VÀNG
ỬNG NGẬM NGÙI
(Sa Ác TH6)
Chương 1
Yêu thương tặng con tôi,
Thiên Hương và Thiên Sơn,
đã lặn lội vào rừng già Sa-Ác
và rừng lá Hàm-Tân thăm nuôi bố tù.
Duyên Anh
Có kẻ mê giang-hồ đến độ thèm được lột da mình bọc ngoài chiếc va-ly của một
lãng-tử nào đó, khi mình chết. Để mãi mãi ngày tháng là những chuyến đi. Nếu
ông ta tiên-tri cuộc đời sẽ còn những tuyến đường Moscou – Goulag Sibérie, Suối
Máu – Phước Long, Kà-Tum- Bù-gia-mập, Long Giao – Sơn Ca, Trảng Lớn – Hà Nam
Ninh,Gia Lai – Vĩnh Phú, Washington – Hà-nội Hilton, Nhà Mình – Sở Công An,
Đề-lao Gia Định – Chí Hòa…. di chúc của ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu ông ta biết
cuộc đời sẽ còn những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo còi, chẳng cần đợi
đến ga nhỏ, lãng-tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng-ực ngang họng
súng AK canh chừng, ông ta, chắc chắn, sẽ chán chuyện lãng-du. Ở thời đại tôi
và trên quê-hương tôi có những chuyến đi đã trùm lấp định-nghĩa vô-định và
thống-khổ mà tôi không sợ lộng-ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định-nghĩa
làm người. Rồi sẽ có hồi-ký của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài gòn
– Hà nội được chào mừng bằng những trận mưa máu đá củ đậu củ khoai. Rồi sẽ có
hồi-ký của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài gòn – Phú Quốc trên
chiếc tầu HQ 501 khởi hành từ bến Tân Cảng.
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân bó gối dưới hầm ngồi
Chuyến tàu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi theo định-mệnh nổi trôi
Ba nghìn tù-nhân một nắp nhỏ thông hơi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi thám-hiểm vực đời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân ba triệu tấn mồ-hôi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tầu đi rúng-động đất trời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân chờ từng giọt nước rơi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tầu đi cháy tiếng khô lời
Ba nghìn tù-nhân ba nghìn thú vật rã rời
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi định-nghĩa con người
Thơ không đủ định-nghĩa con người và sức chịu đựng phi thưởng của nó 2 ngày 3
đêm bó gối nhịn đói, nhịn khát dưới hầm tầu há mõm. Hãy hình tưởng một nắp
thông hơi thường xuyên những họng súng chúc xuống đe-dọa. Hãy hình tưởng
tù-nhân chen lẩn cầm ca đi hứng nước nhỏ giọt ăn bao nhiêu đấm đá của
“chiến-hữu” – vì xô đạp lên người ngồi – mới đến “nguồn hạnh phúc”, và uống một
hơi, không dám uống hết đem về. Về chỗ khốn-khổ như rời chỗ, nước đã bị
tung-tóe hết. Hãy hình tưởngg 2 ngày 3 đêm ỉa đái không tụt quần. Và, hãy hình
tưởng, khi ghé bờ, cái tầu há mõm ra, phân tiểu cũng ùa ra. Tù-nhân “đổ bộ”
theo phân; có người ngụp lặn cho sướng, ngoi đầu lên phân cả đống! Đó là sự
thật rực-rỡ dưới ánh mặt trời mà bất cứ người tù Việt Nam nào tham dự chuyến đi
trên hai chiếc tầu HQ 501 và HQ 503 đều không phủ-nhận. Có lẽ, người ta sẽ đính
chính. Rằng, nó còn thê-thảm gấp bội. Nỗi đau đớn chưa ngưng ở đó.
Hai ngày ba đêm dưới hầm tầu
Mắt còn thèm ngủ bụng đói lả
Thân xác còn như cái mền tã
Sáng sớm vác xẻng đào giếng khơi
Đất biển không chìu theo ý người
Càng sâu bao nhiêu càng lún rã
Mấy nghì tù-nhân khát khô cổ
Nhìn nhau muốn nói chẳng nên lời
Hạnh-phúc bây giờ là nước lã
Đội đá, lên núi hề đội đá
Đường đi- về ba cây số ngàn
Năm trăm tù-nhân xếp thành hàng
Đi thì hồn khói hun bốc toả
Về thì hồn cháy thiêu tàn-tạ
Chuyến đầu cố gắng vượt gian-nan
Chuyến sau gối mỏi đầu đau ran…
Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)
Những kẻ chịu đựng hình phạt của thù hận một cách can-đảm và kiên- nhẫn,
khinh-thường hình-phạt của thù-hận, bước qua nó mà đi mà tồn-tại để tặng
nhân-loại một định-nghĩa làm người, nhân-loại đã không thấy hình ảnh tuyệt-vời
của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ, nói về họ. May mắn, nhân-loại
không đọc nổi chữ Việt Nam, thành ra, họ chưa nhăn mặt biết tù-nhân chính-trị của
chúng ta “ăn giun, ăn cắp cháy, ăn vụng thịt, ăn tranh cơm với heo”! Hơn mười
năm nghẹn-ngào của dân-tộc, của tù-nhân lao-cải, nhân-loại đã được mở mắt những
điều gì? Một cái xó xỉnh đề lao Gia Định khu Cl của Đoàn văn Toại chưa biết ghẻ
tù thêu dệt ngu-xuẩn, bịa đặt gian-dối đã rằng “Goulag Vietnamien” ư?
Muốn viết quần-đảo tù-ngục cộng-sản ở Việt Nam sau 1975, phải viết những trại
tập-trung lao-động khổ-sai tại Sông Bé. Những đảo Bù Nho, Bù-gia-mập, Phú Văn,
Phước Long, Hớn Quản, Đồng Xoài đã tạo thành một quần đảo biểu tượng. Có trại
lao-cải của đàn bà tư-sản, vượt biên, phản-động. Có trại lao-cải của vũ-nữ, gái
điếm. Có trại lao-cải của thanh-niên xì-ke, ma-túy. Có trại lao-cải của con
nít. Có trại lao-cải của phế-binh. Có trại lao-cải của sĩ-quan chế-độ cũ. Có
trại lao-cải của trộm cướp… Chỉ cần một cuốn sách viết chính xác về Quần-đảo
Sông Bé, thế-giới sẽ thẩm-định giá trị phát triển của nền tù ngục cộng-sản Việt
Nam. Nhưng chúng ta rất thờ-ơ trong sứ-mạng gây xúc-động và phẫn-nộ cho
thế-giới. Chúng ta có nhiều tù-nhân khắp miền đất nước đang hiện diện ở Mỹ, ở
Pháp, ở Úc. Chúng ta, thay vì có nhiều người viết hồi-ký tù ngục, càng nhiều
càng tốt – để các nhà văn lớn cô- đọng, tổng-hợp, nhuận-sắc văn-chương thành một
Goulag Vietnamien vĩ-đại, đúng nghĩa, làm bàng hoàng thế-giới – thì
chúng ta lại chỉ có vài cuốn. Thành thử, Goulag Vietnamien mới là cái đống rác
Đoàn văn Toại, nơi đó, tù-nhân đầy đủ tự-do lập kiến-nghị và ký tên vào
kiến-nghị! Thành thử, đại-diện của tù-nhân cải-tạo tư-tưởng ở Việt Nam, nhân
danh tù-nhân đi họp-hành, kiện-cáo, tranh-đấu cho tù-nhân, toàn các vị ở Tây 30
năm, các vị di-tản sang Mỹ trước 30-4-1975. Bọn cai-thầu nỗi khổ này chịu khó
vác bị gậy đi ăn mày sự hứa hẹn của thiên hạ. Chúng nó đã trúng mối, cả danh
lẫn lợi. Và tù-nhân của chúng ta vẫn vô-vọng ngày về. Thể thì tiếng nói
đích-thực của thống-khổ đâu? Tiếng nói không ai dám ngờ-vực của các ngục-sĩ
đâu? Họ đã bị chụp mũ “ăng ten” cả rồi. Bị chụp mũ từ chân ướt chân ráo đặt lên
đất quê người. Họ chán nản, im lặng. Để mặc cai thầu độc-quyền đấu thầu nỗi
khổ. Như bọn thống trị luồn cúi đã loại bỏ những người yêu nước chân-tình để
độc-quyền làm đầy-tớ cho ngoại-bang, ở đất nước chúng ta. Cho nên tôi nghĩ:
những chuyến đi của tù-nhân Việt Nam trên quê-hương mình, những chuyến đi
định-nghĩa con người: định-nghĩa làm người như chuyến đi Sài gòn – Phú Quốc,
ngay cả trong chúng ta, vẫn còn mơ hồ, xa lạ.
Chuyến đi của tôi tầm thường. Năm mươi tù-nhân công-kênh hành-lý nhồi nhét trên
chiếc xe vận-tải chuyên chở heo, bò. Không ai dám ngồi. Tất cả đứng. Bạn tù của
tôi báo cáo lộ trình. Xe đã qua cầu xa-lộ. Qua ngã tư Thủ Đức – Trường Võ Bị.
Nhiều anh em hồi -hộp chờ qua cầu sông Đồng Nai. Không, nó rẽ lối đi Vũng Tầu.
Qua Long Thành, nó chạy thẳng. Một anh mau miệng:
Chúng tôi bắt đầu khó chịu vì con đường này đã bị lồi-lõm nhiều, không kịp tu
sửa. Sau ngày 30-4-1975, đường-xá kể như không tu sửa. Nhà nước xã-hội
chủ-nghĩa đẻ ra chính-sách “dưỡng đường”nhưng ngay ở thành-phố Hồ Chí Minh “rực
rỡ tên Người”, chính sách “dưỡng đường” đã trở thành “chuyện tiếu lâm Việt-
cộng”. Người ta múc nhựa đun sôi đổ đầy ổ gà rồi rắc cát lên. Xe hơi chạy qua,
lôi luôn cả tảng nhựa’! Có nhiều con đường được “dưỡng” bằng cát xịt nước. Nắng
Sài gòn đã làm cát bay tung mù phố-phường. Đường thành-phố đã “tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên xã-hội chủ-nghĩa”, quốc-lộ và tỉnh-lộ còn tiến vọt
theo “ba luồng sóng cách-mạng” bạo hơn.
Xe tới thị-xã Bà Rịa thì rẽ vô con đường đất. Tốc-độ giảm xuống.
Nó ì ạch nuốt những bậc thang. Chúng tôi dồn lên, xô xuống liên tục. Nằm chuồng
gà lâu ngày, chúng tôi đâm ra yếu ớt. Lục phủ ngũ tạng đảo lộn với đường-xá gập-ghềnh.
Nhiều anh em ói mửa. Bụi đỏ luồn qua những khe bạt hở khiến chúng tôi ngộp thở.
Cộng thêm mùi ói mửa chua lòm. Chúng tôi choáng-váng mặt mày. Chẳng ai bảo ai,
cả làng ngồi hết. Ngồi lên cả hành-lý. Ngồi lên cả những bãi nôn mửa mà chịu đựng
xe nhồi. Khi sức nóng hấp chúng tôi, bắt mồ-hôi chúng tôi tuôn chảy ướt nhèm quần
áo, xe qua Bầu Lâm, Bà Tô. Hai địa danh này, ít nhất, có bốn trại lao-cải dành
cho các ông trong ủy-ban xã, ấp, khóm, phường của chế-độ cũ, dành cho những người
vượt biên thiếu may-mắn, dành cho tù-nhân hình-sự chế-độ cũ và “đệ-tử tiên nâu
tiên trắng”. Ngọc Thứ Lang, tên cúng cơm Nguyễn Ngọc Tú, hỗn-danh Tú Lệch, dịch
giả Bố Già tài tình, đã chết nơi đây vì can tội “chống chủ-nghĩa mác-xít bằng
chủ-nghĩa choác-hít”.
Đúng trưa, xe chở sức-vật tới đích. Nó ngừng ở sân phía ngoài trại. Tấm vải bố
che kín phía sau được lột lên và cửa sắt mở tung. Chúng tôi đứng dậy chờ
lệnh.
- Rõ.
Ba lô may ở Chí Hòa máng hai vai, tay xách giỏ thực-phẩm, chúng tôi chuẩn bị
một “saut tù”, chắc chắn, lâm ly hơn “saut đêm” của thi sĩ Hà Huyền Chi.
- Trần Duy Cát.
Đằng Giao len ra và nhẩy…dù! Người lính nhẩy dù bất-đắc-dĩ ngã chúi . Vệ-binh
ôm súng cười khoái-chí. Gã công-an dục:
- Ngồi dậy khẩn-trương! Ra xếp hàng chỗ kia!
Đằng Giao đứng dậy thật nhanh, sửa lại hành-lý và bước đến chỗ ngồi
chỉ-định.
Tác-giả Ba người lính nhẩy dù lâm nạn… lâm nạn thật sự. Đằng
Vân Hầu 1 không
thề đằng vân giá vũ. Cái tước hầu của anh đã bị xóa bỏ. Anh ta ném hai cái bị
xuống trước rồi “bông nhông” sau. Như vậy, anh ta chỉ bị…khuỵu.
Tôi nhẩy… kiểu thế vận hội lao-cải! Kiểu này khác Tango, Rumba, Valse. Càng
khác Twist, Disco. Có lẽ nó là kiểu à gâu gâu. Nhưng mà vẫn ngã bổ
nhoài. Tôi ngậm-ngùi đứng dậy và lặng-lẽ bước đến ngồi cạnh Đằng Giao.
Huyết-thống tổ-tiên tôi không có “anh-hùng-tính” và tôi đã không có tinh-thần
“uy-vũ bất-năng- khuất”. Phải chi tôi di-tản qua Mỹ trước 30-4-1 975 hay chẳng
hề bị tù-đầy, tôi sẽ viết báo chửi tôi khiếp-nhược đầu-hàng cộng-sản”. Phải hét
lớn: “Bố quốc-gia đây, bố đếch nhẩy, các con cộng-sản làm gì bố thì làm”, rồi
có bị bọn chăn trâu cắt cỏ, bị đục sưng phổi, dập lá lách, tôi sẽ phong tôi làm
anh-hùng tù ngục. Tuy nhiên, sẽ không anh nào gửi về an-ủi tôi một lọ dầu
cù-là… Mỹ! Vậy thì tôi hèn và tôi khước-từ làm anh-hùng đào-ngũ ngồi viết sử
đấu-tranh.
- Hãy còn xanh, nó sẽ chín vàng, chín vàng ửng, vàng như ước mơ.
Cái động đầu tiên của trại tập-trung đấy. Nó là tiếng ngã
huỳnh-huỵch. Chúng tôi đã biến thành chìa khóa mở một kho cười no-nê cho đám
công-an coi tù. Trẻ nhẩy. Già nhẩy. Màn nhẩy dù kéo dài cả tiếng đồng-hồ. Chúng
tôi ngồi giữa nắng chang-chang, đầu trần. Nô-lệ thời Trung-cổ còn sướng hơn
chúng tôi. Công-an thì tà-tà. Công việc tiếp-nhận tù có chi gấp-gáp. Nắng làm
chúng tôi hoa mắt và khát khô họng. Chúng tôi há hốc miệng, chứ chưa thè lưỡi
thôi. Lệnh bắt chúng tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bỗng tương-tư Chí Hòa. Châm ngôn
của tù-nhân cộng-sản là “Nơi sắp đến khốn nạn hơn nơi đã đến. Ngày mai thê thảm
hơn hôm nay”. Biết thế mà vẫn thèm thay chỗ, đổi không khí và rồi chán
ngán.
- Ông thầy!
- Gì?
- Mình bỏ xác tại đây mất.
- Bậy nào.
- Mình tù lâu quá rồi.
- Một vụ nghỉ hè trong đời sống. Vài tháng nữa, mình về. Hè của học trò ba
tháng. Hè của tù-nhân ba năm.
- Ông lại tin nó.
- Tôi tin tôi. Vẽ ra niềm tin mà sống chứ.
Công-an đã kê bàn trước mặt chúng tôi. Họ bắt chúng tôi kê-khai lý-lịch. Từng
người lên bàn. Đứng nghiêm và đứng cách xa cán-bộ ba thước. Luôn luôn, cộng-sản
cảnh-giác cao độ. Lớn cảnh-giác lớn. Bé cảnh-giác bé. Cảnh-giác mọi lãnh-vực.
Cảnh-giác làm việc và cảnh-giác rong chơi. Bài học cảnh-giác được thi-hành
triệt-để. Từ trên xuống dưới. Học tập dài dài. Thời chiến và thời bình.
Cảnh-giác địch và cảnh-giác ta.
- Tôi là Trưởng khu, anh phải dạ vâng.
- Dạ.
- Anh can tội gì?
- Nhà văn chế-độ cũ.
- Sai. Anh viết lại đi.
- Thưa ông Trưởng khu, viết thế nào ạ?
- Vũ MộngLong can tội Duyên Anh!
Hai Phận vĩ-đại đã tặng cả phòng một trận cười khi hắn khuất dạng. Tôi cũng
cười ra nước mắt. Về sau, suy nghĩ kỹ tôi mới thấy Hai Phận vĩ-đại hơn Hồ Chí
Minh. Vũ Mộng Long có tội gì đâu. Duyên Anh gây ra đủ thứ tội. Thế nên, tôi đã
yêu Vũ Mộng Long mà ghét Duyên Anh thậm tệ. Ở đây, ở cái trại tập-trung khổ-sai
lao-động tôi chưa biết tên này. Người ta chấp nhận Vũ Mộng Long, bút hiệu Duyên
Anh, can tội nhà văn phản-động, dẫu hồ-sơ Trung-ương ghi rõ tôi can tội “Đảng
viên Duy Dân trốn trình-diện học-tập, trong tổ-chức chống phá cách-mạng
hiện-hành”.
° ° °
Trại tập-trung khổ-sai lao-động này có Hòm-thư mang bí số TH6
Xuyên Mộc, Đồng Nai. Nghĩa là trại TH6 thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Đồng Nai.
Riêng huyện Xuyên Mộc đã vượt chỉ tiêu 6 trại lao-cải. Cả tỉnh Đồng Nai nhân
lên bao nhiêu lần?
TH6, khi tôi tới, chưa nhốt tù-nhân sĩ-quan Quân-lực Việt Nam Cộng-hòa. Mà chỉ
toàn sĩ-quan cảnh-sát đặc biệt, cảnh-sát tư-pháp, sĩ-quan, hạ sĩ-quan Phủ
đặc-ủy Trung-ương tình-báo, vài ông thẩm-phán và tù-nhân hình-sự đa-số mang
tiền-án du-thủ du-thực dưới chế-độ cũ. Khoảng mười dẫy nhà mái tôn, nền đất,
tường ghép bằng cây dài, to cỡ cánh tay, chôn sâu chẳng mấy hứa hẹn an-ninh cho
những tay thích trốn trại. Mỗi dẫy nhà chứa trên dưới 150 tù-nhân gồm 3 đội.
Nhà “kiến trúc” hai tầng, do tù-nhân xây cất.
Tầng dưới phải khom lưng, đứng thẳng người sẽ đụng đầu. “Sàn gác” cũng ghép
bằng cây nhỏ còn nguyên vỏ, nằm ê ẩm mình mẩy. Một cái cầu tiêu ba chỗ ngồi
đại-tiện phía sau và ở ngay trong nhà. Cầu tiêu “kiến trúc” rất ly-kỳ xứng đáng
đoạt giải Roma, nếu dự thi như kiến-trúc-sư Ngô Viết Thụ. Ngó xuống lỗ cầu sẽ
thấy cái máng gỗ chứa phân. Không nên để nước tiểu và nước rửa đít chảy vào
máng chứa phân. Như thế, nước tiểu sẽ ngấm qua phân, rỉ xuống đất qua kẽ hở của
máng chứa phân và tạo thành mùi thối… trường-kỳ. Trường-kỳ kháng-chiến
nhất-định thắng-lợi nhưng trường-kỳ thối sẽ hủy diệt khứu-giác. Do đó,
“kiến-trúc-sư” tù của Đội xây cất mới dùng tôn mỏng sáng-chế một kiểu ống máng
rất hiện-thực xã-hội chủ-nghĩa. Ống máng nầy nghiên-cứu kỹ-lưỡng trước khi
thiết-kế. Nó vừa đúng tầm phóng ngắn của “vòi nước”. Nhỡ phóng mạnh: văng ra
ngoài không sao, đừng ào ào xuống máng chứa phân là hợp tiêu chuẩn cải tạo. Ống
máng chạy về phía sau lưng tù-nhân ngồi đại tiện thì rộng ra để tù-nhân thiếu
giấy chùi, có thể, đem bình nước, ca nước lết lùi vài bước mà rửa hậu-môn. Nước
rửa và nước tiểu trôi qua cái ống mà tuôn vào cái hồ chứa có nắp đậy, bên ngoài
bức tường cây ghép. Nước tiểu sẽ dùng để tưới rau xanh. Đội rau xanh sẽ lo múc
gánh đi, mỗi sáng. Và, mỗi sáng. khi các đội đi lao-động hết, trừ những ai khai
ốm nằm nhà, tù-nhân thuộc Tổ vệ-sinh kéo các thùng phân đã đầy có ngọn ra, xếp
lên xe cải-tiến. Xe cải-tiến là thứ xe ba-gác, lốp đặc. Miền Nam đã chê bỏ từ
lâu. Nhưng, ở miền Bắc, xe cải-tiến là cuộc cách-mạng vĩ-đại nhằm giải-phóng
đôi vai phụ-nữ nông- thôn. Phụ-nữ nông-thôn miền Bắc gánh gồng vất-vả. Đảng
sáng-tạo xe cải-tiến. Thay vì gánh, phụ-nữ kéo xe cải-tiến oằn vai như bò, như
ngựa vậy. Để hợp nếp- sống văn-hóa mới, tù-nhân đậy lá chuối kín các máng chứa
phân. Rồi anh ta xối nước rửa máng tiểu, rửa phân dính quanh lỗ cầu, rửa sàn
cầu. Anh ta lại kê máng chứa phân mới đã lót sẵn mạt-cưa. Trại có xưởng cưa,
tha hồ nhiều mạt. Công việc xong xuôi, anh ta kéo xe phân tới kho phân của đội
rau xanh mà đổ. Rồi kiếm suối rửa xe, rửa máng. Rồi chọn khúc suối trên nước
chảy róc-rách mà tắm gội, xát xà-phòng thơm vài lần. Rồi kéo xe về trại. Rồi
nghỉ ngơi. Rồi lo ca cóng cải- thiện bữa ăn. Một ngày lao-động có một giờ, nhàn
quá.
Tù-nhân đặc-trách vệ-sinh nhà-cầu nhiều đặc-quyền, đặc-lợi. Có quyền đi
vung-vít trong, ngoài trại. Có quyền nhận riêng thực-phẩm của nhà bếp để nấu
nướng riêng. Có quyền nấu nướng hai bữa. Có thể xin rau của Đội rau xanh và câu
cá, mò cua, xúc tép . Có thể nuôi gà nữa. Chỉ thiệt thòi một tí là mũi sẽ điếc,
sẽ hết đánh hơi thấy “thoảng hương thơm một da thịt đàn bà!.
Tôi đã gặp
Chị em công-nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xăn quá gối
Run lây-bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Hà-nội từ 1973 đã được mệnh-danh là “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Và, mặc
dù, chủ-tịch Hồ Chí Minh ba-hoa “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây-dựng bằng mười năm
xưa”, bi-cảnh đổ thùng còn tiếp diễn và muôn đời tiếp nối. Sự nghiệp đổ thùng
của nhân-dân sống mãi trong chủ-nghĩa cộng-sản Việt Nam như “Bác Hồ vĩ-đại sống
mãi trong sự-nghiệp” đổ thùng của nhân-dân vậy.
Tôi không hiểu tại sao hai vị thẩm-phán của Toà Thượng-thẩm Sàigòn 3 lại
dám làm công-việc mà, đói rã họng “Ta thuê một vạn một thùng, Có người không
dám vác”? Nghe một vị thẩm-phán có vợ bác-sĩ y-khoa thuyết-trình công-tác
lao-động đổ thùng, Đằng Giao khoái quá, hỏi tôi:
- Cảm hứng nào thế?
- Mình ngu, ở lại để đi tù là đáng ăn một thùng cứt.Mình không dám ăn thì đi đổ
vậy.
- Rất đúng.
Vị thẩm-phán nói tình-nguyện đổ thùng sẽ bị nghi ngờ. Phải phấn-đấu cam-go vô
cùng. Nhờ đó, tôi tìm được câu trả-lời tại sao hai vị thẩm-phán anh-dũng đổ
thùng. Ông Trưởng Công Cừu thuyết trình về “triết học” Tam- túc cộng với
Tam-giác cộng với Tam-nhân thành Nhân-vị ở một khoá học-tập Ấp Chiến Lược năm
1962 đã phán một câu chí-lý: “Người trí -thức muốn làm đẹp xã -hội, cần phải
xông vào những nơi nhơ bẩn nhất để làm cho nó sạch-sẽ, thơm tho”. Đã chẳng một
trí-thức nào xông vào những nơi nhơ-bẩn mà chỉ thấy trí-thức xông vào những nơi
ăn-bẩn! Trí-thức, nhất là trí-thức khoa-bảng, vốn sợ khó, sợ khổ. Hôm nay bị
cộng-sản nó cưỡng-bức lao-động, vẫn cố cách xoay sở chỗ nhàn-hạ, dẫu có bị ngửi
phân tiểu đến điếc mũi hết ngửi nổi mùi da thịt của vợ mình.
- Anh ạ, vợ tôi sợ tôi chết khứu giác, đã mua cái mặt nạ chống hơi ngạt gửi cho
tôi.
- Ông có đeo mặt nạ đổ thùng không?
- Có!
- Rồi sao?
- Cán-bộ tịch thu.
- Vô lý!
- Vâng, thật vô lý. Cán-bộ bảo tôi thiếu thiện-chí…đổ thùng, chưa tiến-bộ còn
nặng đầu óc tiểu-tư-sản trí-thức.
Thôi, tôi quên cái cầu tiêu và sự tiến-bộ đổ thùng của hai vị thẩm phán mà
những ai đã ở TH6A trước và sau tôi đều thuộc tên nhớ mặt.
Tôi tả tiếp sinh-hoạt của “cái nhà”. Ở trại tập-trung, người ta không gọi
“phòng” mà gọi “nhà”. Tù-nhân chịu trách-nhiệm vệ-sinh, trật-tự toàn nhà gọi là
Nhà-trưởng! Nhà-trưởng bắt buộc phải làm Đội-trưởng. Vì nhà có hai tầng nên
thường xuyên xẩy ra cãi-cọ. Thí-dụ trên gác vô ý đánh đổ nước uống, nước mắm,
lau nước điếu xuống dưới. Thí dụ quét bụi, giũ bụi không báo trước.Vân
vân.
2. Đội xây cất: Phụ-trách xây dựng nhà cửa cho tù-nhân và các
công-trình xây cất của trại.
3. Đội lâm-sản: Phụ-trách công-tác chặt cây, chặt tre, cung-cấp cho
đội xây dựng và chặt củi cho đội cấp dưỡng.
4. Đội vận-chuyển: Phụ-trách kéo, đẩy xe cải-tiến chuyên-chở
thực-phẩm, hàng-hóa.
5. Đội rau xanh: Phụ trách trồng rau cung-cấp cho nhà bếp.
6. Đội nông-nghiệp: Phụ-trách trồng khoai, sắn, bắp, lúa…
7. Đội chăn nuôi: Phụ-trách nuôi heo, nuôi bò.
8. Đội văn-nghệ: Phụ trách ca múa, đàn sáo…
9. Đội linh-tinh: Đội này gồm nhiều tổ như Tổ y-tế, Tổ vệ-sinh, Tổ
thiết-kế, Tổ trật-tự, Tổ thông-tin văn-hóa, Tổ thăm nuôi…
Nếu trại chứa 1000 tù-nhân, ít nhất, có 4 Đội rau xanh, 3 Đội lâm sản. Đội nông
nghiệp thì trại nào cũng đông cả. Một đội không quá 50 người. Đội trưởng, Đội
phó, Thư-ký do Ban giám-thị chỉ-định. Tổ trưởng do cán-bộ quản-giáo chỉ-định.
Đội trưởng được miễn lao-động 100 phần 100. Đội phó được miễn 50 phần 100.
Thư-ký lao-động huỳnh-huỵch. Quản-giáo là ông thầy của lớp học lao-cải. Ông
thầy săn sóc cả phần tư-tưởng lẫn phần lao-động. Khi dẫn đội ra hiện-trường
lao-động, ông thầy quản-giáo đeo súng ngắn. Hai vệ-binh đeo súng AK. Đội trưởng
là một chức vụ não-nề nhất của thân-phận tù. Chỉ những thẳng ngu-si, đần-độn
mới ham làm Đội trưởng và chức-sắc trong tù. Miễn lao-động nhưng Đội trưởng
phải đôn-đốc tù-nhân của đội lao-động tích-cực. Nội cái khoản đôn-đốc lao-động
đã bị chửi xéo, chửi thầm mục mả rồi. Chưa kể, Đội trưởng “phải thay mặt cán-bộ
kiểm-soát tư-tưởng của đội khi không ở hiện-trường lao-động, phải báo cáo
cán-bộ mọi diễn-biến tư-tưởng của đội”. Cái khoản này hãi-hùng cao độ, dễ đưa
nhau vào thù hận. Hai khoản cộng lại, dồn Đội trưởng vào thế trên đe dưới búa.
Ù-lỳ thì bị quản-giáo “giáo-dục” tơi-bời, bị làm tự kiểm, bị gọi lên Ban
giám-thị. Tích cực thì bị anh em thù ghét, nguyền-rủa. Đó là thân-phận Đội
trưởng. Đổ thùng yên ổn nhất, không ai thích hít phân nên chẳng ai thèm chú ý
thằng đổ thùng. Khổ nỗi, ở tù là phi-ní tự-do, không có quyền
chọn lựa công-tác lao-động. Muốn đổ phân lại bị làm…văn-nghệ! Không muốn làm
Đội trưởng mà Ban giám-thị chỉ-định làm Đội trưởng, Nhà trưởng vẫn cứ đau khổ
“hồ-hởi phấn-khởi”. Từ-chối đồng nghĩa với chống đối cách-mạng. Quan-điểm
chính-trị bị nâng cao vút. Anh khinh-nhờn sự chiếu-cố của cách-mạng là anh
không thích tiến-bộ, là anh nuôi dưỡng tư-tưởng phản-động, là anh cầm chắc sự
khốn-nạn suốt quá-trình lao-cải.
Người cộng-sản dùng câu Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động làm khuôn vàng thước ngọc đề đo tâm-hồn con người. Khuôn vàng này là bảo-sinh-viện của gian dối. Con người cộng-sản và con người trong chế-độ cộng-sản suốt đời đóng kịch giả vờ. Buồn phải giả vờ vui. Đói phải giả vờ no. Đau khổ phải giả vờ hạnh-phúc. Chổng-đối phải giả vờ ủng-hộ. Đả-đảo phải giả vờ hoan-hô. Ghét phải nói yêu. Tí-hon phải nói vĩ-đại. Thua phải nói thắng. Vân vân. Chân-lý là xa-xỉ-phẩm dưới vòm trời cộng-sản. Thi-sĩ Phùng Quán đã khao-khát sự chân-thật. Ông tuyên-chiến với chủ-nghĩa cộng-sản chỉ vì “Tôi muốn làm nhà văn chân-thật, chân-thật trọn đời”. Những kẻ chân-thật trọn đời không có đất sống dưới ánh mặt trời Đảng. Họ sẽ bị hủy-diệt hoặc sẽ bị tẩy não để đồng-hóa với gian dối.
Ở trại cải-tạo, giáo điều Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động được các
bậc thẩy quản-giáo ranh con suy-diễn thêm: “Hành-động tốt thì tư-tưởng tốt.
Tư-tưởng tốt do lao-động tích-cực. Lao-động chính là thước đo giá-trị con
người. Nhưng muốn tư-tưởng tốt, cần triệt-để thi-hành đúng Nội- quy, Tiêu-chuẩn
cải-tạo và Nếp sống văn-hóa mới”. Những tù-nhân khôn ngoan nhất, thông-minh
nhất là những tù-nhân quán-triệt cái võ-đạo của nhà Mộ Dung. Mày muốn tư-tưởng
thể-hiện hành-động thì ông thể-hiện hành-động. Ông giả vờ khiếp-nhược, ông nín
thở qua cầu. Tâm-sự của ông, ông dấu kỹ đáy tim, mày sao biết nổi. Những
tù-nhân thích chân-thật, thích khoe móng vuốt thích thể-hiện sự chống đối, đều
bị rơi vào bẫy…cải-tạo. Hiển nhiên, họ bị chặt hết nanh vuốt, bị đầy đoạ tới
mức bị cô- lập. Cuối cùng, họ trở thành những người khiếp-nhược hơn cả những kẻ
đã bị họ miệt thị khiếp-nhược.
Cộng-sản độc-quyền anh-hùng. Phải nhớ kỹ điều đó ! Họ tự nhận họ ưu-việt, ”cái nôi của loài người đỉnh cao của trí tuệ”. Sự ngạo-mạn phát-xít đó không cho phép những kẻ chống đối họ làm anh-hùng trong thế-giới của họ. Cộng-sản lại không ngu-si đần-độn như đa số những người chống họ tưởng-tượng. Họ rất giỏi sự quản-lý con người và kiêu-ngạo.
Cho những anh trung-sĩ giáo-dục đại-tá, nhà
văn, nghệ-sĩ, thẩm-phán, bộ trưởng, bác-sĩ của chúng ta, họ quả là kiêu-ngạo
xấc-xược, thứ kiêu-ngạo đầy mặc-cảm. Vị đại-tá Quân-lực Việt Nam Cộng-hoà có
nên anh-dũng chống đối thằng trung-sĩ chăn trâu cắt cỏ về tư tưởng không nhỉ?
Thế thì giả vờ và gian dối là triết-lý sống tuyệt hảo ở trại lao-cải cộng-sản.
Tiếc thay, người ta đã không đủ kiến-thức cộng-sản, không có kinh-nghiệm
cộng-sản để đương đầu cộng-sản trong nghịch-cảnh. Nhưng trách chi? Hai mươi năm
chống cộng-sản, chúng ta có nghiên-cứu chủ-nghĩa cộng-sản đâu? Chúng ta chỉ hô
to một khẩu-hiệu “Đả đảo cộng-sản”!
--------------------------------
Một bút hiệu ký ở mục Bẩy Ngày Đêm Tính Quẩn Chuyện Đời trên
tuần-báo VNTP của Nguyễn Mạnh Côn.
|
|
Và các thành phố, các thị-xã miền Bắc luôn.
|
|
Xin miễn nêu tên.
|
CHƯƠNG 2
Chúng tôi
sống chung nhà với các đội cảnh-sát đặc-biệt và trung-ương tình-báo. Chiều qua,
Đằng Giao và tôi đã chứng-kiến sinh-hoạt ca-cóng ở bếp ngoài trời sát
hàng rào kẽm gai. Thấy anh em xào nấu thức ăn, chiên lạp-xưởng thật hấp-dẫn.
Chúng tôi ra đi, kể như giỏ thực-phẩm đã xác-xơ, đành đứng xem mà học-tập
kinh-nghiệm ca-cóng. Ở TH6, lửa chỉ được phép nổi buổi chiều khi các đội tan
lao 1 về trại. Tù-nhân, mỗi người một bếp,
nhóm lửa vội-vàng, nấu-nướng thật lẹ để kịp đem vào nhà. Rồi rửa mặt rửa tay chờ
điểm danh. Một tiếng đồng-hồ cho các dịch-vụ lấy cơm, chia cơm, ca-cóng.
Những tù-nhân không ca-cóng thì ăn cơm ngoài sân, ca-cóng thì đem vô, đợi cửa
tù khóa sau lúc điểm danh mới thong-thả ăn uống. Chủ nhật được nghỉ, tù-nhân
sinh-hoạt ca-cóng hai lần. Tha hồ nấu chè, nướng bánh và tụ tập enioy, đàn sáo,
nhạc vàng…
Ca là cái ca, ai cũng biết. Ca nhôm, ca sắt, ca nhựa vẫn là ca. Cóng người
miền Nam gọi là lon. Kỳ thủy, hộp sữa bò đặc uống hết mở nắp vất đi, người miền
Bắc gọi là cái ống bơ. Có nơi gọi là ống bơ. Ống bơ dùng để đong gạo. Riết rồi,
bất cứ một hộp sắt, hộp thiếc nào to nhỏ, đều được gọi là ống bơ. Ống bơ rỉ thì
chán lắm. Hát như ống bơ rỉ! Cái lon sữa bột Guigoz cũng là…ống bơ, là cóng bơ.
Dưới chế-độ cộng-sản, vì toàn dân đói nên thiếu hơi, nhiều danh-từ được giản-lược
half and half. Cóng bơ còn một tiếng cóng. Bơ ở thiên đường mù-mịt, bỏ bơ
đi là đúng. Bỏ bơ là loại bỏ tư-bản, là chống đế-quốc, là vô-sản khoai sắn “cho
ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”… Cái cóng đa-dụng và đa-năng ở trại
lao-cải là cóng Guigoz.
Hãng chế-tạo sữa bột Guigoz đã đi vào lịch-sử đấu-tranh của hai miền
Nam-Bắc. Trên thế-giới, có lẽ, chỉ có nước Việt Nam bốn nghìn năm văn-hiến giầu
và nghèo bình-đẳng… lon Guigoz. Nhà nào cũng có lon Guigoz. Vì lon Guigoz bán
ngoài thị-trường vỉa hè. Đựng đường, đựng mỡ, đựng bột thật an toàn. Đựng
cà-phê thì khỏi lo bay mất hương thơm. Thuở ta học đòi Mỹ, công-chức làm việc
thông-tằm, lon Guigoz biến thành thứ gà-mèn lý-tưởng, đủ bữa cơm trưa ăn ngay tại
cơ- quan. Sau 30-4-1975, lon Guigoz đắt giá. Một cái trị-giá hai lá cờ đỏ sao
vàng tặng thêm chân-dung Bác, Mác và Lê. Lần đầu tiên trong lịch-sử cộng-sản,
lon Guigoz hạ chủ-nghĩa và lãnh-tụ. Vì chủ-nghĩa và lãnh-tụ bắt quá nhiều tù.
Và tù-nhân cần lon Guigoz làm cóng. Ca cóng, tôi không hiểu chính-xác xuất-xứ
của nó. Người nói: Anh em cải-tạo miền Bắc đem về Nam. Kẻ bảo: Việt cộng nó gọi
vậy mình hài hước gọi theo, riết đâm quen. Điều buồn cười là, khi nổi lửa nấu bếp:
đa-số tù-nhân nấu bằng nồi. Vậy thì ca-cóng là một bí số- như TH6- là bí danh của
Nấu Nướng, như Lý Thụy, Anh Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành,
là bí danh của Nguyễn Sanh Cuông.
Tù-nhân kiếm giây kẽm làm cái quai cho cóng. Tùy theo sự khéo tay của mỗi
người. Dở nhất là đục lỗ luồn giây rồi bẻ quặp lại. Ra hiện-trường lao-động, mỗi
tù-nhân xách một cái cóng đựng nước đun sôi. Ở TH6, cóng không được phép nấu
ngoài bãi. Tù-nhân nấu bằng cóng thường là tù-nhân ăn một mình. Ăn chung thì
vui nhưng nếu trong đám bạn ăn chung có người trốn trại, sẽ gặp cơ-man rắc rối,
sẽ tự kiểm, tự khai mệt phờ. Cóng nấu nướng, nắp phải đục vài cái lỗ bốc hơi.
Buổi chiều, anh em vất-vả kiếm củi, nổi lửa, ta chỉ việc đổ lưng cóng nước, bỏ
vô dúm tôm khô, chút bột ngọt, tí nước mắm và thả vài lá mồng tơi, nếu ta kiếm
được, rồi đậy chặt nắp, ta dùng sợi giây kẽm dài móc cái quai lon, nấu nhờ ngọn
lửa tạt ra của thiên hạ. Đợi nó sôi tan nhừ tôm, ta mở nắp cóng, thẩy nắm mì vụn
vào. Thế lả ta có cóng mì cải-thiện bữa ăn.
Sinh-hoạt ca cóng thật sinh-động ở những chiều tù. Tôi sẽ quan-sát kỹ-lưỡng
hơn. Để sáng-tạo một phương-pháp nấu-nướng thích-ứng với thời-gian hạn-hẹp của
trại. Sáng nay, chúng tôi được dẫn đi tắm. Rồi về nhận quần áo tù, viết lý-lịch.
Lại lý-lịch! Mỗi tù-nhân viết một lý-lịch mới. Lý-lịch này đầy đủ chi tiết. Buổi
chiều, chúng tôi lên hội-trường học-tập Nội-quy trại, Bốn tiêu-chuẩn cải-tạo
và hai mươi nếp sống văn-hoá mới. Nhờ học-tập, tôi biết TH6 có hai khu.
Khu A là nơi tôi đang ở 2. Khu B chả rõ nơi nào. Nội-quy trại có nhiều
điều khác hẳn Nội-quy nhà tù. Một điều đáng suy-nghĩ:”Cán-bộ không được phép
đánh đập trại viên và cấm-chỉ trại viên nịnh hót, mua chuộc cán-bộ”. Người lên
lớp chúng tôi là Trưởng trại A (Phó giám-thị TH6) Nguyễn Xuân Bến. Chúng tôi học-tập
hai ngày liên tiếp. Học xong, chúng tôi sẽ được biên-chế đội và sẽ cuốc xẻng,
dao búa lao-động trả nợ… đời ngụy! Nhưng, buổi chiều ngày thứ tư của trại-viên
mới, xẩy ra một vụ trốn trại ngoạn-mục. Bốn sĩ-quan cảnh-sát đặc-biệt đã biến dạng
khi đội điểm danh về suối tắm. Súng nổ báo động. Vệ-binh toàn trại súng ngắn,
súng dài lao vào cuộc săn đuổi. Các đội tan lao về sớm đang nổi lửa ca-cóng bị
dập tắt lửa, xua hết vô nhà. Người ta nhắm hướng núi Mây Tào mà truy-lùng kẻ trốn
trại.
Lần đầu tiên, từ thành-lập TH6, tù-nhân chính-trị trốn trại. Chỉ có hai
loại tù, ở trại cải-tạo: Tù chính-trị và tù hình-sự. Tù chính-trị gồm sĩ-quan
quân-đội và cảnh-sát, hạ-sĩ-quan Trung-ương Tình-báo, an-ninh quân-đội, công-chức
cao cấp, nghị-sĩ, dân-biểu, nghị-viên, thẩm-phán, phản-động, vượt biên, nhà
văn, nhà báo. Tù hình-sự gồm lưu manh, trộm cắp, lường gạt, hiếp-dâm và tiền-án
bất hảo. Đã xẩy nhiều vụ trốn trại thành-công ở TH6 A và những kẻ liều mạng đều
là du-đảng. Có một vụ hi-hữu được tù kể lại như huyền-thoại. Một tên du-đãng trốn
trại khác đời. Nó tới chuồng gà bóp cổ hai con, vào bếp trại nhóm lửa đun nước
làm lông rồi luộc cả hai con gà. Nó ăn hết một con, vất lại cái đầu và cặp
chân. Nó ra vườn rau xanh nhổ thêm ba cây cải bẹ rồi mới dông tuốt. Nhưng
hình-sự trốn trại không quan-trọng bằng chính-trị trốn trại. Lực-lượng võ-trang
TH6 truy-lùng suốt đêm. Chúng tôi chưa biết kết-quả thì, ngay sáng hôm sau,
chúng tôi nhận lệnh tập-trung ngoài sân với tất cả hành-lý.
Và chúng tôi rời TH6 A. Người ta không muốn chúng tôi dao-động chuyện trốn
trại.
° ° °
Ra
ngoài cổng trại, có hai lối. Rẽ trái thì về Bà Rịa. Rẽ phải thì sang Long
Khánh. Chúng tôi xếp hàng đôi, rẽ phải. TH6 B nằm trên đường qua Long Khánh.
Người ta bảo chúng tôi vào khu B. Qua chiếc cầu gỗ bắc ngang dòng suối, chúng
tôi đi lung-tung. Vệ-binh áp tải và quản-giáo dẫn độ không chú-ý đến sự vô trật-tự
của tù-nhân. Chúng tôi không bị còng tay vì đi bộ và lưng đeo nặng ba-lô, tay
xách trĩu giỏ. Tôi chợt nhớ bài hát Sơn La của Đỗ Nhuận diễn tả cảnh
tù-nhân bị phát-vãng thời nô-lệ Pháp. “Sơn La âm-u, núi khuất trong sương mù.
Lá rơi xuống suối, gió đưa vù….Đoàn tù tha-hương, cất bước đi trên đường…” Chúng
tôi đang là “đoàn tù tha-hương, cất bước đi trên đường, đi trên đường cách-mạng
vô-sản thành-công, đi trên đường giải-phóng nô-lệ, đi trên đường ưu-việt của chủ-nghĩa
Mác-Lê bách chiến bách thắng, đi trên đường dẫn đến đỉnh cao của trí-tuệ, dẫn đến
cái nôi của loài người .
Đã tới khúc cổ-thụ bị chôn mìn, nổ bật gốc, cây lớn bị cưa gãy nằm rạp chắn
lối. Chúng tôi phải gỡ cành, dọn đường rồi leo qua các thân cây mà đi. Mỗi
quãng bị khai quang, chúng tôi tháo bỏ hành-lý. Khai quang xong, lại mang
hành-lý lên đường . Xuyên Mộc mang một ý-nghĩa nào? Nếu là xuyên qua gỗ, chúng
tôi đã xuyên qua gỗ. Bài học lao-động thứ nhất toát mồ-hôi, rời tay, rã cẳng .
Hai cây số rừng 3 cho tù-nhân Chí Hoà thật thấm-thía. Khi
mặt trời cao gần đỉnh đầu, chúng tôi ra khỏi quãng đường thử-thách lao-cải đầu
tiên. Và đi một khúc đường quang, chúng tôi đến TH6 B.
TH6 B là mật-khu của Việt cộng suốt cuộc chiến-tranh xâm-lăng miền Nam.
Người dân thiểu-số đã có sẵn cái tên cho vùng này: Sa Ác. Sa Ác là
rơi vào chỗ ác độc, rơi vào chỗ chết. Trần Bạch Đằng, tên cúng cơm Trương Gia
Triều (đã bỏKỳ, thực ra là Trương Gia Kỳ Triều), bí danh Tư Ánh, tác giả Chân
dung một quản-đốc, ký bút hiệu Nguyễn Hiểu Trường (Hưởng Triều đó), đăng
theo kiểu feuilleton trên nhật-báo Sàigòn Giải Phóng, đã hồi tưởng khá nhiều
về những tháng ngày chuyên chở vũ-khí từ Vũng Rô vào Nam, qua các nhánh sông để
ghé sông Ray. Sông Ray nằm sát Sa Ác, TH6 B. Nó là biên-giới Xuyên Mộc – Long
Khánh. Tôi không biết chính-xác nó bắt nguồn từ đâu. Có người bảo nó là nhánh
nhỏ của sông La Ngà. Có người bảo nó khởi nguồn từ chân núi Mây Tào. Chắc chắn
nhất, nó chẩy qua Sa Ác TH6 B. Mà TH6 B là mật-khu an-toàn của Việt cộng.
Vũ-khí Hà-nội tiếp tế cho các lực-lượng võ-trang miền Đông đã đổ vào mật-khu
này. Do đó, TH6 B đã là vùng oanh-kích tự-do của không-lực Việt Nam Cộng-hoà và
Mỹ. Quân-đội Úc-đại-lợi đặc-trách an-ninh tỉnh Phước Tuy đã thả vô TH6 B những
toán biệt-kích thám-báo. Dấu chân của Kangourou vẫn còn khi tôi tới (xin đọc
những trang sau).
Sông Ray đầy vơi theo hai mùa mưa nắng. Mùa mưa, nước đỏ ngầu, chẩy xiết
và dâng cao mấp-mé sân trại. Mùa nắng, nước trong vắt, chỗ sâu nhất khoảng nửa
thước, chỗ nông nhất xe hơi có thể vượt qua. Trại lao-cải TH6 B bên bờ sông
Ray, chung-quanh chằng chịt hố bom lớn và những trái bom chưa kịp nổ. Nhiều
cánh rừng xơ-xác vì bom lửa. TH6 B “kiến-trúc” sơ-sài hơn TH6 A. Có hai khu-vực.
Khu của công-an coi tù và khu của tù-nhân. Biên-giới hai khu là con đường chạy
thẳng sang Long Khánh. Khu của công-an gồm ba dẫy: Dẫy của vệ-binh, dẫy của quản-giáo
và dẫy của các chức-sắc lãnh-đạo trại và văn-phòng hành-chính. Sau ba dẫy là
nhà bếp, nhà kho và nhà ăn của toàn bộ cai tù lớn nhỏ. Khu của tù-nhân mới
lèo-tèo ba căn nhà và một căn đang xây cất. Hàng rào kẽm gai vây quanh khu này
còn thấp và thưa. Tù-nhân vỏn-vẹn bốn đội, một rau xanh, một nông-nghiệp, một
lâm-sản, một xây cất. Tất cả thuộc tù hình-sự. Chúng tôi là tù chính-trị trước
tiên của TH6 B. Tôi nhớ ở Chí Hoà ra đi, tôi đếm đúng 5 chiếc xe chở heo. Đến
TH6 A chỉ còn 2 chiếc. Vậy thì, chúng tôi, 100 tù-nhân chính-trị “tiền-phong” của
trại TH6 đã được dẫn qua cổng đoạn-trường có cái biển gỗ nền đỏ chữ vàng treo
cao, bên ngoài viết : Không có gì quý hơn độc-lập tự-do, bên trong viết
: Lao-động là vinh-quang!
Chúng tôi bị tách thành hai nhóm, ngồi xếp hàng đôi giữa sân nắng,
hành-lý để một bên. Lại khai sơ-yếu lý-lịch. Thủ-tục nhập trại mới mà. Tôi đã
quá quen thủ-tục này. Quen đến độ, có thể, thuộc lòng lý-lịch của mình cả trong
chiêm-bao. Phơi nắng gần say nắng thì chúng tôi “khăn gói quả mướp nối nhau vào
một căn nhà…mới. Từ nắng chói chang vào bóng râm, tôi không nhìn thấy gì, ít nhất,
một phút. Tôi hiểu cơ-thể tôi đã hao mòn tháng năm tĩnh ở nhà tù. Tôi
nhà văn 42 ký lô, được độc-giả yêu mến tặng biệt danh Tăm Tre Việt Nam, đã trải
tấm thân còm-cõi của mình trên những tuyến đường Nhà Mình – Sở Công An, Sở Công
An – Đề-lao Gia Định. Đề-lao Gia Định – Chí Hòa ngót nghét ba năm. Ba năm- đường
rầy – tôi nằm bất-động chịu đựng từng chuyến xe lửa oan-nghiệt kéo dằng-dặc những
toa thù-hận nghiến lên. Chưa chết, dĩ-nhiên. Cái hình hài xơ-xác, bấy nát, lỗ-chỗ
những vết đâm ấy, tôi lết vào cái động của trại tập-trung Sa Ác. Mắt
tôi bị quáng tưởng chừng đã bị mù. Không, không nên mù, không thể mù. Cần sáng,
cần rực sáng để chiếu rọi những tia lửa tím vào cái bóng tối âm-u của thù-hận với
ước-mơ khám-phá niềm bí-ẩn của đời sống.
Tôi đã hết hoa mắt. Căn nhà tôi vừa vào tiến-bộ hơn các căn nhà ngoài TH6
A. Cũng hai tầng, nhưng sàn bằng gỗ xẻ ghép khít và cột lớn cách các khoang đục
những bậc thang để lên xuống dễ dàng. Lối “kiến-trúc” y hệt nhà khu A. Giữa là
hành-lang trống, nền đất. Tường nhà khu B đan bằng tre và trét đất đỏ trộn mạt-cưa.
Cầu tiêu chưa…tiến bộ. Nghĩa là, nó đứng riêng rẽ với ba nguồn thác cách-mạng
văn-hóa, nông-nghiệp và khoa-học kỹ-thuật. Chúng tôi “hồ-hởi phấn-khởi” khắc-phục”
bữa bo-bo buổi trưa. Nhà bếp đã không được báo trước có tù mới. TH6 B chưa có Đội
cấp-dưỡng. Tù-nhân phụ-trách bếp-núc hơn 10 người hợp thành một tổ. Thêm Tổ vệ-sinh
và Tổ thông-tin văn-hóa. Tổ thông-tin văn-hóa vỏn-vẹn hai mạng, kiêm-nhiệm cả
trật-tự. Vậy văn-hóa là Sanh, trật-tự là Hoa, hỗn danh Hoa-nẫu. Cả hai đều can
tội trộm cắp.
“Nhà” thông-tin văn-hóa Sanh (tôi không biết họ của nó) nhỏ thó. Khuôn mặt
nó gồ-ghề, lồi-lõm. Cặp mắt nó sâu hoắm, trắng rã. Đằng Giao ví bọn công-an coi
tù là quân dữ. Gặp thằng văn-hoá Sanh, Đằng Giao lại ví công-an coi tù là phát-xít
Đức để gọi thằng văn-hoá Sanh là Pháp-gian. Nó giống hệt bất cứ một tên
Pháp-gian nào trong các phim diễn-tả thời Đức chiếm đóng Pháp. Trông nó
gian-manh ra mặt. Nó chỉ-huy Hoa-nẫu (dân Quảng Ngãi). Sanh-gian và Hoa-nẫu đại-diện
cán-bộ trực trại giáo-dục chúng tôi bài học “nhập gia tùy tục”. Chúng tôi được
hân-hạnh sống chung phòng với Đội rau xanh mà đội trưởng là Hoàng xì coọc, đội
phó là Hoàng nham, những hỗn danh bụi đời. Đội rau xanh khá đông du-đãng có tiền-án
và bị đi cải-tạo vì tiền-án. Tôi bỗng trở thành “nhân-vật hàng đầu của tù-nhân
hình-sự TH6 B. Ở đây, có nhiều đàn em của “tứ-linh” Đại, Tì, Cái, Thế. Đại
Ca-thay đã chết năm 1968 . Huỳnh Tì (James Dean Hùng trong Điệu ru nước mắtcủa
tôi) còn nằm ở Phước Long. Cái và Thế đã chết thảm tại Bù-gia-mập. Đại-bàng gẫy
cánh hết. Còn mỗi Hùng-phốc, đàn em Huỳnh Tì, sống-sót về Sa Ác. Và Hùng-phốc
lãnh đạo đám bụi đời nhỏ tản-mạn khắp các đội của khu B.
Những công-chức cao cấp, dân-biểu, thẩm-phán đã từng “cải-tạo” ở Long
Thành đều biết và đều có thể làm nhân-chứng về những chuyến xe chở tù-nhân từ
Bù-gia-mập về Long Thành. Đó là tù-nhân can tội tiền-án du-đãng trộm cắp Những
người này đã trả nợ cho những tội-lỗi và tội-ác của họ. Và chế-độ mới, họ chưa
hề gây một tội-lỗi tội- ác nào mà họ vẫn bị bắt nhốt và bị đầy-đọa thê-thảm.
Con người, dẫu con người tiền-án, con người vô-án, con người hình-sự hay con
người chính-trị vẫn là con người và phải được đối xử như con người sống hay chết,
tù đầy hay tự-do. Nhưng, nhân-danh chủ-nghĩa ưu-việt của mình, người cộng-sản
đã hạ giá những người mang tiền-án xuống quá hàng súc-vật đã đánh đập họ đã bắt
họ lao-động quá mức, đã cho họ ăn ít, đã mặc họ chết bệnh-hoạn. Cuối cùng, 1000
tù-nhân còn có 100 được di-chuyển từ Bù-gia-mập về Long Thành và được mô-tả như
“những bộ xương biết đi”! Bồi-dưỡng một thời gian, đám tù-nhân sống sót này được
liệng vào Sa Ác. Họ đã cùng những tù-nhân mang tiền-án dưới chế độ cũ, đến từ
khắp nơi, hợp thành “thế-hệ tiên-phong” xây dựng trại tập-trung khổ-sai lao-động
TH6 B. Hùng-phốc ở trong đám Bù-gia-mập sống sót.
Mấy ngày ở khu A, tôi đã được “giang-hồ” chiêu-đãi tận-tình. Tôi giao-du
với vài tay du-đãng gộc thôi song Điệu ru nước mắt, Vết thù trên lưng con
ngựa hoang của tôi đã giao-du thân-mật với du-đãng cả nước. Ở đâu có
du-đãng đọc sách tôi, ở đó tôi được đền ơn như một luật-sư biện-hộ vô-vụ-lợi
cho những kẻ bị xã-hội khinh-bỉ, bị luật-pháp đánh dấu. Hiển-nhiên, tôi ca-ngợi
du-đãng hào-hiệp. Bởi vì tôi thấy Đại Cathay cao-cả hơn Nguyễn văn Thiệu; bởi
vì tôi thấy những tay anh chị đẹp-đẽ hơn bọn tướng-lãnh, bộ-trưởng, nghị-sĩ; bởi
vì du-đãng nhận mình là du-đãng còn bọn Nguyễn Văn Thiệu, thì ăn cắp, bịp bợm
mà cứ nhận mình là ái-quốc? Kể cho tôi nghe, ai ở cái xã-hội miền Nam cũ đã xứng
đáng được ví với nhân-vật tiểu-thuyết thần tượng Trần Đại? Cao văn Viên hay Đặng
văn Quang. Phạm văn Đang hay Nguyễn Cao Kỳ? Hoàng Đức Nhã hay Nguyễn Ngọc
Nghĩa? Thẩm-phán sạch-sẽ Đào Minh Lượng, người đã ghê tởm một số tù-nhân thư-lại
Long Thành nói với tôi ở TH6 A: “Tôi thèm được sống chung với đám hình-sự. Họ
không bần-tiện, ích-kỷ như tù-nhân chính trị thư-lại”… Chưa một nhà chống cộng
nào chào mừng tôi một ly bia ở Paris, nhưng du-đãng đã nồng-nhiệt chúc tụng tôi
còn sống bằng những chai champagne tình-nghĩa. Những người du-đãng không chụp
mũ tôi vì không đố-kỵ tài-năng với tôi. Muốn hiểu du-đãng để ngưỡng-mộ họ và để
tin-tưởng một cuộc cách-mạng Tây Sơn mới sắp xẩy ra ở Việt Nam, hãy tìm đọc Hồn
say phấn lạ . Đó là trường-thiên tiểu-thuyết vinh-tôn trước những Nguyễn
Nhạc mới. Nguyễn Nhạc cũ, tay du-đãng bất hủ đất Bình Khê. Kẻ nào dám làm
cách-mạng chuyển-vần thời-cuộc, nước non bằng cách liều-lĩnh chui vào cũi nạp mạng
cho kẻ thù? Khi tâm-hồn du-đãng dậy bất-bình vì dân-tộc, vì tổ-quốc, họ sẽ
thành anh-hùng. Không ai dám nhắc đến dĩ-vãng du-thủ du-thực của tên đình-trưởng
đất Cối Kê. Vì hắn diệt Tần Thủy Hoàng. Không ai dám nhắc đến dĩ-vãng rượu chè
bê- bết của biện Nhạc. Vì ông ta gây cảm-hứng cho Nguyễn Huệ.
Tôi nên trở về TH6 B. Sanh-gian bảo chúng tôi tạm cất hành-lý ở những khoảng
trống, đợi biên-chế đội xong cán-bộ trực trại sẽ chỉ-định chỗ nằm riêng biệt.
Trước khi kẻng điểm tan lao, chúng tôi được lệnh ra tập-họp tại sân ngay cạnh
nhà. Sự tổ-chức của TH6 B như sau:
1 Phó giám-thị, còn gọi là Trưởng trại B. Nhiệm-vụ của y bao quát cả tư-tưởng của
công-an coi từ lẫn thực-thi chính-sách học-tập cải-tạo.
2. Chính-ủy. Nhiệm-vụ của y điều-hành công-an trách-nhiệm vấn-đề giáo-dục tư-tưởng
tù-nhân.
3. Công-an trực trại. Nhiệm-vụ của y là điểm số tù-nhân xuất trại lao-động và
nhập trại tan lao cùng kiểm-soát an-ninh toàn trại ban ngày. Có hai công-an trực
trại.
4. Vệ-binh. Nhiệm-vụ của vệ-binh là canh gác trại ban đêm, canh chừng tù-nhân
ngoài hiện-trường lao-động.
5. Quản-giáo. Nhiệm-vụ của quản-giáo là theo dõi đội về lao-động và tư-tưởng.
6. Giáo-dục. Nhiệm-vụ của công-an giáo-dục là. . .dạy dỗ tù-nhân và đưa tù-nhân
ra gặp thân-nhân ở phòng thăm nuôi.
7. An-ninh. Nhiệm-vụ của công-an an-ninh là…đánh tù-nhân!
Còn có công-an đặc-trách hồ sơ tù-nhân, công-an nấu bếp. . . Bất kể công-an
già hay trẻ, cấp bậc hạ-sĩ hay đại-úy, giám-thị hay coi kho, tù-nhân đều phải gọi
là cán-bộ. Vậy thì cán-bộ trực trại, cán-bộ quản-giáo, cán-bộ giáo-dục đã đến
làm việc với chúng tôi.
- Theo quyết-định của Ban giám-thị, hôm nay các anh được chính-thức
biên-chế thành hai đội. Tôi gọi tên anh nào anh ấy hô có rõ-ràng và đứng
dậy ngồi ra góc sân.
Cán-bộ giáo-dục nói xong thì nhìn danh-sách mà đọc.
- Trần Duy Cát.
- Có
- Đặng Hải Sơn.
- Có.
-Nguyễn mạnh Côn.
- Có.
Đọc đủ tên 50 tù-nhân, cán-bộ giáo-dục ngưng lại. Hắn nói:
- Những anh còn lại ở chung một đội.
Hắn ra lệnh hai đội tập-họp gần nhau.
- Theo quyết-định của Ban giám-thị, Trần Duy Cát làm Đội trưởng; Đặng Hải
Sơn, Đội phó; Nguyễn văn Thương, Thư ký. Anh Cát đâu?
Đẳng Giao dơ tay:
- Có tôi
Cán-bộ giáo-dục gật đầu:
- Tốt. Đội của anh là Đội 21 nông-nghiệp.
Bước sang đội của tôi,cán-bộ giáo-dục hỏi:
- Anh Vũ Mộng Long đâu?
- Có.
- Theo quyết-định của Ban giám-thị, anh là Đội trưởng, Nguyễn văn Thạch,
Đội phó, Phạm Kim Sơn, Thư-ký. Đội của các anh là Đội 17 rau xanh. Ai thắc-mắc
gì không?
Đằng Giaao dơ tay:
- Thưa cán-bộ, tôi không biết làm Đội trưởng.
Cán-bộ giáo-dục nghiêm nét mặt:
- Anh khước-từ sự chiếu-cố của Ban giám-thị hả? Học tập sẽ làm được. Làm
sĩ-quan ngụy tiêu-diệt Việt cộng chắc anh làm giỏi đấy nhi?
Đằng Giao nín thinh. Tôi tưởng Đằng Giao thành-công, sẽ bắt chước theo.
Ai ngờ…
- Khước-từ sự chiếu-cố của Ban giám thí là khước-từ sự khoan-hồng của
cách-mạng, là chống Đảng và nhân-dân.
Hoạ sĩ Đùa Dzai 4 vừa
thấy bị đùa dai một trò đùa nâng cao quan-điểm. Dằn mặt thế gọi là giáo-dục.
Ông thầy của chúng tôi tên Đương. Thầy Đương đeo quân-hàm chuẩn-úy. Thầy xoa dịu
trò Đằng Giao:
- Phấn-đấu lên, anh Cát. Không dễ gì ai cũng được làm Đội trưởng
đâu.
Thầy Đương ngó thầy Hưng, cán-bộ trực trại:
- Dạy họ báo-cáo xuất trại, nhập trại.
Thầy Hưng, đeo quân-hàm trung-sĩ, dạy Đằng Giao và tôi bài học báo-cáo
quân-số và dạy toàn thể anh em cách đi đứn, cầm nón mũ chào kính vân vân…
-Nàm thử xem sao, anh Cát!
Đội trưởng Đằng Giao vẫy tay bảo đội ngồi xuống. Anh ta đếm số đội viên một
lượt rồi bước lên cách đội ba bước. Anh ta hô “Đứng dậy , nón mũ bỏ ra. Nón mũ
cầm tay phải, lật ngửa. Chú ý: Nghiêm! Hai hàng dọc nhìn đằng trước…thẳng?
Thôi…” Đằng Giao bước xuống, đứng cạnh hàng đầu, quay mặt về phía điếm canh tưởng
tượng, dõng dạc báo-cáo:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng số 50, lao-động 50, hiện-diện đủ,
chờ lệnh cán-bộ.
Thầy Hưng vẫy tay:
- Cho đi!
Trò Đằng Giao đáp:
- Rõ.
Tôi muốn cười quá mà không dám cười. Giá tôi được tự-do cười tôi đã cười
một trận nghiêng-ngửa nhất đời tôi. Đến lượt tôi “nàm thử”, thầy Hưng ra lệnh
cho 4 đội-viên của tôi bước khỏi hàng. Tôi cũng “nàm” như Đằng Giao đã “nàm”.
Cám ơn tổ-tiên tôi đã khóa cái sự thèm cười của tôi đúng lúc diễn-xuất…căng.
- Báo-cáo cán-bộ. Đội 17 rau xanh tổng số 50, lao-động 46, 4 bệnh nằm
nhà, chờ lệnh cán-bộ.
- Cho đi!
Thầy Hưng khen:
- Được Nhưng đó là xuất trại. Còn nhập trại thế lào?
Tôi biểu-diễn:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh lao-động 46, về đủ, xin nhập trại, chờ
lệnh cán-bộ.
Thầy Hưng tấm-tắc:
- Chính-trị dễ tiếp thu hơn nà hình-sự
Cái sự vô-phúc thiếu âm-đức của tôi không dừng ở chức-vụ Đội trưởng. Màn
thực-tập vừa dứt, thầy Đương thăng thêm cho tôi chức Nhà trưởng “theo quyết-định
của Ban giám-thị”. Tôi phải học bài học nhân-danh Nhà trưởng báo-cáo thầy trực
trại buổi sáng mở cửa nhà và buổi chiều đóng cửa nhà và điều khiển tù-nhân cả
nhà tập thể-dục. Kệ mẹ nó, đến đâu hay đó. Ít ra, tôi đã hách hơn Hồ Chí Minh.
Vì, Ngục trung nhật ký Hồ chủ-tịch không được khoe mình làm Đội trưởng,
Nhà trưởng trong tù. Chúng tôi nhận lệnh giải-tán rồi vào nhà nhận chỗ nằm theo
sự chỉ-định của cán-bộ trực trại. Đội của tôi ở 5 khoang đầu nhà. Thu xếp
hành-lý, tranh nhau nằm trên nằm dưới, dàn xếp ổn-thỏa xong thì các đội cũ tan
lao nhập trại. Tôi cắt cử người xuống bếp lấy cơm canh, chia cơm canh. Ấm lòng
ngay lập tức nhờ các cháu du-đãng hình-sự tặng “hai chú” Đằng Giao và Duyên
Anh, cháu thì tô mì vụn nấu tôm khô rau cải xanh, cháu thì miếng thịt vừa nhận
thăm nuôi, cháu thì con cá kho câu dưới sông…
Thi-sĩ Trần Tuấn Kiệt, trong cuốn sách viết về nhà văn nhà thơ Việt Nam,
có nhã-ý viết về tôi. Anh ta kể lại kỷ-niệm ở quân-lao. Vì anh ta khoe là bạn của
Nguyễn Thụy Long và Duyên Anh nên anh ta được tù-nhân du-đãng chiều-chuộng hết
mình. Anh ta bảo, nếu tôi vào tù, tôi sẽ sướng hơn vua! Tôi đã vào tù, không thấy
sướng hơn vua mà chỉ thấy khổ như chó. Nhưng nếu tình-cảm là cái gì quý nhất,
tôi đã được hưởng cái quý nhất của những độc-giả, đặc-biệt những độc-giả bụi đời
dành cho tôi.
Cơm nước xong chúng tôi ngồi tán gẫu chờ điểm danh buổi chiều. Kẻng vừa
điểm, tù-nhân vội-vã xếp hàng mười trước của nhà, ngồi ngay ngắn. Tôi đã hỏi
quân số Đội 3 rau xanh của Hoàng xì coọc. Tôi phải đếm lại cẩn-thận. Tù-nhân
nào ốm không ra điểm danh, phải báo-cáo và trật-tự Hoa-nẫu vô nhà kiểm-soát rồi
xác- nhận với cán-bộ trực trại. Nhà của tôi mang số 1. Đáng lẽ, đội của tôi số
5 hoặc số 6, vì TH6 B mới có 4 đội. Chắc chắn, trại sẽ tiếp-nhận thêm nhiều
tù-nhân những tháng sắp tới. Thầy trực trại Hưng đã đến, theo sau là Sanh- gian
và Hoa-nẫu. Tôi thực-hành bài học báo-cáo…nhà.
~ Anh em chú ý…im lặng! Báo-cáo cán-bộ, Nhà 1 tổng-số 150, tập-họp đủ, chờ
lệnh cán-bộ.
Thầy Hưng đếm hàng. Thầy hất tay:
- Cho vào.
- Rõ.
Từng hàng đôi, tù-nhân vô nhà. Tôi sau chót. Hoa-nẫu cài thanh gỗ lớn chắn
ngang cửa và khóa lại. Sinh-hoạt ồn-ào thả-giàn cho tới khi kẻng báo ngủ. Lúc
đó là 9 giờ.
° ° °
TH6
B chưa có điện. Trại tân-lập mà. Mỗi nhà thắp hai ngọn đèn dầu chế bằng keo thủy
tinh không có bóng. Một ngọn để ở sà trên cửa ra vào, một ngọn trên lối vào cầu-tiêu.
Điểm danh xong trực trại giao trách-nhiệm cho vệ-binh. Hai vệ-binh canh một nhà
suốt đêm. Súng AK sẵn sàng khạc đạn vào kẻ trốn trại. Hai ngọn đèn lù-mù, có
khi tắt một, có khi tắt hết nên vệ-binh khó kiểm-soát sinh-hoạt của tù-nhân.
Bèn thêm mệnh lệnh không ghi ở Nội-quy, Tiêu-chuẩn cải-tạo và Nếp- sống văn-hoá
mới: Đi ỉa, đi đái phải báo-cáo! Thế là tù-nhân sáng-tạo chuyện hài-hước
đen.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi đái.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi đái xong rồi, tôi về chỗ ngủ.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa xong rồi, tôi về chỗ ngủ.
- Báo-cáo cán-bộ, tôi đi ỉa nữa.
Có tù-nhân chơi bạo:
- Báo-cáo đái!
hoặc:
- Cán-bộ ỉa!
Nếu vệ-binh tìm chỗ ngồi đốt lửa sưởi lạnh với nhau, không nghe thấy thì
không sao cả. Nó đi tuần, nghe thấy là réo Nhà trưởng, đánh thức cả nhà dậy
nghe nó giáo-dục sỉ-vả hoặc nó bắt tìm ra ai…lạc-hậu, đầu óc nặng tư-tưởng đồi-trụy
và ảnh-hưởng văn-hoá Mỹ-Ngụy sâu đậm. Giả đò không báo-cáo nó nghe tiếng chân
đi, nó cũng hô-hoán ầm-ỹ. Cái chức Nhà trưởng coi bộ nguy-hiểm. Ngủ chỉ sợ có bố
nào cao-hứng đạp tường mò về sum-họp gia-đình, nó sẽ đổ vạ mình đồng-lõa, mình
làm ngơ và sẽ còng tay xích chân mình. Khổ nhất vẫn là màn nửa đêm bị vệ-binh
thèm thuốc gọi dậy xin một điếu. Nhưng khổ hơn cả mọi nỗi khổ là Nhà trưởng phải
thắp đèn và bảo-quản bình dầu. Trật-tự Hoa-nẫu đã tính-toán kỹ-lưỡng. Nó phát dầu
đủ thắp một tuần: hết dầu ráng mà chịu bị vệ-binh “lên lớp”. Tù-nhân nghiện thuốc
lào thường thích có đèn riêng cho đỡ tốn xăng đá lửa. Quý vị ấy che đèn và xin
dầu kiểu “thông-cảm”. Nhà trưởng không dám cho, sợ hết dầu và sợ bị “nâng
quan-điểm” giúp tù-nhân phương-tiện trốn trại hay đốt trại! Thì bị quý vị ấy chửi
bới. Quý vị ấy công khai sớt dầu ở đèn tập thể. Nằn nì quý vị ấy thông- cảm,
quý vị ấy không thông-cảm. Cấm-đoán, ngại quý vị ấy xỏ xiên “giữ 1. cho chúa”.
Từ cái nhỏ hóa thành cái lớn . Nhà trưởng biến thành cái đích của thị-phi. Chỉ
vì sợ hết dầu trước hạn kỳ. Chỉ vì anh em tiếc rẻ xăng, đá lửa. Chỉ vì anh em
lười châm lửa ở đèn tập thể. Chỉ vì anh em khoái đèn cá nhân.
Đêm đầu tiên nhậm chức Nhà trưởng của tôi thật não-nùng. Tôi không ngờ nổi.
Những tiếng báo-cáo “đi đái, đi ỉa” liên tục đến gần sáng. Tôi bắt đầu chán
ngán cái động của trại tập-trung. Dường như, cái động hứa hẹn
vang vọng một niềm bất-hạnh. Đêm cuối năm ở rừng già Sa Ác lạnh vô cùng. Tôi đã
quên cái lạnh mùa đông miền Bắc hơn hai mươi năm nay nhớ lại và thấm rét mướt.
Sự rét mướt chẳng còn ở ngoài da nữa. Nó đã thấm buốt cả thân-phận tôi. Tôi
xoayngười úp bụng xuống sàn gỗ, ngẩng đầu nhìn qua chấn song gỗ của khung cửa ọp-ẹp.
Đêm tối. Thân-phận. Đất nước. Dân-tộc. Thân-phận tôi là đồ bỏ. Nhưng đất nước
tôi, dân-tộc tôi? Trong cuộc chạy đua việt-dã mấy chục năm giữa bọn ăn cướp và
bọn ăn cắp, sự thắng bại đã rõ rệt. Chính-nghĩa của bọn ăn cắp là đào-ngũ,
đào-nhiệm chạy dài. Chính-nghĩa của bọn ăn cướp là hồ-hởi phấn-khởi trả thù vặt.
Ba mươi năm chính-nghĩa thổ-phỉ và chánh nghĩa “phi-lu” nhân danh hai chủ-nghĩa
ưu-việt nhất của loài người, vô-sản và tư-bản; nhân danh hai quyền-lực vĩ-đại
nhất và thô-bạo nhất của loài người, Liên xô và Hoa kỳ, đấm đá và tranh giành sự-nghiệp
nô-bộc, đất nước tôi rách mướp, dân-tộc tôi đói rách, ngu dốt, lạc-hậu. Chiến-tranh
bẩn thỉu toa rập giữa tư-bản Hoa kỳ và vô-sản Liên xô đã tàn-sát đến cả cây cỏ,
muông thú của quê-hương tôi, đã đẩy dân-tộc tôi vào cuộc phiêu-lưu thù-hận, đã
tạo dựng bọn tướng cướp bản-xứ khát máu và bọn trùm trộm cắp hèn-mọn, trơ-tráo.
Hạnh-phúc mà vô-sản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Liên xô sang đất nước tôi là
gì? Hỏa-tiễn, súng đạn, giáo-điều mác-xít, lê-nin lỗi thời. Chủ-nghĩa cộng-sản
có khả-năng tiêu-diệt 1 triệu 500 ngàn dân Việt Nam mùa cải-cách ruộng đất năm
1956, có khả-năng nướng thiêu 1 triệu thanh niên miền Bắc dọc đường mòn Hồ Chí
Minh và các chiến trường miền Nam. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng làm bé nhỏ cả
dạ-dầy lẫn tim óc của dân miền Bắc. Nhưng, chủ-nghĩa bách-chiến bách-thắng ấy
chưa giải-phóng nổi chế độ đổ thùng ở riêng thủ-đô Hà-nội “thủ-đô của
phẩm-cách con người”. Khi còn công-nhân vệ-sinh đặc-trách đổ thùng, còn phu đổ
thùng, còn con người tăm-tối chui rúc vào cầu-tiêu vác những thùng phân đổi miếng
cơm hẩm, chủ-nghĩa cộng-sản chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ròi bọ.
Hạnh-phúc mà tư bản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Hoa-kỳ sang đất nước tôi
là gì? Bom lửa, xe tăng, thuốc khai quang, phi-tiễn, lựu đạn cay và lý-tưởng
khai- phóng tự-do, dân-chủ chó đẻ. Chủ-nghĩa tư-bản có khả-năng đẩy hai thế-hệ
thanh-niên miền Nam xuống vực thẳm chiến-tranh cho tham-vọng khốn-kiếp của nó,
có khả-năng làm đảo tung đạo-nghĩa và tình-nghĩa Việt Nam; có khả-năng xúi dục
đảo-chính, chỉnh-lý; có khả-năng giật giây tôn-giáo thù nghịch lẫn nhau; có khả-năng
đưa những thằng vô-lại lên ngôi tổng-thống, thủ-tướng, bộ trưởng, tướng tá, nghị-sĩ,
dân-biểu. Chủ-nghĩa ấy còn có khả-năng mầu-nhiệm tạo đĩ điểm thành mệnh-phụ
phu-nhân, ma-cô thành lãnh-tụ dân-tộc và biến con người thành công-cụ của
đô-la, nô-lệ của vật-chất; biến con người thành ký-sinh-trùng ăn bám, ươn- hèn,
vọng ngoại. Nhưng, chủ-nghĩa chói-chang ấy chưa tẩy xóa nổi dấu-tích ô-nhục của
phản-bội đê-tiện. Khi còn còng made in USA còng tay những người Việt Nam
chân-chính chống đối chủ-nghĩa cộng-sản phi nhân ở Việt Nam sau 1975, chủ-nghĩa
tư-bản Hoa Kỳ cũng chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ròi bọ.
Rốt cuộc, quá độ chiến-tranh ý-thức-hệ thùng phân là đất nước héo úa,
dân-tộc chia lìa, tổ-quốc gầy mòn. Những thằng ăn cắp bỏ chạy không quên mang
theo tài-sản ăn cắp. Và chúng nó đang phè phỡn ở Hoa kỳ, miền đất hứa có chủ-nghĩa
được định giá như một thùng phân. Chủ-nghĩa này tạo ra những nhà lãnh-đạo lỗi-lạc
để thi-triển những chính-sách đối với các nước nhỏ và các nước dưới quyền…viện-trợ.
Những thằng ăn cướp được dịp tuyên-bố chiến-thắng những thằng phản-bội và những
thằng ăn cắp. Và chúng nó bảo cách-mạng thành-công. Và chúng nó lùa những người
Việt Nam vào nhà tù, trại tập trung. Tôi cũng bị lùa vào nhà tù 3 năm. Bây giờ,
tôi bị ném ra trại tập-trung. Tôi mang cái tội gì nhỉ?
Thoạt đầu, phỉ-quyền (bọn ăn cướp) chụp lên đầu tôi cái tội ngớ-ngẩn: Nhà
văn chế-độ cũ. Tôi không phải là người của chế-độ nào cả. Tôi là người của
tôi, của gia-đình tôi, của bằng-hữu tôi, của độc-giả tôi và lộng ngôn một tí
tôi là người của dân-tộc tôi. Không một chế-độ nào chấp-nhận những người nghệ-sĩ
phản-kháng cả. Tôi là nhà văn, nhà báo phản-kháng, và có chính-kiến rõ rệt. Tôi
đứng về phía những người bị trị chống đối kẻ thống-trị. Sự chống đối của tôi,
tùy theo cường-độ chính-trị của thống-trị. Khi thống-trị bình-thường, sự chống
đối của tôi hiểu theo nghĩa đối-lập. Khi thống-trị đàn áp, sự chống đối của tôi
là phản-kháng quyết-liệt. Bằng văn-chương và tư-tưởng. Tôi đã thường xuyên quyết-liệt
phản-kháng bọn thống-trị Sàigòn vì tôi muốn không còn, không có nữa phỉ-quyền
hiện diện ở Hànội và âm-mưu thôn-tính quê-hương tôi. Phỉ-quyền lên án tôi từ
năm 1970. Hẳn nhiên, phỉ-quyền Hà nội thù hận tôi. Nhưng ngụy-quyền Sàigòn (bọn
ăn cắp) ưa gì tôi? Nó cũng thù hận tôi. Tôi thực sự sống bằng ngòi bút từ tháng
1-1964. Tôi viết nhật-báo từ đó. Và từ đó, tôi tuyên-chiến với bọn thống-trị
Sàigòn, đứng hẳn về phía bị trị vì những người bị đàn áp bị bóc lột; vì những
người nghèo khổ nhất miền Nam; vì những người lính hy-sinh nhất miền Nam, bị bạc
đãi nhất miền Nam; vì cô-nhi, quả-phụ; vì danh-dự của tổ-quốc mà lên tiếng. Ngụy-quyền
Nguyễn Văn Thiệu chưa dám bắt tôi bỏ tù. Nó tin tử-vi. Và nó sợ phản-ứng độc-giả
tuổi trẻ của tôi. Nó sợ cộng-sản lợi-dụng cơ-hội nhập cuộc. Nếu quốc-gia là những
ai phò Nguyễn văn Thiệu, suy-tôn nó, ủng-hộ nó, còn kỳ vọng nhiều ở nó; nếu quốc-gia
là Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao văn Viên…và các vệ-tinh,
tôi khước-từ thứ quốc- gia đó. Và tôi thẳng-thắn nói: Tôi là người cộng-sản
không tha, quốc-gia không dung.
Không thể là quốc-gia ăn cắp, lừa bịp, tôi phải chấp-nhận mọi hệ-lụy
ngoài đời, trong tù; trong nước, ngoài nước . Tôi hiên-ngang chấp-nhận. Để tôi
là quốc-gia của tôi. Chỗ “tựa vào” của tôi chỉ là dân-tộc Việt Nam đau-khổ. Tôi
đã “tựa vào”, đang “tựa vào” và “tựa vào” đến khi nhắm mắt.
Quốc-gia của tôi là quốc-gia chân-chính, quốc-gia của những người
lương-thiện sáng chói. Tôi phủ nhận ngụy-quyền, phỉ quyền. Với tôi,
ròng rã ba mươi năm, đất nước ta chưa có chính-quyền. Dân-tộc ta đang
mơ ước một chính-quyền tạo dựng bởi người quốc-gia chân-chính trong và ngoài nước.
Chỉ khi nào đất nước ta có chính-quyền, dân-tộc ta mới có ấm no, hạnh-phúc,
đoàn-tụ, thương yêu, tự-do là dân-chủ thực sự. Phỉ-quyền Hà-nội và ngụy-quyền
Sàigòn đã bất lực mưu cầu hạnh-phúc cho dân-tộc. Phỉ-quyền chỉ biết ăn cướp. Ngụy-quyền
chỉ biết ăn cắp. Thổ-phỉ và đạo-tặc đều thờ chủ riêng. Phỉ là đầy-tớ Liên xô.
Ngụy là đầy-tớ Hoa Kỳ. Bây giờ, thêm bốn hạng ngụy nữa: Ngụy kháng-chiến bịp-bợm,
ngụy giải-phóng đội đít Tầu, ngụy cứu quốc bám chân Tây, ngụy phục-quốc chờ đèn
xanh ảo tưởng Mỹ.
Từ hơn 100 năm rồi, tinh-thần dân-tộc đã bị các thứ giáo-hội đè nặng
trĩu, đè ngóc đầu lên không nổi. Các thứ giáo-hội đã chi-phối tinh-thần dân-tộc
một cách nghiệt-ngã. Đất nước lạc-hậu của chúng ta có tới hai chục giáo-hội.
Giáo-hội và tổ-quốc chứ không tổ-quốc và giáo-hội. Thứ giáo-hội mạnh nhất,
thô-bạo nhất hôm nay là giáo-hội cộng-sản. Dân-tộc ta đã ủ-ê vì các giáo-hội,
đang ủ-ê vì các thứ ngụy. Vậy làm cách nào phục-hưng tinh-thần dân-tộc và
tinh-thần quốc-gia, dĩ nhiên, quốc-gia chân-chính? Vấn đề này nhà văn không đủ
tư-cách giải-quyết. Bổn phận của y chỉ nhằm gợi ý.
Tôi đã trải qua một đêm TH6 B.
--------------------------------
Tan lao: Tan lao-động.
Vào lao: Vào giờ lao-động. Giải lao: Nghỉ lao-động |
|
Khu A có xưởng cưa máy. Đầu năm 1979, các Nhà cũ bị phá để xây
cất Nhà mới khang-trang, cầu-tiêu xối nước. Dĩ nhiên, Nhà nhiều hơon vì tù
nhiều hơn và sự quản-lý chặt-chẽ hơn. Sĩ-quan quân-đội từ các trại miền Tây dồn
hết lên miền Đông.
|
|
Về sau, chính Đằng Giao đặt mốc cho đoạn đường…vào Ba Thục
này.
|
|
Vẽ tranh hí-hoạ, Đằng Giao ký tên Đùa Dzai.
|
CHƯƠNG 3
Kẻng báo
thức đã gầm-gừ. Cả Nhà thức giấc. Đèn phòng được thổi tắt. Các quan-viên thuốc
lào rít điếu cầy xòng-xọc. Sinh-hoạt ồn-ào trong cầu-tiêu. Màn thuốc lào, đái ỉa
buổi sáng coi như chào mừng một ngày lao-động khốn-nạn. Bên ngoài còn nhá-nhem
và sương mù dầy đặc. Tù-nhân thu dọn chỗ nằm thật ngăn-nắp. Thuốc lào đã sang
tua rít thứ mấy. Khối anh phê, đáp dài trên phi-đạo sàn. Phải phê. Không phê sẽ
một ngày vô-nghĩa. Những tù-nhân mới tập hút thuốc lào, chưa dám kéo hơi dài.
Thành thử, rít đến khi khói vô đẫy phổi mới lăn kềnh, mắt lim-dim, tim đập mạnh,
thân thể lạnh giá, tay chân quơ cào. Thuốc lào mau say mà cũng mau tỉnh. Tù
lao-cải gắn bó với thuốc lào y hệt tù nhà-lao gắn bó với ghẻ.Phi thuốc lào bất
thành cải-tạo. Thuốc lào là cái gì mà ghê thế? Ca dao có câu:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên
Từ câu này, Nguyễn Tuân mới đặt cho thuốc lào cái tên thật
văn-chương: Tương-tư-thảo. Nhưng tương-tư-thảo có vẻ Tầu quá. Mà Tầu không
hút thuốc lào .Vậy gọi thuốc lào là cỏ nhớ. Miền Bắc hút thuốc lào trước
khi hút thuốc lá, hút ống vố. Câu nhại lời bài Giải-phóng Miền
Nam quy-định rõ-rệt sự hút của dân ta:
Miền Bắc hút thuốc lào, miền Trung hút thuốc rê, miền Nam thì hút Capstan, Con
Mèo ….
Thuốc lào thượng-hảo hạng miền Bắc là thuốc lào Vĩnh Bảo. Cách gói và bán thuốc
lào ở miền Bắc rất… cổ-truyền. Người bán thuốc lào gánh đôi khạp gỗ đậy nắp kín
đến các chợ phiên. Một bên là thuốc đã gói sẵn vào cái bao giấy mầu có in
nhãn-hiệu bằng con dấu khắc thô-sơ. Một bên là thuốc nguyên bánh và thuốc rời.
Gói có hai loại, to và nhỏ. Thuốc rời bán lạng. Cũng có ba hạng thuốc: thượng-hảo-hạng,
ngon nhất và ngon vừa phải. Người bán thuốc bầy thuốc trên nắp khạp, châm đèn
và kê điếu bát. Khách hút thử thuốc rồi mua. Ở thị-xã người ta cũng bán theo
cung cách ấy. Thuốc lào đem giống vô Nam ngon nhất là thuốc Cái Sắn, hút phê
lăn cù mèo. Trước 1975, có các nhãn hiệu thuốc lào Say, thuốc lào 888. Về sau
thuốc 888 nổi tiếng, bèn đẻ thêm thuốc lào 555, thuốc lào 999. Sau 1975. thuốc
lào 888 giả hiệu đầy thị-trường.
Ông đây đã bỏ thuốc lào,
Thấy ba số 8 lại đào điếu lên
Câu thơ ảnh-hưởng ca-dao nặng-nề này in trên bao gói thuốc lào 888. Theo đà
văn-minh lãng nhách, thuốc lào gói bằng bao ni lông, mất hết 99 phần 100 tính
chất cổ-truyền dân-tộc.
Thuốc lào rất khó trồng. Nó kén đất và phân bón. Trồng, tỉa, bắt sâu thuốc,
phơi, thái, ủ thuốc là một nghệ-thuật. Thuốc ngon nhờ giống, nhờ đúng thời-gian
và nhờ bí-quyết riêng của người sản-xuất. Xin miễn bàn-luận về chuyên-môn. Thuốc
đi với điếu. Điếu kêu ròn-rã nhờ cái guốc. Điếu tráp của các nhà quyền-quý thì
khảm xà-cừ, xe điếu bằng cành trúc dài, đầu bịt bạc. Điếu bát của giới
trung-lưu thì đặt trong chiếc bát cổ, đồ thông uốn bằng giây đồng tỉ-mỉ, của
bình-dân thì đặt trong bát gỗ đơn-sơ. Điếu cầy của nông-dân thì làm bằng ống
tre mật. Điếu tốt cần đóm tốt. Đóm bị tắt ngang xương, điếu thuốc vô vị . Thường,
người ta chẻ tre thật mỏng, ngâm nước rồi phơi khô đóm cháy bền. Những tay chơi
đóm, chặt luôn cây đu-đủ đã sinh trái, liệng xuống ao. Thân cây đu-đủ chìm dưới
bùn và bị “cháy ngầm”. Chừng nó nổi lềnh-bềnh, vớt lên phơi nắng cho khô. Rồi
tước ra. Thế là có đóm tuyệt-diệu, bảo-đảm hút cú đúp, đóm vẫn cháy, chấp gió
thổi mạnh. Điếu và đóm cộng lại thành một thành-ngữ ám chỉ bọn hầu-hạ. Nhà quyền-quý
bẻ cong cái xe điếu trúc. Gã bưng điếu hiểu ý ngay. Bèn vo dúm cỏ nhớ đặt
thật khéo trên miệng nó. Gã khác châm đóm. Ông chủ hít một hơi, chiêu ngụm trà
tầu, nhả khói đê-mê. Sau này có điếu đóm chính-trị bỉ-ổi hơn điếu đóm thuốc
lào.
Nước điếu của những tay chơi thuốc lào cũng công-phu lắm. Có ông dùng nước mưa
kinh-niên. Có ông lại sắc nước cam-thảo. Nước đổ vào bình phải chạm đúng mức
nào của guốc điếu. Ôi, lỉnh-kỉnh lắm. Thuở nhỏ, tôi sợ nhất cái xe điếu bằng
song. Bị quất xe điếu vào mông là lươn nổi ba ngày. Điếu đóm ngoài đời nếu luận
tới mức, phải viết hai chục trang sách.
Tôi nói về điếu đóm nhà tù. Cái thứ điếu “poọc-ta-típ” to bằng gói thuốc, chế-tạo
bằng plastic, ống nhựa ngắn chút xíu, hút chỉ tổ phí thuốc. Tù-nhân đề lao Gia
Định gửi mua khá nhiều. Đóm nhà tù là diêm Samasa… quốc-doanh, quẹt 3 cây cháy
l; là giấy gói mì Con Cua, mì Ba Con Tôm. Những tù-nhân điệu-nghệ sáng-tạo điếu
bát đặc biệt. Cái can nhựa chứa nửa lít tầu-vị-yểu là bình. Vỏ kem đánh răng
Hynos gò làm guốc điếu. Ống nhựa bọc giây kẽm quai xô nhựa rút ra làm xe điếu.
Nước nhiều thì khói dịu, vô tận phổi mới đã. Tiếng điếu kêu xòng-xọc nặng âm-điệu
tù đầy. Tù-nhân cải-tạo không chơi điếu can nhựa tầm-thường. Điếu cầy là nguồn
thác cách-mạng thứ tư sau ba nguồn thác cách-mạng văn-hóa, nông-nghiệp, khoa-học
kỹ-thuật. Vậy tù-nhân lấy điếu cầy làm “sự-nghiệp vĩ -đại sống mãi” với thuốc
lào cải-tạo.
Nông-dân miền Bắc không cầu-kỳ lắm về hình-thức cái điếu cầy. Chỉ cần cái nõ điếu
cho kêu thôi. Điếu cầy của nông-dân vạt nhọn phía dưới. Để tiện cắm xuống bờ ruộng.
Nhà quê Bắc-kỳ nghèo, chẳng có diêm, bật lửa. Vậy phải bện bùi-nhùi rơm mang
theo với đóm. Nông-dân hút ra sao? Vê thuốc nhét kín miệng nõ, thổi bùi-nhùi,
châm lửa. Bập bập ba cái, đưa ngón tay nhấn chặt thuốc rồi kéo một hơi dài đến
trôi tuốt cả tàn vào nước. Rồi thổi phụt cho nước điếu bắn ra một vòi ngắn. Rồi
kéo tiếp để nghe tiếng điếu ròn-rã. Rồi mới nhả khói. Cao-thủ điếu cầy phải hút
như thế. Sáng sớm tinh mơ chưa ăn gì, hút một điếu Vĩnh Bảo thượng-hảo-hạng kiểu
cao-thủ điếu cầy, chỉ có té bật ngửa “mắt lim dim, tim đập mạnh, lạnh tứ-chi,
sùi bọt mép”… Tù-nhân cải-tạo khối người đạt chỉ-tiêu hút cao-thủ điếu cày. Hút
điếu cầy phải hút ngoài bãi mới tự-do phụt nước điếu. Điếu cầy đẹp nhất,
công-phu nhất là điếu cầy của sĩ-quan cải-tạo ở Sơn La đem về. Ống tre dài, nõ
điếu bằng đá mài, khoét tài tình. Nhưng chiếc điếu cầy cải-tạo đi vào lịch-sử
điếu cầy dân-tộc là điếu cầy của tù-nhân Lê văn Minh tự Minh-suyễn.
Minh-suyễn, con trai ông chủ hàng bánh ngọt nổi tiếng đường Nguyễn Thiệp, Sài
gòn 1 , đi làm phản-động trong tổ-chức Binh-đoàn Lê văn Duyệt. Tổ chức này do
Mai Chí Thọ nặn ra cùng 51 tổ chức khác. Mục đích của Thọ là giăng lưới bắt hết
những người yêu nước chống cộng. Minh-suyễn sa bẫy luật-sư nằm vùng Đỗ Hữu Cảnh,
bí-danh Ba Sơn 1. Minh-suyễn bị suyễn nặng, thường xuyên có 4
cái bình xịt tối tân Huê kỳ, xịt hết thuốc là vất đi mà khoái hút thuốc lào…
phê. Anh ta thửa cái điều cầy trị giá 10 gói mì Con Cua, thuê một tù-nhân lâm sản
tìm ống tre dài, bóng. Minh-suyễn nhờ Đằng Giao vẽ thiếu-nữ khỏa thân, tóc xõa,
chân và tay bị trói chặt quanh ống điếu. Hai trái đào tiên căng nổi.
Cái hoa quý của thiếu nữ, đúng cái ái ân huyệt đó, Minh-suyễn
dùi lỗ để…cắm nõ. Anh ta tô mực xanh lên những nét khắc của Đằng Giao. Điếu cầy
của Minh-suyễn nổi tiếng, ai cũng xin hút một điếu. Cuối cùng, điếu cầy của
Minh-suyễn bị tịch thu, Minh-suyễn bị làm tự kiểm nhận tội tuyên-truyền văn-hóa
đồi-trụy. Điếu cầy ấy về sau, cán-bộ giáo-dục giữ làm của riêng.
Tiếng điếu cầy rít liên tục làm sinh-động buổi sáng ở Nhà 1 của tôi. Tôi đã hiểu
sự cần-thiết của thuốc lào. Có lẽ tôi sẽ tập hút thuốc lào. Trật tự Hoa-nẫu đã
mở cửa. Chúng tôi ùa ra hít khí trời giây lát rồi ngồi xếp hàng như chiều qua.
Đội trưởng Đội 3 rau xanh đã cho tôi biết trước đội của anh ta có 2 người bệnh
nặng không thể ra điểm danh. Tôi cần nói thêm: Mỗi thư-ký đội được cấp dầu thắp
đèn cá-nhân cho mỗi sáng đội-viên của mình khai bệnh và mỗi tối thứ sáu họp đội.
Bệnh nhân được nghỉ lao-động hay phải đi lao-động là do quyết định của Y-tế. Y
tế của Sa Ác B do một y tá 2 tù-nhân đảm-trách dưới quyền chỉ-huy của
một cán-bộ y-tế mà trình-độ là biết phát thuốc…Xuyên Tâm Liên! Sa Ác B chưa có
bệnh-xá, chưa có cả phòng y-tế. Y-tá làm việc ngoài sân, trước giờ tập họp
lao-động. Y-tá can tội hình sự rất dễ-dãi nhưng e-dè. Anh ta không dám cho
tù-nhân nằm nhà nhiều. Bởi vậy, có xổ số bệnh nặng! Tù-nhân bệnh nặng thật sự
có khi, đi ra ngoài lồng cầu. Tù-nhân cảm xoàng lại trúng số độc-đắc. Tôi đã trải
qua ba nhà tù. Cả ba nơi, tù-nhân đều không được chích thuốc ngừa các thứ dịch
hạch, dịch tả, thương-hàn, phong đòn gánh, đau màng óc… Ở trại tập- trung cũng
vậy. Tôi nghĩ, Bộ chính-trị trung-ương Đảng cộng-sản Việt Nam quan-niệm rằng,
chỉ có một thứ vi-trùng chế ngự tất cả vi-trùng là vi-trùng cải-tạo. Đã được
tiêm “vác-xanh” cải-tạo, kể như miễn dịch.
Cán-bộ trực trại đã tới.
-Anh em chú ý… Im lặng! Báo-cáo cán-bộ. Nhà 1 tổng-số 150, 2 bệnh nặng nằm
trong nhà, hiện diện l48 đủ, chờ lệnh cán-bộ.
Trật-tự-viên Hoa-nẫu chạy vô nhà, la lối:
- Ai nằm trong lên tiếng?
Hai bệnh-nhân lên tiếng. Hoa-nẫu chạy ra báo-cáo:
- Thưa cán-bộ, hai đau nặng.
Trực trại đã đếm xong tù-nhân, hất đầu:
- Cho tập thể-dục.
Tôi đáp:
- Rõ.
Thế là tôi, Nhà trưởng kiêm thêm chức-vụ huấn-luyện-viên thể-dục, điều-khiển cả
Nhà vừa chạy tại chỗ vừa hét “một hai ba bốn” và vài động-tác vớ-vẩn. Những ông
già được miễn thể-dục. Màn thể-dục… tù chấm dứt, Tổ trực của đội lo cơm sáng và
nước sôi. Anh em khác đánh răng, rửa mặt. Cơm sáng đúng nghĩa là cơm lót dạ, một
chén bo-bo nhỏ. Bo-bo nhập-cảng từ Ấn độ. Có người bảo bo-bo là lúa miến. Con
gái tôi viết thư cho tôi: “Bố ạ, nhờ giải-phóng con biết nhiều địa-danh mà những
bài học địa-lý đã không dạy. Thí dụ: Kàtum, Trảng Lớn, Vườn Đào, Bà Tô, Bù Nho,
Sa Ác, Gia Trung… Con cũng biết thêm nhiều thực-phẩm như gạo Đại Mễ 3, bo-bo, sắn lát là những thức ăn ngon lạ hơn
gạo nàng Thơm chợ Đào”…
Bo-bo, tôi đã thưởng-thức ở Chí Hòa. Sau những ngày ăn bột mì luộc là những
tháng, những năm bo-bo. Bo-bo từ nhà tù ra trại cải-tạo. Bo-bo mầu như mầu gạo
lức rất dẻo và dai. Muốn thực hiện cách-ngôn “Ăn có nhai, nói có nghĩ” thì nên
ăn bo-bo. Các nhà tư-tưởng cần ăn bo-bo vì phải nhai thật lâu mới nuốt nổi. Các
nhà lãnh-tụ kháng-chiến Hamburger cần ăn bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt
những trò lạc-quyên bịp-bợm. Các nhà văn, nhà báo di-tản trước 1975 cần ăn
bo-bo. Để vừa nhai vừa nghĩ mà chấm dứt những bài viết chụp mũ a-dua bôi bẩn
thiên-hạ và đố-kỵ hèn-mọn. Bo-bo có thể ăn 6 bữa 1 ngày. Vì ăn đầy ca vừa uống
nước xỉa răng xong là đã tiêu hóa 3 phần 4 ca bo-bo. Bo-bo hỗ trợ chính sách cải-tạo
của nhà nước cộng-sản. Phải rửa ruột trước khi rửa óc. Bo-bo có mày rất sắc cạnh
và rất “kiên trì”. Nó mà dính kẽ răng thì “bám chốt”, thì “nằm vùng” kỹ lắm.
Tăm tre mới trục xuất nổi mày bo-bo. Tăm gỗ ba Tầu bất lực. Mày bo-bo cơ hồ
ám-khí phóng ngập hàm, lợi. Thò hai ngón tay nhổ nó ra, máu ra theo. Mỗi cái
mày bo-bo là một giọt máu. Mỗi bữa bo-bo thường bị vài cái máy cắm sâu vô lợi.
Máu đó nhắc nhở miếng ăn tù đầy nhục-nhằn. Máu đó làm khôn lớn những ai biết
suy-tư trong thống-khổ. Những kẻ học đòi cạp Hamburger, Macdonald từ 29-4-1975
chưa được ăn bo-bo, không bị ăn bo-bo – chẳng dám ăn bo-bo, nên không thấy thảm-cảnh
mày bo-bo đòi máu tù-nhân. Và họ thản-nhiên. Rất bình thường. Những những kẻ tự
nhận là nhà văn, là kỹ-sư của linh hồn, hơn cả thản-nhiên trước một rung-động
làm nên văn-chương, tư-tưởng đã vận-dụng ngòi bút cắm sâu những cái mày bo-bo
vào lợi của tù-nhân đồng-nghiệp của họ. Bằng bình-phẩm và bằng vu-khống đê-tiện
những gì mình không nhìn thấy. Đôi khi, cũng có “nhà văn” có cơ-hội ăn bo-bo.
Tiếc rằng, thay vì ăn bo-bo để khôn lớn, để sáng-suốt, để biết thù-hận đúng chỗ,
ông ta lại chỉ “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cháy, ăn tranh phần cơm heo” nên
ông ta đã tự đồng hóa với đồ ăn cắp, tự xếp hàng với súc vật. Vì ông ta còn là
“nhà vẽ” nên ông ta đã vẽ một bức tranh đầy mầu vàng của phân. Mầu vàng này đã
trùm lên sự thật. Và đó là lập-thể. Rốt cuộc sự-nghiệp vẽ của ông ta là những bức
chân-dung Hồ Chí Minh “vĩ-đại”, và sự-nghiệp văn-học nghệ-thuật của ông ta –
ông này thích văn-học nghệ thuật lắm – rực rỡ nhất ở bài nhận vơ làm “biệt-kích
văn-nghệ”. Chưa thấy nhà văn nào viết bài báo tồi đến thế. Tư-tưởng thì rặt
“phân tiểu”, hành văn thì câu bất thành cú, chấm than thì bỏ bừa bải, lập-luận
thì dựa…tin đồn. Đó là tại ham “ăn vụng thịt, ăn cắp cháy cơm” mà chê ăn bo-bo.
Người như vậy, tôi nghĩ, nên thắt cổ tự tử, vì sống vô-tích-sự. Sống bám
welfare nhà nước Mỹ đã nhục, bám welfare mà chẳng sáng-tạo nổi một truyện ngắn
sạch nước cản nào, càng nhục. Rõ là ký-sinh-trùng, là sán sơ-mít trong ruột Mỹ!
Thánh-kinh, theo Matthew, Chúa Jésus dạy: “Cây tốt sinh trái tốt. Cây xấu sinh
trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu. Cây xấu cũng không thể sinh được
trái tốt”. Một nhà văn-học nghệ-thuật “ăn cắp, ăn vụng, ăn tranh phần khoai và
cơmcháy của heo” không thể làm nổi những việc gì tốt đẹp. Chúa là chân-lý. Ngài
đã phán xét đúng.
Nhưng làm sao hạng người có huyết thống “ăn vụng thịt, ăn cắp cơm cháy” dám ăn
bo-bo? Bo-bo nó vào dạ-dầy nó cũng phóng mày bám chặt lấy dạ-dầy. Do đó,
tù-nhân cải-tạo đa số đau răng và đau bao-tử. Dạ-dầy là cái máy nghiền nát các
loại thức ăn. Vậy mà không nghiền nát được mày bo-bo. Bo-bo tiêu hóa, chất bã
đem theo mày bo-bo ra ngoài. Đội 17 rau xanh của tôi, sau này, phải làm một cái
cầu-tiêu “dã-chiến” để Đội phát quang có chỗ đại-tiện. Chúng tôi cần phân bón
rau. Tôi đã quan-sát cái cầu-tiêu chưa kịp “tiếp thu” phân sau ba ngày “hành
quân” ngang qua của Đội phát quang. Toàn bộ phân bị đế quốc Bọ Hung thôn-tính hết.
Một đống mày bo-bo còn nguyên. Bọ hung cũng không dám ngốn mày bo-bo. Vậy mà
tù-nhân cải-tạo đã nuốt mày bo-bo vào dạ-dầy! Tôi không hiểu các “sử gia”
nghiên-cứu lịch-sử hiện-đại Việt Nam có chịu nghiên-cứu mày bo-bo để viết những
trang lầm-than của dân-tộc. Xin lưu ý các “tiến-sĩ, sử gia” bỏ chạy trước
30-4-1975: Cả nước Việt Nam đã bị ăn bo-bo suốt hai năm 1979 và 1980. Riêng
tù-nhân, ăn bo-bo từ 1979 đến…hôm nay. (khi tôi viết trang này là
1987).
Bình, cóng đựng nước và ca, bát đựng bo-bo bầy hai chỗ. Đội nào chia cơm nước đội
ấy. Nhà bếp cấp-phát nước mỗi ngày ba lần, sáng và trưa, trước giờ đi lao-động,
và chiều. Ngoài bãi lao-động, đội có người đặc-trách nấu nước sôi cấp riêng để
uống lúc giải-lao. Lưng ca bo-bo, tù-nhân ăn lót dạ và lao-động 4 tiếng, giải-lao
15 phút. Không có cà-phê, dù cà-phê cá-nhân. Ở Sa Ác B, người ta bắt chúng tôi
“quân-sự-hóa” mọi việc.
Quanh năm tích-cực, bốn mùa khẩn-trương
Vượt nắng, thắng mưa, đạt chỉ-tiêu lao-động sản-xuất
Hai khẩu hiệu này chưa đủ thấm-thía kiếp người lao-cải. Bạn đọc thêm hai khẩu
hiệu nữa.
Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm
Vượt cờ xanh, giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng, thắng cờ vàng
Cái gọi là học-tập lao-động cải-tạo tư-tưởng của chúng tôi nằm trong bốn khẩu
hiệu oan nghiệt đó. Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm. Nghe mà ngậm-ngùi,
mà phẫn-nộ. Tôi chợt hiểu vì sao Nhân-văn giai-phẩm đã tư-tưởng dấy động,
đã chủ-nghĩa xung-kích. Thời của văn-chương viễn mơ, của văn-chương chẻ sợi tóc
làm tám, của tùy-bút miêu-tả cách ăn, lối mặc, kiểu uống đã đóng băng.Ở
bài Những tín-hiệu sáng-tạo giới-thiệu thi-phẩm Đời bỗng dư thừa của
Hà Huyền Chi, tôi đã viết như sau:
“Quê hương câm nín đang réo gọi những lên tiếng cần-thiết của văn-chương, của
thi-ca, của âm-nhạc, của tư-tưởng lưu đầy. Nỗi réo gọi bi thương ấy, cơ hồ, đã
chìm vào cái hoang-vu ngậm-ngùi của chữ nghĩa. Đó đây, chỉ còn là tiếng thở dài
áo-não của hồi-tưởng, chỉ còn là những lượm nhặt bụi nắng hoàng-hôn của
dĩ-vãng. Không-khí và thời-tiết xứ người, xem chừng, hết thích-hợp với người cầm
bút đã có hào-quang hai mươi năm phồn-vinh văn-học miền Nam. Chúng ta đầy đủ tự-do
để viết. Nhưng chúng ta chóng quên niềm bất-hạnh, lười biếng truy-nã thân-phận
mình, thân-phận dân-tộc mình. Nên sáng-tạo hiu-hắt . Thỉnh thoảng, cũng vài lên
tiếng ném vào sự ồn-ào chạy đua leo dốc vật-chất. Thì lại là tiếng nói chết hay
tiếng nói bêu riếu chữ nghĩa. Của những kẻ tự nhận mình đứng hàng đầu, thống-lĩnh
ngọn núi này, chặn lấp cửa biển kia. Rốt cuộc, mươi năm mất nước, văn-nghệ sáng
giá và văn nghệ dẫn lối đã biến thành những ngọn hải-đăng mù. Và
thành-tích ô-nhục của nó là “áo thụng vái nhau” và “áo thụng tự vái”. Mọi
vinh-quang sáng-tạo dành hết cho những người cầm bút trẻ dẫu chưa điêu-luyện và
dẫu bị nhấn chìm tội nghiệp. Hà Huyền Chi thoát bung ra cái nghĩa-địa văn-nghệ
biệt xứ. Anh không thích đào mộ chôn mình hoặc để người khác đào mộ chôn mình.
Hà Huyền Chi làm thơ, làm thơ và làm thơ… Thơ của anh không bị đồng hóa với
thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
thơ văn cột rỗng
lớp son mầu-mè tỉa-tót công-phu
thứ thơ văn tửu hậu trà dư
thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống
thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
thơ văn nằm khi bạo-lực diễn-hành
thơ văn tô móng tay khi dân-tộc đói nhăn răng
thơ văn nhẫy-nhụa môi son vênh-vang trưng diện.
Thơ Độc Ngữ
Hà Huyền Chi ngậm thống-khổ của dân-tộc anh, của chiến-hữu anh, của bằng-hữu
anh, của bản-thân anh. Anh đã biết khôn lớn từ kinh-qua thống-khổ, từ phù-ảo
sau cơn lốc nghiệt-ngã 30-4-1975. Thống-khổ tạo ra lửa. Lửa rực thơ anh. Lửa bập
bùng. Lửa thắp sáng những bùi-ngùi những xao-xuyến, những rung động nguyên khối.
Lửa thiêng Hà Huyền Chi khác hẳn lửa thiêng Huy Cận. Lửa thiêng Hà Huyền Chi
soi tỏ một nhận đường trong mù khơi tuyệt-vọng. Lửa ấy rạng-rỡ một bóng tối dầy
đặc u-mê. Nó gợi ý một thành-khẩn trả lời cho bất cứ ai tha-phương cầu-thực ở
thời-đại khốn khó hôm nay: Tôi là ai, đang ở đâu, làm gì? Khi người ta trả lời
câu hỏi này với cả tâm-hồn người ta, mọi dấu tích ô-nhục ở mọi lãnh-vực sẽ được
xóa sạch và sẽ chẳng bao giờ còn dấu tích ô-nhục mới. Người Việt Nam sẽ thương
yêu nhau bằng tình-nghĩa Việt Nam. Không còn ai bần-tiện nữa.
Đừng tranh-chấp nghệ-thuật-vị nghệ-thuật hay nghệ-thuật-vị-nhân-sinh. Văn-học,
văn-hóa và văn-hiến Việt Nam vĩnh cửu. Chớ dối gạt nhau sợ hãi nó mất mà bảo-tồn
theo cung-cách ăn cắp hay chọc mắt mù để khỏi nhìn thời-đại mình mà luận về miếng
ăn, miếng uống, manh áo, manh quần, cách ăn, lối mặc. Tất cả sẽ chỉ chứa-chan
ý-nghĩa nếu chúng ta giải-thoát được dân-tộc để còn có tổ-quốc và quê
hương”.
Theo tôi, những tác-phẩm trước 1975 của Sài gòn, những tác-phẩm gọi là tiền-chiến
cũ mèm hết hơi thở, những văn-học-sử quá sớm, những ký-sự khuôn mặt văn-nghệ mọi
người đều biết, những tùy-bút thu góp tái-bản bừa bãi, xuất-bản lai rai, chỉ là
hồi trống thu không báo hiệu một hoàng-hôn tím lạnh. Nó chẳng có tác-động gì ở
thời-đại mê sảng, thời-đại của bọn phu đào huyệt. Nó không thể bắt câm họng những
con chó điên tru-tréo bạo-lực và hình-phạt thù-hận. Chẳng còn gì trơ-trẽn hơn
phải đọc một tùy-bút uống trà tầu khi mình biết chính-xác hàng trăm ngàn
tù-nhân cải-tạo uống nước chùm-bao, nước hà-thủ-ô. Và, ở những trại tị-nạn, đồng-bào
mình uống trà cám bằng lon coca cola mài nhẵn nắp. Nhà văn có thể rửng-rưng với
chập-chùng thống-khổ của thời-đại mình, của dân-tộc mình đến thế ư?
Người ta đã chê tôi viết những tiểu-thuyết thoát-ly rung cảm cũ. Người ta muốn
tôi như Hoa thiên-lý, như Cầu mơ… Người ta cứ chê và tôi nhất-định
không trở lại kỷ-niệm cũ. Bởi vì, tôi đã ăn bo-bo. Bo-bo là cảm-hứng mới của
tôi. Bo-bo là biểu-tượng nhục-nhằn của dân-tộc tôi. Đó là trái cô-đơn tôi
tình-nguyện ngậm suốt quãng đời văn-chương còn lại. Có lẽ, nên dạy ông nhà văn
“ăn cắp, ăn vụng” một bài học về trái cô-đơn khi ông ta hỏi: “trái cô-đơn hay
là trái cật?” một cách ngu-xuẩn. Tôi nghĩ chả nên dạy ông ta. Một nhà văn “ăn vụng
thịt”, ngậm miếng thịt đầy họng thì sẽ chỉ tưởng-tượng trái cô-đơn là miếng thịt
“ăn vụng”. Và, vì ở trại cải-tạo, những ngày lễ lớn tù-nhân được ăn thịt lợn
nhưng không được ăn lòng lợn nên ông nhà văn “ăn cắp, ăn vụng” cứ mơ-ước “ăn cắp”
một trái cật mà ngậm! Trái cô-đơn, dễ gì ai cũng hái được để ngậm. Ít ra, người
ta phải kinh-qua 40 ngày đêm tự khai rã rượi linh-hồn, phờ-phạc thể-xác; người
ta phải nghe báo-cáo chết-chóc ở Chí Hoà; người ta phải khiêng bom chưa kịp nổ,
lấp hố bom đã nổ; người ta phải nhìn rõ cái sinh-động quán rượu văn-học nghệ-thuật
Hamburger viết bằng mõm, đôi khi, viết theo cung-cách gầm-gừ của bầy chó câm.
Và nữa, người ta nghe rõ tiếng sủa thô-bỉ của các lãnh-tụ Mặt-trận chửi bới lẫn
nhau vì tiền lạc-quyên “giải-phóng dân-tộc” chia-chác không đồng đều . Còn nhiều
lắm…
Chia bo-bo, nước sôi xong, các đội cũ khẩn-trương nhai, khẩn-trương nuốt và khẩn-trương
tập-họp chuẩn-bị lao-động. Hai đội mới ở lại. Khoảng nửa giờ sau, hai ông thầy
quản-giáo đến nhận học-trò mới. Thầy của Đội 17 rau xanh là Để, thầy của Đội 21
nông-nghiệp là Bản. Thầy Để mang quân-hàm thượng-sĩ, thầy Bản hạ-sĩ. Thầy Để
phát cho mỗi tù-nhân một tờ giấy, bảo khai lý-lịch. Lại lý-lịch! Thầy muốn nắm
thật vững đội. Thầy giao nhiệm-vu cho tôi gom hết lý-lịch của đội, kiểm-soát lại
rồi góp “bài” cho thầy, khi thầy hỏi. Nhờ vậy, tôi cũng “nắm” đội. Đội của tôi
có 50 người thì 44 người sinh-quán và hộ-khẩu thường-trú ở Bình Chánh, đa-số là
nông-dân, vài người đã đi lính, đã làm cảnh-sát, thợ nhà in. Tất cả đều trẻ, từ
ông Quản già, đều can tội phản-động chung một vụ.
Ban giám-thị chọn lựa dân làm rẫy vào đội rau xanh là sáng-suốt. 44 tù-nhân phản-động
Bình Chánh có cha con ông Quản (người con tên Học), ba anh em ruột thằng Lợi,
hai anh em ruột thằng Huỳnh được kể như “đoàn-tụ gia-đình” trong một đội. Sáu
người không thuộc thành-phần nông-dân còn lại là:
1- Phạm Kim Sơn. Anh này ở BC Chí Hoà khoe rằng anh là hải-quân Trung-úy, trốn
trình-diện học-tập, đi làm phản-động và bị bắt trong một trận đánh. Lý-lịch anh
ta khai với quản-giáo Để thì anh là Trung-sĩ, can tội vượt biên.
2- Trần Quang Thạch. Anh này lớn tuổi, khai là y-sĩ thiếu-tá bị đuổi khỏi
quân-đội VNCH, can tội lý-lịch mơ-hồ, nhà ở đường Công Lý gần trường Marie
Curie.
3- Đặng Hoàng Hà. Can tội phản-động hiện-hành.
4- Nguyễn Trường Thanh, giáo viên. Can tội phản-động hiện-hành, tính nết bất-thường.
5- Lê Văn Hoán, lớn tuổi, can tội phản-động hiện-hành, bố vợ của Thanh.
Và… tôi.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao nhiều “hào-kiệt” hơn. Trung sĩ Phạm Kim Sơn
thích tỏ ra …trí-thức và ưa lý-luận. Anh ta còn trẻ lại ham nói những điều mình
chưa hề biết. Trần Quang Thạnh nghệ-sĩ lắm, đàn nguyệt tà-tình, từng là
tình-nhân của Út Bạch Lan, vui tính và cởi mở. Đặng Hoàng Hà, em ruột Đặng Hải
Sơn, giao-du với Phạm Kim Sơn là một cặp.
44 người Bình Chánh hiền-lành. Chỉ có 2 làm phản-động thật sự, còn bị
tình-nghi. Đảng CSVN thực thi châm-ngôn:”Giết oan hơn tha lầm”. Và họ đã nâng tỷ-lệ
tù chính-trị lên mức kỷ-lục.
Chúng tôi làm quen nhau, trao đổi chuyện gia-đình….
° ° °
Hôm sau,
chúng tôi vào lao-động. Tập họp ở sân trại với các đội cũ, tôi mở to mắt nhìn
khẩu-hiệu Lao-động là vinh-quangtreo cao trên cổng trại. Đằng sau cái bảng
gỗ, phía bên ngoài, bạn đã biết rồi, danh-ngôn Hồ chủ-tịch Không có gì quý
hơn độc-lập, tự-do. Khi bước vào Sa Ác, bạn được nhắc-nhở lời Bác “Không có gì
quý hơn độc-lập, tự-do”. Định-nghĩa của danh-ngôn Hồ chủ-tịch là căn nhà, cái cầu-tiêu,
hai ngọn đèn và những câu báo-cáo đi đái, đi ỉa. Và cửa nhà tù khép lại, chặn
then và khoá kỹ. Sự mỉa mai không dành cho chúng ta. Nếu biết suy-luận,
danh-ngôn Hồ chủ-tịch ngoài cổng nhà tù là ý-chí chiến đấu của ta. Phải, không
có gì quý hơn độc-lập, tự-do; không có gì quý hơn tự-do khi ta vào tù, khi
dân-tộc ta mất nó. Không biết suy-luận thì bạn sẽ cặm-cụi vẽ chân-dung Hồ Chí
Minh, sẽ “ăn cắp cháy, ăn vụng thịt” như ông nhà… văn-học nghệ-thuật Tạ Tỵ.
Lao-động là vinh-quang. Để xem, vinh-quang của chúng tôi nó ra sao.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao xuất trại đầu tiên. Tổng-thư-ký nhật-báo Sống, cha
đẻ của hai nhân-vật hí-hoạ Hách-xì-xăng và thằng Ngọng, biểu-diễn
báo-cáo.
- Chú ý. Đứng dậy. Nón mũ dở ra cầm tay phải lật ngửa. Ca-cóng cầm tay trái.
Hai hàng dọc nhìn đằng trước …thẳng. Thôi.
Đằng Giao xoay người, ngẩng mặt ngó về phía điếm gác:
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 21 nông-nghiệp tổng-số 50, lao-động 50, hiện diện đủ, chờ
lệnh cán-bộ.
- Cho đi.
- Rõ.
Quân-sự-hoá mà. Ra khỏi cổng mới được đội nón mũ. Văn-hào Nguyễn Mạnh Côn le te
theo sau, bị gỡ luôn kính cận khi qua điếm gác. Tác-giả Hoà-bình, nghĩ gì
làm gì? đã được trả lời câu hỏi dầy ngót 500 trang sách.
Đến lượt đội của tôi xuất trại. Đội-trưởng đi sau cùng. Tôi thấy trực-trại Hưng
đếm tù và kiểm-soát ca-cóng tù mang theo. Trực-trại có…trực-giác công-an. Hắn
mà bắt đội nào dừng lại, y rằng phát-giác được tù-nhân bỏ gạo vào cóng hay nhét
áo không đóng dấu trong xô. Tù-nhân này sẽ bị hạch hỏi gạo và áo không đóng đấu
âm-mưu gì? Thường là âm-mưu trốn trại. Trốn trại có nhiều cách. Hoặc đêm khuya
khoét tường vượt ngục. Hoặc đợi một đêm mưa tầm-tã dỡ mái tôn đào-tẩu. Hoặc ra
đi ngay ở bãi lao-động. Cách đi này, muốn chắc ăn, phải chuẩn-bị kỹ-lưỡng.
Nghĩa là tìm chỗ dấu quần áo, thực-phẩm ngoài bãi. Mỗi ngày đem theo một chút.
Trại nào cũng đóng dấu lên hết quần áo của tù-nhân, bất kể quần áo lao-động hay
quần áo… để diện khi về, quần áo trại phát hay quần áo gia-đình gửi. Dấu của Sa
Ác mang bí-số hòm thư TH6, chiều ngang 8 phân, chiều dài 20 phân. Dấu đóng ở
lưng áo hai cái, ngực áo hai cái; ở quần bốn cái, bằng thứ mực xà-phòng giặt
không phai. Tù-nhân nào bỏ sót quần áo không chịu đóng đấu, trực trại khám
hành-lý, sẽ bị làm kiểm-điểm và bị “đánh dấu” có âm-mưu trốn trại. Muốn vượt ngục
thành-công, cần có bộ quần áo không bị đóng dấu và thực-phẩm đề-phòng lạc trong
rừng vài hôm. TH6 B chưa hề có tù-nhân nào trốn trại.
Quản-giáp Để đợi chúng tôi ngoài cổng trại. Ông thầy dẫn chúng tôi tới hiện-trường
lao-động. Hai vệ-binh canh gác chúng tôi. Ở trại lao-cải, thằng công-an nào
cũng có thể “giáo-dục” tù-nhân. Vậy chúng nó là thầy hết trọi. Hiện-trường
lao-động của chúng tôi sát khít cơ-quan và cách bờ sông Ray 30 thước. Đó là khoảng
đất có nhiều cây cháy vì bom lửa và năm bẩy hố bom lớn, sâu trũng. Cỏ gai và cỏ
nhỏ chằng-chịt. Chúng tôi sẽ trồng rau ở đây. Thầy Để gom 50 tờ khai lý-lịch,
thầy gọi riêng từng tù-nhân “làm việc” rất khẩn-trương rồi thầy chọn 10 người
đi lấy dao, cuốc, xẻng, búa chim, xe. Xe là miếng tôn rỉ sét, hai mép dọc bọc lấy
hai khúc cây dài, đóng đinh cho khỏi tuột, dùng để khiêng đất. Còn là tre đan
khổ miếng tôn, luồn qua hai khúc cây. Và cộng-sản gọi rằng “cái xe”! Chúng tôi
phải phát quang và làm phẳng phiu khu đất này rồi mới vỡ đất, lên luống trồng
rrau.
Tôi quên chưa kể chi-tiết này: Ra tới hiện-trường lao-động, đội phải tập-họp
“hai hàng dọc, nhìn đằng trước thẳng, nghiêm” để Đội-trưởng báo-cáo với vệ-binh.
- Báo-cáo cán-bộ, Đội 17 rau xanh tập-họp đủ 50, chờ lệnh cán-bộ.
Vệ-binh sẽ phán:
- Cho phép lao-động.
Bấy giờ tù-nhân mới cất ca-cóng, cởi quần áo, mình trần xà-lỏn “đóng góp cho sự
phồn-vinh của tổ-quốc”. Sau mỗi buổi tan lao, Đội-trưởng tập-họp đội, báo-cáo vệ-binh.
Vệ-binh cho phép đi tắm. Tắm xong, Đội-trưởng tập-họp đội, đếm đủ người,
báo-cáo vệ-binh. Vệ-binh cho về trại. Vệ-binh đứng canh cho đến khi đội nhập trại.
Đội-trưởng miễn lao-động chân tay nhưng lao-động… mắt. Cứ khoảng 20 phút lại đếm
tù và đứng cách vệ-binh 3 thước báo-cáo quân-số đang lao-động. Tù-nhân trốn trại,
Đội-trưởng lãnh búa tạ. Đi cải-tạo, bị chỉ-định làm Đội-trưởng là ôm tai-hoạ
chưa hiểu ngày nào nó giáng xuống số-phận mình. Vệ-binh không thể đứng 8 tiếng
đồng-hồ, lại không thích ngồi dưới gốc cây, trên gò mối nên mỗi đội đều có hai
cái ghế đẩu thấp dành cho vệ-binh. Nhiệm-vụ của Đội-trưởng là bưng ghế cho vệ-binh
ngồi và cất ghế lúc tan lao.
Khi bưng ghế cho vệ-binh ngồi, tôi lại nhớ người bạn đạo-diễn Hoàng Vĩnh Lộc.
Tôi quên mất năm nào của thập-niên 70, hãng phim Giao Chỉ tiếp-tân ở Majestic
giới-thiệu truyện phim Người tình không chân-dung mà hãng sắp thực-hiện.
Buổi tiếp-tân có Tổng-trưởng Ngô Khắc Tỉnh. Ông ta được mời phát-biểu về truyện
phim mà ông có vinh-hạnh đọc trước. Vì cái bục cao mà Ngô Khắc Tỉnh lùn nên ông
khó lòng đọc bài phát-biểu viết sẵn đặt mặt bục. Hoàng Vĩnh Lộc nhanh chân kiếm
cái két nước ngọt đem tới cho Ngô Khắc Tỉnh bước lên. Tôi vỗ vai Hoàng:
- Phim của mày có quanh cảnh …bưng két này không?
Hoàng chửi tôi:
- Đ.m…, mày chơi ông đau quá!
Rốt cuộc thì tôi cũng lại bưng ghế. Kẻ dám lên Đài truyền-hình Huế năm 1972
cùng Phạm Duy, Tô Thùy Yên nhắn giùm lời hạ-sĩ Sứt, thủy-quân lục-chiến điều-khiển
hoả-tiễn Tow, thách-thức Võ Nguyên Giáp hãy cho tăng Liên-xô vào, ai ngờ có
ngày lãnh cái tát của cai ngục Phách và bưng ghế cho vệ-binh chăn trâu cắt cỏ.
Có lẽ, người ta đánh giá tôi khiếp-nhược và đầu hàng cộng-sản qua cái bi-hài-cảnh
này. Tôi chưa biết, nếu Tố Hữu bắt tôi bưng ghế, thái-độ của tôi sẽ ra sao. Chữnếu không
bao giờ có. Người cộng-sản kiêu-ngạo lắm. Họ đã chỉ để bọn chăn trâu cắt cỏ, bọn
nhãi ranh trên dưới 20 tuổi giáo-dục chúng ta. Tôi sẽ chẳng có phản-ứng gì với
đối-tượng chăn trâu cắt cỏ. Đối-tượng chiến-đấu của tôi là chủ-nghĩa cộng-sản
và lãnh-tụ cấp ủy-viên Bộ Chính-trị trung-ương Đảng. Rõ rệt nhất, tôi không
thèm rên-rỉ, bất-bình những hình-phạt của thù-hận giáng xuống thân-phận tôi.
Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người chấp-pháp miền Nam ở Sở Công An: “Có
nhiều vị anh-hùng không chết ở chiến-trường mà bị chết nhục ở cái lỗ chân trâu.
Anh chớ dại chết vì cái lỗ chân trâu.” Tôi chưa quên lời khuyên tâm-cảm của người
cai ngục khác thường tên Vũ, Trưởng-khu A4 Chí Hoà: “Các anh không ở đây lâu.
Tôi cũng không ở đây lâu. Tôi không thích công-tác quản-giáo tù-nhân. Tôi ít tuổi
hơn các anh, xin các anh một điều : Đừng chống đối cán-bộ quản-giáo, bất cứ nơi
nào. Họ không có quyền bắt các anh, không có quyền tha các anh, nhưng có quyền
hành-hạ các anh, đầy-đọa các anh vào chỗ chết thảm”.
Sự nổi tiếng của tôi là một bất-lợi lớn, một bẽ-bàng cho tôi khi tôi vào tù.
Tôi đã tạo ra những nhân-vật thần-tượng, những mẫu người hùng lý-tưởng trong tiểu-thuyết
của tôi. Độc-giả say mê nhân-vật thần-tượng rồi gán-ghép cho tôi ngôi vị thần-tượng
của họ. Trước 1975, đã nhiều lần tôi khước-từ ngôi vị thần-tượng phù-ảo mà độc-giả
của tôi phong tặng cho tôi. Người nghệ-sĩ sáng-tạo khác người nghệ-sĩ trình-diễn.
Nhà văn không có thần-tượng và không thích làm thần-tượng. Thần-tượng của nhà
văn là nỗi cô-đơn. Bởi vì, cô-đơn soi sáng sáng-tạo cho nhà văn. Ở bài Một
chút tâm sự của người làm thơ trong tù, tôi viết: “Tôi làm thơ để quên mệt mỏi,
để chống ngủ sầu. Nhưng đúng nhất, tôi làm thơ để tồn-tại. Sự tồn-tại khác với
sự sống. Một số ít, trong chúng ta, quan-niệm sự sống và sự tồn-tại giống hết.
Do đó, nẩy sinh ra nhiều mâu-thuẩn, ngộ-nhận chua xót. Tôi cho rằng con người tồn-tại.
Và tôi không thù-hận con người . Thời-đại tôi, nhất là trong cảnh-ngộ tôi, tín-đồ
bắt buộc thần-tượng của họ phải thực-hiện ý muốn của họ. Họ độc-tài, quá-khích,
muốn thần-tượng của họ thù-hận những kẻ đầy đọa họ như họ thù-hận. Thần-tượng
trái ý. Họ đạp đổ thần-tượng, bài-bác và bôi bẩn. Họ thù thần-tượng cũ hơn cả kẻ
thù của họ nữa”.
Người ta trông đợi ở tôi một sự chống đối quyết-liệt bọn công-an coi tù, tôi lại
… cam đành vác ghế! Tôi không thể chống đối bọn cộng-sản giẻ rách này. Thứ nhất,
họ không phải đối-tượng của tôi. Thứ hai, tôi không thích chết dại ở lỗ chân
trâu. Thứ ba, tôi thương họ hơn là thù-hận họ.
Chưa bao giờ tôi thấy triết-lý Nguyễn Du tuyệt-diệu trong câu :”Chữ Tài liền với
chữ Tai một vần”. Tôi muốn nhắc lại câu nói bất-hủ trước khi bay đầu của người
đồng-bóng Tang Môn :”Tài-năng là cứu-cánh, đồng thời, cũng là tai-hoạ của con
người.” Cứ lèng-mèng lại khá. “Ngu-si hưởng thái-bình” là vậy. Tài-năng của tôi
còn dẫn tôi đến tai-họa khác. Và tôi nằm bẹp dí giữa sức ép của phỉ và ngụy.
Một số thư-lại Long Thành, khuyển mã của Nguyễn Văn Thiệu, một số sĩ-quan văn-phòng
, khuyển mã của Cao Văn Viên vấn nạn tôi và quy tội “làm mất nước” cho tôi. Vì
tôi đã đối-lập Nguyễn Văn Thiệu bằng cách đi … ăn mày! Đối-lập, với nhà văn là
phản-kháng, là nghĩa-vụ của người cầm bút, trừ những anh ký-giả nhà nước, những
ông nhà văn giám-đốc, chánh sở…. Ở Nhà tù, tôi đã viết rõ sự cần-thiết phản-kháng
để làm thăng-hoa đời sống. Tôi xin ghi lại những câu thơ Trần Dần mà tôi coi
như kim-chỉ-nam của tất cả những người cầm bút:
Chẳng thể rúc kèn cũ rích
vác loa mồm kêu:
“Hiện tại rất thiên-đường!”
Không
Thiên-đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận triệu thiên-đường
Đi mãi
chẳng bao giờ thoả.
Đối-lập một chế-độ không bao giờ là đối-lập tổ-quốc. Chống đối, loại bỏ một chế-độ
khốn-kiếp lại là yêu-cầu cần-thiết của dân-tộc. Còn đi ăn mày vào cái ngày
báo-chí Sàigòn xuống đường đi ăn mày thì tôi đã, chẳng những không đi mà còn chống
đối. Người cầm bút chiến-đấu bằng tư-tưởng, chống đối bằng tư-tưởng. Người cầm
bút phẫn-nộ bằng chữ-nghĩa, không phẫn-nộ bằng bị gậy đi ăn mày, diễn trò hề rẻ
tiền dưới mắt báo-chí thế-giới. Những kẻ không biết viết và viết chẳng ra gì mới
đối-lập kiểu ăn mày bệ-rạc.
Ăn mày là ai?
Ăn mày là ta,
Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày.
Cũng thế, đói tư-tưởng, rách chữ-nghĩa thì hoá ra nhà văn, ký-giả ăn mày.
Hình-tưởng tác-giả Cậu chó đi ăn mày phản-kháng đi! Tôi e rằng không
có tác-dụng gì cả. Tuy nhiên, ký-giả ăn mày vẫn còn một điểm để đề-cao cái nền
dân-chủ què-quặt của Nguyễn Văn Thiệu. Dẫu sao, người ta vẫn được quyền biểu-diễn
trò chơi dân-chủ rất hạ-cấp ấy. Và tôi là nạn-nhân khi nằm tù. Người ta mỉa mai
tôi “Bây giờ dám đối-lập, dám đi ăn mày không?”! Tôi im lặng. Cái bọn vấn nạn
và kết tội tôi không có kiến-thức. Họ thua cộng-sản xa. Người cộng-sản mới hiểu
nổi nhà văn chống đối họ.“Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều cần dấu-diếm
kỹ trong đầu óc của chúng” 4. Cựu-ước-kinh viết: “Có một thời
im lặng và một thời lên tiếng”. Thời lên tiếng không phải là thời nằm ở nhà tù,
trại tập-trung. Lên tiếng chống đối ở nhà tù là dại, lên tiếng chống đối lũ cai
tù chăn trâu cắt cỏ là ngu. Lên tiếng tranh-chấp với bạn tù hẹp-hòi, thiển-cận
là xuẩn. Vậy “xếp tàn lại để dành hơi” cho một lên tiếng trong tương-lai.
Và bình-thản bưng ghế. Vì “trại-viên cải-tạo phải triệt-để tuân-hành mệnh-lệnh,
chỉ-thị của cán-bộ”, Nội-quy ghi rõ. “Hùm thiêng khi đã sa-cơ cũng
hèn”. Bưng ghế không nhục bằng “Để chúng dắt đi tựa trâu bò” như Hồ Chí Minh tự
thú và không bỉ-ổi bằng “ăn cắp, ăn vụng”. Thoạt đầu, tôi rất khó chịu sự
vinh-quang của “lao-động” bê ghế. Chúa ơi, Ngài dạy rằng:
“Đừng chống cự kẻ ác. Trái lại, hễ ai vả má hữu ngươi, hãy đưa má kia cho họ
luôn. Hoặc ai muốn kiện ngươi để lấy áo trong, hãy để họ lấy luôn áo ngoài nữa.
Hay là hễ ai muốn bắt ngươi đi một dặm, hãy đi hai với họ. Ai xin, ngươi hãy
cho, ai muốn mượn của ngươi thì đừng làm ngơ. Các ngươi đã nghe phán rằng: “Hãy
yêu người lân cận và ghét kẻ thù nghịch”. Nhưng ta nói cùng các ngươi, hãy yêu
kẻ thù nghịch các người và cầu nguyện cho kẻ bắt-bớ các ngươi hầu cho các ngôi
được làm con của Cha các ngươi ở trên trời. Bởi vì Ngài khiến mặt trời soi trên
kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công-chính cùng kẻ bất-nghĩa. Nếu các
ngươi yêu kẻ yêu mình thì có được phần thưởng gì đâu? Kẻ thâu thuế há chẳng làm
như vậy sao? Lại nếu các ngươi chỉ chào anh em mình mà thô, thì có lạ gì hơn
ai?” 5
Con đã tuân lời Ngài, không “chống-cự kẻ ác”, con đã bê ghế cho “kẻ thù nghịch”,
con chưa thấy mặt trời soi trên kẻ thiện, mưa xuống người công-chính. Mà chỉ
nghe những lời nguyền-rủa nghiệt-ngã, mà chỉ chịu đựng những vu oan giáng họa tối
tăm mặt mũi. Nhưng, Chúa ơi, hơi may cho con là những kẻ nguyền-rủa con không
phải là “kẻ yêu mình”. Họ là khuyển mã của Nguyễn Văn Thiệu, Cao văn Viên, là
đám quốc-gia bần tiện, nhơ bẩn, con có nên yêu họ, có nên đưa má hữu cho họ tát
thêm sau khi họ đã tát má tả?
Quốc-gia bẩn kết tội tôi làm mất chế-độ khốn-kiếp của chúng nó, thù-hận tôi, chụp
lên đầu tôi chục kiều mũ đê-tiện.
Cộng-sản ác kết tội tôi kéo dài chiến-tranh, đầy-tớ Mỹ ngụy, biệt-kích văn-nghệ,
giam nhốt tôi, đầy-đọa tôi.
Tôi kẹt giữa hai sức ép ròng-rã tháng ngày lao-cải. Cai tù nhìn tôi như một tội-đồ
nguy-hiểm. Tù-nhân bị cộng-sản tước-đoạt đặc quyền đặc-lợi chế-độ cũ nhìn tôi
như một kẻ phá hoại. Tù-nhân độc-giả của tôi nhìn tôi như một tên khiếp-nhược.
Họ trông đợi hành-động ngoạn-mục của tôi trong tù như hành-động ngoạn-mục của
nhân-vật thần-tượng của tôi trong tiểu-thuyết. Cuộc đời có bao giờ là tiểu-thuyết?
Tiểu thuyết đã được hiểu như cuộc đời! Họ chờ đợi tôi phẫn-nộ. Tại sao họ không
chờ đợi văn-hào Nguyễn Mạnh Côn cùng trại với tôi, lỗi-lạc hơn tôi? Họ bảo ông
Côn già rồi, lờ-mờ rồi, hết sáng-suốt vì đói thuốc phiện rồi. Họ muốn tôi làm vật
tế thần, làm kẻ hy-sinh. Để họ hoan-hô và nếu tôi chết, họ tưởng-niệm. Còn họ,
họ thụ-động.
Không, tôi không khoái làm liệt-sĩ hay dũng-sĩ. Tôi không thích chết sảng:
không thích vào cachot vì bị xúi dục. Tôi hết là “thần-tượng” của những người cổ
ý gán ghép tôi tước-vị thần tượng. Và bất hạnh xẩy đến cho tôi. Dài dài. Cái
đám nhân-loại ích-kỷ trong nhà tù cộng-sản chỉ muốn tôi chết-. Mà tôi, tôi cần
sống để viết và để tồn-tại. Vậy thì tôi bưng ghế như mọi tù-nhân bị cưỡng-bức
sai vặt những công việc ngoài ý muốn.”Ở đời trăm sự đều cay đắng Cay đắng đâu bằng
mất tự-do, Mỗi lời mỗi việc không tự chủ . Để chúng dắt đi tựa trâu bò” 6. Hồ
Chí Minh chấp nhận bị “dắt đi tựa trâu bò” để trở thành chủ-tịch Hồ Chí Minh
“vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp” cộng-sản. Những thằng cộng sản cắc ké khác đã
“bất khuất”, đã chết ngu. Để chỉ là liệt-sĩ chẳng có cái gì đề lại và chẳng ăn
cái giải gì. Tôi yêu câu thơ của Nguyễn Bá Trác: “Chí ta ta biết, lòng ta ta
hay”. Cái chí của tôi, rồi người ta sẽ biết, là những gì tôi để lại sau khi tôi
nhắm mắt.
Tâm sự của tôi, ở tù và ra tù, tôi gửi trong bài Gọi Tự Trường.
Tử Trường, Tử Trường, ơi Tử Trường
Xưa hay là sau đều thê-lương
Xưa chịu nhục-hình cho sử-ký
Sau làm sáng tỏ nghĩa yêu thương
Đã thiết-tha nhiều chuyện Lý Lăng
Tiếng than sĩ-khí buốt cung đàn
Ai dám vì ông mà chuộc tội
Cõi đời ngu-muội phán lăng-nhăng
Ông đau vết hoạn lưỡi dao hèn
Từ đó cung giương một mũi tên
Theo hồn tài-tử, tên bay vút
Ngạo-nghễ hành hình Tư Mã Thiên
Cái bọn chê ông chết hết rồi
Nhưng ông sống mãi như mây trôi
Hai nghìn năm ngỡ chừng gang tấc
Mảnh đất oan này lại có tôi
(Thơ Tù – Nam Á Paris, 1984)
Tôi đã đọc một điều tuyệt diệu trong Luận Báo Vương Tam Muội “Oan ức
không cần biện bạch vì biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối tăng
thêm”. Thế mà tôi đã phải biện-bạch. Bởi vì cả phỉ lẫn ngụy vây hãm tôi, cùng
chơi tôi một đòn quyết-liệt: Bôi bẩn, nhục mạ tôi để vô-hiệu-hóa uy-tín và khả-năng
chiến-đấu chống cộng-sản bằng tư-tưởng của tôi.
Tôi đã biết một phái-đoàn Amnesty International từ Luân Đôn sang Việt Nam, xin
vào được Chí Hòa thăm Cao Dao và tôi, năm 1978. Tôi bị khước từ gặp AI 7. Trực-giác
của tôi cho tôi biết tôi sẽ được cứu. Vì phải thả Cao Dao và tôi ra để “thể-hiện
tình-nghĩa anh em quốc-tế” đánh đổi sự tự-do cho vài nhà văn, nhà báo cộng-sản
Nam Dương bị chế-độ Suharto giam nhốt, cộng-sản mở chiến-dịch hạ gục Cao Dao và
tôi, trước khi họ tha cho làm phúc. Cao Dao bị gán nhãn-hiệu thảm hơn, “ăng-ten
trong trại cải-tạo”. Cộng sản nửa kín nửa hở phụt tin rỉ tai cho tù-nhân. Họ chọn
những đối-tượng ghét chúng tôi. Họ bịa đủ mọi chuyện, tù-nhân thêu dệt thêm.
Ông “nhà văn lão thành” Toan Ánh, ký Lã Vi, không hề bị bắt. Biết gì mà phao
tin bẩn? Hồ sơ của công-an đâu phải thông-cáo dán tường mà ai cũng đọc, cũng biết.
Đến như ông Tạ Tỵ đã học tập cải tạo, vẫn vô lý như vầy: “Nếu cách-mạng tha
tôi, tôi tình-nguyện báo-cáo hết những tên làm văn-nghệ CIA ở Sàigòn”. Vẫn ông
Tạ Tỵ: “Câu này do chính tên công-an nói lại cho tù nghe, xong nó mỉa-mai:
Chúng tôi đâu có cần anh Duyên Anh chỉ-điểm. Chúng tôi đã “nắm vững”. Nghề của
chúng tôi mà”! 8
Nói ông Tạ Tỵ vô-lý ác ý vì:
1. Các nhà văn quân-đội đi trình-diện từ tháng 6-1975. Tôi bị bắt tháng
4-1976.
2. Các nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến-dịch 2-4-1976 1976 vào tù cả làng,
có cần ai chỉ-điểm.
3. Không có nhà văn-nghệ nào là CIA cả. Ông Tạ Tỵ bịa ra và đã làm giảm tư-cách
của văn-ghệ Sàigòn. Chỉ có công-an đổ tội văn-nghệ Sàigòn làm việc cho
CIA.
4. Ông Tạ Tỵ ngoan-ngoãn nghe và tin tên công-an cộng-sản tiết-lộ những điều nhằm
bôi bẩn tôi. Ông ta ngu quá không biết lý-luận và cũng không tự hỏi công-an bôi
bẩn tôi nhằm mục-đích gì.
5. Công-an coi tù không có ngôn-ngữ “Nghề của chúng tôi mà”. Coi tù là coi tù,
nó mù tịt những gì tù-nhân khai với chấp-pháp.
Cái đắc chí của ông Tạ Tỵ là ông dẫn chứng “chính tên công an nói lại cho tù
nghe” những lời bêu nhục tôi là bằng-chứng cụ-thể rằng cộng-sản đã mở chiến-dịch
hạ gục uy-tín chống cộng tự nguyện của tôi trước khi tha tôi. Nó đánh tôi trong
tù, ngoài đời; trong nước ngoài nước. Nó muốn tư-tưởng chống cộng của tôi tê-liệt,
tôi về cũng như tôi chết. Bây giờ, chiến-dịch ấy trở thành lố-bịch. Công-cụ của
nó rách bươm. Bây giờ, những con chó điên đã hết sủa bậy. Bây giờ là thời lên
tiếng của người công-nghĩa . Bây giờ còn là thời của phu đào mồ phản tỉnh khơi
sâu nấm huyệt tập-thể chôn vùi những tên điêu-ngoa, bịa đặt, gian dối, a-dua
toa rập. Bây giờ, trên nước Mỹ tự-do, nước Mỹ không có nhà tù cho những người đối-lập
tư-tưởng, nước Mỹ không có nhà tù của những thằng quốc-gia bẩn nhãn hiệu Nguyễn
Văn Thiệu, Cao Văn Viên, nước Mỹ không có trại tập-trung của cộng-sản, người ta
định-nghĩa anh-hùng và khiếp-nhược ra sao về thái độ của vài nhà văn Hamburger
đối với lũ quyền-uy ảo-tưởng?
--------------------------------
Minh-suyễn được tha năm 1982. Năm 1985 Minh-suyễn chết.
Gia-đình chôn cất hòm đắt tiền, phu nhà đòn quốc-doanh đào mả, lấy hòm, vất
xác Minh-suyễn trên miệng huyệt. Minh-suyễn được chôn lần thứ hai (Theo tin của
bạn tù mới qua Paris)
|
|
Ở tù cũng như ở trại cải-tạo, y-tá không cần-thiết phải là
y-tá tốt-nghiệp ở một trường nào, chỉ cần đọc được tên vài thứ thuốc và cách
trị bệnh thông-thường. Thí-dụ: y-tá Đoàn Văn Toại, Lý Sen…
|
|
Thứ gạo Trung-quốc viện-trợ để lâu mục nát, vo là tan thành bột.
|
|
Huỳnh Bá Thành. Vụ án hồ Con Rùa, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ, 1982.
|
|
Tân-ước, theo Matthew, ấn bản của The Gideons International,
trang 11.
|
|
Hồ Chí Minh, Ngục trung nhật-ký.
|
|
Năm 1984, nhân-viên của AI trung-ương ở Londres viết thư cho
tôi có nhắc vụ không được gặp tôi ở Chí Hoà.
|
|
Tạ Tỵ, báo đã dẫn.
|
CHƯƠNG 4
Những
ngày đầu “làm quen lao-động”, thầy quản-giáo Để cho đội của tôi tự-do. Mệt thì
nghỉ. Muốn nghỉ bao lâu tùy ý. Dẫu là nông-dân nhưng nhiều tháng nằm tù không
lao-động, tay chân sưng mọng, phồng nước đau xót. Rồi những chỗ mọng nước
vỡ ra, chai lại. Đó là lúc tù-nhân phải lao-động đúng thời-khóa-biểu quy-định
theo tiếng kẻng. Kẻng của Sa Ác B là vỏ trái bom. Đánh kẻng bằng khúc sắt tròn
nhỏ, âm-thanh của nó vang vọng chu-vi một cây-số. Có 11 hồi kẻng trong ngày. Kẻng
báo thức sáng. Kẻng tập họp đi lao-động. Kẻng giải-lao. Kẻng vào lao. Kẻng tan
lao. Kẻng báo thức trưa. Kẻng tập họp lao-động. Kẻng giải lao. Kẻng tan lao. Kẻng
tập họp điểm danh vào nhà. Kẻng báo ngủ. Chủ-nhật chỉ có ba hồi.
Giai-đoạn đầu tiên của chúng tôi là chuẩn-bị đất trồng rau. Nghĩa là phát
quang. Tất cả các đội đều phải phát quang giai-đoạn đầu. Đội của tôi chia thành
5 tổ. Một tổ hạ những cây lớn cháy lưng chừng, bứng gốc lên rồi khiên cây chất
một chỗ. Những cây bị bom napalm làm cháy không lớn lắm, ở khu-vực lao-động của
chúng tôi, nên đào đất sâu quanh gốc, bứng cũng dễ dàng. Một tổ san-bằng các gò
mối cao lấy đất lấp hố bom. Một tổ khiêng đất lấp hố bom. Hai tổ chặt cây nhỏ,
cỏ tranh đầy gai xếp thành đống.
Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao được giao công-tác mở đường xuyên khu AB để xe
vận-tải có thể lưu-thông. Hai bên đường cũ có vài trái bom chưa nổ. Muốn đắp đường
rộng, phải đào bom khiêng đi. Những trái bom cắm sâu xuống đất. Đội của Đằng
Giao có hai quái-nhân và một lý-thuyết-gia “cái gì cũng có thể làm được”.
Quái-nhân thứ nhất. Trung sĩ Phạm Thái Ất – khi chưa khai lý-lịch riêng nộp quản-giáo
xưng là Đại-úy không-quân trốn trình-diện cải-tạo. từng bay trên phản-lực điều-khiển
B52 trút bom, với tù hình-sự khoe là trung-ương tình-báo cộng-tác với CIA –
lính địa-phương Long Khánh, người luôn luôn tỏ vẻ hơn mọi người khác. Quái nhân
thứ hai, Tạ Dung, võ-nghệ đầy mình, khỏe như voi, nửa điên nửa khùng, từng cầm
ngang cây cuốc đứng giữa bãi nắng, nhìn mặt trời mà cười hết nửa buổi khi bị kỷ-luật.
Thầy quản giáo Bản điếc không sợ bom nổ, thích chơi bạo, muốn đào bom khiêng
đi. Thầy nghĩ các anh Cù Chính Lan, La văn Cầu, Bế văn Đàn dám chơi bạo, thầy sẽ
dám… bắt tù-nhân chơi bạo. Thầy hỏi ý-kiến lý-thuyết-gia Nguyễn Mạnh Côn. Anh
Côn bảo bom đã rơỉ mà không nổ thì không bao giờ nổ!
Đằng Giao kể xong, lắc đầu:
- Tôi sợ bố Côn quá. Bố ấy cứ làm như. . . khoa-học giả-tưởng.
Tôi hỏi:
- Đào bom không?
- Đào. Đóng phim xì-cu-mun phước-thiện. Sợ xón đái ra quần. Vừa móc đất bằng
tay vừa run, vừa buộc giây vừa rét, vừa khiêng vừa niệm Phật.
- Mấy quả?
- Mới hai.!
- Còn mấy?
- Ba.
- Để đâu?
- Giữa bãi vắng. Chất củi, cỏ chung quanh, châm dầu, đứng xa liệng bùi nhùi lửa
vào rồi chạy.
- Nổ không ?
- Củi cháy hết mà nó đếch nổ.
- Bố Côn đã đúng. Còn cu Ất?
- Nó bảo bom cắm xuống đất lâu ngày nó…chết rồi! Thằng Tạ Dung hung-hăng
khiêng.
Chúng tôi đã đào bom chưa nổ, khiêng bom và lấp những hố bom đã nổ. Tôi có dịp
suy-nghĩ về những trái bom chưa nổ và những hố bom. Dân-tộc bất-hạnh của chúng
ta là nạn-nhân của Mỹ và Liên-xô, tư bản đô-la và vô-sản rúp. Mỹ đem bom tàn-phá
quê-hương ta, chúng nó đã trút bom xuống mồ mả tổ-tiên chúng ta, khai quật
hài-cốt tổ-tiên chúng ta, mà chúng nó bảo chúng nó khai-phóng dân-chủ, bảo-vệ tự-do
cho chúng ta. Nhưng rồi chúng nó cuốn cờ chạy làng, sau một phản-phúc đê-tiện
nhất nhân-loại. Chúng nó chạy làng, dắt theo bọn thống-trị cầy cáo tay sai.
Chúng tôi ở lại. Cộng-sản bắt chúng tôi khiêng bom Mỹ chưa kịp nổ và lấp hố bom
đã nổ. Suy-nghĩ hóa thành bài thơ:
Nhân danh ai?
Những trái bom chưa nổ
Những trái bom chưa nổ
Nằm ngổn ngang đâu đó
Nằm ngổn ngang đâu đây
Ta tháo gỡ từng ngày
Những trái bom đã nổ
Vực sâu còn đâu đó
Vực sâu còn đâu đây
Ta lấp kín từng ngày
Nhân danh ai bom nổ
Người chết không nấm mộ
Nhân danh, nhân danh ai
Người sống tìm tương lai
Gỡ bom và lấp hố
Ta vác thánh giá này
Vác bom chưa kịp nổ
Ta chịu đau thương này
Đem thân ta lấp hố
Văn minh nào sẽ nở
Trong nhân loại một mai
(Thơ Tù – Nam-Á Paris, 1984)
Cái động của trại tập-trung khác hẳn cái tĩnh của nhà tù.
Nó gầm-gừ đe-dọa cắn xé da thịt. Nếu tôi được trải qua 10 trại lao-cải từ Sơn
La vào Thanh Hóa. Lao Bảo, Kàtum…, chắc chắn, tôi sẽ viết nổi một Goulag như
một báo-cáo tội-ác của cộng-sản với loài người . Tội ác ấy, một nửa dân tộc Mỹ
phải gánh chịu. Phần thứ hai của Trại Tập-trung, tôi sẽ viết theo lời kể của
các tù-nhân đã ở các trại khác nhau. Bạn sẽ biết trại An Túc ở Đà Năng, nơi
tù-nhân bị tù-nhân thủ-tiêu và các tù-nhân bác-sĩ phản tỉnh thay phiên nhau tự
sát ra sao.
Chúng tôi đã lao-động nửa tháng. Đằng Giao đã hết “tự-hào” khi bưng ghế cho vệ-binh.
- Bọn nó hách-xì-xằng hơn cụ Hách xì-xằng và ngọng hơn thằng Ngọng của tôi, ông
thầy ạ?
Anh ta chán nản:
- Số khốn-nạn mới bị làm Đội-trưởng, toàn những thằng muốn làm tù cha. Nói với
mình thì chúng nó bất-chấp, đứng trước quản-giáo chúng nó rúm lại. Phản-động
cái gì!
- Có nhiều loại phản động.
- Tướng sư-đoàn đếch chỉ-huy nổi một đội tù cà-chớn.
Đằng Giao và tôi ăn cơm chung ở Sa Ác. Chúng tôi đã được viết thư về báo tin
cho gia đình biết trại mới. Ở đây, hai tháng thăm nuôi một lần và gặp vợ con hai
mươi phút.
- Tôi rầu bố Côn quá.
- Ông ấy lẩn-thẩn rồi. Thuốc phiện làm ông ấy sáng-suốt và thuốc phiện hủy-diệt
ông ấy toàn diện.
- Ông ấy ra bãi được ngồi chơi thì cứ ngồi chơi, lại ham ý-kiến lao-động.
Viết về anh Nguyễn Mạnh Côn thật là khó. Vì anh ấy đã chết. Ba chúng tôi Đặng Hải
Sơn, Đằng Giao và tôi thoả-thuận với nhau, nếu còn sống ra đời tự-do, sẽ quên
anh Côn. Những nếu có kẻ nào phong thánh, phong thần cho anh Côn và ông Hồ Hữu
Tường, bổn-phận của chúng ta phải nói cho đúng. Chúng ta không thề bắt con cháu
chúng ta thờ-phụng những vị anh-hùng không bao giờ là anh-hùng. Tôi vừa đọc đâu
đó, bài của một vị tự nhận mình là chứng-nhân, bảo rằng cộng-sản đã vất anh Côn
vào biệt-giam, bỏ đói anh 3 ngày và anh chết ở đó. Điều này hoàn toàn sai.
Tù-nhân chứng-kiến diễn tiến từng ngày vụ Nguyễn Mạnh Côn ở Sa Ác, ở Paris, ít
nhất có Trần Thanh Liêm, phi-công trực-thăng; ở Mỹ, ít nhất có Đức-méo, Phó quận
và Ngô Đình Hoa, Phó quận. Văn-nghệ Sài gòn trước 1975 đã xẩy ra một vụ thật bẩn.
Là âm-mưu làm tiền nhà tỷ-phú Phạm Quang Khai. Công-ty này gồm 4 nhà văn, nhà
thơ lừng danh. Tỷ phú Phạm Quang Khai nhờ cảnh-sát gài bẫy. Bắt trọn ổ. Một nhà
văn sắp chết được miễn vào ấp. Một nhà thơ vốn là Giám-đốc Đài phát-thanh, bắt
thì xấu hổ chế độ. Vậy tha. Hai nhà vào ấp là Vũ Bằng và Mặc Thu. Sau
30-4-1975, hai nhà này được giải-phóng. Nhà văn Mặc Thu bị bắt đi cải-tạo. Nhà
“tiền chiến” Vũ Bằng không bị bắt. Ta cứ lơ-mơ lờ-mờ ghép vào vụ Nguyễn văn Thiệu
bắt Sức Mấy, Chóe…cho nó chính-trị, đối-lập chế-độ cũ. Cái dấu-tích ô-nhục tống
tiền tỷ-phú Phạm Quang Khai không thấy nhắc-nhở trong những bài báo tưởng-mộ,
truy-điệu một nhà văn nham-hiểm đã đóng kịch ăn uống với anh em chê người này,
chửi người kia rồi giăng bẫy cho Mai Chí Thọ. Không nên đề những thằng bẩn, dù
là nhà văn, đóng vai quân-tử khi sống và khi chết.
Vậy cần xét lại và viết thật chính xác. Riêng anh Nguyễn Mạnh Côn, tôi chỉ viết
về những ngày sống chung với anh ta ở Chí Hòa và Sa Ác. Những chuyện ứng-cử
dân-biểu, nằng-nặc đòi tặng Nguyễn Văn Thiệu bản thảo hoà-bình nghĩ gì,
làm gìđóng bìa da gáy mạ vàng (bị báo-chí công-kích tơi-bời)… xin miễn bàn. Mọi
sai lầm của anh Côn đều do thiểu thuốc phiện. Một người đã viết Cộng-sản
là gì, đã tự cho mình là người hiểu biết cộng-sản hơn bất cứ ai, đã bị cộng-sản
bỏ tù một lần trước 1950 mà vẫn ngồi ảo-tưởng cộng-sản sẽ sử-dụng mình. Hai tuần
một lần, ở Chí Hòa, anh Côn xin giấy cai ngục viết thư cho Tổng bí-thư Lê Duẩn
(Ông Hoàng Mạnh Hùng, cựu tù-nhân Chí Hòa khu FB và AH, hiện cư ngụ tại Costa
Mesa, California biết rõ chuyện này). Việc anh Côn viết thư cho Lê Duẩn cũng
khôi-hài như “tổng thống” Bùi Ngọc Phương xin giấy viết thư gửi cho Đại-sứ Mỹ ở
Thái Lan nhờ ông Đại-sứ (quen ông Phương, ông ta nói thế) giàn-xếp với Đặng Tiểu
Bình về vấn đề Việt Nam! Tôi không biết thư của anh Côn có tới tay Lê Duẩn. Một
hôm, ở FG, anh được gọi ra “làm việc”. Về phòng anh khoe rằng anh “làm việc” với
ủy viên Hội Nghiên Cứu Mác-xít.
Đoàn Kế Tường yêu quý anh Côn lắm. Chính tôi đã chứng-kiến Tường bợp tai anh cảnh
sát Bâu ở 6C1 đề-lao Gia Định vì cảnh sát Bâu than phiền anh Côn mượn mấy viên
trụ-sinh, hứa trả tiền rồi chuyển phòng chê thuốc đắt không chịu trả. Buổi tối
hôm anh đi “làm việc” với Hội Nghiên Cứu Mác xít về, chúng tôi tụ tập chỗ anh.
Tôi tỏ ý buồn-bã, chán-nản. Anh Côn nói:
- Việc gì mà buồn.
- Em lo cho vợ con ở nhà.
- Việc gì mà lo. Vợ chết lấy vợ khác. Con chết sinh con khác.
Đoàn Kế Tường hỏi:
- Còn sự-nghiệp?
Anh Côn đáp:
- Làm sự-nghiệp khác. Viết tác phẩm mới.
- Ai thèm đọc mình?
- Độc giả mới đọc mình.
Đoàn Kế Tường đứng dậy:
- Thế thì vô-liêm-sỉ quá. Sống làm chi nhỉ?
Từ đó, Đoàn Kế Tường khinh miệt anh Côn. Tường không chơi cờ tướng với anh Côn,
không rửa chén cho anh Côn nữa. Anh Côn ăn xong là quăng thí chén ở sàn nước.
Tường phải rửa giùm anh. Anh làm phiền nhiều người trong phòng. Họp cuối tuần,
tuyên-bố bế-mạc rồi, anh còn cố yêu-cầu phát-biểu ý-kiến. Cúp ngang, anh dở
lý-sự làm rùm beng. Ý kiến của anh kéo dài cả hai chục phút. Sang khu AH, anh
Côn “tiến-bộ” hơn. Vào Sa Ác, anh lại dở chứng. Đi tiểu, anh không báo-cáo. Bị
vệ-binh “lên lớp”, anh cự nự “Tôi có trông thấy cán-bộ đâu mà báo cáo?”. Vệ-binh
la hét. Cả phòng thức hết. Nhiều lần như thế. Điểm danh anh nằm trong nhà không
ra nhưng lấy bo-bo điểm-tâm, anh xếp hàng trước tiên. Nếu anh ra, anh ra chậm
nhất. Trực trại đợi lâu, điểm danh Nhà khác, anh em ngồi chờ. Và chia cơm nước
xong chưa kịp ăn đã nghe kẻng tập họp lao-động. Anh em công kích, anh nhe răng
cười trừ. Xuống Y-tế khai bệnh nghỉ, anh khoác luôn cả mền như Django.
Có một chuyện khiến chúng tôi không dám gần-gũi anh nữa. Tù-nhân Liêu A. Sáng đứng
sát hàng rào, bị trật-tự Hoa-nẫu thoi một trái. Ngay tối, tù-nhân chính-trị đòi
họp Phòng. Thư-ký phòng Đặng Hải Sơn xin giấy làm biên-bản. Anh Côn vận-động cả
tù hình-sự phản-đối trật-tự Hoa-nẫu xúc-phạm thể-xác tù-nhân. Anh hăng say bảo
chúng tôi tỏ thái-độ. Trong cuộc họp, anh Côn không hề phát-biểu. Khi lấy biểu-quyết,
một nửa phản-đối trật-tự Hoa, một nửa không ý-kiến. Anh Côn dõng-dạc bắt Đặng Hải
Sơn ghi vào biên-bản: “Tôi, trại viên Nguyễn Mạnh Côn, tôi cực-lực phản-đối những
người phản-đối trật-tự Hoa. Chúng tôi ngỡ-ngàng. Đặng Hải Sơn nói:
- Thằng già này nham-hiềm quá. Nó xui mình phản-đối rồi nó phản-đối những người
phản-đối. Tôi không phục-dịch nó nữa.
Đặng Hải Sơn không ăn cơm chung với anh Côn. Sau đó vài hôm, anh Côn được mạn-đàm
với tên chính-ủy của trại. Tôi quên tên thằng già chính-ủy này. Anh Côn “hồ-hởi
phấn-khởi”gạ tôi:
- Tớ với cậu viết chung một cuốn sách nhé?
- Sách gì anh?
- Mình diễn-tả cái trại này như một trường học.
- Để làm gì?
- Khỏi đi lao-động.
- Anh viết một mình đi.
- Tớ muốn giúp cậu.
- Em còn lấn-cấn tư-tưởng chưa thật sự tiến-bộ, không dám viết.
Anh Côn không viết sách. Chính-ủy cho anh nằm nhà. Anh soạn-thảo kế-hoạch xây dựng
trại. Tác giả Kỳ Hoa Tử đòi có cái nghĩa-địa cho tù-nhân và khi một
tù-nhân chết cả trại nghỉ lao-động để đưa linh-hồn người quá-cố về quê mẹ. Kết-quả
kế-hoạch của anh là chính-ủy bắt anh đi lao-động.
- Bố Côn chống tôi ông thầy ạ! Đằng Giao than-vãn.
- Chống gì? Tôi hỏi.
- Bố ấy bảo tôi không tranh-đấu cho bố ấy nằm nhà, bảo tôi không biết làm Đội
trưởng.
- Ông đề-nghị quản-giáo cho bố ấy làm…cố-vấn Đội trưởng đi.
Ngày tháng qua nhanh. Đội của tôi đã lấp hết hố bom, bứng hết cây cháy và phát
quang được khu trồng rau khá rộng. Chúng tôi đã nổi lửa đốt hết cây lớn, cây nhỏ,
cỏ tranh xếp đống, chuẩn-bị vỡ đất lên luống.
Gần Tết, Đằng Giao và tôi có thăm nuôi. Hai chúng tôi theo “cán-bộ giáo-dục”,
ông thầy Mạo, ra tận khu A khiêng đồ. Khúc đường cây đổ ngổn-ngang hôm chúng
tôi vào khu B đã khai quang.
- Đội của tôi dẹp đấy. Đằng Giao nói.
- Với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Tôi nói.
- Vài tháng nữa, xe vận-tải sẽ chạy trên đường này. Tôi đã thử sức, thấy mình đủ
sức chịu đựng lao-động.
- Ông làm gì?
- Bứng gốc cây, khiêng cây. Tôi tình-nguyện làm, bị quản-giáo cấm hoài. Còn ông
thầy?
- Tôi phá gò mối, gánh đất. Tôi gánh hết đau vai rồi. Mình đứng chơi thấy kỳ,
mà lao-động thì hay quên báo-cáo quân-số, vệ-binh dũa thê-thảm. Nó chỉ-định
mình giữ chức Đội trưởng là nó đưa mình vào chỗ thân bại danh liệt.
Chúng tôi gặp gia đình ở nhà thăm nuôi khu A. Vợ con tôi không nhận ra tôi.
Trong tù, tôi xanh mướt. Ra trại tập-trung, tôi đen thui. Và gầy ốm. Hai mươi
phút tôi nghĩ không tới, gặp vợ con, tôi chỉ nhìn thấy nước mắt và nước mắt. Vợ
tôi cho biết thẳng con trai lớn của tôi vẫn còn nằm trên đảo Poulau Tengah,
chưa được vào đất hứa Hoa kỳ. Những tin buồn-bã: Mất trộm, bị lừa gạt vượt
biên, đau ốm…khiến tôi hết “an tâm cải-tạo”. Họa vô đơn chí, đó là
trường-hợp gia-đình tôi. Bất- hạnh chập-chùng gối sóng lên vợ con tôi sau khi
đã dìm tôi dưới hồ thẳm. Tôi không muốn nghe, muốn biết, muốn nghĩ về tai-họa
mà vợ con tôi phải gánh chịu. Tất cả do tôi gây ra, tất cả do văn-chương, chữ-nghĩa
của tôi gây ra. Tất cả do tên Duyên Anh gây ra. Tôi đã khốn-đốn vì cộng-sản.
Tôi còn khốn đốn vì quốc-gia bẩn, quốc-gia ngu-xuẩn, quốc-gia a-dua, quốc-gia
mê-muội. Cộng-sản chà đạp lên sự-nghiệp tim óc của tôi, còng tay tôi, tống tôi
vào các nhà tù Sở công An, đề-lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa, đẩy tôi ra các trại
tập-trung. Quốc-gia bẩn ăn cướp sự-nghiệp tim óc của tôi, toa rập với công-cụ của
cộng-sản vùi lấp danh-dự và uy- tín chiến-đấu của tôi.
Hết giờ gặp gỡ thân thân, chúng tôi gánh đồ tiếp-tế trở vào khu B. Qua cây cầu
gỗ, Đăng Giao la ơi ới:
- Ông thầy, ông thầy!
Tôi ngoái lại. Đằng Giao co rụt cổ. Đòn gánh trễ xuống quá vai. Tổng thư-ký nhật-báo
Sống không biết gánh. Chàng xử-dụng…lưng chớ không xử-dụng vai. Chàng cân hai
túi đồ chứ không phải gánh. Bây giờ tôi mới yêu cái dĩ-vãng con nhà nghèo của
tôi. Năm 1948, tôi đã biết gánh lúa, biết trở vai chạy một mạch từ cánh đồng về
sân nhà. Năm 1951 , hồi-cư thị xã Thái Bình, tôi đã gánh nước cho mẹ tôi mỗi
ngày. Tôi “quán triệt” nghệ-thuật gánh. Năm 1956, lưu lạc ở Trảng Lớn, Tây Ninh
tôi đã gánh nước tưới rau mấy tháng. Vào trại tập-trung, tôi “ôn” đôi vai, gánh
đất lấp hố bom rất dẻo. Và tôi gánh đồ thăm nuôi ngót 50 ký lô.
- Nặng quá ông thầy ơi!
Đằng Giao buông đòn gánh, ngồi thở dốc. Ông thầy Mạo lắc đầu. Tôi đặt gánh xuống
đường, chạy tới gánh giùm Đằng Giao. Cứ một quãng đường tôi gánh đồ của tôi,
tôi lại đặt xuống, trở lui gánh đồ cho Đằng Giao. Thầy Mạo không giúp học trò.
Thầy chỉ kiên trì…đợi. Được nửa đường, chúng tôi tìm thấy khúc cây dài. Chúng
tôi luồn giây thắt miệng túi đồ qua cây, khiêng cho…lao-động đồng đều và đi
nhanh. Đằng Giao cao, đi sau. Bốn túi đồ dồn sát phía vai tôi. Vậy mà cha đẻHách
xì- xằng và thằng Ngọng vẫn co rụt cổ.
-Ôông thầy học gánh ở đâu thế?
- Thuở nhỏ, con nhà nghèo.
- Ông thầy đâu có khỏe mà gánh cừ quá.
- Gánh giỏi là do biết gánh.
- Chiến-đấu cũng vậy.
- Đúng.
Sợ bị nâng cao quan-điểm, Đằng Giao tiếp:
- Chiến-đấu lao-động cải-tạo.
Tôi thêm:
- Phấn-đấu lao-động cải-tạo.
Cuối cùng, chúng tôi đã về trại. Đồ đạc trong túi bầy từng món ra sân cỏ. Các vị
thầy xúm quanh khá đông .Không có màn đổ thịt, đổ mắm vào chậu khoắng, nguấy
như ở đề-lao Gia Định. Trực trại nghi-ngờ món nào, cầm lên và hỏi. Sau đây là
hài-kịch ngắn khám đồ thăm nuôi của học trò lần đầu có thăm nuôi và các ông thầy
quản-giáo vệ-binh từ Bắc vô thẳng rừng già Sa Ác.
Ông thầy (cầm cuộn giấy Kiss me lên ngắm nghía) : Giấy vấn thuốc rê, hả?
Học trò: Thưa cán-bộ, giấy đi cầu ạ!
Ông thầy (liệng cuộn Kiss me xuống): Chùi đít ?
Học trò: Dạ!
Ông thầy (nhìn gói lạp xường, bắt gỡ ra): Con gì nạ thế lày, không
đầu, không đuôi, đỏ hỏn!
Học trò: Thưa cán-bộ, con lạp-xường.
Ông thầy: Miền Nam các anh ăn dơ dáy quá! (Cầm gói bột mầu nâu lên ngửi) Còn
cái này?
Học-trò: Xô-cô-la bột
Ông thầy: Xô-cô-na nà đất Tây à?
Học trò: Dạ. đất Tây.
Ông thầy: Vớ vẩn, đất Tây mà cũng thăm nuôi?
Hài-kịch còn dài nhưng nên kéo màn ở đây. Các ông thầy gốc gác bần-cố-nông. Vì
hai mươi năm xã-hội chủ-nghĩa miền Bắc nghèo-nàn quá nên con người hóa ngu dốt
một cách tội-nghiệp. Thời đại các thầy lớn lên, cái “nôi của dân tộc” chỉ còn
ngô, sắn, khoai, gạo hẩm và mì sợi luộc. Thức ăn là rau muống với nước chấm. Nước
mắm đã tuyệt tích, đã bị “đấu tố”, đã bị “tiêu diệt” sạch sẽ. Trên những bức tường
phố vắng của Hà nội, “thủ-đô của phẩm-cách con người”, dân-gian vẽ cái xe đạp
không đèn, không chuông, không phanh, không gác-đờ-bu, gác-đờ-sên”, chỉ có “poọc-ba-ga”.
Trên “poọc-ba- ga” vẽ ba bó rau muống, dùng lời hát cách-mạng ghi chú cho từng
bó. Một bó “cho ngày nay”. Một bó “cho ngày mai”. Một bó cho “muôn đời sau” .
Rau muống được các nhà khoa-học dinh-dưỡng của Đảng ca-ngợi trên báo Nhân
Dân, cơ-quan trung-ương Đảng cộng-sản Việt Nam ”là thức ăn bổ hơn bất cứ thức
ăn bổ nào. Nó gồm đủ sinh tố từ A đến Z. Bác Hồ nhờ ăn toàn rau muống mà mắt
như sao, râu hơi dài“. Ông nhà văn Nguyễn Tuân cảm khái viết một tùy-bút rau muống.
Câu kết suýt bị kiểm điểm: rau muống ngon và bổ thế mà bọn miền Nam ngu-xuẩn lại
cứ đem xào với thịt bò. Nông dân vốn hiền-lành, chất-phác. Bị Đảng giáo-dục cho
ngu-si đần-độn, bị Đảng bỏ đói, ngàn năm chỉ mơ ăn no mặc bền, không dám tơ tưởng
ăn ngon mặc đẹp. Vậy bạn chế riễu sự ngọng-nghịu, sự ngu dốt, sự nghèo khổ hay
bạn chống đối bọn làm cho con người ngọng-nghịu, ngu dốt, nghèo khổ? Bạn đòi
tiêu diệt chế-độ cộng-sản, chủ-nghĩa cộng-sản, lãnh-tụ cộng-sản hay những con
người bộ-đội, công-an, công-cụ và nạn-nhân của chế-độ cộng-sản? Tôi chống đối
chủ-nghĩa cộng-sản, không chống đối con người trong chủ-nghĩa cộng-sản. Tôi chống
đối chế-độ và lãnh-tụ cộng-sản, không chống đối con người bị chủ-nghĩa, lãnh-tụ
và chế-độ cộng-sản làm mê sảng, ngu dốt, mất dần nhân-tính. “Tôi thì chỉ
ghét cay đắng chủ- nghĩa, các thứ chủ-nghĩa. Tôi nghĩ, chính các chủ-nghĩa và
tham-vọng mù lòa của nó đã đầy-đọa con người, đã làm con người hèn-hạ, mất-mát
lương-tri. Nhưng mà chủ-nghĩa đã tàn-sát chủ-nghĩa. Chủ-nghĩa đã chết. Chủ-nghĩa
sẽ chết. Con người tồn-tại vĩnh-cửu, bất kề con người tư-bản hay con người cộng-sản.
Lý-tưởng và bổn-phận của thi sĩ là phải thức tỉnh những người đánh mất
lương-tri làm người chứ không cổ võ chém giết họ, hủy-diệt con người. Thơ là
thông-điệp của cảm-thông, của hy-vọng, của tình-tự và của gần-gũi. Thơ không
bao giờ là tín-hiệu của bom dội, hỏa-tiễn bay, đạn nổ và mã-tấu vung lên. Cuối cùng,
thơ không phải là tiếng nói của thù-hận”.(Thơ Tù – Nam-Á Paris, 1984)
Như thế, không những tôi không thù-hận những người quản-giáo vệ-binh mà còn
thương-hại họ. Thương người là một cái tội. Thương người bị nhiều người thù
ghét càng là một trọng tội. Khi tôi thẩm-thấu câu ca-dao:
Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Tôi nhìn và nghĩ về những người coi tù, những người trực-tiếp hành-hạ tôi khác
hẳn tôi nhìn và nghĩ về chủ-nghĩa và lãnh-tụ cộng-sản và bọn tội đồ của miền Nam
cùng lũ văn-học nghệ-thuật gian dối, hèn mọn, bầy ngự-sử giẻ rách với
nhân-sinh-quan ruồi nhặng. Và tôi đã mủi lòng khi một vệ-binh hỏi tôi:
- Con không đầu không đuôi đỏ hỏn nướng sao thơm thế, cho tôi ăn thử một miếng
được không?
Ăn xong thì người Việt Nam khốn nạn tuổi bằng 2 phần 3 tuổi nước Việt Nam
dân-chủ cộng-hòa phát biểu:
- Ngon hết ! Nào nướng cho tôi xin cả con nhé!
Câu phát biểu não nùng hơn Cu Lặc, trong O chuột của Tô Hoài thuở thực-dân
đô-hộ, về sự ăn miến: – Vừa mới luốt qua cổ họng ló đã trôi
tuốt xuống tận củ tỉ ?
Chủ-nghĩa cộng-sản và lãnh-tụ vĩ-đại Hồ Chí Minh đã bất-lực trong sự-nghiệp
cách-mạng vô-sản. Là không đem nổi một khúc lạp-xường hạnh-phúc cho dân Việt
Nam, dẫu xương máu dân Việt Nam đã chất thành núi, chảy thành sông ròng rã ba
mươi năm cho chiến-thắng phù-ảo. Hẳn nhiên, lãnh-tụ Hồ Chí Minh, bọn ủy-viên Bộ
chính-trị, bọn ủy-viên trung-ương Đảng đã không tốn một sợi lông chân và đã thụ-hưởng
hơn cả vua chúa. Một cái lăng cho xác chết Hồ Chí Minh, hai mươi triệu dân “hao
mòn thịt xương”. Và “ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng-chiến đã thành công”, lần
đầu tiên, trong đời một con người được trồng trên mảnh đất ưu-việt xã-hội chủ-nghĩa
mới được ăn một miếng lạp xường nướng than củi. Miếng lạp xường đó, mỉa mai
thay, lại không phải là hạnh-phúc hứa hẹn “đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” mà là hạnh-phúc
của tù-nhân bất-hạnh tặng cháu ngoan của Bác Hồ.
Tôi bỗng thấy cái tư-tưởng chiến-đấu tạo hạnh-phúc cho con người là tuyệt-diệu.
Phải cần-thiết một chiến-thắng không còn thù-hận giữa con người với con người.
Phải cần-thiết một chiến-thắng không còn thù-hận giữa người Việt Nam với người
Việt Nam. Phải chấm dứt thời-đại mê sảng, thời-đại thù-hận, thời-đại u tối trên
quê-hương Việt Nam. Trong ý nghĩ ấy, tôi khó lòng ghét bỏ những kẻ không có quyền
bắt tôi, không có quyền tha tôi. Nếu họ có quyền đầy-đọa tôi, có quyền dồn đẩy
tôi vào chỗ chết, quyền ấy được ủy-nhiệm bởi lãnh-tụ khốn-kiếp và giáo-điều mù
điếc của chủ-nghĩa, thứ chủ-nghĩa mà họ chẳng hiểu là cái gì.
Sự khám xét đồ thăm nuôi của chúng tôi dễ-dàng, chóng vánh, nhờ không có trật tự
Hoa-nẫu và thông-tin văn-hóa Sánh-gian. Tù-nhân thích làm khó dễ tù-nhân. Người
Việt Nam có thói xấu truyền-thống: Hễ có tí quyền là y rằng lạm quyền và bắng-nhắng.
Ở trại cải-tạo và ở c3 trại tị-nạn cộng-sản.
° ° °
Tôi không
nhớ chính xác ngày tháng, hình như sau Tết, tù-nhân được lệnh tập họp ở sân trại,
có kê bàn và bình hoa – Đằng Giao gọi là bầy bàn hương-án. Chính-ủy xuất hiện với
đầy đủ lễ-nghi quân-cách. Ông thầy giáo-dục cả trại, thầy Mạo, báo-cáo chính-ủy
của ông ta về quân-số hiện-diện. Chúng tôi đứng hết dậy. Đứng nghiêm. Vỗ tay.
Chính-ủy bảo ngồi xuống. Ông ta hồ hởi phấn khởi loan tin :”Ta đã giải-phóng
Kampuchia. Bè lũ diệt chủng Pol Pot, Lang Sary cuốn gọi chạy sang Vọng Các rồi”.
Cái tin chiến-thắng không lấy gì làm hấp-dẫn đối với chúng tôi. Sau tin mừng giải
phóng Kampuchia là bài học tập về chính-sách khoan-hồng của Đảng và Nhà Nước
dành cho ngụy-quân, ngụy-quyền, phản-động lao-động cải-tạo. Tất cả bọn cộng-sản
lớn và nhỏ đều mắc cái bệnh nói dối, nói dài, nói dai, nói dở, nói dốt. Học tập
cải-tạo có cái gì đâu? Nội-quy hay Nếp sống văn hóa mới có
thể tóm gọn: “Cai tù bảo, tù-nhân nghe; cấm cãi, cấm tranh-luận. Cai tù sai bảo,
tù-nhân làm, cấm dùng -dằng, cấm khiếu-nại. An tâm cải-tạo, cấm nhớ nhà, nhớ vợ,
nhớ con. Thi đua lao-động sản xuất đóng góp vào sự phồn-vinh của tổ- quốc. Cấm
trốn trại. Ăn ở hợp vệ sinh. Gặp cai tù phải dở nón mũ chào kính. Cấm xâm-phạm,
phá-hoại tài-sản xã-hội chủ-nghĩa. Thức ngủ đúng giờ giấc. Cấm mua bán, đổi
chác. Cấm cãi nhau, đánh nhau”. Tôi tự-hào có trí nhớ rất tốt mà chỉ nhớ một điều
trong 20 điều Nếp sống văn hóa mới: “Cấm trạm trổ lên thân thể”! Và 4
tiêu-chuẩn cải-tạo, tôi lơ-mơ nhớ: phải tố-cáo đồng-phạm còn lẩn trốn bên
ngoài. Phải tố-cáo những kẻ tuyên-truyền xuyên-tạc, âm-mưu trốn trại, chống
báng cách-mạng” . . .
Thế thì 5 bài thơ sau đây mang tựa đề HỌC TẬP CẢI-TẠO sẽ diễn tả đầy đủ về cái
gọi là học tập cải-tạo.
1- Trường học nhà tù
Anh biết anh đang ở đâu không?
Đề-lao trại tập-trung
Láo!
Chủ-nghĩa không có nhà tù
chủ-nghĩa chỉ có trường học
anh nhắc lại đi
nhắc lại nhiều lần
chủ-nghĩa không có nhà tù
chủ-nghĩa chỉ có trường học
Anh biết anh đang ở đâu không?
bài học đầu tiên anh đã nằm lòng,
Trường học!
Láo! Trí-thức
văn-sĩ thi-sĩ họa-sĩ nghệ-sĩ
chỗ của anh là ở nhà tù
không có trường học cho những tên phản-động
không có trường học cho những tên đòi quyền sống
những tên đòi dân-chủ tự-do
những tên đòi hạnh-phúc hoà-bình ấm no
Nhắc đi
nhắc hoài hoài
nhắc ngày nhắc đêm
nhắc bất cứ lúc nào anh mở mắt
nhắc bất cứ chỗ nào anh thi đua sản-xuất
khi đứng khi ngồi
khi mơ khi ước
đến khi anh thông suốt
chỉ còn chủ-nghĩa là sự thật
Anh biết anh đang ở đâu không?
Trại tập-trung địa-ngục!
Láo. chủ-nghĩa chỉ có trường học
chủ-nghĩa quý trọng con người
2-Con bò và chân lý bò
Con bò có mấy chân
Thưa bốn
Hãy nhìn rõ ràng nhìn chính xác
chủ-nghĩa luôn luôn sáng-suốt
chủ-nghĩa ưu việt không sai lầm
Thưa con bò đúng bốn chân
Láo! Anh mù
chỉ có ba chân
con bò chỉ có ba chân, nhắc lại
Con bò chỉ có ba chân
ba điểm tạo nên một mặt phẳng
ba chân con bò tạo nên một sự thật
như trái đất quay và trái đất không quay
Con bò có mấy chân
Ba !
Láo!. Ba làm sao nó đi nó đứng
nó ăn nó uống
nhìn đi nhìn cho đúng
Con bò có bốn chân
Láo! Năm!
Dạ, con bò có năm chân
chân-lý chân bò biến đổi rất nhanh
Con bò có mấy chân
Năm
Láo! Chỉ có hai
Sự thật hôm qua không có ở hôm nay
sự thật hôm nay không có ở ngày mai
nhắc lại
Con bò có mấy chân
Con bò có ba, năm, hai, một hay chẳng chân nào
tùy theo chủ-nghĩa dạy
Sự thật hôm qua không có ở hôm nay
sự thật hôm nay không có ở ngày mai
3- Nếp sống văn-hóa mới
Đế-quốc đã đưa anh trở về thời-kỳ đồ đá
anh sống thiếu văn-hóa
văn-minh và tư-tưởng làm người
anh chỉ biết chém giết tơi-bời
quên húi tóc cạo râu cắt móng tay nhọn hoắt
chủ-nghĩa ưu-việt dạy anh học tập
văn-minh cạo râu cắt móng tay
Báo-cáo chủ-nghĩa
rasoir, mince lame, đồ cắt móng chân
bị tịch thu hết
không thể thực-thi nếp sống văn-hóa mới
của chủ-nghĩa sáng chói
chủ-nghĩa vệ-sinh râu tóc bảnh-bao
móng tay nhẵn-nhụi phẳng-phiu
Gillette là tên phản-động
USA là tư-bản ác-ôn
tịch-thu thể-hiện nhân-đạo khoan-dung
anh có thể bị chúng xui tự sát
chúng sẽ gây thêm tội ác
hãy nhổ râu và gậm nhấm
móng tay hãy mài xuống nền xi măng
hãy học tập cải-tạo thuộc lòng:
đế-quốc đã đưa anh về thời- kỳ đồ đá
đế-quốc dã-man muốn anh ăn lông ở lỗ
hãy đấu-tranh râu nhổ móng tay mài
tích-cực hàng ngày
tại trường học xã-hội chủ-nghĩa
mà đế-quốc đã mai-mỉa
là đề-lao Gia Định là khám lớn Chí Hòa
4-Vinh-quang chủ-nghĩa
Anh phải nói dối không nhớ vợ thương con
phải nói dối sự-nghiệp anh là đồ bỏ
phải nói dối tổ-tiên đã quên không dạy-dỗ
nên anh lầm-lỡ yêu dân-chủ tự-do
chiến-đấu và tình-nguyện chết dưới cờ
lý-tưởng quốc-gia dân-tộc
Anh phải nói dối anh làm tay sai đế-quốc
chống giai-cấp vô-sản anh-hùng
phải nói dối anh đã lầm đường
không được hy-sinh cho lãnh-tụ
phải nói dối nhiều man-khai tất cả
phải nói yêu chủ-nghĩa quang-vinh
hơn cả gia-đình
phải cám ơn chủ-nghĩa đã bắt anh đi cải-tạo
Anh phải nói dối hoan-hô khi anh thèm đả-đảo
quanh năm tích-cực, bốn mùa khẩn-trương
vượt nắng, thắng mưa, lao động thật hăng
phải cười làm việc và vui nhịn đói
luôn luôn hồ-hởi
thi đua sản-xuất đoạt giải tù-nhân
phải sung sướng được xuống hầm phân
và gọi kẻ đánh đập nguyền-rủa anh là thầy giáo
Anh phải hăng say tố-cáo
bản thân anh thiếu thiện-chí nằm tù
phải dối gian từng phút từng giờ
nói dối càng hay càng nhanh tiến-bộ
nói dối ốm mòn không cần thuốc bổ
cưa chân cụt gẫy khắc-phục thuốc mê
nói dối án phạt tập-trung hạnh-phúc hơn lệnh thả về
phải nói dối anh chết dần phi-lý
cho ngày-mai chủ-nghĩa
rạng ngời
cho ngục-tù chủ-nghĩa dầy kinh-nghiệm đầy-đoạ con người
5-Lãnh-tụ và sự bất-diệt
Anh biết lãnh-tụ vĩ-đại ở đâu không?
Thưa, quý ngài ấy đã chết
có nhiều ngài nằm trong hòm kính
chê địa-ngục chê thiên-đàng
và lơ-lửng giữa không-gian
Đây là bài học
anh phải nhớ suốt đời
lãnh-tụ không bao giờ chết
lãnh-tụ bất-diệt
lãnh-tụ sống mãi trong sự-nghiệp loài người
lãnh-tụ đang nói đang cười
đang hô-hoán hoà-bình, đang hung-hăng chém giết
đang ăn uống và không cần bài-tiết
lãnh-tụ còn nguyên trên thế-giới ngậm-ngùi
Anh biết lãnh-tụ ở đâu không?
Thưa, quý ngài ấy chưa chết
quý ngài ấy bất-diệt
quý ngài ấy còn nguyên trên thế-giới ngậm-ngùi
quý ngài ấy siêu nhân ăn uống không cần bài tiết
Láo! lãnh-tụ đã chết
lãnh-tụ chẳng bao giờ bất-diệt.
Sự thật hôm qua không có ở hôm nay
sự thật hôm nay không có ở ngày mai
Chính-ủy nói dối, nói dài, nói dai, nói dốt cả hai tiếng đồng-hồ. Chúng tôi ngồi
phơi nắng, tê chân, mỏi đít. Nói đủ “đô” rồi, chính-ủy hỏi:
- Các anh có an-tâm cải-tạo không?
Cả làng đáp:
- An-tâm cải-tạo.
Chính-ủy đập bàn hương-án:
- Láo! Phải nhớ vợ, thương con chứ?! Nhớ vợ, thương con thì an-tâm cái gì? Anh
nào nói an-tâm cải-tạo là không thành-khẩn.
Bỏ mẹ! Nội-quy dạy, thầy quản-giáo, thầy trực trại, thầy giáo-dục, thầy vệ-binh
đều dạy tù-nhân phải an-tâm cải-tạo. Mà chính-ủy lại bảo an-tâm là không
thành-khẩn, là gian dối. Rõ rệt chân-lý con bò! Sau rốt, chính-ủy chi một câu
thuộc loại “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”:
- Về hay không là do nơi các anh có tiến-bộ hay không. Về sớm hay về muộn cũng
là do nơi các anh có tiến-bộ nhanh hay tiến-bộ chậm. Muốn tiến-bộ phải lao-động
tích-cực. Lao-động tích-cực là cải-tạo tư-tưởng đó.
• TỐ CÁO NHÀ NƯỚC XHCN THÚ VÂT ÂM BINH M FIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC SÚC VẬT ÂM BINH MA FIA CS VN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT hãy cực kỳ cảnh giác lủ âm binh ma fia cộng sản với biệt tài bắt hồn nhân loại bằng những thủ đoạn vô cùng tinh vi và phức tạp với đội ngủ âm binh ma fia hùng hậu giàn trãi khắp.nơi lai vô ảnh khứ vô tung những con thú đeo mặt nạ người một loại rô bốt người được điều khiển từ xa …. âm thầm cùng nhau phối hợp chầu chực trong bóng tối cùng nhau hợp sức hành động cài cắm câu mồi giăng bẩy nam nữ nhân kế moi móc đời tư…xui khiến phạm tội khống chế bắt hồn đưa vào tổ chức trở thành một thành viên âm binh ma fia âm thầm bán linh hồn và thể xác cam tâm làm súc vật phục vụ cho đảng những con mồi chúng thường nhắm đến để bắt lấy linh hồn là giới cầm quyền lảnh đao cao cấp vợ con em của thành phần chúng xem là kẻ thù sử dụng họ làm ang ten tình báo về kinh tế chính trị v…v theo lệnh đảng ngấm ngầm âm thầm tiếp sức cho cộng sản tiêu diệt cha chồng người thân của chúng trong kế sách gậy ông đập lưng ông hay chính xác hơn theo như thằng lê duẩn đã phát biểu trong công cuộc giải phóng miền nam và thực hiện chính sách âm binh súc vật MA FIA HÓA hóa toàn bộ quân dân cán chính ngụy quân ngụy quyền sau giải phóng ngăn ngùa DẬP TẮT MỌI SỰ sự trổi dậy của vnch TRONG TRỨNG NƯỚC bằng lực lượng âm binh ma fia vợ con em của kẻ thù …DÙNG MỞ NÓ ĐỂ RÁN NÓ tiếp tục sự nghiệp gieo truyền lan tỏa hạt giống đỏ hạt giống của ác quỷ ra toàn cầu nhất là trong cộng đồng người việt hãi ngoại và người bản xứ HOA KỲ nhằm xây dựng những đại gia đình âm binh ma fia cộng sản ngấm ngầm mai phục ứng chờ thời cơ trổi dậy thực hiện mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của đảng … CỰC ĐỘ CẢNH GIÁC NHỮNG GÌ ĐẾN từNHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT MA FIA CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẢNG DÙ LÀ GIỚI TRÍ THỨC HAY LÀ ĐÁM ĐỈ ĐIẾM MA CÔ ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ….VỢ CON DIỆN HO.. NHỮNG CÔ DÂU TỘI NGHIÊP V..V VÀ V..V CHÚNG ĐƯỢC ĐƯA ĐẾN NHỮNG NƠI CẦN ĐẾN ..TỔ CHỨC LUÔN LUÔN ĐÓN CHỜ ………TẤT CẢ CHÚNG ĐỀU LÀ NHỮNG CON THÚ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI VỚI MUÔN VÀN TẤM MẶT NẠ ….TIN LỦ ÁC QUỶ MA FIA CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT nói rằng cộng sản ngu dân hóa để trị là chưa đúng.. phải nói chính xác là chính sách súc vật ma xó âm binh ma fia hóa toàn dân để trị vô cùng tàn bạo và man rợ của lủ thú vật ma fia cộng sản …chúng đã biến con dân thành nhũng con thú bò bốn chân đeo mặt nạ người bán cả linh hồn và thể xác hy sinh tất cả cho đảng trong nhũng đại gia đình ma fia cộng sản đảng chui rúc trong bóng tối đẻ bảo vệ và phát triển chủ nghĩa cộng sản ra toàn cầu … cũng vì bọn ma fia cộng sản đen này mà hiện nay đám thú vật ma fia cs … nhũng con rô bốt người được điều khiển từ xa đã lan tràn như nhũng xác sống gieo truyền hạt giồng đỏ rộng khắp năm châu mà nhất là đang phát triển mạnh mẻ tại đất nước của nữ thần tự do …nếu không kịp thời cảnh giác âm mưu sâu độc và đê hèn của lủ âm binh ma fia cộng sản ..lai vô ảnh khứ vô tung này thì một ngày không xa tượng nử thần tự do sẻ bị đạp đổ thay thế bằng tượng ông mao ông mác ông lê tay cầm búa liềm thống lỉnh nhân loại
Trả lờiXóathầy tu linh mục quan quyền nhà chính trị hay sinh viên hay bất cứ ai ..cũng dều là con người cũng hỉ nộ ái ố tham san si nằm trong lục dục thất tình bọn ác ma ma fia cs đã triệt để lợi dụng vào cái cốt lỏi này của con người sử dụng chiêu thức câu bẩy giăng mồi đưa kẻ bị câu vào tròng rồi khống chế quy nạp vào tổ chức để đời đời làm súc vật âm binh ma fia cs cho chúng sai khiến ..bất cư ai đều không thể thoát khỏi nanh vuốt một khi đả lọt vào tầm ngắm của bọn chung . tổ chức của bọn chúng ngày càng lớn mạnh cùng với các đám ma fi a chư hầu chúng âm thầm bành trướng khắp thế giới , ngấm ngầm ăn sâu vào lục phủ ngủ tạng của các nước như một căn bệnh ung thư di căn từ từ nếu không kịp thời chữa trị thì chỉ còn chờ một ngày nào đó sẻ lọt vào vòng tay của ác quỷ có hối cũng đả muộn… với những âm mưu đen tối ngấm ngấm tấn công khống chế toàn bộ thế giới bọn ác ma cùng vơí bọn đàn em tay sai đã tạo ra những con robot người điều khiển từ xa rồi tung ra khắp toàn cầu bằng các con đường kết hôn , di dân tỵ nạn vượt biên ; vợ con của diện HO vv.. chủ yếu xâm nhập vào nước mỹ có đến hàng trăm ngàn tên kế đến là nươc úc hàn quốc đài loan nhật bản vvv qua con đường kết hôn buôn nguoi, ty nan ..v..v.hình thức hoạt động ngấm ngầm luồn lách ăn sâu lan toả rộng khắp của bọn này, có thể phân chia ra ba nhóm gia đình mafia hoat động như sau………. 1./ma fia công tác về tài chính [ ban tay đen ] hoạt động trong các phi vu làm ăn phi pháp buôn lậu rửa tiền buôn người mãi dâm vv..nói chung tất cả mọi công việc miển là làm ra tiền bằng mọi thủ đoạn tội ác trên đời chúng đều không tư với vai trò đảm nhiệm về tài chính cho tổ chức hoạt động …. 2/ bon ma fia chuyên ngành lừa đảo [hoa hồng đen ] câu bẩy giăng mồi mồi chài gồm một lũ ma cô đỉ điếm trong đó có lực lượng chủ động là thành phần trong giới trẻ sinh viên học sinh bị lừa đảo gia nhập phục vụ cho tổ chức được huấn luyện tinh vi về nghệ thuật giăng bẩy câu mồi cùng các kỹ năng thiện nghệ trong chuyện phong the chuyên lừa đảo nhắm vào giới quan chức trong chính quyền sở tại dùng nam nữ nhân kế tiền bạc giăng bẩy tình mua chuộc hối lộ khiến họ sa chân vào lổi lầm phạm tội sau đó khống chế ép buộc họ gia nhập phục vụ cho tổ chức mục đích nắm bắt thông tin trong các hệ thống tài chính chính trị khoa học của nước sở tại ‘…và nhắm vào em cháu vợ con của các thành phần bị chúng liệt kê vào danh sách kẻ thù.. nhất là đối với các gia đình có con em là sinh viên học sinh đi học xa nhà chúng du dỗ mồ chài vợ con của kẻ thù sa vào lầm lổi xui khiến phạm tội rồi khống chế gia nhập tổ chức một khi đả là thành viên của bon ác quỷ thì chỉ còn phần xác ,còn phần hồn thì do chủ nhân nắm giử, khống chế suốt đời ,tuyêt đối trung thành đến khi lập gia đình cũng trong sự sắp xếp của bọn chủ nhân, chúng mang tính kế thừa truyền kiếp từ đòi này sang đòi khác , phục vụ cho chủ nhân vô điều kiện ,dưới mọi hình thức chúng đuợc sử dụng dể giám sát cha anh của chúng ,phục vụ bán dâm mòi chài câu nhử những mục tiêu do tổ chức chỉ định , đóng góp tự nguyện tài chính cho tổ chức góp phần vào mục tiêu làm phân hoá tan rả những tổ chức kiều nhân chống đối tại hải ngoại và lủng đoạn chính trị của nước sở tại theo chiều hướng có lợi cho mục đích thâu tóm toàn thế giới về sau nay của chủ nhân ……
Trả lờiXóa3/ nghiệm vu của các thành phần ma fia trí thức chủ yếu công tác về mặt chinh trị nằm yên chờ thời ngấm ngầm che dấu bảo vệ và ủng hộ cho các thành phần khác trong tổ chức gây sức ép về các hoạt động trong chính tri hậu thuẩn cài cắm người của chúng vào các cơ quan công quyền kết hợp với các vị quan chức bị mua chuộc chúng lũng đoạn chính trị kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng có lợi cho chủ nhân của chúng …với một bon người bị lấy mất trai tim, không còn lương tâm, lương tri không còn biết phân biệt phải trái đúng sai , tuyệt đối chấp hành lệnh của chủ nhân vô điều kiện , các gia đình ma fia này truyền kiếp từ đòi cha sang đời con, đời cháu ,mãi mãi phuc vụ cho bọn ác ma này để giử bí mật tuyệt đối ,hiện nay với tình hình phát triển công nghê cao tôi đang nghi vấn bọn này đang được hổ trợ mọt loại vủ khí bí mật công nghệ cực kỳ cao siêu ,có thể điều khiển con người từ xa mọi lúc nọi nơi thông qua tín hiêu não ,ở trung tâm điều khiển bi mật…. tóm lại chỉ vì một mục đích điên cuồng bọn chúng đả và đang biến con người thanh nhửng xác sống vô tri vô giác như những zoombi lay lan lan toả khăp địa càu chi biết nghe theo lệnh và phụcvụ trung thành tuyệt đối để tiến đến mục đích cuối cùng thu tóm năm châu năm giử quả đất trong tay đương đến vinh quang không còn xa sẽ đưa loài người lên dỉnh cao rừng rú của thời đai nguyên thuỷ sống bầy đàn trong sự chăm sóc và giám sát tận tình,không một kẻ nào có thể ra khỏi tầm tay chăn dắt của bọn ác ma ….thời đại đó sắp đến
Trả lờiXóa.Xã hội VN là con đẻ ….một bản sao chính xác của xã hội TQ trong cái xã hội mà người dân chỉ là một thứ công cụ hay là một phương tiện người ta lợi dụng để đat được mục đích cuối cùng con dân được hợp quần trong những tổ chức đen [ BÓNG MA ] trong vòng kềm toả chỉ đạo của một chuyên ngành đặt biệt không ai dám đụng vào kể cả pháp luật được kết thành một khối theo luật ma fia tuyệt đối trung thành với chủ nhân có thể ví cái xã hội đó như một tảng băng mà phần nổi là chính phủ của một nhà nước độc lập với phần chìm là một khối đen khổng lồ bao gồm. các tổ chức hoạt động ngấm ngầm trong bong tối để bảo vệ và giữ vững nhà nước đó cùng với thế lực đen [ bong ma ] của các nước anh em cs tiếp tục con đường giải phóng nhân loại tiến vào thế giới đại đồng … . Vào cuối thế kỷ 20 các nước cs … liên xô và đông âu lần lược bị sụp đổ chỉ còn lại TQ và vài ba nước chư hầu trước sự kiện nguy cơ bị tan rả dây chuyền nên TQ đã ráo riết cùng với bọn chư hầu tay sai phát triển các tổ chức ma fia ra rộng khắp thế giới bằng các con đường di dân kết hôn tỵ nan buôn người v..v … ngấm ngầm cài căm người vào các chức vụ quan trọng trong cơ quan công quyền của các nước hoạt động phi pháp lấy tài chính cho tổ chức hoạt động giăng mồi cài bẩy mua chuộc đủ mọi tầng lớp từ thấp đến cao nhằm thu lượm tin tức trong nội bộ hiện tình của các nước về kinh tế chính trị quân sự phục vụ cho ý đồ thâu tóm thế giới trong một tương lai gần và cuộc chiến ngầm của TQ cùng với đám đàn em chư hầu tay sai đã tỏ ra vô cùng hiệu quả trong kế hoạch và mưu đồ vô cùng sâu hiểm thâm độc với một lực lượng khổng lồ nhũng tổ chức hoạt động trong bóng tối với vô vàn bàn tay đen và hoa hồng đen trung thành tuyệt đối theo luật ma fia đã thực sự hửu dụng đem lại kết quả tuyệt vời trên mọi lĩnh vực với sức mạnh khủng khiếp của các thế lực ĐEN có thể khuynh loát chính tri kinh tế quân sự của một đất nước theo chiều hướng có lợi cho những kẻ dấu mặt đang âm thầm chỉ đạo trong bong tối VÀ NỘI VỤ trong nước bảo đảm chỉ có những thành phần tự do dân chủ cuội được dảng đạo diển dàn dựng cho phép diển kịch để lừa bịp che mắt thế giới… kể cả mọi hoạt động phi phàp buôn lậu mãi dâmv..v.. tất tần tật mọi thứ đều phải theo sự chỉ đạo phân công của KẺ ĐIỀÙ HÀNH đạo diển muốn xã hội yên ổn hay bán yên ổn hay bất cứ xã hội nào dưới hình thức gì miển che mắt được thế giới để chúng dể dàng tạo được vỏ bọc bên ngoài vô hại …thân thiện …yêu hòa bình ghét chiến tranh nhân bản trí đạo nhân hiền nhằm đánh lừa nhân loại khiến họ mất cảnh giác không mảy may nghi ngờ hiểm họa cs để chúng dể dàng ngấm ngầm rúc rỉa ăn luồn ăn sâu làm phân rả hoàn toàn tất cả thế lực thù địch ,… dưới chế độxã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs vn đang chỉ có những kẻ cam tâm làm súc vật cho chúng sai khiến mới được phép tồn tại để phục vụ chiến đấu không ngừng nghỉ cho lý tưởng và mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của bọn quan thầy tâm thần hoang tưởng mao mác lê chúng sẳn sang triệt hạ và tiêu diệt cứ ai dân tộc nào dất nước nào đi ngược lại mục tiêu và lý tưởng của bọn chúng không từ một thủ đoạn nham hiểm sâu độc và tàn ác nào chúng một lũ ác quỹ đội lốt người, cả nhân loại nên nhớ rằng CÓ CỘNG SẢN THÌ KHÔNG CÓ TỰ DO ,CÒN CỘNG SẢN THÌ KHÔNG BAO GIỜ CÓ HOÀ BÌNH ,TIN CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT ,NGHE THEO LỜI CỘNG SẢN LÀ TỰ NỘP MÌNH VÀO MIỆNG LANG SÓI CỌP BEO tất cả chúng ta hảy cùng chung tay góp sức cho một thế giới không cộng sản tất cả vì công lý tự do và quyền làm người được thực thi trên trái đất này
Trả lờiXóa