1 2 3 4
7. Nhà Thơ Với Tệ Tham Nhũng
Cách đây đã nhiều năm… Một buổi trưa mùa hè,
tôi ra bãi An Dương phía ngoài đê sông Hồng, tìm thăm nhà thơ Đoàn Phú Tứ, tác
giả bài thơ bất hủ Màu thời gian. Năm đó nhà thơ đã ngoài 70 tuổi. Nắng hè
thiêu đốt nóng đến ngạt thở. Tôi thật sự kinh khiếp khi thấy ông tóc bạc trắng,
cởi trần, thản nhiên ngồi đọc sách trên bức phản gỗ mọt, mặe cho mồ hôi chảy
đầm đìa trên mặt, trên lưng, giọt giọt từ chòm râu xuống những trang Ngôi nhà
búp bê của Íp-en. Ông đặt sách xuống tiếp tôi ông gần như dốc ngược chai rượu
mới được đầy một chén, và sẻ cho tôi một nửa. Tôi đọc ông nghe bài thơ vừa mới
viết về đề tài kháng chiến. Đọc đến câu: Giữa chiến khu võ vàng đói khát, Cả
tiểu đội tôi chỉ còn mắt với răng…, ông đặt chén rượu đã uống cạn xuống, ngắt
lời tôi: "Chỉ vì những người lính - chỉ còn mắt với răng" các cậu mà
năm đó mình đã đụng độ với thằng Trần Dụ Châu… Cậu có biết Trần Dụ Châu
không?" Tôi nói: "Những người lính chống Pháp bọn em, ai mà không
biết Trần Dụ Châu…". Hắn là Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, trông coi việc
ăn mặc cho toàn quân. Ngày đó chúng tôi thường gọi: "Màn Trần Dụ
Châu", vì mỗi cái màn lính hắn ăn cắp mất hai tấc vải, nên hễ ngồi lên là
đầu đụng trần màn; "Áo mền trấn thủ Trần Dụ Châu" vì hắn ăn cắp bông
lót trong áo, trong mền và thay vào bằng bao tải… Nét mặt ông vụt sa sầm khi
nghe tôi nhắc lại những chuyện đó. Kỷ niệm một thời hào hùng đánh giặc cứu nước
bất ngờ ập đến, cặp mắt già nua của nhà thơ lóe ánh giận dữ. Ông kể:
Mùa đông năm 1949, ông
ở chiến khu Việt Bắc. Là nhà thơ, ông còn là đại biểu Quốc hội khóa I. Ông cùng
với một đoàn nhà văn đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội vừa đánh giặc trở về.
Ông đã khóc nấc lên khi thấy các chiến sĩ bị thương thiếu thuốc men, bông băng,
và hầu hết chiến sĩ đều rách rưới, "võ vàng đói khát", "chỉ còn
mắt với răng", mà mùa đông năm đó tiết trời chiến khu lạnh tới mức nươce
đóng băng… Ông trở về cơ quan chân ướt chân ráo thì nhận được thiệp mời của
Trần Dụ Châu, đến dự lễ cưới mà hắn đứng ra tổ chức cho cán bộ cấp dưới đặc
biệt thân cận, phụ trách công tác vật tư, tên là Lê Sĩ Cửu.
Ông bước vào phòng cưới
mà cứ ngỡ mình nằm mê. Cái hội trường dựng bằng tre nứa, lợp lá gồi, sáng trưng
những dãy bạch lạp to bằng cổ tay. Trên những dãy bàn dài tít tắp, xếp kín chim
quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò chả, thịt bê thui, rượu tây, cốc thuỷ
tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng. Ban nhạc sống của nhạc sĩ Canh Thân
được mời từ khu 3 lên tấu nhạc réo rắt…
Trần Dụ Châu mặc quân
phục đại tá choáng lộn, cưỡi ngựa đến dự cưới, theo sau hắn là một vệ sĩ cao
lớn, súng "côn bạt" đeo xệ bên hông. Tân khách ngồi chật kín hội
trường, mắt hau háu nhìn bàn tiệc. Rượu vang đỏ rót đầy các cốc. Vị chủ hôn
Trần Dụ Châu oai phong, đỏ đắn, đầy quyền uy bước ra tuyên bố làm lễ thành hôn
cho đôi vợ chồng mà hắn đỡ đầu, và trịnh trọng mời tân khách nâng cốc… trong
tiếng nhạc vang lừng. Nhìn thấy nhà thơ ngồi ở bàn đầu, hắn liền tươi cười giới
thiệu: "Đám cưới hôm nay có một vị khách đặc biệt là ông Đoàn Phú Tứ, nhà
thơ cự phách cửa nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Xin mời nhà thơ nổi tiếng lên đọc một
bài thơ mừng cô dâu chú rể và quý vị tân khách".
Đoàn Phú Tứ đứng lên,
mắt đăm đăm nhìn cốc rượu vang đỏ như máu đầy tràn trước mắt… Ông bỗng thấy
giận run lên với ý nghĩ: "Bọn võ biền đốn mạt đầy quyền uy này, đã quen
coi thi sĩ là kẻ nô bộc, và thơ là món đồ trang sức, một thứ gia vị cho bữa ăn
tội lỗi của chúng thêm ngon miệng… Chúng sẽ được thơ dạy cho một bài học đích
đáng!…". Ông ngẩng lên, nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, nói lớn, nhấn
mạnh từng từ một cho tất cả những người dự tiệc cưới đều nghe thấy: "Tôi
xin đọc tặng vị chủ hôn, cô dâu chú rể và tất cả các vị có mặt hôm nay, một câu
thơ hay nhất mà tôi vừa chợt nghĩ ra"… Khắp các bàn tiệc dậy lên tiếng xì
xào tán thưởng: "Hoan hô Xuân Thu Nhã Tập! Hoan hô thi sĩ Đoàn Phú
Tứ!". Chắc phải hay hơn câu nghìn trùng e lệ phụng quân vương 1 … Chờ cho tiếng xì xào im hẳn,
nhà thơ nói tiếp: Câu thơ đó như sau: "Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy
hôm nay, được dọn bằng xương máu của chiến sĩ! - "Láo", Trần Dụ Châu
mặt vụt tái nhợt quát to. Tiếp liền theo đó là tên vệ sĩ của hắn xông tới tát bốp
vào mặt nhà thơ. Nhà thơ lặng lẽ rút khăn tay lau mặt, ném khăn xuống đất, rồi
nhổ vào cốc rượu đỏ như máu đầy tràn trước mặt, và đĩnh đạc bước ra khỏi phòng
cưới.
Ngay đêm hôm đó, nhà
thơ viết một bức thư dài gửi lên Hồ Chủ Tịch, trình bày toàn bộ sự việc.
Một tuần sau tòa án
quân sự được thiết lập cũng tại khu vực hội trường đó. Trần Dụ Châu bị điệu ra
trước vành móng ngựa, cúi đầu nhận hết mọi tội lỗi, và lãnh án tử hình vì tội
tham nhũng. Hồ Chủ Tịch đã tự tay ký vào bản án tứ hình. ĐÓ là bản án tử hình
đầu tiên mà Người đã ký, kể từ ngày Người lên nhậm chức Chủ tịch nước 2.
"Thế còn chú rể Lê
Sĩ Cửu?". Tôi hỏi. "Hắn tự sát trong nhà tù để khỏi phải phơi mặt
trước vành móng ngựa". Tôi nâng chén rượu chưa kịp uống, dâng lên nhà thơ
và nói: "Vô cùng cảm ơn anh. Anh đã làm vinh quang cho thi sĩ của đất
nước. Người đầu tiên đứng ìên chống hiểm họa tham nhũng tàn hại đất nước không
phải ai khác, mà chính là thi sĩ, mà đã chống một cách can đảm, dữ dội và quyết
liệt biết chừng nào!".
--------------------------------
Câu thơ
trong bài Màu thời gian.
|
|
Tôn trọng
tác giả đã quá cố, chúng tôi in nguyên bản thảo, song nhận thấy có môt vài điểm
cần nói thêm. Theo tư hệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh thì thời gian xảy ra vụ án
Trần Dụ Châu là cuối năm 1950. Trong biên bản cuộc họp Hội đồng Chính phủ các
ngày 15, 16 và 17-11-1950 do Hồ Chủ Tịch chủ tọa, mục thứ 35 kiểm điểm vụ án
này. Tại đây Người đã phát biểu: "Chúng ta sinh ra trong một xã hội
phong kiến và thực dân. Xã hội ham danh, ham lợi. Danh lợi dễ làm hư người.
Danh lợi là tập quán. Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không
có chính sách cải tạo cán bộ, đấy là khuyết điểm".
Điều nữa là chúng ta không có sư phê bình và tư phê bình. Chúng ta hay nể nả nhau nên chỉ biết mình thanh liêm là đủ.Quan niệm thanh cao tự thủ thế là không đu. Tất cả chúng ta phải phụ trách trước nhân dân". Một điểm nữa mà theo pháp luật, bản án tử hình chỉ do tòa án xử. Chủ tịch nước chỉ ký sắc lệnh đối với đơn xin ân xá. Trước vụ án Trần Dụ Châu đã có một sắc lệnh do Người ký bác đơn xin ân xá môt án tử hình xảy ra ở miền Trung. Chưa thấy có sắc lệnh nào của Người liên quan đến vụ án Trần Dụ Châu. (Chú thích của Tạp chí Xưa & Nay, số 31-9 -1996) |
8. Chút Nghĩa Cũ Càng
(…) Cách hơn một tháng trước, vợ tôi đến thăm
chị Khiêm lúc này đã ốm liệt giường. Ngoài cân đường biếu người ốm, tôi gửi
biếu nhà thơ nửa ìít rượu. Nhà thơ hỏi vợ tôi: "Thằng Phùng Quán chết rồi
hay sao mà lâu nay nó không đến thăm tôi?,. Chị Khiêm đưa mắt lườm chồng, nói:
"Đừng chấp lão ta làm gì… mồm miệng lúc nào cũng độc địa như thế…".
Vợ tôi kể lại chuyện này và có ý giận sự độc mồm độc miệng của ông. Nhưng tôi
thì rớm nước mắt vì cảm động. Tôi thấy đằng sau lời rủa độc ấy là tình thương
quý của ông đối với tôi - "Mình là cái con khỉ gì mà được nhà thơ Đoàn Phú
Tứ thương quý làm vậy?". Tôi thầm nghĩ thế và lòng xốn xang tình cảm biết
ơn…
Bây giờ nhà thơ đã qua đời. Nhớ lại tất cả những chuyện đó, tôi càng buồn rầu
hơn vì vô phương giúp đỡ gia đình ông trong cảnh tang gia cùng quẫn. Tôi lục
lọi khắp nhà xem tìm được vật gì sớm mai đem bán. Nhưng cảnh nhà tôi cũng chẳng
hơn gì cảnh nhà ông. Vật dụng có giá trị nhất trong nhà tôi là cái xe đạp mi-ni
cũ nát, đem bán chưa chắc đã nổi hai chục nghìn.
Cái khó ló cái khôn. Trong đầu tôi chợt lóe lên "sáng kiến": Nghe nói
Đoàn Phú Tứ đã từng là đại biểu Quốc hội khóa I, vậy mình sẽ lên thẳng Quốc hội
xin tiền làm ma cho ông. Sáng kiến có vẻ hay đấy, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi
thấy khó lòng thực hiện nổi. Tôi lấy tư cách gì để lên tận Quốc hội xin tiền
cho ông? Tôi không phải là bà con ruột thịt, không phải họ hàng, cũng không
phải là bạn của ông… Tôi không có chức danh gì trong các doàn thể văn học nghệ
thuật… Xuất thân là một người hnh trinh sát của một trung đoàn thiện chiến, tôi
thường bị kẹt vào những tình huống hiểm nguy tường chừng không lối thoát, nhưng
cuối cùng vẫn thoát. Quân đội đã rèn giũa cho tôi từ thuở thiếu mên cái ý chí:
hãy tìm cho ra một kẽ hở ở những chân tường kiên cố nhất, để chui qua.
° ° °
Một giờ sáng, trằn trọc trên Chòi ngắm sóng,
tôi đã tìm ra kẽ hở đó. Nhưng kẽ hở này là một hạ sách, vì nó vi phạm nghiêm
trọng đạo lý con người và nhà văn: Nói dối. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy chùn tay.
Nhưng thời gian gấp quá rồì, chỉ còn một buổi sáng ngày mai… Tôi tự an ủi: Mục
đích sẽ biện hộ cho phương tiện. Tôi bật đèn, tìm giấy bút và sáng tác một bức
thư:
"Kính gửi đồng chí Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.
Kính thưa đồng chí, tôi xin báo với đồng chí một tin buồn: ông Đoàn Phú Tứ, nhà
thơ, nhà viểt kịch, nhà dịch thuật, và đồng thời là đại biểu Quốc hội khóa đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thọ 80 tuổi, đã từ trần ngày hôm qua.
Họa vô đơn chí. Vợ ông là chị Nguyễn Thị Khiêm vừa mất cách đây hai tháng. Sau
ngày vợ mất, ông Đoàn Phú Tứ tìm gặp tôi và nói: "Mình cảm thấy như ngọn
đèn đã cạn dầu, lụi bấc, chưa biết tắt lúc nào. Tám mươi tuổi rồi, chết không
phải là điều đáng sợ, chỉ sợ một nỗi đến lúc nằm xuống, các con chẳng biết lấy
gì để làm ma cho bố. Bởi vậy mình uỷ thác Phùng Quán một việc. Nếu mình nằm
xuống, thì Quán hãy viết thư kêu ông Chủ tịch Quốc hội, trình bày hoàn cảnh gia
đình mình, và chuyển lời mình đến với ông: "Nểu Quốc hội còn nhớ đến tình
cũ nghĩa xưa, thì xin ông một cỗ áo quan và một chút tiền để mai táng".
Bây giờ ông Đoàn Phú Tứ đã nằm xuống. Tôi xin chuyển đến đồng chí lời uỷ thác
của ông. Mong đồng chí lưu tâm giải quyết. Hai giờ chiều mai, gia đình ông Đoàn
Phú Tứ sẽ đưa ông về Văn Điển. Nay kính thư, Phùng Quán".
Trong cuộc đời làm văn của tôi, chưa bao giờ viết một đoạn văn nào mà tôi phải
đắn đo, cẩn trọng đến như bức thư này. Tôi chép đi chép lại bức thư nhiều lần,
cân nhắc từng chữ một, sửa chữa, thêm bớt.
Tôi chép lại bức thư với nét chữ nắn nót, đề địa chỉ người nhận, với dòng chữ
trong ngoặc đơn: "Kính nhờ Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
chuyển".
Đồng hồ chỉ 3 giờ sáng.
Tôi đến Trụ sở Hội Nhà văn vào đầu giờ làm việc May mắn nhà văn Xuân Thiều cũng
vừa đến. Tôi trao bức thư và nói gần như năn nỉ: "Anh cố gắng chuyển thư
đến tay anh Đạo vào buổi sáng nay, anh ấy mới giải quyết kịp". Xuân Thiều
xem bức thư rồi trao lại cho tôi, nói: "Không ăn thua đâu Quán. Chuyện
tiền nong đâu có thể giải quyết một cách chóng vánh, dễ dàng như vậy?".
Tôi buột miệng đọc câu thơ của Uytman: "Dù cho ai thất vọng về người - Ta,
ta vẫn đời đời tin tưởng" Tôi nói: "Đã thế tôi sẽ lên thẳng Quốc hội
gặp anh Đạo". Tôi dắt xe đến thẳng chòi gác, cố lấy dáng đi thật chững
chạc.
Anh công an gác trước Trụ sở Quốc hội (33 Ngô Quyền) bước ra hỏi:
- Cụ đến có việc gì ạ?
- Báo cáo đồng chí, tôi muốn gặp Chủ tịch Lê Quang Đạo.
- Chắc cụ muốn đưa đơn kiện phải không?
Tôi đoán anh ta cho tôi là một lão nông từ làng quê lên. Mà các cụ ở nông thôn
đã tìm lên đến tận Quốc hội thì chỉ có mỗi việc là đệ đơn kháng cáo những
chuyện bê bối của chính quyền địa phương.
- Không, đồng chí ạ. Tôi không có chuyện kiện cáo gì đâu. Chỉ cần gặp ông Chủ
tịch để đề đạt một công việc cần thiết.
- Thế thì mời cụ dựng xe đằng kia rồi vào gặp bác thường trực.
Ông già thường trực sau khi nghe tôi trình bày vắn tắt, liền trá lời với giọng
Quảng Trị đặc sệt:
- Ông Lê Quang Đạo và ông Vũ Mão mới về Hải Phòng chiều qua để kiểm tra việc
chuẩn bị bầu cử hội đồng nhân dân các cấp…
"Thế thì không ăn thua gì rồi anh Tứ ơi… Anh đen quá, đen cho đến chết.
Anh dịch "Đỏ và đen" mà số anh chỉ nhận được toàn phần đen… Tôi đã
hết sức với anh, nhưng số phận đã được an bài… Mong vong linh anh đừng giận
tôi".
Tôi đưa phong thư và bộ "Tuổi thơ dữ dội", nhờ ông thường trực chuyển
giúp cho Chủ tịch Lê Quang Đạo ông ta lên mục kỉnh, đọc tên tôi trên phong bì
thư. Ông ngẩng mặt lên hỏi: "Có phải Phùng Quán "Vượt Côn Đảo"
không?"
- Đúng rồi…
- Dạo ni nom già hớm hí. Cậu quên tớ rồi à?
Tôi chăm chú nhìn ông, lòng lấy làm lạ: "Ở một nơi uy nghiêm như thế này
sao lại nảy nòi ra một anh quen biết hạng người như mình?"
- Thật tình mình không nhớ được… Tôi bối rối nói.
- Vô đây uống chén nước đã, rồi ta nhắc cho mà nhớ. Cậu là lính "Trăm lẻ
một", tớ là lính "Chín lăm". Cậu có nhớ trận phục kích đoàn
công-voa gần đồn Hòa Lục Nam, chiến dịch Phan Đình Phùng năm 1952 không?
- Có, có, nhớ rồi…
- Lúc thu chiến lợi phẩm, cậu với tớ giành nhau khẩu ga-răng, cậu đạp tớ một cú
giữa bụng, tớ nện cậu một cú vô quai hàm, nhớ chưa?
- Nhớ rồi, nhớ rồi… Mà ngày xưa tớ nom cậu to con hơn…
- Xí… già thì người phải teo tóp lại như trái mướp khô… Rứa cậu gặp ông Đạo có
việc chi?
Tôi trình bày tóm tắt câu chuyện và nói: "Thế mà ông Đạo lại đi vắng…, có
hết hơi không?…
- Cậu cứ ngồi đó, chưa chi dã chủ bại. Tớ thấy hồi còn làm lính "Trăm lẻ
một" cậu coi bộ cứng cổ hơn:.. Để tớ gọi điện thoại cho ông Phó Tổng biên
tập báo "Người đại biểu nhân dân", hỏi ý kiến ông ta, liệu có giải
quyết được không?
Người chiến hữu cũ của tôi gọi điện thoại, quay lại nhìn tôi gật gật: "Ông
ấy mời cậu lên gặp. Điệu ni là có hy vọng đấy. Chừ cậu đi lên tầng gác hai,
thấy gian phòng ngoài cửa có tấm biển đề Tổng biên tập. Ông ta đang ngồi ở
đó".
Phó Tổng biên tập báo "Người đại biểu nhân dân" kém tôi vài tuổi, tên
là Thọ. Anh Thọ không những bỉết Đoàn Phú Tứ mà còn biết cả chuyện ông là người
đầu tiên đã ra tay chống tệ nạn tham nhũng, trong vụ Trần Dụ Châu và Lê Sĩ Cửu,
từ thời chiến khu Việt Bắc.
Đọc xong bức thư gứi đồng chí Lê Quang Đạo, anh Thọ nói: "Đây không phải
là chuyện nghĩa cử mà còn liên quan đến ảnh hưởng chính trị… Anh Phùng Quán
ngồi đây chờ tôi mười phút, tôi chạy đi mời một số cán bộ chủ chốt của cơ quan.
Chúng ta sẽ cùng họp bàn cách giải quyết trong khi anh Đạo đi vắng". Lát
sau tôi được mời vào phòng họp.
Ngoài anh Thọ có Vụ trưởng Vụ Tài chính, Vụ trưởng Vụ Chính sách, một chuyên
viên đặc trách những việc đột xuất của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Bức thư gửi lên đồng chí Lê Quang Đạo được anh Thọ đọc to lên cho tất cả cùng
nghe. Vụ trưởng Vụ Chính sách trạc năm mươi tuổi, người cao gầy, ánh mắt sắc
sảo, nói: "Trước khi bàn bạc cách giải quyết, chúng ta phải cần kiểm tra
xem ông Đoàn Phú Tứ có phải là đại biểu Quốc hội không đã…" Ông đứng lên
ra khỏi phòng họp một lúc rồi trở vào, tay cầm cuốn sổ dày cộp, bìa bọc vải có
chữ mạ vàng. Ông đặt cuốn sổ trước mặt tôi, giới thiệu: "Đây là Kỷ yếu
danh sách đại biểu Quốc hội từ khóa I đến nay. Tên đại biểu được xếp theo vần
A, B, C. Đoàn Phú Tứ, ta tra vần T. Ông lật giở kỷ yếu tìm vần T. Chúng tôi
cùng chụm đầu trên ba trang vần T. Không có tên Đoàn Phú Tứ. Tôi tái mặt… Dò
tìm lại lần nữa. Có tên Nguyễn Đình Thi, Phan Tứ… nhưng Đoàn Phú Tứ thì không.
Tôi hoảng sợ thật sự. Thật ra, việc Đoàn Phú Tứ là đại biểu Quốc hội khóa I thì
tôi cũng chỉ nghe nói vậy thôi, chứ chưa bao giờ hỏi thẳng ông… Nếu Đoàn Phú Tứ
không phải là đại biểu Quốc hội thì những con người sắc sảo này sẽ nhận ra ngay
sự gian dối của bức thư. Như vậy thì tôi đã tự chuốc lấy một hoàn cảnh hết sức
lố bịch. Tôi chợt nghĩ: vẫn còn một tia hy vọng. Tôi nói: "Nhưng nhà thơ
Đoàn Phú Tứ chi là đại biểu có mấy năm, sau đó ông bỏ thành…" Vụ trưởng
Chính sách nói: "Đây là Kỷ yếu. Trong số này có cả tên Nguyễn Hải Thần,
Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh".
Lúc này tôi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi lắp bắp, ấp úng: "Việc này tôi
nghe các anh ở Hội Nhà văn nói chắc lắm. Có lẽ để tôi về hỏi lại anh Nguyễn
Đình Thi xem sao. Anh Thi cũng là đại biểu Quốc hội khóa I…". Miệng nói,
chân tôi dợm đứng lên, cốt làm sao rút được ra nhanh khỏi gian phòng họp. Bất
chợt tôi nhìn thấy trong sổ Kỷ yếu có mục: Những đại biểu Quốc hội đào nhiệm.
Tôi hồi hộp nói: "Thử tra cứu mục này xem có tên ông Tứ không?"
Ngón tay trỏ tôi lần dọc theo các hàng tên… "Đoàn Phú Tứ đây rồi!" -
Tôi nói gần như reo. Vụ trưởng Chính sách xem xét lại lần nữa, rồi gật đầu:
"Qua khâu kiểm tra, ông Đoàn Phú Tứ đúng là có danh sách trong đại biểu
Quốc hội. Nhưng ông đã đào nhiệm từ năm 1951. Chúng tôi không còn trách nhiệm
gì về ông, nên không có chính sách cấp tiền làm tang lễ cho ông…"
- Chính sách đất nước quý trọng nhân tài - Tôi nóng nảy ngắt lời ông. - Tuy ông
đào nhiệm, nhưng trước đó ông là nhà thơ đầu tiên đứng lên chống tệ tham nhũng.
Và ông đã chống một cách thật can đảm. Ông đã vạch mặt Trần Dụ Châu, đại tá Cục
trưởng Cục quân nhu phè phỡn trên xương máu chiến sĩ. Trần Dụ Châu đã bị xử bắn
như chúng ta đã biết…
Cảm thấy chừng ấy lý lẽ cũng chưa đủ thuyết phục họ, tôi liền vận dụng đến thơ.
Tôi nói: "Một nhà thơ cộng sản người Đức tên là Bectôn Brếch, từng viết
những câu thơ đầy sức giáo huấn:
Mộ~ người đấu tranh một giờ là một người tốt. Một người đấu tranh nhiều ngày là
một người tốt hơn
Một người đấu tranh nhiều năm là một người tốt hơn nữa
Một người đấu tranh suốt đời thì rất hiếm…
Thật ra đoạn thơ này còn có câu cuối cùng:
"Những người đó mới thật cần thiết cho chúng ta", nhưng tôi đã cắt bỏ
câu này để cho việc trích dẫn thơ có lợi cho mục đích của tôi. Tôi nói tiếp:
"Như vậy nhà thơ Đoàn Phú Tứ là "một người tốt hơn nữa", vì ông
đã đấu tranh nhiều năm".
- Thơ hay quá! Mọi người trầm trồ, đề nghị anh đọc lại cho chúng tôi chép.
Tất cả cùng mở sổ tay, rút bút bi. Tôi đọc chậm rãi từng câu theo kiểu thầy
giáo đọc chính tả cho học sinh… Vụ trưởng Tài vụ hỏi:
- Đồng chí nhà thơ cộng sản này là Đông Đức hay Tây Đức?
- Cộng hòa dân chủ Đức, người đã sáng lập ra Đoàn kịch nói quốc gia
Béc-lanh.
Tôi không ngờ thơ lại có sức mạnh thuyết phục đến như thế. Vụ trưởng Vụ Chính
sách hăng hái nói:
- Đúng, chúng ta cần phải gửi tiền đến để góp phần tổ chức tang lễ cho nhà thơ,
mặc dầu chưa có chính sách về những trường hợp như thế này. Chúng ta cần phải
linh động chính sách.
Vụ trưởng Tài vụ có vẻ nghĩ ngợi lung lắm, ông nói: "Nhưng ký duyệt những
khoản tiền đột xuất như thế này thì phải đồng chí Lê Quang Đạo, hoặc đồng chí
Vũ Mão… Mà bây giờ cả hai đồng chí đều đi vắng…".
Anh Thọ nói: "Nếu chưa kịp gửi tiền thì chúng ta có thể gửi một vòng hoa
đến viếng". Vụ trưởng Tài vụ gật đầu: "Việc mua vòng hoa thì quyền
hạn tôi có thể giảỉ quyết được". Nhìn lên đồng hồ đã 11 giờ, ông đứng lên:
"Các đồng chí cứ ngồi đây nói chuyện. Tôi cho người đi đặt vòng hoa thì
mới kịp".
Vụ trưởng Chính sách băn khoăn: "Không biết nên đề lên vòng hoa như thế
nào… Vì ông Tứ không còn là đại biểu Quốc hội nữa…". Tôi nói: "Theo
tôi có thể đề: "Kính viếng hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ - Văn phòng Quốc
hội và Hội đồng Nhà nước. Quốc hội gửi vòng hoa viếng một nhà thơ nổi tiếng,
việc này vừa hợp với đạo lý vừa có ảnh hưởng chính trị tốt không những chỉ
trong nước mà cả ở nước ngoài". Mọi người đều tán thành cách giải quyết
của tôi. Anh Thọ gọi điện cho họa sĩ phụ trách "mi" của báo
"Người đại biểu nhân dân", để yêu cầu tạm xếp công việc
"mi", viết ngay một "băng-rôn" vải đỏ chữ vàng với nội dung
trên.
Vụ trưởng chính sách hỏi tôi địa chỉ cua nhà thơ. Tôi nói: "Nhà ông ở bãi
An Dương, hơi khó tìm. Tôi sẽ làm người dẫn đường. Đúng 1g30 tôi sẽ có mặt ở
đây để cùng di với các đồng chí".
Đồng hồ chỉ 12 giờ. Tôi thấy mệt lả và đói mềm người. Nhưng tôi tính toán: nếu
trở về nhà ăn cơm rồi đạp xe đến thì không kịp mất. Tôi quyết định ở lại đây
buổi trưa. Tôi ghé vào phòng thường trực ngồi chơi với người chỉến hữu cũ của
sư đoàn, hút thuốc lào và ôn lại những kỷ niệm chiến trường để dịu bớt cơn đói.
Đúng 1g30, chiếc Vonga đen choáng lộn mang biển số Văn phòng Quốc hội, chở một
vòng hoa lớn, vắt chéo tấm băng-rôn đỏ nổi bật dòng chữ nhũ vàng do một họa sĩ
trang trí viết: "Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước - Kính viếng
hương hồn nhà thơ nổi tiếng Đoàn Phú Tứ" chạy về phía bãi An Dương.
(…) Nhiều năm tháng đã trôi qua. Mộ nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã được các con cải
táng… Nhưng lòng tôi sao vẫn ray rứt mãi không yên. Trong sự việc này, tôi đã
phạm hai lần nói dối. Càng luống tuổi, càng sống, càng chiêm nghiệm tôi càng
không tin rằng "mục đích có thể biện hộ cho phương tiện". Trên khắp
thế gian, người ta đã phạm biết bao nhiêu tội ác chỉ vì cái lập luận đáng sợ
này. Những lỗi lầm mà tôi đã phạm phải trong công chuyện nhà thơ Đoàn Phú Tứ,
có nguồn gốc sâu xa của nó. Năm tôi mười tám tuổi, là lính trinh sát của Trung
đoàn 101. Tôi được cử vào đội bảo vệ một đoàn văn nghệ sĩ từ vùng tự do Liên
khu 4, vào Thừa Thiên đi thực tế chiến trường. Trong đoàn này có nhiều nghệ sĩ
nổi tiếng: Thanh Tịnh, Phạm Duy, Bửu Tiến…
Đội bảo vệ chúng tôi có 8 người, vừa làm công tác bảo vệ, vừa dẫn chương trình,
trinh sát. Trước khi lên đường nhận công tác, Chính uỷ Trung đoàn Trần Quý Hai
đến gặp chúng tôi, chỉ thị: "Nhân tài là vốn quý của đất nước. Một đất
nước không có nhân tài thì đất nước đó sẽ lụn bại. Bởi vậy các đồng chí phải
bảo vệ văn nghệ sĩ như bảo vệ con ngươi giũa mắt mình". Chúng tôi đã thi
hành chỉ thị của Chính uỷ hết sức nghiêm chỉnh. Ngày đó chiến trường Thừa Thiên
bom đạn đầy trời, giặc càn quét ìiên miên. Suốt hai tháng, đạn giặc không đụng
đến được cái lông chân đoàn văn nghệ sĩ. Đội bảo vệ chúng tôi hy sinh mất hết
hai chiến sĩ, còn tôi bị thương ở cẳng chân, suýt bị cưa phía trên đầu gối.
Do được ở gần đoàn văn nghệ sĩ, cánh lính bảo vệ chúng tôi cũng tập tọng bắt
chước các anh, làm thơ. Tôi cũng có làm được vài câu nôm na như sau:
"Nếu các anh bị bốn bề vây súng giặc - Chúng tôi sẽ xông ra lấy ngực che
đạn cho các anh…".
Do đó về sau này, mỗi lần nhìn thấy các anh văn nghệ sĩ có tên tuổi, có tài
năng phải sống khổ cực như nhà thơ Đoàn Phú Tứ, tôi lại chợt nhớ đến lời dạy
của Chính uỷ năm nào… Khốn nỗi, bây giờ muốn che chở, bảo vệ nhân tài, không
còn cần đến ngực, đến máu (thứ chúng tôi có sẵn) như ngày ở chiến trường. Mà
cần tiền - thứ chúng tôi hoàn toàn không có - Bởi vậy, tôi phải sứ dụng đòn
liều mạng, mà trong thâm tâm tôi biết đó là một biện pháp rất tồi tệ, không thể
nào tha thứ được. Tôi coi thiên hồi ức này là sự tạ tội trước hương hồn nhà thơ
Đoàn Phú Tứ - vì nội dung điều nóỉ dối của tôi không phù hợp với tính cách con
người ông; đồng thời đây cũng là lời tự thú với đồng chí Lê Quang Đạo mà tôi
hết lòng kính trọng, với các anh ở cơ quan Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước, và với độc giả!
Tôi trông chờ vào sự phán xét dù nghiêm khắc đến đâu. Tôi hy vọng có như vậy
tôi mới được cứu rỗi.
Hồ Tây - 1993
9. Hằng Nga Thức Dậy
Phùng Cung xuất thân là người viết văn xuôi, sở
trường truyện ngắn. Anh viết truyện ngắn từ hồi còn ở chiến khu Việt Bắc.
(…) Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải, cũng một dòng
"ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái khách quan khắc
nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác giả.
Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê vì vẻ
đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với tất cả
văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết tiếng
Việt. Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường
văn nghệ. Được trả tự do. Việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn
cao rộng cho được sống để trở về quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh
tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm
nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu
nhờn, rỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh
ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì
đó lên mặt bàn…
Tôi thường đạp xe từ Nghi Tàm lên phố Mai Hắc Đế thăm anh, khi mang cho con
diếc, con trôi vừa câu trộm được, khi mang bó rau muống cấy ở vệ hồ. Trong khi
đó, thật bất ngờ, anh sáng tác thơ. Đọc thơ anh, có bài chỉ vài ba câu, tôi
bỗng thấy thiên nhiên quanh tôi vụt giàu có lên bất ngờ và trở nên đẹp xao
xuyến tận đáy lòng - những vẻ đẹp từ trước đến nay tôi vẫn nhìn mà không thấy.
Mới đây, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam quyết định trích quỹ sáng tác của
Hội làm món quà tặng sáu hội viên (trong đó có tôi) đã phải chịu nhiều thiệt
thòi trong 30 năm qua. Hội in cho mỗi người một tập thơ bao cấp, tác giả tự
chọn những bài thơ vừa ý trong thơ mình, dày từ hai trăm trang trở lại. Năm anh
bạn đang dựng bản thảo. Tôi cả đời chưa bao giờ được in riêng một tập thơ càng
hăm hở chuẩn bị.
Và bản thảo đã chuẩn bị xong, chỉ còn mang đến nộp. Trước khi nộp tôi đem đến
anh Cung để tranh thủ một vài nhận xét. Nhân dịp này tôi đã dại dột đọc lại tập
thơ tích lũy của anh. Đọc xong, lòng hăm hở của tôi chùng lại. Tôi không còn
muốn in thơ nữa. Tôi tự nhủ: in làm gì khi chưa có cặp mắt biết nhìn như Phùng
Cung?
Thoảng mùi ruộng ải
Thóc giống cựa mình
Nắng vắt ngọn tre đuôi én
Đủng đỉnh điệu cu cườm
Lay nhịp gió may.
(Mùa gieo mạ)
Dưới mắt anh, cảnh vật hiện ra sinh động đến thế! Ngòi bút của tôi đâu còn dám
đua chen.
Thấy tôi chán nản, anh Cung động viên khéo:
"Thời cơ chế thị trường, dư luận khách hàng mới là khuôn vàng thước ngọc.
Hãy cứ cho ra rồi lắng nghe dư luận".
Trái với tình thế của tôi có điều kiện in rồi mà còn đắn đo, tình thế của anh
Cung lại là muốn in mà không có điều kiện. Anh dí dỏm gọi mỉa mai tập bản thảo
thơ anh là "Hằng Nga ngủ trong rừng".
Như mọi người đã thấy, ngày nay ở nước ta xuất bản thơ là việc khó khăn lắm.
Bạn muốn in thơ?
Xin mời! Cứ việc bỏ tiền ra mà in. Nhà xuất bản chỉ có thể tham gia bằng cách
chịu một phần trách nhiệm về nội dung và đứng ra xin giấy phép xuất bản, với
điều kiện bạn trả tiền lệ phí. Một nhà thơ nghèo như Phùng Cung, năm nay đã sáu
mươi nhăm tuổi có lẽ đến lúc "chọn đất sạch dọn mình vào vĩnh viễn" cũng
không hy vọng thơ mình được người đọc thưởng thức qua những dòng chữ in. Hằng
tháng chỉ với mâm cơm gia đình "bốn mùa rong ruổi chốn rau dưa" cộng
thêm vài chục nghìn tiền điện, dăm nghìn tiền nước, chị Thoa vợ anh cũng đã
phải tất tả chạy "giật nóng" quanh bà con lối xóm. Thơ anh đành nằm
chờ…
Nhưng tôi quyết tâm in bằng được thơ anh. Tôi sẽ đi khắp Trung, Nam, Bắc đọc
rong thơ của anh và quyên góp tiền. Tôi ước tính muốn có đủ tiền để in hai trăm
bài thơ ngắn, tôi sẽ phải đọc thơ và quyên tiền đến một năm, trong khi đó bao
nhiêu chuyện có thể xảy ra làm cho công việc thêm phức tạp.
Quá trình phấn đấu hẳn phải chia thành nhiều đợt đi đi về về. Nhưng tôi đã gặp
một chuyện bất ngờ. Một hôm trong bữa cơm gia đình có anh Nguyễn Hữu Đang dự,
tôi nói:
- Em sắp đi xa, vắng nhà chừng khoảng một năm. Anh nhớ luôn luôn đến nhà em ăn
cơm với vợ con em cho vui.
- Chú có công chuyện gì mà phải đi xa nhà lâu thế?
- Em đi dọc thơ rong, quyên góp tiền để in cho anh Phùng Cung tập thơ. Cả một
đời gian khổ vì cái nghiệp bút mực, anh ấy chỉ có một ước vọng được in một tập
thơ để tặng bạn hữu và góp mặt với đời trước khi vĩnh biệt chúng ta.
- Tôi gặp chú Cung luôn, sao không thấy chú ấy nói chuyện này với tôi?
- Anh Cung không nói, em cho là anh ấy nghĩ có nói anh cũng không giúp được gì,
chỉ làm anh thêm bận tâm.
- Tập thơ chú Cung đâu, chú đưa tôi xem.
Anh Đang chăm chú đọc hết tập thơ. Anh khẽ gật đầu có mái tóc ngắn quen thuộc
nói:
- Tôi không ngờ thơ chú Cung khá thế. Theo tôi còn khá hơn văn xuôi chú ấy. Bây
giờ thế này chú Quán nhé: chú không phải đi đâu hết. Tôi sẽ cho chú Cung tiền
để in tập thơ.
Tôi trợn tròn mắt:
- Thơ không rẻ như bèo đâu anh ơi? In một tập thơ vài trăm trang với hình thức
chỉ xoàng xoàng thôi, anh có biết phải mất bao nhiêu tiền không? Từ hai trỉệu
đến hai triệu rưỡi đấy!
Tôi tưởng anh tái mặt tưng hửng trước số tiền mà tôi thông báo. Anh vẫn bình
tĩnh lật lật những trang thơ, đọc lại một vài bài vừa rồi chưa đọc kỹ, rồi chậm
rãi nói:
- Tôi sẽ cho chú Cung đủ tiền để in dù có tốn như chú vừa nói.
Không để tôi hỏi anh lấy đâu ra tiền, anh giải thích luôn:
- Tôi cho chú ấy dùng tất cả số tiền tôi dè sẻn từng đồng dành dụm được trong
hai mươi năm qua, nhất là từ bốn năm trở lại đây tôi có lương hưu, lại được
những anh chị em cùng hoạt động hồi Mặt trận Dân chủ, Hội Truyền bá quốc ngữ,
Hội Văn hóa cứu quốc, các đội Tuyên truyền xung phong chống Pháp, ngành Bình
dân học vụ cùng những bạn bè xa gần, biết tôỉ còn sống và nghèo khổ, kẻ ít
người nhiều họ gửi tiền đến giúp đỡ. Ngoài những khoản chi tiêu cần thiết hằng
tháng, còn lại bao nhiêu tôi gửi tất cả vào quỹ tiết kiệm ngân hàng, phòng xa
phải dựng túp lều khi không còn ai cho ở nhờ, phòng xa lúc ốm nặng kéo dài,
phòng xa cả lúc chết nữa. Nhờ vậy mà số tiền tiết kiệm của tôi cho đến hôm nay
đã lên đến hơn bốn triệu đồng. Sổ tiết kiệm đây…
Anh móc túi áo bộ đội cũ mặc bên trong, lấy ra cuốn sổ bọc trong ba lần giấy
nhựa bóng, chằng ngang, dọc bốn dây cao su. Anh đặt sổ trước mặt tôi và bảo:
- Chú giữ lấy. Tôi sẽ làm giấy uỷ quyền cho chú rút tiền ra sử dụng. Nếu số
tiền này chưa đủ, tôi sẽ về quê đòi vài tạ thóc cho vay, bán đi rồi gửi thêm
tiền cho chú. Tôi yêu cầu tập thơ phải in thật đẹp, mà đẹp giản dị, chứ không
rườm rà, lòe loẹt như nhiều tập thơ đang bày bán.
Không hiểu sao nghe anh nói tim tôi hồi hộp và cổ tôi như nghẹn ngào. Tôi được
quen biết anh đã gần bốn mươi năm nhưng cho mãi tới hôm ấy tôi mới thật hiểu
anh là người như thế nào. Nguyễn Hữu Đang là người nếu chi dùng cho bản thân
thì một trăm đồng ba quả khế chua để gội đầu (thay chanh mà anh vẫn sợ đắt)
cũng tiếc tiền, bất đắc dĩ mới phải mua, nhưng đã là việc nghĩa hiệp thì sẵn
sàng san sẻ đến đồng tiền cuối cùng.
Thế đấy. Nếu bản thảo thơ Phùng Cung là "Hằng Nga ngủ trong rừng" thì
tấm lòng trợ giúp vô tư của Nguyễn Hữu Đang chính là "Hoàng Tử đẹp
trai" đến đánh thức.
Và tập "Xem đêm" sẽ ra đời.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 1994
10. Nhà Tiên Tri Tầm Cỡ Đại Đội
… vì vậy mà có sự rung động bí mật của ý
nghĩ, khiến nhà bác học trở thành người thần bí, và thi sĩ thành đâng tiên tri.
(Victor Huygo - Lao động biển cả).
Tôi hằng nghĩ, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi địa phương lớn nhỏ… đều sản sinh
những nhà tiên tri của mình. Họ lưu lại những lời sấm ký, nhiều khi được truyền
từ đời này sang đời khác, tiên đoán tương lai, số phận, những bước thăng trầm
của cộng đồng. Sấm ký của họ được mã hóa thành tục ngữ, ca dao, cổ tích, huyền
thoại… và đôi lúc chỉ là lời nói bất chợt.
Có những nhà tiên tri nổi danh và rất nhiều nhà tiên tri vô danh. Có những nhà
tiên tri tầm cỡ thế giới, quốc gia, và rất nhiều nhà tiên tri tầm cỡ thôn xã,
chòm xóm. Tuy tầm cỡ nhỏ vậy nhưng đôi khi lời sấm ký của họ cũng làm ta lạnh
người…
Trung đoàn 101 chúng tôi cũng có một nhà tiên tri . Anh tên là Trần Vĩnh thư ký
của đại đội trinh sát. Anh làm thơ, lấy bút hiệu là Trình Vân, sau đổi là Hồ
Vi. Bài thơ Lời quê của anh có mặt trong Tuyển tập Thơ kháng chiến do Nhà xuất
bản Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản năm 1994. Nhưng bài thơ Gửi người chín lăm
của anh mới là bài thơ được cả trung đoàn truyền tụng. Trung đoàn 95 là quân
chủ lực tỉnh Quảng Trị. Chiến dịch Đông Xuân năm đó, 95 bí mật hành quân vào
chiến trường Thừa Thiên để phối hợp chiến đấu với 101 chúng tôi. Hồ Vi thay mặt
anh em 101 viết bài thơ này, gửi các chiến hừu trung đoàn bạn, khi hay tin họ
đã lòng lọng vào ém quân trên đất chiến trường nhà.
" Sông tôi anh đến cắm sào
Nương tôi anh đến xới đào lôông cây
Bữa tê hai đứa hai trời
Chừ đây chộ mặt mấy lời cho bưa"
Theo tôi, Hồ Vi là nhà thơ có biệt tài sử dụng ngôn ngữ địa phương. Nhiều tiếng
địa phương thô ráp, trúc trắc, nặng chình chịch… được anh đưa vào thơ, lập tức
trở nên nhuần nhuyễn, ngân nga nhạc điệu và lấp lánh ánh vàng thi ca… Như số
phận của tất cả những người nổi tiếng, người yêu anh cũng nhiều mà người ghét
anh cũng lắm.
Ngày đó trên tờ báo Giết giặc - tờ báo kháng chiến của tỉnh - hầu như số báo
nào cũng có thơ của Hồ Vi, Hải Bằng, Tấn Hoài, văn xuôi của Nguyễn Khắc Thứ -
những cây bút cự phách của Trung đoàn. Ngoài những bài thơ đăng báo, Hồ Vi còn
làm rất nhiều những bài thơ riêng tư mà anh gọi là Thơ Sổ Tay. Những bài này
anh chỉ đọc cho một số bạn hữu thân thiết trong Trung đoàn "nghe
chơi". Và mỗi lần đọc xong, anh đều dặn người nghe: "Nhớ là nghe mô
bỏ đó! Đừng kể lại với ai, nhất là đối với mấy "xừ" cán bộ chánh
trị…".
Hồ Vi hăm hai, còn tôi vừa tròn mười sáu. Với con mắt những người lính mười sáu
tuổi chúng tôi thì các nhà thơ là những siêu nhân. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe
anh Hồ Vi dặn những người nghe thơ như vậy. Tôi nói: "Em mà làm được những
bài thơ hay như rứa thì em phải mang đi khoe khắp chiến khu!". Anh nhìn
tôi, miệng cười mà ánh mắt buồn thiu: " Rứa đó em ạ. Con cá trong lờ đỏ
hoe con mắt - Con cá ngoài lờ lúc lắc muốn vô…". Ánh mắt buồn thiu và câu
ca dao về con cá trong lờ, ngày đó tôi chưa hiểu nhưng đã ám ảnh suốt đời
Một đêm, trời chiến khu mưa tầm tã. Con sông Ô Lâu hiền hòa nước lũ đục ngầu
dâng cao, hung dữ chảy ầm ầm tưởng chừng muốn cuốn phăng cả ngọn đồi mà lán
trại đội tnnh sát chúng tôi dựng chênh vênh bên sườn dốc. Anh ngồi với tôi bên
bếp lửa đốt ngay giữa lán trại, đợi mấy củ sắn lùi chín. Anh chợt hỏi tôi:
- Em có biết tại răng mà trung đoàn mình lại đặt là trung đoàn một trăm lẻ một
không?
Tôi đang mải xắm nắm lật lại mấy củ sắn cho chín đều, vừa lật vừa trả lời:
- Đó là phiên hiệu… Cấp trên muốn đặt số bao nhiêu mà chẳng được. Anh hỏi chi
cắc cớ.
Anh ngồi bó gối, nói với tôi, mắt không rời ngọn lửa cháy bập bùng:
- Em đừng tưởng… Người ta đặt như rứa là có ý nghĩa cả đó em ạ. Một trăm là
trung đoàn, còn lẻ một tức là nhà thơ Hồ Vi đó.
Tôi bật phì cười. Câu nói tưng hửng của anh không ngờ đã ghi khắc vào trí nhớ
tôi khác nào một vết bỏng sâu…
Sau khi anh chết và tôi đã lớn khôn hơn, tôi được biết những bài thơ
"riêng tư" của anh không biết bằng cách nào đã lọt ra khắp trung
đoàn. Rất nhiều chiến sĩ thuộc lòng, ngâm nga khe khẽ trên đường hành quân,
chép tặng các "Súy Vân - Súy Kiều" ở các thôn xóm trú quân. Vì tính
chất lây lan của những bài thơ riêng tư này mà thơ Hồ Vi được coi là một hiện
tượng và cán bộ lãnh đạo tỉnh ngày đó đặc biệt quan tâm, đặt vấn đề cần thiết
phải chặn đứng nó lại. Trong nhiều cuộc họp của tỉnh, của trung đoàn có mục phê
phán thơ Hồ Vi. Thơ Hồ Vi bị cán bộ lãnh đạo, tuyên huấn lên án gay gắt. Nào là
tiểu tư sản lãng mạn, mất lập trường cách mạng, đầu độc tâm hồn chiến sĩ, làm
nhụt ý chí chiến đấu của quân dân Thừa Thiên…vân vân và vân vân.
Năm đó, trung đoàn chúng tôi đánh một trận phục kích lớn trên đường quốc lộ một
Bắc Thừa Thiên. Ta thắng to. Đặc biệt trong trận phục kích này, có một cô nữ
cứu thương người Pháp, tuổi chừng mười chín đôi mươi, trúng đạn chết nằm lẫn
lộn giữa đám xác giặc. Cả người cô ướt sũng máu và bùn, nhưng vẫn đẹp như một
thiên thần. Đôi mắt xanh biếc đã chết nhưng vẫn mở to, ngơ ngác nhìn lên bầu
trời xa lạ vần vụ những lớp lớp mây chì…Lúc thu dọn chiến trường, không hiểu
sao tất cả chúng tôi đều tránh gặp cặp mắt xanh biếc ngơ ngác của cô. Riêng Hồ
Vi, anh đã bế xác cô đặt lên chỗ mặt đường khô ráo, rồi lấy vạt áo quân phục
rách tả tơi, lau sạch những vết máu và bùn trên gương mặt trắng như nõn huệ và
trên mái tóc màu bạch kim của cô…
Các nhà thơ nổi tiếng của tỉnh, của trung đoàn như Hải Bằng, Tuấn Hoài, Hoàng
Thượng Khanh…đều làm thơ về cái chết của cô và cùng lấy đầu đề: Cô nữ cứu
thương người Pháp. Theo dư luận của chiến sĩ thì bài thơ của Hải Bằng hay nhất.
Nhưng bài thơ của Hồ Vi được đăng trên báo Giết giặc. Báo vừa in xong, chưa kịp
phát hành, thì bài thơ được dán chồng lên một bài văn xuôi tường thuật sự thắng
lợi giòn dã của trận đánh, kết quả hùng hồn của đợt rèn cán chỉnh quân…Tuy vậy,
số báo này cũng chỉ được phát hạn chế, từ cấp chính trị viên đại đội trở lên.
Tôi làm liên lạc của đơn vị trinh sát. Tôi chạy vào "xê ca" 5, nơi
tòa soạn báo Giết giặc đóng. Tôi chờ lúc các anh tòa soạn sơ hở, xoáy được tờ
báo cấm kỵ đó, dắt luôn vào cạp quần. Tôi chạy một mạch ra thẳng bờ sông Ô Lâu,
tìm một chỗ bờ sông thật khuất vắng, ngâm tờ báo xuống nước. Chờ cho hồ dán đủ
thì giờ ngấm nước, tôi cầm tờ báo chui vào một bụi lau sậy rầm rì, nhẹ nhàng,
cẩn thận bóc bài văn xuôi dán chồng lên bài thơ. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần
bài thơ giữa tiếng gió thổi lau lách xào xạc trên đầu và tiếng con sông Ô Lâu
chảy lúc khoan lúc nhặt dưới chân…
Từ hôm đó đến nay, hơn bốn mươi năm trôi qua, bài thơ chia làm nhiều khổ ngắn
dài, tôi chỉ còn nhớ được một khổ:
Nhìn mái tóc bạch kim em
Uớt sũng máu và bùn
Đôi mắt Vệ Quốc anh nước mắt lưng tròng
Hòa bình tặng em một nhành hoa tím ngát
Chiến tranh tặng em một viên đạn súng trường
Ơi người em gái Pháp nữ cứu thương!…
Tôi ngồi khóc lặng lẽ, nước mắt giọt ngắn giọt dài rớt xuống bài thơ ướt đẫm
nước sông Ô Lâu mà tôi cầm khư khư trong tay. Và mười sáu tuổi đầu, lần đầu
tiên tôi được nếm cái vị mặn chát kinh người của chiến tranh qua bài thơ của Hồ
Vi. Cùng với Hải Bằng (ngày đó anh còn lấy bút hiệu là Văn Tôn) bài thơ Cô nữ
cứu thương người Pháp bị cán bộ lãnh đạo đưa ra mổ xẻ, phân tích, phê phán nặng
nề. Nó được coi là điển hình của sự dao động, sự mất lập trường kháng chiến
"Bây giờ thì anh ta khóc thương kẻ thù, rồi sẽ có ngày anh ta đi hẳn với
kẻ thù". Người ta đã kết luận về Hồ Vi như vậy.
Họa vô đơn chí, ngoài cái tội thơ, Hồ Vi còn bị kết tội hủ hóa - một cái tội xấu
xa nhất dối với những người lính chúng tôi hồi đó. Nó xấu xa đến nỗi người ta
phải gọi chệch là tội "hát-đúp" để nó bớt đi cái vẻ trần trụi đê
tiện.
Đầu đuôi cái tội "hát-đúp" của anh là thế này: Sống ở chiến khu, do
quá thiếu thốn tình cảm gia đình, chúng tôi bày ra trò nhận anh nuôi, chị nuôi,
mẹ nuôi, em nuôi… Tôi cũng có một bà mẹ nuôi và một ông anh nuôi. Hồ Vi nhận
chị nuôi là chị Hoài Trinh, y tá bệnh viện chiến khu. Chị Hoài Trinh lớn hơn
anh chừng ba, bốn tuổi, anh hăm hai, chị hăm sáu. Trước kia chị là hoa khôi
trường nữ sinh Đồng Khánh. Tôi không còn nhớ rõ chị có đẹp thật không, chỉ nhớ
là dáng người mảnh mai, gương mặt vàng võ vì đói ăn và sốt rét; cặp mắt chị to
một cách kỳ dị, choán gần hết nửa khuôn mặt và mái tóc chị dài đến chấm gót. Những
anh chị cùng hoạt động bí mật với chị ở nội thành Huế kể rằng: chị thường dấu
truyền đơn, kíp nổ, cả lựu đạn nữa, vào búi tóc tiếp tế cho các đơn vị biệt
động ở nội thành.
Nhận chị em nuôi được ít lâu, anh Hồ Vi và chị bỗng đâm ra yêu nhau. Hai người
cố giấu mối tình mà chính họ cũng cảm thấy "vụng trộm". Nhưng họ càng
giấu, càng lộ. Chẳng mấy chốc cả chiến khu đều biết mối tình "bất
chính" của hai chị em nuôi. Nghiêm trọng hơn, người ta đồn là "cô y
tá chị nuôi đã có mang với nhà thơ em nuôi". Cả chiến khu đổ dồn vào phê
phán tội lỗi của hai người. Mấy người cán bộ chính trị, cán bộ tuyên huấn thì
hằn học mỉa mai: "Cũng là do ba cái thứ thơ tiểu tư sản, mất lập trường,
ơi em gái Pháp nữ cứu thương, mà ra hết!". Chỉ riêng tụi liên lạc trinh
sát con nít chúng tôi thì hoang mang, ngơ ngác. Chúng tôi không biết nên ủng hộ
hay nên chống mối tình của hai người. Chúng tôi chỉ thấy thương cả hai, và tìm
mọi cơ hội để tỏ với anh chị tình thương đó.
Mỗi lần chúng tôi chạy liên lạc vào các cơ quan đóng sâu trong núi, đều tạt vào
bệnh viện thăm chị, ấp a ấp úng hỏi chị: "Có nhắn chi ra xê-ca-một"
không?" (Xê-ca-một có nghĩa là anh Hồ Vi). Thằng Mừng hay hỏi: "Chị
có hay ra sông Ô Lâu giặt áo quần không, em bưng giúp chị?". Chị kéo cái đầu
bù rối khét lẹt mùi nắng và mùi tanh trốc đầu của nó vào lòng. Ôm rất lâu. Cặp
mắt to mênh mông của chị bỗng ướt nhòe như xông phải khói cay… Tụi tôi, thằng
Hiền, thằng Bồng-da-rắn, thằng Châu-sém mỗi lần về đồng bằng trinh sát, trở về
chiến khu, đứa thì mang cho anh mảnh giấy trắng, cuốn vở học trò, đứa thì cái
bút máy Cao lô, lọ mực Pake…để anh viết thơ. Những thứ này chúng tôi xin được
của mấy chị hàng xén ở các chợ quê vùng hậu địch. Anh cất tất cả vào cái túi
dệt vải đà mà chúng tôi đều biết của chị Hoài Trinh khâu tặng anh. Anh nói:
"Khi mô anh trở thành nhà thơ thiên tài như Rem-bô thì anh mới dám dùng
giấy mực các em cho".
- Rem-bô là cái ông mô rứa? Chúng tôi hỏi.
- Ông ấy người Tây, chỉ mới bằng tuổi các em mà thơ ông đã lừng danh thế giới,
- anh nói.
Thằng Bồng-da-rắn bỗng đưa ra một ý kiến ngộ nghĩnh:
- Lỡ cái ông ấy cũng vô lính Lê dương qua đây đánh mình, bị quân mình bắn chết
trong trận Câu Nhi - Đồng Lâm thì uổng quá anh hè?
Anh Hồ Vi xoa xoa đầu nó, cười: "Thiệt may! Ông ấy đã chết cách đây gần
trăm năm rồi".
Chúng tôi nghe lỏm các anh lớn bàn tán: trên quyết định sẽ bố trí đưa chị Hoài
Trinh ra vùng tự do khu 4 để học lớp y sỹ. Nhưng mục đích là để cách ly hai
người khỏi phải dấn sâu thêm nữa "mối tình tội lỗi". Cái tin này làm
tụi con nít chúng tôi buồn lắm. Không hiểu sao chúng tôi đều có ý nghĩ: Nếu
vắng chị Hoài Trinh chiến khu sẽ vắng đi một nửa. Nhưng chị chưa kịp ra khu 4
thì đã phải vĩnh viễn nằm lại dưới chân một ngọn đồi xào xạc lau sậy bên bờ
sông Ô Lâu.
Chúng tôi, những người lính dãi dầu trận mạc, đã chứng kiến biết bao nhiêu cái
chết, nhưng chưa có cái chết nào để lại trong ký ức một ấn tượng kinh hoàng đến
như cái chết của chị. Sáng hôm đó, chiến khu vụt hừng nắng sau suốt mười ngày
mưa thối núi thối rừng. Chị Hoài Trinh từ trong núi, nách cái rổ thưa đựng áo
quần dơ, bên trên đậy chiếc chiếu cá nhân và tấm m lông màu nõn chuối, đi ra
sông Ô Lâu.
Ngày đó những người chiến khu chúng tôi, mỗi lần ra sông giặt giũ, không mang
theo chậu hoặc xô (vì không có), mà mang cái rổ thưa và một tấm ni lông. Lót ni
lông vào lòng rổ rồi múc đầy nước. Cái rổ thưa liền biến thành cái chậu giặt,
tắm, nhẹ nhàng biết mấy, giản tiện biết mấy Con sông Ô Lâu dâng cao, nước đục
ngầu, chảy xiết. Các coọng nước dọc bờ sông dốc đứng, quay trong tiếng rền rĩ,
rên xiết vì phải làm việc quá sức
Lán của đội thiếu niên trinh sát chúng tôi nằm ngay trên lối mòn xuống bến
sông. Các chị ở bệnh viện, bào chế, quân lương thích ra giặt giũ ở bến sông
chúng tôi vì có một tảng đá lớn, bằng phẳng từ vách núi chồm hẳn ra mặt sông.
Lúc chị Hoài Trinh ngang qua lán, thằng Mừng đang ngồi trước bậu cửa học đánh
vần trên tờ báo Giết giặc, hắn ngẩng lên chào chị, nói: "Khi mô chị trở vô
bệnh viện, chị nhớ gọi em với, chị nghe". "Em vô bệnh viện có việc
chi?" Hắn làm mặt nhăn nhó nói: "Em bị ho… chắc là ho lao chị
ạ…". Chị cười: "Chị cho uống muỗng thuốc ho là khỏi thôi".
"Anh Tư-dát nói, ho lao phải uống hai muỗng mới khỏi". Chị lại cười:
"Ừ thì chị cho uống hai muỗng". Chẳng là chiến khu, tụi chúng tôi
thèm đường quá Thằng Hòa-đen là đứa đầu tiên nghĩ ra cái mẹo giả đò mắc bệnh
ho, vô bệnh viện xin uống thuốc ho. Thuốc ho cũng ngọt gần bằng đường. Hắn phải
lội bốn con suối, trèo ba dốc núi mới vô thấu bệnh viện, xin được một thìa canh
thuốc ho, uống tại chỗ. Hắn về khoe ầm với cả đội: "Mỗi muỗng thuốc ho
cũng ngọt gần bằng nứa chén chè gạo của mụ Tào!". Mừng hỏi: "Mi khai
bệnh như răng mà các chị tin, cho mi uống thuốc?". "Tao khai mắc bệnh
ho gà. Ho gà là bệnh ho nặng nhứt!".
Ngày hôm sau thằng Mừng chạy vô bệnh viện khai với các chị y tá hắn mắc phải
bệnh ho gà rất nặng. Một chị y tá cười cười cầm chai thuốc ho rót một muỗng,
bắt hắn há miệng, ngửa cổ cho uống luôn. Đúng là ngọt thật - hắn vừa ìiếm môi
liếm mép ngẫm nghĩ - nhưng hơi chua chua. Chỉ tội muỗng thuốc chị rót lưng quá,
hắn tị nạnh: "Thằng Hòa- đen cũng mắc bệnh ho gà như em, mà hắn khoe chị
cho hắn uống cả một muỗng đầy…". Chị y tá lại cười nói: "Tại em chưa
mắc phải bệnh ho gà, em chỉ mới ho vịt. Ho vịt chỉ cần uống nửa muỗng là
lành". Mừng ấm ức chạy về đội kể lại với Tư-dát. Tư- dát ôm bụng cười
ngất. Hắn liến láu nói: "Tại mi ngu. Mi phải khai là ho lao. Ho lao còn
nặng gấp mấy lần ho gà. Nhất định các chị phải cho mi uống hai muỗng đầy! Chưa
chừng còn cho mi thêm cả một ve đem về cho đội uống dần!".
Sáng hôm đó, chiến khu hửng nắng. Thằng Mừng xắm nắm định lội rừng vô bệnh viện
để khai mình mắc bệnh ho lao…Không ngờ lại gặp chị Hoài Trinh, hắn mừng rơn.
Hai muỗng thuốc ho coi như cầm chắc. Hắn ngồi trước bậc cửa để cùng vô bệnh viện
với chị. Hắn đã đánh vần hết cả tờ báo Giết giặc mà vẫn chưa thấy chị lên. Hắn
thắc mắc chị giặt chi mà lâu rứa hè…Hắn gấp tờ báo, dắt cạp quần rồi đi xuống
bến sông. Bến sông vắng tanh. Chỉ thấy rổ áo quần với chiếc chiếu vắt ngay
miệng rổ, trên tảng đá gần mí nước. Hắn đoán chừng chị đi việc riêng, ngồi
khuất sau bụi cây mô đó. Hắn kiên nhẫn đứng chờ. Chờ mãi không thấy chị bước
ra, hắn liền gọi toáng lên. Chỉ có tiếng lau lách xào xạc trả lời hắn. Hắn chợt
nhìn thấy tấm ni lông màu nõn chuối bị những miệng nước xoáy dưới chân tảng đá,
quay tròn như chong chóng, lúc chìm xuống lúc nổi lên… Hắn lập tức hiểu ra. Như
bị ma đuổi, hắn chạy ngược lên dốc bến, miệng la thất thanh: "Chị Hoài
Trinh chết trôi! Chị Hoài Trinh chết trôi!".
Chỉ mười phút sau, các anh lớn, bọn nhóc trinh sát chúng tôi đứng chen chúc
trên tảng đá để rổ áo quần. Anh Hồ Vi về đồng bằng công tác hai hôm trước đó.
Chúng tôi, các anh lớn, cởi quần áo, nhảy ào xuống sông, hụp lặn, mò tìm xác
chị. Chúng tôi mò tìm cho đến lúc mặt trời gần lặn, vẫn không thấy tăm hơi xác
chị.. Chiều hôm sau. Thằng Bồng-da rắn đi bám đường quốc lộ trở về, hắn ở dưới
đó đã ba hôm nên không biết chuyện chị Hoài Trinh chết đuối. Hắn kiếm được một
cục xà bông thơm, hí hửng đem về để biếu chị. Hắn chọn quãng sông phía bờ chiến
khu có một coọng nước quay để lội qua, vì quãng này đồng bào đắp thành cái đập
đá để dồn sức nước vào coọng. Hắn cởi áo quần đội lên đầu, mắt chăm chú nhìn
xuống dòng nước chảy xiết tìm những chỗ đá ít rêu để bám chân khỏi trượt ngã.
Lội ra đến gần giữa sông, hắn chợt ngẩng lên. Miệng hắn há hốc, đứng gần như
chết lặng giữa dòng nước ào ào chảy quanh người. Cái coọng nước đường kính đến
sáu bảy mét, quay kẽo kẹt nặng nề, kéo từ từ dưới vực nước lên một cái đầu phụ
nữ tóc ướt sũng quấn chặt vào cái gióng tre ngang. Khuôn mặt người chết trôi
trắng bợt như bụng cá chết nhưng hắn vẫn nhận ngay ra chị Hoài Trinh. Coọng
nước nhấc từ từ cả người chị lên khỏi mặt nước, đưa lên cao, lên cao mãi, như
treo lủng lắng giữa bầu trời chiều chiến khu đầy sương mù, rồi đổ dần về phía
bên kia.
Hắn hét lên một tiếng thất thanh, liệng bộ áo quần rách như tổ đỉa có gói cục
xà bông thơm xuống nước, bươn rẽ nước nhào tới, chụp lấy một cái gióng ngang
định rị giữ coọng nước lại, không cho nó dìm tiếp chị theo đà quay…
Nhưng cái coọng nước coi hắn chẳng khác nào một cái cọng đu đủ, nhẹ nhàng kẽo
kẹt từ từ nhấc hắn lên khỏi mặt nước và đưa hắn lên cao. Ngợp quá hắn phải
buông tay nhảy vội xuống vực sông, hắn bơi vào bờ, chạy lên trạm gác tiền tiêu
của chiến khu nhờ các anh lớn tiếp cứu, rồi chạy lên lán đội trinh sát gọi
chúng tôi.
Sức quay cái coọng nước mạnh khủng khiếp. Cả một tiểu đội vừa người lớn vừa con
nít, bám vào các gióng ngang gióng dọc mới giữ nó lại được. Một anh cố hết sức
gỡ tóc chị khỏi các gióng tre để lấy xác chị ra, nhưng không tài nào gỡ nổi.
Mái tóc chị dài quá, quấn ngang quấn dọc như đánh đai vào coọng nưôc. Hết sách,
anh phải dùng thanh mã tấu cứa, chặt đứt mái tóc đẫm nước đen như huyền của
chị…
Chúng tôi đào huyệt chôn chị giữa đám lau sậy xạc xào đổ dốc xuống bờ sông Ô
Lâu, cùng với rổ áo quần ướt và chiếc chiếu. Hai hôm sau, anh Hồ Vi mới từ đồng
bằng công tác trở về.
Chúng tôi chạy ra đón anh ở đầu dốc núi đi vào trạm gác tiền tiêu. Chúng tôi
tranh nhau kể chị Hoài Trinh chết như thế nào, mò xác chị ra sao, cảnh tượng
rùng rợn coọng nước quấn chặt tóc chị xách cả người chị đưa từ từ lên trời rồi
lại từ từ dìm chị xuống nước, cảnh dùng mã tấu cứa, chặt mái tóc dài của chị
quấn chặt vào các gióng tre coọng nước… Chao ôi, chúng tôi ngu dại quá. Chúng
tôi đâu có biết kể tỉ mỉ như vậy là chọc ngoáy vào vết thương đang xối xả máu
trong lòng anh.
Chúng tôi tưởng anh sẽ khóc lịm. Nhưng thật lạ lùng, hai mắt anh ráo hoảnh! Anh
đứng bất động như vụt hóa đá, cặp mắt mở trừng trừng nhìn chúng tôi, không nói,
không rằng. Ánh mắt anh làm chúng tôi sợ phát run, bất giác lùi cá lại, bước
dạt ra hai bên. "Chôn chị ở mô?" - anh bật hỏi, gần như thì thầm.
Chúng tôi kéo nhau chạy trước, dẫn anh ra mộ chị. Hai chân anh như bị đốn, cả
người anh ngã sụp xuống bên nấm đất đắp tròn còn in rõ những dấu xẻng. Anh
khoát khoát tay, nói với chúng tôi gần như van lơn: "Các em về hết cả đi!
Về hết cả". Anh ngồi cùng mộ vợ suốt cả đêm hôm đó. Rồi sau đấy, chiều nào
anh cũng mang bát cơm chan nước ruốc khẩu phần của anh ra mộ, chắc là để cúng
vợ trước khi ăn… Có đêm anh ngủ luôn ngoài đó không thấy về lán. Chỉ ít lâu
sau, người anh rạc hẳn đi, chỉ còn mắt với răng.
Một hôm, tôi về đồng bằng công tác. Lúc trở lên chiến khu, tôi tạt vào cái miếu
gọi là Miếu Cô ở đầu làng, xin ông cụ thủ từ trông coi miếu một thẻ hương. Tôi
mang thẻ hương về chiến khu, lẳng lặng đặt cạnh cái mền trấn thủ của anh ở sạp
nằm góc lán. Tôi đâu có ngờ cái thẻ hương này đã giết anh.
Trước đó hai hôm, có tin của trinh sát, bọn địch tập trung quân chuẩn bị đánh
phá chiến khu. Công binh, các đơn vị trực chiến, chôn mìn, gài lựu đạn dọc các
lối mòn chuẩn bị chống giặc. Nhưng rồi có tin về bọn giặc càn ba huyện phía
nam. Công binh tháo mìn, gỡ lựu đạn, giải tỏa các lối mòn. Buổi chiều, anh Hồ
Vi cầm nắm hương của tôi, đi ra mộ vợ. Trời xui đất khiến gì không biết, anh đi
vào cái lối mòn vừa tháo gỡ mìn, lựu đạn. Anh vấp phải trái lựu đạn gài gỡ sót.
Cả hai chân anh đều bị thương, dập nát đến đầu gối. Chắc anh khát nước vì mất
quá nhiều máu, anh bò lết xuống bến sông, đúng cái bến mà chị Hoài Trinh chết
đuối. Chúng tôi tìm thấy xác anh nằm vắt ngang trên tảng đá, đầu và hai vai
ngập chìm trong nước. Hai tay anh bíu rất chắc vào gờ đá nên mới không tuột
xuống sông.
Chúng tôi đào huyệt sát mộ chị Hoài Trinh, chôn anh, xác bọc trong tấm vải bạt
áo súng. Bọn giặc tấn công chiến khu Hòa Mỹ và bao vây nhiều ngày. Chúng tôi
rút vào chiến khu Dương Hòa.
Khoảng hơn một năm sau, tiểu đội tôi đi công tác ngang qua Hòa Mỹ. Các lối mòn
lau lách mọc phủ kín, cao lút đầu người. Chỉ mới hơn một năm mà vùng chiến khu
cũ trở nên hoang vu đến rợn người. Chúng tôi đi dọc bờ sông Ô Lâu bạt ngàn lau
trắng, vạch cỏ, rẽ gai tìm suốt buổi mà không thấy mộ hai người. Lau lách, cỏ
dại đã nuốt chửng cả hai…
Từ khi tôi rời cây súng nối nghiệp anh làm thơ. Rồi vì thơ mà sa vào cảnh chìm
nổi gian truân suốt ba chục năm trời. Trong ba mươi năm đó tôi thường hay bất
chợt nhớ đến câu nói kỳ dị của anh Hồ Vi bên bếp lửa chiến khu năm nào:
"Một trăm là trung đoàn, còn lẻ một là nhà thơ Hồ Vi đấy!".
Thế rồi dần dần tôi mới vỡ lẽ ra, câu nói kỳ dị của anh chính là sấm ngữ về số
phận của ai lỡ mang lấy nghiệp thơ vào thân.
Tôi thường kể câu chuyện trên với bằng hữu và vui miệng nói thêm: "Hồ Vi
là nhà tiên tri tầm cỡ đại đội:.
Chép lại bên bờ Hồ Tây- mùa đông năm 1994
11. Một năm lao động ở
công trường Cổ Đam
Từ năm 1958, tôi đã phải đi nhiều đợt lao động
ở Hợp tác xã nông nghiệp Thái Lai (Thái Bình), Công trường Nhà máy đường Việt
Trì (Phú Thọ), Nông trường cao su - cà phê Thắng Lợi ở Thọ Xuân (Thanh Hóa)…
Đợt nào tôi cũng gặp phải chuyện trục trặc, oan ức, đều bị cơ quan quản lý nhận
xét là "chưa tiến bộ", "chưa khắc phục được tư tưởng nhân
văn", đôi khi còn có "ý định ngóc đầu dậy"… Năm 1964 cho đến đầu
năm 1965, tôi tiếp tục được Hội Văn nghệ cử đi lao động cải tạo ở Công trường
Trạm bơm điện Cốc Thành, Cổ Đam. Trạm bơm điện Cốc Thành vào loại lớn nhất miền
Bắc ngày đó, tưới tiêu cho hai huyện Ý Yên- Bình Lục tỉnh Hà Nam Ninh.
Trước khi mang ba lô về công trường, Võ Hồng Cương trong Ban lãnh đạo Đảng đoàn
Văn nghệ căn dặn tôi: "Lần này cậu phải cố gắng lao động cho thật tốt.
Cuối đợt sẽ được Đảng bộ công trường nhận xét. Đừng để xảy ra những chuyện lôi
thôi như mấy đợt trước. Cậu phải nhớ rằng, nếu có nhiều tiến bộ thì tôi sẽ giới
thiệu cho cậu về công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam. Sau một vài năm phấn đấu, người
ta sẽ cho cậu vào biên chế…". Tôi hứa với anh sẽ hết sức cố gắng để khỏi
phụ lòng tốt của anh. Tôi đã lao động ở công trường này từ khi san nền, đổ móng
cho đến khi công trình được nghiệm thu. Cùng về công trường với tôi đợt này có
một tổ ba người ở Viện Văn học và Bộ Văn hóa đi tham gia thực tế theo chỉ thị
của Ban Bí thư Trung ương: Cán bộ đi làm thuỷ lợi một năm, gồm: N.N, nhà lý
luận phê bình lâu năm; Mai Quốc Liên cũng là nhà lý luận phê bình mới bước vào
nghề và nhà thơ Trúc Cương. Trong ba người này chỉ một mình Trúc Cương là tôi
quen biết từ trước.
Trúc Cương gặp riêng tôi, nói nhỏ: "Anh N.N. là đảng viên, lập trường tư
tưởng hết sức vững vàng, cứng rắn, chống nhân văn giai phẩm quyết liệt… Tiếp
xúc với anh, Quán nhớ giữ mồm, giữ miệng, không có thì phải vạ đấy!"
- Được, mình sẽ uốn lười 14 lần trước khi nói!
- Còn Mai Quốc Liên thì chơi được, mới lấy vợ. Đặc điểm là rất phục thơ Chế Lan
Viên. Quán nhớ không chê thơ Chế Lan viên trước mặt cậu ta.
- Chính mình cũng thích thơ Chế Lan Viên!
Năm đó tôi đã ngoài ba mươi tuổi. Tôi đã lấy vợ và có đứa con gái đầu lòng lên
hai. Thật lòng từ đây, tôi muốn được sống yên thân. Tôi đã quá mệt mỏi vì phải
đi lao động hết công trường này đến nông trường khác. Tôi đã chán cái cảnh:
"cá trộm, văn chui, rượu chịu". Tôi tự hẹn với mình sẽ cố gắng lao
động thật tốt, nói năng giữ mồm, giữ miệng. Cuối năm sẽ nhận được bằng khen của
công trường vì "lao động tích cực, có tiến bộ rõ rệt về lập trường tư
tưởng". Nhờ đó tôi sẽ được Hội giới thiệu vào công tác ở Ty Văn hóa, rồi
sẽ được tuyển dụng lại vào biên chế, có thể bắt đầu hưởng lương cán sự 1 - 56
đồng một tháng. Thế là gấp đôi số tiền trợ cấp của Hội Văn nghệ mấy năm nay -
27 đồng một tháng. Với 27 đồng, tôi chỉ đủ nộp tiền ăn cho công trường. Nhưng
điều quan trọng nhất mà tôi hy vọng, dần dần tôi sẽ được xóa kỷ luật, được xuất
bản sách trở lại và có tiền để đỡ đần vợ. Tôi phải lao động ở đội mộc rồi
chuyển sang đội bê tông. Lao động nặng mà không có tiền ăn sáng, tôi đói mềm
người. Tôi lại xấu máu đói. Hễ đói là tay chân bủn rủn, mồ hôi vã ra như tắm.
Mặc dù lúc nào tôi cũng đinh ninh trong dạ là phải hết sức cố gắng, phải thật
quyết tâm phấn đấu để mau chóng thoát khỏi cái cảnh trợ cấp 27 đồng một tháng.
Nhưng rồi tôi lại gặp phải vài chuyện trục trặc không đâu, làm mất toi công sức
lao động hơn một năm trời…
Tôi về đội mộc được phân công đóng cốp pha. Tay tổ trưởng tên là Hường, đảng
viên, người to béo phục phịch, dân Thanh Hóa, tay nghề khá giỏi và rất tốt
bụng. Tay ấy thường giao tôi việc nhẹ và dạy nghề cho tôi rất tận tình. Sau ba
tháng, Hường nhận xét tay nghề của tôi: "Cậu có thể xếp vào thợ bậc 1 rồi
đấy!". Tôi cười nịnh: "Nếu giám đốc công trường có hỏi thì anh nhớ
báo cáo tốt cho tôi với nhé. Đại khái là tuy tay nghề còn non nhưng lao động
hăng say, nhiệt tình, nói năng đúng lập trường chính sách…"
"Được được, tớ hiểu rồi. Tớ sẽ báo cáo thật tốt cho cậu. Lần nào lên họp
ông ấy cũng hỏi thái độ lao động của cậu. Tớ đều bảo cậu lao động rất chăm chỉ,
cần cù. Tớ còn đề nghị hàng tháng công trường nên phụ cấp cho cậu mấy đồng,
cộng với tiền trợ cấp ở trên, cho ngang với lương công nhân bậc một… Ông ấy bảo
sẽ xét. Lần nào ông ấy cũng nhắc nhở mình: Phải cảnh giác cao độ với cậu vì cậu
là một tên nhân văn "thâm độc" và "nguy hiểm". Mình cãi:
Nhưng tôi thấy hắn hiền khô mà, đồng chí? Ông ấy còn nhấn mạnh với mình: Đồng
chí là đảng viên, phải xác định lập trường. Những tên đã viết văn viết báo
chống chế độ thì chẳng có tên nào hiền hết! Mình quý cậu nên kể riêng với cậu
thôi để cậu đề phòng. Nhớ không được nói lộ ra với ai…". Hường dặn đi dặn
lại.
Câu chuyện của Hường làm tôi hết sức lo ngại. Lao động tôi càng chăm chỉ hơn.
Nói năng càng thận trọng hơn. Hường có cái thú là mê sáng tác ca khúc. Nghĩa là
đặt ìời mới theo một số làn điệu dân ca quan họ. Hường khoe với tôi, hồi đi
nghĩa vụ quân sự, anh ta đã được giải thưởng văn nghệ của tiểu đoàn vì đã sáng
tác được một bài hát phục vụ chủ đề gìn giữ tác phong quân nhân. Bài hát theo điệu
"Trèo lên trái núi Thiên Thai". Hường hát luôn: "Ra đường phải
thắt xanh tuya này xanh i í i tuya… ".
Ngày Tết sắp đến. Công trường thông báo sẽ tổ chức một đêm văn nghệ quần chúng,
tiết mục tự biên tự diễn. Hường say sưa sáng tác bài hát cho đêm văn nghệ. Nội
dung bài hát là ca ngợi đội mộc đóng cốp pha đúng kỹ thuật, năng suất cao. Bài
hát theo điệu "Tình bằng có cái trống cơm". Đã lâu quá rồi tôi không
còn nhớ cả bài hát, chỉ nhớ câu đầu: "Tình bằng có cái búa đinh, khen ai
khéo gõ ấy mới đinh nên đinh, ấy mới đinh nên đinh…". Nhưng rồi hình như
công việc đặt lời cho bài hát của anh không được suôn sẻ, gặp phải chỗ bí. Tôi
để ý, nhiều lúc đang làm việc Hường bỗng ngẩn ra, buông đục, bỏ cưa, bỏ rìu,
rút trong túi áo ra tờ giấy nhàu nát, trải lên mặt tấm ván, nhấm nhấm nước bọt
cây bút chì thợ mộc vót nhọn hoắt mà lúc nào anh cũng cài trên vành tai, cúi
xuống tờ giấy gạch gạch xóa xóa, miệng lẩm nhẩm hát cái gì đó tôi không nghe rõ
lời, trán cau lại. Cũng là người sáng tác nên tôi thông cảm ngay.
Điệu này là anh ta đang bí đây. Tôi thấy thương anh, muốn giúp anh gỡ bí. Bước
đến gần, tôi hỏi: "Sáng tác gặp khó khăn à? Thử nói xem anh bí chỗ nào,
tôi có thể giúp anh được không? Tôi không rành sáng tác bài hát lắm, nhưng việc
đặt lời cho bài hát nói cũng gần với văn thơ". Anh chỉ đầu bút chì vào tờ
giấy, nói: "Mình đang vấp cái chỗ: lội, lội lội sông ấy mấy đi tìm…, không
biết đặt cái tiếng gì vào đó cho đúng giọng. Mình muốn dùng chữ đóng, đóng,
đóng hay cưa, cưa, cưa, nhưng đều không đúng điệu dấu nặng. Nghĩ nát cả óc mà
không ra. Tôi góp ý: Hay anh dùng chữ đẽo, đẽo, đẽo. Nếu hát lên thì đẽo có thể
hát thành đẹo, người nghe cũng hiểu.
Anh gật gù: Đúng, đúng. Ý kiến của cậu hay. Vượt qua được chỗ bí, anh hoàn
thành được bài hát ngay chiều hôm đó. Anh chọn trong đội mộc của anh năm cậu có
khả năng hát hò nhất, cho nghỉ một buổi làm để tập hát. Anh lãnh nhiệm vụ chỉ
huy tốp ca, vừa huấn luyện, vừa bắt nhịp, vừa lĩnh xướng.
Đêm văn nghệ bài hát của đội mộc làm cho mọi người cười vỡ trời vì khi hát đến
chỗ đẹo, đẹo đẹo, khán giả ngồi bên dưới sân khấu liền rộ lên hát theo đéo đéo,
đéo muốn vỡ hội trường. Ban tổ chức phải la hét đến khản cổ mới giữ lại được
trật tự, nhưng không sao giữ yên được hoàn toàn. Thỉnh thoảng bên dưới khán giả
vẫn rúc rích: đéo, đéo, đéo…
Hường bị giám đốc công trường gọi lên xạc cho một trận tơi bời, kết tội anh là
cố ý phá rối đêm văn nghệ chào mừng thắng lợi của công trường. Hường hoảng quá
phải thú thật: ba tiếng đẽo, đẽo, đẽo ấy là cậu Phùng Quán nó góp ý kiến cho
tôi. Lúc đầu tôi định đặt là cưa, cưa, cưa, nhưng hắn bảo hát là đẽo… nó đúng
điệu hơn…
Giám đốc công trường gầm ghè: "Đấy, đồng chí cứ khen hắn là hiền nữa đi.
Nó xỏ mũi đồng chí mà đồng chí không biết. Tôi đã cảnh giác với đồng chí nhiều
lần mà đồng chí đều bỏ ngoài tai, không nghe?". Sau sự việc này, Hường
giận tôi lắm. Anh cũng tin là tôi chơi xỏ anh, muốn hại anh. Anh cương quyết
không nhận tôi ở đội mộc nữa. Thế là tôi phải chuyển sang đội đổ bê tông. Công
việc lao lực nặng nhọc gấp ba gấp bốn lần ở đội mộc. Tôi thực sự điên đầu.
Nhưng cũng thật đáng đời cho tôi: Đã mù nhạc lại còn dám chơi trèo, sáng tác ca
khúc! Chưa hết chuyện rắc rối này đã lại tiếp chuyện rắc rối khác. Mà cũng chỉ
tại tôi quá ngu.
Còn một tuần nữa là Tết. Các bạn N.N, Mai Quốc Liên, Trúc Cương đều được công
trường cho nghỉ Tết, về Hà Nội. Tôi ở đội bê tông nghỉ Tết theo công nhân. Sáng
29 Tết mới được về, sáng mùng Ba Tết đã phải có mặt ở công trường.
Ông Tám, giám đốc công trường lên Bộ họp rồi nghỉ Tết luôn trên đó. Chỉ huy
công trường giao cho phó giám đốc Hộ. Ông Hộ trước cũng là bộ đội chống Pháp,
tính tình hiền lành, xuề xòa. Thấy hoàn cảnh rắc rối của tôi, ông cũng có ý
thương nhưng không giám tỏ rõ thái độ, mà chỉ thông cảm một cách lặng lẽ.
"Tại sao hắn đi bộ đội từ nhỏ, lại viết được cuốn Vượt Côn Đảo đọc rất xúc
động, bỗng thoắt một cái trở thành tên phản động, chống chế độ?, Tôi được cậu
Na, phụ trách công tác tổ chức cán bộ kể lại có lần ông Hộ đã đặt vấn đề với
nhà lý luận phê bình văn học N.N như vậy. N.N giải thích: "Rất dễ hiểu, lúc
đó hắn còn trẻ, lại kiêu căng vô tổ chức, vô kỷ luật, chống đối lãnh đạo, mang
sẵn trong người mầm mống xấu, gặp được đất tốt là mọc ngay. Về Hà Nội hắn bị
bọn phản động, gián điệp, tờ-rốt-kit, tư sản mại bản kích động, lôi kéo, dùng
gái, dùng tiền mua chuộc. Hắn đã khai trong bản tự kiểm điểm về vụ "nhân
văn giai phẩm" là nếu nổ ra cuộc biểu tình chống đối chế độ, thì hắn sẽ
cầm cờ đi đầu".
Lời giải thích của N.N rất đanh thép, nhưng hình như vẫn chưa hoàn toàn thuyết
phục được người lính chống Pháp xuề xòa, tốt bụng này. Thỉnh thoảng gặp tôi ở
chỗ vắng vẻ, ông lại dúi cho tôi khi thì bao Tam Đảo, khi thì nửa bao Điện
Biên. Những đợt giám đốc đi vắng, ông thay mặt chỉ huy công trường, tôi thường
tranh thủ xin ông nghỉ vài ba ngày phép về thăm vợ con. Ông đều ký giấy cho tôi
đi và dặn: "Nhớ về cho đứng phép đấy!". Ông Hộ có đặc tính là thích
vui, thích văn nghệ. Ông có ý định trước khi cho công nhân nghỉ Tết, sẽ tổ chức
một cuộc mít tinh nhỏ. Ông sẽ lên diễn đàn đọc mấy lời thật rôm rả về những
thắng lợi to lớn của công trường, tống tiễn năm cũ, đón mừng năm mới. Sau đó sẽ
có ngâm thơ, hát hò. Ông cho gọi tôi lên văn phòng, nói: "Cậu viết cho tớ
một bài diễn văn. Nội dung như sau, như sau… Cậu gắng viết cho hay vào để tớ
đọc trong buổi tiễn công nhân về ăn Tết. Cho cậu nghỉ hẳn một ngày lao động để
viết".
Tôi sướng mê người. Tôi hy vọng nhờ bài diễn văn sẽ chuộc lại được cái tội
"đẹo, đẹo, đẹo" vừa rồi. Khi hết thời hạn lao động, chỉ còn hơn một
tháng nữa, ông sẽ có cảm tình hơn với tôi, ghi tốt vào bản nhận xét và cấp bằng
khen. Vì tuy là phó, nhưng ông là bí thư đảng uỷ đồng thời phụ trách công tác
tổ chức. Tốt nhất là đúng dịp ấy, ông Tám đi vắng. Tôi cầu Trời khấn Phật cho
ông Tám đi vắng đúng vào dịp ấy!
Tôi vận dụng hết tài ba văn chương để viết bài diễn văn này. Bao nhiêu từ ngữ
hoa mỹ, đại ngôn, khoa trương tôi tương hết vào bài diễn văn. Tôi mở đầu bài
diễn văn như sau: "Thời gian trôi chảy trên công trường như dòng sông Đáy
êm đềm trong xanh (công trường nằm bên bờ sông Đáy) trôi trên cánh đồng Bình
Lục, Ý Yên chiêm khê mùa thối (ý nói là hạn và úng). Nó như đàn ngựa đang phi
nước kiệu. Nhưng rồi với quyết tâm vượt năng suất thi công để chào mừng năm
mới, năm bản lề của giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Ban lãnh đạo
cùng với công nhân đã quất cho đàn ngựa thời gian lồng lên phi nước đại…v.v..
và v.v…".
Bài diễn văn được công nhân xuýt xoa khen hay, vỗ tay dài, vỗ tay ran. Ông Hộ
sướng phổng mũi. Sau kỳ nghỉ Tết, ông đưa bài văn ra khoe với nhà lý luận văn
học N.N: "Các đồng chí đi vắng, tôi phải nhờ Phùng Quán viết. Tôi thấy hắn
viết được đấy chứ. Xem ra lập trường tư tưởng hắn dạo này tiến bộ vững vàng hơn
nhiều so với ngày mới xuống công trường. Đúng là lao động chân tay rất có tác
dụng sâu sác trong việc cải tạo con người".
N.N đọc xong bài văn liền sa sầm nét mặt: "Hắn viết xỏ đồng chí mà đồng
chí không biết. Hắn dùng thể văn biểu tượng hai mặt, tiếng Pháp gọi là xanh-
bon ê-ki-vớt (Symbole équivoque). Đây là một chủ trương hắn hoi của bọn nhân
văn mà chúng đã thú nhận trên báo chí. Hắn ví công nhân như một bầy ngựa và
lãnh đạo công trường chăn ngựa bằng roi vọt. Trước "phát hiện" của
nhà lý luận phê bình N.N, ông Hộ tím mặt vì giận. Ông cho là tôi đã lừa ông như
lừa con nít bằng thứ văn chương "biểu tượng hai mặt" đó. Khi được
nghe Trúc Cương kể lại sự việc này, tôi sững người. Tôi không ngờ cơ sự lại
diễn ra theo chiều hướng đó! Chuyến này thì một năm trời lao động cực nhọc hóa
thành công cốc. Việc được vào biên chế, được xóa án kỷ luật trở lại với nghề
văn, được in sách để có tiền nhuận bút càng xa vời. Tuy vậy tôi vẫn còn chút hy
vọng ở ông Hộ, người chiến hữu một thời của tôi sẽ nghĩ lại, sẽ thông cảm mà
nhận xét tốt cho tôi, mà ông có mất gì cho cam! Tôi hồi hộp khi được biết tin
khoảng một tuần nữa, tổ Văn nghệ sĩ tham gia "một năm làm thuỷ lợi"
sẽ hết hạn trở về Hà Nội và tôi cũng sẽ được về cùng. Ngày tiễn đưa chúng tôi
đã được ấn định. Hôm đó, Ban chỉ huy công trường sẽ phát bằng khen cho mỗi
người. Sau đó là một cuộc liên hoan nhẹ chuối, bánh ngọt, nước trà. Phòng tổ chức
đang chuẩn bị giấy khen. Chờ lúc vắng người, tôi vào phòng hỏi nhỏ cậu Na,
người phụ trách công tác bằng khen. Tôi hổn hển như người hụt hơi: "Mình
có dược bằng khen không?". Cậu Na nói: "Không thấy tên anh, chỉ có
tên các anh N., Cương, Liên". Tôi chết điếng. Thế là bao nhiêu hy vọng tan
thành mây khói. Không có bằng khen mang về trình Đảng đoàn Hội sau hơn một năm
trời lao động cải tạo nghĩa là tôi là phần tử nhân văn giai phẩm không thể cải
tạo được nữa. Trong khi đó các nhà văn nhà thơ khác có dính dáng đến nhân văn
như Trần Lê Văn, Quang Dũng… đều đã được trở lại công tác trong biên chế, được
in tác phẩm.
Càng nghĩ tôi càng giận thân. Làm văn mà viết câu văn không sáng sủa đến nỗi
gây nên tai họa. Ôi giá như tôi đừng làm văn mà làm lính thì bây giờ, chắc mình
đang ngang dọc ở chiến trường đánh Mỹ. Tôi được tin sư đoàn 325 của tôi đã vào
đến chiến trường. Cậu Hồi, tiểu đội phó của tôi bây giờ đã là tiểu đoàn trưởng,
huân chương đầy ngực. Buổi chiều về, tôi và Trúc Cương rủ nhau ra sông Đáy tắm
giặt. Tôi nói với hắn: Cậu giúp tớ với. Cậu thử gặp ông Tám, ông Hộ nói tốt cho
tớ, đề nghị các ông ấy nghĩ lại, cấp bằng khen cho tớ. Với các cậu, cái bằng
khen chỉ là một tờ giấy viết chữ đẹp, có đóng dấu đỏ treo lên tường cho vui.
Còn với tớ là được thêm gần 30 đồng lương mỗi tháng, được trở lại nghề văn,
được in tác phẩm, thêm được chút tiền nhuận bút đóng góp với vợ nuôi con và
được chấm dứt cái cảnh phải đi lao động hết công trường này đến nông trường
khác.
Trúc Cương buồn rầu nói: "Chính mình cũng đang khó khăn, suýt nữa không
cũng được bằng khen vì chuyện cô Hòa. Mình không giúp được Quán đâu. Quán thông
cảm với mình đi. Đừng giận mình". Thôi được, mình sẽ tự phấn đấu lấy. Và
trong giây phút ấy, tôi bỗng thấy mình đơn độc khung khiếp. Tôi bật ngâm lên một
câu thơ: Tôi đơn độc giữa biển người! Đêm tiễn đưa, ông Tám giám đốc đứng lên
nói mấy lời đưa tiễn tốt đẹp tổ văn nghệ sĩ do Trung ương cử về tham gia chủ
trương lớn của Đảng: Một năm làm thuỷ lợi. Rồi ông phát bằng khen trao tận tay
từng người. N.N thay mặt tổ phát biểu cảm tưởng, nói lên những thu hoạch sâu
sắc trong thời gian đi thực tế được cùng chia sẻ niềm vui cũng như khó khăn
gian khổ với bà con, anh em ở công trường trên bước đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Chờ N.N dứt lời, tôi thu hết cam đảm đứng lên nói: "Bản thân tôi,
trong quá trình lao động cải tạo hơn một năm vừa qua, tôi đã hết sức cố gắng
lao động hăng say, tích cực không ngại khó ngại khổ. Tôi tự nhận xét so với các
anh khác, tôi cũng xứng đáng được công trường cấp bằng khen.
Ông Tám không đứng lên mà ngồi yên tại chỗ, vừa hút thuốc vừa nói, không nhìn
vào mặt tôi: "Đảng uỷ công trường đã xét kỹ trường hợp của đồng chí. Tuy
đồng chí có chịu khó lao động, nhưng về mặt lập trường tư tưởng vẫn còn nhiều
thiếu sót nghiêm trọng, cần phải tiếp tục lao động cải tạo để khắc phục sửa
chữa. Mặc dù như vậy, chúng tôi cũng chiếu cố biểu dương tại chỗ đồng chí, còn
bằng khen, chúng tôi đã hội ý với trên, đồng chí chưa đủ tiêu chuẩn…".
Giọng của ông thật rành mạch, thật dứt khoát.
Từ công trường muốn về Hà Nội, tôi phải đi bộ 25 cây số dọc theo đê sông Đáy 5
cây lên đến cầu Gián Khuất. Từ Gián Khuất theo Quốc lộ Một 20 cây số nữa đến ga
Phủ Lý. N. N, Liên, Cương có xe đạp đi nhẩn nha chỉ mất hơn hai tiếng. Tôi cũng
có chiếc xe nhưng đã bán mất rồi để thuốc thang cho con gái hồi nó mới lên một.
Vì thế tôi phải đeo ba lô lên đường từ lúc trời chưa rạng sáng. Sông Đáy còn mờ
mịt khói sương và thấp thoáng ánh lửa chài. Lên đến cầu Gián Khuất trời mới
hửng sáng. Tôi trút cái ba lô vải bạt thủng vá nhiều chỗ còn giữ được từ ngày
làm lính xuống rệ cỏ ướt sương.
Tôi tụt xuống bờ sông dốc đứng, cúi người vốc nước sông Đáy rửa mặt. Tôi bỗng
phì cười với ý nghĩ miên man: Hơn ba chục tuổi đầu đời tôi đã rửa mặt trên
không biết bao nhiều bờ suối, bến sông. Có lẽ vì vậy mà một đứa trẻ chăn trâu,
một anh lính i- tờ rít sinh ra làm thở, làm thơ.
Đời tôi có một cái nghiện là nghiện rửa mặt. Hễ thấy suối, sông, đầm, hồ là mặt
tôi cứ nóng phừng, ngứa ngáy, và tôi phải tìm cách rửa mặt cho bằng được!
Hễ thấy nước là tôi thèm rửa mặt.
Rửa mặt nhiều dị ứng thành thơ!
Tôi ngồi lên chóp cái cột cây số sứt mẻ, chữ đã tróc, mờ: Phủ Lý 21 km, lôi
trong ba lô ra một cái bánh bao không nhân đường đậu, to bằng hai bát ăn cơm.
Nói cho chính xác là cục bột mì luộc. Nó cũng có lai lịch của nó.
Từ ngày có công trường, mậu dịch huyện Ý Yên mở cửa hàng ăn uống dể phục vụ
công nhân. Phụ trách cửa hàng là cô Hòa vừa béo vừa lùn, đen trùi trũi, mặt to
tròn như mặt thổ địa. Cô ta yêu nhà thơ Trúc Cương mê mệt. Nghe Trúc Cương là
nhà thơ, cô liền làm thơ tình tặng Trúc Cương theo kiểu "Đồi thông hai
mộ":
Anh Trúc Cương giờ đây đâu nhỉ
Anh của em yêu quý nhất đời
Anh đi biền biệt xa khơi
Em ngồi xào nấu bồi hồi nhớ anh
Mỗi lần Trúc Cương ra chơi cửa hàng, cô đều dúi cho khi cái bánh mì, khi cái
bánh bao - cục bột mì, kèm theo một bài thơ tình kiểu "Đồi thông hai
mộ". Chiều qua, cô dúi cho Trúc Cương những hai chiếc với ý thơ: trước kia
yêu một, nay yêu gấp đôi. Trúc Cương chia cho tôi một chiếc để sáng mai ăn
đường. Tôi bẻ từng miếng bánh nhỏ bỏ miệng. Nhẩn nha nhaỉ. Vừa nhai vừa ngắm
con đường quốc lộ Một ngổn ngang ổ gà, hun hút chạy về phía thị trấn Phủ Lý. Tự
nhiên một nỗi buồn ghê gớm dâng lên làm nghẹn cả cổ.
Đúng 10 năm trước, cũng cái ba lô này, đôi dép cao su này, tôi đã đi bộ trên
con đường này từ thị xã Thanh Hóa ra Hà Nội. Và có lẽ tôi cũng đã tụt bờ dốc
xuống đúng con sông này rửa mặt. Nhưng ngày ấy tôi trẻ bao nhiêu, hạnh phúc bao
nhiêu! Nhưng cũng chỉ vì một cái cột cây số giống như cột cây số tôi đang ngồi
lúc này mà cuộc đời tôi đã phải rẽ một khúc quanh thật đột ngột.
Nếu buổi sáng hôm đó, tôi không dừng lại cái quán nước bên đường ăn một củ
khoai luộc, và trước mặt quán không có cái cột cây số sứt mẻ, chữ khắc phai mờ
vì cả chục năm trời kháng chiến đã bị bỏ quên nhưng vẫn còn đọc được: HÀ NỘI
157 km, thì có lẽ lúc này tôi đang chỉ huy một đại đội trinh sát quân giải
phóng, đang cùng đồng đội sư đoàn nổ súng công đồn diệt viện hoặc đã ngã gục
dưới làn đạn trong tiếng hò hét xung phong ở một địa danh quen thuộc nào đó tại
quê nhà, đâu đến nỗi phải khốn khổ vì một mảnh giấy khen của cái công trường
xây dựng trạm bơm điện Cốc Thành này…
12. Những ngày cuối
năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập
Phùng Quán
Tôi là
người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ thuật kiến trúc. Đầu năm 1990,
Đại hội kiến trúc sư toàn quốc, tôi có gửi một bức điện 300 chữ, chào mừng Đại
hội. Mở đầu bức điện văn, tôi viết: "Nếu đất nước xây dựng một Đền đài
Nghệ thuật, tôi xin được làm thủ từ. Ngày Lễ hội, tôi xin được trải chiếu để
văn nghệ sĩ ngồi. Chiếu một tôi dành riêng cho các kiến trúc sư. Vì các anh chị
là những người trước tiên đem lại vinh quang, niềm tự hào hoặc ô nhục cho xứ
sở, bằng chính các tác phẩm kiến trúc của mình...". (Ở nhà tôi, ngoài
những) 1 Kim
tự tháp, Vạn lí trường thành, Đền Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp
Eiffel, Khải Hoàn Môn... tôi có chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như
Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng
thể vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai tháng Chín năm Một nghìn chín trăm bốn
lăm. Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng mảnh được xây dựng bằng
gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trong vòng 48 giờ - nếu chậm lại
một giờ là hỏng - rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một lâu đài trong cổ
tích, cặp mắt mờ đục của người lính già tôi bao giờ cũng cay lệ. Lòng tôi dâng
trào biết bao niềm cảm xúc và suy tưởng miên man... về Tổ quốc và Nhân dân, về
Cách mạng và Khởi nghĩa, về máu xương của lớp lớp anh hùng hào kiệt đã thấm đẫm
giang sơn kể từ khi trên mặt đất xứ sở Việt nam xuất hiện công trình kiến trúc
mỏng manh này. Nó biến khỏi mặt đất, nhưng tầm vóc, hình dáng cùng với tổng chể
kiến trúc của nó, đã tạc khắc đời đời vào kí ức của cả dân tộc...
Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bước từ đêm dài trăm năm nô lệ
ra bình minh Độc lập Tự do, cờ hoa trong tay và câu hát trên môi... Người Hiệp
sĩ vĩ đại của Nhân dân và hai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm,
râu đen, mắt sáng, lễ phục kaki... đứng trên lễ đài, mở đầu bản "Tuyên
ngôn Độc lập" bất hủ: "Mọi người sinh ra đều bình đẳng..."
Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập cùng với tổng thể kì vĩ
đó? Không một ai! Kể cả thánh thần... Theo ngu ý của tôi, Lễ đài Độc lập là cái
cột mốc giữa đêm dài trăm năm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân
tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc này, số phận của cả
dân tộc đã thay đổi, và số phận nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng đã thay
đổi. Từ một đứa trẻ chăn trâu mù chữ (... tôi đã trở thành) một nhà văn... Cũng
từ cái mốc kiến trúc mỏng manh này, cả dân tộc đã xuất phát, bước vào cuộc
trường chinh sáng láng nhất, lâu dài nhất và dữ dội nhất của thế kỉ, với gánh
nặng lịch sử trên vai: "Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn
triệu trên đời" 2.
Ngắm nhìn một công trình kiến trúc như vậy, những người lính già dãi dầu chiến
trận chúng tôi, làm sao không ứa lệ tự hào?
° ° ° °
Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc
Lễ đài Độc lập? Từ mấy chục năm nay, tôi luôn bị thôi thúc bởi niềm mong ước
tìm hiểu cho ra. Nhưng cái khó bó cái khôn, và trong điều kiện và hoàn cảnh
trắc trở của đời mình, tôi không sao thực hiện nổi niềm mong ước đó.
Thế rồi cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên
quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9.1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện
Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt
nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi
đặc biệt chú ý:
Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945
gửi Thị trưởng Hà nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh
máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130x210 mm, đóng dấu tròn với
dòng chữ "Ngày Độc lập" và C.P.C.H.D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi
sao năm cánh ở giữa, nổi lên dòng chữ BAN TỔ CHỨC). Nội dung thư:
"Kính gửi ông Thị trưởng Hà nội,
Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2-9-1945 một "Ngày
Độc lập".
Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu
Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt
trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang"
Một thư khác của Ban Tổ chức "Ngày Độc lập" thuộc Bộ Thông tin và
Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu như trên. Nội dung thư:
"Kính gửi ông Thị trưởng Hà nội,
Nhân "Ngày Độc lập", chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba
Đình và hai bên những phố lân cận.
Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc
cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng
cột cho phu toà Thị chính.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang"
Một thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội
dung:
"Kính gửi ông Thị trưởng Hà nội,
Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2-9-1945 tới đây được hoàn hảo, chúng
tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho
các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi
dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa
sau Sở tài chính.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang"
Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu Đang là
Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác giả công
trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.
° ° °
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ
mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được
anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê nguời, đầu không khiến mà chân cứ rụt về
tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn
hỏi chuyện. Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu
Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi
chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh,
Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội
Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những
người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và
Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước:
2-9-1945.
Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê
nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà nội trên chiếc xe đạp
thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp.
Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh:
"Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?". Anh cười: "Mình
sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại
còn có cả thóc và rơm cho nông dân vay". - "Hiện nay anh đang làm gì
ở dưới đó?". "Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng
Cộng sản Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều
quá" .
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi
hỏi nhau: "Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó
không?"
Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về công
trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần
giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: "Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng
này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang..."
"Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?". "Anh
bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần
cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình...". "Anh có biết địa chỉ
của anh Đang không?". "Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ
thể thì không biết". "Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn
hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?". "Trời
đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con
nít nó cũng biết". Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng
cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản
nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy
bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.
° ° °
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 Tết,
tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến
Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên
khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang
là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: "Hình như ông ta ở Quỳnh
Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...". Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen
với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: "Cháu
sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, chắc sẽ
hỏi ra". Đến quán thịt chó, tôi đành móc số tiền còm cõi trong túi, gọi
một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có
một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy
nói với tôi: "Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết". Tôi vội
níu tay anh lại, dặn nhỏ: "Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách
việc". "Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn". Anh bạn trẻ đi
đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi
cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: "Xin lỗi cụ, năm nay cụ
hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?". Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch
nhác - áo quần bà ba nâu, chân dép lốp - râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền
nói phứa lên: "Cám ơn đồng chí - tôi cười - cũng thất thập cổ lai hi 3 rồi đồng chí ạ". "Trước cụ
công tác ở đâu ạ?". "Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương
nghiệp trên Hà nội... về hưu đã gần chục năm rồi". "Cụ là thế nào với
ông Nguyễn Hữu Đang ạ?". "Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí
cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật
cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên
ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa
tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...".
Anh cán bộ cười: "Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã
Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ
đạp xe về đó cũng vất vả đấy...". Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ
trở nên cởi mở: "Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người
hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn
chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại
tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy cách đây
mấy năm ông Đang này tự tiện đi sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà
một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi
giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để
cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...". Tôi tỏ ý sợ hãi gãi
đầu gãi tai: "Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa...
đem tiền về trả lại thôi...". Anh cán bộ xuê xoa: "Không sao đâu cụ
ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa
soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về.
Tôi sẽ chỉ đường cho cụ". Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt
bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi
đứng lên rối rít cảm ơn anh...
° ° ° °
Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió
cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ
ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì
nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ
thông cấp I, II xã Vũ Công - Nơi anh Đang tá túc - tôi vào cái quán bên đường
uống li rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà nội về tìm thăm
anh Đang, rót rượu tràn li và nói: "Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy,
tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới
cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái rỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với
tôi tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm
thịt ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy
nghìn mua mấy lạng mỡ lá...". Tôi bật phì cười: "Ông ấy bây giờ lại
thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi
lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn,
chết lâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra trong
trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!". Ông chủ quán rót thêm li
rượu nữa, giọng hào hiệp: "Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán
được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại
rắn này không nằm trong bộ tam xà!". Tôi cười ngất.
Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao
cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: "Bác ấy
đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không
biết...". Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh
đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ
ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo
bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây
cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống
rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu,
tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn
Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như
công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn
thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần
tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà nội nào
giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không
đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là
trao tận tay cho cách mạng... Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không
vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa
những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì - như người bõ già trong truyện
"Hương cuội" của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo
mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười...
"Anh Đang!", tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng
vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... "Phùng Quán! Chú về đây từ lúc
nào thế?". Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai
gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
° ° ° °
Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng chỉ
khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác
dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo
may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc
làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn
sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó
tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng
những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu
đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các
dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu - trâu gõ mõ, chó leo thang - anh Đang
chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng
thứ hai, quan trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục
lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc. Chính giữa gian
chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một
chiếc khoá lớn như khoá nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ
lá mà ở Hà nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái
giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường
một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối... Sát chân
giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai
sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang: "Một cái bàn
bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là một con người".
Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp, hai cái đèn dầu làm bằng lọ mực
Cửu Long, vài con dao làm bằng mẩu lưỡi liềm gẫy, và ba bốn cái bát hương, nắp
đậy là những viên gạch vỡ. Anh chỉ nắp đậy, giới thiệu với giọng trang trọng
của thuyết trình viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật: "Nó
là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và
độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, dán phải vị nể". Bây giờ tôi
mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi
dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn
nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han
rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lớp bụi tro... Lúc tôi bước vào, gian
buồng mờ mịt khói. Anh giải thích: "Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập
thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái,
nhưng khói vẫn cứ lọt sang - anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng có cái
lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng.
Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại". "Để em đạp xe ra
chợ mua cái gì về ăn". "Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp
may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ
biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng
nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quà của Hội Nhà văn
gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn
đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi". Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá
buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy
ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách...
ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiều
chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được
chai rượu cam còn già nửa: "Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để chỗ
này lại tìm sang chỗ kia". Tôi cười, nói: "Nhìn anh, em cứ tưởng là
một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cất giữ một
trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí". Tôi chỉ những chồng vỏ bao
thuốc lá, hỏi: "Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em không biết.
Trên nhà em, các bạn đến chơi, hút các loại thuốc lá ngoại hảo hạng, vỏ bao vất
lung tung, vợ em ngày nào cũng phàn nàn vì phải dọn nhặt đem đốt". Anh kêu
lên: "Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao
thuốc là ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu
của tôi đấy...". "Hàng đối lưu?", tôi ngạc nhiên hỏi. "Để
tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem
ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học". Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân
đầy khói của anh, hỏi: "Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này
à?". "Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng
là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó
trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho
cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trông coi
trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm
chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm
được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào
dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà nội biếu các chú...
Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, tiếng
lợn kêu âm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc
trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn".
° ° °
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng
đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. "Đây là bàn ăn - anh giới thiệu và vần
tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng - Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân
mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng
bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa
vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời
Minh?". Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên
gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ
vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: "Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả
nhái. Nhờ ăn thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả
chú".
Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà
anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể
xắn thành từng miếng như bánh đúc. "Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm
nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ.
Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu,
dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý
của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm". "Nhưng cóc nhái đâu
ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?", tôi hỏi. "Ấy chỗ này mới
là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi.
Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp.
Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các
cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số đổi 3
con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là
hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là
thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung 4, mỗi
nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác
đều nhạt hoét!".
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm,
trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: "Chú đi đâu mà lại lặn lội về
tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?". "Em về đây chỉ một mục đích
là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà nội, chúng em rất lo. Không
biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh,
em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh
chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau,
theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…". Tôi lấy đưa anh xem số tài
liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: "Em
suy luận ra anh là Trưởng ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn
giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà
anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin".
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa,
gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào
cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành…
Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
"Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày
hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải
được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng
lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào…
Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải
tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi
ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: "Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh
trong đó". Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp
mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong.
Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: "Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn
Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày
lễ". Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này
nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi - như muốn cân nhắc, đánh giá người
mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống
giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: "Chính phủ lâm thời
quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có
đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?". Tôi tính rất nhanh trong đầu:
tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc
trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt
qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn
tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: "Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá
rồi". Cụ Hồ nói ngay: "Có khó thì mới giao cho chú chứ!". Anh
Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được
trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn
luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
"Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng - tôi là một nhà tuyên
truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ
động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ
nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên
được những kì tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ:
"Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng
hết sức để hoàn thành trọng trách". Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ,
gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: "Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào
việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến
hành như thế nào". Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi
vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt
nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ
hỏi ngay: "Chú còn cần gì nữa?". "Thưa Cụ, để hoàn thành trọng
trách, xin Cụ trao cho con một quyền...". "Quyền gì, chú cứ nói
đi!". "Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho
buổi lễ, về người cũng như về của...". "Được, tôi trao cho chú cái
quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo
lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!".
- Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn - anh gắp thêm mấy viên
chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: ngày 2 tháng
9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào,
tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng
góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến
Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất
cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy
hết trang báo (... mất một dòng... ) ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào
các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ
chối không lấy giấy biên nhận: "Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho
nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận", họ nói vậy. Tôi mời
mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên
là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với
ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách
mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm
nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo
kính trắng, bước ra nói: "Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ 5. Tôi
xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ
đài đến ban tổ chức xem xét". Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: "Tôi được biết
tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt
Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một
công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu
chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng
thể... Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ
sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp
với anh". Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra,
tự giới thiệu: "Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh6, cùng
hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được
anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ
đài". Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính
là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí.
Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình,
vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ
đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh
Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế,
đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: "Ban
tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh (Các anh cần gì, chúng tôi) sẽ lo
chạy đầy đủ. Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ 7, cần
dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48
giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc
các anh hoàn thành nhiệm vụ".
Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi
nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ,
Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: "Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín
tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và
ngày khai sinh nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà".
° ° ° °
"Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!", tiếng
con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra,
thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng
thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu
tươi: "Ông có đổi rắn nước không ạ?". Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa,
xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: "Các cháu định đổi như thế
nào?". "Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số". "Các
chú đừng có giở thói bắt chẹt", giọng nói vá dáng bộ của anh đã chuyển
sang giọng của dịch vụ đổi chác, "Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con
cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số,
các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi". Hai chú bé ngần ngừ một lúc,
rồi nói: "Chúng cháu đổi ạ". Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai
cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé
cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn.
Một chú nói: "Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có
tờ giấy vàng". Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: "Được, ông sẽ đổi
cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải
chịu thua thiệt".
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người
buôn bán vừa vớ được món hời: "Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi
sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào chú sẽ thấy tăng lực gấp đôi, có thể đạp
xe một mạch lên đến bến phà Tân Đệ".
° ° ° °
Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một
anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh
có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa,
anh vừa nói: "Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại
tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường
hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây... Trong hồi ký, tôi sẽ đề
cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như
bản thảo "Tuyên ngôn Độc lập" Cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì
bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản "Tuyên
ngôn", nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ
chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận
mệnh đất nước này, nhưng... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí
Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo "Tuyên ngôn Độc
lập"... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, mà
lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng
là đóm thật"... Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp:
"Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?", không
đợi tôi đoán, anh nói luôn: "Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc
sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà nội... Nhưng lúc
chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không
phải ruột ra máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng
vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thày các cô, các cháu học
sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà nội. Ở đây, tại quê hương
bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây
cũng nhìn thấy...".
Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu
xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối
xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. "Đấy, dưới
chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa
người tôi... Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường
ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay..."
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị cảm... Tôi dốc hết rượu
ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy
câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:
Mặt ra giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lương
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!
PHẦN VIẾT THÊM
Nấn ná mãi, sáng 27 Tết tôi phải rời thôn Trà Vy trở về Hà Nội. Đạp xe ngược
gió trên con đường đất sống trâu dọc bờ sông Máng, tôi bỗng thấy lạnh kinh
khủng. Hai ba lần, tôi ngoái lại nhìn làn khói mỏng trên cái chái bếp, bên dưới
làn khói đó là một bậc hào kiệt của đất nước đang ngồi trầm tư vì thế sự giữa
một đống giẻ rách, dép lốp đứt quai, đinh còng queo, chai lọ bụi bám đáy, những
cái vỏ lon bia, những mẩu sắt han rỉ chẳng biết để làm gì. Hai mắt tôi tự nhiên
cay lệ. Tôi chỉ muốn quay xe lại với anh nhưng sợ anh mắng. Từ chiều hôm qua,
anh giục giã tôi suốt: "áng mai chú phải về Tết nhất đến nơi. Chú không
thể để cô ấy cúng tất mên một mình như cảnh nhà những người góa bụa cô
đơn…".
Đăm đăm nhìn anh, tôi tự hỏi: "Trên thế gian này, không biết còn ai cô đơn
hơn anh?". Tôi khẩn khoản: "Anh cùng về Hà Nội với em, ăn Tết cùng
với nhà em, nhà anh Cung có vui hơn không?". "Chú cứ về trước đi,
chậm lắm sáng mồng hai Tết, tôi sẽ có mặt ở nhà chú hoặc ở nhà chú Cung".
"Nhưng anh còn vướng víu gì ở đây mà không về cùng với em được?".
"Chuyến này lên Hà Nội tôi sẽ ở lại. Tôi muốn tìm gặp lại anh em thời
Truyền bá quốc ngữ xem ai còn ai mất, hên hệ với những anh em hiện đang sống ở
nước ngoài như Hoàng Xuân Hãn. Ông ta có công lớn lắm đấy. Ông được Hội giao
soạn thảo học chữ quốc ngữ theo lối mới, làm sao cho dễ học, dễ thuộc, dễ nhớ
và ông đã soạn thảo rất thành công. Tài tình nhất là ông đã vần vè hóa được
cách nhận diện các chữ cái:
"i t giống móc cả hai
ngắn có chấm, t dài có ngang"
hoặc:
"O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, Ơ là thêm râu"
Tôi ngạc nhiên: "Hồi còn đi giữ trâu ở làng quê em học truyền bá quốc ngữ
cũng thuộc lòng những câu vần vè đó. Nhưng em thật không ngờ tác giả của nó lại
là nhà toán học nổi danh Hoàng Xuân Hãn". "Đó chính là tấm lòng
thương nước, thương dân của người trí thức chân chính". Anh nói thêm:
"Tấm lòng của họ đối với nước, với dân trong suốt như thuỷ tinh, không gợn
một chút bợn đặc quyền đặc lợi. Lần này lên Hà Nội, tôi có một mục đích là tổ
chức một cuộc gặp gỡ những người trước đây tham gia Hội Truyền bá quốc ngữ. Chúng
tôi sẽ ôn lại hồi ức và viết hồi ký. Mà muốn làm như vậy thì phải có…
(Bài viết đến đây thì dừng vì Phùng Quán bệnh nặng không còn sức để viết tiếp)
Bài viết trên được Phùng Quán viết xong tháng 12.1992, đến tháng 1.1995, trong
lúc nằm trên giường bệnh, chưa hài lòng với những gì đã viết, Phùng Quán viết
thêm bằng bút chì trong tư thế nằm ngửa viết lên giấy đặt dưới tấm ván treo úp
xuống trước mặt ở đầu giường. Đây chính là những dòng cuối cùng của Phùng Quán.
Di cảo do bà Vũ Thị Bội Trâm, vợ nhà văn Phùng Quán cung cấp (BT)
Bản in
này căn cứ vào bản sao ảnh bản thảo 19 trang viết tay của Phùng Quán, Một vài
trang chụp thiếu một hai dòng chót. Chúng tôi phải ghi (… mất một dòng... ),
hoặc khôi phục đoạn câu bị mất đi, nhưng vẫn để trong ngoặc. (BT)
|
|
Thơ Tố
Hữu.
|
|
Bảy
mươi tuổi xưa nay hiếm, thơ Đỗ Phủ.
|
|
Phùng
Cung, nhà văn.
|
|
Họa sĩ
Lê Văn Đệ ( theo tạp chí Bách Khoa Sài Gòn 1963) sang La Mã, được phong họa
sư, được chính Giáo hoàng Pie Xl giao cho trang hoàng điện Vatican.
|
|
Kiến
trúc sư Ngô Huy Quỳnh sau này có thời là thứ trưởng Bộ Xây dựng.
|
|
Số len
này lấy được ngày 19-8-1945, khi tấn công chiếm Trại lính khố đỏ ở phố Hàng
Bài. (Chú thích của tác giả)
|
|
Năm
1993, ông Nguyễn Hữu Đang đã được Nhà nước cấp nhà ở Hà Nội và được hưởng
iương hưu. Nhưng qua bài viết này giúp cho độc giả hiểu thêm về một chi tiết
cụ thể của lịch sử Cách mạng tháng Tám và tấm lòng của nhà văn Phùng Quán.
(Chú thích của Ngô Minh)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét