê vào một buổi
sáng khi vừa ra khỏi nhà đi làm (lúc này tôi là phó tổng biên tập nhật báo Tin
Sáng). Tiếng loa từ phường bên nhà cha tôi vang sang tận nhà tôi (cách khoảng
400 mét đường chim bay). Tôi nghe rõ mồn một: “Mời bà con vào mà thăm quan cung
điện của Lý Quí Phát...”. Căn nhà ba tầng khá cũ kỹ của cha mẹ tôi nằm trong
khu chợ Nguyễn Tri Phương được giới thiệu với người dân ở phường là một... cung
điện! Dĩ nhiên không có ai trong phường đến thăm quan, vì cha mẹ tôi đã ở đó
hàng chục năm, mọi người đều biết cha tôi không phải là một tư sản hay viên
chức ác ôn, còn căn nhà của cha mẹ tôi so với rất nhiều căn nhà khác ở đất Sài
Gòn này cũng không có gì đặc biệt.
Những sự kiện căng thẳng dồn dập xảy đến khiến cha tôi bị lên
huyết áp và đột quị tưởng đâu không qua khỏi. Ông bị liệt nửa thân mình, méo
miệng, không nói được. Bác sĩ quen ở bệnh viện Triều Châu (sau đổi tên An
Bình), anh Nguyễn Văn Mẫu, đã từng là thị trưởng tự phong ở Đà Nẵng trong thời
kỳ Phật giáo miền Trung nổi lên chống chính phủ Thiệu - Kỳ, đã giúp cha nói lại
được nhưng phải di chuyển bằng xe lăn. Một trong những câu nói đầu tiên sau
thời gian ông bị bặt tiếng nói là nói với tôi – khi tôi đứng bên giường chăm
sóc ông. Giọng ông giận dữ: “Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày đã ra thế
này, cha mày đã ra thế này, mà mày còn viết báo cho cộng sản. Cha mày từ mày”.
Chưa bao giờ cha tôi đối với tôi giận dữ và dùng những lời lẽ như thế. Những
chuyện xảy ra cho gia đình tôi đã biến cha tôi từ một người hồ hởi đón chào
Cách mạng, nô nức chờ bạn bè đi kháng chiến trở về, biến thành một người ác cảm
với cộng sản và từ luôn con trai của mình. Tôi đứng lặng thinh vì biết rằng mọi
lời giải thích lúc này đều vô ích.
Tại tòa báo vào thời điểm đó tôi tuyên truyền cho các cuộc cải
tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp tư sản tư doanh v.v... thế mà ở nhà cha
mẹ tôi lại là nạn nhận của sự lệch lạc trong vận dụng các chủ trương này. Tôi
rất đau buồn, không dám nói gì với cha, tôi cố gắng giải thích với mẹ và các em
tôi chuyện xảy ra với gia đình mình (và một số khá đông hộ trong phường) là
những sai phạm của chính quyền địa phương trước sau gì cũng sẽ có sự điều
chỉnh. Mẹ tôi chẳng nói gì, bà quá sợ hãi. Còn các em tôi thì không tin người
anh trai của mình nữa. Chỉ làm thinh để âm thầm chuẩn bị vượt biên. Tình cờ tôi
biết được chuyện này. Tôi vô cùng đau khổ. Trong đầu tôi chưa bao giờ nghĩ rằng
sẽ có ngày anh em tôi lại ly tán. Sau khi tình cờ biết được dự định của các em
tôi, tôi đã nhờ một người trong báo Tin Sáng có quan hệ với
công an cấp cao tìm cách... doạ em rể của tôi, chồng đứa em gái kế, là người tổ
chức cuộc vượt biên để nó từ bỏ ý định. Nhưng lời đe dọa của viên sĩ quan công
an phụ trách bảo vệ trong cơ quan tại nơi em rể tôi đang làm việc chẳng có hiệu
lực gì. Các em tôi tách ra ở một địa chỉ khác để tránh bị theo dõi rồi một ngày
kéo nhau ra đi hơn phân nửa. Tôi có tất cả sáu em gái (lúc đó có ba đã lấy
chồng) và một em út là trai. Như vậy cùng một lúc tôi “mất” bảy đứa em! Vào lúc
này, người vượt biên coi như không có hy vọng gặp lại người ở lại.
Người thường xuyên đến nhà tôi động viên vào lúc này là anh
Huỳnh Bá Thành. Ngay sau tháng 4-1975, Thành có đến thăm tôi và yêu cầu tôi
viết một bài cho báo Sài Gòn Giải Phóng. Tôi có viết nhưng bài
báo không được đăng. Lần này đến thăm tôi anh dặn dò tôi nói lại với ba mẹ tôi
hãy yên tâm, không đến nỗi phải giao nhà và đi vùng kinh tế mới đâu – dù phường
cứ mỗi ngày cứ đến ép thúc cha mẹ tôi giao nhà. Một hôm em gái tôi vẫn còn đi
dạy qua nhà tôi báo cho tôi biết anh bí thư thanh niên phường đã đề nghị... bí
mật với mẹ tôi tháo giấy niêm phong tủ sắt để lấy tư trang của mẹ tôi ra và
đánh tráo đồ giả vào. Số vàng và hột xoàn lấy ra sẽ chia đôi. Anh ta hứa sẽ cho
gián lại giấy niêm phong khác! Em tôi nói “Mẹ có vẻ xiêu lòng trước đề nghị
này”. Tôi dứt khoát phản đối và cam đoan với mẹ và em gái rằng số tư trang ấy
sẽ không bao giờ bị tịch thu.
Có một niềm an ủi cho cha mẹ tôi lúc đó là những anh bộ đội trẻ
đóng chốt tại nhà - cả bốn đều từ miền Bắc vào - tỏ ra rất thông cảm, lễ phép
và đối xử với người trong nhà rất tình cảm, đến cha tôi đầy bất mãn với cộng
sản cũng thương họ như con cháu. Thỉnh thoảng họ còn biếu mẹ tôi đường, hay một
thứ “nhu yếu phẩm” gì đó vào lúc này rất quý.
Sau đó tôi được em gái tôi báo tin “thằng bí thư đoàn phường,
người đề nghị với má lấy tư trang trong tủ sắt ra để chia đôi, đã vượt biên
rồi”. Tôi không ngạc nhiên chút nào. Rồi sau đó khoảng 8 tháng hay một năm gì
đó, dân chúng ở phường được thông báo tòa án nhân dân quận 10 đưa ra xét xử một
số cán bộ phường, có cả cấp cao nhất đã có những sai phạm và tiêu cực trong
chính sách cải tạo tiến hành ở địa phương. Tôi được biết trong phường không chỉ
nhà cha mẹ tôi mà còn nhiều gia đình khác nữa cũng đã trải qua bi kịch này. Khi
công lý lên tiếng thì đã có quá nhiều mất mát vật chất và tinh thần đã xảy ra
cho nhiều gia đình. Riêng gia đình tôi, sự mất mát vật chất thì chẳng đáng gì –
dù rằng rốt cuộc trong nhà không còn một thứ gì giá trị - nhưng mất mát về tinh
thần thì quá lớn: Cha tôi đột quỵ, sau một thời gian ngồi xe lăn đã nằm liệt
một chỗ cả chục năm rồi mất; còn 7 trên 10 đứa em tôi thì vượt biên. Cũng may
mắn là tất cả đều bình yên.
Cuộc sống của tôi sau 30-4-1975 đúng ra không qua gay go nếu
không xảy ra chuyện gia đình tôi bị rơi vào diện cải tạo một cách vô lý. Những
khó khăn về đời sống vật chất dù có lúc khá bi đát vẫn được tôi, vợ tôi và các
con tôi chấp nhận trong bối cảnh chung hầu như mọi người đều khổ cực. Có lúc
rất khó khăn chạy cái ăn từng ngày, trong nhà tôi có thứ gì bán được thì lần
lượt bán hết , nhưng ngày ngày đi làm báo từ Tin Sáng (1975-1980)
sangTuổi Trẻ (1980-1990), tôi vẫn không một ngày nào thiếu hăng hái
hay mất niềm tin. Đồng lương chỉ đủ ăn sáng (mãi cho đến khi làm báo Lao
Động tôi mới sống được thật sự bằng thu nhập nghề của mình) nhưng cống
hiến thì vẫn hết mình. Nhớ lại giai đoạn ấy bản thân tôi cũng phải tự hỏi điều
gì khiến mình giữ được niềm tin và sự kiên trì chờ đợi một ngày mai tươi sáng
hơn cho đất nước và cho con cái mình. Có lẽ do tôi không thể quên rằng chính
mình đã tự nguyện chọn lựa con đường hôm nay.
Vợ con tôi chịu đựng cũng rất giỏi. Đứa con trai thứ nhì – Lý
Quí Dũng – làm công nhân trong nhà in báo Tuổi Trẻ (nơi tôi đang công tác) ở
khâu cực khổ nhất: mài bản kẽm in. Còn đứa thứ ba – Lý Quí Trung - tạm ngưng
học đại học kinh tế đi làm phục vụ (tức bồi bàn) tại khách sạn Đệ Nhất – Tân
Bình. Chúng chẳng kêu ca gì!
...Có một hôm đi làm về tôi thấy có bóng ai leo bên ngoài cửa sổ
phòng ngủ lầu một, tôi định hô lên có ăn trộm thì vợ tôi kịp cản lại. Nàng bảo
nhỏ: “Không phải ăn trộm đâu, em bán cửa kính cho người ta!”. Tôi định phản
ứng. Sao lại tận cùng thế này! Nhưng kịp nhớ lại: những gì có giá trị, có thể
bán được thì đã bán hết rồi! Lúc đó không bán kính cửa sổ thì đào đâu ra tiền
để chi dụng trong nhà. Nhà tôi ba tầng có đến hàng chục cái cửa sổ, cho nên
cũng thu về một số tiền kha khá, có thể đối phó thêm một thời gian nữa. Ngay
tức thời chiều hôm đó, cả gia đình tôi có một buổi cháo gà xé phay bù đắp những
ngày ăn uống kham khổ.
Nhưng bán mãi rồi cũng không còn gì để bán nữa. Đầu tiên vợ tôi
nghĩ ra việc làm cơm tấm bì bày bán ở đầu đường hẻm nhà ở đường Nguyễn Tri
Phương. Việc buôn bán ngoài lề đường này giúp gia đình tôi tồn tại được một
thời gian ngắn. Bạn bè nhà báo đến ăn rất đông, có cả anh Nguyễn Sơn lúc đó là
phó ban Tuyên huấn thành ủy cũng đến ủng hộ. Nhưng vì địa điểm chỗ bán có lấn
một phần phía trước nhà trẻ của phường nên ở phường chỉ thị phải dời vào trong
hẻm. Vào trong hẻm bán ế nên phải dẹp luôn! Thế là chúng tôi chỉ còn một giải
pháp cuối cùng là... bán nhà. Nhà lúc đó giá rẻ mạt. Căn nhà đó bây giờ có thể
bán với giá 600-700 cây vàng nhưng lúc ấy bán không hơn hai chục cây. Khi dọn
nhà ra căn hộ thuê ở đường Lê Lợi, nằm phía sau bệnh viện Sài Gòn, vợ chồng tôi
chỉ mang theo một số bàn ghế và... một cây đàn Piano. Đây là chiếc Piano thứ
hai. Chiếc đầu tiên chúng tôi đã bán trong những ngày đầu giải phóng, chiếc này
của đứa em gái kế tặng lại khi gia đình em tôi có ý định vượt biên. Vợ tôi cố
gắng giữ nó vì đó là niềm vui duy nhất còn lại cho các con tôi. Các con tôi
trước năm 1975 đều học đàn. Cô giáo Thủy Hoằng (hiện còn dạy ở nhạc viện TP.
HCM), lúc đó dạy ở Trường quốc gia âm nhạc, là người hướng dẫn các con tôi.
Nhưng rồi cái niềm vui sau cùng đó của các con tôi cũng không
thể giữ nổi. Để lo cuộc sống hàng ngày, chúng tôi đành phải bán nó đi. Tôi nhớ
như in trong đầu mình cái ngày bán chiếc Piano cuối cùng đó. Căn hộ của chúng
tôi ở lầu 3, cầu thang khá hẹp, muốn đưa chiếc đàn xuống đất là chuyện không dễ
chút nào. Có hai thứ khi xê dịch cần sự thận trọng và lành nghề rất cao ở những
người khiêng, đó là chiếc quan tài và... chiếc Piano. Chỉ một cọ quẹt nhẹ cũng
làm hư hại và làm mất giá chiếc Piano. Khiêng quan tài và khuân Piano không cho
phép bất kỳ một sơ sót nào.
Chiếc Piano được mấy anh công nhân giàu kinh nghiệm khiêng từ
lầu 3 xuống một cách hết sức thận trọng, giữa cái cảnh nhà buồn bã, có cả nước
mắt của đứa con trai kế rất gắn bó với chiếc Piano này - khiến tôi không thể
không liên tưởng đến một đám tang. Chao ơi! Người ta đang khiêng một cái quan
tài chứ đâu phải cái Piano!
...Ba mươi năm trong chế độ mới, tôi “đứng” được qua các giai
đoạn cực kỳ gay go của đất nước và của cả bản thân mình vì tôi tin ở con đường
mình đã chọn lựa. Không phải là một đảng viên cộng sản nhưng tôi tin vào những
lý tưởng xã hội tốt đẹp cho bất cứ xã hội nào muốn tiến lên công bằng và nhân
bản hơn. Tôi vẫn giữ niềm tin đó ngay cả sau khi chế độ cộng sản ở Liên Xô và
Đông Âu bị sụp đổ. Những sai trật và lệch lạc ở những nơi không thể vùi lấp
những giá trị vĩnh cửu của chủ nghĩa xã hội nhân bản.
Nhưng trong 30 năm đó, tôi vẫn cảm nhận mình là “một người khách
đặc biệt”. Chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi cũng
không hề phiền hà về cái quy chế không chính thức này. Là một người từng làm
chính trị (dù là do thời cuộc mà làm), tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho
người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải “của mình”, nhất là tôi
đã có một quá khứ chính trị thuộc về chế độ cũ với những hoạt động không dễ
dàng làm rõ hoàn toàn: ba lần làm đại biểu quốc hội và ở tuổi 35 làm bộ trưởng
Bộ thông tin chế độ Sài Gòn. Ngay trong xã hội tư bản cũng thế thôi, đảng cầm
quyền chỉ tin dùng người của đảng mình, ngoại trừ trường hợp họ phải liên kết
với đảng khác. Trong các cuộc đấu tranh hay mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan mà
tôi từng công tác, cái chuẩn “người của Đảng” đáng tin cậy hơn “người ngoài
Đảng” vẫn thường được vận dụng. Tôi là “một người khách đặc biệt” nhưng không
bao giờ tôi quên mình là người ngoài Đảng. Nhưng dù có ai nhìn tôi trong ngoài
thế nào thì tôi vẫn viết báo, làm báo với tư cách một người có lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và không bao giờ đi ngược lại nguyên tắc này. Đây là sự chọn lựa
trước hết cho bản thân tôi, lý tưởng của tôi. Ngay cả với những bạn bè thân
thiết, tôi luôn thẳng thắn khẳng định điều này. Điều đáng trách nhất ở người trí
thức là có cuộc sống hai mặt. Nếu tôi không chia sẻ lý tưởng xã hội, tôi không
bao giờ tiếp tục viết báo và làm báo sau 4-1975. Tôi hoàn toàn có khả năng chọn
một nghề khác để không phản bội lại chính mình nếu tôi không tán đồng chủ nghĩa
xã hội. Viết báo, làm báo là một nghề rất khác nhiều nghề. Hơn cả một phương
tiện kiếm sống, nó là lý tưởng chính trị của người cầm bút, là công cụ đấu
tranh của mình cho xã hội. Không thể có sự trùng lập trong báo chí.
...Lẽ ra sau 30-4-1975, tôi cũng đi cải tạo tập trung theo diện
viên chức cao cấp ngụy quyền. Khi có thông báo trên đài và trên báo, tôi đã
chuẩn bị đi trình diện. Tôi nghĩ: đi học tập 10 ngày để biết rõ hơn chế độ mà
mình sẽ sống cũng chẳng sao, còn cần thiết là khác. Tôi chuẩn bị một ít quần
áo, một lon Guigoz đựng thịt chà bông, một bịch đường, hai cái khăn, bàn chải
và kem đánh răng v.v... để sáng hôm sau đến địa điểm ở trường Gia Long (nay là
trường Nguyễn Thị Minh Khai) trình diện. Lòng tôi chẳng chút băn khoăn.
Nhưng chiều 12-6-1975 tôi nhận được một phong thư giao tận nhà,
gửi cho: “Nguyên tổng trưởng Thông tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy
quyền Lý Quí Chung”, thông báo tôi được hoãn học tập tập trung, người ký
tên giấy tạm hoãn này là ông Cao Đăng Chiếm, Phó chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài
Gòn. Lúc đó tôi chưa biết mình là người may mắn. Thời gian sau tôi mới ý thức
việc tạm hoãn này là một chính sách rất đặc biệt, chỉ áp dụng cho một số rất ít
trí thức và nhân sĩ hoạt động ở Sài Gòn trước năm 1975. Quả tình lúc đó tôi chỉ
nghĩ chế độ mới trực tiếp cứu xét từng trường hợp, căn cứ vào đường hướng hoạt
động của mỗi cá nhân trong thời gian chống Mỹ và chế độ Thiệu. Đến bây giờ tôi
vẫn chưa biết rõ chuyện ấy thế nào, có tất cả bao nhiêu người được miễn.
Những người được miễn đi học tập tập trung như các anh cựu dân
biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Đinh Văn Đệ, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân
Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo v.v..., có cả ông Trần Bá Thành, cựu tổng giám đốc
cảnh sát Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm, tất cả những người này được tổ chức học
tập riêng tại một địa điểm ở đường Phùng Khắc Khoan, đối diện với cổng sau của
trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố hiện nay. Tôi không biết rõ về trường
hợp ông Trần Bá Thành. Có anh em nói rằng ông Thành đã được MTDTGPMN liên lạc
trước ngày giải phóng. Không biết thực hư thế nào. Người hướng dẫn chính các
buổi học tập - dưới hình thức như các buổi hội thảo - là ông Tạ Bà Tòng, một ủy
viên trong Ủy ban Mặt trận Giải phóng Thành phố. Ở buổi kết thúc lớp học, có ông
Mai Chí Thọ, tức Năm Xuân, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản, đến nói chuyện. Theo
tôi biết, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn
Hương... cũng tham dự một đợt học tập riêng và được các vị lãnh đạo ở Thành phố
đến trao đổi. Ông Minh không kể gì nhiều về các buổi này nhưng có nói người tỏ
ra tích cực nhất trong đợt học tập này là ông Trần Văn Hương.
Sau thời gian học tập kéo dài khoảng một tuần (từ 15-8 đến
22-8-1975), mỗi người nạp một bản thu hoạch và được Ủy ban Quân quản cấp giấy trả
quyền công dân. Anh Hồ Ngọc Nhuận có kể: “Được biết trong số những người được
trả quyền công dân có người không bao lâu sau đã nhận được huân chương kháng
chiến chống Mỹ lẫn chống Pháp hạng nhất”. Ý anh Nhuận: trong số những người
cùng học tập có những người đã là người hoạt động cho Mặt trận từ trước. Nhưng
chính anh Nhuận lại tiết lộ: “...tôi được yêu cầu làm Phó chủ tịch Ủy ban Nhân
dân Lâm thời thành phố, dưới bóng Ủy ban Quân quản, phải năn nỉ lắm tôi mới
thoát được cương vị chính quyền”. Anh còn cho biết cùng thời điểm đó, cùng anh
Ngô Công Đức, anh được yêu cầu chuẩn bị cho ra lại tờ Tin Sáng bộ
mới.
Phần tôi mù tịt về những ngày sắp tới với mình sẽ ra sao.
Chuẩn bị ra báo Tin Sáng, anh Ngô Công Đức với
cương vị chủ nhiệm đã đến mời tôi, anh Dương Văn Ba, anh Nguyễn Hữu An, anh
Nguyễn Văn Binh... cùng thảo kế hoạch tổ chức tờ báo. Đầu tháng 9-1975, tức chỉ
sau 4 tháng ngày giải phóng, nhật báo Tin Sáng tái bản. Sự
hiện diện trở lại của một tờ báo quen thuộc với người Sài Gòn trước 1975 rõ
ràng đã có ảnh hưởng tích cực trong bối cảnh mới có nhiều điều rất mới mẻ và xa
lạ với người dân Sài Gòn nay được mang tên mới Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi được mời đảm trách vai trò phó tổng biên tập cùng với anh
Dương Văn Ba. Anh Đức làm chủ nhiệm, anh Hồ Ngọc Nhuận làm tổng biên tập. Tôi
phụ trách luôn nhiệm vụ tổng thư ký tòa soạn lúc ban đầu (sau công việc tòa
soạn được chia với anh Dương Văn Ba). Rất tiếc sự chung sức của anh em tại
báo Tin Sáng, gắn bó với nhau từ thời cũ lại không suôn sẻ đến
cùng. Sau năm năm tồn tại như một hiện tượng độc đáo, Tin Sáng được
tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ”.
Với các anh em trong Tin Sáng cũng có nhiều
quan điểm, thái độ khác nhau đối với hướng đi và cách quản lý tờ báo, nhưng có
một điều cho đến bây giờ vẫn phải nhìn nhận: Tin Sángđã có những
đóng góp không nhỏ vào cách thông tin nói riêng và cách làm báo nói chung của
báo chí ở Việt Nam sau 1975. Thật ra cái mới của Tin Sáng chỉ
là những vận dụng nghiệp vụ của báo chí Sài Gòn trước 1975 nhưng có chọn lọc
phù hợp với khuôn khổ báo chí lúc đó. Ngoài những tin tức chính thức, tờ báo
còn quan tâm đến đời sống bình thường và dành một diện tích rộng cho các hoạt
động văn hóa nghệ thuật, tin tức thế giới và giải trí. Ngoài công tác tòa soạn,
tôi phụ trách mảng văn hóa – xã hội (anh Dương Văn Ba phụ trách mảng kinh tế -
chính trị, anh Nguyễn Hữu An mảng quốc tế), nhờ vậy tôi có cơ hội trở lại với
lĩnh vực viết báo khi mới vào nghề của tôi: viết thể thao, nhất là bình luận
bóng đá. Xưa kia tôi lấy bút danh Phát Chung (ghép tên cha tôi và tên tôi), còn
bây giờ là Chánh Trinh (ghép tên con gái tôi Lý Quỳnh Kim Trinh và con trai Lý
Quí Chánh). Lối bình luận đi sâu vào trận đấu, có những nhận xét về lối chơi cá
nhân, đưa ra cả những cảm nhận của riêng mình, khen chê rạch ròi “ông vua sân
cỏ” - với báo chí hiện nay là bình thường – nhưng ở thời gian đầu sau tháng
4-1975 là mới lạ và có sức thu hút lớn đối với người đọc. Tôi còn nhớ cha của
hai cầu thủ lừng danh là Thế Anh và Cao Cường có nhận xét rằng trước đây ông
chưa bao giờ được đọc trên báo những lời bình luận cụ thể về lối chơi của hai
con ông, nhất là những lời ca ngợi đích danh như được đọc trên Tin
Sáng. Trước kia các trận đấu chỉ được đưa tin gắn gọn, nhấn mạnh tinh
thần thể thao xã hội chủ nghĩa và đoàn kết hữu nghị (nếu là trận quốc tế), ít
khi đi vào các tình tiết của trận đâu; còn sự khen tặng, ngợi ca tài năng của
các cầu thủ coi như rơi vào khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân.
Trong cuộc đời làm báo của tôi sau 1975, lần lượt tôi cộng tác
(với tư cách tổng thư ký hoặc thư ký tòa soạn) cho tất cả 8 tờ báo (Tin
Sáng, Lao Động, Thanh Niên Thời Đại, VDT(phụ san báo Bà Rịa Vũng
Tàu), Tia Sáng, Kiến Thức Gia Đình (phụ san báo Nông
Nghiệp Việt Nam), Đẹp, không kể có bài trên các báo khác
như Pháp Luật TP.HCM, Công An TP.HCM, Sài Gòn doanh nhân cuối tuần, Phụ
Nữ TP.HCM, Người Lao Động, Thanh Niên, Thể Thao Ngày Nay..., nhưng cuối
cùng cái đọng lại, làm cho tôi gần gũi với độc giả của mình, được họ yêu thương
nhất lại chính là bút hiệu Chánh Trinh viết về bóng đá! Tôi rất biết ơn độc giả
và rất hãnh diện về những gì mình gây dựng được chung quanh bút danh này.
Nói về bút hiệu Chánh Trinh, mà tôi ưng ý nhất là trong những
năm 1980-1990 - ở cả hai mặt bình luận các trận đấu và chống tiêu cực trong thể
thao – công bằng mà nói bút hiệu đó sẽ không “đứng” được nếu không có sự góp
sức và ủng hộ tích cực của tập thể lãnh đạo tờ báo Tuổi Trẻ từ
anh Võ Như Lanh (tổng biên tập), chị Kim Hạnh (phó tổng biên tập) đến các anh
Trương Anh Dũng (Tám Đăng), Huỳnh Sơn Phước (đều là phó tổng biên tập). Bởi để
đối phó với các áp lực từ nhiều phía vào thời kỳ còn bao cấp trong thể thao,
tay nghề và sự quyết tâm của riêng người cầm viết thôi không đủ sức “đứng” một
mình. Sự dũng cảm của ban biên tập giúp cho sự dũng cảm của người cầm viết có
điều kiện thể hiện trên mặt báo. Không riêng cá nhân tôi mà cả tổ phóng viên
thể thao lúc đó (gồm có Tường Vy, Hoài Lê, Đặng Hoàng, Sỹ Huyên) đều nhận được
sự hỗ trợ hết lòng của ban biên tập báo. Đó là một ê kíp phụ trách trang thể
thao cho một tờ báo mạnh nhất và đồng đều nhất mà tôi có dịp cùng cộng tác với
bút hiệu Chánh Trinh. Mỗi cây viết có một phong cách riêng, một sở trường riêng
hợp thành một đội hình rất đẹp.
Vì anh Tường Vy không còn ở lại với anh em, anh đã ra đi vĩnh
viễn (cuối tháng 4-2004) nên tôi xin nói thêm về anh. Năm 1980 khi tôi từ
báo Tin Sáng được điều sang báo Tuổi Trẻở đường
Phạm Ngọc Thạch (nay là tòa soạn báo Khăn Quàng Đỏ), có tin anh
cũng sắp chuyển từ báo Tiền Phong về Tuổi Trẻ. Đúng
ra anh về đây trước tôi. Tổng biên tập Võ Như Lanh đã xin anh Tường Vy từ khi
tờ Tin Sáng bộ mới chưa ngưng xuất bản, nhưng thủ tục chuyển
hơi chậm. Dự định ban đầu của Tuổi Trẻ là giao cho Tường Vy
phụ trách tổ thể thao. Nhưng tôi về trước và do đã phụ trách thể thao ở
báo Tin Sáng nên được ban biên tậpTuổi Trẻ giao
tiếp trách nhiệm này. Lúc đầu anh Tường Vy không hoàn toàn đồng ý sự phân công
này và mặt khác cũng không tin lắm cái anh tri thức tiểu tư sản Sài Gòn có đủ
chuyên môn để phụ trách tổ thể thao! Trong 5 năm (1980-1985) làm việc chung với
anh Tường Vy ở báo Tuổi Trẻ không thể tránh thỉnh thoảng có
vài mâu thuẫn xảy ra, nhưng cuối cùng chúng tôi đã dành cho nhau sự kính trọng
nghề nghiệp giữ mãi đến cuối đời. Chúng tôi được đào tạo khác nhau, cách sống
và cả cách ăn mặc cũng khác nhau. Trong viết lách phong cách càng khác, nhưng
trên cùng một trang báo thể thao có anh và có tôi thì nhịp nhàng làm sao! Phong
cách viết của anh Tường Vy độc đáo: anh có lối viết thật ngắn, không thể nào
ngắn hơn được nữa. Và thật sắc nhọn. Tôi không đủ chữ nghĩa như anh. Có vị lãnh
đạo trong ngành thể dục thể thao không chịu nổi sự “sắc nhọn” của ngòi viết anh
đã phản ứng lại bằng cách ra lệnh cho các trưởng phòng trong ngành dưới quyền
mình “thấy thằng Tường Vy đến đâu thì tống nó ra như con chó...”! Đoàn kết với
Tường Vy, tôi đã công khai phản đối thái độ quan liêu và thiếu văn hoá này.
Trong buổi công bố kết quả cuộc bầu Quả Bóng Vàng năm 2002 của
báo Sài Gòn Giải Phóng, lúc đó tôi vừa phục hồi sức khỏe tàm
tạm, Tường Vy có đến bàn tôi ngồi và nói “Tôi cũng bị bệnh nặng phải hóa trị,
tóc rụng hết. Bây giờ mới bắt đầu mọc lại. Ông à tụi mình vẫn chiến đấu, đâu có
chịu đầu hàng dễ dàng!”. Nhưng rồi chỉ một năm sau... Thôi bạn đi trước nhé.
Rồi tụi mình cũng sẽ gặp nhau tha hồ mà bàn chuyện bóng đá.
...Sau khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, như đã
nói, tôi tiếp tục làm báo. Lúc đầu có dự định chuyển về báo Sài Gòn
Giải Phóng nhưng nghe nói do có ý kiến của ông Võ Văn Kiệt, Bí thư
Thành Ủy, tôi được đưa sang báo Tuổi Trẻ (1980) để phụ một tay
với tờ báo của Đoàn Thanh Niên. Tuy nhiên dù đã về Tuổi Trẻ tôi
vẫn tiếp tục phụ trách trang thể thao củaSài Gòn Giải Phóng thêm
một thời gian khá dài. Tổng biên tập báo SGGP lúc đó – anh Tô Hòa là người say
mê bóng đá. Anh muốn tôi cộng tác cho hai nơi – Sài Gòn Giải
Phóng vàTuổi Trẻ. Nhưng sau một thời gian, tự tôi thấy
việc mình viết cho cả hai bên, gần như độc quyền về bình luận trong lĩnh vực
thể thao là không ổn. Lúc đó TP. HCM chỉ mới có hai tờ báo có bình luận bóng đá
thôi mà tôi lại “trấn thủ” cả hai bên. Tôi xin phép anh Tô Hòa cho rút lui khỏi Sài
Gòn Giải Phóng mặc dù nhuận bút SGGP trả cho tôi hàng tháng và từng
bài rất cao.
Ở tất cả bảy tờ báo mà tôi được giao làm tòa soạn từ sau 1975, ở
mỗi tờ tôi đều cố gắng có một đóng góp gì đó mới mẻ về hình thức, về nội dung
và cố tìm ra một công thức sáng tạo cho tờ báo. Người làm báo, cũng như bất cứ
một tri thức ở bất cứ lĩnh vực nào, luôn phải biết tự đòi hỏi mình tiến tới
phía trước, sáng tạo cái mới, cái chuyển động cho xã hội. Người trí thức sẽ
đánh mất vai trò của mình nếu đứng yên trên những thành tựu đã qua của mình.
Tôi rất sợ lặp lại chính mình: sống một cuộc sống mà chính mình
đã thuộc lòng từng ngày, từng buổi, từng việc của mình như một cái máy – dù là
một cái may hoàn chỉnh! Tồn tại chỉ để tồn tại thì không nên tồn tại.
Cho nên tôi sẵn sàng chia tay một tờ báo nếu tự nhận thấy ở đó
không còn điều kiện làm việc để sáng tạo hoặc chính những người có trách nhiệm
ở đó không tìm tòi sự đổi mới của tờ báo mà chỉ thỏa mãn với những gì đã có.
Điều tệ hại của một nhà báo là khi bắt đầu trở thành một công chức báo chí. Và
tôi cũng không thể chịu được sự bất công, thiếu dân chủ ở nơi mình làm việc dù
riêng cá nhân mình được ưu đãi. Có lẽ tôi là nhà báo duy nhất kể từ năm 1975 đã
chủ động thay đổi công việc qua nhiều tờ báo nhất. Từ sự đấu tranh nội bộ ở nhật
báo Tin Sáng đến sự ra đi tự nguyện khỏi báo Tuổi Trẻ sau
10 năm công tác chỉ vì ở đó có một số người cho rằng tôi đã là ‘‘quả chanh đã
hết nước rồi’‘. Rồi lại cũng vấn đề nội bộ tại báo Lao Động và
lại ra đi dù nơi đây từng có những điều kiện làm việc sáng tạo hơn cả. Anh
Trương Anh Dũng, tức Tám Đăng, là một nhà báo có tay nghề cao đồng thời là một
nhà tổ chức và quản lý báo giỏi, nhưng khi tôi thấy sự lãnh đạo ở đây trở thành
độc đoán, sự đối xử thiếu tôn trọng (mặc dù sự thiếu tôn trọng này đối với các
anh em khác chứ chưa đối với tôi) và cả sự thiếu minh bạch trong hoạt động kinh
tế thì không còn những điều kiện tốt nữa để tiếp tục cộng tác với nhau. Rút lui
khỏi các báo Tia Sáng, Kiến Thức Gia Đình(thuộc báo Nông
Nghiệp Việt Nam) là do bản thân tôi thấy các điều kiện làm việc không còn
hứng thú sáng tạo.
Có thể việc từ chức, rút lui ấy không phải tất cả đều là quyết
định khôn ngoan, nhưng chắc chắn một điều là tất cả các quyết định ấy đều thật
lòng, không bị thúc đẩy bởi tham vọng hay ý đồ cá nhân. Và với tất cả những tờ
báo mà tôi đã từng chia tay, kể cả những trường hợp sóng gió nhất, sau này khi
có cơ hội để nối lại quan hệ hợp tác tôi đều không từ chối (ngoại trừ tờ Tin
Sáng vì không tái bản). Không phải vì tôi không có thái độ nhất quán,
kiên định lập trường, mà vì tôi coi các báo trong xã hội hiện nay là tài sản
quốc gia, là công cụ của nhân dân chứ không thuộc về một cá nhân nào. Tôi viết
cho tờ báo là cho độc giả - chính họ mới là những người chủ thật sự của tờ báo.
Tôi quan niệm các cuộc đấu tranh nằm trong quy luật tiến hoá, nó khẳng định
quan diểm, thái độ sống của mình từng lúc nhưng không nên ôm mãi trong lòng
những chuyện đã qua làm nặng nề bước chân đi tới. Dĩ nhiên sau một cuộc va chạm
mạnh, những mâu thuẫn bùng nổ, mình được hiểu những con người chung quanh mình
nhiều hơn.
...Tuy nhiên không thể chối cãi trong 30 năm viết báo và làm báo
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tôi vẫn phải gánh trên lưng mình cái lý lịch
“Viên chức cao cấp chế độ cũ”. Có lúc tưởng nó được cất đi nhưng rồi một vụ
việc gì đó xảy đến lại nhắc nhở tôi rằng “nó”...vẫn còn y nguyên đó. Lâu ngày
như kẻ dị tật, mang sẵn “cái bướu” trên lưng mình, tôi quen dần với “nó” hoặc
cố gắng phớt lờ “nó”.
...Trong các tổng biên tập mà tôi từng có cơ hội làm việc chung,
tôi vẫn giữ ấn tượng với hai con người mà tôi rất quí trọng. Người đầu tiên là
anh Tô Hòa, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng những thập
niên 70-80. Ở vào thời điểm mà “người cũ” “người mới” vẫn còn bị phân biệt khá
nặng nề, anh cư xử với tôi rất tự nhiên, chân tình và thẳng thắn. Dù tôi không
tiếp xúc nhiều với anh, nhưng anh vẫn để lại trong ký ức tôi hình ảnh một con
người chân tình. Lúc tôi về hẳn Tuổi Trẻ không còn làm ở báo
SGGP nữa, nhưng mỗi khi có các trận bóng đá A1 tổ chức ở các tỉnh lân cận như
Long An, Biên Hòa, anh Tô Hòa vẫn thường mời tôi sang báo SGGP để cùng đi xem
với anh. Những dịp như thế, trò chuyện với anh thật thú vị và hữu ích. Anh
không bao giờ giữ kẽ hoặc khoảng cách. Anh không ngần ngại đề cập mọi vấn đề
với tôi, dù vấn đề thuộc loại gai góc. Thường các quan điểm của anh không cứng
nhắc hay bảo thủ, trái lại rất thực tế và mới mẻ...
Với anh Tống Văn Công, tổng biên tập báo Lao Động (cho
đến năm 1995) tôi có nhiều cơ hội gần gũi hơn; đã từng sống chung nhiều tháng
với anh tại tòa soạn báo Lao Động ở Hàng Bồ (Hà Nội). Anh là
một con người rất dễ gần gũi và đáng kính trọng. Anh đọc nhiều, hiểu biết
nhiều, sẵn sàng tiếp thu, tìm hiểu những luồng tư tưởng mới dù cho cái mới đó
đang bị một bộ phận xã hội chưa đồng tình. Trong cái nhìn của tôi, anh là một
người cộng sản không bảo thủ, trung kiên với lý tưởng của mình nhưng luôn hướng
tới những suy nghĩ mới, chấp nhận những tranh luận mới. Khi làm việc và nói
chuyện với anh, tôi quên mất... “cái bướu” trên lưng mình. Anh còn là một nhà
báo viết tốt, biên tập giỏi, tin cậy và đánh giá đúng khả năng các cộng sự viên
của mình.
Thật ra tôi biết anh từ lúc anh còn làm tổng biên tập tờ Công
nhân Giải Phóng (tiền thân của tờ Người Lao Động), còn tôi
đang làm ở báo Tin Sáng. Chúng tôi cùng sinh hoạt trong Hội nhà báo
TP.HCM. Còn cuộc tiếp xúc đầu tiên của anh mời tôi về cộng tác với báo Lao
Động là năm 1990 tại Hà Nội khi tôi đi dự Đại hội Liên đoàn Bóng đá
Việt Nam. Lúc này tôi đang công tác ở báo Tuổi Trẻ. Anh Nguyễn Hữu
Tính, trưởng văn phòng báo Lao Độngphía Nam, là người “móc nối” cho
sự hợp tác này. Trong cuộc đời làm báo của tôi, năm năm làm việc với báo Lao
Động là thời gian phát huy nghề nghiệp hào hứng và sáng tạo nhất. Những năm
tháng đẹp nhất và đáng nhớ nhất. Nhưng cũng như trong bóng đá, không có một
“dream team” nào tồn tại mãi mãi. Chuyện lên rồi xuống và hợp rồi tan của bất
cứ một tập thể nào trong bất cứ lãnh vực nào cũng là quy luật!
Tôi cho rằng, trong cương vị tổng biên tập, anh Tống Văn Công
thiếu sự quyết đoán và không kịp thời chận đứng những lệch lạc trong nội bộ,
khiến cho con đường phát triển độc đáo của tờ báo - một tờ báo mang tính đột
phá về nghề nghiệp ở thời điểm đó - bị khựng lại giữa lúc đầy phấn khởi. Anh
được cho về hưu vào cái lúc anh thành đạt nhất trong sự nghiệp báo chí của
mình. Tôi thương và quý trọng anh. Tôi nhớ mãi những buổi sáng anh thức dậy sớm
ở Hà Nội (tại tòa soạn ở Hàng Bồ) loay hoay nấu cơm nếp cho buổi điểm tâm của
hai chúng tôi. Nhưng mười buổi thì hết năm sáu buổi nếp chín không đều. Rốt cục
tôi thuyết phục anh ra ngoài ăn phở, ăn xôi nếp ruốc rất ngon, có gì phải...
“phiêu lưu” như thế. Từ khi có tôi cùng ở chung, anh mới tập cho mình thói quen
đi ăn uống ngoài phố.
Trong làng báo còn có một người mà tôi có khá nhiều kỷ niệm rất
đáng nhớ: Đó là anh Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN). Tôi
quen anh từ thời kỳ anh phụ trách Báo Ảnh Việt Nam của TTXVN.
Khi sắp sửa kỷ niệm 5 năm ngày giải phóng đất nước (30-4-1980), anh tiếp xúc
với tôi và yêu cầu tôi viết một bài báo cho Báo Ảnh Việt Nam. Anh
nói: “Anh cứ viết theo ý anh, anh viết thế nào, báo sẽ đăng như thế”. Bài báo
tôi viết cho Báo Ảnh số đặc biệt 30-4-1980 có cái tựa “Năm năm
sống và làm việc với người cộng sản”. Đúng như lời hứa của anh Đỗ Phượng, bài
báo được đăng nguyên văn, không có một từ ngữ nào bị thay đổi. Đến ngày kỷ niệm
10 năm giải phóng, qua nhà báo Hoàng Chu, anh Đỗ Phượng lại đặt tôi viết bài
cho Báo Ảnh nhân sự kiện này. Thế là lần thứ hai tôi viết bài
kỷ niệm 30-4 cho Báo Ảnh.
Khi Việt Nam tổ chức Hội nghị báo chí Châu Á – Thái Bình Dương
tại TP. HCM năm 1989 (địa điểm họp là khách sạn Rex), tôi được mời tham gia
trong đoàn đại biểu Việt Nam. Trưởng đoàn là ông Đào Tùng, tổng giám đốc Thông
Tấn Xã Việt Nam. Tôi nhớ có ba nhà báo ở TP.HCM có mặt trong đoàn đại biểu: anh
Võ Như Lanh (phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng), linh mục
Trương Bá Cần (báo Công giáo và Dân tộc) và tôi (lúc đó đang công
tác tại báo Tuổi Trẻ). Ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã đến dự
Hội nghị và có một cuộc đối thoại sôi nổi và thành công với các nhà báo quốc tế
dự Hội nghị. Khi còn một ngày nữa bế mạc, tan phiên họp buổi sáng, anh Đỗ
Phượng lúc này là phó tổng giám đốc TTXVN và thành viên trong ban tổ chức, gặp
riêng tôi và đưa ra yêu cầu: vào đầu giờ chiều tôi sẽ có bài phát biểu trước
hội nghị với tư cách thành viên của đoàn Việt Nam. Tôi chỉ có hơn hai tiếng
đồng hồ để chuẩn bị bài phát biểu của mình. Tôi hỏi anh: “Tôi sẽ phát biểu về
vấn đề gì?”. Anh trả lời: “Anh đã theo dõi các phiên họp và nghe các phát biểu
của các đại biểu. Anh cứ chọn đề tài nào phù hợp với mình...”. Tôi lại hỏi:
“Anh có cần xem qua bài phát biểu khi tôi soạn xong?”. Anh lắc đầu “Không. Anh
cứ phát biểu theo ý anh”. Đầu giờ chiều tôi được ông Đào Tùng chủ tọa Hội nghị
mời phát biểu.
Ra làm tổng thư ký tòa soạn cho báo Lao Động tại
Hà Nội, tôi có dịp sang trụ sở TTXVN để bàn về sự hợp tác giữa hai cơ quan. Lúc
này anh Đỗ Phượng là tổng giám đốc, đã dành cho tôi sự tiếp đón ân cần và nồng
hậu. Anh không hề để bụng sự phản đối trước đó rất quyết liệt của tôi – ngay
trên mặt báo Tuổi Trẻ - khi anh là tác giả cho ra đời các ấn
phẩm phụ của TTXVN như Tin Tức, Văn Hóa Thể Thao... vào thời kỳ mà
các báo đều đói thông tin về World Cup nhưng TTXVN lại dành riêng các thông tin
sớm nhất cho các ấn phẩm mới ra đời của mình (World Cup 1986). Tôi cũng còn nhớ
trong một buổi họp lấy ý kiến của các đồng nghiệp ở TP.HCM đối với tờ Văn
Hóa và Thể Thao của Thông Tấn Xã, do chính anh chủ trì (khi tờ báo
xuất bản được mấy tháng), tôi có chê hình thức và cách trình bày kỹ thuật của
tờ báo còn yếu, thậm chí phạm quy cách báo chí như cho leo bài tiếp theo ngược
ra trang phía trước... Anh không phản ứng gì, lặng lẽ ghi vào sổ tay.
Mười lăm năm sau, các ấn phẩm phụ mà anh đã nghĩ ra đều thành
công, nhất là tờ Thể Thao và Văn Hóa. Thành công ở cả hai mặt: về
chuyên môn và cả về uy tín một tờ báo luôn có quan điểm tiến bộ trên hầu hết
các lĩnh vực mà tờ báo đề cập đến. Dù muộn màng nhưng tôi cũng xin rút lại sự
phản đối ban đầu của mình cách đây... 15 năm.
Với anh Đỗ Phượng, dù những lần tôi tiếp xúc với anh không nhiều
nhưng tôi vẫn xem anh là một người bạn quí không chỉ trên phương diện báo chí.
Trong bối cảnh của đất nước mới thống nhất, vượt được những rào cản vô hình để
cố gắng xử sự với nhau có tình và mã thượng - quả thật không dễ. Hơn ai hết,
tôi thấm thía điều đó.
Tiếp tục nói về những người cộng sản đã làm tôi quên đi cái
“bướu” trên lưng của mình, tôi phải trân trọng nhắc đến một con người, một nhân
vật lớn của đất nước – ông Võ Văn Kiệt – mà thỉnh thoảng tôi vẫn có dịp gặp
trong suốt 30 năm qua. Trong suốt thời gian dài ấy, mỗi lần gặp lại ông thì
tình cảm, cách xử sự của ông cũng vẫn thế, không hề thay đổi. Tôi vẫn gọi thân
mật ông là Anh Sáu như thời ông còn là Bí thư Thành Ủy TP.HCM dù cho sau này
ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng, rồi khi hưu, trở về sống ở
TP.HCM. Tôi biết ông Võ Văn Kiệt cũng xử sự như vậy, trước sau như một, với
nhiều trí thức Sài Gòn và họ cũng giữ trong lòng mình một tình cảm và sự kính
trọng hết sức đặc biệt dành cho ông.
Tôi nhớ lần đầu ông đến thăm gia đình tôi (lúc đó ở trong một
con hẻm đường Nguyễn Tri Phương quận 10) trước khi ông rời thành phố ra Hà Nội
đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (năm 1982), và lần mới đây
nhất ông đến nhà tôi ở đường Bà Hạt (quận 10) lúc tôi còn nằm trên giường bệnh
(tháng 9-2002). Hai lần ông đến thăm tôi cách nhau khoảng 20 năm, nhưng vẫn là
một con người, tôi vẫn tưởng như không có thời gian 20 năm xen giữa hai cuộc
thăm viếng đó. Bao giờ cũng thế, kèm theo cái bắt tay mạnh mẽ vẫn là một nụ
cười cởi mở và đôn hậu, lan tỏa đến người đối diện cả niềm tin và sự lạc quan.
Tiếp xúc với ông Kiệt, tôi chưa bao giờ cảm nhận có một khoảng
cách về địa lý – ngay cả lúc gặp ông đang làm Thủ tướng chính phủ tại Hà Nội –
hay một khoảng cách giữa người xuất thân từ chế độ cũ với người cộng sản đang
làm lãnh đạo. Sự chân thật, thẳng thắn không quan liêu, một tấm lòng vì dân vì
nước, cùng sự lắng nghe xung quanh, dám có ý kiến dứt khoát khi cần ở ông cho
tôi một hình ảnh mẫu về người cộng sản Việt Nam.
Trong cuộc đời thứ hai của tôi, ông Võ Văn Kiệt là nhân vật có
một ý nghĩa đặc biệt với bản thân tôi mà có lẽ chính ông cũng không ngờ. Suốt
30 năm sống trong chế độ mới, tôi không có một quan hệ riêng nào như thế với
bất cứ một vị lãnh đạo cộng sản nào. Tôi không bao giờ dựa vào mối quan hệ với
ông Kiệt để nhờ cậy bất cứ điều gì. Tôi tìm đến ông là tìm đến một người cộng
sản để củng cố thêm trong tôi niềm tin về sự chọn lựa của mình, tìm đến một con
người mà tôi có thể chia sẻ niềm tin, tình cảm và tâm tư một cách thẳng thắn từ
chuyện đất nước cho đến chuyện... bóng đá.
Tôi có hai lần gặp ông Kiệt vì công việc. Lần đầu trong khoảng
thời gian 1979-1980 liên quan đến cuộc đấu tranh nội bộ ở báo Tin Sáng.
Ông mời tôi ăn tối tại một biệt thự ở An Phú (TP.HCM), lúc đó ông là Bí thư
Thành Ủy, ông muốn tìm hiểu thêm nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nội bộ tại
tòa báo Tin Sáng. Lần thứ hai tôi gặp ông Võ Văn Kiệt tại Hà Nội
khi ông làm Thủ tướng (1994): tôi có ý định rút lui khỏi báo Lao Động trở
về TP.HCM vì có một đề xuất từ Vụ Báo Chí với tổng biên tập báo Lao
Động là: không nên tiếp tục giao chức danh tổng thư ký tòa soạn cho
tôi và nên tìm một chức danh khác cho tôi dù công việc vẫn như cũ. Tôi dứt
khoát không chấp nhận làm một việc nhưng việc ấy lại mang một danh nghĩa khác.
Tôi xin gặp ông Kiệt để chào ông trước khi rời Hà Nội.
Cả hai lần ông đều cho tôi những lời khuyên rất quí và thực tế.
Trong thời gian viết báo sau 1975, tôi đã dành rất nhiều bài
viết về bóng đá với mong muốn làm thế nào được thấy cái xứ sở say mê bóng đá
cuồng nhiệt như Việt Nam sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu kéo dài. Khi không
còn làm thủ tướng nữa, ông Kiệt cũng nhiều lần đóng góp ý kiến với Ủy ban thể
dục thể thao nhằm tìm kiếm con đường đi lên cho bóng đá Việt Nam. Một hai lần
tôi được ông mời tới hỏi ý kiến và rất ngạc nhiên nhận thấy ông hiểu tường tận
tình hình bóng đá, kể cả những con người đang cẩm trịch làng bóng, không kém
bất cứ ai trong giới. Những ý kiến của ông góp với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam
(LĐBĐVN) từ thời nhiệm kỳ 3 theo tôi có giá trị như một cẩm nang để cho LĐBĐVN
xây dựng nền móng bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, từ cách chọn những nơi có
tiềm lực lớn để thành lập các CLB chuyên nghiệp có tầm cỡ cho đến định hướng xã
hội hoá có khả năng thu hút rộng rãi chất xám và sức mạnh vật chất của xã hội.
Rất tiếc các ý kiến của ông Kiệt đã bị bỏ qua. Trước Đại hội LĐBĐVN kỳ 4, ông
Kiệt cũng có nêu một ý kiến với Ủy ban Thể dục thể thao (UBTDTT) nhằm đổi mới
Liên đoàn.
Theo tôi, nếu các ý kiến của ông Kiệt ở các lần ông đóng góp
được LĐBĐVN và UBTDTT được quan tâm đúng mức thì bóng đá Việt Nam đã có cơ may
chuyển biến và thực hiện được sự đột phá.
...Có một sự việc mà trước nay tôi chưa bao giờ nói ra: năm 1987
hay năm 1988, tôi không nhớ rõ, tôi có viết một thư riêng cho ông Kiệt lúc đó
là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, còn tôi đang công tác tại báo Tuổi
Trẻ. Một bức thư tâm tình, trao gửi đến ông những trăn trở, hoài bão của
một trí thức Sài Gòn đang cố gắng hòa nhập với chế độ mới bằng lý tưởng mà mình
chọn lựa chứ không phải bằng “cơ chế” hay bằng “chính sách ưu đãi trí thức”.
Chính sách ưu đãi tôi đã chối từ rất sớm ngay ở những năm đầu 80, lúc bấy giờ
những người trí thức cũ gọi là đầu đàn đều được Thành Ủy TP.HCM cho một phụ cấp
đặc biệt hàng tháng ngoài phụ cấp được lãnh trong cương vị công tác của mình.
Khi từ báo Tin Sáng về làm việc ở báo Tuổi Trẻ (1980),
tôi đã viết đơn cho Thành Ủy báo tôi không nhận phụ cấp đặc biệt này nữa. Ngay
lúc đó tôi đã không muốn mình được cư xử như một “người khách ưu đãi”. Tôi muốn
tôi được coi như một thành viên thật sự của đại gia đình mới.
Trong lá thư gửi cho ông Kiệt, tôi có bày tỏ với ông nguyện vọng
ngày nào đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo tôi đó là một
nguyện vọng bình thường của một người tán đồng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn
nhận quá trình của Đảng Cộng sản Việt Nam vì nước vì dân, có công giành độc lập
và thống nhất cho Tổ quốc. Tôi nghĩ mình sẽ phục vụ tốt hơn cho đất nước trong
tổ chức và với cương vị một đảng viên. Tôi có nói với ông Kiệt việc nêu nguyện
vọng ấy là một thái độ chính trị trung thực với chính mình, còn việc có được
kết nạp đảng hay không là một vấn đề khác.
Anh Tống Văn Công nghe tôi kể lại chuyện này có nói: “Thế thì
anh mới đi theo ngọn cờ dân tộc của Đảng Cộng sản, còn ngọn cờ chủ nghĩa xã hội
thì sao?” Đúng là Đảng Cộng sản Việt Nam chinh phục tôi trước hết bởi lòng yêu
nước, tinh thần đấu tranh cho độc lập dân tộc nhưng mặt khác tôi cũng tìm thấy
ở chủ nghĩa Mác – theo cách tiếp thu của tôi - những nguyên lý định hướng cho
cuộc sống và thái độ chính trị của mình.
Trở lại chuyện viết thư cho ông Kiệt bày tỏ nguyện vọng vào Đảng
rất dễ gây ngộ nhận và có thể khiến một số người nghĩ rằng tôi có toan tính lợi
dụng con người vào Đảng để thực hiện những tham vọng riêng. Nhưng tôi không quan
tâm những lời đàm tiếu ấy. Đã có một thời mình có một nguyện vọng như thế và
một thái độ chính trị như thế, tại sao lại phủ nhận hoặc giấu giếm nó đi? Tôi
chẳng có chút ngại ngùng và mặc cảm gì để nhắc lại chuyện ấy. Ngược lại, cho
đến bây giờ, tôi vẫn coi đó là một thời điểm đáng nhớ trong cuộc đời mình.
Chị Kim Hạnh, lúc đó là tổng biên tập báo Tuổi Trẻ,
cũng biết chuyện này vì sau khi nhận thư của tôi, ông Kiệt có viết thư cho chị
Hạnh để báo cho chị biết nguyện vọng của người cộng sự của chị. Chị Hạnh có nói
lại cho tôi một phần nội dung lá thư của ông Kiệt và nói thêm việc tôi có vào
Đảng hay không do các đoàn thể ở báo Tuổi Trẻ quyết định. Lúc
đó có thể chị Kim Hạnh hiểu lầm chăng tôi có ý định vận động với ông Kiệt để
được vào Đảng? Thật ra bức thư của tôi gửi cho ông Kiệt chỉ mang tính chất
riêng tư, với một người có thể hiểu được tâm hồn mình, có thể lắng nghe và chia
sẻ với mình.
Chuyện có nguyện vọng trở thành đảng viên, với thời gian trôi
qua và thực tế trong những năm công tác sau đó làm tôi quên đi, nhưng dẫu không
thành tôi vẫn không bao giờ từ bỏ lý tưởng mà mình đã chọn.
Tôi cảm phục ông Võ Văn Kiệt không vì sự đối xử của ông với
riêng tôi, mà chính do thái độ và cách xử sự của ông đối với các trí thức và
nhân vật chính trị khác trước đây ở Sài Gòn. Tôi sẽ không nhắc lại những chuyện
đã được báo chí kể, chuyện về những trí thức mà ông Kiệt cố gắng giữ họ ở lại
sau tháng 4-1975, có người được đích thân ông đi xuống tận tỉnh xa để lãnh về
sau một chuyến vượt biên bị bắt, nhưng sau đó lại cho đi chính thức theo nguyện
vọng của họ để ra nước ngoài có thể theo đuổi các cuộc nghiên cứu khoa học dễ
dàng hơn v.v... Sau này ông nói với tôi, ngay khi đất nước vừa thống nhất Tổng
bí thư Lê Duẩn luôn nhắc nhở “hãy cố gắng hàn gắn và hòa hợp”.
Từ rất sớm ông Kiệt đã có những đánh giá rất công bằng đối với
vai trò của ông Dương Văn Minh trong sự kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ông nhấn
mạnh: giữa Thành Ủy TP.HCM lúc đó và phần đông quần chúng ở thành phố không có
sự khác nhau về đánh giá vai trò của ông Minh trong ngày 30-4-1975. Ông Kiệt
cho tôi biết trước khi ông bà Minh rời Việt Nam sang Pháp, ông có nhờ bà Bùi
Thị Mè (là “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”), một trí thức cách mạng, từng có mặt
trong chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, tổ chức một buổi cơm thân
mật tiễn ông bà Minh lên đường. Thời trẻ bà Mè và ông Minh từng quen biết nhau
vì học chung một trường, ông Minh học trên bà Mè một lớp. Ông Kiệt cũng tiết lộ
ông từng nhờ bà Mè chăm sóc mẹ của ông Minh một thời gian dài – lúc bà cụ sống
ở Thủ Đức. Bà Mè tiếp tế cho bà cụ khi thì gạo ngon, khi thì nước mắm, đường,
sữa... mà sau tháng 4-1975 mọi thứ đều khan hiếm.
Trong bữa cơm thân mật tại nhà bà Mè trước ngày ông bà Minh lên
đường, ông Minh có cho ông Kiệt biết tổng lãnh sự Pháp tại TP.HCM, theo chỉ thị
từ Paris có bày tỏ ý muốn được lo cho chuyến đi của ông Minh về mọi phương
diện, kể cả vé máy bay. Ông Minh đã trả lời tổng lãnh sự Pháp: “Mọi việc đã có
chính phủ tôi lo rồi”.
Ông Kiệt rất cảm kích câu trả lời này của ông Minh.
Khi chào từ biệt ông Kiệt, ông Minh có hứa khi sống ở nước ngoài
ông sẽ không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho nước nhà. Về việc này ông Kiệt
nói rõ thêm: về phía ông và Thành Ủy không đưa ra một yêu cầu nào đặc biệt với
ông Minh. Về ý định xin ra sống ở nước ngoài, lúc đầu ông Minh có thăm dò ý
kiến ông Kiệt qua bà Mè. Lúc này ông Kiệt đang là Bí thư Thành Ủy TP.HCM, ông
Kiệt trả lời vấn đề đó tùy thuộc ở ông Minh; Thành Ủy và Trung ương không ngăn
cản nếu ông bà Minh muốn ra nước ngoài sống với con cháu. Ông Kiệt có gợi ý một
số phương án với ông Minh để ông chọn lựa như là đi thăm con cháu rồi trở về,
hoặc sang sống với con cháu khi nào muốn về thăm quê thì cứ về.
Theo ông Kiệt, bà Minh rất muốn ra đi vì nhớ con cháu, còn ông
Minh thì có sự do dự do bà mẹ của ông nhất định không chịu đi. Bà cụ nói “Tao
muốn được chết ở quê nhà”. Được biết khi ra đi, ông Minh được tự do mang theo
hành lý với số cân không hạn chế và hoàn toàn không bị kiểm tra. Chính ông Kiệt
đã chỉ thị như thế.
Năm 1984, lúc còn là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn
Kiệt đi dự Quốc khánh CHDC Đức, sau đó viếng thăm chính thức Algerie. Trên
đường về ông ghé qua Pháp. Tại Paris, ông muốn thăm ba người: ông Dương Văn
Minh, ông Phạm Ngọc Thuần và giáo sư Phạm Hoàng Hộ, ông có nhờ sứ quán Việt Nam
tại Pháp liên lạc với các vị này. Lúc đó ông Thuần đang ở một tỉnh miền Nam
nước Pháp, không liên lạc kịp. Với ông Phạm Hoàng Hộ, ông Kiệt có mời cùng đi
dạo bằng tàu trên sông Seine.
Riêng cuộc gặp ông Minh có nhiều tình tiết đáng kể hơn. Đầu tiên
là địa điểm gặp. Ông Minh không muốn đến sứ quán Việt Nam và cũng không muốn để
ông Kiệt đến nhà (ông và bà Minh không có nhà riêng, sống chung với đứa con
trai kế tên Tâm). Cuối cùng ông bà Minh đón ông Kiệt tại nhà một người bạn của
ông bà là bác sĩ Danh. Theo sự dặn dò trước của ông Kiệt, đại sứ Việt Nam tại
Pháp đi theo ông Kiệt vào chào ông bà Minh rồi trở ra xe để cho cuộc tiếp xúc
giữa ông Kiệt và ông Minh được tự nhiên thân mật.
Một trong những câu nói đầu tiên của ông Minh khi gặp ông Kiệt
là: “Anh đã biết đó, tôi luôn giữ lời hứa khi rời khỏi Sài Gòn: Sang đây tôi
không tiếp xúc với báo chí và cũng không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho ở
nhà”. Dù đã từng ở hai chiến tuyến khác nhau, nhưng giữa hai con người có nhân
cách lớn đó vẫn có sự tương kính lẫn nhau và có một tình cảm đặc biệt dành cho
nhau.
Về chuyện ông Minh ở nước ngoài từ chối tiếp báo chí, có một
nhân chứng đáng tin cậy khẳng định điều đó: nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti
(đã có một phỏng vấn đặc biệt Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho báo Le Monde nhân
kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ) có nói với tôi rằng lúc ông Minh còn
ở Paris (những ngày cuối cùng ông sang Mỹ sống với cô con gái), Jean Claude có
điện thoại cho ông Minh để xin gặp ông nhưng ông Minh khéo léo từ chối, mặc dù
ở Sài Gòn nhà báo Pháp này từng vô Dinh Hoa Lan rất thường xuyên.
Có một lần tôi được ông Kiệt mời đánh quần vợt với ông trong
Dinh Thống Nhất. Tôi kể chuyện ông Minh từng có ý định vào đánh sân này nếu đổ
xong Thiệu – cho ông Kiệt nghe. Ông Kiệt lặng im một lúc rồi nói:
“Ông Minh là một con người tốt và có lòng với đất nước. Hôm ông
ra đi ông có tặng tôi một cái hộp dài như cái va-li để đựng vợt, giày, quần áo,
bóng... dùng để đi đánh quần vợt. Về phần tôi cũng có chuẩn bị trước, tôi tặng
lại cho hai ông bà hai huy hiệu của TP.HCM để hai ông bà vẫn nhớ mình là công
dân của thành phố này dù có đi xa”.
Cũng trong buổi nói chuyện này bên sân quần vợt, tôi có kể cho
ông Kiệt nghe một số suy nghĩ của thượng tọa Thích Trí Quang về ông Minh. Sau
ngày 30-4-1975 được vài tháng, tôi đến thăm thượng tọa Trí Quang tại chùa Ấn
Quang. Ông hỏi tôi tình hình ông Minh thế nào, tôi cho biết sức khỏe ông Minh
vẫn bình thường và vẫn ở Dinh Hoa Lan. Khi ông Minh cùng vợ đi khỏi Sài Gòn
rồi, tôi lại có dịp gặp thượng tọa Trí Quang. Lúc này ông nói: “Thật rất tiếc.
Đáng lý ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân
chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế mà bây
giờ ông lại ra đi...”.
Ông Kiệt im lặng không bình luận, có lẽ vì chính ông hiểu rõ lý
do tại sao ông Minh rời quê hương: hai ông bà lớn tuổi sống một mình, con cháu
đều ở nước ngoài.
Theo tôi biết có hai lần ông Minh chuẩn bị trở về sống ở TP.HCM
nhưng rồi không hiểu vì sao cả hai lần đều dời lại. Cuối cùng ông đã qua đời
tại Mỹ. Cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ đã bày tỏ một tình cảm sâu sắc và kính
trọng dành cho ông mặc dù về mặt chính kiến họ có nhiều khuynh hướng khác nhau.
Cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng có đến dự lễ tang. Đài phát thanh BBC (bộ phận
tiếng Việt) có phỏng vấn tôi khi ông Minh mất. Trong buổi trao đổi kéo dài
khoảng nửa tiếng đồng hồ, có phần nội dung hỏi đáp như sau: “Ông Dương Văn Minh
có phải là người của Pháp?”– Có thể ông có tình cảm với người Pháp hơn
người Mỹ. Nhưng theo tôi ông không phải là người của Pháp. “Ông Minh
có phải là người của Mỹ?” – Cũng không. Người Mỹ không bao giờ tin ông. “Vậy
ông Minh là người của cộng sản?” – Theo tôi cũng không phải. Tôi nghĩ
ông Minh chỉ là người yêu nước.
Không phải người yêu nước nào ngay từ đầu cũng tìm ra ngay con
đường đi của mình. Nhưng khi có con tim chân thành với Tổ quốc, thường cuối
cùng cũng có một lựa chọn đúng đắn.
Tôi vẫn tiếc cho ông Dương Văn Minh, trước khi chết không có dịp
trở về thăm quê hương. Dinh Hoa Lan vẫn được chính quyền TP.HCM để cho người
trong gia đình ông Minh bảo quản. Mỗi lần có tin ông định về, biệt thự lại được
sửa sang, chăm sóc lại.
Trong quyển Hồ sơ mật Dinh Độc Lập của Nguyễn
Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter viết rằng ông Dương Văn Minh đã nhận tiền của
Mỹ để ra ứng cử làm bình phong cho tổng thống Thiệu ở cuộc bầu cử năm 1971.
Nguyễn Tiến Hưng kể rằng: “Ông Thiệu có bằng có là tướng Minh đã chuyển khoản
tiền đó từ Paris qua một trương mục của mình tại Đông Kinh Ngân hàng ở Sài Gòn.
Nhưng khi tướng Minh xét mình không thể địch nổi ông Thiệu, bèn ôm lấy tiền mà
không tranh cử nữa...”.
Nếu ông Minh đã lấy số tiền nào đó của tòa đại sứ Mỹ thì sau đó
ông không bao giờ tiết lộ ý đồ Mỹ mua chuộc ông với chủ bút báo Washington
Post Ben Bradlee ngay sau đó. Và nếu ông Thiệu nắm được bằng có thật
sự ông Minh nhận tiền của Mỹ thì trong ba năm đối đầu trên chính trường Sài
Gòn, ông Thiệu không thể không khai thác chuyện bê bối này của đối thủ số một.
Theo tôi đây chỉ là chuyện bịa đặt nhằm làm giảm uy tín của ông
Dương Văn Minh, thế thôi!
30 năm sau nhìn lại ngày 30-4-1975 mới thấy rõ hơn giá trị của
ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó - chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp của
người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất cho xứ sở - thì chắc chắn đất nước
hôm nay không an bình và phát triển, ổn định như đang có. Hiệp định Paris chỉ
là một giải pháp tình thế để tạm thời ngưng tiếng súng chứ không chấm dứt được
cuộc xung đột và mang lại hòa bình thật sự, dù cho các điều khoản của hiệp định
được mang ra áp dụng. Một chính phủ liên hiệp nếu được thành lập ở miền Nam
(theo hiệp định) cũng sẽ là sự tiếp nối của cuộc xung đột dưới một hình thái
mới, đầy hỗn loạn và bất ổn, có thể lại đổ máu và chết chóc; “bàn tay lông lá”
của người Mỹ vẫn có điều kiện xộc vào gây chia rẽ và hận thù giữa người Việt
với người Việt; kinh tế của miền Nam vẫn lệ thuộc, tồn tại bằng viện trợ nhỏ
giọt của các cường quốc đầy những ý đồ thôn tính; còn miền Bắc có lẽ vẫn sẽ khó
khăn, vẫn ở trong tình trạng đối phó chiến tranh vì phải tiếp tục dồn sức chi
viện cuộc đấu tranh ở miền Nam.
Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ tôi
vẫn tưởng nằm mơ. Tôi vẫn còn trong đầu mình hình ảnh chiếc cầu Long Biên đen
sì sừng sững đó trong lần đầu tôi ra Hà Nội cuối năm 1975. Hình ảnh ấy đã được
cất vào bảo tàng ký ức của người Việt Nam chúng ta, chỉ để nhớ lại khi cần hận
thù chiến tranh, cần cảnh giác trước những đe dọa xâm lược. Hà Nội bây giờ như
một thiếu nữ đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống. Và Sài Gòn mạnh mẽ hơn nhiều
và tự tin hơn nhiều trong cuộc hành trình mới, bởi sự tồn tại của thành phố này
không còn nhờ vào sự “tiếp máu” từ người khác.
CHƯƠNG 27: GIA ĐÌNH
PHẢN THẦN THÂN YÊU
Với tôi, gia đình là trên hết. Trên nền tảng quí trọng này mà
trân trọng cuộc sống lương thiện và có ích cho xã hội, yêu thương người khác,
yêu thương Tổ quốc. Gia đình là sức mạnh của mỗi chúng ta, cho ta động lực để
cống hiến, sự ổn định để sáng tạo và niềm tin nhìn vào tương lai.
Tôi không được cái hạnh phúc “một vợ một chồng” cho cả đời mình.
Nhưng trải qua ba lần lấy vợ, tôi lại càng nhận ra vai trò người vợ đối với tôi
quan trọng đến ngần nào. Tôi sẽ không là tôi như cuộc đời tôi đã sống và làm
việc nếu bên cạnh tôi không có người vợ - một nửa của tôi. Chúng ta không thể
nào đo lường được hết cái sức mạnh kì diệu của người phụ nữ gia đình và trong
sự gắn bó với sự nghiệp của người chồng. Ai không có hoặc đã đánh mất đi “phân
nửa” của chính mình thì ít nhiều đều què quặt trong cuộc đời!
...Các đứa em của tôi, vượt biên khoảng 1977 trên những chiếc
thuyền từ năm 1992 cũng bắt đầu lần lượt trở về. Tôi sung sướng tột cùng khi
được gặp lại những người ruột thịt của mình mà lúc ra đi tưởng sẽ không bao giờ
gặp lại. Nhưng tôi có một niềm vui sướng riêng cất giấu trong lòng: sự trở về
của các em tôi đồng thời cũng là sự xác nhận anh trai mình đã có một chọn lựa
không sai. Lúc đầu chỉ có các em gái trở về, tôi vẫn không thấy người em trai
út. Tôi biết ngày các đứa em tôi ra đi, Nghĩa là đứa thất vọng hơn cả. Sau ngày
giải phóng, Nghĩa hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh Niên. Tội nghiệp nó, cái
áo mặc đi học không dám ủi thẳng thớm vì sợ phê là “tư sản”. Suốt ngày ở trong
trường vẽ tranh cổ động và biểu ngữ. Một đoàn viên Thanh niên hết sức tích cực
với niềm hăng hái ở cái tuổi 14-15 căng tràn. Thế rồi tai họa ập xuống gia đình
tôi, niềm tin ở Nghĩa bỗng chốc tan biến. Do đó khi ra đi rồi Nghĩa không muốn
trở lại nơi hằn sâu kỷ niệm buồn thời niên thiếu của mình, nơi chứng kiến cha
mẹ mình trải qua những biến cố đau lòng. Các em gái nói cho tôi biết ban đầu
khi các chị trở về Việt Nam Nghĩa nhất định không về.
Chuyến trở về đầu tiên của Nghĩa sau gần 20 năm xa cách đất nước
là để thăm vợ tôi (lúc này là Trần Hồ Quang Ngọc Cúc; tôi chia tay với Quỳnh
Nga, người vợ đầu từ năm 1984) khi vợ tôi vừa phát hiện bị ưng thư đại tràng.
Từ lần đó, Nghĩa trở về quê nhà nhiều lần, vết thương xưa trong lòng dần dần
được hàn gắn.
Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ và Canada. Gia đình tôi cũng
trải qua không ít những căng thẳng và mất mát, nhưng xét cho cùng không thấm
thía gì khi so sánh với biết bao gia đình khác ở cả hai phía trong cuộc chiến.
Gia đình tôi rất may mắn đã có một “Happy-ending” nói theo một loại phim có một
kết thúc tốt đẹp.
Tôi có tất cả bảy người con – năm với người vợ đầu (Nguyễn Thị
Quỳnh Nga), một với người vợ thứ hai (Trần Hồ Quang Ngọc Cúc) và một với người
vợ thứ ba (Võ Thị Thanh Thủy). Ngoài ra còn có một người con riêng với người vợ
thứ hai (Nguyễn Hồng Quang) mà tôi coi như con ruột của mình. Các con tôi đều
có công ăn việc làm đàng hoàng trong nhiều ngành nghề khác nhau từ đại học,
truyền thông cho đến kinh doanh, đời sống riêng ổn định, trừ đứa út là một bé
gái mới tròn ba tuổi (Lý Quí Thuỷ Chung).
Tôi không bao giờ ngờ rằng cuộc đời tôi lại trải qua đến ba đời
vợ! Khi kết hôn với Nguyễn Thị Quỳnh Nga ở tuổi 21 tôi còn là một sinh viên vẫn
nghĩ mình sẽ sống ở đời với người phụ nữ này. Đó là mối tình đầu đích thực. Yêu
và lấy làm vợ. Cả đoạn đời đầu (trước 1975) và một phần đoạn đời sau (sau
1975), tôi sống với Quỳnh Nga. Chúng tôi có một cuộc hành trình bắt đầu trong
gian khó nhưng sôi nổi và khá thành công trong suốt con đường dài 23 năm. Đáng
tiếc đến một giai đoạn (năm 1984), chúng tôi đã không vượt qua được những bất
đồng mỗi lúc càng khoét sâu trong cuộc sống; tình cảm và sự kính trọng dành cho
nhau chỉ hy vọng cứu vãn nếu chúng tôi chấp nhận một cuộc chia tay thật êm đẹp.
Và chúng tôi đã làm được điều đó. Sau 20 năm chia tay, Quỳnh Nga và tôi vẫn là
hai người bạn rất đặc biệt, gặp nhau thường xuyên và vẫn quan tâm đến nhau. Năm
đứa con của chúng tôi rất ít cảm nhận sự mất mát và đều hãnh diện giữa sự đối
xử giữa cha và mẹ dù hai người thân yêu của chúng không còn sống chung với
nhau.
Khi tôi kết hôn lần thứ hai, tôi đã bàn với các con tôi, nói rõ
quyết định và sự chọn lựa của mình. Trần Hồ Quang Ngọc Cúc, sau này được bạn bè
gọi tên thân mật là Cúc Phượng. Nàng đã có một đời chồng nhưng ở với nhau rất
ngắn ngủi (hai năm). Khi tôi yêu và lấy Cúc Phượng làm vợ, nàng có một đứa con
riêng ba tuổi - Nguyễn Hồng Quang. Hôn lễ được tổ chức tại báo Tuổi Trẻ.
Thời kỳ tôi lập gia đình lần thứ hai, cuộc sống rất khó khăn. Bữa cơm thường
gồm chỉ có một món duy nhất: hột vịt chiên với cà tô-mát. Rất may mắn là Phượng
làm món này rất ngon nếu không thì rất gay bởi các món khác nàng... không biết
nấu! Thế mà sống với nhau chỉ một thời gian ngắn, Cúc Phượng trở thành một phụ
nữ nấu ăn rất khéo; mỗi bữa ăn đều tạo nên sự bất ngờ thích thú cho chồng. Cúc
Phượng còn gây cho tôi sự ngạc nhiên cảm phục khi nàng mở quán ăn có tên “Đôi
đũa tre” (Bamboo Chopsticks) ngay tại nhà, địa điểm rất xa khu trung tâm thành
phố, mà vẫn thu hút được một số đông thực khách trong và ngoài nước. “Bamboo
Chopsticks” được coi là “nhà hàng – gallerie” đầu tiên. Có khoảng 20 bức tranh
bán trừu tượng của tôi được treo trên các bức tường ở đây, tạo nên một không
khí mới lạ, một phong cách văn hóa ẩm thực rất mới vào những năm đầu thập niên
90.
Cúc Phượng quyết định mở nhà hàng ngay sau khi nàng biết mình bị
ung thư đại tràng và vừa trải qua một cuộc đại phẫu. Tôi không thể hiểu nổi
nàng lấy đâu ra sự dũng cảm phi thường để vừa tiếp tục sống lạc quan, yêu chồng
yêu con, vừa thản nhiên tính chuyện tương lai, khi hiểu rất rõ hơn ai hết quỹ
thời gian cuộc đời dành cho mình tối đa là hai năm hoặc hai năm rưỡi. Nàng theo
dõi cái mầm bệnh tai ác lớn lên trong cơ thể mình không khác gì theo dõi sự
tượng hình đứa con lúc nàng mang thai mà tôi đã từng chứng kiến. Tự nàng hàng
tháng đi siêu âm, biết rõ kích thước của khối u đang phát triển. Không hề sợ
hãi, buồn phiền. Hoặc có buồn phiền đau khổ nhưng giấu tất cả vào trong, nhất
quyết không để cho một ai thấy, nhất là chồng mình. Cúc Phượng không muốn làm
ai phải buồn phiền, lo lắng cho mình. Sau khi nàng được giải phẫu, biết mình
mắc bệnh gì, nàng không bao giờ nói đến bệnh của nàng bởi sợ những người thân
yêu mình đau khổ hơn chình mình đau khổ.
Lần đầu tôi gặp Cúc Phượng là tại một tiệc sinh nhật của một
người bạn: tiền đạo Đinh Công Hoàng có biệt danh “Hoàng Cá lóc” của đội Công
Nghiệp Thực Phẩm. Cô ấy lúc đó khác hẳn bạn bè xung quanh từ cách trang điểm tự
nhiên cho đến lối ăn mặc giản dị. Ngay từ buổi quen biết đầu tiên tôi cảm nhận
đây là người phụ nữ rất cần cho cuộc đời còn lại của mình. Lúc đó tôi đã 44
tuổi, vừa chia tay với người vợ đầu tiên, còn Cúc Phượng 26 tuổi. Tôi đã từng
gặp Cúc Phượng thoáng qua một hai lần đâu đó nhưng không hề nhớ, còn nàng biết
tôi rất rõ trước đó. Tiếng đồn “Ông Chung lả lướt, dan díu với rất nhiều phụ
nữ” và cả lời đe của bạn bè “mầy lấy ông ấy sẽ khổ...” không hề làm cho nàng e
dè chùn bước. “Khi anh cười, trông anh rất nhân hậu. Giác quan thứ sáu báo cho
em biết anh sẽ là người chồng tốt” – Cúc Phượng nói với tôi như thế khi chúng
tôi đã là vợ chồng của nhau. Tôi không thể quên câu nói đầu tiên của nàng khi
chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân: “Em coi anh vừa là người chồng vừa là
người cha của em. Từ khi sinh ra, em đã thiếu tình cha”. Cha nàng là một bác sĩ
nha khoa nổi tiếng ở Sài Gòn, từng là dân biểu quốc hội thời Ngô Đình Diệm, rồi
giám đốc Nha du lịch, đã có vợ người Hồng Kông nhưng bà này ít khi sống ở Sài
Gòn. Người vợ tại Việt Nam của ông là mẹ của Cúc Phượng. Mẹ Cúc Phượng dứt
khoát chia tay với cha nàng sau khi nàng ra đời. Trong ký ức của Cúc Phượng về
cha mình chỉ là hình ảnh mờ nhạt về một người đàn ông thật cao lớn, lâu lâu đến
thăm nàng lúc nàng mới được hai hay ba tuổi. Cúc Phượng được bà ngoại nuôi từ
nhỏ. Suốt tuổi thơ và cả sau này, Cúc Phượng tìm mọi cách liên hệ với cha mình
nhưng không nhận được một hồi âm nào. Cách ít năm nàng mất, Cúc Phượng có nhờ
một người bạn xưa của cha mình trong một chuyến sang Mỹ cầm một lá thư của mình
gửi cho cha. Nhưng vẫn không có tin tức gì từ người cha.
13 năm tôi sống với Cúc Phượng tràn đầy hạnh phúc (chúng tôi có
một đứa con trai Lý Quí Phúc. Hầu như chúng tôi không có một cuộc cãi vã to
tiếng nào. Cuộc sống vật chất của gia đình dễ chịu hơn khi tôi bắt đầu làm
báo Lao Động (năm 1990) và cũng năm này tôi bắt đầu vẽ tranh
khi quen biết họa sĩ Trịnh Cung. Hồi còn đi học tôi chỉ vẽ bằng màu nước và bút
chì. Anh Trịnh Cung hướng dẫn bước đầu cho tôi kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu. Ngay
năm 1990, tôi tổ chức cuộc triển lãm tranh đầu tiên tại Nhà hàng Thanh niên
(nhà hàng của người vợ đầu Quỳnh Nga) và năm sau mở cuộc triển lãm ở Hà Nội tại
Gallery Tràng Tiền. Đó là cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên của một họa sĩ Sài
Gòn tại Hà Nội và cũng là cuộc triển lãm đầu tiên tranh trừu tượng ở thủ đô sau
1975. Nhờ mối quan hệ bạn bè với anh Trịnh Cung, tôi đã khám phá thêm một thế
giới nghệ thuật đầy mê hoặc và đồng thời cũng khám phá một mặt khác của chính
mình. Bởi nghệ thuật đích thực bao giờ cũng phản ánh cái chiều sâu của một con
người. Năm 1992 tôi có cuộc triển lãm tranh lần thứ hai tại Hà Nội. Lần này tôi
và anh Trịnh Cung cùng bày tranh tại Bảo tàng lịch sử. Sau đó tôi còn tổ chức
thêm hai cuộc triển lãm cá nhân nữa tại Gallerie Mai (con gái của nhà dịch giả
Dương Tường) và Gallerie Hàng Bài. Tại TP.Hồ Chí Minh tôi có ba cuộc triển lãm
tranh cá nhân vào các năm 1990, 1991, 1993.
Cúc Phượng là người chia sẻ với tôi niềm đam mê mới này và là
một trợ lý tích cực trong các cuộc triển lãm. Khi tôi cầm cọ, nàng luôn ở đâu
đó và nhiều khi nằm chờ tôi bên cạnh giá vẽ đến một, hai giờ sáng, rồi mới cùng
đi ngủ. Nàng luôn là người đầu tiên phát biểu về các bức tranh vừa hoàn tất,
thường các nhận xét của nàng thẳng thắn và rất có ích cho tôi. Chính Cúc Phượng
căng bố, đi đặt khung tranh và một mình chuẩn bị các cuộc triển lãm từ A tới Z
như theo dõi công việc treo tranh, tổ chức tiệc Cocktail, tiếp đón khách ngày
khai mạc và chụp ảnh kỷ niệm cho chồng. Khi tôi phụ trách tòa soạn báo Lao
Động tại Hà Nội trong 6 tháng, Cúc Phượng theo tôi sống tại Hàng Bồ
suốt thời gian này. Nàng đi chợ lo cơm nước và giặt giũ cho tôi. Chúng tôi ăn ở
luôn tại cơ quan ở Hàng Bồ. Anh em ở tòa soạn thiết kế cho Cúc Phượng một cái
bếp dã chiến trên tầng một. Tôi và Cúc Phượng cùng yêu Hà Nội nên chúng tôi có
những ngày ngắn ngủi tại đây đầy những kỷ niệm đẹp. Buổi tối, nếu không đi
khiêu vũ, thì đi uống cà phê ở một quán cóc nào đó hoặc đèo nhau trên chiếc xe
máy chạy từ phố này qua phố nọ, không có chủ định trước. Với Cúc Phượng, hạnh
phúc là cái gì đó thật đơn giản. Nàng mang lại cho tôi cái cảm giác luôn êm
dịu, an toàn và tự tin. Khi đứa con trai của chúng tôi – Lý Quí Phúc - bị tai
nạn trong nhà, mặt cháu bị miếng kiểng cắt sâu, chính nàng giành ôm con ra xe
và trấn an tôi để tôi bình tĩnh lái xe đưa con đi cấp cứu. Các con dâu của tôi
đến ngày sinh nở cũng nhờ “cô Phượng” đưa đi bệnh viện. Sự bình tĩnh của nàng
làm cho người sắp trải qua giây phút căng thẳng cũng an lòng. Nàng ở bên cạnh
con dâu của chồng cho đến khi đứa bé ra đời. Vì Cúc Phượng không có khoảng cách
tuổi tác quá lớn so với các con tôi nên các con tôi chọn cách xưng hô thân
thương và... phù hợp để gọi người vợ của cha mình là “cô Phượng”.
Sự thành thật, thẳng thắn và trong sáng của Cúc Phượng ngay từ
lúc mới yêu nhau khiến tôi hết sức kính trọng.
Sau thời gian quen nhau khoảng sáu tháng, tôi bày tỏ ý định muốn
tiến tới hôn nhân. Nàng rất xúc động, do dự một lúc nói: “Em không giấu giếm,
em rất mong muốn có một người chồng như anh. Em thèm khát một cuộc sống gia
đình bình thường. Chỉ vì điều đó, em có quan hệ với một người đàn ông; người đó
hứa với em sẽ dàn xếp chuyện gia đình của anh ấy và tiến tới hôn nhân với em.
Nhưng thời gian gần cả năm qua không tiến triển, em đột nhiên rơi vào hoàn cảnh
của một người vợ bé, một người tình núp lén tội lỗi...” Tôi hỏi lại: “Nhưng em
còn yêu người đó không?”. Tôi biết khá nhiều về người đó. Một nhân vật có tên
tuổi ở Sài Gòn, sau 1975 là một nhà doanh nghiệp. “Em không còn thương người đó
nữa. Có một lúc em chịu ơn người đó, nhưng người ta không giữ lời hứa với em”.
Tôi nói với Cúc Phượng: “Em là người phụ nữ xứng đáng để có hạnh phúc. Anh muốn
có một người vợ như em... Anh không coi chuyện em có quan hệ với ai đó trước
anh là quan trọng. Vấn đề là kể từ khi chúng mình gặp nhau tình cảm như thế nào
và xử sự với nhau ra sao...”.
Cúc Phượng có một đề xuất khá bất ngờ: “Dù sao chuyện em và
người đó vẫn chưa rõ ràng, em không muốn người ta suy nghĩ không đúng về em và
cả về anh. Ngày mai em sẽ gặp anh ấy và nói cho anh ấy biết dứt khoát suy nghĩ
và quyết định của em. Anh sẽ đưa em đến đó chứ?”. Tôi chấp nhận đưa nàng đi để
khẳng định tình yêu và sự tin tưởng dành cho nàng. Sau này, hai vợ chồng tôi
thỉnh thoảng có gặp lại “người đó” trong những cuộc tiếp tân. Lúc nào Cúc
Phượng cũng tỏ ra là một người vợ đầy tự tin và xứng đáng bên chồng.
13 năm hạnh phúc đi qua cái vèo. Như một giấc mơ.
Cuộc ra đi của Cúc Phượng được nàng biết trước hơn hai năm. Nàng
bình tĩnh chuẩn bị và trù liệu trước từng chi tiết những gì sẽ diễn ra cho cuộc
ra đi đó như một người sắp thực hiện một chuyến du lịch. Sau khi nàng trải qua
cuộc đại phẫu (năm 1995) tại Bệnh viện Đại học Y Dược, một hôm tôi nhận được
một cú điện thoại của một bác sĩ muốn gặp nàng để “bổ sung giấy tờ”. Tôi ngạc
nhiên hỏi giấy tờ gì thì vị bác sĩ này cho biết đó là: “Thủ tục hiến xác của
chị Ngọc Cúc”. Suýt nữa tôi té ngã bên chiếc máy điện thoại. Phản ứng của tôi
với bác sĩ Nguyễn Quang Quyền, trưởng khoa giải phẫu học của trường Đại học Y
Dược TPHCM, không còn bình tĩnh: “Tôi là chồng của Ngọc Cúc nhưng chuyện này
tôi chưa hề biết. Xin lỗi bác sĩ...”. Rồi tôi cúp điện thoại. Vào thời điểm
này, Cúc Phượng rất khỏe mạnh và xinh đẹp. Trong đầu tôi chưa thể hình dung ra
nàng sẽ chết, nói chi chuyện xác nàng sẽ được hiến.
Tối đi ngủ, nằm bên cạnh nàng tôi lựa lời hỏi lý do gì nàng
quyết định hiến xác. Tôi liếc nhìn nàng qua ánh sáng yếu ớt của đèn ngủ. Cúc
Phượng hơi lúng túng vì nàng chưa chuẩn bị để trình bày chuyện này với chồng.
Có lẽ nàng định sẽ nói với tôi khi các thủ tục đã hoàn thành. Nhưng rồi Cúc Phượng
bình tĩnh giải thích một cách rành rẽ, chứng tỏ nàng đã suy nghĩ rất kỹ về
quyết định của mình: “Em hiểu bệnh của em, chỉ có điều em không biết chính xác
lúc nào em sẽ ra đi. Tại bệnh viện em tình cờ biết được các sinh viên y khoa
không có xác người để thực tập, họ phải học “chay”. Trường Y khoa có lời kêu
gọi hiến xác tại trường Y Dược và em cũng có tham quan phòng mổ xác. Suy nghĩ
của em là khi mình chết rồi, xác được chôn xuống đất cũng rã tan, làm mồi cho
các loại côn trùng thôi. Cái xác của em có nghĩa lý gì đâu. Cuộc đời của em
cũng thế, chẳng giúp ích được gì cho người khác. Thế mà khi em chết và hiến xác
em lại trở thành người có ích cho xã hội, cái xác của em lại có ích cho khoa
học, giúp cho các bác sĩ tương lai học nghề một cách tốt hơn để cứu nhiều sinh
mạng khác thì anh thử nghĩ em có nên làm như thế không?”
Tôi không thể bác bỏ lập luận của nàng, mà chỉ xót xa phân trần
với nàng: “Chẳng lẽ em... sẽ không về nhà? Ít ra em cũng cho anh và các con
được ở bên cạnh em một thời gian, dù là ngắn ngủi. Rồi còn người thân, bạn bè
nữa...”. Cúc Phượng cũng đã nghĩ tới cả chuyện sau đó sẽ diễn ra như thế nào.
“Trong đời em đã chứng kiến hai cái đám tang, của bà ngoại em và của ba anh. Cả
hai đều diễn ra rất buồn, tiếng kèn trống, tiếng tụng kinh gây ồn ào cả khu
xóm, những người đến chia buồn thật đông nhưng trong số đó người thương yêu
thật sự người qua đời đâu có bao nhiêu. Em muốn anh tổ chức đám tang của em
thật đơn giản. Đâu cần có quan tài. Anh đặt một khung ảnh của em ở một góc
phòng, mời một số bạn bè đến, những người bạn mà em biết khi em còn sống họ có
tình cảm thật sự dành cho em. Bạn bè có thể đến với một bó hoa nhỏ. Em rất ghét
những tràng hoa cườm và những vòng hoa lớn. Em thích có một cuộc chia tay ấm
cúng và đơn giản như thế”.
Hai ngày sau khi nàng mất tôi đã tổ chức cuộc chia tay cho Cúc
Phượng với người thân và bạn bè đúng như nàng đã phác họa. Danh sách bạn bè
được mời đến do chính Cúc Phượng nêu tên: Vợ chồng anh Tống Văn Công (cựu tổng
biên tập báo Lao Động), anh Vĩnh An, nhà báo Lưu Trọng Văn, vợ chồng nhà báo
Hoàng Thoại Châu, vợ chồng nhà báo Trần Trọng Thức, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh
Nguyễn Trung Dân và vợ là chị Phan Thị Lệ, họa sĩ Trịnh Cung, cô Ý Nhi, hai nhà
báo Đặng Hoàng, Thúy Hà và mẹ Thúy Hà.
Trên chiếc bàn dài, nhiều bó hoa tươi của bạn bè đặt chung quanh
di ảnh của Cúc Phượng. Trong ảnh, nụ cười của nàng thật hiền hòa, nụ cười mà
tất cả những ai quen biết nàng đều không thể quên được. Một vài người bạn lần
lượt đứng lên nhắc lại những kỷ niệm đẹp của mình với Cúc Phượng, riêng anh Lưu
Trọng Văn đọc một bài thơ viết tặng nàng:
THIÊN SỨ
Người đàn bà ấy
Từ đâu
Mà tới đây?
Rồi đột ngột đi đâu
Người hàng xóm ngớ ra
Bầu trời cũng ngớ ra
‘‘Người ơi đừng hỏi!’‘
Tiếng ai nghe quen vậy?
Còn tiếng ai nữa
ngoài người đàn bà ấy
suốt một đời chẳng muốn ai
bận tâm đến mình
Biết trước mình sẽ đi xa
Sợ úa lá dâu
không đòi manh áo
Sợ con ong buồn
không đòi vòng hoa
Sợ đau cánh rừng
không đòi ván gỗ
Và tôi,
Tôi cũng biết trước người đàn bà ấy sẽ ra đi
Mà sao không đến chào, tiễn biệt?
22-8-97
Chính nhờ buổi chia tay được tổ chức như thế này, tôi đã có dịp
nói những lời yêu thương với nàng giữa bạn bè. Một sự nhìn nhận công khai ân
nghĩa mà nàng đã dành cho tôi trong cuộc sống chung ngắn ngủi 13 năm. Cuộc tiễn
đưa như thế của những người thương yêu nàng chắc chắn làm nàng mãn nguyện.
Tại bệnh viện, trước khi Cúc Phượng trút hơi thở cuối cùng,
những người thân và bạn bè có mặt đông đủ. Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi và
năm đứa con với dâu rể đều có mặt bên cạnh mẹ chúng để bày tỏ tình thương yêu
và sự kính trọng dành cho người vợ kế của cha mình. Ngay sau khi Cúc Phượng qua
đời, nàng được chuyển sang Trường đại học Y Dược, rồi đưa vào gian phòng mà
nàng đã từng tham quan hai năm trước khi nàng còn khỏe mạnh và xinh đẹp!
Đã có các bài báo viết về Cúc Phượng gọi nàng là ‘‘người phụ nữ
đầu tiên hiến xác cho khoa học’‘. Điều đó chắc chắn không làm nàng vui lòng
bằng nếu nàng biết được, với hành động hiến xác của nàng, sau đó đã có hàng
trăm người khác tự nguyện hiến xác.
Tôi là người chẳng bao giờ làm thơ. Thế nhưng sau khi Cúc Phượng
mất, trong căn nhà trống rỗng, cứ mỗi khi đi về tôi lại bắt gặp cái nhìn và nụ
cười hồn hậu của nàng trong bức di ảnh đặt trên bàn thờ. Mỗi lần như thế tôi
lại dừng lại, nói với nàng vài câu. Một đêm, sau khi dừng lại trước bàn thờ,
lên phòng làm việc, tôi nhớ nàng khủng khiếp. Tôi ngồi vào bàn, cầm viết lên và
viết một mạch hai bài thơ – hay nói đúng đó là hai cuộc chuyện trò với nàng:
1
Em liếc nhìn tôi
Từ trong khung ảnh
Mắt em vẫn thế
Nụ cười em vẫn thế
Hình như em hỏi
Anh có buồn không
Em lỗi với anh
vô cùng
Bởi nửa chừng em bỏ lại anh
Anh đốt cây nhang
Khói làm em nheo mắt
Nhưng em vẫn nở nụ cười hồn hậu
Bởi cả đời em, không biết giận, ghét ai.
Anh có buồn không?
Thay cho câu trả lời
Anh cầm khung ảnh hôn em
Anh đau đớn tột cùng
Bởi nửa chừng anh không giữ được em
2
Nửa đêm anh thức dậy tìm kiếm em
Trong chồng an-bum
Trên bàn phấn
Trong tủ quần áo
Trong những cuốn sổ điện thoại
Đâu đâu anh cũng thấy em
Em gần anh - gần khủng khiếp
Tưởng như có thể đặt tay lên vai em,
môi em
ngực em
Anh nghe dưới bàn tay anh
da thịt em
Và tiếng em nói trong hơi thở mọi lần
‘‘Hãy thật nhẹ nhàng anh nhé’‘
Anh lướt bàn tay thật nhẹ
Vào khoảng không
Không màu sắc
Không âm thanh
Cõi im lặng của em.
20-9-97
Cuộc đời tôi có may mắn lớn được gặp những người phụ nữ tuyệt
vời như Quỳnh Nga, Cúc Phượng. Họ đều trở thành những người phụ nữ làm tôi
ngưỡng mộ. Khi tôi tái hôn với người vợ thứ ba, nàng mới 21 tuổi. Trong lòng
tôi không bao giờ mờ nhạt hình ảnh của Cúc Phượng nhưng tôi là người không thể
sống một mình. Cuộc sống thiếu một gia đình đúng nghĩa luôn làm tôi thấy chênh
vênh sao đó. Nhất là vào buổi tối, tôi chịu đựng không nổi sự trơ trọi. Chỉ khi
nào có người vợ kế bên thì tôi mới tìm lại được sự thăng bằng cho cuộc sống.
Ngôi nhà lúc này mới là tổ ấm. Có vợ buổi tối, tôi thường ở nhà, ngồi vào bàn
viết. Chính lúc này công việc viết lách của tôi đạt năng suất cao nhất. Người
phụ nữ sống với tôi bao giờ cũng có một vai trò rất lớn trong khả năng sáng tạo
của tôi. Thiếu người phụ nữ, tôi chỉ là một nửa của chính mình! Ít tháng trước
khi Cúc Phượng qua đời, một đêm nằm bên cạnh tôi nàng nhỏ nhẹ nói: “Em sống
không bao lâu nữa. Em lo lắng khi nghĩ tới anh sẽ sống một mình. Em biết anh
không phải là loại người đàn ông có thể sống một mình. Anh không lo được chuyện
nhà cửa, chuyện tiền bạc, con cái... và nhất là không chịu đựng được cuộc sống
cô độc. Bây giờ em có thời gian để cùng lo chuyện đó cho anh...”. Tôi kinh ngạc
hỏi lại: “Em cùng lo với anh chuyện gì?”. Cúc Phượng nói thẳng ra là chuyện...
chọn vợ cho tôi! Nàng nói: “Em bàn chuyện này với tất cả chân tình, vì rất hiểu
anh, vì yêu anh, chứ em không có ý định gì ở phía sau. Nhất là em không có ý
định thăm dò anh đâu”. Tiếp đó, Cúc Phượng kê ra hẳn hòi một danh sách khoảng
năm người phụ nữ mà nàng nhận xét có thể thay thế nàng. Năm phụ nữ này cả hai
chúng tôi đều quen biết, họ đang sống độc thân. Tôi từ chối cuộc bàn về đề tài
này với nàng. Cúc Phượng còn sống đó, tôi lòng dạ nào lại bàn chuyện tìm người
thay thế nàng? Trong đêm, nước mắt tôi chảy dài.
...Cô gái 21 tuổi trở thành người vợ thứ ba của tôi không nằm
trong danh sách năm người phụ nữ được Cúc Phượng nêu tên. Thật sự tôi không có
ý định lấy một người vợ trẻ đến mức đó. Trong việc lấy vợ tôi chọn người chứ
không chọn tuổi. Bấy giờ tôi đã 58 tuổi. Khoảng cách 37 năm giữa tôi và Thủy
không chỉ là khoảng cách về sinh học mà còn là khoảng cách về nhiều khía cạnh
khác không dễ dàng vượt qua khi bắt đầu cuộc sống chung. Phải có nhiều tình
thương và cố gắng hòa hợp với nhau cho cuộc hôn nhân. Người đàn ông về phần
mình cố gắng có một cuộc sống trẻ trung, người vợ trẻ cũng đừng quên mình có
một người chồng thật sự lớn tuổi, để hai phía điều chỉnh nhau trong cuộc sống
chung hạnh phúc.
Khác hơn nhiều người, tôi không coi vũ trường là cái nơi trụy
lạc. Hoặc như một số dư luận lên án: đó là ổ mại dâm. Những khách đi vũ trường
mà bỏ bê gia đình, trở thành trụy lạc, bản thân họ trước đó đã là người trụy
lạc, chứ không phải môi trường này đã biến người tốt thành người hư hỏng. Đi
sâu vào vũ trường, người ta sẽ thấy thân phận của nhiều cô gái ở đây đáng
thương hơn là đáng lên án suông.
Tôi thích đến vũ trường khiêu vũ nhưng tôi tự đặt cho mình một
nguyên tắc: khi đã có vợ, hầu như tôi không đến vũ trường một mình. Một tuần,
mười hôm, tôi vẫn đưa vợ tôi đi khiêu vũ một lần. Đó là một nơi không chỉ được
thưởng thức nghe nhạc, nghe hát mà người khách còn được tham gia trực tiếp cuộc
giải trí lành mạnh với môn khiêu vũ - một trong những loại hình nghệ thuật lâu
đời nhất. Ở giới nào cũng thế có người tốt người xấu. Cái tốt cái xấu trong
đầu, trong con tim. Tôi đã gặp rất nhiều cô vũ nữ có trái tim tốt, cái đầu đàng
hoàng, nhưng cái nghề của họ vẫn không thể thoát khỏi những định kiến của xã
hội. Cuộc đời của vũ nữ phần nhiều ngay từ đầu đã đậm đặc những trắc trở, những
bi kịch. Những hồng nhan bạc mệnh. Chính vì thế, họ thường chọn chốn này để mưu
sinh.Và cũng vì thế, nhiều người trong số họ rất biết trân trọng những tình cảm
chân thật đến với họ, và khao khát có được cuộc sống gia đình bình thường. Ở
Sài Gòn trước 1975, tôi từng biết nhiều trường hợp các cô vũ nữ giành được một
chỗ đứng đàng hoàng trong xã hội khi may mắn gặp được một người đàn ông chân
thành.
Sau khi Cúc Phượng mất, tôi không chịu đựng được cuộc sống một
mình, tôi lại tính sẽ bước một bước nữa. Những lúc tôi đến vũ trường, một ý
nghĩ nảy sinh trong đầu tôi: biết đâu chính tại đây mình sẽ tìm ra người thích
hợp với hoàn cảnh của mình hiện nay. Đi tìm một phụ nữ chịu sống chung với mình
ở tuổi 57-58, vừa mang đến cho mình tình yêu và cả sự hứng khởi trong cuộc sống
thật không dễ dàng. Qua nhiều tháng tới lui vũ trường, tôi gặp một cô gái khác
hẳn nhiều đồng nghiệp của cô. Hoàn cảnh gia đình của cô đáng thương nhưng con
người cô lại rất đáng trân trọng. Cuộc thăm dò và tìm hiểu kéo dài trong hơn
nửa năm. Cô chẳng biết gì về tôi, ngoại trừ cảm kích sự cư xử của tôi và an tâm
rằng đây là một người đàn ông lớn tuổi đáng tin cậy, không lừa dối mình, có
công ăn việc làm đàng hoàng. Một vài lần tôi đưa cô đến văn phòng làm việc của
tôi ở một tòa báo... Một vài lần khác đưa đi ăn. Cô không tỏ ra ngại ngùng về
khoảng cách tuổi tác. Cô biết tiền bạc của tôi chẳng có bao nhiêu - cả đời tôi
vẫn thế - thu nhập của tôi thường chỉ ở mức có thể sống khá dễ chịu. Cô quá nhỏ
để biết người đàn ông thương mình là ai. Khi tôi... đầu hàng ở Dinh Độc Lập thì
cô mới hai tuổi, cô được mẹ mình kể lại vào thời điểm đó ba cô - một người tham
gia cách mạng – cũng mới ra khỏi tù không biết là lần thứ mấy. Người đàn bà quê
mùa, mẹ cô, gần cả đời chỉ lo đi thăm nuôi chồng và... mẹ chồng, hết nhà tù này
đến nhà tù nọ. Sau tháng 4-1975, cha cô làm phó chủ tịch phường ở một quận
TP.HCM trong một thời gian không dài rồi chết ở tuổi 49 vì đột quị. Thế là cả
gia đình rơi vào vòng xoáy của những bất hạnh. Người mẹ nghèo và quê mùa không
đủ sức một mình đối phó với quá nhiều khó khăn ập tới. Sau một người chị, đến
lượt cô chọn vũ trường làm nơi kiếm sống cho mình và cho gia đình. Cô mới vào
làm một thời gian ngắn thì gặp tôi.
Câu chuyện về Võ Thị Thanh Thủy, người vợ thứ ba của tôi là như
thế.
Sau khi biết chắc chắn Thanh Thủy đáp lại tình cảm của tôi dành
cho nàng và nàng tha thiết muốn lập gia đình dù nàng còn rất trẻ - mới 21 tuổi
- một hôm tôi đã nói với nàng “Em có chịu trở thành vợ của anh không? Nếu em
đồng ý kể từ ngày mai em có thể đến cùng sống với anh. Anh sẽ giới thiệu em với
con cái anh và bạn bè của anh một cách chính thức”. Do hoàn cảnh khoảng cách
tuổi tác không dễ dàng được dư luận chấp nhận, nên tôi dự tính không làm đám
cưới công khai nhưng qua một cách thức khác, tôi vẫn tổ chức các cuộc ra mắt
lần lượt với những người thân và bạn bè. Tôi muốn Thanh Thủy trở thành vợ tôi
một cách công khai và đàng hoàng, chứ không phải giấu lén. Thanh Thủy không do
dự, trả lời đồng ý. Trước khi Thủy về sống với tôi chính thức, tôi họp các con
tôi lại, nói rõ quyết định của mình: “Các con mỗi đứa đều có gia đình riêng, có
những bận rộn riêng. Dù các con có yêu thương cha, muốn chăm sóc cha cũng không
thể làm đúng mức. Ba cần một phụ nữ yêu thương ba sống bên cạnh ba, chăm sóc
công việc của gia đình, ba mới yên tâm lo việc viết báo, làm báo. Cho nên ba đã
quyết định lấy vợ một lần nữa...”. Tôi nói cho các con tôi biết Thanh Thủy là
ai, làm nghề gì, bao nhiêu tuổi và tại sao tôi chọn Thanh Thủy làm vợ. Tôi hỏi
các con tôi: “Khi ba chọn mẹ các con làm vợ, ba đúng hay sai?” Các con tôi gật
đầu. Tôi lại hỏi: “Khi ba chọn cô Phượng, ba có chọn đúng không?”. Các con tôi
lại gật đầu. Và tôi nói tiếp: “Vậy lần này cũng thế. Ba không chọn sai đâu”.
Con gái tôi, Lý Quỳnh Kim Trinh, chỉ nêu một ý kiến: “Phải chi cô ấy nhiều tuổi
hơn. Cô ấy trẻ quá...”. Tôi chưa nói gì thì người con thứ ba, Lý Quí Dũng, nói:
“Trẻ tuổi cũng đâu có sao, vấn đề là cô ấy có thương ba thật sự không và chăm
sóc cha ba đúng mực như một người vợ không. Chỉ có ba mới rõ điều đó...”.
Thanh Thủy cũng được các con tôi chọn cách xưng hô như đã từng
xưng hô với người vợ trước của tôi: “Cô Thủy”. “Cô Thủy” còn quá trẻ nên mối
quan hệ với các con tôi không thuận lợi ngay từ ban đầu như “cô Phượng”. Trong
bốn cô con dâu của tôi không có cô dâu nào nhỏ tuổi hơn “cô Thủy”. Nhưng mỗi
ngày mối quan hệ ấy ngày một tốt hơn vì các con tôi đều có tâm hồn rộng mở, dễ
hòa nhập. Điều quan trọng là thời gian đã cho thấy “cô Thủy” thương yêu thật sự
cha của chúng, sống vì gia đình. Khi đứa con gái của tôi với Thanh Thủy ra đời
(năm 2001), gia đình của tôi càng ngắn bó. Thanh Thủy giành trọn vẹn thời gian
cho con và cho tôi. Chúng tôi đưa mẹ nàng về sống chung. Bà ngạc nhiên khi phát
hiện “ông chồng già” của con gái mình mà trước đây mình không chấp nhận, lại
không quá già như bà tưởng. Bà mẹ vợ tôi nhỏ hơn tôi hai tuổi! “Tao thấy Chung
còn trẻ hơn thằng Toàn”, bà mẹ vợ tôi đã nhận xét như thế sau thời gian gặp
tôi. Toàn là anh trai lớn nhất của Thanh Thủy.
Có vợ nhỏ hơn mình 37 tuổi kể ra cũng không dễ dàng. Thanh Thủy
sinh một ngày với Quỳnh Nga, cũng ngày 10-3 và cũng tuổi Tỵ nhưng nhỏ hơn ba
con Giáp. Có lẽ khi biết được những sự trùng hợp bất ngờ này, người vợ đầu của
tôi có nhiều thiện cảm hơn với Thủy.
Tôi may mắn và rất hãnh diện là cả ba người phụ nữ thành vợ tôi
đều đạt tới một sự thành công nào đó trong nghề nghiệp riêng mà họ đã chọn.
Quỳnh Nga và Cúc Phượng, mỗi người mỗi cách đều đặt dấu ấn của mình trong nghệ
thuật ẩm thực ở TP. HCM. Dấu ấn của Cúc Phượng không đậm nét bằng Quỳnh Nga và
cũng ngắn ngủi hơn, vì cuộc sống của Cúc Phượng quá ngắn. Nhà hàng “Đôi Đũa
Tre” cũng có một vị trí riêng, dù về mặt kinh doanh chưa so sánh được với nhà
hàng Thanh Niên hay sau này hàng loạt nhà hàng thành công khác như Tân Nam, Nam
An, An Viên... của Quỳnh Nga.
Thanh Thủy không theo nghề nhà hàng mà chọn nghề may mặc thời
trang. Về làm vợ tôi được một năm, Thanh Thủy nhất quyết học nghề may. Nàng học
suốt hai năm với một giáo viên rất giỏi. Có một sự trùng hợp cũng... lạ thường:
Cúc Phượng mở nhà hàng “Đôi Đũa Tre” sau khi nàng biết mình bị bệnh ung thư,
còn Thanh Thủy khai trương cửa hàng “Thủy Chung Fashion” sau khi tôi hồi phục
bệnh ung thư. Khi tôi vừa ngã bệnh, cuộc chẩn đoán đầu tiên tại trung tâm chẩn
đoán Medic có kết quả: sự sống còn lại của tôi không dài hơn một tháng (!). Lúc
đó, kết quả chẩn đoán không thông báo trực tiếp cho tôi, tôi chưa biết gì, vẫn
tưởng mình bị đau cột sống bình thường. Các con tôi đưa tôi khẩn cấp vào bệnh
viện Chợ Rẫy trong tuyệt vọng, với mong mỏi duy nhất là cha mình được chăm sóc
tốt nhất trong những ngày cuối cùng. Nhưng trong cuộc hội chẩn tại bệnh viện
Chợ Rẫy ít ngày sau đó, bác sĩ Trịnh Toàn Thắng ở khoa huyết học, phát hiện ra
bệnh của tôi, cũng là một loại ung thư, nhưng có thể phục hồi và không đến nỗi
chết trong... một tháng như chẩn đoán ban đầu. Chính thông tin đầu – tôi không
sống hơn một tháng – đã khiến nhiều bạn bè trong làng báo vào thăm tôi rất
đông. Nhiều người bảo với nhau “Không vào nhanh sẽ không kịp gặp anh ấy!”. Khi chưa
biết mình bệnh gì, tôi rất ngạc nhiên về sự thăm viếng của quá nhiều bạn bè
trong đó có nhiều người khá lâu chưa gặp lại!. Dù sau đó bác sĩ Thắng cam đoan
với tôi và gia đình rằng một tháng sau tôi có thể ngồi dậy, ba tháng sau tôi có
thể bắt đầu đi lại, nhưng lúc đó hầu như không ai tin. Cái con người mất gần
hết máu của tôi, chỉ còn da bọc xương, đang nằm trên giường bệnh không cho thấy
có hy vọng vượt qua tử thần con người ấy có vẻ hợp với chẩn đoán ban đầu (!)
Bình thường tôi cân nặng 72 kg nhưng vào bệnh viện trong thời gian nhanh chóng
tôi chỉ còn 48-50 kg. Anh Hoàng Thoại Châu, nhà báo có bút danh được nhiều
người biết đến là “Ba Thợ Tiện”, đã chuẩn bị một bài thơ thay cho bài phúng
điếu tôi như sau:
Cuộc đi vòng
Biết là sớm tối cũng về
Mà sao người ở nghe tê buốt lòng
Trăm năm một cuộc đi vòng
Biết là biết vậy, vẫn mong không về
Khi tôi bắt đầu phục hồi, trong buổi sinh nhật tổ chức ngày
1-9-2002 với sự có mặt một số bạn bè và đồng nghiệp, anh Ba Thợ Tiện đã đọc bài
thơ điếu... “được dời lại” ấy! Kể cũng hiếm trường hợp người còn sống được nghe
bài thơ phúng điếu mình như tôi.
Không phải qua cơn nguy khốn rồi... nói tướng nhưng kỳ thật, dù
đang nằm liệt trên giường trong khi mà mẹ tôi, vợ tôi, các con tôi, Quỳnh Nga
và nhiều bạn bè thân đều lo tôi không qua khỏi, thì bản thân chẳng có lúc nào
nghĩ rằng mình sẽ... chết. Dù sức rất yếu, không thể tự lăn qua lăn lại trên
giường, nhưng tôi vẫn nói chuyện tỉnh táo khi tiếp bạn bè, vẫn tiếp tục theo
dõi các trận World Cup vòng bán kết và trận chung kết trên màn ảnh chiếc Tivi
được các con tôi mang vào phòng bệnh. Tôi ngã bệnh giữa lúc đang theo dõi và
viết bài về World Cup 2002 cho các báo Lao Động, Công An TP.HCM, Pháp
Luật Tp.HCM và bình luận mỗi ngày trên đài truyền hình Đồng Nai.
Gia đình và bạn bè hầu như không ai nghĩ tôi có thể phục hồi lại
như xưa. Nếu có thể phục hồi thì với một đốt xương sống bị nẹp chắc tôi cũng
phải đi xe lăn. Nhưng khả năng phục hồi của tôi thật kỳ diệu (theo lời của bác
sĩ Thắng). Một cuộc chiến đấu gay go qua ba giai đoạn: Giai đoạn đầu trong ba
tháng, giai đoạn kế trong sáu tháng rồi giai đoạn sau cùng mới trở lại cuộc
sống thật sự bình thường. Người tôi mang ơn nhất là bác sĩ Trịnh Toàn Thắng.
Anh đã dự đoán chính xác từng bước phục hồi của tôi. Trong khi chữa trị và chăm
sóc tôi, anh Thắng không chỉ là ân nhân mà còn trở thành người bạn thân thiết
của cả gia đình tôi. Mỗi lần anh đến khám bệnh, chúng tôi nói đủ chuyện trên
đời, từ chuyện y học cho đến văn học, xã hội, kinh tế v.v... Anh giúp tôi hiểu
biết cặn kẽ bệnh của mình, phác đồ chữa trị ra sao v.v... Tháng 11-2003, bác sĩ
Thắng báo cho tôi biết cuộc điều trị của tôi chấm dứt, tôi đã phục hồi bình
thường. Thời gian tới là theo dõi và tiếp tục duy trì tình trạng ổn định này.
Do tôi thích ứng với liều thuốc thấp nhất nên nếu bệnh có tái phát thì có thể
điều trị theo phác đồ cũ. Tôi nào ngờ những lời dặn dò đó của bác sĩ Thắng lại
là những lời trăn trối...
Bởi chỉ ít ngày sau, bác sĩ Thắng đột ngột ra đi sau một cơn đau
tim. Buổi sáng hôm đó anh Thắng hẹn đến thăm tôi vào lúc 8 giờ sáng, chờ mãi
không thấy anh tới, tôi điện vào máy di động của anh. Người cầm máy trả lời tôi
là bác sĩ Dung, vợ anh. Chị nói anh Thắng đang ở trong phòng cấp cứu. Thoạt đầu
tôi nghĩ bác sĩ Thắng đang tham gia một ca mổ khẩn cấp nào đó nên không kịp dời
cuộc hẹn với tôi. Đâu ngờ chính anh là người đang được cấp cứu do nghẽn động mạch
vành. Chỉ hai giờ sau đó có tin tim anh đã ngừng đập. Tin ấy quá khủng khiếp
đối với tôi. Cái chết từng xuất hiện sát bên tôi, nhưng không mang tôi đi lại
cướp đi mạng sống người đã cứu sống tôi. Hình như có sự nhầm lẫn ở đâu đó
chăng? Giám đốc bệnh viện Chợ Rẫy trực tiếp cùng các đồng nghiệp của bác sĩ
Thắng cố gắng hết lòng để kéo anh trở về cuộc sống, giành giựt với từ thần mạng
sống của một nhà khoa học tài năng. Nhưng vô vọng. Tôi đến bệnh viện khi nỗ lực
tìm cách làm quả tim của anh đập lại vẫn đang tiếp diễn. Thật là một cú sốc đối
với tôi. Bác sĩ Thắng là người đã... nối dài thêm sự sống của tôi. Anh trở
thành một phần của con người tôi đang hiện hữu. Sự ra đi của vị bác sĩ đã cứu
mình, trở thành bạn mình, là một sự mất mát vượt khỏi lĩnh vực tình cảm đơn
thuần. Tôi vẫn tưởng tôi sẽ đi trước và ngày tôi đi sẽ có anh bên cạnh. Nào
ngờ... Bác sĩ Thắng mất ở tuổi 48. Cái tuổi đẹp nhất của một người làm khoa
học. Cuộc đời quả thật có nhiều điều phi lý!
Khi còn trong bệnh viện và biết mình bị mắc căn bệnh không thể
chữa khỏi, lạ lùng thay tôi vẫn rất bình tĩnh. Tôi nghĩ “Mình sống thế cũng quá
đủ rồi. Mình chẳng còn gì phải tiếc...”. Tôi nghĩ thế giới của người sống như
một sân khấu vĩ đại, bao la. Mỗi con người là một diễn viên trong hàng tỷ, tỷ
diễn viên, luân phiên nhau diễn một vở kịch bất tận, chẳng ai biết khởi đầu
chính xác lúc nào và bao giờ kết thúc. Mỗi người một vai dài ngắn chẳng ai có
thể biết trước. Có người chỉ nói được vài câu rồi... biến. Có người thật nổi
bật trong thiên hạ, vai diễn thật tuyệt vời, nhưng rồi hết vai cũng phải ra đi.
Cũng có những người đứng đâu đó trên sân khấu, chẳng ai chú ý, rời sân khấu lúc
nào cũng chẳng ai hay... Không có ai tồn tại mãi trên sân khấu, và hình như
càng tồn tại lâu càng trở nên... thừa! Vậy, đến lúc nào đó nếu vai diễn của
mình được... nhà đạo diễn trên cao xanh bảo rằng “kết thúc” thì cứ vui vẻ mà...
rút lui. Vấn đề là khi còn có mặt trên sân khấu, mình diễn vai nào, có đạt
không? Nếu mình diễn tạm được, chân thành với lòng mình thì dù hay hoặc dở một
chút, mình cũng có thể an tâm mà rời sân khấu của đời này. Khi biết mình bệnh
gì, tôi cũng đơn giản nghĩ: Đã đến lúc vai của mình kết thúc. Thế thôi.
Nhưng khi sức khỏe phục hồi, tôi không thể không tự cho mình là
“bệnh nhân - hiểm nghèo – may mắn”. Tình thương bao bọc chung quanh tôi là sức
mạnh hỗ trợ tôi đối phó với căn bệnh tai ác. Các con tôi thật tuyệt vời. Tôi
không thể không cảm ơn những gì chúng đã làm cho cha chúng. Tôi thật ấm lòng.
Trong cơn bạo bệnh, tôi lại nhận ra hạnh phúc lớn lao của mình. Tình nghĩa như
bát nước đầy của người vợ cũ cũng là chuyện hiếm hoi trong đời sống mà tôi lại
là người may mắn có được. Đó là tình nghĩa của hơn hai mươi năm chung sống, nay
đã gạn lọc đi những gì phiền muộn, mâu thuẫn đưa đến sự chia tay. Tôi cảm ơn Quỳnh
Nga với cả com tim.
Không thể không nhắc tới người vợ trẻ Thanh Thủy tưởng như lạc
lõng giữa cái thế giới đại gia đình thân thuộc riêng của chồng mình mà nàng gặp
mặt đông đủ lần đầu. Nàng không khỏi lúng túng. Nằm trên giường bệnh tôi nhìn
nàng lặng lẽ, theo dõi nàng lo việc này việc kia cho chồng. Tôi thấy cả nỗi âu
lo của nàng khi nghĩ đến tương lai đứa con gái nhỏ nếu chồng mình không qua
khỏi cơn bệnh. Nhìn mà thương xót vô cùng. Nàng là người sau cùng trong gia
đình được thông báo tôi mắc bệnh gì!
Nhưng ở người vợ 25 tuổi ấy – cái tuổi của nàng vào lúc tôi bị
bệnh – có một sức sống riêng và một ý chí thầm lặng rất mạnh mẽ. Ngay khi tôi
vừa bình phục, Thanh Thủy tổ chức ngay một cửa hàng may mặc tại nhà với thương
hiệu “Thủy Chung Fashion”, lấy tên nàng và tên tôi ghép lại. Sự xuất hiện của
tiệm “Thủy Chung Fashion” và sự hăng hái lao vào công việc sáng tạo của nàng
mang lại một không khí lạc quan cho gia đình. Cuộc sống nhanh chóng trở lại
bình thường trong gia đình và tiếp tục hướng về tương lai.
Trước bạn bè, người thân, Thanh Thủy không hề mất tự nhiên về
khoảng cách tuổi tác giữa nàng với tôi. Nếu có ai gặp nàng lần đầu có sự nhầm
lẫn Thanh Thủy là con, hay cháu tôi, thì nàng bình tĩnh giới thiệu lại “Anh
Chung là chồng tôi”. Nhưng cái lý lịch từng là vũ nữ, lúc đầu khiến nàng mất
một phần sự tự tin trong giao tiếp. Tôi nói với nàng: “Điều đó trái lại phải
khiến em hãnh diện, bởi tại sao mình ở môi trường đó mà được một người có chút
ít tên tuổi trong xã hội không hề e ngại lấy mình làm vợ, giới thiệu mình chính
thức với gia đình, với bạn bè?”. Thật sự, tôi rất hãnh diện có một người vợ như
Thanh Thủy. Càng sống với nàng, tôi càng kính trọng nàng. Lập gia đình mới nếu
sự chọn lựa của mình lại được con cái, mẹ, các em và bạn bè chấp nhận thì đó là
một niềm vui nhân đôi. Trong cả ba lần lấy vợ, tôi đều tự chọn lựa, không hề có
ý kiến của cha mẹ. Tôi thấy mình cũng có lỗi. Khi mẹ tôi từ Mỹ trở về, lần đầu
bà gặp Thanh Thủy, bà không khỏi băn khoăn: “Sao con chọn vợ nhỏ tuổi quá!”.
Nhưng sau nhiều lần tiếp xúc với Thanh Thủy mẹ tôi lại nhận xét “Mẹ thấy được”.
...Khi tôi vừa ngồi dậy được sau ba tháng nằm liệt trên giường,
điều tôi nghĩ tới đầu tiên là viết báo trở lại. Chưa viết được trực tiếp, tôi
đọc cho Thanh Thủy đánh vi tính. Bài báo đầu tiên tôi viết trở lại và gởi cho
báo Lao Động là ngày 1-9-2002, đúng ngày sinh nhật thứ 62 của
tôi. Với tôi “tồn tại là viết báo”. Tôi đã tồn tại như thế suốt hơn 40 năm. Và
tôi chỉ thấy mình tồn tại thật sự nếu còn có thể tư duy để viết lách.
Sau đó tôi bắt đầu cộng tác thường xuyên trở lại với ba tờ
báo: Lao Động, Công An TP.HCM, Sài Gòn Doanh Nhân cuối tuần, bớt đi
một hai tờ mà tôi có cộng tác trước lúc bệnh. Tới dịp SEA Games 22, tôi lại
bình luận bóng đá cho Đài Truyền hình Đồng Nai. Nhưng gần đây tôi không từ chối
lời mời của báo Thể Thao Ngày Nay.
...Một vài người bạn như các nhà báo Trần Trọng Thức, Nguyễn
Trung Dân... khi thấy tôi có khả năng bình phục đã gợi ý với tôi viết hồi ký.
Trước khi bị bệnh tôi chưa nghĩ đến việc này. Lúc đó tôi nghĩ nếu có bắt đầu,
tôi vẫn thích viết một hồi ký về 40 năm làm báo hơn là về cuộc đời chung của
mình. Tôi rất muốn có cơ hội gởi gắm những điều mình học hỏi, tích lũy được
trong cuộc đời viết báo, làm báo của mình cho các bạn trẻ.
Nhưng bệnh tật đột nhiên đến, khiến tôi phải thay đổi kế hoạch.
Hồi ký về báo chí – tôi đành gác lại sau vậy.
Viết hồi ký cũng là một cách nhìn lại cuộc đời mình. Tôi bắt đầu
làm việc đó từ tháng 12-2002 khi sức khỏe bắt đầu phục hồi tốt. Tôi cứ tưởng
công việc này chỉ mất năm hay bảy tháng là xong. Không ngờ mãi đến tháng
4-2004, tức 16 tháng sau, vào lúc tôi đang viết những dòng này, cũng chưa hoàn
tất. Nhà báo Thúy Hà (báo Phụ Nữ TP.HCM) giúp tôi công việc đọc lại bản thảo,
hạn chế những sai trật về chữ nghĩa, điều này khó tránh với một người vốn từ
nhỏ học tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt như tôi. Thúy Hà làm rất tỉ mỉ và tận
tình. Đây là công việc đầy tình cảm mà không bao giờ tôi quên ơn.
...Đem chuyện của riêng mình kể cho nhiều người nghe, tôi không
chắc mọi việc đều đáng kể và được người đọc quan tâm. Nhưng đây là chuyện đời
tôi, gồm cả những điều hay dở, nhưng đó là những điều tôi đã từng suy nghĩ như
thế và hành động như thế. Tất cả những gì kể lại trong hồi ký này là chuyện của
tôi, là chính tôi. Như tôi đã nói: Tôi cố gắng không gọt dũa và sửa sang lại
quá khứ của mình.
...Vào lúc sắp kết thúc tập hồi ký này, tháng 2-2004, một sự
kiện tình cờ nhiều ý nghĩa với tôi xảy ra: Tại TP. HCM tôi gặp lại ông Nguyễn
Cao Kỳ. Nếu tính từ cuộc gặp ông lần đầu khi tôi mới vào làng báo thì đến nay
40 năm đã trôi qua.
Qua trung gian là Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi, ông Kỳ và tôi
có một buổi ăn trưa tại nhà hàng An Viên của bà, trước một ngày ông Kỳ rời TP.
HCM trở về Mỹ. Đây là chuyến về thăm quê hương đầu tiên của ông Kỳ sau khi rời
Sài Gòn ngày 29-4-1975.
Những năm khởi đầu cuộc đời làm báo (1964-1965) tôi đã có dịp
gặp ông Kỳ, lúc ấy ông là thủ tướng Sài Gòn. Tôi dự buổi ăn sáng của thủ tướng
Kỳ tổ chức tại nơi làm việc của ông trên đường Thống Nhất. Mỗi tuần ông đều tổ
chức một lần ăn sáng với báo chí để trao đổi các vấn đề thời sự. Trước ông và
sau ông không có một thủ tướng nào ở Sài Gòn làm thế. Nhưng các buổi ăn sáng
này chỉ kéo dài trong vài tháng. Tôi có dự cả buổi họp báo ông Kỳ công bố quyết
định đóng cửa tất cả các báo Sài Gòn hồi năm 1965 - một chuyện có một không hai
trước 1975 tại miền Nam. Nhắc lại chuyện xảy ra 40 năm về trước, ông Kỳ còn kể
lại cho tôi nghe một chi tiết bên lề cuộc họp báo: “Khi ông vừa công bố quyết
định đóng cửa tất cả các báo để tái lập trật tự thì ở gần cuối phòng họp một
nhà báo Việt Nam đứng dậy hô to “Đả đảo độc tài” và hô hào các đồng nghiệp mình
bỏ phòng họp ra về. Nhà báo đó, tôi còn nhớ là Tô Văn. Tôi nói to hướng về Tô
Văn: “Mời anh ngồi lại. Nếu anh bỏ phòng họp ra ngoài vào lúc này tôi sẽ có
biện pháp giữ anh lại”.
Với ông Kỳ, tôi còn có nhiều chuyện liên quan khác mà tôi đã kể
ở những đoạn trước của hồi ký này.
Thật không thể tưởng tượng lại có một ngày ông Kỳ và tôi có dịp
dùng cơm trưa với nhau tại TP.HCM trong không khí rất riêng tư và an bình như
thế. Cuộc gặp diễn ra khi tôi viết phần cuối Hồi ký không tên của
tôi. Những gì tôi đã viết về ông Kỳ trước đó tôi vẫn giữ nguyên, không sửa đổi
một ý nào hay một chi tiết nào. Bởi đó là những gì tôi biết và nghĩ về ông khi
ông là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (tức Thủ tướng) và Phó Tổng thống
VNCH, còn tôi là nhà báo và sau đó là dân biểu Hạ nghị viện. Còn những gì các
nhà báo nước ngoài viết về ông trong thời gian đó, mà tôi có trích lại
trong Hồi ký không tên thì thuộc phần tư liệu, giúp cho những
người sau này hiểu thêm về một thời kỳ đã qua tại miền Nam Việt Nam trước 1975.
Các đánh giá về ông Kỳ của các nhà báo nước ngoài là như thế, đúng sai đến mức
nào khó có một thẩm định chính xác, nó tùy thuộc chỗ đứng của người viết và
tính chất quan hệ giữa người đó với ông Kỳ.
Ông Kỳ trong con mắt của tôi sau 40 năm vẫn là thế. Về mặt tính
cách, ông không thay đổi nhiều. Lập trường và các hành động chính trị của ông
trước 1975 có nhiều điều để tôi không tán đồng và lúc đó tôi đứng về phía đối
lập với ông. Dĩ nhiên sự đối lập của tôi với ông Kỳ khác với ông Thiệu. Không
đứng cùng nhau một trận tuyến chính trị, nhưng từ trước 1975, tôi vẫn có thể
quan hệ bình thường với ông, và từng chơi quần vợt với ông trên sân Xẹc Tây.
Chính vì mối quan hệ năm xưa như thế, nên khi được gợi ý, tôi đồng ý ngay việc
gặp lại ông trong một buổi ăn trưa. Tôi đoán trước đó sẽ là một buổi gặp thú
vị, bởi ông Kỳ là con người nghĩ gì nói nấy, không lắt léo che giấu những suy
nghĩ của mình.
Gặp lại ông Kỳ sau 40 năm, với tôi như đã đi tròn một giai đoạn
lịch sử của đất nước (1965-2005). Khi tôi gặp ông Kỳ lần đầu, đó là lúc quân
đội Mỹ ồ ạt đổ vào miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến đi vào những ngày tháng ác
liệt nhất. Đó cũng là thời kỳ khởi đầu sự nghiệp chính trị của ông Kỳ. Trải qua
bao nhiêu thăng trầm lịch sử, chúng tôi lại ngồi chung với nhau vào lúc đất
nước đã hòa bình và thống nhất, kinh tế bắt đầu một giai đoạn phát triển mới.
Mỗi người chúng tôi có một con đường đi khác nhau, một sự chọn lựa khác nhau
nhưng cuối cùng gặp lại ở một điểm hẹn chung trên quê hương mình! Trước mặt tôi
vẫn là một Nguyễn Cao Kỳ ‘‘nghĩ sao nói vậy’‘. Khi ông chống Cộng thì chống dứt
khoát, thậm chí thực hiện hành động bị nhiều người lúc đó lên án: tự mình lái
máy bay bỏ bom miền Bắc. Còn bây giờ, khi đất nước có những thành tựu tốt đẹp,
khi trở về ông công khai bày tỏ sự mừng vui ủng hộ bất chấp những “chiến hữu”
cũ của ông ở Mỹ có phản đối quyết liệt. Việc một cựu thủ tướng và là phó tổng
thống VNCH chính thức trở về nước trong chế độ cộng sản, dù muốn hay không,
được coi như một cột mốc lịch sử: là sự thừa nhận chế độ mới của một trong
những người từng điều khiển cuộc đối đầu trực diện với người cộng sản trong chế
độ cũ trước đây. Tôi cảm phục sự dũng cảm đó của ông Kỳ. Dũng cảm trước những
áp lực ở phía những người đã từng đứng cùng chiến tuyến với ông và nhất là dũng
cảm với chính mình khi bày tỏ công khai một thái độ chính trị đi ngược hẳn với
con đường mà ông đã đi trước 1975. Dám thay đổi thái độ của mình không vì điều
gì khác hơn là vì quyền lợi của dân tộc, bất chấp những dị nghị ác ý là điều
không dễ dàng.
Gặp lại ông Nguyễn Cao Kỳ, bất chợt nhớ lại 40 năm đã qua trong
cuộc đời của mình, tôi thấy cuộc đời mình rất nhỏ bé giữa bao la biến cố thăng
trầm của lịch sử, nhưng tôi đã sống với nó hết lòng, luôn sôi nổi và hào hứng.
Hay, dở là do mình. Mình không thể phủ nhận nó. Tôi hài lòng về nó chứ? Con
người và năng lực của tôi, cùng hoàn cảnh cho phép, chỉ được như thế. Tuy nhiên
tôi cũng không mơ ước một cuộc đời nào khác và nếu phải bắt đầu lại, thật khó lòng
dựng lại một kịch bản như thế. Tôi đã sống cuộc đời nhỏ bé của mình như một
tiểu thuyết, mãnh liệt ở từng chương và từng trang. Chưa bao giờ tôi hờ hững
với những năm tháng của đời mình.
...Ngay bây giờ sau cơn bệnh nặng tưởng là không qua khỏi, thời
gian được cuộc đời “tạm ứng” thêm chắc không nhiều, nhưng nhịp độ viết báo và
làm báo của tôi vẫn không thay đổi. Hiện nay tôi là một nhà báo tự do, không
thuộc biên chế một tòa soạn nào nhưng viết bài thường xuyên cho bốn tờ báo, mỗi
ngày viết từ hai đến ba bài và tư vấn cho hai tạp chí. Kết thúc cuốn hồi ký
này, tôi chuẩn bị bắt tay viết tiểu thuyết Người Mỹ cuối cùng chết ở
Việt Nam mà tôi đã ấp ủ từ hơn mười năm qua. Sự bận rộn và căng thẳng
trong công việc luôn làm tôi hạnh phúc. Như tôi đã nói: Với tôi, cầm viết tức
là tồn tại!
TP. HCM ngày 12-4-2004
PHỤ LỤC:
Trước khi xuất bản thành sách, một số đoạn trong Hồi ký
không tên của Lý Quí Chung được trích đăng trên tờ nguyệt san Nhà
báo và Công luận năm 2004 (đã đình bản từ tháng 1.2005), và gây một số
phản ứng trên tờ Quân đội nhân dân. Bản in đầu tiên của nhà xuất
bản (tạm gọi là bản A) có một số câu và đoạn, rải rác ở nhiều chương, tổng cộng
chừng trên 20 trang in, khác với bản phát hành chính thức sau này (tạm gọi là
bản B). Chúng tôi xin đưa những đoạn có trong bản A và không có trong bản B vào
Phụ lục sau đây nhằm mục đích tham khảo.
talawas
Phần Lời giới thiệu của Nhà xuất bản (toàn bộ, bản A)
Hồi ký không tên của tác giả Lý Quí Chung là hồi ức của
một con người sớm tự lập, một mẫu người luôn hành động và hành động theo sự dẫn
dắt của một con tim sôi nổi nhiệt tình, của một lý trí tỉnh táo, của một tấm
tình khá sâu nặng với gia đình và quê hương, được ông thể hiện theo một cách
riêng, trong một thời cuộc quá nhiễu nhương, quá sôi động, lắm khi rất rối rắm
ở ngay Sài Gòn trong hơn mười năm trước ngày được giải phóng.
Tác giả vốn là một nhà báo thành danh từ khi còn rất trẻ, một
chủ bút độc lập quả cảm, một dân biểu, một nghị sĩ sớm lựa chọn con đường đối
lập ở nghị trường miền Nam đương đầu chống lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, là
một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy cai trị của chính quyền
Sài Gòn do Mỹ dựng lên. Bạn đọc sẽ được đi cùng với ông, nhìn từ góc nhìn của
ông, để biết thêm gần như xuyên suốt những sự kiện, những biến động chính trị,
xã hội lớn tại Sài Gòn, tại miền Nam những năm 1965 đến năm 1975. Và nhất là,
thấy được thêm những đóng góp khác nhau của nhiều người Việt yêu nước cho ngày
toàn thắng.
Ngày toàn thắng của năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
“Thần tốc–Táo bạo–Bất ngờ-Chắc thắng”, qua 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng (từ
9-3 đến 30-4-1975), quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân
đội ngụy, đập tan bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi này là kết quả của phương pháp
cách mạng tổng hợp, kết hợp chặt chẽ đấu tranh trên các mặt trận: quân sự,
chính trị, ngoại giao, binh vận. Bên cạnh rất nhiều những cuốn sách mô tả về sự
thật mang tính lịch sử này, Hồi ký không tên của Lý Quí Chung
có thể coi như một vùng hiện thực còn khuất nẻo được soi chiếu bởi một góc nhìn
còn mới lạ, ở một thế đứng vừa nhạy cảm, vừa kiên định của một người có tinh
thần dân tộc, chán ghét chế độ Mỹ Thiệu, hoạt động trong lực lượng những người
yêu nước.
Chính ở góc độ này, Hồi ký không tên mang một
bản sắc riêng. Là hồi ký cá nhân, không phải là một biên niên sử các sự kiện mà
ông được chứng kiến, tất nhiên, nên không tránh khỏi cách nhìn, cách phân tích chủ
quan. Xuất bản cuốn sách, chúng tôi hy vọng được bổ sung thêm cho những góc
nhìn đa dạng về cùng một thời điểm lịch sử vẻ vang của dân tộc, như những tư
liệu văn học tham khảo thú vị. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp chân thành của quý bạn đọc.
Nhà xuất bản Trẻ
Phần Lời tựa của Trần Bạch Đằng
Sau câu: “Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp vào bức tranh đa dạng
ấy những đường nét riêng, tôi xem đó là cống hiến của Lý Quí Chung.”
Gần đây, tôi có dịp đọc hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận, của Dương Văn
Ba, và bây giờ, của Lý Quí Chung. Sắp tới sẽ còn nhiều hồi ký nữa, những hồi ký
phản ánh độ phong phú của cuộc chiến đấu mà những thành viên của dân tộc, lớn
nhỏ khác nhau, nặng nhẹ khác nhau, đã hiến dâng cho thắng lợi của Tổ quốc.
Chương 2
Sau câu: “Tướng Mậu có chứng kiến cuộc bàn luận quyết định số
phận của Diệm – Nhu. Ông là người duy nhất không tán đồng giết hai anh em nhà
Ngô.”
Về cái chết của hai anh em Diệm – Nhu, nhà báo Mỹ Stanley Karnow
kể rằng khi hay tin này, tổng thống Mỹ Kennedy bị sốc, người rụng rời. Ba tuần
sau cái chết của Diệm – Nhu, tổng thống Kennedy bị ám sát. Mỹ và cả hai phía
Sài Gòn đều không có một cuộc điều tra nào đến nơi đến chốn về hai cái chết
này.
Chương 7
Sau câu: “Ở các tỉnh, liên danh Trương Đình Dzu, với chủ trương
hòa bình và thương thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến tranh, đã thu được một
số phiếu khá cao (chỉ đứng sau liên danh Thiệu – Kỳ)”
Điều này chứng tỏ từ những năm 1967-1968, người dân miền Nam đã
tỏ rõ quan điểm của mình đối với cuộc chiến do Mỹ đạo diễn.
Tiếp câu: “Cho đến những ngày cuối tháng tư 1975, ông vẫn cố bám
vào ghế tổng thống do ông Thiệu để lại và tuyên bố sẵn sàng “chiến đấu cho đến
khi Sài Gòn chỉ còn viên gạch cuối cùng”
để bảo vệ chế độ Sài Gòn không lọt vào tay cộng sản!
Chương 11
Sau câu: “Một bài báo quả là hồn nhiên chính trị. Với không ít
người còn coi đó là ngây thơ chính trị.”
Nhưng nếu trở lại 35 năm về trước, trong bối cảnh ấy, tôi vẫn sẽ
chọn thái độ ngây thơ ấy.
Chương 12
Sau câu: “Một trong những nguyên nhân thất bại của chế độ Thiệu
trong thời điểm khởi đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với người cộng sản và đồng
thời với cả người Mỹ - gần như đã bỏ rơi Thiệu khi quyết định rút chân khỏi
Việt Nam – là ở chỗ, phía sau chế độ đó không có hậu thuẫn dân chúng và các lực
lượng chính trị có uy tín.”
Tình cảnh của chế độ Thiệu khác hẳn tư thế chính trị của các chế
độ nối tiếp nhau ở Nam Triều Tiên sau khi Triều Tiên cũng bị chia đôi. Các chế
độ Lý Thừa Vãn, Pắc Chung Hy ít ra cũng có sự hậu thuẫn của quần chúng và trí
thức yêu nước. Các chế độ nối tiếp nhau ở Seoul tạo dựng được một sức mạnh tinh
thần và vật chất để người dân Nam Triều Tiên có lý do hậu thuẫn.
Chương 14
Sau câu: “Trong giai đoạn này bà có nhiều hình thức đấu tranh
rất độc đáo và kiên cường. Trước khi bị bắt, bà Thành đã từng dùng nhà mình để
họp báo quốc tế, trưng bày tài liệu, hình ảnh chống chính quyền”.
Để minh họa cho các hoạt động chống chính quyền Thiệu rất Sài
Gòn của giới trí thức trước 1975, tôi xin trích lại lời kể của anh Hồ Ngọc
Nhuận dự một cuộc họp báo tại nhà bà Thành trước ngày bà bị bắt như sau:
“Chị Ngô Bá Thành có cho ra một cuốn sách về cuộc đấu tranh của
Phong trào Phụ nữ Đòi Quyền Sống, hay của lực lượng ba gì đó, mà tôi quên cả
cái tựa. Tôi cũng có mấy cuốn về tù, về báo chí, in roneo, mà tôi thường gọi là
“vũ khí tự tạo”. Ai cũng biết thứ vũ khí tự tạo đó chỉ hơn giáo mác hay tầm
vông vạt nhọn ít thôi, thô sơ là cái chắc.
“Tôi được chị Thành mời dự cuộc họp báo phổ biến sách tại nhà
chị. Từ sáng sớm, cảnh sát đã phong tỏa từ xa các ngả đường vào nhà chị, tận
phía nhà thương Đồn Đất (Hôpital Grall), tận ngoài trụ sở Công ty Điện lực
đường Hai Bà Trưng. Ký giả trong và ngoài nước và quần chúng tụ tập khá đông
phía đường Hai Bà Trưng, ở sân sau Hạ nghị viện. Đường Cao Bá Quát dẫn đến nhà
chị Thành vắng teo, “nội bất xuất ngoại bất nhập”!
“Họp báo đối với chúng tôi thời đó mà không dùng kế “nghi binh”
hay “điệu hổ ly sơn” thì coi như một thứ “biểu tình chạy”, dụ cảnh sát nhiều
hơn là gặp các nhà báo. Nếu có thì đa phần là ký giả giả, là “nhà báo cảnh
sát”.
“Nhà chị Thành, khi tôi vào, lác đác có mấy người. Chắc là nhờ
lẻn vào từ rất sớm, trước khi cảnh sát phong tỏa.
“Trong vài người đó tôi nhớ có ông “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Ông đâu
rồi, ông bạn? Bấy giờ tôi gọi ông như vậy, bởi tôi cũng đã già, chớ hồi đó tôi
không dám. Hồi đó ông lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ít có cuộc đấu tranh nào vắng mặt
giáo chủ Nguyễn Tấn Đắt. Liên tôn cầu nguyện cho hòa bình ở Thánh Thất Đô
Thành, ở Tịnh Xá Ngọc Phương hay ở Nhà Thờ Dòng Chùa Cứu Thế đều có ông, với
nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo lớn nhỏ khác. Rồi những cuộc họp đêm ở văn phòng
tôi nữa. Nhớ ông tôi chỉ còn lại vài kỷ niệm trên các tuyên cáo, tuyên ngôn
chung chống Mỹ, chống chiến tranh, với chữ ký của ông thật lớn, với dấu son đến
nay còn đỏ chót.
“Dân báo chí không vô nhà chị Thành được thì làm sao phổ biến
sách? Và khả năng cảnh sát tấn công để hốt sạch, vừa người vừa sách, là điều
khó tránh, trước mắt. Sau một hồi bàn thảo, tôi xung phong đưa sách và khách
thoát ra ngoài. Không họp báo trong nhà thì họp báo ngoài đường. Không phát
hành sách tại gia thì tung sách tại thị. Chiếc LaDalat của tôi lại một phen
xông trận. Ông “Bửu Sơn Kỳ Hương” và vài người khác ngồi phía sau, chiếc hộp
bánh thết khách chễm chệ bên cạnh tôi ở băng trước. Nửa đường, cảnh sát túa ra
chận lại, yêu cầu mọi người phải xuống xe để họ xét, cả xe lẫn người. Ngồi yên
sau tay lái, tôi nói cứng không cho mấy người ngồi sau xe rời xe, và “cự” một
mạch: “Xuống xe để làm gì? Tôi đi dự họp báo, không cho, tôi về. Mấy bà con này
cũng vậy, tôi cho quá giang. Bánh đó ế khách, chủ nhà cho, tôi mang về ăn. Xe
tôi trống phốc, không rương không “cốp”, giấu cái gì được? Muốn xét cứ xét, tôi
không xuống”.
“Nói cứng mà bụng tôi lại đánh lô tô. Nét mặt các bạn đồng hành,
nhìn thoáng, cũng không mấy hồng hào. Khả năng bị bắt chắc là không, vì chúng
tôi đang trên đường, không làm gì phạm pháp. Mà xô xát là phải có, trong khi
chúng tôi chỉ có một nhúm vài người, cô lập hoàn toàn với báo chí và quần chúng
cách đó mấy dãy nhà. Không thể cưỡng mãi lệnh cảnh sát, mấy bạn ngồi phía sau
bước xuống. Chiếc xe còn lại trống trơn. Cảnh sát khám trong rồi lại khám
ngoài, khám trên rồi khám dưới, khám hết người này đến người khác, cả hộp bánh
“ngồi” ở băng trước cũng bị giở lên mấy lần. Trừ tôi, dứt khoát không xuống xe,
nhưng cũng mở tung cửa bên cho họ khám. Mà sách đâu không thấy! Dưới sức ấn
nhiều đợt của cảnh sát, tôi có cảm giác xe mình như bị sóng nhồi. Chỉ còn thiếu
điều họ đè nhau lật ngược chiếc xe lên nữa thôi. Đối với chiếc xe LaDalat thì
việc đó không khó. Nhưng sau cùng, không tìm thấy gì, cũng không thể bứng tôi
lên khỏi ghế nếu không dùng vũ lực, những người “bạn dân” đã thả cho chúng tôi
đi.
“Khi ra được với rừng người đang sốt ruột chờ ở đường Hai Bà
Trưng và sân sau Hạ Nghị viện, tôi mời báo chí ăn bánh của bà Thành. Họ không
“ăn bánh” mà cứ đòi “coi sách” của bà. Chờ cho sự háo hức đòi coi sách lên cao
độ, tôi lần tay xuống ghế ngồi rút cuốn sách của bà Thành giơ cao cho báo chí
chụp hình. Lúc nãy, ở nhà bà Thành, tôi đã cẩn thận cắt chỉ khâu tấm da bọc nệm
ghế, nhét sách vào và ngồi chồng lên. Đó là lý do tôi dứt khoát không chịu
xuống xe. Nếu cảnh sát đã dùng vũ lực bứng tôi khỏi xe thì cuốn sách ắt phải
lòi ra và chắc tôi phải mất nhiều thì giờ về bót cảnh sát. Ít ra đối với tôi,
là để ký biên bản, còn đối với “ông Bửu Sơn Kỳ Hương” và mấy người khác thì
việc gì xảy ra, thật khó mà biết. “Đánh giặc” thì phải hao người thôi. Ít hay
nhiều là tùy một phần vào người cầm quân. Tôi không biết sau đó cảnh sát đã làm
gì với chị Thành và với mấy cuốn sách của chị.”
Sau câu: “Trong tập hồi ký còn ở dạng bản thảo của anh Hồ Ngọc
Nhuận mà tôi được xem qua, về chuyện làm “báo nói”, thì anh Nhuận kể rằng anh
đã lấy sáng kiến từ những xe bán dạo “mì Ba Con Cua” (một loại mì ăn liền).”
Anh Nhuận kể: “Gánh của tôi thật gọn nhẹ: một chiếc xe
LaDalat vừa làm sàn diễn vừa làm phương tiện di chuyển, một chiếc ampli, vài
chiếc loa, mấy tấm biểu ngữ, và rất nhiều truyền đơn. Một gánh thuộc “Sơn Đông
mãi võ”, tấp đâu cũng được, biểu diễn chớp nhoáng theo kiểu “sóng vang”. Tôi
học được “chiêu” này nhờ mấy chiếc xe mì “Ba Con Cua”. Tôi hay xuống đường hoặc
tay không, hoặc thỉnh thoảng với một loa cầm tay. Tới chỗ đông người, ngã ba,
ngã tư hay chợ búa, đoàn biểu tình dừng lại trưng biểu ngữ và tôi làm nhiệm vụ
phát thanh. Dần dần hễ chúng tôi đi tới đâu thì chính quyền cho mấy chiếc xe mì
con cua bò tới đó. Và mạnh ai nấy “phát”. Nhưng làm sao địch lại một bầy cua?
Gánh “báo nói” chúng tôi ra đời từ bài học của chính quyền (…) Trong chuyến đi
về Mỹ Tho và Cần Thơ tôi nhớ có dân biểu Lý Quí Chung, chị Kiều Mộng Thu, nhà
thơ nhà báo Cung Văn. Có nhà báo trẻ Mỹ John Spragens ham vui cũng xin đi theo.
Chung và tôi thay phiên nhau lái xe và tất cả, không trừ ai, luân phiên chuyện
tiếu lâm”.
Sau câu: “Nhưng đến ngã ba Trung Lương, ô tô không chạy thẳng
vào Sài Gòn mà rẽ trái, tiếp tục đi xuống miền Tây. Ý định của chúng tôi là đến
Cần Thơ gây một cuộc nữa.”
Về đoạn này anh Nhuận kể lại như sau:“Lúc đó Kính (trung tá
Huỳnh Đạt Kính) là trưởng ty cảnh sát Tây đô, mà tôi không hay (Kính là bạn của
anh Nhuận). Gặp tôi, Kính nói:
“Ông với tôi không thể nào không đụng nhau sao? Ông bày trò
không lẽ tôi không dàn quân? Ông diễn không lẽ tôi ngồi yên?”. Mà Kính dàn trận
thật: cảnh sát dã chiến, với khiên tre và gậy đã sẵn sàng. Có lẽ Sài Gòn (tức
chính quyền trung ương) không muốn Cần Thơ và các tỉnh bị “lây nhiễm” xáo trộn.
Tôi không phải không quen đánh trận, nhưng tôi nghĩ: không “hát” chỗ này thì
“hát” chỗ khác, cớ gì phải “hát” ở đây để anh em đối đầu nhau. Vậy là rút”.
Chương 15
Sau câu: “Tôi không có mặt tại trụ sở Nghiệp đoàn lúc đó vì phần
sau không nằm trong kế hoạch chung, mà do một số anh em tự biên tự diễn.”
Anh Nhuận có mặt trong sự kiện này đã ghi lại như sau:“Giới
nghiêm. Lầu Rex bỗng tối đen. Anh em dân biểu như nghe thấy cái gì đó bất
thường trong gió, điệu bộ mỗi người thay đổi mỗi khác. Từ phía nhà thờ Đức Bà,
theo đường Tự Do, nay là Đồng Khởi, một đoàn xe jeep cảnh sát xả hết tốc lực,
qua ngả nhà hàng Givral, mất hút về phía chợ Sài Gòn. Chúng tôi đứng vụt cả
dậy, từ trụ sở Hạ nghị viện chạy bay qua cửa Trung tâm báo chí, siết tay nhau
làm rào chắn. Chưa kịp chỉnh đốn hàng ngũ, cơn trốt cảnh sát đã ập tới. Họ từ
chợ Bến Thành đến đã bọc xuống bến Bạch Đằng đánh thốc lên theo ngả Tự Do,
Nguyễn Huệ, không ai kịp nhận biết. Không cần lâu lắc lắm để họ xé nát hàng
rào. Anh em dân biểu bị nện dùi cui tan tác. Hai người tôi thoáng thấy bị đòn
nhiều nhất là dân biểu Trương Vi Trí, đơn vị quận 5 và dân biểu Nguyễn Văn Quí,
đơn vị Hậu Nghĩa. Một cảnh sát chộp tay tôi, lúc phá hàng rào người, tôi hét:
“Bỏ ta ra! Mày làm rớt đồng hồ tao!''. Một phản ứng tức cười! Anh cảnh sát ngó
sững mắt tôi, rồi buông tôi ra, sau một thoáng chưng hửng. Anh Nguyễn Kiên
Giang nói đúng: Cảnh sát “sợ'' tôi. Sợ lỡ tay tôi chết, anh em bị tù oan. Nói
vậy chớ làm sao tránh khỏi ăn đòn, trong một trận “bề hội đồng''! Nhưng có lẽ
tôi là người bị ăn đòn nhẹ nhất. Nặng nhất là anh dân biểu bác sĩ Đinh Xuân
Dũng, đơn vị Bình Thuận. Anh, người không cao mà có bề ngang, giọng quát thật
to lại nặng gốc Quảng Bình. Đánh anh chưa đã, họ lôi anh thảy lên xe, như bao
gạo, chạy mất. Vì anh quát to hay vì giọng anh ''thấy ghét''? Bữa đó ai mà
không la, có lúc tôi còn la to hơn anh. Vậy chắc không phải tại anh la (anh
Đinh Xuân Dũng bị cảnh sát bắt quăng lên xe jeep như một con heo!).
“Trung tâm báo chí tan tác như một chuồng gà bị đột nhập, lớp bị
vồ, lớp co giò tìm ngõ chạy thục mạng. Bao nhiêu ký giả bị bắt? Tôi không nhớ.
Có ai ký giả giả trà trộn để nhìn mặt, chụp hình? Mọi người cũng chỉ đoán.
Đám tàn quân dân biểu kéo về trụ sở các ủy ban Hạ viện. Để tính
kế. Ông Thiệu muốn gì mà cho đánh và bắt một dân biểu mang đi? Để “phá đám''
rồi thả? Hay đã bắt, dù bắt ẩu, thì bắt luôn, bắt tiếp, thử nắn gân nhau tới
cùng? Nghi vấn này, chúng tôi nghĩ phải có giải đáp ngay trong đêm: hoặc Đinh
Xuân Dũng sẽ được trả về trước khi trời sáng, hoặc Trang Sĩ Tấn mở đợt tấn công
mới, để cho Đinh Xuân Dũng có bạn. Trong giả thiết xấu nhất, nếu phải “quyết
chiến'' lần chót, tôi đề nghị với anh em trận chiến phải diễn ra trước trụ sở
quốc hội. Một trận chiến ''bốc lửa'' thật sự. Anh em tán thành. Chiếc LaDalat
đã được chất đầy một đống vỏ xe cũ và mấy can xăng. Ngay phút đầu nếu bị tấn
công, tôi sẽ lái phóng thẳng qua sân Hạ viện rồi tới đâu thì tới. Chuẩn bị vừa
xong, đang ngáp vặt, một chiếc xe jeep cảnh sát thắng “cháy bánh” trước trụ sở
Ủy ban rồi vụt chạy mất. Sau khi thảy đánh bịch xuống lề đường một “bọc” to.
Anh em vội chạy ra “lượm” khiêng vô. Đó là anh Đinh Xuân Dũng!”
Chương 17
Trước câu: “Trong khi chuẩn bị cuộc hội thảo, tôi có tiếp xúc
với “Tổ Chức Đòi Thi Hành Hiệp Định Paris do luật sư Trần Ngọc Liễng đứng đầu
và mới anh tham dự để tăng khí thế.”
Trong dự định của mình, khi thuyết trình đến đoạn đề cập thành
phần thứ ba, tôi sẽ đặt hai câu hỏi với những người tham dự: 1. Có phải
thành phần thứ ba là một phong trào quần chúng? (Ai đồng ý đưa tay
lên). 2. Tổng thống Thiệu cho rằng thành phần thứ ba do Pháp dựng lên.
(Ai phản đối đưa tay lên). Báo chí nước ngoài và ống kính truyền hình sẽ ghi
nhận thực tế không thể chối cãi về thành phần thứ ba.
Sau câu: “Buổi thuyết trình tại chùa Ấn Quang diễn tiến đúng như
dự kiến.”
có cả đoạn đặt câu hỏi và sự biểu quyết của hàng trăm người tham
dự bằng cách giơ tay dưới ánh đèn sáng choang của các hãng truyền hình Mỹ, Anh,
Đức…
Chương 18
Giữa câu: “Ông ta lo cho thân mình không xong nói chi chuyện bao
biện cho ông Thiệu và chính quyền Sài Gòn.” và câu: “Nhưng cái chính là Thiệu
và chính quyền của ông ta vừa không có năng lực lại tham nhũng, không thể đối
phó các cuộc tấn công, nhất là khi không còn người Mỹ.”
Sau khi Hiệp định Paris được ký, Hãng thăm dò dư luận Gallup đã
đặt các câu hỏi sau đây với người dân Mỹ và đã nhận được các phản ứng sau:
- Khi
Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam, bạn có nghĩ sẽ có một chính quyền khá đủ
mạnh được duy trì tại miền Nam và có thể đối đầu với áp lực chính trị của
cộng sản?
54% số người được hỏi tin rằng chính quyền đó của miền Nam sẽ không tồn
tại. 27% cho rằng tồn tại và 19% không có ý kiến.
· Sau khi
quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, bạn có nghĩ trong một thời gian ngắn, Bắc Việt sẽ
tìm cách chiếm miền Nam? 70% nghĩ Bắc Việt sẽ tìm cách chiếm miền Nam, 16%
nghĩ không và 14% không có ý kiến.
· Đặt giả
thuyết quân đội đã rút khỏi Việt Nam, và Bắc Việt tìm cách chiếm miền Nam, bạn
có nghĩ Mỹ sẽ gửi phương tiện quân sự cho miền Nam? 50% nghĩ là không, 38%
là có, 12% không có ý kiến.
· Nếu Bắc
Việt tìm cách chiếm miền Nam, bạn có nghĩ Mỹ nên ném bom miền Bắc? 71%
không đồng ý ném bom, 17% cho rằng nên và 12% không có ý kiến.
· Nếu Bắc
Việt tìm cách chiếm miền Nam, bạn có nghĩ Mỹ nên gửi quân đội giúp miền Nam?
79% chống lại, 13% tán đồng và 8% không có ý kiến.
Như vậy dư luận Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Thiệu dù
cái cách đặt câu hỏi cũng áp đặt ác cảm với phía cộng sản. Có dư luận cho rằng
Watergate đã làm cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam sau Hiệp định Paris suy sụp.
Kissinger sau này hiểu rằng mình đã phán đoán sai ý chí của nhân dân Mỹ trong
sự bảo vệ hiệp định. Ông nói: “Tôi nhìn nhận điều đó. Chúng tôi đã đánh giá
sai. Và điều chúng tôi đánh giá sai hơn cả là sự tin tưởng của chúng tôi có thể
mang lại hòa bình danh dự, rằng chúng tôi có thể đoàn kết nhân dân Mỹ để bảo vệ
hiệp định đã đạt được trong vô vàn đau đớn. Đó là sự đánh giá sai căn bản của
chúng tôi. Một hiệp định mà bạn không thể làm cho nó hiệu lực là một sự đầu
hàng…” (trích trong “No Peace No Honor” của Larry Berman). Nhưng một lập
luận khác về sự sụp đổ của chính quyền Thiệu, theo tôi, đã bóc trần vấn đề, do
nhà báo Stanley Karnow đưa ra trong quyển “Vietnam – A History”: Người
ta cho rằng vụ xì–can–đan Watergate hại uy tín của Nixon, làm cho ngành hành
pháp yếu đi, nhân dân Mỹ càng ác cảm với vấn đề Việt Nam khiến cho chính phủ Mỹ
không thể giữ lời hứa ra tay cứu chính quyền Thiệu.
Chương 19
Trước câu: “Vào thời điểm 1973 và sau đó, không riêng ở Sài Gòn
mà tại Mỹ, Pháp…, đâu đâu cũng có những cá nhân tự xưng mình thuộc thành phần
thứ ba.”
Với Hiệp định Paris, tình hình miền Nam mở ra nhiều khả năng
khác nhau. Khi ấy tôi nghĩ, lạc quan nhất lúc này là giải pháp một chính phủ
hòa giải, hòa hợp gồm ba thành phần. Nhưng không ai mường tượng cái chính phủ
ấy vận hành thế nào, khi giữa chính phủ Sài Gòn và chính phủ Cách Mạng Lâm Thời
Miền Nam như lửa với nước, còn thành phần thứ ba thì không biết sẽ chọn lựa như
thế nào.
Giữa câu: ‘‘Năm ngoái, cũng ngày 24 tháng Chạp âm lịch này,
chúng ta đã đón nhận với nhau hi vọng bản Hiệp định Parls như là một căn bản
thực tế để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình.” và câu: “Hiện tại của miền
Nam Việt Nam không có cách nào khác là phải phá đổ.”
‘‘Năm ngoái, cũng ngày 24 tháng Chạp âm lịch này, chúng ta đã
đón nhận với nhau hi vọng bản Hiệp định Paris như là một căn bản thực tế để
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân
tộc.
“Nếu Hiệp định đã được thi hành với thiện chí thì hôm nay, tiếng
súng đã im hẳn trên toàn lãnh thổ miền Nam, các tù nhân quân sự, dân sự và
chính trị đã đoàn tụ với gia đình, nhân dân miền Nam đã hưởng được các quyền tự
do căn bản và một nếp sinh hoạt mới đã được khởi diễn trên phần đất này, tạo
điều kiện cho cuộc hòa giải giữa các thành phần dân tộc.
“Nếu Hiệp định đã được thi hành với thiện chí thì hôm nay miền
Nam chúng ta đã có thể bắt đầu tái thiết, phát triển, xây dựng một ngày mai
tươi sáng cho mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ.
‘‘Nhưng trong năm qua, tiếng súng chưa im một ngày nào.
“Và hôm nay trước thềm năm Giáp Dần, thay vì được ăn cái Tết
thanh bình đầu tiên sau gần 30 năm khói lửa, nhân dân miền Nam lại phải vừa
gánh chịu một cuộc chiến tranh kéo dài, vừa đương đầu với những khó khăn cơ cực
do sự suy sụp trầm trọng của nền kinh tế bấy lâu nay chỉ biết bám vào ngoại
viện để cung phụng chiến tranh”.
Như thế sau một năm ký kết Hiệp định Paris, tình hình chưa có gì
sáng sủa, thậm chí còn mù mờ hơn. Trong bài phát biểu của ông (tức nhóm ông
Minh) còn phản ánh một quan điểm về lực lượng thứ ba: không phải là một tập hợp
thống nhất dưới một lãnh tụ duy nhất nào.
Đúng là những gì diễn ra sắp tới vẫn còn mù mờ, nhưng tôi chắc
rằng dù bất cứ một đổi thay nào cũng tốt hơn hiện tại.
Sau câu: “Bây giờ ông có hai kẻ thù chứ không là một, thậm chí
kẻ thù Mỹ được đặt lên trên cộng sản.”
Có người cho rằng sau khi Phước Long thất thủ ngày 6-1-1975,
quân Sài Gòn có khả năng tái chiếm nhưng chính tổng thống Thiệu ra lệnh dừng
lại, lấy vụ Phước Long để trắc nghiệm xem Mỹ có giữ lời hứa bảo vệ miền Nam sau
Hiệp định Paris hay không. Tôi không tin lập luận này vì thực tế tinh thần của
quân đội VNCH lúc đó đang xuống thấp. Cố vấn Mỹ đã rút khỏi các đơn vị, đạn
pháo bắn phải tính từng viên, máy bay xin yểm trợ rất khó khăn… có muốn tái
chiếm cũng không thể!
Chương 20
Sau câu: “Các nhà báo như Nguyễn Vạn Hồng, Trương Lộc... dù có
quan hệ với Mặt Trận, nhưng không bị lộ cũng không bị bắt trong đợt đó.”
Tôi trao đổi vấn đề này cùng anh Nhuận và có nói với anh: “Tôi
không nghĩ Thành làm cho TƯTB. Nếu Thành có làm cho ai đó thì… chỉ làm cho Mặt
Trận. Tôi bảo đảm với anh điều đó”.
Sau này anh Nhuận có kể lại lý do ban đầu anh nghi ngờ Huỳnh Bá
Thành như sau:
“Một hôm tôi nghe họa sĩ Ớt bị cảnh sát bao vây trước rạp
Olympic trước rạp Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai, khi anh lái chiếc
LaDalat của dân biểu Hữu Chung. Cảnh sát bao vây khá lâu nhưng không bắt, tôi
không biết tại sao…
“Sau đó, tôi không nhớ bao lâu, tôi lại gặp anh tá túc ở văn
phòng trung tá Đẩu, “chỗ ở thường trú” của Dương Văn Ba (văn phòng này nằm ở
cổng sau của dinh Hoa Lan nhìn ra đường Trần Quý Cáp, hiện là đường Võ Văn
Tần). Không được mấy ngày, nại cớ nhớ nhà, anh nằng nặc đòi về quê thăm vợ con,
can mấy cũng không nghe. Khi trở lại, anh không chịu ở yên mà cứ lui tới như
không có gì… Tôi đã kể chuyện nằm ở bệnh viện Sùng Chính sau trận Cầu Muối:
cũng tại phóng viên nhiếp ảnh Kỳ Nhân không chịu nằm yên mà tôi phải sớm di tản
khỏi bệnh để về nhà ông Minh… Nhưng nhà ông Minh và văn phòng báo chí của ông
là “cứ điểm” cuối cùng, biết di tản đi đâu nếu bị “động ổ”? Tôi đành nói với
Dương Văn Ba và chung quanh nên cảnh giác, không nói, không bàn việc gì quan
trọng khi có Ớt sáp lại gần! Nghĩ cũng tức cười: sau 30-4-1975 và nhất là sau
những gì anh viết, anh kể, ai cũng biết Ớt là một cán bộ chỉ huy điệp vụ cách
mạng, mà tôi lại nghi anh là công an chế độ cũ! Và khi anh nói anh đi về quê
thì chắc là để đi đến một nơi bí mật nào đó mà tôi cứ theo cản…”
Chương 21
Sau câu: “Tháng 3-1975, nhiều người ở Sài Gòn không thể đoán
rằng quyết định rút quân ra khỏi Cao Nguyên của tổng thống Thiệu là sự khởi đầu
của sự sụp đổ hoàn toàn và mau chóng của cả chế độ.”
Tôi còn nhớ lúc đó có người còn tưởng tượng đây là một thỏa thuận
giữa Mỹ và Bắc Việt chia cắt miền Nam làm hai để thành lập khu trái độn, giao
một nửa cho MTDTGPMN kiểm soát.
Sau câu: “Weyand cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm làm mọi khả năng
của mình để cung cấp phương tiện và trang thiết bị giúp cho chính quyền miền Nam
bổ sung tiềm lực của mình đối đầu với cuộc tấn công.”
Weyand kết luận: “Chúng ta đến Việt Nam trước hết là giúp đỡ
nhân dân miền Nam – chứ không phải để chiến thắng Bắc Việt. Chúng ta đã chìa
tay ra với nhân dân miền Nam và họ đã nắm lấy. Bây giờ họ cần bàn tay ấy hơn
bao giờ hết.”
Sau câu: “Trong lối 4 tiểu đoàn địa phương gồm toàn đồng bào
Thượng, phần lớn đã đào nhiệm mang theo vũ khí, đã phản loạn mở cuộc tấn công
tập hậu vào đoạn cuối đoàn di tản đồng thời nổi lửa phá phố phường, cướp bóc và
bắn giết những đồng bào còn ở lại...”
Trước mặt đoàn xe 1.000 chiếc, tức đoạn chót của đoàn di tản,
còn bị các chốt phục kích của Sư đoàn Bắc Việt mở cuộc tấn công.
Lực lượng Biệt Động do tướng Tất chỉ huy bảo vệ cuộc di tản lập
tức giàn trận chống trả, cả mặt trước lẫn sau lưng, cả hông trái lẫn hông phải.
Đồng bào, binh sĩ xuống hết khỏi xe. Biệt Động Quân mở đường máu, bỏ liên tỉnh
lộ số 7, tìm lối thoát đi. Tất cả xe cộ và mọi dụng cụ không thể mang theo đành
bị đốt sạch. Từ đây về đến Phú Yên, quãng đường dài còn lại có tới 40 đến 50
cây số.
Trong tiếng nổ giòn tan của đạn súng nhỏ, tiếng rít lạnh gáy và
tiếng nổ kinh hồn của đạn đại bác… Một đại lộ kinh hoàng khác như mùa hè 72 tại
Quảng Trị cũng đã mở ra.
LTS: Bản tin của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, đọc qua điện
thoại bị cắt đứt ở đây. Sau trận tấn công này chưa rõ tin tức có được thông báo
tiếp về tòa soạn nữa không. Liên lạc thông lệ mỗi buổi sáng, hôm nay, cho tới
lúc báo lên khuôn, chưa nhận được.
Sau câu: “Các sân tennis vẫn đầy người chơi, các phu nhân vẫn
đến tập thể dục thẩm mỹ đều đặn, hồ bơi mỗi buổi trưa vẫn là nơi hò hẹn của
những giai nhân trong các bộ bikini khêu gợi.”
Ở Sài Gòn dường như không hề có không khí chiến tranh, nhiều
người Sài Gòn không thèm nghe những tiếng súng, những đau xót vọng lại từ miền
Trung và Cao nguyên.
Trước câu: “Một thiếu phụ dẫn hai con đi ngược lên cầu
thang.”
Xuống cầu thang đầu tiên là hai chú bé. Hai đứa ôm nhau rồi hỏi
nhau “mình đi đâu bây giờ”. Rồi cùng òa lên khóc.
Sau câu: “Có điều là ở Đà Nẵng trong hiện tại, gánh nặng
cơ hồ không giải quyết nổi.”
Ngay tại cổng phi trường Đà Nẵng đã có đến 1.000.000 chực chờ từ
sáng sớm để được vào mua vé tại quầy Hàng không Việt Nam. Cảnh hỗn loạn, tranh
giành, đánh nhau dĩ nhiên không tránh khỏi…
Sau câu: “Hầu hết trong số này thuộc đơn vị Hắc Báo được
coi là tinh nhuệ nhất của Sư đoàn 1 bộ binh.”
Phải nói là chỉ có kẻ mạnh nhất, nhanh nhất, và bần tiện nhất
mới lên được máy bay. Một bà lão đã bị một binh sĩ đá ngay mặt té xuống đất để
anh ta giành chỗ lên máy bay, xác bà sau đó hầu như biến mất dưới bàn chân của
đám đông. Ngồi trên máy bay rồi mà tất cả vẫn còn kinh hoàng.
Sau câu: “Bài tường thuật của phóng viên Paul Vogen của hãng
thông tấn UPI cùng hình ảnh người lính chết thòng chân ở máy bay đã được đăng
nơi trang nhất các báo Mỹ ra ngày chủ nhật Lễ Phục Sinh 30-3. Tổng thống Ford
khi xem cảnh đó đã nói “Đã đến lúc rút dây. Việt Nam mất rồi!”.
Nhưng cảnh di tản bằng tàu mới thực sự kinh hoàng hơn. Thảm kịch
của những cuộc di tản này do đâu? Nỗi âu lo, sợ hãi đối diện với những gì sắp
xảy ra – mà phần đông cũng không biết rõ nó như thế nào – là một nguyên nhân
của sự đổ xô chạy loạn. Nỗi sợ hãi vô hình này đã bị kích động, nhân lên hàng
chục lần bởi một chiến dịch tuyên truyền chống cộng đầy ác tâm của người Mỹ.
Phóng viên nhiếp ảnh Mỹ Carl Robinson của hãng tin AP trong thời điểm này có
gặp tôi và tiết lộ rằng chính tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn có chủ trương loan
truyền những thông tin hoàn toàn bịa đặt về sự tàn bạo của cộng sản ở những
tỉnh và vùng mà họ đã chiếm đóng như: Phụ nữ sơn móng tay đều bị rứt móng,
những phụ nữ lấy Mỹ bị đem ra bêu xấu trước quần chúng, các binh lính chế độ
Sài Gòn bị hành quyết hàng loạt v.v… được tung ra ngay trong cuộc họp báo của
đại diện báo chí tòa đại sứ Mỹ. Anh Carl Robinson tỏ ra bất mãn đối với loại
tin tức dựng đứng này. Theo Carl, chiến dịch loan tin này nhằm thúc đẩy một số
người chạy khỏi vùng cộng sản vừa chiếm mỗi ngày một đông hơn và như thế người
Mỹ chứng minh được rằng nhân dân miền Nam tuyệt đại đa số sợ hãi và căm thù cộng
sản. Cũng bằng cách đó Mỹ chứng minh sự can thiệp của mình vào Việt Nam là đúng
đắn, đáp lại nguyện vọng của đa số người dân miền Nam! Theo nhà báo Olivier
Todd, đặc phái viên tuần báo Newsweek phỏng vấn những người
chạy khỏi những vùng bị cộng sản đánh chiếm, họ không xác nhận những tin tức
liên quan đến những cuộc tàn sát được chính quyền Sài Gòn và phía Mỹ loan ra.
Đại sứ Martin nổi giận ra lệnh nhân viên của mình trưng ra cho báo chí “những
bức điện” đề cập những cuộc hành quyết tại Đà Nẵng, Ban Mê Thuột và nhiều nơi
khác!
Sau đây bài tường thuật của báo Độc Lập xuất bản ngày 4-4-1975
về “Chuyến vượt biển đầy chết chóc từ miền Trung vào tới Sài Gòn”:
“Đây có thể gọi là chuyến tàu chót rời Đà Nẵng. Tất cả có trên
50 ngàn vừa dân vừa lính. Bà con gồm nhiều tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín và Cam Ranh. 50 ngàn người dồn cứng dưới 3 xà lan và
một tàu RMK.
Thoạt tiên, ngày 28-3 bà con đã ùn ùn đổ nhau xuống ghe chài
hoặc xà lan rời bến Đà Nẵng chạy ra khơi. Một xà lan rộng 7 thước dài trên 30
thước nêm cứng đến 12 người. Trẻ em bị nén lại… Nếu ngày 29-3 không được tàu
RMK từ ngoài khơi xa thẳm tiến lại gần để san bớt số đồng bào trên xà lan thì
con số chết ngộp và khát nước lên tới phân nửa. Trong ngày 29-3 còn có thêm ghe
chài chở hàng chục ngàn dân. Tất cả được đón lên tàu RMK. Tới 10 giờ ngày 29-3,
tàu RMK nhổ neo xuôi vào Cam Ranh và cập bến nơi đây vào lúc xế chiều 31-3. Vừa
lục đục kéo nhau lên bờ thì tin di tản được loan ra, vậy là thêm một lần nữa
cảnh chen lấn diễn ra, người khỏe đạp lên người yếu, trai tráng xô té người già
nua. Trẻ con khóc gào vang dội bến tàu. Có đôi ba em bé vuột khỏi tay mẹ, tay
chị, bị đoạn người đông đảo phóng tới cuồn cuộn đạp nhàu lên khiến các em nhừ
nát. Những ai chậm chân và yếu sức chạy từ Đà Nẵng vào đành kẹt lại Cam Ranh để
những người khỏe từ Cam Ranh tràn lên tàu và xà lan lấn chỗ. Tàu nhổ neo ngày
1-4 xả tốc lực kéo các xà lan tới Vũng Tàu sau 12 tiếng đồng hồ.
9 giờ sáng 2-4, tàu RMK và ba xà lan đã có mặt ngoài khơi Vũng
Tàu với 50 ngàn người đói khát sau năm ngày lênh đênh. Tàu không được phép cập
bến Vũng Tàu, chính quyền địa phương viện lẽ chưa có lệnh của trung ương.
Thuyền trưởng tàu RMK liên lạc với cơ quan Mỹ ở Sài Gòn bằng vô tuyến thì được
khuyến khích cho ba xà lan tự chạy vào bến Sài Gòn.
Tối 2-4 ba xà lan lù lù tiến vào sông Nhà Bè thì bị chặn lại vì
lệnh mới ban ra không cho tàu thuyền nào được vào Sài Gòn. Xà lan lại phái trở
ra Vũng Tàu và thêm một đêm đầu đội sương, chân đạp... sắt lạnh lẽo! Đến sáng
3-4 xà lan mới được lệnh cập bến.
Báo Độc Lập còn kể lại một số cảnh thương tâm như sau:
Anh Nguyễn Tấn T. đi thất thểu trên bến tàu như người mất hồn.
Tay ẵm một con nhỏ chưa đầy 3 tuổi và dắt theo hai em bé khác. Anh mếu máo cho
biết lạc vợ và một đứa con, đồng thời chứng kiến đứa con thứ ba bị thiên hạ đè
bẹp gạt xác xuống biển. Anh đau khổ đến độ không khóc được nữa.
Tôi đã chứng kiến tận mắt 6 thi hài được bó mền khiêng từ xà lan
lên bờ đã nằm dài trên mặt cát. Đây là những người già yếu chịu đói khát không
nổi đã chết trong đêm 1-4 và ngày 2-4, trong số đó có một em bé. Trên 100 người
ngất xỉu được cõng, khiêng lên bờ…
Trong các chuyến tàu đưa người di tản là miền Trung vào Vũng
Tàu, có chuyến đã bị binh lính đào ngũ dùng súng khống chế cả chiếc tàu và cướp
sạch tiền vàng của người di tản. Có cả những cảnh hãm hiếp trên tàu. Để vét cho
sạch, bọn chúng nhẫn tâm chiếm hết các nguồn nước uống trên tàu và chỉ nhường
lại với giá trên trời hoặc đổi bằng vàng. Những người di tản giấu được tiền
vàng đâu đó cuối cùng cũng phải lòi ra để người thân hoặc chính mình không bị
chết khát. Chúng cải trang thành thương phế binh để giấu tiền vàng cướp được
dưới những lớp vải băng bó trá hình. Trước tình hình này bộ phận an ninh trên
tàu phải bó tay, thuyền trưởng chỉ còn có mỗi cách là dùng vô tuyến điện để báo
cáo với chỉ huy quân sự ở Vũng Tàu. Do đó, khi tàu sắp đến bến thì được lệnh từ
trong đất liền phải đậu ngoài khơi. Những chiếc tàu hải quân loại nhỏ chở quân
cảnh và cấp chỉ huy của nhiều binh chủng khác nhau ra tận nơi “đón” chiếc tàu
lớn. Tất cả những binh lính giấu vàng tiền trong người hoặc bị dân chúng di tản
nhận dạng đã cướp bóc họ, đều được tách riêng ra và đưa vào bờ trước tại một
địa điểm vắng người. Các binh lính này bị hành quyết ngay tại bờ biển.
Chương 22
Tiếp câu: “Tuần lễ đầu tháng 4–1975, trung tướng Dương Văn Minh
và nhóm ủng hộ ông quyết định chính thức công bố ý định thay thế tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu.”
để góp phần chấm dứt chiến tranh đã kéo dài quá lâu và gây quá
nhiều đau khổ cho nhân dân hai miền.
Sau câu: “Từ Sài Gòn lên Đường Sơn Quán, anh Ba ngồi ô tô chung
với ông Dương Văn Minh để tránh bị cảnh sát chận bắt dọc đường.”
Sự đối đầu của nhóm ông Minh với chế độ Thiệu dĩ nhiêm bao gồm
cả ý định giành lấy quyền hành của Thiệu. Năm 1971, trong cuộc bầu cử tổng
thống, ông Dương Văn Minh tuyên bố ra ứng cử, đó cũng là sự thách thức công
khai đối với sự lãnh đạo của Thiệu. Nhưng lúc đó tình hình chưa chín mùi, Thiệu
đang ở trên đỉnh cao của quyền lực, cuộc cạnh tranh nếu xảy ra hoàn toàn không
cân xứng, nên giờ chót ông Minh rút lui khỏi cuộc bầu cử tổng thống. Tuy rút
lui nhưng hành động này vẫn có tác dụng làm sứt mẻ địa vị cầm quyền của Thiệu
trong nước và trên quốc tế, nhất là dư luận Mỹ.
Bài diễn văn đọc trong buổi họp mặt tất niên Quý Sửu tại Dinh
Hoa Lan, nhân kỷ niệm một năm ký kết Hiệp định Paris (xuân Giáp Dần), ông Minh
chỉ nói về vai trò của thành phần thứ ba trong khuôn khổ của Hiệp định. Vị trí
của nhóm Dương Văn Minh vẫn là “đứng giữa”.
Nhưng lần này tại cuộc họp mặt ở Đường Sơn Quán, lần đầu tiên
ông Minh công bố chính thức ý định sẵn sàng thay Thiệu như một giải pháp tình
huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam. Điều đó cũng có nghĩa: đây là cuộc
đối đầu dứt khoát, một sự tuyên chiến hẳn hoi với chế độ Thiệu. Với ông Minh,
đây là một trách nhiệm không còn có thể né tránh hoặc chần chừ. Các thành viên
trong nhóm ông Minh phần đông cũng thấy một thôi thúc như thế, phải có một hành
động dứt khoát để có một kết thúc sớm chiến tranh. Tâm trạng của số đông người
yêu nước ở miền Nam lúc này khó tả cho thật đầy đủ và thật đúng. Chuyến tàu
lịch sử thúc giục họ bước lên, không còn thời gian chần chờ nữa, dù rằng họ
chưa biết đích xác chuyến tàu ấy sẽ đưa họ về đâu. MTDTGPMN và những người cộng
sản tuy vẫn là một ẩn số đối với nhiều trí thức miền Nam nhưng đồng thời lại là
một sức hút đầy ma lực.
Sau câu: “Trong tháng 4-1975, tướng Timmes đến Dinh Hoa Lan
thường xuyên hơn. Rất có thể Timmes biết ý định của ông Minh, từ đó thúc đẩy và
hỗ trợ thêm.”
Tôi nói như thế vì thật sự việc ông Minh quyết định ra thay
Thiệu – “dù phải cầm cờ đầu hàng thay Thiệu” – không là ý kiến xuất phát trước
tiên từ ông Minh mà là từ cả nhóm của ông. Không thể nào có chuyện Timmes tác
động cả nhóm làm theo ý kiến của CIA, tức Thomas Polgar.
Chương 24
Sau câu: “Ông Dương Văn Minh cũng biết rõ điều đó và rõ ràng ông
có chủ đích khi chọn tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin.”
Tôi không phải người thích hợp để chỉ huy mảng tuyên truyền, đấu
tranh chính trị với MTDTGPMN và miền bắc cộng sản để bảo vệ đường lối chống
Cộng ở miền Nam. Nhưng để tìm kiếm hòa bình và hòa hợp với người Việt Nam cộng
sản, giữa người Việt nam ruột thịt với nhau thì tôi hoàn toàn có khả năng đóng
góp vào mục tiêu chung của chính phủ Dương Văn Minh. Dĩ nhiên tôi không làm
điều này mù quáng mà với ý thức rõ ràng từ tích lũy thực tế và sự suy nghiệm
lại lịch sử đất nước từ 1945 - rằng những người cộng sản Việt Nam trước hết là
những người yêu nước, đã hy sinh xương máu cho cuộc đấu tranh giành độc lập.
Khởi đầu cuộc đời chính trị của tôi trong quốc hội Sài Gòn, lúc đó tôi phân
biệt và tách người Việt Nam cộng sản với người Việt Nam yêu nước. Do những luận
điệu tuyên truyền chống cộng lâu ngày – mà tôi không chối cãi là mình bị ảnh
hưởng ít nhiều – tôi cũng từng nghĩ người Việt Nam cộng sản thiếu trái tim, sẵn
sàng hi sinh quyền lợi dân tộc mình, đất nước mình cho chủ thuyết mà họ tôn
sùng!
Đến khi tôi nhận ra người cộng sản trước hết là người yêu nước,
quá trình lịch sử của họ trước hết là đấu tranh cho độc lập và thống nhất đất
nước thì vấn đề về chủ thuyết vào thời điểm này đối với tôi trở thành thứ yếu.
Hòa hợp với những người Việt Nam ruột thịt yêu nước, vì độc lập xứ sở phải là
ưu tiên số một. Các thiệt thòi và cả những bất cập có thể xảy đến và một giải
pháp chính trị có lợi cho người cộng sản cũng không thể là tai họa như tai họa
mà nhân dân Việt Nam đã phải gánh chịu suốt hàng thế kỷ qua. Lúc nhận nhiệm vụ
tổng trưởng bộ thông tin, tôi nghĩ như thế.
Sau câu: “Nghe đâu Khương vẫn lạc quan, sau đó thì có tin anh
qua đời vì đau ruột thừa nhưng không được phát hiện kịp thời.”
Tôi không biết trước khi nhắm mắt, Khương có trách tôi hay
không...
Sau câu: “…Có nghĩa là ông già Hương xúi tôi đảo chính!”
Như vậy từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã tự
đề nghị xung phong ra cầm quân chống cuộc tiến quân của cộng sản lần lượt với
tổng thống Thiệu, rồi với người thay Thiệu tạm thời là Trần Văn Hương và chót
hết là tổng thống Minh. Nhưng cả ba người đều né tránh hoặc từ chối!
Thay câu: “Và cái chức vụ ấy gần như trống rỗng.” (bản B) bằng:
Và cái chức vụ gần như trống rỗng ấy vẫn là một sứ mạng lịch sử
vô cùng nặng nề!
Sau câu: “Chỉ có cách đó là tránh cho Sài Gòn khỏi hỗn loạn!”
Tôi nhớ như in trong đầu mình phản ứng của ông Minh lúc đó: ông
cười và quay lại phía vợ tôi đang đứng sau lưng ông: “Chung nói đúng phải không
bà Chung? Anh em mình đâu có ham gì cái chức tổng thống và quyền hành. Trong
tình hình này mình nên sớm chuyển giao quyền cho MTDTGPMN”.
Tiếp câu: “Hơn nữa ông Minh là một nhà quân sự nên rất hiểu tình
hình lúc đó như thế nào”
trách nhiệm của ông với tư cách tân tổng thống không thể thụ
động ngồi nhìn một tai họa có khả năng đến với đồng bào Sài Gòn.
Chương 25
Tiếp câu: “Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra
với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ
Văn Mẫu…”
phó thủ tướng (chưa chính thức) Hồ Văn Minh, tổng trưởng quốc
phòng (chưa chính thức) Bùi Tường Huân và tổng trưởng thông tin là tôi.
Tiếp câu: “Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập
hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu.”
chờ quân giải phóng cùng các đại biểu MTDTGPMN sẽ vào. Không ai
tiên đoán được kịch bản nào sắp xảy ra. Riêng tôi tưởng tượng một kết thúc lý
tưởng: đại diện của MTDTGPMN sẽ được long trọng đón tiếp bởi tổng thống Minh và
các thành viên của chính phủ ông, và sau đó là tự nguyện trao quyền của chính
phủ Dương Văn Minh cho chính phủ CMLTCHMNVN cũng có một ý nghĩa lịch sử rất
lớn. Dù chính phủ Dương Văn Minh chỉ được quốc hội Sài Gòn bầu lên, nhưng về
mặt pháp lý ông vẫn đại diện cho miền Nam với chế độ gọi là VNCH, đối đầu với
MTDTGPMN trong suốt thời kỳ chiến tranh. Ông Minh đã nhận sự ủy quyền này nhưng
lại tự nguyện trao quyền đó lại cho chính phủ CMLTMNVN để thay thế mình bảo vệ
sự an nguy cho nhân dân Sài Gòn mà chính phủ ông tự nhận là bất lực. Làm việc
này, ít ra chính phủ và bản thân ông Minh phải có sự tin cậy phía mà mình trao
quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định đơn phương của mình. Hành
động tự nguyện này của chính phủ ông Minh là một phủ nhận hùng hồn đối với
chiến dịch tuyên truyền mà Mỹ đã phát động chống lại MTDTGPMN và Bắc Việt từ
trước và sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Trong giờ phút này của lịch sử, chính
người Việt Nam cộng sản là những người đáng tin cậy chứ không phải là nỗi sợ
hãi khiếp đảm như hình ảnh mà người Mỹ đã cố gắng tạo ra.
Trách nhiệm của người bị bắt buộc đầu hàng khác hẳn trách nhiệm
của người tự nguyện trao quyền với ý thức trao quyền đó có lợi cho đất nước và
dân tộc của mình. Tôi nghĩ rồi đây việc nhìn nhận lịch sử sẽ đặt đúng tầm ý
nghĩa của bản tuyên bố này khi đề cập đến sự kết thúc cuộc chiến chống Mỹ giành
độc lập và thống nhất đất nước.
Sau câu: “Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ
đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam
đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư:
đó là hoà bình và thống nhất.”
Sáng hôm sau – ngày 3-5-1975 – vừa thức dậy thì tôi nghe đứa con
trai kế của tôi là Lý Quí Dũng, 11 tuổi, ngủ chung trong phòng nói với sang chỗ
tôi: “Ba ơi, nước mình bây giờ lớn lắm phải không ba?”. Tôi hỏi lại: “Tại sao
con nói vậy?”. Nó liền nói tiếp: “Vì bây giờ mình có hai nước nhập lại một”!
Tôi im lặng, cổ họng như nghẹn lại. Con tôi không nghe tôi trả lời, lại hỏi
lớn: “Có đúng không ba?”. Tôi lên tiếng: “Đúng rồi con trai của ba!”.
Phần “Sau ngày 30-4-1975”
Tiếp câu: “Ngay sau tháng 4-1975, thật là mãn nguyện khi được
tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc trong thành phần đoàn đại biểu
miền Nam.”
Hình như đến bây giờ rất ít có ai nhắc lại Hội nghị này. Và khi
Hội nghị diễn ra tại Dinh Thống Nhất cũng không ít người coi đó là một hội nghị
cho có hình thức nhằm mang lại một căn bản pháp lý tượng trưng cho nước Việt
Nam thống nhất, thế thôi. Có hội nghị đó hay không thì nước Việt Nam cũng đã
thống nhất rồi. Nhưng
Sau câu: “Tôi đứng lặng thinh vì biết rằng mọi lời giải thích
lúc này đều vô ích.”
Những chuyện xảy ra cho gia đình tôi đã biến cha tôi từ một
người hồ hởi đón chào Cách mạng, nô nức chờ bạn bè đi kháng chiến trở về, biến
thành một người ác cảm với cộng sản và từ luôn con trai của mình vì nó… hợp tác
với cộng sản. Phải một năm sau tôi mới có dịp đọc tác phẩm Sông Đông êm
đềm của nhà văn Nga M. Sôlôkhôp. Sao có nhiều chuyện giống thế. Và tôi
không thể không tự hỏi sao mình lại photocopy làm gì những thứ ấy cho dân mình
khốn khó và đau lại nỗi đau mà người dân Nga đã trải qua mấy mươi năm trước!
Sau câu: “Sau năm năm tồn tại như một hiện tượng độc đáo, Tin
Sáng được tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ.”
Nếu không có những mâu thuẫn nội bộ, liệu Tin Sáng có kéo dài
được sự tồn tại? Một tờ báo gồm các trí thức cũ Sài Gòn, hoạt động như một
doanh nghiệp tư nhân, anh Đức nắm tờ báo như một ông chủ báo trước 1975, lại
rơi vào thời điểm Đông Âu bắt đầu chứng kiến những biến động (Công đoàn Đoàn
Kết của Walesa đã phát động lật đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan), vậy nếu báo Tin
Sáng tiếp tục tồn tại thì sẽ ở vị trí nào trong bối cảnh chính trị lúc đó?
Sau câu: “Ông hỏi tôi tình hình ông Minh thế nào, tôi cho biết
sức khỏe ông Minh vẫn bình thường và vẫn ở Dinh Hoa Lan.”
Thượng tọa Trí Quang nói: “Ông Minh đã có một quyết định rất
đúng”. Tôi nói lại: “Nhưng do đời sống khó khăn và có nhiều người đi học tập
cũng có dư luận, dù không nhiều, lên án ông Minh đầu hàng cộng sản”. Thượng tọa
Trí Quang lắc đầu: “Một số ít người nói thì cứ nói, nhưng việc làm của ông Minh
giao quyền để Sài Gòn không đổ máu và chết chóc, là một hành động bồ tát”.
Phần “Gia đình thân yêu”
Sau câu: “Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ và Canada.”
Là một người lạc quan, tôi luôn ưa nhìn nhận các sự kiện theo
hướng tích cực. Hiệp định Geneve 1954 chia đất nước làm hai, chế độ Diệm thúc
đẩy một cuộc di cư vào Nam, nhiều người miền Bắc rời nơi chôn rau cắt rốn của
mình. Trong lịch sử của dân tộc chưa bao giờ có một sự trộn lẫn và hòa hợp giữa
hai miền lớn lao như thế. Tôi còn nhớ hồi tôi còn nhỏ mẹ tôi không bao giờ phân
biệt được người miền Bắc với người miền Trung. Những năm 50 về trước, người
miền Nam nghe ai nói phát âm lờ lợ đều cho rằng đó là người Huế. Thực dân Pháp
để lại những “di chứng” khá nặng nề trong đó có ý đồ thành lập một “Nam Kỳ
quốc”.
Sau năm 1954 người miền Nam sống chung với đông đảo người miền
Bắc, chẳng những hiểu biết nhau hơn, xóa bỏ đi những dị biệt địa phương cục bộ
bị khoét sâu bởi chế độ thực dân, mà còn bổ sung cho nhau những tính cách độc
đáo, những ưu điểm về phong cách sống của mỗi miền cho người dân Việt. Theo
những gì tôi được thấy, các giới doanh thương đến từ miền Bắc sau năm 1954 đã
đánh đổ được nhiều cứ điểm buôn bán làm ăn trước đây độc tôn của người Ấn Độ,
người Hoa trên các đường phố chính ở trung tâm Sài Gòn như đường Catinat (sau
đổi lại là Tự Do, bây giờ là Đồng Khởi) hay Lê Thánh Tôn, Lê Lợi v.v… Nó phá vỡ
một mặc cảm trước đây của người miền Nam là không thể cạnh tranh, phá vỡ ưu thế
tuyệt đối về kinh tế của người nước ngoài trên chính xứ sở mình. Thật cần thiết
và quan trọng (cũng rất thú vị) nếu có một công trình nghiên cứu khoa học nào
đó về mặt xã hội và con người Việt Nam sau 1954 tại miền Nam.
21 năm sau một kiểu di cư khác – cũng là hậu quả chiến tranh –
gọi là “di tản”, bằng máy bay và nhất là bằng tàu thuyền thô sơ. Biết bao nhiêu
người đã mất tích dưới lòng biển khơi trong cuộc “di tản” này nhưng những người
sống sót phần đông đều biết động viên con em mình học tập. Một nước châu Á giàu
có cũng không thể mơ ước chuyện gởi ra nước ngoài cùng lúc hàng triệu con em du
học. Chúng ta không hề mong muốn một biến cố như thế xảy ra cho dân tộc mình
nhưng 30 năm sau biết bao tài năng trẻ Việt Nam xuất hiện ở cả hai châu Âu lẫn
châu Mỹ. Xưa kia ta nói dân tộc Việt Nam, người Việt Nam là từ Bắc chí Nam
nhưng bây giờ thì phải nghĩ đến những biên cương xa xôi, nghĩ đến bất cứ nơi
nào có giống nòi mình sinh sống. Nước Việt là của tất cả những người có cùng
nguồn gốc dù cho đang sinh sống bất cứ nơi nào, có bất cứ quốc tịch nào. Làm
thế nào để tất cả không chỉ thương nhớ quê hương mà còn tự hào nguồn gốc của
mình. Tôi cũng có những đứa cháu có quốc tịch Pháp, Canada, Mỹ. Và luôn mong
ước chúng hãnh diện về nguồn gốc Việt Nam của mình. Lịch sử đất nước đã cung
cấp sẵn cho chúng quá nhiều điều để tự hào, vấn đề còn lại là làm sao chúng
càng gắn bó với hiện tại và tương lai đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét