Ngày 14/8, tiếng súng chiến tranh lặng im trên toàn châu Á. Nhật đã đầu hàng và tướng Mc Carthur bay đến vịnh Tokyo để ký kết các điều kiện đầu hàng với Hoàng gia Nhật bản trên chiến hạm Missouri. Từ các căn cứ địa của mình trên vùng rừng núi Tân trào, Việt minh bắt đầu hành động. Ngày 16, cùng ngày với Đại hội quốc dân, các đơn vị của Giáp do nhóm Con nai hộ tống bắt đầu tiến về phía Nam. Lác đác tại một số vùng nông thôn Bắc bộ, nơi nạn đói và lụt lội đã cướp đi sinh mạng của hơn 1 triệu người trong nửa năm đầu, dưới sự chỉ đạo của các hội Việt minh địa phương, nông dân đã nổi dậy cướp chính quyền, phá kho thóc và thành lập các Uỷ ban giải phóng nhân dân địa phương. Ngày 19/8 tại Thái nguyên, khi quân của Giáp ăn mặc chỉnh tề tiến vào thành phố và được nhân dân nhiệt liệt chào đón, lực lượng bảo an và các quan chức chính phủ lâm thời của Trần Trọng Kim đã nhanh chóng đầu hàng. Tuy nhiên quân Nhật đồn trú đã kiên quyết kháng cự. Được tin, TƯ đã ra lệnh cho Giáp chỉ để lại một đơn vị nhỏ, còn lại tiến thẳng về thủ đô. Tình hình cũng xảy ra tương tự ở Tuyên quang.
Ơ Hà nội, tin Nhật sắp
đầu hàng được rỉ tai nhau từ ngày 11/8. Cơ quan đảng dưới sự chỉ đạo của Nguyễn
Khang đã tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa cướp chính quyền từ tay quân Nhật. Họ
đợi ngày này đã lâu. Mặc dù chỉ có khoảng hơn 50 đảng viên ở trong thành phố,
đảng đã tổ chức được hàng ngàn người bất mãn với chính quyền hiện tại vào các
Hội cứu quốc của Việt minh. Tại ngoại ô, nông dân được huy động để sẵn sàng
tràn vào thành phố hỗ trợ cuộc khởi nghĩa 1.
Tình hình kinh tế ở Hà
nội cũng có lợi cho cách mạng. Đồng bạc đông dương bị mất giá thảm hại, chỉ
trong mấy tháng giảm từ 0.25 $ xuống còn 0.10. Chi phí sinh hoạt tăng 30 lần so
với trước chiến tranh. Các tầng lớp trung lưu bắt đầu có cảm tình với Việt
minh, nhiều người bí mật mua trái phiếu Việt minh. Trong hai tuần đầu tháng 8,
đảng tìm cách cài người vào các đơn vị quân đội đóng trong thành phố và thiết
lập quan hệ với đại diện của triều đình ở Bắc bộ Phan Kế Toại (ông này có con
tham gia Việt minh). Ngày 13/8, Toại gặp Nguyễn Khang và khuyên Việt minh tham
gia thành lập chính quyền cùng Bảo đại để đón tiếp quân đồng minh. Khang từ
chối và đề nghị Bảo đại thoái vị nhường chính quyền cho chính phủ cộng hoà.
Toại hứa sẽ truyền đạt thông điệp đó cho triều đình. Cùng ngày, tại Huế Trần
Trọng Kim xin từ chức vì bất lực trước tình hình (ông này trước đây là nhà sử
học) và trao quyền lại cho một chính phủ lâm thời. Các phần tử không cộng sản ở
Hà nội đã thành lập ra Uỷ ban cứu quốc, tự xưng là đại diện cho chính phủ lâm
thời mới này. Ngày 15/8 sau khi Tokyo ký văn bản đầu hàng, quân Nhật tại Hà nội
ngay lập tức bàn giao quyền lực cho chính quyền lâm thời. Xứ uỷ Bắc kỳ họp khẩn
cấp tại Hà đông trước tình hình mới. Mặc dù chưa có chỉ thị gì từ Tân trào,
cuộc họp vẫn quyết định tổng khởi nghĩa tại các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ,
tiến tới giải phóng thủ đô. Nguyễn Khang được giao chỉ huy Uỷ ban khởi nghĩa vũ
trang gồm 5 người. Tối ngày 16/8, người Hà nội phấp phỏng chờ đón số phận của
mình. Ánh đèn rực rỡ từ những khung cửa sổ khách sạn đối lập với màn đêm đen
đặc và những ngọn đèn đường tù mù vì sợ bị oanh tạc. Tại một rạp chiếu bóng gần
hồ Hoàn Kiếm bỗng vang lên những tiếng súng lục: Việt minh chiếm sân khấu và
kêu gọi khởi nghĩa. Một sí quan Nhật chạy ra ngoài lập tức bị bắn chết, nằm
trên đường mấy tiếng đồng hồ không ai thèm ngó tới. Ngày 17, Hội đồng tư vấn
Bắc bộ, một tổ chức bù nhìn do Pháp lập ra cách đây 2 thập kỷ, họp tại Toà
Thống sứ. Thành viên của Hội đồng này chủ yếu là thành viên của đảng Đại Việt
và cũng chiếm chân trong Uỷ ban cứu quốc vừa được thành lập 4 ngày hôm trước.
Hội đồng quyết định kêu gọi cuộc biểu tình của dân chúng để ủng hộ Bảo đại.
Trưa ngày 17, trong lúc HĐ còn đang họp, các đảng phái thân chính phủ lâm thời
của Trần trọng Kim đã tổ chức một cuộc miting lớn với gần 20000 người tham dự
ngay trước cửa Nhà hát Lớn. Khi cuộc miting còn đang diễn ra, các phần tử võ
trang Việt minh đã nhảy lên cướp khán đài, giật cờ triều đình, treo cờ đỏ sao
vàng. Nguyễn Khang đã lên phát biểu kêu gọi quần chúng ủng hộ Việt minh giành
lại độc lập cho dân tộc. Cuộc miting đã kết thúc trong hỗn loạn, dòng người đội
mưa tiến về Bắc bộ phủ, Toà Thống sứ và khu phố cổ.
Trong khi đó, dưới sự
chỉ huy của Uỷ ban khởi nghĩa vũ trang, nông dân các làng ngoại ô đã chiếm
chính quyền và tổ chức thành các đơn vị dân quân với giáo mác và vài khẩu súng
kíp, sẵn sàng tràn vào nội thành vào sáng hôm sau. Đêm 17, là một đêm mùa hè
nóng nực. Các lãnh đạo Đảng bí mật họp tại một địa điểm ngoại ô và quyết định
khởi nghĩa vào ngày 19/8. Họ ước tính có khoảng 100,000 người hay 1/2 dân số
nội thành ùng hộ Việt minh, thêm vào đó là các đơn vị dân quân ở ngoại ô sẵn
sàng tiếp viện. Trong ngày 18, vũ khí sẽ được tuồn vào và các đội xung kích sẽ
án ngữ các vị trí quan trọng. Đêm ngày 18, các uỷ viên UBKNVT lặng lẽ đột nhập
Hà nội.
Rạng sáng chủ nhật,
ngày 19/8. Dòng người từ các huyện Thanh trì, Thường tín, Phú xuyên, cuồn cuộn
đổ vào thành phố hoà cùng với công nhân, sinh viên, tiểu thương và các công
chức tò mò, bắt đầu tụ tập trước quảng trường Nhà hát Lớn. Đàn ông mặc áo nâu, đi
dép cao su, đàn bà áo nâu, chít khăn mỏ quạ, đi giày cỏ. Rợp trời cờ đỏ sao
vàng. Cuộc diễu hành bắt đầu bằng phút mặc niệm các chiến sĩ đã ngã xuống vì
độc lập dân tộc. Dàn nhạc chơi giai điệu mới "Đoàn quân Việt nam đi",
các lãnh đạo Việt minh tuyên bố lệnh Tổng khởi nghĩa. Đoàn người chia làm nhiều
ngả chiếm Bắc bộ phủ, Dinh Toàn quyền, Trụ sở bảo an và các địa điểm quan trọng
khác. Họ hầu như không gặp sự chống đối nào, ngoại trừ một chút khó khăn ở Bắc
bộ phủ. Sau khi đàm phán, quân Nhật tuyên bố sẽ không can thiệp. Uỷ ban cứu
quốc bù nhìn hoàn toàn bị tan rã. Đến cuối ngày, toàn bộ thành phố đã nằm trong
tay quân khởi nghĩa. Đoàn diễu hành đi khắp các phố hát vang những bài ca cách
mạng và hô khẩu hiệu đòi độc lập dân tộc. Chắc chắn là rất ít người trong số họ
hiểu Việt minh là ai và tại sao lại có thể đại diện cho dân tộc. Tuy nhiên,
cuộc chiến tranh Thái bình dương đã kết thúc và viễn cảnh được đá đít Pháp cũng
đã đủ để ăn mừng.
Ngay trong đêm 19, lãnh
đạo Xứ uỷ gửi chỉ thị đi khắp nơi: "Hành động như Hà nội, nếu quân Nhật
kháng cự, hãy tiêu diệt, dành chính quyền bằng mọi giá". Làn sóng khởi
nghĩa mau chóng lan rộng và đến ngày 22/8, cờ đỏ sao vàng đã bay khắp các tỉnh
Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Quân Nhật ở Thái nguyên cũng đồng ý hạ vũ khí vào sáng
hôm sau. Tình hình miền Trung, đặc biệt ở Huế có vẻ phức tạp hơn. Do không có
vùng giải phóng để huy động lực lượng, thông tin từ Tân trào thì phải hàng mấy
ngày mới đến, dân nội thành thì toàn là công chức và quan lại, không có đông
công nhân, tiểu thương, sinh viên, chi bộ Đảng ở đây chủ yếu phải dựa vào những
chỉ thị từ hội nghị tháng 3 để chuẩn bị lực lượng trong các làng ngoại ô. Ngày
21/8, Hà nội gửi điện yêu cầu Bảo đại thoái vị. Nhà cách mạng, nhà thơ trẻ Tố
Hữu được phái vào kích động phong trào. Sáng 22/8, hơn 100,000 tụ tập trước cửa
Ngọ môn để chứng kiến Uỷ ban khởi nghĩa chiếm chính quyền mà không gặp phải sự
kháng cự nào của quân Nhật.
Nam bộ tỏ ra khó nhằn
đối với Việt minh. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, tất cả các lãnh đạo
Đảng hoặc chết hoặc đang ở trong trại giam. Các đảng phái dân tộc chủ nghĩa mọc
ra như nấm dưới sự cai trị của Nhật, hô hào khẩu hiệu nhái theo học thuyết
Monroi: "Châu á của người châu á". Chính quyền Pháp thì bám vào tầng
lớp thị dân Sài gòn và một số thành phố thuộc đồng bằng sông Cửu long. Trong
hoàn cảnh đó, cựu học viên của trường Stalin, Trần Văn Giàu, sau khi trốn khỏi
nhà tù, quyết định xây dựng lại từ đầu. Vì mất liên lạc với TƯ, xứ uỷ Nam kỳ
quyết định hành động theo chỉ thị của Hội nghị 6 năm 1939, kêu gọi chuẩn bị lực
lượng để tổng khởi nghĩa. Không có rừng núi như Việt bắc làm chiến khu, Giàu
tập trung nỗ lực vào khu đô thị Sài gòn - Chợ lớn, cùng lúc xây dựng phong trào
tại các vùng nông thôn. Giàu thường lấy những ngươi thiểu số Bônsevic, nhờ huấn
luyện kỹ đã dành được chính quyền, để động viên tinh thần anh em. Đầu năm 1945,
Đảng đã điều khiển được hoạt động của hơn 70 tổ chức công đoàn gồm gần 3000
công nhân. Sau cuộc đảo chính tháng 3, lợi dụng tình hình nhốn nháo, Đảng thừa
cơ nắm quyền lãnh đạo tổ chức Thanh niên Tiền phong do Nhật dựng lên. Dưới sự
lãnh đạo của Phạm Ngọc Thạch (con trai ông Phạm Ngọc Thọ, người đã từng gặp H ở
Quy nhơn khi H trốn vào nam năm 1908), tổ chức này đã phát triển nhanh chóng,
và đến tháng 8 năm 1945 đã có hơn 1 triệu thành viên ở tất cả các tỉnh của Nam
bộ. Ngày 14/8, Nhật chuyển giao quyền lực. Thừa cơ, ngày 16, khi Sứ thần của
Bảo đại là Nguyễn Văn Sâm chưa đến nơi, các phần tử dân tộc không cộng sản lập
ra Mặt trận Quốc gia Thống nhất, chiếm lấy chính quyền. Cũng lúc đó, ngày 14
Giàu đã họp các đồng chí của mình để chuẩn bị khởi nghĩa. Tuy nhiên, từ kinh
nghiệm cay đắng năm 1940, nhiều người do dự vì Việt minh không có vũ khí để vũ
trang cho dân quân và Thanh niên Tiền phong. Thêm vào đó, họ cũng chẳng có
thông tin gì về kế hoạch của các đồng chí phía Bắc. Cuối cùng cuộc họp quyết
định khởi nghĩa "thử" ở một số xã nông thôn, rồi sẽ xem tiếp. Cuộc
thử nghiệm đã diễn ra suôn sẻ ở Tân An, một thị trấn nhỏ phía Nam Sài gòn. Ngày
20, sau khi nghe tin Hà nội thành công, Giàu đã yêu cầu Mặt trận Quốc gia từ
chức vì quá dính líu với Nhật, chắc chắn sẽ không được Đồng minh chấp nhận.
Giàu thông báo chỉ có Việt minh mới được sự hỗ trợ hoàn toàn của Đồng minh.
Đang hoang mang, Mặt trận lại được tin Bảo đại đã gửi điện đề nghị Hà nội lập
chính phủ cộng hoà thay thế Trần Trọng Kim, cả hội vội vàng giải tán. Ngay lập
tức Giàu thành lập Uỷ ban Nam bộ do chính ông làm chủ tịch, triệu tập cuộc họp
Xứ uỷ, quyết định khởi nghĩa vào ngày 25. Sáng 25, các đội xung phong chiếm các
trụ sở và nhà máy. Nông dân rầm rập tiến vào từ ngoại ô, hô vang khẩu hiệu:
"Đả đảo đế quốc, đả đảo thực dân, Việt nam của người Việt nam, Tất cả
chính quyền cho Việt minh. Tuy Việt minh tránh đối đầu với quân Nhật, vẫn xảy
ra những cuộc đụng độ với người châu Âu. Đã xảy ra một số vụ thảm sát người
châu Âu trên đường phố Sài gòn. Chiều ngày 25, Uỷ ban Nam bộ với 6 thành viên
là Việt minh đã tuyên thệ nhậm chức chính quyền tạm thời. Đài Việt minh thông
báo: "Khởi nghĩa đã thắng lợi tại thành phố Hồ Chí Minh" 2.
Ngày 22/8 HCM rời Tân
trào, tối hôm đó H đến Thái nguyên, nghỉ đêm và tiếp tục theo đường số 3 xuôi
về Hà nội. Sáng 25, Giáp, Trần Đăng Ninh đón và báo cáo tình hình với H tại
làng ngoại ô Ga. Trưa hôm đó, Trường Chinh chở H qua cầu Long biên đến thẳng
tầng trên cùng của một ngôi nhà 3 tầng trên phố Hàng Ngang. Sau 55 năm, HCM đã
có mặt tại Hà nội 3. Ngày hôm sau, H chuyển xuống tầng 2 vốn là
tầng để ăn, ở cùng với Giáp, Ninh. H làm việc với một cái máy chữ cũ trên bàn
ăn và ngủ trên giường xếp, Giáp và Ninh thì ngủ trên chõng và 2 chiếc ghế xếp
lại. Đối với hàng xóm, họ chỉ là những họ hàng từ quê ra.
Ngay buổi trưa đến HN,
H đã triệu tập Uỷ ban thường vụ TƯ để bàn việc ra mắt chính phủ lâm thời. H đề
nghị mở rộng thành phần chính phủ được bầu ở Tân trào, nhấn mạnh lễ ra mắt phải
được tổ chức trước càng đông dân chúng càng tốt. Tất cả mọi việc đều phải hoàn
thành trước khi quân Đồng minh vào đến Hà nội. Theo quy định của Hội nghị Postdam,
quân Tưởng sẽ tiếp quản miền Bắc, còn quân Anh sẽ tiếp quản Nam bộ. Người Pháp
chỉ được tham gia các hoạt động nhân đạo. Trong lúc đại quân còn chưa kịp đến
thì những đơn vị OSS tiền tiêu do Archimedes Patti chỉ huy đã đến Hà nội để
tiếp nhận tù binh và đánh giá tình hình. Sainteny, đại diện của phong trào Nước
Pháp Tự do đã xin đi theo với lý do để bảo vệ những người Pháp bị kẹt lại. Cả
hội ở khách sạn Metropole sang trọng, ngay đối diện toà nhà Bắc bộ phủ. Trưa
ngày 26, Patti bất ngờ được mời đến gặp H tại số nhà 48 Hàng Ngang. Sau khi
chén súp cá, gà và lợn luộc cả hai đã đàm đạo khá lâu về tình hình hiện tại. H
hết sức bất mãn về sự có mặt của quân Pháp trong đoàn Patti. Ông cho rằng mục
tiêu của hội này chắc chắn không phải chỉ là lo lắng cho người Pháp ở đây. Quân
Anh thì hiển nhiên là sẽ thông đồng với Pháp, còn Tưởng thì chẳng có lý gì lại
không bán đứng Việt nam vì lợi ích của mình. H thăm dò thái độ của Mỹ, phủ định
tin đồn về nguồn gốc cộng sản của mình, biện hộ rằng sở dĩ mình phải đến Matxcova
và chơi với cộng sản Trung hoa là do hoàn cảnh đưa đẩy. Patti thì chẳng hứa hẹn
gì, nói rằng mình không có thẩm quyền bàn về các vấn đề chính trị địa phương.
3h30, Patti xin phép về nhà mình tại Maison Gautier, một vila sang trọng cạnh
hồ Hoàn kiếm. Lúc đó, H được tin là Sứ thần Bảo đại ở Nam bộ là Nguyễn Văn Sâm
đã xin triều đình từ chức. Về đến nhà, Patti đã thấy Sainteny gửi giấy hẹn sang
nói chuyện. Thừa biết là Patti đã có quan hệ với H, S đề nghị Patti môi giới
cuộc gặp gỡ với Việt minh. Chiều hôm đó, Patti được thông báo là Giáp sẽ đến
gặp S và Patti vào sáng hôm sau. Rõ ràng là Giáp muốn có những người bạn Mỹ bên
cạnh trong lần tiếp xúc đầu tiên với đại diện của Pháp. Hôm sau, Giáp đến trong
bộ lễ phục trắng, và ngay lập tức được S huấn thị về việc Việt minh đã lơ là
trong việc bảo vệ luật pháp, trật tự và tính mạng của những người Pháp. Giáp
đáp lại, tôi đến đây không phải để giải thích các hành động của người Việt mà
để tiếp xúc với đại diện của một nước Pháp "mới". S xuống giọng, hứa sẽ
xem xét các yêu cầu của người Annam, tuy nhiên cũng doạ thêm là nếu không dựa
vào Pháp, Việt nam sẽ bị Tàu Tưởng làm cỏ.
Trong khi H bắt đầu
cuộc thương lượng đầy sóng gió với Pháp về số phận mới của Việt nam, chính phủ
Việt minh tiếp tục thương lượng với triều đình Huế. Ngày 20, Bảo đại đồng ý từ
chức, kêu gọi Hà nội thành lập chính phủ mới. Việt minh quyết định đẩy nhanh
tiến độ bằng cách gửi đoàn đại biểu gồm Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng và
Trần Huy Liệu vào ngày 29 yêu cầu Bảo đại thoái vị. Ngày hôm sau, đoàn gặp Bảo
đại. Nhà vua tiến hành nghi lễ thoái vị, chiều hôm đó, lại lặp lại nghi lễ
trước cổng Ngọ môn. Sau khi nhận ấn kiếm, Liệu chuyển lời của HCM mời Bảo đại
ra Hà nội tham gia vào chính phủ với tư cách một công dân. Bảo đại đồng ý dù
đây là lần đầu tiên nghe thấy cái tên HCM mà ông ta có thể phần nào đoán ra đó
chính là nhà cách mạng lão thành Nguyễn ái Quốc. Không khí buổi lễ thoái vị có
vẻ hội hè chứ không có ý gì ép buộc. Tuy nhiên không ít quan lại triều đình cảm
thấy ngậm ngùi khi phải chứng kiến cảnh vị vua cuối cùng của Việt nam rời khỏi
ngai vàng 4. Một số các cận thần của Bảo đại không được
may mắn như nhà Vua. Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị bắt và bị đưa ra Hà nội sau
đó bị thủ tiêu. Ở Quảng ngãi, Tạ Thu Thâu, người theo chủ nghĩa Troskist và
thường xuyên công kích ICP cũng nhận được số phận tương tự.
Ngày 28, H triệu tập cuộc
họp của Uỷ ban giải phóng dân tộc (sẽ nhanh chóng trở thành chính phủ lâm thời)
tại toà nhà Bắc bộ phủ để bàn về thành phần chính phủ và xem xét nội dung của
bản Tuyên ngôn Độc lập mà H đã chuẩn bị và đánh máy trong căn phòng tối tăm ở
phố Hàng ngang. Sau này H kể lại "đó là thời điểm hạnh phúc nhất của đời
tôi". Trên cuộc họp, H đã đề xuất mở rộng thành phần để có thể có đại diện
rộng rãi nhất của dân chúng trong chính phủ và đã được nhiệt liệt hoan nghênh.
Một số thành viên Việt minh đã tình nguyện từ chức để nhường chỗ cho các đảng
phái khác. Hai ngày sau, H tuyên bố thành phần chính phủ mới: ngoài chức danh
Chủ tịch, H còn kiêm bộ trưởng ngoại giao, Giáp: bộ nội vụ, Đồng: bộ tài chính,
Chu Văn Tấn: bộ quốc phòng, Liệu: bộ Tuyên truyền. Khoảng một nửa thành viên
chính phủ là Việt minh, ngoài ra là từ đảng Dân chủ (thành lập 1944), một số
giáo chức thiên chúa và các thành viên phi đảng phái. Mấy ngày sau đó, H làm
việc ở văn phòng nhỏ tại Bắc bộ phủ để trau chuốt lại bản Tuyên ngôn, H cũng
chuyển sang ở một vila tại Rue Bonchamps nhưng vẫn về ăn với các đồng chí tại
Hàng Ngang. TƯ đã quyết định lễ Độc lập sẽ được tổ chức tại quảng trường
Puginier, mang tên của một giáo sĩ Pháp mà sau này sẽ được đổi thành Ba đình
theo đề nghị của H để kỷ niệm ba làng ở Thanh hoá đã nổi lên chống Pháp ở cuối
thế kỷ 19. Từ sáng ngày 2/9, Hà nội đỏ rực cờ hoa và biểu ngữ. Cờ đỏ chảy từ
mái nhá, bay trên các ngọn cây, trôi trên mặt hồ. Khẩu hiệu: "Đả đảo thực
dân Pháp", "ủng hộ chính phủ lâm thời", "ủng hộ chủ tịch Hồ
Chí Minh" "Chào mừng Đồng minh" bằng đủ các thứ tiếng Việt, Nga,
Hoa, Pháp, Anh giăng khắp nơi. Xưởng máy, cửa hàng, chợ búa trống trơn, tất cả
xuống đường. Đoàn người đủ màu sắc đổ về Ba đình. Chính giữa quảng trường, đội
cận vệ đứng nghiêm trong nắng hè chói chang, bảo vệ một khán đài bằng gỗ mới
dựng lên hôm trước, dự kiến sẽ là nơi Chủ tịch HCM giới thiệu chính phủ và đọc
bản Tuyên ngôn độc lập. Buổi lễ dự kiến bắt đầu lúc 2h nhưng H đến chậm mấy
phút do đoàn xe Mỹ chở phải khó khăn lắm mới vượt qua được biển người. Giáp là
MC chương trình, giới thiệu HCM. Bài nói của H ngắn nhưng xúc động:
"Tất cả sinh ra
đều bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền không thể tách rời, trong đó có
quyền Sống, Tự do và Mưu cầu Hạnh phúc". Câu nói bất hủ đó trích trong
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776. Nói rộng ra điều đó có nghĩa là tất cả
các dân tộc trên trái đất bình đẳng từ lúc ra đời. Tất cả các dân tộc đều có
quyền sống và được hưởng tự do và hạnh phúc. Tuyên ngôn Nhân quyền của Cách
mạng Pháp 1789 cũng đã nhấn mạnh "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng
và mãi mãi sẽ tự do và bình đẳng"
Sau đó H miêu tả những
đau khổ mà chế độ thực dân Pháp đã gây ra cho Việt nam, và cuối cùng người Việt
nam đã phải đứng lên đánh đuổi Pháp dành lại độc lập dân tộc. H kết luận "Việt
nam có quyền được hưởng tự do, độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do
và độc lập. Toàn thể nhân dân Việt nam sẽ huy động tất cả sức mạnh vật chất và
tinh thần, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải để bảo vệ tự do và độc lập của
mình". Giữa bài nói của mình, H đã dừng lại hỏi "Tôi nói đồng
bào có nghe rõ không?". Hàng triệu người đã reo lên "Có", theo
lời Giáp kể. Sau khi chính phủ tuyên thệ độc lập, đám đông bắt đầu giải tán
trong tiếng gầm rú của phi đội P-38 của Mỹ bay chào mừng. Cùng ngày hôm đó, lễ
độc lập được tổ chức tại tất cả các đền, chùa và nhà thờ thiên chúa giáo. Tối
đó, H tiếp đại diện của các tỉnh 5. Khoảng 15000 dân Pháp sống ở Hà nội lúc đó
quan sát sự kiện này với sự lo lắng ra mặt. Họ lẳng lặng chuẩn bị vũ khí và
thực phẩm cho những ngày khó khăn sắp tới. 5000 quân Pháp bị giam ở Hoả lò cũng
âm thầm chuẩn bị nổi dậy khi quân đội của Nước Pháp Tự do theo Đồng minh tiến
vào Đông dương. Sáng 3/9, chính phủ họp phiên đầu tiên ở Bắc bộ phủ để thảo
luận chiến lược hoạt động, dựa trên "10 chính sách" mà Quốc dân Đại
hội đã vạch ra ở Tân trào. Trong bài khai mạc, H nhấn mạnh mục tiêu quan trọng
nhất của chính phủ là đẩy lùi nạn đói. Mặc dù vụ đông xuân có một số tiến bộ,
nhưng nạn lụt vào tháng 8 đã đẩy các tỉnh Bắc bộ vào tình cảnh hết sức khó
khăn. Sản lượng lúa của 15 tỉnh Bắc bộ chỉ là 500,000 tấn so với 832,000 tấn của
năm 1944. Sinh viên các trường đại học phải lập những đội tình nguyện đi thu
nhặt xác chết vào mỗi buổi sáng sớm. Một loạt các biện pháp được thông qua. Đầu
tiên là thực thi tiết kiệm. H tự nguyện 10 ngày nhịn ăn 1 ngày để giúp người
nghèo. Đất công, thường chiếm khoảng 20% đất canh tác ở làng, được trưng thu để
chia đều cho dân nghèo từ 18 tuổi trở lên. Cấm sản xuất bún và nấu rượu. Giảm
và miễn thuế nông nghiệp. Mở các trạm tín dụng nông nghiệp tại xã. Đẩy mạnh
khai hoang. Theo đề nghị của H, chính phủ còn quan tâm đến một số vấn đề quan
trọng khác trong đó có việc xoá mù chữ. Theo đánh giá, chính sách giáo dục
thiển cận của Pháp đã đẩy một dân tộc thường xuyên có tỉ lệ biết chữ cao ở châu
á xuống mức 90% mù chữ vào năm 1945. Chính phủ ra sắc lệnh yêu cầu tất cả người
Việt nam phải học đọc và viết chữ quốc ngữ trong vòng 1 năm. Sắc lệnh mang hơi
hướng của Nho giáo viết: "Ai chưa biết phải học. Vợ học chồng. Em học anh.
Già học trẻ. Bố mẹ học con. Tất cả đều phải học chăm chỉ hơn". Các lớp xoá
mù được mở khắp nơi, đền chùa, chợ búa cũng biến thành trường. Đến mùa thu năm
1946, hơn 2 triệu người Việt nam đã được xoá mù chữ. Ngày 8/9, Chính phủ quyết
định tổ chức Tổng tuyển cử trong 2 tháng tới để bầu ra quốc hội lập pháp có khả
năng thông qua hiến pháp mới. Ngày 13/10 ban bố sắc lệnh về việc thành lập các
hội đồng nhân dân tại địa phương thông qua bầu cử. Các chính sách kinh tế của
chính phủ chủ yếu là miễn giảm thuế, nâng cao điều kiện lao động và cấp đất cho
người nghèo. Không có quốc hữu hoá hoặc cải cách ruộng đất. Chỉ có đất của
người Pháp và những kẻ cộng tác mới bị tịch thu. Chính sách này phù hơp với các
tuyên bố của H trước đó về cách mạng 2 giai đoạn, khi dành được chính quyền, ưu
tiên đầu tiên của ông là thành lập chính phủ có khả năng đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp dân chúng, tập hợp được sức mạnh để đối phó với đe doạ ngoại xâm. Tuy
nhiên đây đó vẫn xảy ra những hiện tượng quá khích, các phần tử địa chủ, quan
lại bị thanh toán, đền chùa bị đập bỏ, nhân dân bị cấm không được tiến hành các
nghi lễ phong tục, tập quán.
Trong khi H đang trau chuốt những nét bút cuối cùng cho bản tuyên ngôn độc lập, những đơn vị quân Tưởng đầu tiên đã bắt đầu tiến vào Việt nam. Vào phút cuối, Tưởng đã đổi ý, không dùng Trương Phát Khuê mà sử dụng quân đoàn 1 của Lư Hán ở Vân Nam để tiến vào Hà nội. Tiêu Văn, người đỡ đầu cũ của H trong Việt nam cách mạng đồng minh Hội ở Lưu châu trước đây được cử làm chính uỷ. Các bọn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng được dịp bám theo. Đội quân 180,000 này rõ ràng không phải là lực lượng tốt nhất của Quốc dân đảng. Dân Việt nam thì chỉ thấy một đội quân bệ rạc, áo quần bẩn thỉu, chân thì phù thũng, dắt díu theo cả họ hàng hang hốc. Patti miêu tả trong hồi ký của mình: Quân Tưởng của Lư Hán tiến vào thành phố lúc ban đêm. Chúng tôi nghe rõ tiếng bước chân, tiếng động cơ rồi tiếng quát tháo. Sáng hôm sau, đập vào mắt chúng tôi là một cảnh tượng gây sốc. Các đơn vị "tinh nhuệ" hôm qua (các đơn vị tiền tiêu) đã biến thành đội quân "thổ phỉ ". Khắp phố là cảnh hỗn loạn, lính Tàu đi lại lang thang vô mục đích. Trên các hè phồ, lề đường, vườn hoa, ngổn ngang quân lính và người thân, các dụng cụ gia đình lẫn lộn với quân trang quân dụng. Một số đám đun chè uống, xếp đồ đạc, thậm chí giặt giũ
Đối với HCM, bề ngoài
của đội quân này không quan trọng bằng mục đích của nó. Mặc dù Tưởng đã hứa với
Roosevelt tại Hội nghị Cairo 1943 là không hề có ý định dòm ngó Việt nam, hiển
nhiên là TQ muốn duy trì một chế độ mà mình có thể ảnh hưởng. Thái độ của quân
Tưởng đối với Pháp khi Pháp quay trở lại tiếp quản Đông dương cũng là điều H
bận tâm, Trương Phát Khuê kịch liệt chống Pháp nhưng cũng không loại trừ một số
kẻ thoả hiệp để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong hội nghị TƯ vào giữa tháng 8,
H đã tập trung phân tích những vấn đề liên quan phức tạp liên quan đến quân Đồng
minh, khai thác sự mâu thuẫn giữa chúng để bảo vệ độc lập. H cho rằng 2 đối
tượng nguy hiểm nhất là Pháp và Tưởng. Pháp chắc chắn muốn chiếm lại Việt nam.
Tưởng cũng vậy, nếu không được thì cũng sẽ cố gắng dựng lên một chính phủ thân
Tưởng ở Hà nội. H dự đoán, một là Mỹ và Tưởng có thể ở một bên, còn Anh ủng hộ
Pháp để chiếm lại VN, chính phủ mới có thể lợi dụng sự mâu thuẫn này. Hai là,
các nước đồng minh thống nhất chĩa mũi dùi sang Liên xô, khi đó Mỹ, Anh sẽ đều
quay sang ủng hộ Pháp vào VN. Trong mọi điều kiện VN, phải cố gắng tránh đối
đầu một mình. Đối với Pháp, tránh đụng độ vũ trang, nhưng kiên quyết huy động
quần chúng chống lại Pháp khôi phục cai trị. Đối với Anh, Tưởng, phát triển
quan hệ hữu hảo, nếu bị can thiệp vào công việc, dùng quần chúng để đòi độc
lập. Dựa trên chính sách đó, chính phủ mới ở VN đã hết sức mềm dẻo với Tưởng.
Khi người bảo trợ cũ là Tiêu Văn đến HN, HCM đã đích thân hứa phát triển mối
quan hệ hữu hảo. Giáp đổi tên Giải phóng quân thành Vệ quốc quân, rút một số
đơn vị ra ngoại ô, bố trí lại các đơn vị trong HN để tránh đụng độ. Ngày 14/9
Lư Hán đến Hà nội và chiếm luôn Dinh Thống sứ, đuổi Sainteny xuống một biệt thự
gần Ngân hàng Đông dương khi đó vẫn do Nhật chiếm. Các phần tử dân tộc thân
Tưởng cũng tranh thủ ùa vào. Chính phủ phải thông báo cho các uỷ ban nhân dân
từ biên giới hết sức bình tĩnh trước những hành động khiêu khích của đám này
trên đường từ Việt bắc về Hà nội. Tại Hà nội, Nguyễn Hải Thần và tay chân tự
động lập ra "Vùng tự trị" và bắt đầu gây rối.
H có lẽ cũng đã cảm
thấy những cố gắng của mình nhằm xây dựng quan hệ chiến lược với Mỹ thông qua
OSS không mang lại nhiều kết quả. Trong một bức thư gửi Charle Fenn vào giữa
tháng 8, H viết rất vui vì chiến tranh đã kết thúc, nhưng cũng rất buồn vì phải
chia tay những người bạn Mỹ. H tiên đoán "Khi các ông đi, quan hệ giữa
chúng ta chắc chắn sẽ xấu đi". Đối với H, Mỹ qua tổng thống Roosevelt là
người lớn tiếng đòi phục hồi độc lập cho các dân tộc bị áp bức ở châu á. Nhưng
H cũng hiểu rằng, với tình hình thế giới phân cực, kiểu gì Mỹ cũng sẽ trở thành
thành trì của chủ nghĩa tư bản, chống lại cách mạng thế giới. Tháng 4, Truman
lên thay R chết vì bệnh, đã lờ đi không nhắc đến vấn đề độc lập ở Đông dương
nữa. Tháng 5, tại hội nghị San Francisco, phái đoàn Mỹ cho thấy rằng sẽ không
phản đối nếu Pháp trở lại Đông dương. Sự thay đổi chính sách này là kết quả
cuộc tranh luận giữa Vụ châu á và Vụ châu Âu của Bộ Ngoại giao Mỹ. Vụ châu Âu
cho rằng trong tình hình sự đối đầu ngày càng căng thẳng giữa Mỹ và Liên xô tại
châu Âu, Mỹ phải ủng hộ Pháp. Tuy nhiên Mỹ cũng yêu cầu "bảo đảm những
điều kiện tự trị tiến bộ hoặc hình thức liên hiệp cho các dân tộc mong muốn độc
lập, tương ứng với các điều kiện bên ngoài cũng như khả năng thực tế của dân
tộc đó". Tướng De Gaul cũng hứa Đông dương "sẽ nhận được những hình
thức tự trị tương xứng". Vào cuối tháng 8, khi Việt minh đang bận củng cố
quyền lực, Truman đã gặp De Gaul ở Nhà Trắng. De Gaul đã từ chối yêu cầu của
Nhà trắng hứa hẹn về tương lai của Đông dương, cho rằng nói bây giờ chỉ là
những lời "nói suông". Mấy ngày sau, Mỹ tuyên bố không phản đối việc
Pháp trở lại Đông dương. Đáng tiếc là đến tận tháng 10 tin này mới đến Trùng
Khánh, bởi thế Patti và những quân nhân Mỹ đến Hà nội chẳng được chỉ thị nào
của Đại sứ quán cả. H vẫn tiếp tục liên lạc với Patti mà không biết rằng ông
này cũng chẳng biết gì hơn mình về đường lối chính thức của Mỹ. Trong cuộc gặp
gỡ trước ngày 2/9, H kêu ca là Mỹ không hiểu gì về mục tiêu của Tưởng và Pháp.
H cam kết rằng Việt minh không phải là ICP, chấp nhận đàm phán với Pháp về một
nền độc lập hạn chế và hứa sẽ dành cho Mỹ những nhượng quyền kinh tế đặc biệt.
Patti, cũng như tất cả những người Mỹ đã từng tiếp xúc với H ở cuối cuộc chiến,
có cảm tình với chính phủ của H. Tuy nhiên cấp trên của ông này là Richard
Hepnner đã ra lệnh không được dính líu gi đến các vấn đề chính trị. Bị bỏ rơi,
H tìm cách thoảhiệp với Tưởng. Khi Tiêu Văn nhắc khéo về việc bổ sung thêm
thành phần chính phủ, H đã thề thốt rằng mục tiêu của ông là dân chủ hoá chính
phủ và tổng tuyển cử sẽ được tiến hành cuối năm.
Trong lúc đó, chính
quyền mong manh ở phía Nam phải đối mặt với nhiều đe doạ trực tiếp. Sau những
sự kiện lộn xộn ngày 25/8, Uỷ ban Nam bộ bắt đầu ổn định tình hình và thâu tóm
quyền lực để chuẩn bị đón quân đội chiếm đóng Anh. Vài ngày sau, Hoàng Quốc
Việt được TƯ phái vào. Việt đã khuyên Giàu tránh đối đầu với quân Anh. Tuy
nhiên vị thế của Giàu khá tế nhị. Ông này phải chấp nhận trong uỷ ban có nhiều
thành phần khác. Hội này không những luôn luôn nghi ngờ bản chất của Việt minh
mà còn rình rập thế cơ để tố cáo Việt minh thoả hiệp với quân thù. Trên thực
tế, Xứ uỷ Nam bộ cũng bị mất liên lạc với TƯ và đã quen tự quyết định tình
hình. Thậm chí, khi Việt vào, Giàu mới biết nhân vật kỳ bí HCM chính là Nguyễn
ái Quốc. Bởi vệ các đồng chí phía Nam không nhiệt tình lắm với những đề nghị
của Việt, chưa kể nhiều khi Việt như muốn ra lệnh. Xuất thân từ công nhân, với
tư tưởng cứng nhắc, Việt cũng chẳng thích thú gì với hội của Giàu. Việt coi hội
này như những kẻ phiêu lưu tiểu tư sản đã bị nhiễm lối sống của tư bản Sài gòn.
Sự chia rẽ giữa Xứ uỷ hai miền từ cuối những năm 30, càng trở nên căng thẳng
cuộc khởi nghĩa tại hai nơi bị buộc phải đi theo những con đường khác nhau.
Ngày 2/9, đám đông tụ tập trước dinh Norodom để chào mừng độc lập và nghe
truyền thanh bản Tuyên ngôn độc lập của HCM. Trong lúc đó, căng thẳng với kiều
dân Pháp vẫn rất cao. Khi những người biểu tình đang rầm rộ tiến vào Rue
Catinat thì tiếng súng bỗng đột nhiên vang lên tại quảng trường Nhà thờ. Đám
đông trở nên bị kích động, thanh niên ùa vào những ngôi nhà lân cận để tìm kẻ
bắn lén. Lộn xộn xảy ra, cha cai quản Nhà thờ Tricoire đang đứng trên thềm thì
bị trúng đạn chết ngay tại chỗ. Bạo lực lan nhanh, nhà cửa bị đập phá, cửa hàng
bị hôi của, đám đông đi tìm người châu Âu để đánh. Báo chí Pháp gọi ngày này là
Ngày Chủ nhật đen. Bốn người chết và hàng trăm người bị thương. Vài ngày sau,
Giàu ra lời kêu gọi các đồng chí của mình duy trì kỷ luật, kiềm chế tránh bị
lôi kéo vào những hành động manh động. Các phe phái dân tộc chủ nghĩa và nhóm
Troskist được thể lấn át Việt minh. Hai giáo phái chính là Cao đài và Hoà hảo
bắt nguồn và sinh sôi nảy nở trên đồng bằng Mekong từ những năm đầu thế kỷ, với
hàng trăm ngàn giáo dân, cũng ra sức củng cố quyền lực trong khu vực hoạt động
của mình, chống lại sự bành trướng của Việt minh.
Ngày 12/9 Sư đoàn
Gurkha số 20 của tướng Douglas Gracey đến Tân sơn nhất cùng với một số đơn vị
quân Pháp. Sư đoàn này vừa trải qua những trận chiến với quân Nhật tại Miến
điện. Gracey, con của một quan chức thực dân ở ấn độ, tốt nghiệp Sandhurst,
dáng khắc khổ, với bộ ria mép đặc trưng cho các vị tướng Anh. Con đường binh
nghiệp của Gracey chủ yếu ở các nước thuộc địa châu Á. Ông được binh lính kính
trọng vì lòng dũng cảm và công bằng. Có vẻ như Gracey là sự bổ nhiệm hoàn hảo
cho nhiệm vụ tiếp quản sự đầu hàng của Nhật và duy trì luật pháp tại Đông
dương. Tuy nhiên ngay từ những ngày đầu tiên ông này đã gặp phải những vấn đề
lớn. Đầu tiên là thiếu kinh nghiệm xử lý chính trị, xuất phát từ nguồn gốc của
mình Gracey coi việc các dân tộc châu á phải bị cai trị là đương nhiên. Tiếp
đến là sự thiếu nhất quán trong lãnh đạo đồng minh. Khi ở Rangoon, Gracey được
giao nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ quân đội đồng minh ở Đông dương phía dưới vĩ
tuyến 16. Tuy nhiên, trên đường hành quân, tướng Slim chỉ huy quân Anh ở Đông
Nam á lại chỉ đạo Gracey chỉ tập trung kiểm soát một số vùng trọng yếu, còn lại
để mặc quân Pháp, trừ khi Pháp yêu cầu hoặc có lệnh của tướng Mountbatten, chỉ
huy toàn bộ quân đội Đồng minh tại ĐNA (trụ sở tại Ceylon). Thực tế là Slim đã
trả lại nửa nam của Đông dương cho Pháp.
Sài gòn khi Gracey đến
không yên bình. Quân Nhật đầu hàng làm thành phố hầu như không có chủ. Cảnh sát
Việt nam chẳng biết phải báo cáo cho ai. Ngày 8/9, Giàu kêu gọi dân chúng bình
tĩnh và hợp tác với Uỷ ban Nam bộ và ngay lập tức bị các thành viên phê phán về
thái độ hoà hoãn, thậm chí còn nghi ngờ Giàu là "tay sai" của Pháp.
Hôm sau Uỷ ban bị cơ cấu lại, Giàu phải từ chức, Việt minh chỉ còn 4 trong số
13 thành viên. Ngày 12/9, một số tù binh Pháp được quân Pháp đi theo Gracey
giải cứu ùa ra đường, đập phá và tấn công những người Việt nam cho bõ tức.
Gracey ra lệnh cho quân Nhật tước vũ khí của các đơn vị Việt nam, đuổi Uỷ ban
Nam bộ ra khỏi toà nhà Thống sứ. Bộ chỉ huy Anh tuyên bố sẽ trực tiếp cai trị
cho đến khi chế độ thực dân Pháp được phục hồi 6. Trong vài ngày sau, các đơn vị Anh đã tuần
tiễu khắp đường phố và đuổi quân "phiến loạn" ra khỏi những vị trí
trọng yếu. Giàu nhận được lệnh từ Hà nội tìm mọi cách tránh đối đầu trực tiếp,
âm thầm sơ tán các đơn vị Việt minh ra ngoại ô. Uỷ ban Nam bộ cũng bắt đầu
thương lượng với đại diện Pháp Jean Cedile, đã nhảy dù xuống Nam bộ từ 22/8.
Tuy nhiên như nhà ngoại giao Pháp Bernard de Folin ghi lại, đây là cuộc đối
thoại của 2 người câm, mặc dù có sự trợ giúp đắc lực của Peter Dewey từ OSS.
Pháp chỉ chấp nhận nói chuyện về độc lập sau khi chế độ cai trị thực dân được
khôi phục lại. Đến giữa tháng 9, Phạm Văn Bách lúc đó là chủ tịch UBNB hiểu
rằng các cuộc đàm phán là vô nghĩa, UB kêu gọi tổng bãi công vào ngày 17. Ngay
lập tức Gracey ban bố thiết quân luật, thả tất cả quân Pháp (chủ yếu là lính lê
dương), trang bị vũ khí và đề nghị Pháp lập lại trật tự. Đụng độ đã xảy ra giữa
quân Việt nam và Pháp. Đêm 22/9, Cedile ra lệnh cho quân Pháp chiếm lại tất cả
các vị trí trọng yếu và đuổi UB ra khỏi trụ sở mới là toà Thị chính Sài gòn.
Sáng hôm sau, 22000 người Pháp hân hoan biết rằng Sà gòn lại dưới quyền cai trị
của họ. Người Pháp tràn ra phố đánh đập bất cứ người Việt nam nào bất kể trẻ
già, trai, gái mà chúng gặp trên đường.
Chỉ huy của OSS lúc đó
tại Sài gòn là trung tá Dewey. Chàng thanh niên 28 tuổi này tốt nghiệp đại học
Yale, từng là phóng viên báo Tin tức Chicago, gia nhập OSS tại châu Âu, vốn là
con của đại sứ Mỹ tại Pháp. Anh nói tiếng Pháp thành thạo nhưng lại căm ghét
chế độ thực dân chẳng khác Patti. Dewey liền đến gặp Gracey để phàn nàn về sự
lộng hành của quân Pháp. Gracey chẳng những không tiếp mà còn yêu cầu Dewey rời
khỏi Đông dương càng sớm càng tốt, cho rằng các hoạt động của OSS không có ích
gì mà còn gây rối thêm. Tuy nhiên Gracey cũng xuống nước, đề nghị Pháp rút quân
khỏi đường phố, trao lại quyền gìn giữ trật tự cho Nhật. Ngày 24/9, hàng trăm
phần tử vũ trang, chủ yếu là Cao đài và Bình xuyên tràn vào khu phố người Pháp
Herault hô ầm ĩ "Giết bọn Âu trắng". Hơn 150 người chết, 100 người bị
bắt đi và mất tích luôn, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em. Nông dân ngoại ô
cũng bạo loạn, đốt nhà, chiếm đất và đánh giết các địa chủ. Bây giờ thì Giàu
không còn tin vào hoà hoãn nữa. Lo sợ các lực lượng dân tộc sẽ chiếm mất quyền
lực, Giàu ra lệnh tiếp tục bãi công và phong toả thành phố. Những chiến luỹ
được dựng trên các ngả đường để ngăn người Pháp ra khỏi thành phố và không cho
người Việt nam từ ngoài vào. Dewey điện cho Patti "Nam bộ như lò
thuốc súng, người Mỹ cần hành động". Trưa ngày hôm sau, trên đường ra sân
bay Tân sơn nhất, Dewey bị bắn chết trên một chiến luỹ và trở thành người Mỹ
đầu tiên chết trong cách mạng Việt nam. Trụ sở OSS cũng bị tấn công và được
quân Anh giải cứu. Các sĩ quan OSS điều tra cái chết của Dewey đều cho rằng
Việt minh không có động cơ để giết Dewey cũng như người Mỹ vốn ủng hộ nền độc
lập của Việt nam. Một phần lỗi là do Gracey đã từ chối cho Dewey được treo cờ
Mỹ trên chiếc Jeep của mình (theo Gracey là chưa xứng đáng), và nhiều khả năng
là Việt minh đã nhầm chiếc xe của Dewey là chở quân Pháp. Biết chuyện qua Patti
HCM đã bị sốc, sau đó gửi thư đến tổng thống Truman bày tỏ sự đau buồn. Sự hỗn
loạn ở Sài gòn đã ảnh hưởng nặng đến hình ảnh gìn giữ hoà bình của quân Anh.
Ngài Mountbatten đã triệu Gracey và Cedile đến Singapore để mắng mỏ vì kỳ thị
chủng tộc và không chịu làm việc với người Việt nam. Nhưng mọi sự đã muộn. Đầu
tháng 10, quân Pháp do Leclerc chỉ huy đã tiến vào Nam bộ, vài ngày sau, tại
Cung Sportif, Grace đã ký hiệp định giao lại toàn quyền cai trị Việt nam từ vĩ
tuyến 16 trở về trước cho Pháp. Ngày 10/10, Giàu tấn công quân Anh-Pháp tại Tân
sơn nhất và các cửa ô. Tuy nhiên chỉ vài tuần sau, các đơn vị Việt minh và các
phần tử dân tộc thiếu kinh nghiệm đã bị đẩy bật ra xa ngoại ô Sài gòn và buộc
phải lẩn trốn trong những cánh rừng và đầm lầy. Trước tình hình đó, Việt minh
ra sức tìm cách hàn gắn các phe phái, còn Lê Duẩn thì khẩn cấp triệu tập cuộc
họp Việt minh ở đồng bằng sông Mekong để chuẩn bị cho chiến tranh. Tại Hà nội,
HCM lên đài kêu gọi cả nước ủng hộ miền Nam, thề sẽ thống nhất đất nước. Tại
miền trung, nhiều nơi, cả làng đã hưởng ứng Nam tiến đánh Pháp. Tuy nhiên trong
chỗ thân tín, H khuyên các cộng sự phải kiên nhẫn, "từ kinh nghiệm lịch
sử, chỉ có cuộc chiến kéo dài mới dành được kết quả".
Quả thật là chính quyền
non trẻ chưa thể có đủ năng lực đến tiến hành chiến tranh. Tuy quân Pháp chưa đến
Bắc bộ, nhưng dưới sự bảo kê của quân Tưởng, các phần tử dân tộc đang ngày càng
lấn lướt. HCM phải hết sức khéo léo để lôi kéo đồng minh. Ông ra lệnh cung cấp
thuốc phiện cho Lư Hán, tư lệnh quân Tưởng ở Việt nam. Ông cho mời Bảo đại từ
Huế ra, tỏ vẻ lấy làm tiếc là đàn em đã dùng vũ lực để ép BĐ thoái vị. H nói
"Tôi cho rằng ngài phải lãnh đạo đất nước, còn tôi sẽ lãnh đạo chính
phủ". HCM đã đề nghị Bảo đại làm cố vấn tối cao cho Chính phủ và ông này
đã nhận lời 7. Mặc dù H đã làm hết sức để giữ hình ảnh ôn
hoà, ông không thuyết phục được các phần tử dân tộc trong Đồng minh Hội, đã tố
cáo Việt minh tráo trở trong khi chủ động đơn phương dành chính quyền. Nguyễn
Hải Thần và Đại Việt gọi chính phủ là "Hồ và băng đảng khố rách áo
ôm" đang tìm cách thoả hiệp với Pháp. Vũ Hồng Khanh và báo chí VNQDD
thì rêu rao về nguy cơ "Khủng bố đỏ". Mặc dù như Patti nhận xét bọn
này không có một chiến lược kinh tế xã hội nào và "mất phương hướng chính
trị một cách vô vọng" , chúng có trong tay một con bài quan trọng là
sự ủng hộ của quân Tưởng. Tuy nhiên bọn này cũng chẳng có mục tiêu thống nhất.
Hội liên quan đến Đồng minh Hội do Tiêu Văn ủng hộ thì mong quân Tưởng và Nhật
rút sớm để có thể thành lập chính phủ của mình. Đại Việt và Việt nam QDD thì
theo đuôi Lư Hán và muốn quân chiếm đóng Tưởng ở lại lâu dài. Nhà báo Pháp
Phelip Deviller, lúc đó đang ở Hà nội cũng nhận thấy sự chia rẻ trong hàng ngũ
Việt minh làm 3 nhóm: nhóm cộng sản cứng rắn như Hoàng Quốc Việt, Trần Huy
Liệu, Hồ Tùng Mậu; nhóm cộng sản thực dụng như Giáp, Hoàng Minh Giám và bố vợ
Giáp là Đặng Thai Mai; nhóm thứ 3 là nhóm không cộng sản, theo Việt minh vì yêu
nước. Deviller cho rằng HCM đã rất khéo léo xoa dịu mâu thuẫn giữa các nhóm,
đặc biệt là thuyết phục các đồng chí cứng rắn không manh động. Trong một bình
luận, H cho rằng các phần tử phản động sẽ "bị quét sạch" nhưng từng
bước cho đến khi chính phủ nắm được chính quyền một cách vững chắc. Nhiều lúc
tình hình quá căng thẳng, H phải thay đổi chỗ ở thường xuyên, đề phòng bị ám
sát. Theo H, cách tốt nhất để trị hội Dân tộc chủ nghĩa là làm việc với quân
Tưởng. Tuy nhiên chưa rõ là Lư Hán sẽ ở lại đây bao lâu. Đầu tháng 10, Tưởng cử
tướng Hồ Yingqin sang thị sát tình hình, phê phán Lư Hán không có kế hoạch hành
động để ngăn cản cộng sản thâu tóm quyền lực. Khả năng quân Tưởng rút lại càng
mù mờ hơn. Trong khi đó Pháp vẫn là mối đe doạ lớn nhất, nếu các nước Đồng minh
cùng xúm lại để chống Nga, đương nhiên Pháp sẽ được rảnh tay để chiếm lại Đông
dương mà chẳng ai phản đối mặc dù có thể không thích. Hiểu được điều đó, từ
giữa tháng 9, H đã bí mật đàm phán với Marcel Alessandri bà Leo Pignon
(Sainteny lúc này đã sang ấn độ). Trong các cuộc phỏng vấn với các nhà báo
phương Tây, H đã chào mừng người Pháp quay trở lại Đông dương nếu họ đến như
những người bạn chứ không phải những kẻ chinh phục. Hy vọng cuối cùng của H là
được Mỹ bảo trợ. Mặc dù liên tiếp bị cấp trên khiển trách, đại diện cao cấp
nhất của Mỹ ở Đông dương là thiếu tá Patti không giấu được thiện cảm với chính
phủ Việt nam. Ông này báo cáo là tuy chính phủ rõ ràng là thiên tả nhưng họ
đang nắm vững chính quyền và sẵn sàng tiến hành chiến tranh với Pháp. Vài tuần
sau Patti lại báo cáo: các nhà lãnh đạo Việt nam rất muốn được Mỹ bảo trợ như
Philippines, tuy nhiên họ hiểu rằng điều đó là vô vọng nên đề nghị lộ trình 10
năm để tiến tới độc lập hoàn toàn, cho tới lúc đó Pháp có thể cử Thống sứ với
tư cách là nguyên thủ quốc gia, dưới sự giám sát của Liên hiệp quốc. Quan điểm
của chính phủ Mỹ không nhất quán, chủ yếu là do mâu thuẫn giữa 2 Vụ châu Á và
châu Âu. Ngày 28/9, vụ phó vụ Viễn đông John Carter Vincent (sau này trở thành
nạn nhân của phong trào chống Cộng do nghị sĩ Mc Carthy khởi xướng) đã nêu vấn
đề với thứ trưởng Dean Acheson. Theo Vincent, chính sách "không can
thiệp" của Mỹ sẽ dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn diện ở Đông dương vì Pháp
không chịu nhượng bộ. Vincent đề nghị Mỹ và Anh thành lập một uỷ ban điều tra
tình hình.Trên cơ sở báo cáo của UB này, một cuộc đàm phán quốc tế có thể có
đại diện thích hợp của Annam sẽ được tiến hành. Những biện pháp này sẽ tránh
được một cuộc bùng nổ chủ nghĩa dân tộc ở Đông dương. Vụ châu Âu có quan điểm
khác, Vụ trưởng Freeman Mathew cho rằng hãy để Anh Pháp tự giải quyết lấy. UB
mà điều tra chỉ có thể dẫn đến một kết quả duy nhất là Pháp phải trả lại Đông
dương. Khi đó Nga sẽ nhảy vào đòi chia phần, rất rắc rối :"bất lợi cho
Pháp, cho phương Tây và cho cả người Đông dương nói chung" Vốn xuất
thân từ dân Châu Âu, Acheson đồng ý với Mathew và Mỹ sẽ chỉ can thiệp nếu tình
hình xấu đi nhanh chóng. Ngày 20/10 Vincent ra thông báo, Mỹ không phản đối Hà
lan và Pháp tiếp quản các thuộc địa cũ tại Đông Nam á, nhưng Mỹ hy vọng là nhân
dân các nước này sẽ được chuẩn bị cho trách nhiệm tự trị. Trong lúc đó Pháp
cũng tỏ rõ thái độ. Cuối tháng 10, đại diện của SQ Pháp tại Washington đã gặp
một quan chức vụ Viễn đông là Abbot Moffat để bày tỏ quan điểm về tin đồn là
đại diện của chính phủ HCM đang tới Mỹ, ông này tuyên bố "chính phủ Pháp
coi hành động này của Mỹ là không thân thiện".
HCM có thể không biết
về những thay đổi này trong thái độ của Mỹ, nhưng rõ ràng là ông nhận thấy xu
hướng xấu đi. Trong bữa tiệc chia tay với Patti ngày 30/9 tại Bắc bộ phủ, H
chia sẻ, ông không thể nào liên kết được những gì Mỹ đã tuyên bố tại Teheran,
Quebec và Postdam với thái độ dửng dưng cho phép Anh và Tưởng đưa Pháp trở lại
Việt nam. Tại sao Hiến chương Đại tây dương lại không áp dụng cho Việt nam? H
đề xuất một chương trình cải cách kinh tế xã hội cho khối các nước thuộc địa
châu á. Patti bày tỏ thiện cảm với cuộc đấu tranh của nhân dân VN nhưng cũng
nhắc lại quan điểm của Mỹ: ủng hộ chủ quyền của Pháp nhưng không ủng hộ những
tham vọng thực dân của Pháp. Cuối buổi nói chuyện, H nhắc lại những thời điểm
mấu chốt trong đời cách mạng của mình. Ô phủ nhận mình là cộng sản, là "bù
nhìn của Matxcova" theo cách hiểu của Mỹ. H đã nợ Liên xô bài học tư tưởng
và đã trả hết trong 15 năm hoạt động cho Đảng, bây giờ ông là người tự do. Có
phải là Mỹ đã giúp Việt nam trong những tháng gần đây để dành độc lập? Thế thì
tại sao Việt nam lại mang nợ với Matxcova. Khi chia tay, H nhờ Patti mang theo
thông điệp Việt nam luôn biết ơn Mỹ đã giúp đỡ và mãi mãi coi Mỹ như người bạn
và đồng minh tin cậy, cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ là tấm gương cho nhân
dân Việt nam noi theo. Vài ngày sau, H còn gửi một bức thư cho tổng thống
Truman. Nhưng tất cả đều vô vọng, những hoạt động của Patti, bức thư của người
kế nhiệm Patti về đề nghị của Hà nội để Mỹ trung gian hoà giải, và những bức
thư của H cho Truman đều bị vứt vào sọt rác.
Đến mùa thu năm 1945,
bức tranh về CMT8 trở nên rõ ràng hơn. Tuy lãnh thổ vẫn do quân Tưởng chiếm
đóng, Việt minh kiểm soát phía Bắc chủ yếu nhờ sự hồ hởi vì độc lập của dân
chúng và hình ảnh huyền thoại của chủ tịch HCM. Tại miền Nam, quân Pháp đã khôi
phục lại chế độ thuộc địa, Việt minh đang xây dựng những căn cứ địa tại nông
thôn. Đối với HCM, diễn biến trên chính trường quốc tế mới là điều quan trọng.
H muốn nhờ tay nước ngoài để ngăn chặn tham vọng thực dân của Pháp. Kinh nghiệm
lâu năm cho H biết Stalin chẳng quan tâm gì đến châu á và không thể ảo tưởng về
sự giúp đỡ của LX. Tuy nhiên cũng khó có khả năng là LX sẽ ủng hộ Pháp. H biết
rõ về những tư tưởng chống thực dân ở Mỹ, tuy nhiên hy vọng Mỹ giúp đỡ thật là
mong manh. Nếu liên minh Xô - Mỹ chuyển thành thế đối đầu, Việt nam sẽ bị kẹt
trong thế mâu thuẫn toàn cầu mới. Tại hội nghị Tân trào, Q đã nhấn mạnh, rất có
thể vì sợ cách mạng thế giới, Mỹ sẽ quay sang ủng hộ Pháp.
Mặc dù con đường phía
trước còn đầy chông gai, thực tế là Việt minh đang nắm chính quyền tại Hà nội.
Sau này nhiều nhà sử học của Đảng đã tâng bốc vai trò lãnh đạo tài tình của
Đảng, rằng CMT8 là điển hình kết hợp giữa nông thôn và thành thị, là hình mẫu
cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thứ Ba... Gần đây nhiều
nhà nghiên cứu lại cho rằng CMT8 là một cuộc nổi dậy có tính ngẫu hứng, rất ít
có kế hoạch và chỉ đạo. Một số còn gọi đó là cuộc đảo chính. Những nhận xét này
cũng có phần đúng, Lenin đã từng nói thực tế cách mạng phức tạp hơn nhiều so
với lý thuyết với cách mạng và bất cứ cuộc cách mạng nào cũng có yếu tố ngẫu
nhiên. Mặc dù có thể Đảng đã dự trù nhiều thứ ở Tân trào, khi Nhật đầu hàng,
cuộc nổi dậy đã diễn ra có phần bột phát. Nhiều cơ sở đảng chẳng có liên hệ gì
với TƯ, cứ tuỳ cơ ứng biến mà làm. Nạn đói khủng khiếp hoành hành trước đó vài
tháng làm nhân dân nổi giận cũng giúp cho cuộc nổi dậy thành công nhanh chóng.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận CMT8 là một thành công to lớn của Đảng. Không thể
có một cuộc cách mạng nếu không có những người cách mạng. Trong khi các phần tử
dân tộc chủ nghĩa co ro nằm chờ ở Nam Trung hoa thì Việt minh đã dám chấp nhận
thử thách và đã chớp được cơ hội tại thời điểm cuối của cuộc chiến tranh Thái
bình dương, đặt thế giới vào một sự đã rồi "Fait accompli". Bằng cách
sử dụng Việt minh như một mặt trận rộng rãi với chương trình thu hút tất cả các
tầng lớp nhân dân, HCM đã mở rộng đáng kể phạm vi ảnh hưởng của Đảng cộng sản.
Không những thế, Việt minh còn giúp H kêu gọi sự công nhận của các nước đồng
minh thắng trận như đại diện hợp pháp cho các quyền lợi dân tộc. Hình ảnh ôn
hoà đó chính là hình ảnh của HCM, một "người đơn giản là yêu nước",
mặc áo kaki và đi dép cao su, đã chiếm trọn trái tim hàng triệu người Việt nam
và những người gần gũi với H như Charles Fenn, Archimedes Patti, Jean Sainteny,
Tướng Leclerc. Không phải tất cả các đồng đội của H đều ủng hộ ông. Sau này
Trường Chinh đã nói, Đảng đã tắm máu không sạch và để lại quá nhiều kẻ thù
tương lai trong CMT8.
Chiến lược của H không
phải là hoàn hảo. Chương trình hành động của Việt minh chỉ là điểm khởi đầu và
sau này, rất có thể Đảng phải lộ bộ mặt thật sẽ dẫn đến sự thất vọng của dân
chúng. Nhưng HCM luôn luôn là một con người thực dụng. Trong cuộc phỏng vấn với
nhà báo Mỹ Harold Isaacs cuối năm 1945, H nói: "Độc lập là một sự
kiện. Cái gì phải đến sau đó sẽ đến. Nhưng độc lập phải có trước, không phụ
thuộc sau đó sẽ là cái gì". Có giữ được độc lập hay không là một chuyện
khác "chúng tôi đang đơn độc, và chúng tôi phải phụ thuộc vào chính
mình". H nói với Isaacs, chấp nhận cuộc chơi đầy khó khăn phía
trước 8.
--------------------------------
Xem
Nguyễn Khang Hà nội khởi nghĩa trong Những ngày tháng 8 (NXB
Văn học, 1961).
|
|
Theo Trần
Văn Giàu Một số đặc điểm của khởi nghĩa tháng 8 ở Nam bộ, đầu năm
1945, lực lượng dân tộc chủ nghĩa so với ICP là 10:1. Theo Stein Tonesson "Vietnamese
revolution 1945: HCM, Roosevelt anđ Degaull in the world at was", Giàu
đã thừa nhận rằng chính nhà tù đã bảo vệ hơn 300 đồng chí cùng bị giam với
ông sau năm 1940 để làm thành lực lượng nòng cốt cho khởi nghĩa. Bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch lúc đó là công dân Pháp không được các đồng chí tin tưởng lắm.
|
|
Một số
tài liệu cho rằng H về đến HN ngày 26, nhưng tác giả nghiêng về phương án 25
vì Pati kể rằng khi ông ta được mời đến gặp H trưa ngày 26, H có vẻ như đã ổn
định chỗ ở. Daniel Homery trong HCM: De L'indochine au Vietnam (Paris,
Gallimard, 1990), p 89, thậm chí còn cho rằng H về đến Hà nội ngày 21.
|
|
Trong hồi
ký của mình Le Dragon d'Annam (Paris: Plon 1980, pp 117-21), Bảo đại
nhớ lại các quan lại nhận tin Đức Vua thoái vị trong một sự im lặng chết người.
Trân Huy Liệu, trong bài viết Tước ấn kiếm của Bảo đại (NCLS, No 18,
9/1960, pp 46-51) lại miêu tả sự hồ hởi của dân chúng hai bên đường. Trong
phút tế nhị sau khi thoái vị Liệu hỏi Bảo đại "Ông có thấy đau khi phải
làm nô lệ cho Pháp, Nhật", Bảo đại đã trả lời "Có, thường rất
đau". Bảo đại cho rằng Liệu với "cặp kính đen che dấu những ý nghĩ
của mình, luôn gây cho người đối diện một cảm giác sợ hãi".
|
|
Trong Vietnam
1945, p 530 Marr cho rằng đám đông không thể quá 400,000 người nếu tính
đến dân số Hà nội lúc đó chỉ có 200,000 người. Theo một số nhân chứng, khi
máy bay bay qua, các quan chức Việt minh đã giới thiệu "đó là máy bay
ta". Một cán bộ Việt minh có kể lại cho tác giả (WD), khi dân Tân trào
được nghe truyền thanh bản tuyên ngôn độc lập, họ đã tháo máy radio ra để tìm
người nói ở trong đó.
|
|
Để hiểu
hơn về tình hình Sài gòn lúc đó dưới con mắt của một người quan sát Mỹ, xem
báo cáo của đại uý Herbert Bluechel, ngày 30/9/1945, được trích trong Causes,
Origins and Lessions of Vietnam War , Uỷ ban đối ngoại thượng viện Mỹ,
1972, pp 283-384. Muốn biết thêm về Giàu bị ICP phê phán thế nào, xem Vietnam
1945, Marr, p 462.
|
|
Xem Dragon,
Bảo đại, pp 130-131. Chi tiết thuốc phiện được lấy trong Đêm giữa ban
ngày của Vũ Thu Hiên (Wesminster. Calif, Văn nghệ 1997, p 108). Cũng
theo sách này dù đã cố gắng nhưng H vẫn bị quân Tưởng bắt một lần. Tuy nhiên
chính Lư Hán đã gọi HCM không phải là Ông Hồ mà là Chủ tịch Hồ, Chúng
tôi học làm ngoại giao với Bác Hồ, Mai Văn Bộ, NXB Trẻ, 1998, p46.
|
|
Harold
R Isaccs No peace for Asia (Newyork, Macmillian, 1947). H vốn quen
biết Isaccs từ những năm 30 lang thang ở Thượng hải. Cuối cuộc nói chuyện, H
đã cười phá lên "Bây giờ tôi là chủ tịch của nước cộng hoà Việt nam, người
ta gọi tôi bằng Ngài, ông thấy buồn cười không?"
|
TÁI THIẾT
VÀ KHÁNG CHIẾN
Tình hình Hà n ội trở nên xấu đi và đặt những gánh nặng to lớn
lên H như người lãnh đạo Đảng và chính phủ. Những cái đầu nóng ở ICP đòi phải dẹp
các nhóm đối lập thì H lại kiên trì chính sách hoà giải và hoà hợp dân tộc, nhằm
chia rẽ và cô lập những kẻ thù của Đảng. Trong khi đa số người Việt nam quyết
liệt phản đối Pháp quay trở lại, thi H lại đánh tiếng sẽ đón tiếp Pháp như những
người bạn.
Mặc dù tìm kiếm hoà bình, chính phủ mới cũng tích cực chuẩn bị cho chiến tranh.
Lực lượng dân quân tự vệ được H gọi là "bức tường thép của Tổ quốc"
được tổ chức khắp các làng xã, nhà máy, đường phố, do cơ sở đảng địa phương
lãnh đạo và tổ chức tập luyện. Thức ăn và vũ khí thì tự lo lấy. Tại Hà nội,
hàng chục ngàn thanh niên gia nhập tự vệ. Ngoài ra còn có bộ đội địa phương, được
lựa chọn nòng cốt từ hội thanh niên cứu quốc, do Bộ quốc phòng trang bị và huấn
luyện tại Trường huấn luyện quốc phòng Hồ Chí Minh. Quân đội chính quy: Quân giải
phóng Việt nam mới đổi tên thành Vệ quốc quân, được tổ chức thành các tiểu
đoàn, du nhập thêm số Dân vệ của chính phủ cũ bị giải ngũ. Trường kháng Nhật Việt
bắc chuyển về Hà nội được đổi thành Học viện chính trị quân sự, dưới danh nghĩa
huấn luyện để có thể hợp tác với quân Tưởng. Nếu kể cả số quân phía Nam, quân đội
lên tới 80,000 người. Tuy nhiên vũ khí thì hết sức thiếu thốn. Nếu có thì cũng
từ loại đồ cổ, nhiều khi từ thế kỷ trước ngoại trừ một ít mìn chống tăng và tiểu
liên thu được của Nhật. Còn lại đa số là giáo, mác hoặc súng kíp do mấy bác thợ
rèn địa phương tự chế. Để có tiền mua vũ khí từ lực lượng chiếm đóng, HCM miễn
cưỡng đồng ý tổ chức "Tuần lễ vàng" kêu gọi nhân dân đóng góp. Theo
Patti, H không tin tưởng lắm vào sự thành công của phi vụ này vì sẽ chỉ có người
nghèo là tích cực, còn hội nhà giàu sẽ chẳng đóng được bao nhiêu. Thực tế đã diễn
ra đúng như vậy, và H "cảm thấy như kẻ phản bội" khi để "vụ việc"
này diễn ra. Chính phủ tìm cách tăng thuế thực phẩm. Khi một quan chức đề nghị
đánh thuế thịt gà, vịt, bò, "Công dân" Vĩnh Thuỵ buột miệng "sao
không thêm cả thịt chó?". H là người đầu tiên lăn ra cười 1. Chính phủ còn phát động phong trào thu gom
đồng và các loại kim loại khác để đúc vũ khí khắp nơi. Mặc dù vậy H tin tưởng rằng
vũ khí quan trọng nhất sẽ là sự ủng hộ của quần chúng, đi đâu ông cũng nhắc cán
bộ hành xử cho đúng với dân: "Trợn mắt nhìn ngàn tráng sĩ, cúi đầu làm ngựa
nhi đồng". Ông luôn luôn nhấn mạnh, cuộc đấu tranh sống còn của chính phủ
là trên mặt trận ngoại giao và chính trị. Nếu dụ dỗ nhượng bộ quân Tưởng, bọn
dân tộc chủ nghĩa sẽ bị cô lập. Và lúc đó H có thể xây dựng mặt trận thống nhất
để chống sự trở lại của Pháp ở phía Bắc. Sau khi đặc phái viên của Tưởng, tướng
He Yingqin đến thị sát Hà nội và ra lệnh: giảm ảnh hưởng của cộng sản, chính phủ
đã tỏ thái độ mềm mỏng. H ra lệnh thả Ngô Đình Diệm, con của một quan chức triều
đình yêu nước, bộ trưởng nội vụ trong chính phủ Bảo đại trước WWII, nhưng đã từ
chức vì cho rằng Pháp không cho chính phủ thực quyền. Diệm theo Thiên chúa và
chống cộng điên cuồng, đặc biệt là khi một trong 5 anh em của Diệm là Ngô Đình
Khôi bị Việt minh thủ tiêu. Hành động này của H đã bị nhiều đồng chí chỉ trích,
trong đó có chiến hữu từ thời Paris là Bùi Lâm. Để lôi kéo cộng đồng thiên chúa,
H còn dành cho họ một chân trong chính phủ và thỉnh thoảng đi dự lễ nhà thờ.
Ông cũng không ngần ngại đến thăm các đồng bào miền núi, thắp hương cho Khổng tử
ở Văn miếu. Dưới sức ép của tướng Tiêu Văn, từ cuối tháng mười H bắt đầu đàm
phán với Nguyễn Hải Thần, "lãnh đạo tối cao" của Đại Việt cùng các đảng
khác như Việt Quốc và Đồng minh Hội. Nhưng các cuộc đàm phán chẳng đi đến đâu.
ĐMH đòi giải tán chính phủ, đổi tên Việt minh, thay đổi quốc kỳ. Các đồng chí của
H rất bực tức, một người viết
Tôi là người tán thành việc diệt sạch bọn Việt quốc tay sai của Tưởng. Có hôm
tôi bảo: "Thưa Bác, tại sao ta lại để cho bọn ám sát và phản bội đó tồn tại?
Bác cứ ra lệnh, bảo đảm cháu sẽ bọn nó tiêu trong một đêm". Bác cười và chỉ
vào phòng, hỏi lại "Nếu có con chuột chạy vào phòng này, chú sẽ dùng đá
ném hay đặt bẫy hoặc đuổi nó ra?" "Thưa Bác, nếu ném đá sẽ vỡ mất
nhưng đồ quý trong phòng" 2.
Mặc dù không nhượng bộ những yêu cầu của phe đối lập, ngày 11/11, ICP đột ngột
tuyên bố tự giải tán, đổi thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Max ở Đông dương. Rõ
ràng Đảng muốn thể hiện yêu cầu của đất nước cao hơn cuộc đấu tranh giai cấp,
và lợi ích của nhân dân cao hơn lợi ích của Đảng. Dù thế, ngày hôm sau vẫn xảy
ra vụ đụng độ lớn giữa Việt minh và phe dân tộc gần Nhà hát Lớn làm hàng chục
người chết. Rõ ràng là ngoài việc nhằm thống nhất dân chúng, động thái này chủ
yếu là hướng đến quân Tưởng và xoa dịu phe đối lập. Trong Đảng cũng đã có những
cuộc tranh luận gay gắt, các đảng cộng sản khác cũng lúng túng không hiểu. Thực
chất thì đảng không giải tán mà chỉ rút vào hoạt động bí mật để rồi mấy năm sau
lại tái xuất hiện. Ngày 19/11, theo lệnh của Trương Phát Khuê, Tiêu Văn triệu tập
cuộc họp chính phủ và phe đối lập. Hai bên thống nhất thành lập chính phủ liên
hiệp, tập hợp tất cả các tổ chức vũ trang dưới sự lãnh đạo của chính phủ, tổ chức
hội nghị quân sự để bàn cách giúp đồng báo phía Nam chống Pháp. Các phe phái phải
ngay lập tức ngừng các hoạt động chống đối nhau. Cuộc đàm phán kéo dài mấy tuần.
Đầu tiên, phe đối lập đòi chức Chủ tịch và 6 ghế bộ trưởng. H thì đề nghị thành
lập Hội đồng Cố vấn chính trị do Thần làm chủ tịch và 3 ghế bộ trưởng. Căng thẳng
leo thang khi Giáp cho tay chân mặc thường phục đuổi các phần tử Việt quốc đang
rải truyền đơn chạy re kèn. Sau vụ này H liền lập tức bị triệu đến trụ sở quân
Tưởng nghe chửi. Một vấn đề nữa là ngày bầu cử. Phe đối lập cho là ngày 23/12
là quá gấp để họ chuẩn bị. Trương Phát Khuê can thiệp, ngày 19/12 hai bên nhất
trí dời ngày tổng tuyển cử 15 ngày. Không phụ thuộc vào kết quả bầu cử, Việt quốc
sẽ có 50 ghế và ĐMH có 20 ghế trong quốc hội tương lai. HCM sẽ làm chủ tịch, Hải
Thần phó chủ tịch, Việt minh, VQ, ĐMH và Đảng Dân chủ mỗi đảng có 2 ghế bộ trưởng
và hai ghế nữa sẽ dành cho các phần tử không đảng phái. Quyết định này bị phản ứng
quyết liệt trong đảng. Một đồng chí đã hỏi "Hải Thần có phải là cục phân bẩn
thỉu?". H trả lời "Nhưng nếu dùng để bón lúa được thì tại sao lại
không dùng?" Khi một số cho rằng Việt minh và phe đối lập như lửa với
nước, cớ sao lại nhượng bộ 70 ghế, H châm biếm: "Nếu lấy lửa để đun sôi nước,
thì lại có thể uống được đấy".
Ngày 1/1/1946, chính phủ liên hiệp lâm thời ra mắt tại Nhà hát Lớn. HCM kêu gọi
bầu cử dân chủ và thống nhất các lực lượng vũ trang. Hải Thần cũng phát biểu,
nhận một phần trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc hoà hợp dân tộc và hứa sẽ hợp
tác chống Pháp3. Ngày 6/1 cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được
tiến hành trên toàn quốc và các vùng do Việt minh kiểm soát ở Nam bộ. Việt minh
nhận được 97% phiếu và lẽ ra sẽ có 300 ghế quốc hội, nhưng 70 ghế phải nhường
cho phe đối lập. HCM cũng ra ứng cử tại Hà nội và được 98.4% phiếu bầu
Trong một cuộc hội nghị tháng 11, TƯ đã ra nghị quyết hy vọng là Pháp có thể
dành độc lập cho Đông dương để đổi lấy những lợi ích kinh tế. Paris thì lại
nghĩ khác và không muốn đàm phán gì trước khi chủ quyền của Pháp được phục hồi.
Cuối tháng 9, De Gaul điện cho Leclerc "Việc của ngài là khôi phục lại sự
cai trị của Pháp và tôi rất lấy làm tiếc là ngài vẫn chưa làm điều đó" .
Trong khi đó, Leo Pignon và Alessandri lại coi H là người có bản lĩnh, tin cậy
và đáng đàm phán. Cedile cũng điện từ Sài gòn cho rằng có nhiều phần tử ôn hoà
trong chính phủ và nên đàm phán. Ngày 10/10 Paris điện cho Alessandri đề nghị
thương lượng với Hà nội về các vấn đề trên toàn Đông dương. Hai ngày trước đó,
Jean Sainteny trở lại Việt nam với tư cách đại diện toàn quyền cho Pháp tại Bắc
bộ và Bắc Trung bộ, sau chuyến đi sang Ân độ thăm tướng D'Argenlieu để xin từ
chức vì bất mãn, bị từ chối. Sainteny ở trong toà nhà Ngân hàng Đông dương.
Sainteny gặp H lần đầu tiên vào giữa tháng 10 cùng với một quan chức thực dân
cũ là Pignon. H đi cùng với bộ trưởng văn hoá Hoàng Minh Giám. Mặc dù là người
đàm phán cứng rắn và yêu nước Pháp, Sainteny rất kính trọng H và tự đáy lòng,
ông này cảm thấy H thân Pháp. Nhiệm vụ của Saiteny là thuyết phục để H đồng ý
cho quân Pháp quay trở lại Bắc bộ, đổi lấy việc Pháp sẽ thương lượng để đuổi Tưởng
đi. Tại lúc đó, tướng Leclerc đang có 8000 quân ở Nam bộ từ Sư đoàn số 2 đã nổi
tiếng trong chiến dịch Normandy. Pháp không dễ dàng tràn vào bằng vũ lực bởi
ngoại trừ sự chống đối của Việt minh, còn có hơn 30000 quân Tưởng đang thong thả
"giải giáp" quân Nhật. S đã cảnh báo chính phủ Pháp "tuyệt đối
chưa dùng vũ lực, vì sẽ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ". Ngay từ đầu, H đã
thành thật thú nhận là ông không yêu cầu độc lập ngay lập tức. Ông đồng ý để
Pháp quay lại với một chân trong liên hiệp Pháp nếu Pháp đồng ý độc lập trong
vài năm tới. Nhưng mọi việc không dễ dàng, rắc rối đầu tiên là câu chữ, H đề
nghị phải dùng chữ "Independence" trong văn bản cuối cùng, trong khi
đó De Gaul không chịu chấp nhận. Leclerc, sau khi đi thăm tướng Mountbatten về,
định hoà giải bằng cách đề nghị Paris có một thể chế phù hợp cho Đông dương sau
chiến tranh ( ông này dùng chữ "Autonomie"), liền bị De Gaul chửi mắng
thậm tệ "Nếu tôi mà nghe mấy thứ nhảm nhí này thì đế quốc Pháp đã tiêu
vong lâu rồi. Hãy đọc thật kỹ câu chữ trong tuyên bố tháng 3 của Pháp về Đông
dương". Vấn đề gây tranh cãi thứ hai là quy chế của Nam bộ, H muốn gộp
chung cả vào đàm phán nhưng Saiteny cho rằng dân chúng ở thuộc địa cũ của Pháp
này phải được tự do lựa chọn thể chế cho mình. Cả hai tranh cãi liên miên mấy
tuần liền trong căn phòng mịt mù khói thuốc. Sainteny hút tẩu sang trọng, còn H
hút đủ thứ thuốc Tàu, Mỹ và Gaulois Pháp. Thỉnh thoảng H xin nghỉ để hội ý với
chính phủ mình, hoặc xin ý kiến "Cố vấn" Vĩnh Thuỵ. Thái độ của H với
Bảo đại làm S và nhiều người khác ngạc nhiên. H bao giờ cũng tỏ ra rất lễ phép.
H còn mắng cán bộ của mình đã gọi là "ông cố vấn" mà không phải là
"thưa Ngài". Có lần H còn đề nghị Bảo đại làm người đứng đầu nhà nước
trong tương lai. Như cố ván tối cao, BĐ dự tất cả các cuộc họp chính phủ và cảm
thấy như ở nhà, kể cả trong quan hệ với những kẻ cứng rắn như bộ trưởng tuyên
truyền Trần Huy Liệu, trước đây đa số thời gian là sống ở Nga hoặc trong tù.
Thoạt tiên BĐ có cảm tình với H so với mấy tay đối lập bám đít Tưởng. Ông chủ tịch
yếu đuối và mềm dẻo này , thích nói chuyện văn thơ hơn chính trị và có vẻ giống
một nhà nho hay thầy đồ hơn là điệp viên của QTCS hay chủ tịch nước. Dần dần BĐ
cũng nhận ra bộ mặt thật của H và chính phủ. Khi nghe tin Phạm Quỳnh và Ngô
Đình Khôi bị bắt, BĐ đã phản đối và đề nghị thả. H ậm ừ nói rằng nhân dân sẽ
không hiểu (hai ông này đều bị thủ tiêu). Khi xung đột giữa các phe phái tăng
cao, BĐ được cử đi Thanh hoá lánh nạn. Trở về, ông được bầu vào đại biểu quốc hội
và thỉnh thoảng theo H đi thăm thú để nhân dân thấy rằng ông vẫn còn sống.
Trong những tuần đầu 1946, dưới vỏ bọc của chính phủ liên hiệp mới, H nối lại
các cuộc thương lượng với S. Cũng quãng thời gian đó, Kenneth Landon, chuyên
gia về các vấn đề châu á của vụ ĐNA Bộ ngoại giao Mỹ đến Hà nội để tìm hiểu
tình hình. S hứa với Landon rằng chính phủ Pháp sẽ tìm cách hoà giải với Việt
nam. Nhưng H lại không lạc quan khi trao đổi riêng với Landon. H nghi ngờ sự
thành thật của chính phủ Pháp và khẳng định quyết tâm sắt đá của VN giành lại độc
lập. H nhờ Landon chuyển bức thư cho tổng thống Truman kêu gọi Mỹ ủng hộ cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của Việt nam, trong bối cảnh Mỹ đang chuẩn bị trao trả
lại độc lập cho Philippines 4. Những nghi ngờ của H đối với Pháp xem ra là
có cơ sở. Tại Paris, bộ ngoại giao Pháp thông báo cho đại sứ Mỹ Jefferson
Caffery rằng Pháp sẽ "thoáng" trong đàm phán, tuy nhiên vấn đề độc lập
hoàn toàn của Việt nam chưa được xét đến lúc này. Trong báo cáo sau đó cho
Washington, Caffery nhận xét: chính sách về Đông dương của chính phủ Pháp đang
bị một số viên tướng thủ cựu lũng đoạn.
Tuy nhiên tình hình biến chuyển theo chiều hướng có lợi cho đàm phán. Paris cần
một số tiến bộ tại Hà nội để hỗ trợ cho cuộc đàm phán với Tưởng ở Trùng khánh về
việc quân Pháp sẽ thay thế quân Tưởng ở Bắc bộ. Chính phủ xã hội mới của Felix
Guin thay thế De Gaul cũng tỏ ra mềm mỏng hơn. D'Arengenlieu quay về Pháp để
xin ý kiến chính phủ mới, không quên dặn Leclerc chưa vội nhượng bộ với chữ
"Independence". Ngày 14/2, Leclerc điện về Paris "đang có cơ hội
để chính phủ Pháp ra tuyên bố ủng hộ việc dùng chữ Độc lập cho toàn Đông dương,
nhưng có giới hạn, trong khuôn khổ khối Liên hiệp Pháp". Đáng tiếc là
D'Argenlieu, một người bảo thủ được mệnh danh là "bộ óc thông minh nhất của
thế kỷ 12" đã không chấp nhận ý tưởng này 5. Trước khi từ chức, De Gaul cũng cử bộ trưởng
Max Andre sang thăm dò thái độ của H. Theo Pháp, H sẵn sàng chấp nhận sự quay lại
của Pháp với một số điều kiện.
Mặt khác, H phải đối diện với nhiều sức ép bên trong về việc không được nhượng
bộ Pháp. Báo chí đối lập ra sức đả kích vụ H đàm phán với Pháp, đòi giải tán
chính phủ "của bọn phản bội" đang bán đứng quyền lợi dân tộc cho
Pháp. H càng khó thoả hiệp trong bối cảnh Pháp càng ngày càng đẩy mạnh chiến
tranh tại phía Nam. Tháng 11/1945, mặc dù bị VM bao vây, Pháp vẫn chiếm thành
phố nghỉ mát Nha trang. Vài tuần sau, quân của tướng Alessandri vượt biên giới
tại Lai châu, bắt đầu chiến dịch đóng cửa biên giới, cắt đứt liên hệ của VM với
Nam Trung hoa. Khoảng giữa tháng 2/46 Pháp cảnh báo VN phải thoả hiệp nhanh vì
hiệp định Hoa-Pháp sắp được ký. 18/2, S điện về Paris thông báo H đã nhượng bộ
không dùng chữ "Independence" mà chỉ cần Pháp "công nhận những
nguyên tắc tự trị của Việt nam, trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp". D'A đồng
ý trên nguyên tắc. Ngày 20/2, hãng Reuters công bố những điều khoản của hiệp định
Trùng khánh sắp được ký kết, cho phép quân Pháp vào thay thế quân Tưởng. Paris
cũng lệnh cho Leclerc chuẩn bị đổ bộ ra Hải phòng. Hà nội rối loạn. Những phần
tử đối lập, vốn đang tức việc H đàm phán với Pháp, kêu gọi tổng bãi công và đòi
H từ chức, lập chính phủ mới do "Công dân" Vĩnh thuỵ đứng đầu. Hai
bên đã đụng độ ở khu vực quanh hồ Hoàn kiếm. Ngày 22/2, H trả lời phỏng vấn,
không bình luận về tin đồn về hiệp định Hoa-Việt. Trên thực tế, chính phủ tích
cực chuẩn bị chiến tranh, thành lập thêm các đơn vị dân quân tự vệ, bắt đầu sơ
tán trẻ em và người già khỏi thành phố. Sainteny, đã đồng ý với nguyên tắc tự
trị của VN (nhưng không nhắc đến từ độc lập), lại nêu yêu cầu mới, đòi hỏi
chính phủ Việt nam phải có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân chúng mới
có thể đứng ra ký hiệp định. H cũng chỉ đạo đẩy nhanh kỳ hạn họp quốc hội lần
thứ nhất mới được bầu tháng giêng, lập ra chính phủ liên hiệp. Nhưng Việt quốc
được Tưởng ủng hộ, kiên quyết đòi đa số trong chính phủ. Có vẻ như có lúc H đã
mất hy vọng. Theo Bảo đại, sáng 23/2, H bất thình lình đến thăm và đề nghị Bảo
đại ra nắm quyền.
" Thưa ngài, tôi không biết làm gì hơn. Tình hình căng thẳng. Tôi hiểu
rõ người Pháp không muốn nói chuyện với tôi. Tôi không thuyết phục được đồng
minh ủng hộ. Cả thế giới bảo tôi đỏ quá. Tôi đề nghị ngài hy sinh một lần nữa
và ra nắm chính quyền". BĐ từ chối, nhưng sau khi tham khảo ý kiến
các cố vấn đã nhận lời. Nhưng H lại đổi ý. Chiều đó, H gặp lại BĐ
"Thưa ngài, hãy quên những điều tôi nói lúc sáng. Tôi không có quyền từ bỏ
những trách nhiệm của mình lúc khó khăn. Trả lại quyền lực cho ngài là sự hèn
nhát của tôi. Xin ngài hãy tha lỗi cho phút yếu mềm và ý định chuyển gánh nặng
trách nhiệm cho ngài. Tôi có kế hoạch từ chức chẳng qua vì sự chống đối quyết
liệt của phe đối lập với hiệp định mà tôi đang thảo luận với Pháp."
Cái gì đã làm H thay đổi ý định? Chỉ biết là ngày hôm sau, thấy các bên thông
báo là đã thoả thuận được thành phần chính phủ liên hiệp. Hai bộ quan trọng nhất
là Nội vụ và Quốc phòng được trao cho các phần tử trung lập. Việt minh và các đảng
khác chia nhau 8 ghế còn lại. Theo Võ Nguyên Giáp, H đã nhờ Tiêu Văn, vốn rất
ghét Pháp, thuyết phục phe đối lập thoả hiệp để có thể thành lập chính phủ chống
Pháp 6.
D'A quay lại Sài gòn ngày 27/2. Cùng ngày, ông đồng ý bản hiệp định khung do S
đề nghị, công nhận Việt nam là "Nhà nước tự do, có quốc hội, quân đội và
tài chính riêng" nhưng không chấp nhận quyền tự trị của VN trong đối ngoại
cũng như sự thống nhất về chính trị và lãnh thổ giữa 3 miền. Tuy nhiên vấn đề
thống nhất có thể giải quyết thông qua trưng cầu ý dân. Cùng ngày tại Trùng
khánh, Pháp đồng ý bỏ yêu cầu về các lãnh thổ hải ngoại tại Quảng châu và Thượng
hải và sẵn sàng ký hiệp định Hoa Việt. Tất cả đã sẵn sàng để quân Pháp quay trở
lại Bắc bộ. Paris tức tốc điện cho Leclerc: "Hãy giương buồm lên"
Ngày 2/3, Quốc hội họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn. Cả toà nhà tràn ngập cờ
đỏ sao vàng. Hơn 300 đại biểu, khách mời và phóng viên tham dự. Trong bộ quần
áo kaki nổi tiếng H bước lên diễn đàn đề nghị quốc hội chấp nhận 70 đại biểu của
Việt quốc và ĐMH đang phải đợi ở phòng chờ. Sau khi được chấp nhận, H tuyên bố
khai mạc quốc hội đại diện cho toàn thể dân tộc Việt nam và đại diện cho chính
phủ liên hiệp lâm thời xin từ chức. Quốc hội đã nhất trí bầu H làm chủ tịch, Hải
Thần làm phó chủ tịch mặc dù ông này cáo ốm không đến dự. H tuyên bố thành lập
Uỷ ban dân tộc kháng chiến đấu tranh cho độc lập hoàn toàn của dân tộc và Hội đồng
cố vấn quốc gia do Bảo đại làm chủ tịch. Cùng ngày hạm đội Pháp chở đạo quân của
tướng Leclerc rời Sài gòn nhằm hướng Hải phòng thẳng tiến.
Ngày 5/3 H triệu tập lãnh đạo đảng họp tại Hương canh ngoại ô Hà nội (sau khi
TƯ đã họp ngày 24/2) để đánh giá tình hình và đề ra chiến lược thích hợp. ý kiến
rất khác nhau. Một số đòi đánh ngay lập tức, số khác thì đề nghị theo Tàu chống
Pháp... Đánh giá là lực lượng vũ trang Việt minh còn quá yếu, H khẳng định cần
phải hoà hoãn bằng mọi giá. Có lúc H phải hét lên: "Các người quên lịch sử
rồi sao? Mỗi khi bọn Tàu đến, chúng ở lại hàng ngàn năm. Tây thì bất quá ở vài
năm rồi cũng sẽ phải cuốn xéo". Sau này khi nói chuyện với nhà sử học Pháp
Paul Mus, H dùng từ còn kinh hơn: "Thà ngửi c. Tây một lúc, còn hơn ăn c.
Tàu cả đời" 7. Cuối cùng quan điểm của H thắng thế. Nghi
quyết cuộc họp nêu rõ: "Vấn đề bây giờ không phải là đánh hay không. Mà là
biết ta và biết người, đánh giá đúng tình hình để có hành động thích hợp. Tình
hình hiện tại phức tạp hơn nhiều so với lúc xảy ra CMT8. Khi đó, các lực lượng
đối lập hoặc không muốn hoặc không thể ngăn cản. Bây giờ, được Tưởng giúp sức,
chúng sẵn sàng manh động chống chính phủ. Lúc đó, đồng minh đang lộn xộn, chúng
ta có thể khai thác những mâu thuẫn. Bây giờ mâu thuẫn đã tạm thời lắng xuống.
Lực lượng tiến bộ do LX lãnh đạo thì ở xa, chẳng cách nào giúp được cách mạng
VN. Bởi vậy "chiến đấu đến cùng" chẳng khác gì tự làm yếu và cô lập
mình". Nghị quyết cũng nêu rõ, hoà hoãn với Pháp sẽ làm cho chính phủ bị
chửi là bán nước, giúp Pháp củng cố lực lượng tấn công miền bắc. Nhưng hoà hoãn
với Pháp sẽ làm Tưởng suy yếu, kéo theo bọn cơ hội dân tộc chủ nghĩa. Hoà hoãn
cũng giúp chính phủ có thời gian chuẩn bị đầy đủ các điều kiện lâu dài cho cuộc
đấu tranh giành độc lập hoàn toàn. Cuối cùng nghị quyết yêu cầu Pháp phải công
nhận các quyền tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt nam.
Cùng ngày 5/3, hạm đội Pháp của Leclerc tiến vào vịnh Bắc bộ. Bất ngờ Saiteny
nhận được điện từ Sài gòn thông báo, Tưởng từ chối cho Pháp đổ bộ nếu không có
những nhượng bộ nữa. Uỷ ban kháng chiến quốc gia cũng ra lời kêu gọi chuẩn bị đứng
lên bảo vệ đất nước. Quân Pháp lên bờ chắc chắn sẽ vấp phải sự kháng cự của cả
Việt nam lẫn Tưởng. Leclerc hoảng quá, yêu cầu S phải làm mọi cách để thoả thuận
với các bên, kể cả "hứa những điều mà sau này sẽ vứt đi". Cuối ngày
hôm đó, S gặp H. Cảm nhận được cuộc đàm phán Hoa - Pháp đang gặp khó khăn, H thừa
cơ đòi thêm chữ "independence" và toàn vẹn lãnh thổ. S hứa sẽ tổ chức
trưng cầu ý dân 3 miền về việc thống nhất nhưng kiên quyết từ chối dùng từ
"Independence". Cuộc đàm phán chẳng đi đến đâu. Sáng hôm sau, hạm đội
Pháp tiến vào vịnh Hải phòng. 8h30, tàu đổ bộ Pháp được hạ xuống cửa sông Cấm.
Quân Tưởng trên bờ nổ súng. Sau chừng 15 phút suy nghĩ, quân Pháp đã bắn trả. Đạn
vãi như mưa trên đường phố Hải phòng đến tận 11h. Kết quả, một số tàu Pháp bị
hư hại, một kho đạn của Tưởng bốc cháy dữ dội. Tại Hà nội, tình hình lại tiến
triển thuận lợi. Sau khi tư vấn với các đồng chí, H quyết định nhượng bộ. Hoàng
Minh Giám được phái đến biệt thự của S thông báo VN đồng ý những điều kiện của
Pháp, thay chữ "indepedence" bằng chữ "Free state". Khoảng
4h chiều, tại toà biệt thự trên Lý Thái Tổ đối điện với Bắc bộ phủ, toàn văn bản
hiệp định đã được công bố trước các đại diện Việt nam, Pháp và một số nhà quan
sát khác. Hiệp định thừa nhận Việt nam dân chủ cộng hoà "là một quốc gia tự
do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm trong khối Liên hiệp
Pháp". Pháp cũng đồng ý việc tiến hành trưng cầu ý dân ở cả ba miền để thống
nhất đất nước. Đổi lại Việt nam đồng ý để 15000 quân Pháp vào Bắc bộ thay thế
quân Tưởng. HCM ký trước rồi đưa cho thứ trưởng quốc phòng Vũ Hồng Khanh (Việt
quốc) ký tiếp theo. Sau lễ ký, đáp lại sự hài lòng ra mặt của S, H phát biểu:
"ông đã thắng, ông biết rằng tôi muốn nhiều hơn thế. Nhưng tôi hiểu rằng
không thể có mọi thứ ngay một lúc". Sau đó H bình thản lại ngay, quay sang
nói với Pignon và S: "Tôi có một điều an ủi, đó là tình bạn giữa chúng
ta". Ban chấp hành TƯ họp sau lễ ký bàn cách tuyên truyền về hiệp định.
Hoàng Quốc Việt được cử đi Sài gòn, Hoàng Minh Giám đi Huế, Võ Nguyên Giáp đi Hải
phòng để giải thích về nội dung bản hiệp định. Tin về bản hiệp định được loan
trên các báo ngay sáng hôm sau và được dân chúng đón nhận với sự thờ ơ chen lẫn
ngạc nhiên và giận dữ. Tình hình ở thủ đô khá căng thẳng. Các báo đối lập gọi H
là Việt gian. Đảng quyết định tổ chức một cuộc mít tinh của quần chúng trước cửa
nhà hát lớn lúc 4h chiều để ủng hộ chính phủ. Phe đối lập đã cài người vào để
gây kích động, một kẻ giấu mặt thậm chí đã ném một quả lựu đạn, may mà quên rút
chốt. Giáp vừa mới quay về từ Hải phòng, lên diễn đàn giải thích nội dung hiệp
định và kêu gọi mọi người bình tĩnh giữ vững trật tự. Giáp so hiệp định này với
hiệp định Brest Litovsk mà Lê nin đã ký với Đức năm 1918, tuy có nhượng bộ một
phần lãnh thổ Nga nhưng cuối cùng dẫn đến độc lập hoàn toàn. Tiếp theo một số
diễn giả, H xuất hiện trên ban công:
Đấ t nước chúng ta được tự do từ tháng 8/1945. Nhưng đến giờ, chưa có một cường
quốc nào công nhận điều đó. Bản hiệp định này mở đường cho việc công nhận quốc
tế và nâng cao vị thế của Việt nam trên thế giới. Chúng ta đã trở thành một dân
tộc tự do. Quân Pháp sẽ rút khỏi Việt nam. Đồng bào cần phải bình tĩnh, giữ gìn
kỷ luật, củng cố khối đoàn kết dân tộc. Tôi, HCM, đã cùng với các đồng chí của
mình chiến đấu suốt đời vì độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không thể phản
bội đất nước của mình. Sự chân thành và xúc động trong phát biểu của H đã
gây ấn tượng. Buổi miting kết thúc trong tiếng hô vang dậy "HCM muôn
năm". Nhưng các lãnh đạo đảng thì thực tế hơn. Hai ngày sau, ủy ban thường
vụ ra nghị quyết với tên gọi "Hoà để tiến", nêu rõ "Tổ quốc đang
lâm nguy, thoả thuận với Pháp cho chúng ta thêm thời gian bảo toàn lực lượng, củng
cố vị trí để có thể nhanh chóng tiến tới độc lập hoàn toàn". Giáp quay lại
Hải phòng để đàm phán với L về các điều khoản quân sự quy định trong hiệp định
tạm thời. Nguyễn Lương Bằng được cử lên Thái nguyên để chuẩn bị căn cứ kháng
chiến, Hoàng Văn Hoan được cử đi Thanh hoá cũng với mục đích đó. H gửi thư cho
đồng bào Nam bộ thông báo về việc ngừng bắn, nhưng kêu gọi giữ vững kỷ luật và
chuẩn bị. Tại Paris, bản hiệp định được chào đón tích cực. Bộ trưởng thuộc địa
Marius Moutet trình lên chính phủ và được phê duyệt về nguyên tắc. Thủ tướng
Pháp Bidault còn gọi đây là mô hình để giải quyết tình hình ở các nước thuộc địa
khác. Trong nước, các phần tử đối lập vẫn đòi chính phủ tìm kiếm sự ủng hộ của
Tưởng hoặc Mỹ. Cố vấn Vĩnh Thuỵ xin và được phép đi Trùng khánh để trực tiếp
kêu gọi Tưởng Giới Thạch giúp đỡ 8.
Ngày 18/3, 1200 quân Pháp trên 200 xe quân sự, chủ yếu là của Mỹ, tiến qua cầu
Paul Doumer vào nội thành Hà nội trong sự hân hoan của kiều dân Pháp. Quân Tưởng
đã rút khỏi thành phố trước đó mấy ngày. Dân Việt nam nhìn thấy đội quân được
trang bị tối tân của Pháp đều choáng: "Chúng ta thua mất rồi, họ mạnh
quá". Trong khi Leclerc thừa biết rằng 1 sư đoàn khó có thể bình định được
giải đất này. Chiều đó, Leclerc, Sainteny, Pignon cùng một số sĩ quan khác đến
Bắc bộ phủ để chào H và các thành viên chính phủ. Mặc dù H và L nâng cốc chúc mừng
tình hữu nghị Việt Pháp, không khí trong phòng họp cũng nặng chẳng kém gì ngoài
phố. Tối đó, H mở tiệc chiêu đãi. Một trong những khách mời danh dự là thiếu tá
Frank White, đại diện mới của OSS. White được xếp ngồi ngay cạnh H làm cho nhiều
sĩ quan có cấp cao hơn cùng dự buổi tiệc đó cảm thấy khó chịu. Bản thân White
cũng lúng túng. Nhưng H nói: "nếu không nói chuyện với anh thì tôi nói
chuyện với ai". Theo White, không khí rất khách sáo. Bên Pháp thì chẳng có
gì mà nói, quân Tàu do Lư Hán đứng đầu thì "say khướt". Tuy nhiên H
cũng bi quan về sự quan tâm của Mỹ tới Đông dương. Sự thực là Truman cũng chẳng
buồn động đến lá thư do H gửi kêu gọi Mỹ ủng hộ Việt nam độc lập theo các điều
khoản của hiến chương LHQ. Khi nghe tin về hiệp định Việt Pháp, ngoại trưởng Mỹ
James Byrnes nói "thế là Pháp đã hoàn thành việc thâu tóm Đông
dương". Sau khi Churchil đọc bài diễn văn nổi tiếng về "bức màn sắt"
tại Fulton, Missouri, quan tâm hàng đầu của Mỹ là chủ nghĩa cộng sản thế giới,
chứ không phải việc công nhận Việt nam là "quốc gia tự do" trong khối
liên hiệp Pháp. Ngày 22/3, một cuộc diễu binh chung được tổ chức gần khu thành
cổ Hà nội để hâm nóng "tình hữu nghị Việt Pháp". Xe của Pháp toàn do
Mỹ sản xuất, máy bay Spitfire thì của Anh. Đám đông thì bên nào vỗ tay quân bên
đấy. Ngày hôm sau Leclerc rời Hà nội, bàn giao lại cho tướng Valluy. Tuy không
có những giao tranh lớn, đã xảy ra đụng độ khi quân Pháp chiếm một số công sở
và chỉ chịu rút sau khi nhân dân tổng bãi công. Khi trao đổi với S, thống sứ
Pháp là D'Argenlier ngỏ lời muốn gặp H trực tiếp. H nhận lời ngay vì thấy đây
là cơ hội để có thể đàm phán chính thức tiến tới phê duyệt hiệp định sơ bộ càng
nhanh càng tốt. Ngày 24/3, H đội một chiếc mũ rộng vành, cùng với Giám và bộ
trưởng ngoại giao mới Nguyễn Tường Tam, lên chiếc thuỷ phi cơ Catalina, bay đến
Hạ long gặp D'A trên chiến hạm Emile Bertin. Sau khi xem những chiến hạm của
D'A biểu dương lực lượng, hai bên trao đổi trong cabin của đô đốc. H muốn phê
chuẩn hiệp định ngay lập tức. D'A ngược lại, muốn các đại diện khác của Pháp
làm quen với những điều khoản căn bản của hiệp định trước. D'A đề nghị tổ chức
một cuộc họp trù bị dự kiến ở Đà lạt và sau đó sẽ đàm phán tiếp tục ở đó. H đồng
ý họp trù bị, nhưng sợ D'A sẽ kiểm soát tình hình ở Đà lạt, nên đề nghị chuyển
địa điểm đàm phán sang Pháp, hy vọng có thể dùng uy tín cũ ảnh hưởng đến ý kiến
của công chúng Pháp vốn đang rất dao động từ sau chiến tranh. S and Leclerc lại
vào hùa với H, cho rằng như thế H sẽ đỡ bị sức ép của phe đối lập và quân Tưởng.
Cuối cùng D'A cũng đồng ý. Cuộc gặp gỡ này là một bài tập hữu ích cho H. Nó
giúp ông được đối diện với một tay thực dân lõi đời như D'A và đã đứng vững
trong cuộc nói chuyện. Trên đường về, H chia sẻ với đệ tử của D'A là tướng
Salan: "Nếu đô đốc nghĩ rằng hạm đội của ông ta làm tôi sợ thì ông ấy
lầm to. Những chiến hạm to đùng đấy làm sao bơi ngược vào các cửa sông của
chúng tôi được." Hội nghị trù bị được tổ chức tại Đà lạt vào giữa
tháng 4/1946. Đoàn Việt nam gồm có Giáp và Tam đã không thuyết phục được D'A thảo
luận về tình hình Nam bộ lúc đó đang có giao tranh dữ dội mặc dù đã có lệnh ngừng
bắn. Mâu thuẫn cũng phát sinh khi bàn về vị trí tương lai của VN trong khối LH
Pháp. Đoàn VN cho rằng VN sẽ là một quốc gia có chủ quyền trong Liên hiệp. Pháp
thì cho rằng LHP là một nhà nước liên bang, mỗi quốc gia tự do cần phải nhượng
bộ phần lớn chủ quyền cho cơ chế liên bang và thống sứ do Paris bổ nhiệm. Giáp
quay về Hà nội rất thất vọng. H an ủi, hai bên dù sao đã hiểu nhau hơn, các vấn
đề khác biệt không phải là quá đối kháng và có thể thoả hiệp trong cuộc đàm
phán sắp tới tại Pháp. Năm ngày sau, D'A bay ra Hà nội định thuyết phục H hoãn
chuyến đi với lý do cuộc vận động tranh cử ở Pháp đang đến hồi cao trào. D'A
còn doạ hình như sắp tới sẽ thành lập Nhà nước Nam bộ tự trị, hoàn toàn đi ngược
lại với những gì đã quy định trong hiệp định tạm thời giữa H và Sainteny. H quyết
định không nhượng bộ. Ngày 30/5/1946, hơn 50,000 dân đã đội mưa đến khuôn viên
Đại học Đông dương để tiễn phái đoàn chính phủ đi Pháp đàm phán hoà bình. Phái
đoàn do Phạm Văn Đồng dẫn đầu. H không có trong thành phần đàm phán chính thức
mà tham gia với tư cách "Khách mời danh dự" của chính phủ Pháp. Cùng
đi có Salan. H thề trước đám đông sẽ phục vụ quyền lợi Tổ quốc và nhân dân Việt
nam, kêu gọi nhân dân tuân thủ các yêu cầu của chính quyền khi H vắng mặt và
tôn trọng người ngoại quốc. Sáng hôm sau, cả đoàn khởi hành từ Bắc bộ phủ, sang
sân bay Gia lâm và cất cánh trên 2 chiếc Dakota. Tất cả đều mặc âu phục trừ H vẫn
chiếc áo khoác kaki và đi giày đen 9.
Paris chỉ thị cho phi công bay lòng vòng, bảo đảm phái đoàn chỉ đến Pháp khi kết
quả bầu cử đã ngã ngũ. Chặng nghỉ đầu tiên là ở Calcuta (sau khi stop tại Miến
điện). Ra đón đoàn có Lãnh sự Pháp và đại diện chính quyền Anh. Cả hội được bố
trí ở khách sạn Great Eastern hai ngày đi ngắm cảnh. Ngày thứ 4 đi Agra thăm
Taj Mahal, sau đó đi Karachi, Iraq, đến Cairo ngày thứ bảy và ở lại đó 3 ngày.
Trước khi rời Ai cập, H nhận được tin D'A đã lập nhà nước Nam bộ tự trị và được
chính phủ Pháp công nhận. H yêu cầu Salan hành động để đừng biến Nam bộ thành
"Alsace-Lorraine mới" có thể dẫn đến cuộc chiến tranh Trăm năm 10. Cuộc
bầu cử ở Pháp ngày 2/6 đã đánh đổ chính phủ xã hội của thủ tướng Guin. Trong
khi chính phủ mới đang được thành lập, không rõ ai sẽ đứng ra tiếp đón chính thức
phái đoàn. Paris đành phải lái chuyến bay đến bãi biển Biarritz trên vịnh
Biscay. Các quan chức địa phương đã ra đón và đưa H đến khách sạn Carlton ngay
bờ biển, còn các thành viên khác được mời đến chỗ ít sang trọng hơn 11. Sau
đó các thành viên khác được đưa đến Paris, còn thủ tướng bảo thủ mới bầu
Georges Bidault phái Sainteny đến hầu chuyện H mấy ngày ở Biarritz cho đến khí
chính phủ mới được thành lập xong. H rất lo lắng về diễn biến tình hình Paris
và đặc biệt ở là Đông dương. Có vẻ như D'A đang làm mọi cách để phá hoại hiệp định
sơ bộ giữa H và Sainteny. S ra sức trấn an H là quốc hội Pháp sẽ không công nhận
Nam bộ nếu không có kết quả trưng cầu ý dân. Saiteny cố gắng làm cho H khuây
khoả. Thỉnh thoảng hai người đến thăm biệt thự của em gái S tại Hendaye, ở đó H
chơi đùa hàng giờ với cháu gái của S trên bãi biển. H còn đi xem đấu bò ở biên
giới Tây ban nha, thăm tu viện Lourdes. Khi ăn trưa tại làng đánh cá nhỏ
Biristou, H đã để lại dòng lưu niệm: "Đại dương và biển cả không thể chia
cắt những người anh em gắn bó với nhau". Có hôm, họ dành cả ngày đi đánh
cá trên biển ở St-Jean de Luz. H có vẻ khoái, tự câu được mấy con cá ngừ và tán
phét với thuyền trưởng. Khi bàn đến phong trào ly khai xứ Basque ở trong vùng,
H nhấn mạnh: "Riêng khoản này tôi có kinh nghiệm hơn anh, tôi e rằng người
anh em Basque nên nghĩ rất kỹ trước khi hành động". Vào những năm sau này,
thỉnh thoảng H có nhắc lại đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của đời
ông 12. H
còn dành một số thời gian cho việc nhà nước. Ông vào vai "Bác Hồ" tiếp
các đại diện Việt kiều, công đoàn và phóng viên báo Nhân đạo. H quan tâm đến mọi
thứ, mọi người, cư xử hết sức giản dị và nhũn nhặn. Nhưng cũng có lúc H tỏ ra cứng
rắn. Khi được một đảng viên xã hội Pháp thông báo là Việt minh đã ám sát phần tử
Troskit Tạ Thu Thâu tại Sài gòn, H đã khóc "người yêu nước vĩ đại"
nhưng sau đó nói thêm "Tất cả những người đi sai đường đều sẽ bị loại bỏ".
Ngày 22/6 H và S bay đến Paris qua vùng đồng bằng sông Loa tuyệt đẹp. S kể lại,
khi máy bay chuẩn bị hạ cánh "H tái mặt, mắt chớp liên tục, thậm chí cổ họng
nghẹn lại, không nói được nên lời". Khi máy bay chạy chậm trên đường băng,
H cầm tay S: "Hãy ở gần tôi. Đông người quá"
Sân bay Bourger quả thật hôm đó rất đông. Cờ Việt nam và cờ Pháp tung bay trong
gió. Đón H tận sân bay là Maurius Moutet, bộ trưởng hải ngoại, cũng là bạn cũ của
H thời sau Thế chiến I. Sau vài nghi lễ ngoại giao, H được bố trí đưa về căn
phòng suit, khách sạn Royal Monceau phố Hoche. Hình ảnh lãnh tụ du kích loay
hoay xoay xở với những đồ vật sang trọng của căn phòng khắc đậm trong trí nhớ của
Saiteny. S còn nghi ngờ là thể nào H cũng ngủ trên thảm sàn chứ không phải trên
giường. Chính phủ Bidault đến tận ngày 26 mới chính thức nhậm chức, bởi thế đàm
phán chỉ có thể bắt đầu vào tháng 7. H loanh quanh thăm thú những chỗ trước
đây, ra rừng Boulogne rồi đến ngõ Compoint. H còn đề nghị S đưa đến bãi biển
Normandy nơi đồng minh đổ bộ. H ngủ tại biệt thự của S ở gần đó và dậy rất sớm
để tán gẫu và hỏi kinh nghiệm chăn nuôi của các nông dân Pháp. H còn phải tiếp
đón vô số khách khứa, dưới sự chỉ đạo của vụ trưởng lễ tân Jacques Dumaine.
Nhưng nói chung là H làm đơn giản, mời tất cả những người muốn phỏng vấn đến ăn
sáng với ông từ 6h sáng và ăn mặc bình thường. Kể cả tại tiệc chiêu đãi tân thủ
tưởng Bidault tối 4/7, H cũng chỉ cài kín cổ chiếc áo kaki của mình cho trang
trọng, tuy nhiên vẫn diện đôi dép cao su. Trong một bữa tiệc do S tổ chức tại
nhà riêng, H đã gặp lại Albert Sarraut. Ông này kêu lên: "Cuối cùng thì
tôi cũng tóm được ngài, tôi đã phải tốn gần cả đời để theo đuổi ngài" rồi
ôm chầm lấy rất thân thiết. Saraut chỉ quan tâm không biết trường A. Saraut ở
Hà nội có còn không? H cũng xin gặp De Gaule nhưng không được vì Charle "Lớn"
không thích can thiệp vào công việc của chính phủ sau khi ra nghỉ hưu ở
Colombey. Lạ nhất là Leclerc lại tìm cách tránh H mặc dù cả hai có vẻ rất thân
nhau ở Đông dương. S cho rằng các hoạt động của L tại Đông dương bị các giới chức
quân sự Pháp phê phán như điên nên ông này tránh đổ thêm dầu vào lửa. Cũng có
thể là L cho rằng H đã lừa mình khi khăng khăng khẳng định là chính phủ VN
không chuẩn bị chiến tranh.
11h sáng 2/7, 14 ôtô cùng với Dumaine đón H đến khách sạn Matignon dự lễ tiếp
đón chính thức của Bidault. Trong bài phát biểu khai mạc, Bidault xin lỗi về sự
chậm trễ tiến hành đàm phán hoà bình và nhắc đến tình hữu nghị lâu đời giữa hai
dân tộc. Ông này miêu tả Khối Liên hiệp Pháp mới sẽ thấm đẫm tính nhân đạo và
hy vọng hai bên sẽ đàm phán chân thành và trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau.
Đáp lời, H nhắc lại Paris là cái nôi của những lý tưởng cao cả của cách mạng
Pháp năm 1789. H dự đoán đàm phán sẽ khó khăn nhưng sẽ thành công nếu cả hai
bên đều "không làm với người khác những điều mà không muốn người khác làm
với mình" 13.
Ngày hôm sau, H đi bộ trên đại lộ ChampElysees, đặt hoa tại mộ chiến sĩ vô danh
cạnh Khái hoàn môn, kéo theo một đám đông người tò mò. H nói đùa "Họ muốn
xem Charlie Chaplin của châu á như thế nào." H cũng đến điện Versailles
nơi ông đã trao "Bản kiến nghị" cho lãnh đạo các nước đồng minh thắng
trận sau Thế chiến I, thăm mộ Napoleon tại điện Les Invalides và thăm tượng đài
kỷ niệm các chiến sĩ du kích bị Đức hành hình trên núi Valerian ở Monmartre. Cuộc
đàm phán chính thức bắt đầu từ ngày 6/7 tại cung Fontainebleau cổ kính. Đoàn
Pháp do Max André (đã được De Gault cử sang Đông dương hồi tháng Giêng) lãnh đạo.
D'A đã đề nghị bay về Paris làm trưởng đoàn nhưng Bidault từ chối vì sợ phản ứng
của Việt nam và công chúng Pháp. Thành phần chính trị tương đối hỗn hợp gồm cả
đảng viên FCP, đảng Xã hội và đảng Nhân dân cộng hoà (MRP) của Bidault. Tình
hình Việt nam trước đàm phán xấu đi nhanh chóng. Ngày 1/6, chính quyền Nam bộ
do Nguyễn Văn Thịnh lãnh đạo đã nhậm chức ở Sài gòn. Tại Hà nội, quân Pháp chiếm
toà nhà Thống sứ, biểu tượng quyền lực ở Đông dương. Chỉ sau khi bị phía Việt
nam phản đối kịch liệt, Valluy mới chịu rút ra và tổ chức canh gác chung cùng với
quân đội Việt nam đợi kết quả đàm phán ở Paris. Phạm Văn Đồng đã đả kích những
hành động này của Pháp ngay trong phiên khai mạc. Hai bên cũng thống nhất được
nội dung gồm 3 phần: vị trí Việt nam trong Liên hiệp Pháp, quan hệ với các nước
thứ ba và thống nhất 3 miền. Tuy nhiên các bên vẫn giữ nguyên ý kiến như tại Hội
nghị tháng Tư ở Đà lạt. Người Pháp đặc biệt khó chịu khi nói đến chuyện Nam bộ,
đòi rút tất cả các quân của miền Bắc trước khi có ngừng bắn, họ cũng đưa ra một
định nghĩa rất hẹp cho khái niệm "quốc gia tự do". Một số còn tỏ thái
độ coi thường bằng cách thường xuyên vắng mặt tại các cuộc họp. Đoàn VN hy vọng
sự ủng hộ từ FCP và may ra thi từ đảng Xã hội. Báo chí hai đảng này đều có thái
độ ủng hộ HCM rõ rệt. Trước đó đoàn đại biểu quốc hội cũng đã đến Pháp và nối lại
quan hệ với FCP. Tuy vậy, mặc dù nhiều đảng viên FCP có thiện chí với ước vọng
của VN, lãnh đạo đảng tỏ ra nghi ngờ trước động thái giải tán ICP hồi tháng 11
năm ngoái. FCP cũng đang bị cuốn vào làn sóng khôi phục tinh thần dân tộc chủ
nghĩa sau chiến tranh tại Pháp. S đã biết thái độ của FCP khi ông trình bản hiệp
định sơ bộ lên Maurice Thorez, một thợ mỏ được đôn lên phó thủ tướng. Thorez
duyệt bản hiệp định và nói thêm: "Nếu Việt nam không tuân thủ những điều
khoản này, hãy để nòng súng nói chuyện hộ chúng ta" 14. H
không tham gia vào cuộc đàm phán chính thức mà lợi dụng tất cả các cơ hội bằng
uy tín và sự cuốn hút của mình để tìm kiếm sự ủng hộ cho sự nghiệp của Việt
nam. Có người gọi những hoạt động này là "Chiến dịch làm duyên" của
H. H gặp đại diện tất cả các đảng phái chính trị, nói chuyện với tất cả các nhà
báo và trí thức nổi tiếng. H còn đề nghị ông bạn cũ là Thorez giúp ảnh hưởng đến
chính phủ Pháp. Không rõ Thorez trả lời thế nào.
Do không có thông tin từ các cuộc hội đàm, xem ra công chúng thì ủng hộ Việt
nam còn phe bảo thủ chống lại. Không khí khá nóng trong xã hội Pháp. Ngày 12/7
HCM tổ chức cuộc họp báo để trình bày quan điểm của chính phủ mình. H nhấn mạnh,
VN tìm kiếm độc lập dân tộc và không tán thành phương án liên bang. Tuy nhiên
VN sẵn sàng chấp nhận độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. H tuyên bố các tỉnh
Nam bộ là một phần không thể tách rời của Việt nam và không thể đàm phán riêng
rẽ. H hứa sẽ bảo vệ tất cả các tài sản và quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông
dương, bảo đảm quyền ưu tiên cho Pháp khi Việt nam cần sự trợ giúp của nước
ngoài. Khi một phóng viên Mỹ hỏi, có phải H là cộng sản? H thừa nhận là học trò
của Marx, tuy nhiên cho rằng chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi một nền công nghiệp
phát triển do đó không có điều kiện xây dựng ở VN. Ai mà biết được bao giờ giấc
mơ thế giới đại đồng của Marx được thực hiện. 2000 năm trước Jesus cũng đã dạy
ta phải yêu kẻ thù của mình, bây giờ có thấy ở đâu đâu? 15
Tại Sài gòn, D'A bắt đầu các hành động nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc đàm phán.
Ngày 23/7, có tin đồn là D'A dự kiến sẽ tổ chức hội nghị tại Đà lạt ngày 1/8 để
thành lập liên bang Đông dương gồm Nam bộ, Nam Trung bộ, Tây nguyên, Lao,
Cambodia. Phạm Văn Đồng lập tức bỏ cuộc họp, phía Pháp phải hứa trình chính phủ
xem xét. Việt minh cũng tiến hành một loạt các cuộc tấn công vào các quyền lợi
của Pháp. Ngày 26/7, H đến Fontenebleau và thuyết phục được 2 bên ngồi lại bàn
đàm phán. Nhưng không được bao lâu. Ngày 1/8, D'A vẫn tiến hành hội nghị Đà lạt,
đoàn VN sau khi chính thức phản đối, không được chính phủ Pháp trả lời, đã rời
bàn họp. H lại phải nhờ đến ông bạn cũ Moutet để tìm ra công thức nối lại đàm
phán. Moutet cho rằng đàm phán với H vẫn là tốt hơn cả, trên tinh thần hiệp định
sơ bộ 6/3. Tuy nhiên hai bên phải giảm volume chửi bới, tuyên truyền và khiêu
khích. Moutet dự đoán là VM sẽ thắng trong bất cứ cuộc bầu cử tại Nam bộ nếu
pháp luật ở đó không được khôi phục. Cuối tháng 8, các cuộc đàm phán được nối lại.
Tuy nhiên phía Pháp kiên quyết không chịu chấp nhận độc lập của VN cũng như định
chính xác ngày trưng cầu ý dân tại Nam bộ, ngày 10/9 đoàn Việt nam bỏ bàn họp.
Ba ngày sau, họ lên tàu về nước để HCM ở lại một mình.
Khi đàm phán rơi vào bế tắc, S đã đề nghị H về nước để dẹp những tư tưởng chống
Pháp ở trong nước, nhưng H không thể ra về "tay trắng" và quyết định ở
lại. Chính phủ Pháp gây sức ép bằng cách không trả tiền tại Roayl Monceau. H
chuyển đến nhà người quen là Raymond Aubrac tại Soysy-sous-Montmorency và tiếp
tục tiếp khách, trả lời phỏng vấn. H kêu gọi Moutet "đừng để tôi rời Pháp
trong tình trạng này, hãy trang bị cho tôi chống lại những kẻ muốn diệt tôi,
ông sẽ không phải tiếc". Ngày 11/9, H tổ chức họp báo nhấn mạnh VN muốn
tìm kiếm thoả thuận. H cho rằng những mâu thuẫn hiện tại cũng như mâu thuẫn
trong gia đình, dự đoán có thể ký hiệp định trong 6 tháng và hứa sẽ ổn định
tình hình tại Đông dương. Cùng ngày H gặp đại sứ Mỹ Jefferson Caffery tại đại sứ
quán. Caffery trong báo cáo về Washington đã nhận định rằng H rất có tư cách và
đúng mực trong nói chuyện, dự định lôi kéo Mỹ vào đàm phán để gây sức ép với
Pháp. Ngày hôm sau, H gặp George Abott, bí thư thứ nhất sứ quán Mỹ sau này là tổng
lãnh sự Mỹ tại Sài gòn. H nhắc lại chuyện hợp tác với Mỹ trong chiến tranh, bày
tỏ sự ngưỡng mộ với Rousevelt, kêu gọi Mỹ giúp đỡ kinh tế cho Việt nam vì Pháp
quá nghèo không thể làm gì được. Cuối buổi, H nhắc khéo về chuyện Mỹ có thể sử
dụng Cam Ranh làm căn cứ hải quân cho mình.
Một số chuyên gia châu á của Bộ ngoại giao Mỹ cũng tỏ ra lo ngại. Abott Low
Moffat của vụ ĐNA trong một bức thư gửi thứ trưởng phụ trách các công việc Viễn
đông John Carter Vincent đã cảnh báo: "tình hình đã trở nên nghiêm trọng"
ở Đông dương do Pháp vi phạm hiệp định 6/3. Người Việt rất phẫn nộ về các hành
động của Pháp dẫn đến Pháp sẽ sử dụng vũ lực để tái chiếm Đông dương. Moffat
khuyến cáo bộ ngoại giao nên "bày tỏ Mỹ hy vọng Pháp sẽ tuân thủ các điều
khoản của hiệp định 6/3, ổn định trật tự và bảo đảm quyền lợi của các dân tộc
phụ thuộc". Tất nhiên chính phủ Truman chẳng dại gì mà dây với Pháp vào thời
điểm chính trị nhạy cảm này của nước Pháp. Thêm nữa, có tin tin báo chính phủ
Hà nội chẳng qua là công cụ của Kremlin để mở rộng ảnh hưởng sang châu á. Tháng
8, tổng lãnh sự Charles Reed nhận được điện phải tìm hiểu tương quan giữa cộng
sản và không cộng sản trong chính phủ, cũng như đường lối của H và các đồng
chí. Reed đã thông báo cho Washington rằng người VN đều tin là Mỹ ủng hộ Pháp,
bằng chứng là lính Pháp cưỡi xe Jeep chạy trên đường, khí tài quân sự mà Pháp sử
dụng được lấy từ kho quân dụng của Mỹ ở Manila nên vẫn còn nguyên phù hiệu của
quân đội Mỹ. Bộ ngoại giao đã báo cho Nhà trắng về tình hình này, nhưng Truman
quyết định không can thiệp.
Quyết định của H ở lại Paris sau khi cả đoàn đàm phán đã về nước đã gây nên
tranh luận lớn. Một số nhà quan sát Pháp cho rằng H muốn ăn vạ chính phủ Pháp
những điều mà H không thoả thuận được trên bàn đàm phán. Một số cho rằng lời
kêu gọi tới Moutet là không chân thành vì cuối cùng H đã ra lệnh cho chính phủ
tiến hành chiến tranh chống Pháp, mà nếu có chân thành thì đã chắc gì H bảo được
đám đàn em cũng như kiểm soát được tình hình lộn xộn ở Đông dương. Đúng thế, ở
Việt nam, và thậm chí ngay trong giới Việt kiều ở Pháp, tinh thần chống Pháp
đang lên cao và H chịu sức ép to lớn trước bất kỳ thoả hiệp nào. Saiteny thì
tin rằng H chân thành, bằng chứng là H đã bỏ nhiều công sức để xoa dịu lòng căm
thù Pháp trong dân chúng. Bidault thì cho rằng H chỉ diễn "tình hữu nghị"
còn trên thực tế đã chỉ đạo Hà nội chuẩn bị chiến tranh 16.
Bidault không phải là không có lý, Trong một cuộc phỏng vấn H ngày 11/9, phóng
viên Newyork Times David Schoenbrun đã hỏi thẳng: "Liệu ông có nghĩ chiến
tranh là không thể tránh khỏi?". H đã trả lời "Chắc chắn chúng tôi sẽ
phải chiến đấu. Người Pháp ký hiệp định và vẫy cờ chào đón tôi. Nhưng tất cả chỉ
là để che mắt". Khi David cho rằng bắt đầu cuộc chiến tranh mà thiếu quân
đội và vũ khí thì thật là vô vọng, H đã phản đối: Không, không vô vọng. Đó
sẽ là một cuộc chiến gay go và quyết liệt nhưng chúng tôi sẽ thắng. Chúng tôi
có một vũ khí mạnh chẳng kém những cỗ đại bác: đó là tinh thần dân tộc! Đừng có
đánh giá thấp điều đó. Người Mỹ chắc hẳn phải nhớ là một đám nông dân chân đất
Mỹ đã đánh thắng quân đội hoàng gia Anh như thế nào
David cho rằng đó là chuyện xưa rồi. Còn bây giờ vũ khí đã phát triển đến mức
quyết định. H nhấn mạnh, vũ khí lúc nào có thể mua được, và tinh thần anh dũng
của con người mới là quyết định, như các du kích Nam tư đã đánh thắng phát xít
Đức. "Hàng triệu cây tầm vông sẽ mọc lên sau lưng quân thù" và
đây sẽ là cuộc chiến
Giữa hổ và voi. Nếu hổ đứng yên, chắc chắn voi sẽ dẫm bẹp. Nhưng hổ nấp trong rừng
và sẽ xuất hiện ban đêm, cắn một miếng rồi lại biến mất vào rừng sâu. Dần dần
voi sẽ chảy hết máu mà chết. Đó sẽ là cuộc chiến tranh Đông dương
Do vẫn có hy vọng là FCP sẽ lên nắm quyền ở Pháp, Thorez đã thuyết phục H hoãn
tiến hành các hoạt động quân sự để tìm biện pháp ngoại giao. Ngày 14/9 ngay trước
khi đi gặp Moutet, H đã cảnh cáo Sainteny là nếu không đạt được thoả thuận, chắc
chắn chiến tranh sẽ xảy ra. "Mỗi người các ông bị giết, các ông sẽ giết 10
người của chúng tôi. Nhưng các ông mới là người hết hơi trước". Trong cuộc
gặp H đã đề nghị hai bên cùng chịu trách nhiệm về tình hình ở Nam bộ, nhưng
Moutet từ chối, cho rằng Việt nam tham gia vào uỷ ban theo dõi tình hình là vi
phạm chủ quyền của Pháp. Moutet đề nghị ký bản Ghi nhớ (modus vivendi) để tránh
cho đàm phán đổ vỡ hoàn toàn. Bản ghi nhớ kêu gọi ngừng bắn tại Nam bộ từ ngày
30/10 và nối lại đàm phán vào tháng Giêng 1947. H không đồng ý và rời bàn đàm
phán lúc 11h đêm, tuyên bố sẽ trở về Đông dương vào thứ hai 16/9. Sau nửa đêm,
H liên lạc lại với Moutet. Hai bên đồng ý về nguyên tắc là đại diện VN được uỷ
quyền hợp tác với D'A để tiến tới hoà bình tại Đông dương. H đã đồng ý ký bản
Ghi nhớ. Bản Ghi nhớ là tất cả những gì H có được sau 2 tháng đàm phán tại
Fontenableau. Saiteny nhớ lại mẩu giấy "nóng bỏng" đó đã được soạn thảo
vội vã ngay trong phòng làm việc của ông và cho H "ít hơn nhiều cái mà ông
ta hy vọng". Tại Đông dương, người Pháp thở phào, còn người Việt cảm thấy
bị làm nhục. H đã nói với Sainteny khi cuộc họp kết thúc lúc 3h sáng: "Tôi
đã ký vào bản án tử hình của tôi" Kỳ lạ là sau khi ký kết thoả thuận,
H cũng có vẻ không vội vàng gì quay về Việt nam. H từ chối chiếc máy bay do
chính phủ Pháp bố trí, lấy cớ là sức khoẻ yếu và đề nghị được đi tàu thuỷ. Trong
khi S đang lưỡng lự, H liên lạc thẳng với bộ trưởng hàng hải và được đồng ý lên
tàu Dumont D'Urville khởi hành từ Toulon. Ngày 16, H và S lên
tàu đi Toulon. Tại Montelimar, H đã xuống tàu và gặp đoàn đại biểu sinh viên VN
để giải thích về Bản ghi nhớ và khuyên sinh viên cố gắng học tập. Tại Marseill
H cũng làm tương tự, mặc dù trong đám đông có nhiều tiếng kêu "Việt
gian". Ngày 18/9 H đến Toulon và lên tàu. (Đoàn Việt nam cũng khởi hành từ
đây 4 ngày trước đó trên tàu Pasteur). Cùng đi với H là một số trợ lý và 4 sinh
viên mới kết thúc năm học trở về Việt nam. Sáng ngày 19/9, con tàu mang cờ đỏ
sao vàng do thuyền trưởng Gerbaud chỉ huy nhổ neo nhằm hướng Địa trung hải thẳng
tiến. Ngay ngày đầu, H đã điện về HN để giải thích những điều khoản của Bản ghi
nhớ. H cũng gửi điện cảm ơn Moutet và hy vọng ông này sẽ giúp đỡ thực hiện hiệp
định. Vài ngày sau, H nhận được điện của Bidault và lập tức trả lời, cảm ơn về
lòng hiếu khách, nhưng cũng nhận xét rằng nhân dân Việt nam không hài lòng về Bản
ghi nhớ. Theo H, đó cũng là chuyện thường tình "Tôi đã làm tất cả và chắc
đã thành công, nếu những người bạn Pháp áp dụng những quyền tự do dân chủ tại
Nam bộ, chấm dứt những khiêu khích vũ trang, trả lại tự do cho tù nhân và tránh
dùng những từ ngữ xúc phạm. Tôi hy vọng vào sự hỗ trợ tích cực của ông để tiến
hành công việc vì lợi ích của hai dân tộc".
Ngày 22/9, tàu cập bến Port Said, cửa ngõ phía bắc của kênh Suez. H gửi thư trả
lời một phụ nữ Pháp kêu gọi ông đừng để xảy ra chiến tranh. H nói Việt nam cũng
như Pháp rất ghét đổ máu, nhưng cũng như dân Pháp, dân Việt mong muốn độc lập
và thống nhất. Nếu Pháp công nhận những ước vọng chính đáng đó, Pháp sẽ chiếm
được trái tim của cả dân tộc Việt nam. Điểm đến tiếp theo là cảng Djibuti thuộc
Pháp, H đã xuống tàu đến thăm Thống sứ. Sau đó tàu đến Ceylon, Colombo và H được
các đồng chí của Gandhi và Nehru chào đón. Tàu đi chậm vì thỉnh thoảng phải dừng
lại vài ngày để duy tu hoặc bắn vài loạt đại bác để hoàn thành nhiệm vụ tuần tiễu.
H sống đơn giản, chỉ có một bộ quần áo để thay và tự giặt lấy. Lúc rỗi rãi H
tán phêt với các thuỷ thủ và sinh viên, dĩ nhiên là không quên công tác tuyên
truyền. Một sinh viên cùng đi nhớ lại, H đã nói: "chúng ta không có gì,
không có máy móc, nguyên liệu và cả thợ lành nghề. Bù lại chúng ta có sông núi,
biển khơi và những con người mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo". Có người hỏi
H khi thuyền trưởng cho tàu thử pháo: "Họ thử thần kinh ông đấy, ông có sợ
không?" H đã cười phá lên. Đối với thuyền trưởng Gerbaud thì H là một người
"thông minh nhưng lý tưởng hoá, hiến dâng đời mình cho sự nghiệp mà ông ta
tưởng tượng ra" Ngày 18/10, tàu đến vịnh Cam ranh. D'A và tướng Morliere
(người thay thế Sainteny, đại diện cho Pháp với chính phủ Hà nội) đón tiếp H
trên chiến hạm Suffren, lần thứ hai trong vòng 7 tháng, H được xem diễu
binh của hải quân Pháp. H và D'A bàn về việc triển khai Bản ghi nhớ. D'A nhất
trí hợp tác với đại diện của Việt nam để ngưng bắn, H cũng bày tỏ sự phản đối
trước những hành động khủng bố diễn ra gần đây. Mặc dù 2 bên không thống nhất
được về việc rút quân miền bắc ra khỏi miền nam, cuộc gặp đã kết thúc vui vẻ.
D'A báo cáo về Paris, tất cả phụ thuộc hành động của chính phủ VN khi H về đến
Hà nội. 2 ngày sau,Dumont d'Urville vào cửa Cấm trong sự chào đón của đám
đông hát Tiến quân ca và Marseillaise (theo đề nghị của H). Tối hôm đó, H chiêu
đãi các đồng chí và báo cáo sơ bộ tình hình đàm phán 4 tháng qua. Sáng hôm sau
H lên tàu hoả về Hà nội và được đưa về Bắc bộ phủ nơi đã có hơn 100,000 tụ tập
chào mừng.
Cho đến giờ, các nhà sử học vẫn băn khoăn là tại sao H không trở về nước ngay.
Lý do H viện ra với chính phủ Pháp là sức khoẻ là không thể chấp nhận được vì H
chưa bao giờ để sức khoẻ của mình ảnh hưởng đến các mục đích chính trị. Một số
người cho rằng, H dành thời gian để Giáp tranh thủ diệt bớt bọn đối lập, tập
trung quyền lực để chuẩn bị chiến tranh. Số khác thì nghĩ H muốn những phản ứng
tức thời về Bản Ghi nhớ lắng xuống đã. Sainteny thì đoán là H sợ bị ám sát. Nhiều
năm sau này, H thừa nhận với các đồng chí ở Hà nội, đó là một trong những lo ngại
lớn nhất của ông. Ông còn thêm vào "đi tàu thuỷ để xem nhiều sự thay đổi
cũng hay"
Không hề nghi ngờ gì là Giáp đã sử dụng thời gian H vắng mặt để tăng cường sự
quản lý của Đảng với chính phủ. Đầu hè, Pháp đề nghị được tổ chức diễu binh nhân
ngày 14/7. Theo tin tình báo, Giáp được biết là các phần tử đối lập sẽ tổ chức
khiêu khích quân Pháp để phá vỡ đàm phán. Giáp từ chối Pháp vì lý do an ninh và
ngày hôm sau tổ chức đột nhập trụ sở Việt quốc, phát hiện ra phòng tra tấn và một
số tù nhân, cùng với kế hoạch bắt cóc con tin Pháp. Cuộc tấn công này đã chặn đứng
âm mưu chống chính phủ nhưng đã làm sự căng thẳng giữa hai bên lên cao dẫn đến
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam rút khỏi chính phủ. Quan hệ
giữa chính phủ VN và Pháp cũng không lấy gì làm tốt. Mặc dù Morliere là người
khá ôn hoà, sau khi hội nghị Fontenebleau thất bại, các cuộc đụng độ giữa người
Pháp và người Việt xảy ra như cơm bữa. Mỗi lần lại thấy M ra tối hậu thư để tìm
thủ phạm nên nhân dân gọi ông này là "Tướng tối hậu thư". Cuộc chiến
Nam bộ, đương nhiên là làm xấu thêm tình hình. Trần Văn Giàu bị phê phán vì những
hành động tàn bạo được thay bằng Nguyễn Bình. Ông này trông võ biền, một mắt chột
sau cặp kính đen. Đặc biệt ghét Pháp. Đã tham gia Quốc dân đảng từ cuối những
năm 20, sau đó biến mất và đột ngột xuất hiện lại ở Việt bắc vào cuối thế chiến
II tham gia Việt minh. Có thiên tài quân sự và mặc dù không phải là đảng viên vẫn
được trao trách nhiệm tổng chỉ huy quân kháng chiến ở Nam bộ từ tháng 1/1946.
Bình đã tổ chức những khu căn cứ du kích lớn ở phía bắc Sài gòn (sau này được
biết đến như là chiến khu D), Đồng tháp mười và trong rừng U minh để từ đó quấy
phá quân Pháp. Tuy nhiên Bình đã bỏ qua lời dặn của H phải tránh vũ lực và tập
hợp được đông đảo dân chúng. Bình đã đưa những hành động khủng bố lên tầm cao mới,
đăch biệt là vụ ám sát Huỳnh Phú Sổ "mad bonze", người sáng lập ra
giáo phái Hoà Hảo 17.
Bốn tháng đi xa, chắc chắn làm H phải nhìn nhận tình hình với con mắt khác. Một
mặt các đồng chí đã giúp ông củng cố quyền lực dễ bề đưa ra các chính sách. Mặt
khác những hành động đấy sẽ thu hẹp sự ủng hộ của đông đảo nhân dân mà H đã dày
công vun đắp trong những ngày sau CMT8, sẽ đặt H vào thế khó để thống nhất dân
tộc trong cuộc chiến tranh dự kiến. Các đồng chí của H như Giáp, Đồng, Việt,
Chinh cũng lợi dụng khoảng thời gian này để thể hiện mình nhiều hơn trong Đảng.
Nhiều người không tin là có thể hoà hoãn với Pháp mà phải nhanh chóng chuẩn bị
chiến tranh. Trong bài diễn văn kỷ niệm 1 năm quốc khánh, Chinh đã áp đặt tầm
nhìn của mình cho cách mạng Việt nam, phê phán xu hướng "thoả hiệp không
nguyên tắc", không tin tưởng vào quần chúng, nhấn mạnh rằng chúng ta không
sợ quân thù mà chỉ sợ "sai lầm của các đồng chí của chúng ta". Mặc dù
không ai dám phê bình H công khai, rõ ràng là H sẽ phải mất công hơn nhiều để
thuyết phục các đồng chí của mình. Đối với nhân dân, đặc biệt phía bắc, H vẫn
được coi là người mang những khát vọng của dân tộc. Ngày 23/10 H tuyên bố với
dân chúng, dù tình hình rất khó khăn nhưng nhất định Việt nam sẽ là một nước độc
lập và thống nhất. Do H thường từ chối nói về quá khứ mà chỉ nhận mình là
"người yêu nước già" nên ít người biết được H chính là Nguyễn ái Quốc.
Chị H là Nguyễn Thị Thanh tình cờ nhận ra ảnh của em trên báo đã lần ra tận Hà
nội thăm H tại Bắc bộ phủ. A Khiêm cũng lên thăm và được tiếp đón tại một căn
nhà ngoại ô. Cả Thanh và Khiêm đều sống ở Kim liên, Khiêm chết năm 1950, Thanh
chết 4 năm sau đó 17.
Việc đầu tiên của H khi về đến VN làm họp ngay Ban thường vụ để phân tích tình
hình và định ra kế hoạch hành động. Hai vấn đề chủ chốt là có đồng ý ngày ngừng
bắn 30/10 và đối phó với phe đối lập. H đề xuất triệu tập họp quốc hội để thông
qua hiến pháp tiến tới thành lập chính phủ mới thay thế cho chính phủ liên hiệp
đã bị yếu đi rất nhiều sau khi những người như Hải Thần từ chức.
Phiên họp quốc hội ngày 28/10 thật khác xa không khí thống nhất dân tộc của kỳ
họp 7 tháng trước. Có tổng cộng 291 đại biểu trong số 444 đại biểu được bầu
tham dự. Trong số 70 đại biểu chỉ định chỉ có 37 người đến. Khi một đại biểu đứng
lên hỏi những người còn lại đâu, ông này được trả lời là cả lũ đã bị bắt theo
yêu cầu của uỷ ban thường vụ quốc hội vì những tội hình sự. Trước đó vài ngày,
hàng trăm nhân vật đối lập đã bị bắt, đã xảy ra xung đột vũ trang làm nhiều người
chết trong đó có hai nhà báo. Tình hình khá căng thẳng. Các đại biểu ngồi thành
3 khối: bên trái là các đại biểu ICP, đảng xã hội và đảng dân chủ đeo cà vạt đỏ.
Trung tâm là các đại biểu Việt minh không cộng sản, bên phải là các đại biểu Việt
quốc và Đồng minh hội. Sang ngày thứ hai, chính phủ xin từ chức và ba ngày sau
quốc hội phê duyệt danh sách chính phủ mới do HCM đệ trình. Danh sách chính phủ
mới chỉ còn 2 phần tử ngoài Việt minh, trái ngược lại những gì H hứa khi rời
Paris là sẽ mở rộng thành phần chính phủ. Giáp giữ chân bộ trưởng quốc phòng, Đồng
bộ trưởng kinh tế. H là chủ tịch kiêm thủ tướng, kiêm bộ trưởng ngoại giao. Mặt
trận liên hiệp với các đảng dân tộc tan vỡ. Có thể do các đảng dân tộc công
khai đối lập chính phủ buộc ICP không thấy sự cần thiết phải thoả hiệp. Cũng có
thể phe cứng rắn như Chinh, Việt, Liệu đang thắng thế (bằng chứng là mấy tuần
sau, Chinh công bố một bài báo phê phán chủ trương cách mạng từng giai đoạn của
H). Mấy ngày sau, quốc hội dự thảo Hiến pháp mới, mặc dù bị Chinh phê phán, rõ
ràng là nội dung bản Hiến pháp rất ôn hoà và đáp ứng mong ước của đại đa số dân
chúng. Chương về tổ chức chính trị nhấn mạnh bảo đảm các quyền tự do dân chủ và
nhu cầu liên kết rộng rãi để chống lại việc khôi phục chế độ thực dân Pháp.
Chương kinh tế bảo đảm quyền tư hữu và không đả động gì đến việc thành lập xã hội
phi giai cấp. Người Pháp hẳn phải rất thất vọng khi bản Hiến pháp tuyên bố nền
độc lập hoàn toàn cho Việt nam mà chẳng thấy đả động gì đến liên bang Đông
dương hoặc khối Liên hiệp Pháp cả. Quốc hội đã phê duyệt Hiến pháp và uỷ quyền
cho chính phủ quyết định ngày đưa vào hiệu lực. Ngày 14/11 Quốc hội giải tán,
chỉ còn 242 đại biểu, trong đó chỉ có 2 thuộc phe đối lậpcvii.
Trong khi quốc hội họp, hai bên cũng đã thử cố gắng tuân thủ điều khoản ngừng bắn
của Bản ghi nhớ vào ngày 30/10, nhưng không ăn thua. D'A đề phòng Việt minh bất
ngờ tấn công mình ở miền Bắc và miền Trung, đã chuẩn bị kế hoạch thay thế H bằng
một chính phủ ôn hoà hơn. Từ tháng 9, Pháp đã liên lạc với Bảo đại khi đó đang ở
HK về khả năng ông này trở lại chính trường. Vào giữa tháng 11 D'A cũng đã chỉ
thị Valluy chuẩn bị phương án tấn công nhanh cho trường hợp đàm phán đổ vỡ.
Với nguy cơ chiến tranh đã cận kề, Đảng cũng ra sức chuẩn bị nhập lậu vũ khí
qua cảng Hải phòng để trang bị cho quân đội vì trên thực tế biên giới đường bộ
đã bị quân Pháp phong toả. Hải phòng trở thành điểm nóng trong đàm phán giữa
hai bên, nhất là vấn đề hải quan vì thuế nhập khẩu vốn là nguồn thu nhập chính
của chính phủ thuộc địa trước đây. Được D'A bật đèn xanh, đầu tháng 11, quân
Pháp chiếm trụ sở hải quan Hải phòng mặc cho phía Việt nam ra sức phản đối.
Ngày 20/11, quân Pháp bắt một tàu Trung quốc chở xăng lậu được nghi là cho mục
đích quân sự và dong vào bờ. Các dân quân Việt nam đã nổ súng và Pháp lập tức
đáp trả. Cuộc bắn nhau lan nhanh khắp thành phố trước khi được dập tắt bằng một
lệnh ngừng bắn. Hai ngày sau, Valluy ra lệnh cho quân Pháp chiếm thành phố.
Ngày 23/11, Pháp nã pháo vào khu phố Tàu đòi Việt minh phải hạ vũ khí. Hàng
trăm thường dân chết, hàng ngàn người bị thương. Hơn 2000 quân Pháp tràn vào
khu vực và vấp phải sức kháng cự mãnh liệt, trước khi Việt minh bỏ trận địa vào
ngày 28/11.
Sự cố Hải phòng ngay lập tức được James O'Sullivan báo về Nhà trắng. Ông này
nói mặc dù Việt minh khai hoả trước nhưng thái độ của Pháp là không thể chấp nhận
được. Đại sứ Mỹ tại Pháp Caffery được lệnh bày tỏ sự không hài lòng với chính
phủ Pháp. Phía Pháp trưng ra bằng chứng là chính phủ H nhận chỉ thị từ Moscow.
Từ Sài gòn, lãnh sự Mỹ là Charles Reed cũng cảnh báo là nếu Nam bộ rơi vào tay
Việt minh, thì Lào và Cambodia sẽ nguy hiểm. Đây là một trong những phát biểu đầu
tiên của một quan chức về cái sau này được gọi là "học thuyết
domino"cviii
Cuối tháng 11, bộ ngoại giao Mỹ cử Moffat vụ trưởng vụ Đông Nam á sang Đông
dương để đánh giá tình hình và tìm hiểu bản chất của chính phủ Hà nội. Moffat
là người công khai ủng hộ độc lập của Việt nam và được uỷ quyền thông báo với
VN là Mỹ ủng hộ hiệp định 6/3 và có thể bảo được chính phủ Pháp. M cũng dự kiến
sẽ khuyên H không dùng vũ lực và thoả hiệp trong vấn đề Nam bộ. M đến Sai gon
ngày 3/12 và ra Hà nội ngày 7/12. Sullivan cho rằng H đang "cực kỳ cô
đơn" và thông tin công khai về chuyến viếng thăm của M sẽ làm tăng uy tín
của H. Mặc dù rất ốm do lao phổi trở lại, H vẫn mời M đến Bắc bộ phủ. H khẳng định
mình không phải là cộng sản mà chỉ đấu tranh vì độc lập, kêu gọi Mỹ ủng hộ và
nhắc lại đề nghị cho Mỹ sử dụng Cam ranh. Do không chuẩn bị trước vấn đề này,
Moffat "không nói được câu nào" như về sau ông này điều trần trước
Thượng viện Mỹ. M khẳng định rằng Mỹ không thể có quan hệ ngoại giao chính thức
với Việt nam nếu Việt nam không thoả thuận được với Pháp về thể chế. Trong báo
cáo sau khi rời Đông dương, M nhận định chính phủ Hà nội đang nằm dưới sự kiểm
soát của cộng sản và có thể có quan hệ với Nga và Trung cộng. Tuy nhiên ông này
cũng thấy sự khác biệt giữa những phần tử ôn hoà xung quanh H và các phần tử cứng
rắn như Giáp. M kết luận, hiện tại cần có sự hiện diện của Pháp để không những
chống ảnh hưởng của Nga mà đề phòng Tàu tấn công. M đề nghị Mỹ ủng hộ thoả thuận
trước khi tình hình tiếp tục xấu đi cho Pháp. Nhà sử học Pháp Philippe
Devillers cũng nhận thấy sự chia rẽ trong lãnh đạo Việt minh giữa H và những phần
tử hiếu chiến hơn như Giáp, Việt. Bản thân H cũng thường xuyên kêu gọi Pháp và
các nước phương Tây giúp ông củng cố quyền lực với đối thủ. Nhưng cũng có người
bi quan cho rằng đó là đòn của H sử dụng để gây sức ép với Pháp. Nhận xét của M
về quan hệ của Hà nội và Nga có vẻ không đúng, thực tế thì H và đồng chí chỉ có
thể biết được tình hình Nga xô qua FCP.cix Báo cáo của M cùng với cuộc nội chiến
đang nóng lên ở Trung quốc đã dẫn Bộ ngoại giao Mỹ đi đến kết luận "Sự có
mặt của Pháp ở khu vực là quan trọng, không chỉ để ngăn ảnh hưởng của Nga mà
còn bảo vệ Việt nam và Đông nam á khỏi đế quốc Tàu".
Ngày 13/11 D'A đi Pháp xin thêm quân để có thể tiến hành tiến công phủ đầu.
Không ngờ chính phủ Pháp vẫn đang hy vọng hoà hoãn. Bidault đang chuẩn bị chuyển
giao quyền lực cho đảng Xã hội mới thắng cử, hứa là sẽ có thêm quân nhưng cũng
cảnh báo rằng Đông dương không thể giữ được chỉ bằng quân sự. Trong khi đợi
chính phủ mới được thành lập, Sainteny được bổ nhiệm thay thế cho Morliere.
Saiteny đến Sài gòn ngày 23/11, chỉ vài giờ sau sự cố Hải phòng. Đợi ở đó vài
ngày cho tình hình lắng xuống, ngày 2 S ra Hà nội với chỉ thị của D'A trong
túi: "Danh dự quân sự đã được bảo vệ, uy tín của Pháp đang tăng, không nên
làm tình hình căng thẳng thêm dồn chính phủ của H vào những hành động cùng quẫn.
Tôi cho rằng ông không nên ở trong dinh Thống sứ, dễ bị coi là hành động khiêu
khích và quay trở lại phương pháp thống trị cũ" . Valluy cũng ủng hộ
hoà hoãn, cho rằng "có thể H không muốn chiến tranh"
Do ốm, H không đón được S tại phi trường mà tiếp ông này vào ngày hôm sau, đúng
ngày Pháp đổ thêm quân vào cảng Đà nẵng. Tuy nhiên H đã được Giám quân sư về
thái độ hoà hoãn của Pháp. Hai bên không bàn chuyện gì nghiêm túc mà chỉ xoay
quanh sức khoẻ của H và chuyến đi từ Pháp về Việt nam. Mấy ngày sau, S mất luôn
liên lạc với H nên cứ bán tin bán nghi không biết H có còn kiểm soát được tình
hình nữa không? Mặc dù ghi nhận lo ngại của H về sự thay đổi bất chợt nhưng
Sainteny đã yêu cầu H phải khai trừ những phần tử cực đoan khỏi chính phủ, bằng
không Pháp sẽ dùng các biện pháp "cảnh sát". S chia sẻ quan điểm của
mình với Sullivan nhưng ông này tỏ ra bi quan: "Nếu ông muốn đuổi Việt
minh đi thì e rằng sẽ mất thời giờ hơn nhiều"
Quãng giữa tháng 12, H điện cho Blum nêu ra những giải pháp cụ thể để giải quyết
căng thẳng. Nhưng rõ ràng là H đã không hy vọng vào các giải pháp chính trị.
Tháng 10, ICP thiết lập Uỷ ban quân sự để có thể bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
trong quân đội, cử chính uỷ cho từng đơn vị, lập cơ sở đảng tại tất cả các vùng
quân sự. Văn Tiến Dũng, người sau này sẽ là tổng tư lệnh cuộc tiến công vào Sài
gòn, chỉ đạo toàn bộ việc này. Theo tin tình báo Pháp, quân Việt minh nay được
đổi thành Quân đội Nhân dân Việt nam có khoảng 60,000 quân ở phía Bắc được tổ
chức thành 35 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn pháo binh, cộng với khoảng 12000
quân ở Nam bộ. Về vũ khí VPA có khoảng 35000 khẩu súng trường, 1000 tiểu liên
và 55 pháo. Việt minh đang tích cực chuẩn bị căn cứ, các quân xưởng ở Tân trào,
Việt bắc và sơ tán các cơ quan chính phủ đến đó khi chiến tranh xảy ra. Đa số
quân VM được bố trí ở ngoại ô, trong thành phố chỉ có khoảng 10,000 dân quân và
thanh niên xung phong. Quân Pháp có vài ngàn lính lê dương, đóng chủ yếu trong
thành và các điểm quan trọng như Dinh Thống sứ, nhà Ga, cầu Doumer và sân bay
Gia lâm. Giáp nhận định là có thể giữ Hà nội được trong vòng 1 tháng để các cơ
quan có thời gian rút ra chiến khu. Ngày 6/12, H kêu gọi quân Pháp rút lui về
các vị trí trước ngày 20/11 nhưng không được đáp lại. Trả lời phỏng vấn báo
Pháp vào ngày hôm sau, H nói "chúng tôi bị áp đặt chấp nhận cuộc chiến
này, chúng tôi thà đấu tranh chứ không hy sinh sự tự do của mình"
Cũng lúc đó, tướng Valluy hiểu rằng H không hề có ý định loại các phần tử cực
đoan ra khỏi chính phủ. Valluy xin chỉ thị được hành động ngay sau khi quân
tăng viện đến, nếu để đến sang năm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của
Pháp. Nhưng thủ tướng Blum có vẻ chưa muốn dùng đến quân sự. Ngày 12/12, Blum
tuyên bố sẽ xem xét việc công nhận độc lập của Việt nam. Ba ngày sau, H trao
cho Sainteny bức thư gửi thủ tướng Pháp với những đề nghị cụ thể. S điện vào
Sài gòn nhờ chuyển sang Paris. Không rõ là các nhà lãnh đạo khác của Việt nam
có thực sự hy vọng gì vào tuyên bố của Blum? Còn Giáp trong hồi ký của mình cho
rằng Blum chỉ là công cụ của tư bản Mỹ và Pháp. Rõ ràng là Blum không lựa chọn
một bộ trưởng cộng sản nào và tiếp tục bổ nhiệm D'A làm Đại diện toàn quyền ở
Đông dương. Tuy nhiên nội các mới của Blum đã không quyết định được có tăng viện
cho D'A hay không và có nên tiến hành những hành động quân sự tức thời hay
không. Valluy, cũng như D'A quyết tâm duy trì sự có mặt của Pháp ở Việt nam đã
quyết định cần phải khiêu khích để Việt nam khởi xướng những hoạt động thù địch
đặt Paris vào sự đã rồi. Valluy ra lệnh cho Morliere phá huỷ các chiến luỹ trên
đường phố. Khi nhận được điện của H do S chuyển vào, Valluy đã tự bình phẩm
thêm vào là phải tiến hành các hoạt động quân sự vào trước cuối năm. Bức điện
chỉ được chuyển đến Paris vào ngày 19, khi đã quá muộn.
Ngày 17, các chiến xa bắt đầu xô đổ các chiến luỹ, lính lê dương đứng đầy từ
thành cổ ra đầu cầu Doumet dọc đường đến sân bay. Ngày hôm sau, Pháp ra tối hậu
thư cấm được xây các công sự trên đường phố, ngay buổi trưa hôm đó, lại ra tiếp
tối hậu thư từ ngày 20, quân Pháp sẽ bảo đảm trật tự an ninh trên đường phố.
Sáng ngày 19, Pháp yêu cầu Việt nam ngưng tất cả các hoạt động chuẩn bị chiến
tranh, giải tán các đơn vị dân quân và chuyển giao toàn bộ việc bảo đảm an ninh
cho Pháp. Tình hình rất giống ở Hải phòng, khi trung tá Debes ra hết tối hậu
thư này đến tối hậu thư khác trước khi ném bom Hải phòng. Ngày 18, H chỉ thị
chuẩn bị tấn công các cơ sở của Pháp vào ngày 19. Cùng ngày, sợ thư gửi qua S
không tới được Paris, H đã điện thẳng cho Blum. Sáng 19, H viết một bức thư cho
S nhờ Giám chuyển hộ, nội dung viết: "Tình hình đã trở nên rất nghiêm trọng,
trong lúc chờ đợi quyết định từ Paris, tôi hy vọng là ông sẽ cùng với ông Giám
tìm được giải pháp để cải tiến tình hình hiện tại". Theo giọng văn mà
đoán thì rõ ràng H cũng chẳng đợi trả lời một cách nghiêm túc. Chưa kể sáng hôm
đó, S đã gửi cho H một bức thư dài thòng phản đối Việt minh nổi loạn giết chết
và làm bị thương mấy người Pháp, đòi phải trừng trị ngay lập tức kẻ phạm tội.
Do đã đồng thuận để Valluy khiêu khích, S khất gặp Giám sang sáng hôm sau. Khi
được Vũ Kỳ báo tin S từ chối gặp Giám, ngay lập tức H triệu tập họp uỷ ban thường
vụ gồm Giáp , Lê Đức Thọ và Chinh. Uỷ ban đã nhận xét trong hoàn cảnh hiện tại,
không thể tiếp tục nhượng bộ và quyết định toàn dân kháng chiến. Uỷ ban cũng
xem xét lời kêu gọi của H gửi toàn thể đồng bào mới được H dự thảo lúc trưa.
Giáp được giao chỉ huy các hoạt động quân sự. Thời điểm tiến công được xác định
là 8h tối. Sau đó Uỷ ban giải tán.
Buổi tối hôm đó 19/12. S đang chuẩn bị rời nhiệm sở về nhà riêng. Cũng như mọi
người S biết rằng cuộc chiến đã có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Khi đồng hồ tại bệnh
viên Yersin điểm 8h, S nói với đồng nghiệp "Thế là không phải hôm nay rồi,
tôi đi về nhà đây". Đúng lúc S đang chuẩn bị bước vào xe, một tiếng nổ lớn
phát ra. Điện tắt phụt, toàn thành phố chìm vào bóng tối. S chạy vội về nhà,
lên chiếc xe bọc thép chạy thẳng vào thành. Được một đoạn, chiếc xe trúng mìn.
S bị thương nặng nằm trong vũng máu trong gần 2h giữa các đồng đội quằn quại hấp
hối.cx
Theo đúng kế hoạch, Việt minh đã đặt mìn nhà máy điện. Các đội dân quân tấn
công các cơ sở của Pháp, còn biệt động thì thâm nhập vào tư dinh trong khu phố
Tây. Giáp có 3 sư đoàn bố trí ở ngoại ô phía tây nam và cạnh Hồ Tây, nhưng quyết
định không sử dụng. Quân Pháp bị bất ngờ lúc ban đầu nhưng nhanh chóng giành lại
thế chủ động. Gần đến nửa đêm Pháp đã kiểm soát hầu hết những điểm trọng yếu. Một
cánh quân tấn công Bắc bộ phủ suýt bắt được H. Cuộc chiến tranh Đông dương lần
thứ nhất bắt đầu. Sự kiện 19/12 gây nên phản ứng ồ ạt tại Pháp. Đa số cho rằng
Việt minh đã tấn công khiêu khích các lợi ích và công dân Pháp. Nhưng nhìn kỹ
có thể thấy vai trò của Pháp cũn rất quan trọng. Mặc dù, chính phủ Paris còn
đang lưỡng lự trong việc có tiến hành chiến tranh không, thì các tướng Pháp ở
Đông dương đã tự cho mình quyền hành động. Valluy cho rằng H không thể hoặc
không muốn kiểm soát các phần tử cực đoan trong chính phủ, nên đã quyết định ra
tay trước khi lực lượng Pháp tại khu vực yếu đi. Tối hậu thư 17/12 đòi hỏi chuyển
quyền kiểm soát an ninh trật tự ở thành phố cho Pháp rõ ràng là đã được tính
toán để khiêu khích Việt minh. Liệu H có thực sự muốn tránh chiến tranh hay chỉ
"động tác giả" để có thêm thời gian chuẩn bị chiến tranh? Thực ra
cũng chẳng cần trả lời. Là đệ tử của Tôn Tử, H tin rằng chiến thắng đẹp nhất là
chiến thắng không cần vũ lực. Để đạt được nó, ngoại giao và tuyên truyền là các
vũ khí sắc bén làm chia rẽ và giảm năng lực chiến đấu của đối thủ. Đến ngày
19/12, H và các đồng chí của mình hiểu rằng, không thể thoả hiệp được nữa. Vấn
đề phải được quyết định trên chiến trường.
--------------------------------
Theo Bảo
đại, đa số các thành viên chính phủ không hiểu ý ông vì họ là người miền
Trung, không thích ăn dồi chó.
|
|
Xem
K.N.T "Jours passes aupres Oncle Ho" in Avec l'Oncle Ho (NXB
Ngoại ngữ, 1972) p 352.
|
|
Theo
Chen Vietnam and China , H đã cho Hải Thần biệt thự lớn và đề nghị
Thần dùng ôtô của mình. Đổi lại Thần hứa sẽ xem bói cho H.
|
|
Bức thư
của H xuất hiện trong điện của OSS về Côn minh, đề ngày 28/2/1946.
|
|
Chronique
de l'Indochine (Paris, Albin Michel 1985), p.148 viết, Leclerc đã cãi
nhau với D'A về vấn đề này, đến nỗi D'A đã đòi triệu hồi L về nước. Khi De
Gaul yêu cầu phải khôi phục lại chủ quyền của Pháp trước khi đàm phán, L cũng
trả lời rằng ông ta không có đủ sức để làm việc đó.
|
|
Trong hồi
ký HCM của mình, Sainteny cũng nhận xét rằng H có nói, có thể người
khác sẽ ký nếu hiệp định được thoả thuận (p 60).
|
|
Xem
Paul Mus sociology de une guerre (Paris, Edition de seul, 1952) p
85.
|
|
Cả
Saiteny và Giáp đều cho rằng chính Tàu đã thuyết phục H ký hiệp định. Một nhà
ngoại giao Mỹ có mặt trong buổi lễ báo về Washington là cuộc trưng cầu ý dân
về Nam bộ sắp diễn ra đến nơi. Có một câu chuyện kể, khi H đến Đại học Đông
dương để kêu gọi sinh viên ủng hộ hiệp định, một sinh viên đã trần truồng chạy
từ nhà tắm ra để làm H mất mặt. H đã bình tĩnh vỗ vai anh nọ "ồ chú đấy
à, chú biết cách mua vui cho mọi người nhỉ?". Xem Bùi Diễm, In Jaws
of History (Boston, Houghton Mifflin, 1987) p 40.
|
|
Ngoài Đồng,
phái đoàn còn có Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên và
Trịnh Văn Bình. Ngoại trưởng Tam cũng trong thành phần nhưng cáo ốm không đi.
Ông này sau này thú nhận là không muốn tham dự đàm phán. Theo Chủ tịch
HCM ở Pháp, Nguyễn Thành (Hà nội, NXB Thông tin lý luận, 1988) p 165.
|
|
Sau cuộc
chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870, việc cắt vùng lãnh thổ phía đông là Alsace
và Lorrain cho Đức đã nuôi dưỡng ý chí trả thù trong dân Pháp và là một trong
những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Thế chiến thứ Nhất. Trong Grass, Histoire
de la guerre có trích hồi ký của Salan. Grass cho rằng chính phủ Pháp
không có ý định công nhận nhà nước này trước khi cuộc trưng cầu ý dân được tiến
hành.
|
|
Khá nhiều
nguồn cho rằng H ở Khách sạn Carlton. Sainteny còn ghi lại, bộ trưởng hàng
không của chính phủ Guin là Charles Tillon còn bay đến tận nơi để kiểm tra điều
kiện ăn ở của H. Tuy nhiên các nguồn Việt nam BTNS, Chủ tịch HMC ở Pháp thì
cho rằng H ở khách sạn Le Palais. Philippe Deviller nói rằng phái đoàn ở
chung với H ở Carlton, nhưng báo cáo của một quan chức ngoại giao Mỹ thì lại
nói rằng họ được chuyển đến một khách sạn hạng hai.
|
|
Các
thông tin này lấy từ sách của Saiteny Hồ Chí Minh . S còn nói rằng,
các thuỷ thủ rất ngạc nhiên khi thấy H "sea legs" trên vùng biển động
ở Biscay. Họ không biết rằng H đã có vài năm kinh nghiệm đi biển. S còn thêm
la ai đó đã viết vào cuối lưu bút của H ở Biristou dòng chữ "Cuốn theo
chiều gió".
|
|
Sau này
H kể lại ông thừa biết chính phủ Pháp định mua chuộc ông bằng cách đỗi xử như
một nguyên thủ quốc gia và treo cờ VN ngay cạnh cò tam tài Pháp.
|
|
Nhà sử
học Alain Ruscio cho rằng Thorez không phải nói về chính phủ Việt nam tại Hà
nội mà nói đến phe đối lập. Nhìn chung quan hệ giữa FCP và VN là hữu hảo. Xem
thêm Le communistes francais et la guerre d'Indochine 1944-1954 (Paris,
Harmarttan, 1985) p 109. Tuy nhiên Thorez sau đó, trong cuộc phỏng vấn với
Philippe Deviller đã nói rằng: đảng ông ta sẽ không phải là người xoá bỏ sự
có mặt của Pháp tại Đông dương và ủng hộ việc cờ tam tài tung bay khắp địa cầu
trong khối liên hiệp Pháp. Xem Deviller Paris-Saigon-Hanoi p. 269.
|
|
Theo
Ruscio, nhà báo Mỹ này là David Schoenbrun. Cũng có người hỏi là liệu H có chấp
nhận Nam bộ ly khai, H hỏi lại, cớ gì mà Nam bộ lại không nhập vào VN khi họ
chung một tiếng nói và tổ tiên.
|
|
Nhiều
năm sau, H thừa nhận với các đồng chí của mình là cuối mùa hè 1946, ông đã
tin chiến tranh là không thể tránh khỏi. "Bọn chúng tìm cách kéo dài thời
gian để chuẩn bị tấn công. Ta cũng hiểu điều đó, và tận dụng thời gian để chuẩn
bị". Xem Mai Văn BộChúng tôi học làm.
|
|
Nguyễn
Bình (tên thật là Nguyễn Phương Thâu) thực sự là một betes noire của cách mạng
Việt nam, nhưng có một cuộc đời rất ít được biết đến. Xem thêm chỉ thị của H
"Giảm ngay các cuộc khủng bố" trong hồ sơ phòng nhì Pháp
"1946-1949", SPCE, Carton 366, CAOM.
|
|
Tình
báo Mỹ có báo cáo về nhận định của Đồng khi H đi Paris: "ảo tưởng rằng
có thể xin xỏ nền độc lập dân tộc từ tay bọn đếquốc". Các nguồn của Pháp
cũng nói về sự phân hoá trong đảng và Việt minh. Trong hồi ký của mình Salan
có kể lại H nhận xét như sau: "Giáp rất trung thành với tôi. Hắn tồn tại
chỉ vì có tôi hỗ trợ. Hắn và những người khác không thể làm gì mà không có
tôi. Tôi là cha đẻ của cách mạng Việt nam." Nhưng có vẻ những nhận xét
kiểu này không giống của HCM lắm.
|
|
Do chiến
tranh đã xảy ra ngay sau đó, bản hiến pháp này không bao giờ được đưa vào cuộc
sống.
|
|
Theo
Devillers, sở dĩ sự cố Hải phòng khó dập bởi vì thái độ hết sức ngang ngược của
trung tá Debes được Valluy bảo kê. Về số người chết, nhiều nguồn cho đến con
số hàng ngàn, phía Pháp công nhận là từ khoảng 200-300. Moffat, quan chức bộ
ngoại giao Mỹ đến thị sát tình hình sau đó đưa ra con số 2000. Trong thử gửi
thủ tướng Blum, H đưa ra số 3000.
|
|
Một cán
bộ Việt minh đào ngũ đã khai rằng, H lãnh đạo hết mọi chuyện và sử dụng những
phần tử cứng rắn để gây sức ép. Trong cuộc điều trần tại Hạ viện năm 1972,
Moffat đã bày tỏ cảm tình với H, nói rằng ông cảm thấy sự hiện diện của một
con người vĩ đại. Còn Giáp, M cho chỉ là một "tay cộng sản điển
hình".
|
|
Theo
Devillers, đã có một cơ hội mong manh để chậm lại cuộc chiến. Trưa ngày 19,
Morlliere bất ngờ đồng ý yêu cầu của Giáp triệt thoái quân Pháp khỏi đường phố.
Việt minh cũng huỷ kế hoạch tấn công. Khoảng 5h, Morlliere mới được một điệp
viên 2 mang thông báo về kế hoạch tấn công của VM nên đã lại bố trí quân Pháp
trở lại. Việt minh cũng quay về phương án ban đầu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét