Nay hồi
nhớ lại cả một thời kỳ "sôi nổi" trong trì trệ và u mê ấy, có thể thấy
rõ hơn sự ràng buộc của những sự kiện. Việc phát hiện ra sai lầm cải cách ruộng
đất quá chậm trễ, sang đến đợt 5, chỉ còn lại vài vùng rừng núi thưa dân. Người
viết lại lịch sử sau này cần nhớ lại một điều: năm 1956 (tháng 2), Đại hội lần
thứ 20 của Đảng cộng sản Liên xô có tác dụng chấn động lớn như một quả bom.
Stalin chết năm 1953. Vậy mà chỉ 3 năm sau, "nhà lãnh đạo thiên tài của Đảng
cộng sản Liên xô và của toàn phe xã hội chủ nghĩa cũng như cả loài người tiến bộ"
ấy bị chỉ mặt vạch tên là kẻ giết người hàng loạt, kẻ tội phạm hai tay đầm máu
người lương thiện, nhà độc tài đỏ...
Những gì Đại hội 20 được biết đã vượt rất xa những sự lên án lâu nay của phương
Tây, vẫn được coi là trò vu cáo rẻ tiền của chủ nghĩa đế quốc. Hình ảnh Đại
Nguyên Soái Stalin vĩ đại, uy nghi lẫm liệt trong biết bao gia đình Việt nam,
như co rúm lại! (Nhưng xin nhớ là hình Stalin lồng trong khung kính ở phòng họp
lớn Ban Chạp hành Trung ương đảng, ở Mặt Trận Tổ Quốc, ở các cơ quan công cộng
vẫn còn nguyên cho đến 1964, 1965... vì "đảng ta" vẫn giữ lập trường
vững vàng: công lao Stalin là chính, thiếu sót chỉ là thứ yếu?) Chính cơn động
đất về tư thế phẩm chất của lãnh tụ thế giới Stalin đã làm rung rinh bức tượng
lớn còn sống Mao Trạch Đông. Mao tuy có đố kỵ với Stalin nhưng cũng lại là người
ca tụng Stalin hết cỡ, coi là "người thầy của cách mạng phương Đông, của
các dân tộc bị áp bức".
Bệnh sùng bái cá nhân lãnh tụ được đưa ra mổ xẻ trong tất cả các đảng cộng sản.
Bài học của Liên xô nhắn nhủ với các nước đàn em khác, hãy coi chừng, tệ sùng
bái cá nhân là tai hại, tội lỗi đến nhường nào! Mà Mao lại là người đang được
sùng bái nhất ở phương Đông. Tượng Mao ở khắp Trung Quốc. Tác phẩm Mao tràn ngập,
ảnh Mao được in với số lượng lớn nhất thế giới, cổ kim, đông tây...
Chính thời tiết chính trị ấy đã đóng vai trò khá là quyết định đến việc Đảng cộng
sản Việt nam "dũng cảm" công nhận sai lầm. Sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt nam luôn trì trệ, bảo thủ, đi sau người khác, thường lạc hậu vài năm đến
vài chục năm so với thế giới. Điều này luôn được "tô vẽ , thành ra đức
tính "vững vàng" và "khiêm tốn"? Lạc hậu một cách khiêm tốn!
Quả bom của Đại hội 20 đã rung động tới Châu á và buộc Đảng cộng sản Việt nam
phải công nhận sai lầm của mình và phải sửa sai. Nếu không có quả bom về Stalin
thì rất có thể sai lầm cải cách ruộng đất đã bị ỉm đi, hoặc giải quyết theo một
cách khác, theo kiểu Stalin, tìm ra "những tên tội phạm mới, kẻ thù của
nhân dân" để trừng trị, trút lên đầu họ tất cả tội lỗi và sự cảm thù của
nhân dân. "Kẻ thù luôn ở quanh ta. Càng đấu tranh thì kẻ thù xuất hiện
càng nhiều." Staline vĩ đại từng dạy thế.
Một điều khá lý thú khác là nghiên cứu thái độ của những người lãnh đạo Đảng cộng
sản Việt nam đối với cải cách ruộng đất. Công bằng mà nói, ông Hồ Chí Minh chẳng
mặn mà gì đối với cải cách ruộng đất. Ông có cách nghĩ riêng. Vốn có nhiều kinh
nghiệm hơn, hiểu biết rộng hơn các người khác trong cơ quan lãnh đạo nên ông
thường chủ trương "lạt mềm buộc chặt". Ông là con người của những
sách lược mềm dẻo, mềm đến độ không ngờ. Để cho quân Pháp vào Miền Bắc Việt nam
qua Hiệp định Sơ bộ mồng 6 tháng 3 nam 1946; mời ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tường Tam tham gia chính quyền; xã giao lịch thiệp với các tướng
Tàu Lư Hán, Long Vân... Cho đến cả ý đồ ngay sau Cách mạng tháng 8 giữ ông Bảo
Đại lại làm Quốc Trưởng, ông Hồ Chí Minh làm Thủ Tướng (ý đồ này bị hỏng vì ông
Trần Huy Liệu cùng ông Nguyễn Lượng Bằng trót nhảy vội vào Huế tước ấn kiếm của
Bảo Đại mà không xin ý kiến ông Hồ đang còn trên Việt Bắc những ngày cuối tháng
8 ấy)... đều là những chủ trương cực mềm nhằm buộc chặt. Ông nhìn xa hơn, sâu
hơn, rộng hơn những người quanh ông. Ông thâm hơn.
Vê cải cách ruộng đất ông cho rộng chưa, cần phải tập trung cho cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp đã. Cùng lắm là làm giảm tô, giảm tức thôi. Làm êm ả, nhẹ
nhàng mà vẫn đạt mục đích là tranh thủ được nông dân nghèo khổ. Ông cũng nghĩ rằng
tình hình xã hội Việt Nam khác Liên xô Trung Quốc. Ông từng biết cung cách của
Cải cách thổ địa ở vùng Thiểm Cam Ninh, Diên An bên Trung Quốc hồi trước. ở Việt
nam, ít địa chủ lớn, nhiều địa chủ kháng chiến. Đã có lần ông thổ lộ với một số
nhân sĩ: tôi nghĩ rằng khi kháng chiến thắng lợi, trong không khí vui mừng của
cả nước thì địa chủ Việt nam sẽ vui lòng hiến ruộng. Chính phủ sẽ chia và cấp lại
ruộng. Khôn khéo nhẹ nhàng mà đạt mục đích, lạt mềm mà buộc chặt! Khôn thế?
Thế nhưng ông Hồ không có toàn quyền quyết định. Có một thế lực cao hơn ông!
Ông Mao, sau khi Cách Mạng Trung Hoa thành công, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa được thành lập ngày 1- 1- 1949, trở thành lãnh tụ chính thức của nhà nước
to lớn nhất thế giới và Châu á, thì nghiễm nhiên là lãnh tụ của phong trào cộng
sản á Châu. Đầu năm 1950, chính phủ Trung Quốc công nhận nước Việt nam Dân Chủ
Cộng Hòa. Đại sứ La Quý Ba trình quốc thư ở một địa điểm trên Việt Bắc. Cố vấn,
chuyên gia Trung quốc ồ ạt nhập Việt, ông Mao nắm được tình hình. Ông liền
khuyên dụ ông Hồ phải tiến hành Cải cách ruộng đất. Bởi vì trong thế giới cộng
sản, quan hệ anh em là quan hệ chỉ huy, lãnh đạo. Lời khuyên, gợi ý bao giờ
cũng dược hiểu ngầm là lệnh, mệnh lệnh. Ông Hồ cố trì hoãn, lần lữa việc này,
và chỉ thị cho bộ máy tuyên truyền hồi ấy nêu bật thành tích của giảm tô cho cụ
Mao yên lòng. Ông nghĩ vậy.
CUỘC XUẤT HÀNH BÍ MẬT
Đầu năm
1950, trước khi biên giới phía Bắc mở rộng, các binh đoàn Le Page và Charton bị
tiêu diệt trên đường số 4 từ Cao Bằng về Lạng Sơn, ông Hồ lên đường đi Moscou.
Một chuyến đi bí mật, đi nhanh, về nhanh, ở lại Moscou có vài ngày. Va ông gặp
Stalin. Khi đi qua Bắc Kinh, ông Ngũ Tu Quyền và cả ông Mao cũng lên xe lửa đi
cùng một chuyến sang Moscou. Do đó hồi ký công khai của Ngũ Tu Quyền cũng như của
Khrushchev đều có nói đến cuộc du hành của ông Hồ sang Liên xô và nói đến cuộc
gặp gỡ giữa Staline và ông Hồ.
Stalin không lạ gì ông Hồ, Nguyễn ái Quốc hồi ở các cơ quan của Đệ Tam Quốc Tế.
Mối quan hệ giữa hai người chẳng êm đẹp gì. Cả một thời gian dài, Stalin coi
Nguyễn ái Quốc là một cán bộ không có lập trường vô sản vững vàng, có vẻ coi nặng
vấn đề dân tộc hơn là vấn đề giai cấp. Từ năm 1931 đến 1940, hồi ký của ông Hồ
lờ tịt về thời kỳ này. Ông ở đâu và làm gì trong 10 năm ấy? Có những biểu hiện
cho thấy Stalin và cơ quan lãnh đạo đệ tam quốc tế hồi đó tin cậy Trần Phú, Lê
Hồng Phong, Hà Huy Tập hơn là Nguyễn ái Quốc. Cái khẩu hiệu đả trí phú địa hào,
đào tận gốc, trốc tận rễ của Hà Huy Tập, xem ra hợp khẩu vị Stalin... Có tin
nói rằng Nguyễn ái Quốc còn "được" cữ đi học tập (lớp học cải tạo?) ở
Trường Đào Tạo Cán Bộ của Đông Phương Bộ, với danh hiệu học sinh trung cấp!
Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn hồi ấy là "giáo sư đỏ" ở Moscou có lúc kể rằng:
"Bác rất khiêm tốn, xuống học lớp dưới, chan hòa với các sinh viên các nước
thuộc địa khác ở Châu á để tìm hiểu tình hình..." chính là nói khéo đến thời
kỳ Nguyễn ái Quốc bị thất sủng này.
Có lần Trần Phú gửi thư báo cáo cho Ban Lãnh Đạo Đệ Tam, ghi rõ: xin đưa thẳng
cho Quốc Tế Ba, không qua bất cứ một người trug gian nào, chính là để chẳng qua
tay Nguyễn ái Quốc, người không cùng chính kiến về chiến lược cách mạng Việt
nam với Trần Phú. Cũng có lúc Trần Phú và Hà Huy Tập có chân trong Ban Chấp
Hành Đệ Tam Quốc Tế, mà Nguyễn ái Quốc thì không. Một cán bộ công tác ở Bảo
Tàng Cách Mạng Việt nam nằm bên Nhà Hát Lớn Hà nội, trông ra bờ sông Hồng, kể rằng
hồi cuối 1959 khi chuẩn bị khai mạc Bảo Tàng, ông Hồ có đến xem để duyệt nội
dung thuyết minh; khi thấy ảnh Hà Huy Tập treo cạnh ảnh Trần Phú, ông mỉm cười
thốt ra với số cán bộ đi cùng: "Chú này đây hồi trước chú ấy phê bình bác
dữ lắm đó! Rồi như sực nhớ ra đó là chuyện cũ cần giữ kín, ông vội đi sang
phòng khác... Một tài liệu của Quốc Tế cộng sản gần đây được khui ra ở Moscou
cho biết: Nguyễn Quốc còn bị đưa ra trước hội đồng kỷ luật của Quốc Tế và một ủy
viên của hội đồng là Khang Sinh, một Béri của Đảng cộng sản Trung quốc, phụ
trách an ninh!
Phải chăng sự hoài nghi dai dẳng của Stalin đối với Nguyễn ái Quốc là lý do để
Stalin chần chừ, chậm công nhận nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa thành lập từ 2-
9- 1945, để đến tận năm 1950, gần 5 năm sau, chính phủ Liên xô mới chính thức
công nhận, sau Trung Quốc vài tuần lễ.
Theo kể, Stalin trong cuộc gặp riêng ông Hồ Chí Minh trong điện Kremlin đã nhặn
ngay ra ở ông già phương Đông gần 60 tuổi này anh thanh niên Nguyễn ái Quốc hơn
20 năm trước. Ông đi thẳng vào vấn đề, chất vấn ông Hồ hai điểm: vì sao giải
tán Đảng cộng sản Đông Dương? vì sao chưa tiến hành Cải cách ruộng đất? ông Hồ
đã trình bày với Stalin là việc giải tán Đảng cộng sản cuối năm 1945 chỉ là giải
tán giả, trên thực tế là đảng lùi vào bí mật, với một bộ mặt giả, công khai là
Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác. Hai là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rất
gay gắt nên cải cách ruộng đất phải chậm lại và đã làm cuộc vận động giảm tô,
giảm tức. Stalin nghe, và, với bản chất thô bạo vốn có, chắc chắn đã cao giọng
ra chỉ thị, phải sớm đưa đảng cộng sản ra công khai mà hoạt động, lúc này không
còn là lúc người cộng sản phải giấu mình trong bóng tối; chính kháng chiến gay
gắt lại cần làm cải cách ruộng đất để huy động tinh thần và lực lượng vật chất
của nông dân vào cuộc chiến đấu, cần nhớ đấu tranh giai cấp và liên minh công
nông, là hai nguyên lý cơ bản của cách mạng vô sản... Ông Hồ trở về.
Thế là Đảng cộng sản Việt nam mở Đại hội đảng cần thứ hai vào tháng 12- 1951 ở
Việt Bắc, đảng ra công khai với tên Đảng Lao Động Việt nam, cùng lúc với việc lập
nên Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào và Đảng Nhân Dân Cách Mạng Cam Bốt. .
Theo cuốn hồi ký của Nikita Khrouchtchev bản tiếng Pháp: Mémoires inédits đo
Pierre Girard dịch từ tiếng Anh, xuất bản năm 1991, thì trong chuyến ông Hồ
sang Moscow, Staline đã tỏ ra rất trịch thượng. Khrouchtchev viết: "Tôi nhớ
lại khi Hồ Chí Minh đến Moscow xin viện trợ về vật chất vũ khí cho những người
Việt nam đang chiến đấu chống sự chiếm đóng của Pháp, Staline đã không cho người
Việt nam một cơ hội nào cả. Staline đối xử với Hồ Chí Minh như một sự phỉ báng.
Trong một cuộc gặp, ông Hồ rút từ trong cặp ra cuốn họa báo LURSS en
construction (Liên xô trong công cuộc xây dựng) và xin chữ ký. Staline xử sự
theo cách luôn hoài nghi và kiểu bệnh hoạn của ông ta, nhìn thấy đâu cũng là những
kẻ phản bội và do thám. Ông ta liền ký lên tờ báo nhưng ra lệnh cho công an mật
thu hồi lại một cách bí mật? Sau đó Staline còn khôi hài với tôi: ông ta chắc vẫn
còn ra sức tìm kiếm tờ báo ấy, nhưng chỉ phí công!
"Trong các cuộc gặp ông Hồ, việc Liên xô công nhận nước Việt nam Dân Chủ Cộng
Hòa đã được quyết định. Thế nhưng sau đó Staline cứ tiếc mãi: "Chúng ta đã
quá vội vàng trong việc ấy!
Vẫn chưa hết chuyện, Khrouchtchev còn kể tiếp: "Ông Hồ rất muốn cuộc đi
thăm được công bố chính thức và ông ta được đón tiếp với tư cách là Chủ Tịch nước
Việt nam. Staline đã bác bỏ yêu cầu ấy:
- - Chúng ta đã bỏ mất thời cơ ấy rồi; đồng chí đã đến một cách lặng lẽ
(incognito) nên không thể công khai được nữa.
Ông Hồ vẫn đề nghị Staline cho một chiếc máy bay và chuẩn bị một bài diễn văn
đón tiếp. Staline cười khi kể lại:
- Đó, ông ta muốn cả những chuyện ấy, nhưng tôi đã đáp lại là Không!...
Đó, tinh thần quốc tế vô sản của Staline là như thế!... Còn cải cách ruộng đất?
Cần thấy rõ ông Hồ vẫn cố trì hoãn cải cách ruộng đất sau khi ở Moscou về. Cuộc
kháng chiến rất khẩn trương, quyết liệt. Stalin ở xa... Tất cả cho chiến thắng.
Chiến thắng sẽ làm rõ tất cả, sẽ biện minh cho chính kiến ông. Tôi có gặp một số
bạn ở nước ngoài đặt vấn đề rằng: chính ông Hồ đã chủ trương tiến hành cải cách
ruộng đất, cố tình phạm sai lầm trong cải cách (những sai lầm có tính toán),
phá nát hết đình chùa miếu mạo, diệt hết các phong tục tập quán ở nông thôn, đảo
lộn hết mọi quan hệ xã hội trong xóm làng, gia đình... nhằm xây dựng một hệ thống
quan hệ hoàn toàn mới: chỉ có chi bộ đảng, các đoàn thể của đảng, mọi người dân
buộc phải dựa vào đảng và tuân theo chỉ thị của đảng trong nhận thức, lao động
cũng như tình cảm... Họ cho rằng sửa sai cũng chỉ là bùa phép xoa dịu khi ý đồ
đã đạt được rồi! Tôi đã cố nhớ lại và suy nghĩ, và tôi cho rằng không phải vậy
Không nên phỏng đoán, suy luận và gán ghép. Cần thật tỉnh táo và công bằng.
Theo tôi, ông Hồ không mặn mà lắm với cải cách ruộng đất. Trong việc này, ông bị
sức ép của Mao, của Stalin. Ông có những tính toán riêng của mình. Thật ra
trách nhiệm trực tiếp về cải cách ruộng đất là ở những người khác, tuy rằng ông
là Chủ tịch nước và Chủ tịch đảng lúc ấy, ông phải chịu phần trách nhiệm rất lớn.
Hồi ấy ông vẫn muốn để chậm lại công cuộc cải cách ruộng lất kháng chiến thắng
lợi rồi sẽ hay...
Thế nhưng...
BÀI TOÁN CỦA
"ANH NHÂN"
Hồi ấy, ở
Việt Bắc, các thế chính trị của "anh Nhân", tức ông Trường Chinh, còn
khá là khiêm tốn. Vai trò của Đảng còn chưa sâu, chưa rộng. Trên báo Nhân Dân,
trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt nam, rất hiếm hoi khi người ta nghe đến Trường
Chinh, Chủ tịch Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, tên công khai của đảng khi đảng
đã vào hoạt động bí mật từ cuối năm 1946. Vai trò của chính phủ kháng chiến là
sâu và rộng. Tổ chức của chính phủ rất gọn, nhẹ. Các Bộ trưởng, Thứ trưởng phần
lớn là các chuyên gia, trí thức, trong đó số còn ở ngoài đảng, có thực quyền
không phải là ít. Đó là các ông Phan Anh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Nghiêm
Xuân Yêm, Tạ Quang Bửu, Trịnh Văn Bính, Lê Đình Thám, Hoàng Minh Giám, Trần Duy
Hưng, Phan Kế Toại, Lê Văn Hiến, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất
Tùng, Trần Hữu Tước, Trần Công Tường, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di...
(Ông Bùi Tín cũng sai nốt: Trần Công Tường là đảng viên cộng sản. trong phái
đoàn đảng Nam Bộ ra Miền Bắc (trong số đó có cả Bảy Trấn), còn ông Phan Anh là
đảng viên chính hiệu được đảng phân công chim mồi không đảng phái)
Sự phân biệt giữa đảng viên với người ngoài đảng còn rất nhẹ nhàng. Trên đây chỉ
có ông Lê Văn Hiến, Trần Đại Nghĩa được dư luận biết là đảng viên, nhưng được
chọn dùng như là trí thức, chuyên gia.
Lúc ấy ở miền Nam cũng theo tinh thần giống như ở miền Bắc. Chính quyền mới ở
Nam Bộ được tuyển chọn trong những trí thức yêu nước khá xuất sắc. Đó là ông Phạm
Văn Bạch, Chủ tịch ủy ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ, từng đậu tiến sĩ luật
học và cử nhân văn khoa ở Pháp về; bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tốt nghiệp y khoa
Paris; giáo sư toán học Phạm Thiều; giáo sư văn học Ca Văn Thỉnh; giáo sư vật
lý Đặng Minh Trứ được đào tạo ở Pháp; kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát; nhà luật học
Trần Công Tường; kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhật và kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích tốt nghiệp
trường bách khoa Paris; kỹ sư công nghiệp Kha Vạng Cân; nhà luật học Phạm Ngọc
Thuần (anh ruột của đại tá Phạm Ngọc Thảo); luật sư Thái Văn Lung... Ông Phan
Văn Chương, đốc phủ sứ Sài Gòn nổi tiếng về am hiểu luật pháp và thanh liêm
cũng tham gia chánh quyền mới. Trần Văn Giàu, một trí thức từng học và hoạt động
ở Pháp, cũng từng là bạn học của Maurice Thorez (Pháp) và Broj Ti- to (Nam Tư) ở
trường đào tạo cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế ở Moscou, bị coi là "Việt Minh mới"
và bị cánh "Việt Minh cũ của đảng cộng sản Đông Dương dèm pha và hạ thấp
do tư tưởng bè phái và thành kiến. Họ chê trách Trần Văn Giàu đủ thứ: từ thành
phần xuất thân địa chủ, không quan tâm đến số cán bộ cộng sản bị tù ở Côn Đảo để
đưa về đất liền sớm, quá thân thiết với tướng Nguyễn Bình (nguyên là đảng viên
Quốc Dân Đảng chuyển sang Đảng cộng sản Đông Dương). Ông Giàu còn bị lên án là
có xu hướng thân Nhật khi chủ trương lập Thanh yên Tấn Phong (do ông Phạm Ngọc
Thạch làm thủ lãnh chung và luật sư Thái Văn Lung là thủ lãnh ở Sài gòn- Gia Định).
Ông không bị tù, từ nước ngoài về nên lẽ tất nhiên là bị những người cộng sản
chuyên nghiệp ở trong nước dè chừng và không tín nhiệm...
Khi Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc Nam tiến với thế chẻ tre, hai nước cộng
sản sắp lập được thế liên hoàn một giải, ai nấy đều phấn khởi. Người phấn chấn
hơn cả, chắc hẳn là "anh Nhân". Ai đã tiếp thu tư tưởng Mao sớm nhất,
sâu nhất, rõ ràng nhất? Ai cũng biết ông Trường Chinh, mang bí danh "anh
Nhân" hoặc anh "Thận" là người đọc kỹ Trì Cửu Chiến, Tân Dân Chủ
Luận, hai tác phẩm vào loại kinh điển chủ nghĩa Mao, và viết ra cuốn Kháng Chiến
Nhất Định Thắng Lợi và Bàn về Dân Chủ Mới... Việt hóa cả nội dung và hình thức
tư tưởng của Mao. Việc cóp- pi này quá là lộ liễu. Cứ theo y như Tàu, chia cuộc
kháng chiến ra làm 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Về sau,
không thể định rõ nổi là, ở Việt Nam, giai đoạn cầm cự bắt đầu từ bao giờ và từ
thời gian nào thì sang giai đoạn tổng phản công? Cũng cần chỉ rõ cái tên Trường
Chinh tất đã làm cho ông Mao và cận thần của ông ta gật gù khoái chí, vì cuộc vạn
lý Trường Chinh là đặc sản Trung Hoa, là kỳ công của Đảng cộng sản Trung Quốc
rút lui từ vùng Trung Nguyên lên phía Tây Bắc để bảo toàn lực lượng. Tổng bí
thư Đảng cộng sản Đông Dương mang tên rất là "cộng sản Trung Quốc",
còn gì hơn nữa!
Cùng phấn chấn đặc biệt với ông Trường Chinh để đón chào "đảng cộng sản
Trung Quốc vĩ đại" là các ông Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí
Thanh, Tố Hữu... những cán bộ đảng chuyên nghiệp kỳ cựu, trưởng thành từ các
nhà tù đế quốc, không được học tập văn hóa có hệ thống, không có một nghề
chuyên môn nào ngoài cái nghề làm cách mạng. Cùng loại với số người trên là ông
Lê Thanh Nghị ở Liên khu Ba, ông Hoàng Văn Hoan ở Liên khu Bốn, ông Nguyễn Duy
Trinh ở Liên khu Nam, ông Lê Đức Thọ ở Nam bộ, ông Trần Quốc Hoàn ở vùng quanh
thủ đô Hà nội, ông Đỗ Mười ở vùng đường số 5, ông Phạm Hùng ở Nam Bộ. Họ là những
đại diện cho Trung ương ở các địa phương, làm công tác đảng chuyên nghiệp,
không có nghề chuyên môn, cũng chỉ có nghề duy nhất là làm chính trị. Họ nhìn
những người trí thức thật bằng những con mắt định kiến cố hữu của những người
cách mạng vô sản chuyên nghiệp, nghĩa là theo con mắt của Mao. Trí thức đồng
nghĩa với lập trường tiểu tư sản hoặc tư sản, đồng nghĩa với không vững vàng,
hay giao động, họ luôn phải cải tạo, rèn luyện theo gương sáng của người cộng sản,
nếu không, hiểu biết của họ không có giá trị bằng - xin lỗi các bạn, đây chính
là chữ của Mao - cục phân? Vì phân còn có thể có ích bón ruộng, chứ trí thức dở
hơi của các người thì chỉ có hại.
Do định kiến với giới trí thức, họ định kiến luôn đối với cả tri thức của nhân
loại, khinh thị tri thức khoa học tự nhiên, tri thức kỹ thuật. Cái gốc của căn
bệnh chủ quan, duy ý chí, coi chính trị là thống soái, chính trị quyết định tất
cả, cứ đảng muốn làm mọi chuyện đều thành... bắt nguồn từ thái độ cơ bản ấy của
những người hoạt động cách mạng vô sản chuyên nghiệp vốn không có học vấn có hệ
thống.
Ông Nguyễn Khắc Viện có lần than vãn và nhận định: nền chuyên chính vô sản
không đáng sợ bằng nền chuyên chính.. vô học, của những người vô học, khinh thường
trí thức. Cũng cần nói thêm chính do không có học vấn thật sự nên họ áp dụng
chuyên chính vô sản một cách máy móc và tác hại, đến độ Mác và Engels có sống lại
cũng chỉ còn biết kêu trời một cách kinh hoàng? Có thể nói nhóm người sùng bái
Mao Trạch Đông, làm cách mạng vô sản chuyên nghiệp đã tận lực vươn dậy
"giành chính quyền" theo kiểu cách của họ, thông qua cuộc cải cách ruộng
đất "long trời lở đất" và nhất là thông qua cuộc chỉnh đốn tổ chức tiếp
theo đó. Họ có thế mạnh của cách mạng Trung Quốc đang toàn thắng, của đội ngũ cốvấn
trung Quốc ào ạt xông sang, được họ sùng bái như những phái viên đặc biệt của
Mao chủ tịch. Họ sớm nhận ra thời cơ thuận lợi. Sự chần chừ, không mặn mà của
ông Hồ Chí Minh đối với cải cách ruộng đất không cản bước được họ. Họ thắng thế
khi ở Đại Hội Đảng lần thứ 2, họ đưa được tư tưởng Mao vào điều lệ của Đảng,
chính thức hóa, hợp pháp hóa lập trường của họ. Họ thực hiện một kiểu mi- ni
"tạo phản" theo lời dạy của Mao, người mà họ bắt đầu coi cao hơn ông
Hồ, có thế lực mạnh hơn ông Hồ, vì chính ông Hồ cũng ngợi ca hết lời Mao. ở Đại
hội đảng lần thứ 2, họ còn giành được thắng lợi lớn về tổ chức: Trung ương đảng
và Bộ chính trị được bầu ở đại hội gồm phần lớn những nhà hoạt động cách mạng
vô sản chuyên nghiệp, những đồ đệ trung thành tự nguyện của ông Mao.
Một bước ngoặt diễn ra mà ít ai nhận thấy rõ. Mao từng nói giành chính quyền là
điều cơ bản nhất. Giai cấp nào, đảng nào, cho đến phe phái nào giành được chính
quyền thì giai cấp ấy, đảng phái ấy, phe phái ấy sẽ có tất cả: quyền lực, quyền
uy, chi phối tương lai, nắm hưởng đặc quyền, đặc lợi. ý đồ sâu xa của "anh
Nhân" và những nhà cách mạng vô sản chuyên nghiệp được thực hiện: Các nhà
trí thức kỹ thuật tham gia chính quyền, trong chính phủ kháng chiến và trong bộ
máy từ trên xuống dưới bị thải loại dần, bị vô hiệu hóa, bị hạ xuống vai trò tượng
trưng và trang trí. Những thực quyền họ từng sử đụng tuột dần khỏi họ. Các cuộc
chỉnh huấn trong Cải cách ruộng đất đã bôi nhọ mặt mũi họ, xỉ vả, miệt thị họ,
làm chính họ cũng mất hết tự tin, bị mặc cảm nặng nề về tội lỗi là đã do nền
giáo dục đế quốc nhồi sọ... nhường chỗ cho những cán bộ xuất thân từ công nông,
với đường lối tổ chức lấy công nông làm cốt cán. Bị thải loại khỏi quyền lực, họ
rời chính quyền để nhận việc ở Đảng Dân Chủ, ở Đảng Xã Hội, hai đảng được
"nói" là bình đẳng với Đảng Lao Động Việt nam trong Mặt Trận Tổ Quốc
Việt nam, nhưng trên thực tế chỉ là một tổ chức quần chúng loại hai của đảng. Nếu
họ còn ở một vị trí chính quyền nào đó, dù là Bộ trưởng thì thực quyền cũng tuột
khỏi tay họ, họ phải "hỏi"- thực tế là "xin" ý kiến của một
vị Thứ trưởng là ủy viên trung ương đảng, là Bí thư đảng đoàn hoặc Bí thư đảng ủy,
từ những chủ trương lớn cho đến những việc nhỏ nhất? Tình hình sau Cải cách ruộng
đất là thế. Điều tệ hại này chưa bao giờ được công nhận là sai lầm để sửa chữa.
Bi kịch, nỗi đau của các ông Hoàng Minh Giám Bộ trưởng Văn hóa, Nghiêm Xuân Yêm
Bộ trưởng Nông nghiệp, Nguyễn Vãn Huyên Bộ trưởng Giáo đục, Đặng Phúc Thông Bộ
trưởng Giao Thông, Vũ Đình Tụng Bộ trưởng Y tế, Trần Đăng Khoa Bộ trưởng Thủy lợi,
Phan Anh Bộ trưởng Ngoại thương, Tạ Quang Bửu Bộ trưởng Đại học, Phan Kế Toại Bộ
trưởng Nội vụ không phải là bi kịch cá nhân. Không! Nó lớn hơn nhiều. Đó là bi
kịch của cả một chế độ, một đất nước mất hết cái hồn dân tộc của chính mình; một
đất nước buộc phải đặt cược tương lai ở những con người Tây, Tàu nào đó, các cụ
râu ria nào đó, từ Mác, Engels đến Stalin, Mao Trạch Đông, trong tay những nhà
cách mạng chuyên nghiệp miệt thị trí thức, thành quả trí tuệ của loài người.
Không có ánh sáng quý báu nhất ấy, đất nước vẫn hành quân hoài trong tăm tối...
và nhân dân thân yêu của chúng ta phải trả giá, phải hứng chịu tất cả.
Có thể nói đất nước một thời gian dài vừa qua nổi lên là anh hùng trong cuộc
chiến tranh giành độc lập, mặt khác lại bị nghiền nát bởi một nền chuyên chính
vô sản theo kiểu Stalin và Mao Trạch Đông, một nền chuyên chính nếu không phải
là "vô học" như ông Nguyễn Khắc Viện đặt ra một cách hóm hỉnh thì
cũng là một nền chuyên chính rất thiếu học thức và văn hóa, một chính quyền mà
những nhà trí thức chân chính- tài giỏi chẳng kém gì đồng nghiệp ở các nước
láng giềng- chỉ ở vị trí chầu rìa, những kẻ sỹ lỡ làng, ôm hận cho mình, cho giới
mình và cho đất nước bất hạnh của mình.
NHỮNG TAY PHÁ PHÁCH
Trong Hoa
Xuyên Tuyết, tôi đã cho rằng công cuộc sửa sai trong Cải cách ruộng đất còn hời
hợt, không rút kinh nghiệm đến nơi đến chốn. Bởi vì nếu sớm phát hiện sai lầm
và rút kinh nghiệm một cách thật sâu sắc thì chủ nghĩa Mao đã được phê phán quyết
liệt, bản chất nông dân thiếu học đã được phơi trần. Thực tế đã không làm được
như thế. Không ai dám đụng đến chủ nghĩa Mao, đến học thuyết đấu tranh giai cấp
cực đoan, đến những biện pháp kỳ quặc: tố khổ, phản tỉnh, kiểm thảo... Ngược lại,
khi những người cách mạng vô sản chuyên nghiệp "tạo phản" giành thêm
được nhiều vị trí then chốt trong chính quyền, loại bỏ cả một lớp trí thức dân
tộc yêu nước và có chuyên môn khá giỏi, thì ảnh hưởng của Mao lại tăng thêm. Cuộc
dẹp bỏ thô bạo vụ Nhân Vàn Giai Phẩm diễn ra, và cuộc cải tạo Công thương nghiệp,
loại bỏ giai cấp tư sản dân tộc được thực hiện. Đây vẫn là theo kinh nghiệm của
công cuộc cải tạo ở Thượng Hải, Thiên Tân, Bắc Kinh... vẫn là theo sự
"giúp đỡ" của các "đồng chí phái viên đặc biệt của Mao chủ tịch"
về cải tạo công thương nghiệp, của các đồng chí cố vấn, những "đồng chí
Vương", "đồng chí Lưu... có nhiều kinh nghiệm nóng hổi về tận diệt nền
sản xuất tư doanh. Điều may mắn nếu có chăng, là sau sai lầm cải cách ruộng đất,
những hiện tượng diễn ra ở các thành phố đông đúc ở Trung Quốc như: trói tay
các nhà tư sản giàu có nhất giải đi giữa đường phố đầu đội mũ lừa, bắt các nhà
tư sản đi lao động khổ sai, bắn bỏ một vài nhà tư sản mang bảng hiệu cấu kết với
bọn đế quốc... đã không tái diễn ở Việt nam. Số nhà tư sản "tự nguyện"
hiến kho hàng, cửa hiệu, xí nghiệp, "tự nguyện" mang của chìm, của nổi
"vui vẻ hiến dâng chính phủ và nhân dân chiếm số đông. Trên báo chí và
trong các buổi nói chuyện, những quan niệm về lao động và bóc lột, về thợ và chủ,
về công bằng và bất công xã hội được làm rõ, với khẩu hiệu trung tâm của Marx-
Engel: những kẻ lược đoạt phải bị tước đoạt. Các cuộc phân định thành phần giại
cấp diễn ra khá căng thẳng: ai là tư sản mại bản, tư sản phản động, tư sản kiêm
địa chủ? Ai là tư sản thường? Ai là tư sản tiến bộ, tư sản dân tộc, tư sản yêu
nước? Các cuộc tố khổ, tính sổ bóc lột của tư sản, kể lể những thủ đoạn bóc lột,
hà hiếp lao động, buôn gian bán lận, cân đo gian dối, buôn lậu, đầu óc tích trứ,
tham tiền bất nhân, cá lớn nuốt cá bé, ăn chơi phè phỡn, sống sa đọa hưởng lạc...
được phơi bày, thống kê, tính sổ. Trong đấu tranh đầy khí thế ở các thành thị,
nhiều chuyện vô lý mà có thật diễn ra... Những hóa đơn, giấy tờ kinh doanh,
quan hệ với các hãng, công ty ở Pháp, Hồng Ông... bị coi là tài liệu liên hệ với
giai cáp tư sản đế quốc, cấu kết với bọn phản động quốc tế! Những bức ảnh riêng
của gia đinh được ra triển lãm: vợ chồng hoặc người yêu khoác vai nhau trên bờ
biển Đồ Sơn trong các bộ áo tẩm, cảnh cưới xin, đón đâu, ăn tiệc mừng thì bị chỉ
trích là nếp sống bê tha, sa đọa, dửng mỡ của bọn tư sản, nếp sống đồi trụy của
những gia đình bóc lột; những tác phẩm của Lamartine, Beaudelaire, và cả của
Victor Hu go, tự điển Pháp... ở nhà riêng bị chụp cho là sùng bái văn hóa xấu
xa của đế quốc; một số ông bà chủ sống giản dị, không hút thuốc, uống rượu, gần
lao động thì bị kết luận ngay là giả dối, đóng kịch để lấy lòng thợ nhằm bóc lột
nhiều hơn... Lập trường giai cấp là phải nhìn thấy tận đáy tâm can của bọn bóc
lột, chúng không có một điều gì là tốt hết, sự thâm hiểm của chúng là không có
giới hạn, không thể mơ hồ được? Sự nhận xét và phân loại về thái độ chính thị của
từng người tư sản do các đoàn cán bộ cải tạo thực hiện theo các mức: thông suốt
với chính sách của chính phủ và của đảng (loại A); chấp hành chính sách (loại
B); không thông suốt chính sách, có phản ứng giai cấp (loại C). ở mỗi loại lại
xác định mức độ hơn kém, so sánh với nhau.
Một bà tư sản bán vải ở phố Hàng Đào ít lâu sau kể chuyện với bè bạn để cười đến
chảy nước mắt. Chính sách của đảng dẫn đến chỗ các nhà tư sản phải đóng kịch.
Có ông suốt đêm không ngủ, không phải vì tiếc của, mà chỉ sợ dọn cái bị liên lụy
Vậy mà tỉnh dậy, soi gương là phải tập "cười"- vì các cán bộ cải tạo
cũng lại rất ít học nên hay xem tướng! Anh buồn thiu sẽ bị quy kết là ngấm ngầm
"có ý thức phản ứng giai cấp", và con cái sẽ không được đi học tiếp,
không được vào đại học, cho nên ông cười luôn miệng và cũng vâng dạ luôn miệng...
Và cái cười của ông biến mất sau khi cải tạo hoàn thành, nhưng cái kiểu vâng dạ
còn tồn tại mãi về sau? Và nhà thơ Quang Dũng bị "nện" đúng vào thời
điểm này.
Có thể nói chỉ vì một câu thơ! Anh bộ đội trẻ, khỏe, yêu đời, tinh nghịch nữa,
tôi quen từ hồi ở Liên khu 3 cuối năm 1949 ấy có đôi ria mép thật đáng yêu. Những
bài thơ Tây Tiến, Chiều Sơn Tây của anh bọn tiểu tư sản tạch tạch xè chúng tôi
luôn thuộc lòng, ngâm nga khi ngủ đêm trong rừng. Trong không khí đấu tranh
giai cấp căng thẳng cải tạo tư sản ấy, trong một cuộc họp, nhà thơ Tố Hữu trùm
tư tưởng văn hóa nhận xét: thơ Quang Dũng mang bản chất tiểu tư sản? Còn thêm
chất tư sản nữa "Đêm mơ Hà nội dáng Kiều thơm" là cái gì? Mơ về bọn
tiểu thư con cái tư sản! Không lành mạnh! Có thể ông Tố Hữu không có ác ý với
Quang Dũng nhưng lời lãnh dạo là thuôn vàng thước ngọc. Cán bộ Tuyên huấn vội
vã phổ biến rộng rãi, thêm thắt chút mắm muối và thế là Quang Dũng bỗng được
"đề bạt" vào hàng ngũ Nhân Văn Giai Phẩm, nguy hiểm, bạn bè thưa thớt...
để rồi về sau chết trong đói nghèo và ôm cả mối hận xuống suối vàng. Sau đó nhà
vãn Nguyễn Tuân cũng bị các ông trùm văn hóa chụp cho cái mũ tư sản to tướng chỉ
vì một bài khá hay về Phở! Đấu tranh giai cấp hửng hực khí thế lại không viết,
đi viết về phở! Đó là tinh thần hưởng thụ, nhấp nháp rung đùi của bọn án bám,
bóc lột, bọn tư sản. Đó là chủ nghĩa cảm giác (lắm chủ nghĩa thế!) trong văn học!
Cả một thời gian dài, Nguyễn Tuân nằm nhà vì bè bạn khi gặp thường xa lánh,
không vồn vã bắt tay. Nỗi sợ "liên quan" với một nhà văn "có vấn
đề chính trị"?
Một nhân vật xuất hiện trong cải tạo giai cấp tư sản khá nổi ngay từ cuối năm
1956 là ông Đỗ Mười. Ông vốn là cán bộ chỉ huy mặt trận đường số 5 Hà nội- Hải
Phòng, sau đó về làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Ông được chuyển về Hà nội tham
gia lãnh đạo "chiến dịch đánh tư sản", tên gọi bên trong của "cuộc
vận động phát động quần chúng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh".
Đây là thời cơ của ông, vì ông có một cái "mác" trong lý lịch: thành
phần giai cấp là thợ thủ công, thợ chữa khóa và sơn cửa rong từ 14, 15 tuổi ở
vùng Vãn Điển, Thanh Trì, Phú Xuyên... Không có thợ từ các cơ sở công nghiệp lớn
trong nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà Các Mác từng nghiên cứu, thì thợ
thủ công cũng tạm được. Giá hỏi ông, ông bị bóc lột ra sao, bị ông chủ nào bóc
lột đến tận xương tủy, thì ông cũng khó trả lời. Ông được được xếp là thành phần
công nhân (!). Mà công nhân là giai cấp lãnh đạo, không chia sẻ cho ai! Ông
"lập công" lớn ở Hải Phòng, đặc biệt là Hà nội, rồi Nam Định... Ông
hay nói, nói nhiều ở các cuộc họp, và bao giờ cũng nói rất mạnh, tay chặt xuống
liên tục như đang băm vằm kẻ địch, nói đến khản cổ vẫn còn muốn nói hoài. Ông bận
đấu tranh, không có thì giờ học bất cứ thứ ngoại ngữ nào, dù là tiếng Pháp, tiếng
Anh, tiếng Tàu hay tiếng Nga. Nhưng ông biết đủ chuyện để có thể thao thao nói
về mọi đề tài, về mọi khu vực và quốc gia,về khoa học xã hội, và kỹ thuật...
Khi đảng quyết định xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước sau tháng 4 năm
1975 thì Bộ Chính Trị liền xuất tướng vào Nam để chỉ huy công cuộc cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh. Ông Đỗ Mười được chỉ định làm "tư lệnh":
Trưởng ban Chỉ đạo cải tạo công thương nghiệp toàn miền Nam, với 6 vị phó ban.
Riêng ở Sài Gòn, địa bàn quan trọng và phức tạp nhất, ông thành lập cơ quan chỉ
đạo và 11 đoàn công tác. Đoàn viên lấy cán bộ quân đội và công an làm nòng cốt,
cán bộ các cơ quan khác bổ xung thêm thắt vào các đoàn ấy Quân đội có 6 đoàn do
ông Nam Trần, tên thật là Trần Văn Danh, Phó tư lệnh Quân khu 7 chỉ huy. Lực lượng
công an có 5 đoàn do ông Cao Đăng Chiếm, bí danh là Sáu Hoàng chỉ huy. Tôi quen
ông Năm Trần từ hồi 1973, ở trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất, khi ông làm
phó đoàn của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam trong Ban Liên Hợp
quân sự 4 bên. Ông vốn là cán bộ quân báo. Về sau này ông là Thứ trưởng Bộ xây
dựng, phụ trách chỉ huy việc xây dựng nhà máy thủy điện Trị An. Hồi cải tạo tư
sản, ông thường báo tin riêng cho tôi tới tham dự các cuộc giao ban hàng ngày ở
ngay tại Hội Trường Thống Nhất, dinh Độc Lập. Tôi bắt đầu quen ông Sáu Hoàng
ngày 30 tháng 4 năm 1975 ở Dinh Độc Lập. Công bằng mà nói, ông mới là người
chính thức được ông Huỳnh Tấn Phát, Thủ tướng Chính phủ cách mạng lâm thời miền
Nam Việt nam, giao nhiệm vụ vào Sài Gòn để tiếp nhận chính quyền Sài Gòn. Ông
vào có phần chậm, vào khoảng 3 giờ chiều. Ông gặp đủ mặt những người trong
chính phủ Dương Văn Minh ở lại trong dinh Độc Lập lúc ấy. Tôi còn nhớ rõ sau đó
ông Dương Văn Minh hỏi tôi: ông Sáu Hoàng có phải là ông Cao Đăng Chiếm hồi
1945 là chỉ huy Tự vệ cuộc của Sài Gòn không? Tôi trả lời là chính ông ta đó!
Trong thời gian cải tạo tư sản, ông Sáu Hoàng đặt bản doanh ở trụ sở Bộ tư lệnh
Công An thành phố (Cảnh sát Đô thành cũ) trên đường Trần Hưng Đạo. Chính ông đã
kể cho tôi về các ông "vua lúa gạo, "vua" sắt phế thải,
"vua" hóa chất, "vua" nông cơ... đề tài sản, quá trình làm
giàu và thái độ của họ trong cải tạo.
Tôi thường nghĩ rằng những người lãnh đạo cộng sản có vẻ thiện nghệ về các cuộc
vận động "phá", mang tính chất phá hoại hơn là trong sự nghiệp xây,
những công việc mang tính chất xây dựng. Chiến tranh là phá. Cao nhất là
"phá hoại" sinh lực đối phương. Tôi đã dự những chiến dịch phá thành
phố Vinh hồi 1946; chỉ vài tuần, những nhà cửa dinh thự xây dựng hàng trăm năm
đổ sập. Không còn lấy một bức tường nhỏ. Dụng cụ phá rất đơn giản, gậy sắt lớn,
thoáng, đục. Và hiệu quả lớn nhất là bộ húc tường làm bằng 3 thanh sắt đường xe
lửa buộc chụm chéo vào nhau, từ đó treo một thanh sắt để thọc vào tường, trông
giống như chiếc gàu dai tát nước. Cứ thế mà thọc, tường thủng dần và sụp rất
nhanh... Cái dụng cụ phá đơn giản vậy, việc làm đơn giản vậy, nhưng xây dựng
thì phức tạp gấp hàng triệu dân. Tiêu thổ kháng chiến chỉ vài buổi, còn xây dựng
một thành phố, phải vài chục tới hàng trăm năm! Ai cũng biết trồng cho rừng cây
mọc phải mất 10 năm, 20 năm, hoặc hàng tràm năm. Nhưng chặt cây xuống thì chỉ một
tháng!
Trồng người cũng thế. Luyện thành người tốt, người tài, người có tâm hồn đẹp,
có hiểu biết rộng, thật công phu. Nhưng khi xã hội suy đồi, con người xuống cấp,
sa sút, bàng hoại về phẩm chất rất nhanh. Đó là tình trạng hiện nay. Nghĩ đến
khi phải dựng dậy mà kinh, xây dựng con người trở lại tốt đẹp phải hàng thế hệ,
và biết bao công sức, điều kiện! Những người cổ súy đấu tranh giai cấp một cách
cực đoan, sùng bái bạo lực, khẩu súng, mang tư tưởng phá phách, diệt trừ... rõ ràng
không có khả năng để xây dựng nên một xã hội gồm những con người tốt và đẹp, dù
cho họ nói miệng hàng triệu dân về con người mới. Họ thích dùng, quen dùng
"chiếc máy nghiền" hơn là chiếc com- pa, máy tính, cần trục, sách vở
và tâm tình.
Giữa năm 1992, ở Paris, tôi gặp một anh nghiên cứu sinh trẻ ở một viện thuộc
khoa học xã hội từ Hà nội sang. Tôi đi với một anh bạn Việt Kiều từng ở Pháp gần
30 năm quen anh nghiên cứu sinh này từ trước. Anh không biết tôi, chắc nghĩ rằng
tôi cũng đã ở bên này rất lâu. Chúng tôi nói về dân chủ, về cuộc bầu cử ở bên
nhà, về những nhân vật lãnh đạo. Anh bạn Việt Kiều hỏi anh nghiên cứu sinh trẻ
về Tổng bí thư Đỗ Mười. Thế là anh bạn trẻ hốc lên: "Ông Mười à? Các anh
chẳng biết gì cả! Hừ. Ông ấy là người phá phách! Bọn tôi ở Hà nội đều nghĩ thế.
Diệt tư hữu, diệt tư sản dân tộc miền Bắc là ông ấy. Diệt tư sản miền Nam cũng
là ông ấy. Trưởng ban cải tạo kia mà! Để bây giờ lại kêu gọi người ta bỏ vốn ra
làm ăn, sản xuất! Các ông chẳng biết gì cả! Ai ỉa (xin lỗi bạn đọc, tôi xin
phép ghi nguyên lời anh bạn trí thức trẻ) một đống ở Xuân Mai, mua xi măng, sắt
thép làm bao nhiêu là nền nhà, định dựng thành phố thủ phủ Hà Sơn Bình, rồi bỏ
đó? Tốn bao nhiêu các ông biết không? Hàng chục tỷ. Rồi ai ỉa một đống nữa ở
Xuân Hòa (ở gần thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phú) định đưa trung tâm thủ đô lên
đó, tốn bao nhiêu xi măng, sắt thép, rồi lại quẳng đó?
"Còn các ông nói về bầu cử ở đại hội đảng và bầu quốc hội à? Các ông chẳng
biết gì cả? Bầu bán cái gì. Các ông ấy chia ghế với nhau, phân vai cả rồi, tiền
chế mà lỵ? Sau đó buộc dân phải bỏ phiếu, thế thôi! Tự chọn, tự chọn cả. Các
ông cứ hỏi quý vị ấy, sẽ rõ. Cứ hỏi thế này này: Xin các ngài vắt tay lên trán,
nghĩ kỹ xem có phải quý ngài được nhân dân lựa chọn và tín nhiệm hay không? Các
ngài sẽ đỏ mặt, ngậm hột thị cho mà xem!"
Anh bạn Việt Kiều và tôi hỏi anh ta, về Hà nội, anh có dám nói vậy không? Đang
đà hăng, anh ta cười to, lắc đầu: chưa, chưa dám. Nhưng bạn bè hiểu nhau gặp
nhau thì sợ gì, nói hết, nói còn hơn thế ấy chứ. Trí thức trong nước chúng tôi ức
lắm chứ, cay lắm chứ, họ dở trò gì chúng tôi biết ngay, hiểu ngay chứ, chúng
tôi có phải trẻ con đâu mà xỏ mũi được. Rồi sẽ đến lúc chứ...
Tôi và anh bạn Việt kiều gợi lại khẩu khí hùng hồn của anh khi hỏi về vị tướng
Lê Đức Anh được 100 phần trăm phiếu bầu ở Quốc Hội. Anh lại hăng máu: "Đó,
các ông thấy không. Họ làm toàn chuyện ngược đời. Thái Lan chế độ quân phiệt
hàng mấy chục năm bị đổ. Dân đòi phải lập chính quyền dân sự. Thì phải lập. Lập
rồi. ở Nam Hàn, chính phủ quân phiệt cũng hết rồi! Ta lại làm ngược, đưa ông tướng
lên. Mà ông này trí thức chúng tôi chẳng ai biết ông ta là ai cả. Chỉ biết rằng
ông ta chỉ biết làm chiến tranh ở Cam Bốt để bị cả thế giới trừng phạt. Mà lúc
này là xây dựng, là phát triển. Tư duy của ông ta là tư duy tàn phá, tư duy chiến
tranh, tư duy đối đầu. Trong khi cần tư duy kinh tế, tư duy xây dựng. Họ toàn
làm ngược! Họ phá nát hết..." Đúng là khẩu khí mới của trí thức trẻ, biết
tức giận, biết nổi giận, trước hiện tình đất nước.
THA THIẾT XIN ĐƯỢC...
CHẾT!
Tôi cố nhớ
lại cái thời cải tạo ở miền Bắc hồi 1957, 1958 và cải tạo ở men Nam 1977,
1978... Những con người duy ý chí như ông Tố Hữu phụ trách việc cải tạo nông
nghiệp và ông Đỗ Mười phụ trách cải tạo công thương nghiệp nghĩ và còn buộc mọi
người phải nghĩ theo là cứ cải tạo là có chủ nghĩa xã hội. Họ làm ngược với lý
luận của Mác về quan hệ giữa sức sản xuất với quan hệ sản xuất. Mác nhắc đi nhắc
lại rằng phải để cho sức sản xuất phát triển sung mãn như quả trứng phải chờ
cho hình thành con gà con, như người mẹ phải chờ 9 tháng 10 ngày sau khi bắt đầu
mang bầu mới có thể chuyển sang thời kỳ mới. Cũng mấy theo ý muốn chủ quan cũng
chiu, sẽ bị thất bại, bị trừng phạt.
ở Việt nam, sức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới manh nha. Những người cộng sản Việt
nam sốt ruột, nôn nóng, chuyên làm các chuyện trái khoáy, ngược quy luật, cưỡng
bức. ở nông thôn cũng thế, vừa mới chia ruộng, người nông dân chưa kịp hưởng
quyền sở hữu về mảnh ruộng của mình thì đã buộc họ vào hợp tác xã, đi tập thể
ra đồng theo tiếng kẻng! Phương thức sản xuất tư bản vừa khởi đầu với một số
nhà kinh doanh non trẻ thì họ đã giật mình nghe đến: bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Họ theo gương Stalin, sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Nga còn rất yếu so với Tây
Âu, vậy mà cũng cứ liều đi lên chủ nghĩa xã hội. Lại còn khoe đã hoàn thành bước
đầu chủ nghĩa xã hội từ năm 1932, cả xã hội đã không còn và sẽ không bao giờ có
thất nghiệp và khủng hoảng! Sau đó còn huênh hoang từ hồi những năm 70 là hoàn
thành về cơ bản việc xây dựng chủ nghĩa xã hội! Từ nay là bước vào thời kỳ lịch
sử mới: xây dưng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản! Họ cũng theo gương ông
Mao để nhảy vọt, nhảy vọt hoài, nhảy vọt mãi, mà cứ toàn nhảy vọt... lùi lại
phía sau! Báo Đức vừa nhận định, Trung Quốc ngày nay dưới sự lãnh đạo của ông Đặng
Tiểu Bình đang quá độ từ chủ nghĩa xã hội sang... chủ nghĩa tư bản!
Bao nhiêu điều rõ như ban ngày như vậy, nhưng những người lãnh đạo Đảng cộng sản
Việt nam vẫn cứ khẳng định liều là đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, rằng đến
1995 sẽ cơ bản giải quyết xong cuộc khủng hoảng và đến năm 2.000 thu nhập hằng
năm theo đầu người sẽ đạt 400 đô la/năm, dù cho số dân được dự kiến sẽ đạt trên
80 triệu! Họ đâu có thiếu đầu óc "lãng mạn" và "trí tưởng tượng"!
Và họ cũng không thiếu thông minh! Thông minh" theo nghĩa những mưu mẹo vặt.
Họ thiếu cách nhìn thoáng đạt, nhưng mưu mẹo thì không thiếu ở những bước cuối
cùng của công cuộc cải tạo công thương nghiệp! Mỗi người tư sản được quyền",
được "phép biếu tài sản nổi và chìm của mình. Điều này lâ "tự
giác" thôi. Không ai bị bắt buộc cả? Họ phải làm đơn, và sau khi nộp đơn,
còn phải hồi hộp chờ xem chính phủ và đảng có vui lòng tiếp nhận hay không! Họ
cũng phải nộp đơn xin vào công ty hợp doanh, và thấp thỏm chờ xem có được nhận
vào hợp doanh hay không! Không có công thức sẵn cho những lá đơn áy. Đã có cán
bộ gợi ý và hướng dẫn cung cách viết đơn, sao cho thật tha thiết, chân thành.
Nào là được cải tạo là một vinh dự to lớn, là hạnh phúc cho bản thân và cả gia
đình, nào là được phấn đấu để trở thành người lao động vốn là mong ước thầm kín
ấp ủ từ lâu nào là nay xin hiến cơ sở sản xuất kinh đoành một cách hoàn toàn tự
giác và tự nguyện, rất mong được các cấp cứu xét và tiếp nhận cho. Rồi lại còn
nguyện chấp hành thật tốt mọi chính sách của đảng và nhà nước... ấy là vì chỉ
sau khi được chấp nhận việc hiến các cơ sở hoặc được vào công tư hợp doanh rồi
thì người tư sản mới được cất cái mũ tư sản xấu xa tủi hổ, để được vinh dự nhận
vào Mặt Trận Tổ Quốc, vào Hội công thương gia yêu nước, có khi còn được là Phó
giám đốc xí nghiệp hoặc cửa hàng... Và con cái họ mới được đi học bình thường,
với lời phê trong lý lịch và học bạ: gia đình chấp hành tốt chính sách của Đảng
và nhà nước. Đó là vinh dự của cụ Ngô Tử Hạ, cụ Nguyễn Sơn Hà, ông Bùi Hưng
Gia, ông bà Trịnh Vãn Bô... tuy gần như trắng tay nhưng lại có thể tự hào đã trở
nên nhân vật xã hội được trọng nể, không còn bị khinh thị như khi bắt đầu cuộc
cải tạo.
ở miền Nam, việc xin hiến dâng tài sản đại thể cũng là như thế. Cái khác là so
với miền Bắc tài sản của bà con tư sản lớn hơn nhiều. Cả từng dãy nhà lầu cho
thuê của tư sản nhà đất, những đoàn xe tải, từng đoàn thuyền máy của tư sản vận
tải, những nhà máy cỡ bự với hàng tràm máy dệt, máy sợi, những cơ sở nông cơ, lắp
máy truyền thanh, máy vô tuyến truyền hình, rồi các xí nghiệp làm xà phòng, thuốc
lá, bóng đèn, phích nước, làm sữa hộp, nước mắm... đều được các ông bà chủ
"tự nguyện", vui vẻ "xin được hiến dâng cho đảng và chính phủ,
và cảm thấy "hạnh phúc" được đổi đời để trở thành người lao động vẻ
vang.
Một nhà kinh doanh nổi tiếng một thời ở Sài Gòn am hiểu sâu sắc các chính sách
của chế độ cộng sản, nhận xét rằng: tôi sống qua hai chế độ, hiểu họ khá rô. Ví
như anh có vườn cây ao cá với nhà ở. Dưới chế độ ông Thiệu thì bọn lính đi qua,
chúng hái trụi trái cây, bắt gà vịt, đánh cá ăn nhậu, phá nát cả vườn... Nhưng
vẫn còn ao, còn vườn, còn đất của mình. Còn chế độ cộng sản, họ không đụng đến
một cây cải, một quả trứng gà, có vẻ tốt vậy đó. Thế rồi, rụp một cái họ lấy của
mình luôn cả nhà, cả vườn, cả ao, cứ êm như không, mà lại còn ra vẻ làm phúc
cho mình nữa. Họ là những người bậc thầy về tước đoạt! Người có của cứ phải cười
mà tha thiết xin họ cho mình được... chết!
Ông cười cay đắng: "Chủ nghĩa Mác- Lênin thâm thật!"
BA NHÂN VẬT VẮNG BÓNG
Do chính
sách cải tạo vội vã "nhảy vọt" lên chủ nghĩa xã hội nên cả một tầng lớp
nhà kinh doanh non trẻ đã bị "tận diệt". Họ bị diệt không phải về xác
thịt, mà về hoạt động kinh doanh. Họ là những người am hiểu sản xuất, dựng xưởng,
chọn công nhân, theo dõi quy trình sản xuất, bén nhạy với thị trường giá cả
trong và ngoài nước. Họ là nhân vật quyết định cho sức sản xuất phái triển. Họ
có vốn, cả vốn tài chính và vốn hiểu biết, kinh nghiệm. Trong cuốn Tư Bản Luận,
Marx đã đánh giá rất cao lớp nhân vật này, từ khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu xuất
hiện cho đến khi nó trưởng thành vững chắc. Họ là nhàn vật trung tâm của chế độ.
Họ giương cao lá cờ tự do, dân chủ. Lao động coi họ là án nhân, là người tạo
công an việc làm ngày càng nhiều, trả cho người lao động then lương hợp lý,
cùng nhau đòi quyền tự do và dân chủ. Mâu thuẫn giữa chủ và thợ chưa thành xung
đột dữ dội... Chính họ là tầng lớp quan trọng nhất đã tạo nên những con rồng ở
Singapore, ở Hồng công, ở Nam Hàn và Đài Loan. Ông Lý Quang Diệu mà một hồi những
người lãnh đạo cao nhất ở Hà nội suy tôn là bậc thầy, là nhân vật tiêu biểu cho
tầng lớp ấy, tầng lớp mà chính họ đã ra tay tận diệt một cách mù quáng và dại dột,
với những thủ đoạn khôn khéo kể trên, làm hại cho toàn xã hội, làm điêu đứng cả
người lao động.
Bây giờ đất nước lại cần đến những nhân vật ấy, những Nhân vật kinh doanh. Báo
Asahi, Nhật Bản đã tổng kết từ đầu những năm 70 rằng, xã hội phát triển cần đến
3 loại nhân vật: nhân vật kinh doanh, nhân vật khoa học kỹ thuật và nhân vật
chính trị. Con người là vốn gốc. Nếu có đủ ba loại nhân vật nói trên, và với chất
lượng cao, thì sẽ có phát triển. Nhân vật kinh doanh được kể đầu tiên vì họ
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, nền tảng của xã hội. Vãn học nước Mỹ và văn
học Nhật Bản ca ngợi đặc biệt những con người từ nghèo kém, tay không, vốn liếng
ít trở thành triệu phú một cách chính đáng. Họ có nghị lực, có óc tố chức, sáng
tạo, biết tạo thời cơ và tận dụng thời cơ, dẫn đến thành đạt. Họ được cả xã hội,
cả dân tộc quý trọng, vị nể. Tôi được gặp một số người thành đạt như thế trong
cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ bị những chiến dịch cải tạo ở Sài Gòn xua
đuổi ra nước ngoài, mất hết vốn liếng, họ làm lại từ đầu và thành đại có người
thành đạt lớn?
Hiện nay ở trong nước vẫn chưa có đủ điều kiện môi trường cạnh tranh lành mạnh
và pháp luật đầy đủ để có thể xuất hiện một lớp nhân vật kinh doanh mới, một tầng
lớp đã từng bị chính quyền lên án, miệt thị và thủ tiêu. Loại nhân vật cụ thể
thứ hai đang vắng bóng là những nhà luật sư tự do. Đất nước vẫn chưa có Trường
Đại Học Luật hẳn hoi, vần thiếu luật về dân sự và luật thương mại (đang nhờ nước
Pháp giúp!) và nhiều bộ luật khác; luật sư hiện nay đều là luật sư của nhà nước,
bênh vực nhà nước. ở một xã hội pháp quyền, vị trí người luật sư tự do rất hệ
trọng; họ bảo vệ quyền lợi, danh dự, tài sản, quyền tự do của công dân, không để
ai xâm phạm dù đó là các quan chức cấp cao nhất, dù đó là cơ quan nhà nước.
Không ai có thể làm càn được. Tại đó nghề luật sư được coi trọng; việc làm luật,
bổ xung luật, sửa chữa luật diễn ra hang ngày; luật lệ tôn nghiêm, xử án công
minh. Người công dán sống đàng hoàng, nếu không phạm luật thì không phải sợ ai
hết, ung dung tự tại. Đến bao giờ nước ta mới có luật sư tự do, có đủ luật, luật
phát được mọi người tôn trọng? Đảng sẽ không có quyền can thiệp đến luật pháp,
bóp méo luật pháp, xử án tùy tiện, bênh kẻ gian, lrị người ngay. Những người
lãnh đạo cao nhất của đảng cũng sẽ phải bị truy tố khi phạm pháp, còn ngồi trên
luật pháp? Không có luật pháp nghiêm chỉnh thì sẽ là một kiểu luật rừng! Hiện
nay những người lãnh đạo có nói đến luật, đến thảo ra luật mới, đến tôn trọng
pháp luật, nhưng họ không thật lòng, họ miễn cưỡng phải nói đến mà không thật
tâm thực hiện!
Loại nhân vật cụ thể thứ ba rất cần cho xã hội hiện đại mà hiện nay vắng bóng
đó là những nhà làm báo tự do. Họ là những người viết báo, bao gồm cả người làm
báo nói, báo điện tử, phóng viên truyền thanh và vô tuyến truyền hình. Họ thành
một đội ngũ đông đảo, tạo nên công luận xã hội. Họ có quyền phê phán, nhận xét,
khen chê chính phủ, Tổng Thống, Bộ trưởng... Không có ai có thể cản trở, ngăn cấm.
Đồng thời họ chịu trách nhiệm trước luật pháp và công luận. Họ sẽ bị tù tội nếu
vu cáo. Họ thay mặt công luận trong xã hội chất vấn về mọi vấn đề, mọi nhân vật
và bắt buộc những người ấy phải trả lời. Họ tạo nên quyền lực thứ tư, ngoài quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp; không có báo chí tự do thì dân chủ chỉ là dân
chủ giả, dân chủ què quặt.
ở nước ta Hiến pháp công nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhưng luật
báo chí lại cấm báo tư nhân. Luật ấy là vi hiến, là ngược với hiến pháp. Việc cấm
báo tư nhân chứng tỏ đảng và chính phủ hiện nay rất sợ công luận, chỉ muốn nghe
lời mình nói, rất sợ dân chủ, sợ quyền tự do của công dân. Cần hiểu trọng trong
xã hội dân chủ một tờ báo tư nhân không đàng hoàng, viết láo, vu khống sẽ bị
phá sản sớm vì bị phạt vạ và xã hội tẩy chay.
Sự thiếu vắng trong xã hội Việt nam ba loại nhân vật cụ thể trên đây, bắt nguồn
sâu xa từ Mác, Lênin và chủ thuyết của các ông này. Chủ nghĩa Mác Lênin bỏ qua
không bàn đến việc thiết lập một xã hội công dân dưới chủ nghĩa xã hội.
Họ cường điệu bản chất giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhấn mạnh đến chuyên
chính của giai cấp vô sản, đặt đảng ở trên pháp luật. Họ không hề nghĩ đến xây
dựng một xã hội dân sự mang lại cho người công dân những quyền lực đầy đủ nhất
và tạo ra mọi điều kiện cho việc thực hiện những quyền ấy trong đời sống hàng
ngày. Cái lỗ hổng lớn này là một nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến sự sụp đổ hàng
loạt các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực trong thời gian gần đây. Câu nói của
Lênin về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cao gấp nhiều dân nền dân chủ tư sản chỉ
là sự nói dối, thành một điều mỉa mai khổng lồ! Công cuộc đổi mới ở Việt nam hiện
nay, về mặt nhân sự không chú trọng tạo nên một lớp người kinh doanh có tài
năng, một loạt luật sư tự do có công tâm và tay nghề giỏi, một đội ngũ phóng
viên và nhà báo tự do (cả báo viết và báo nói) với các đài phát thanh và trạm
vô tuyến truyền hình tư nhãn thì đổi mới vẫn chỉ là có đổi mà không mới, có
thay mà không đổi. Sẽ vẫn là một xã hội chậm tiến, không sao hòa nhập với thế
giới hiện đại!
BỨC THƯ CỦA ÔNG PHAN CHU TRINH
Ông Hồ
Chí Minh được coi là người truyền bá mạnh mẽ chủ nghĩa Mác Lé Nin, rồi cả chủ
nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao ở Việt nam. Ông làm công việc tuyên truyền, giới
thiệu các chủ nghĩa này với tất cả lòng hãng hái, tận tâm, cơi đó là cẩm nang,
là vũ khí, lý luận và tư tưởng, là chân lý dẫn đến độc lập, giải phóng, hạnh
phúc ở Việt nam, ở Đông Dương và khắp mọi nơi. ông đúng hay sai? Việc ông làm
là công hay là tội? Hay là ông đúng bao nhiêu phần, sai bao nhiêu phần? Công
nhiêu hơn tội hay là tội nhiều hơn công? Đây là vấn đề rất rộng lớn, khá phức tạp,
không thể có câu trả lời đơn giản, gọn ghẽ được. Đầy cũng là vấn đề lịch sử có
liên quan đến vần mệnh của đất nước, đến đánh giá quá khứ hiện tại và nhìn tới
tương lai của nước Việt nam ta.
Đây cũng là vấn đề đang có nhiều chính kiến khác nhau nhất, thậm chí trái ngược
nhau nhất.
ở trong nước, việc đánh giá lại ông Hồ Chí Minh là điều cấm kỵ một cách tuyệt đối.
Vì ông là chỗ dựa cuối cùng để những người lãnh đạo duy trì con đường "xã
hội chủ nghĩa", "giữ vững ổn định chính trị" có nghĩa là họ
không bị mất quyền lãnh đạo.
Họ vin cớ là Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội rồi
thì không thể có được con đường nào khác nữa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được đóng
đinh vào cương lĩnh Đảng, điều lệ Đảng và Hiến pháp 1992 rồi. Nhà báo Kim Hạnh
chỉ giới thiệu về cuốn sách của giáo sư sử học Daniel Hemery, nói rằng hồi trẻ
ông Hồ có thể có vợ ở Trung Quốc, đã lập tức bị mất chức tổng biên tập báo Tuổi
Trẻ. Ông Bùi Đình Kế, cục trưởng cục lưu trữ quốc gia viết một bài tương tự
trên báo Nhân Dân Chủ Nhật cũng bị khiển trách rồi "cho về hưu. Lập luận của
Ban Văn hóa và Tư Tưởng là: tất cả những chuyện kể trên đều là bịa đặt bậy bạ với
ý đồ xấu xa phá hoại đất nước. Ông Hồ được cả thế giới trước sau ngưỡng mộ, nếu
không thì sao năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, UNESCO (Tổ chức
giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc) lại tổ chức kỷ niệm long trọng
ở khắp các lục địa, coi ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại? Họ giấu
rất kỹ cuộc tranh luận gay go hồi ấy ở phương Tây về vần đề này, do đó cuối
cùng việc tổ chức kỷ niệm ở UNESCO đã diễn ra chiếu lệ, và chỉ có những cuộc kỷ
niệm ở Hà nội, ở La Havana (Cua), sau đó ở New Delhi (ấn Độ).
Bộ máy tuyên truyền ở trong nước vẫn giữ nguyên sự đánh giá chính thống về ông
Hồ: nhân vật anh hùng, sáng suốt, khai quốc công thần, vĩ đại nhất trong lịch sử
Việt nam, mẫu mực về đạo đức, nhà cách mạng tuyệt vời, người Mác xít Lêninít
kiên định và sáng tạo, người chiến sĩ quốc tế vô sản kiểu mẫu, nhà lý luận, nhà
triết học, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo dục... kiệt xuất của dân tộc, vượt qua tất
cả các anh hùng trước đây của dân tộc ta. Theo họ đây là vấn đề không cần,
không thể đưa ra bàn cãi...
ở phía những người quốc gia có ý kiến cực đoan nhất thì sự đánh giá về ông Hồ
là hoàn toàn tiêu cực. Đó là một con người đầy thủ đoạn, giả dối, độc ác, tàn bạo,
là người đã chủ trương thủ tiêu mọi đối thủ chính trị ở các đảng phái chính trị
khác, như Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân... là một nhân viên trung
thành phục vụ cho đệ tam quốc tế, là người chiu trách nhiệm chính trong vụ đàn
áp văn học Nhân văn Giai Phẩm, trong những sai lầm của cải cách ruộng đất Có
người còn cho rằng ông đã lấy thơ của người khác nhận là của mình để in tập Thơ
Trong Tù (Ngục Trung Nhật Ký). Có người còn tố cáo rằng chính ông Hồ Chí Minh
đã mật báo cho mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu ở Hương Cảng... Cũng có người
còn phỏng đoán một cách tự tin rằng chính ông Hồ Chí Minh đã tự vẽ kiểu lăng Hồ
Chí Minh cho bản thân mình để tồn tại mãi với hậu thế như một ông vua!
Tôi nghĩ rằng đánh giá một con người trước hết cần khách quan và công bằng,
không nên dự đoán và suy diễn. Cũng cần tước bỏ những huyền thoại được thêu dệt
thêm do tệ sùng bái cá nhân. Ông Hồ là một con người, không phải là một vị
thánh, nên có ưu điểm, có khuyết điểm, có thể có sai lầm nửa, là điều tự nhiên
và tát yếu. . .
Trong Hoa Xuyên Tuyết tôi đã nói lên một vài ý kiến của tôi về ông Hồ. Lập tức ở
Hà nội, bộ máy tuyên truyền được lệnh lên án tôi là "đã dấn thêm một bước
trên con đường phản bội vì đã xuyên tạc về bác Hồ". Hồi ấy, tôi mới chỉ nhận
xét rằng hồi 1945, mới 55 tuổi, ông tự nhận là cha già dân tộc và xưng bác với
đồng bào, trong đó có cả cụ già 70, 80 tuổi là không ổn. Rằng ông viết về bản
thân mình, ký tên là Trần Dân Tiên và T. Lan, tự khen mình là vĩ đại hơn Lê Lợi,
Trần Hưng Đạo, tự nói về mình rằng: "Bác Hồ rất khiêm tốn, người không bao
giờ muốn nói đến bản thân mình... thì thật là mỉa mai đến buồn cười!
Trên báo chí ở hải ngoại, có người lên án tôi là còn ca ngợi ông Hồ Chí Minh là
người yêu nước thì không thể chấp nhận được, dù cho rằng yêu nước theo kiểu của
ông ấy. Họ cũng bác bỏ ý kiến của tôi cho rằng ông Hồ đã hy sinh trong cuộc đấu
tranh và sống giản dị, rằng tuy dựa vào Liên xô và Trung Quốc, ông vẫn giữ thái
độ tự chủ trong lãnh đạo chiến tranh. Không nghe theo lời Mao và Lâm Bưu khuyên
là ở miền nam chỉ nên duy trì chiến tranh du kích, chỉ nên đánh ở cỡ đại đội nếu
đánh cỡ tiểu đoàn, trung đoàn trở lên sẽ bị hỏa lực của không quần và pháo binh
Mỹ diệt hết! Ông cũng không nghe theo lời Liên xô khuyên là nên hạ súng, tìm giải
pháp hòa bình vì Việt nam không thể chống nổi Mỹ về mặt quân sự, như lời nguyên
soái Kulikov tư lệnh khối Varsovie nhận xét rằng: Việt nam mà cứ một mực đánh Mỹ
thì đất nước tan tành hết, rồi đến cái quần đùi cũng không có mà mặc! Họ một mực
cho rằng ông Hồ bất cứ lúc nào cũng chỉ là tay sai ngoan ngoãn, trung thành và
mù quáng của đệ tam quốc tế, của Liên xô và Trung Quốc, không thế khác được.
Một bài báo trong nước lên án tôi sao lại gọi ông Hồ bằng ông, không gọi bằng
Bác như mọi người trong nước thường gọi. Còn báo ở nước ngoài thì lại phê phán
tôi là sao còn gọi ông Hồ bằng Chủ tịch Hồ Chí Minh! Tôi nghĩ gọi ông Lợi, ông
Quang Trung thì có gì là phạm thượng? Thì có gì là sai? Ông Hồ chẳng làm chủ tịch
nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà từ 1945 đến tận 1969 đó sao? Đối với đồng bào,
tuổi trẻ ở trong nước đã đến lúc cần tìm hiểu về ông Hồ mới cách tỉnh táo,
khách quan, không a đua, không định kiến, bằng cái đầu có suy nghĩ và đánh giá
của chính mỗi người. Cần khắc phục lệ sùng bái cá nhân rất nặng nề của bộ mây
tuyên truyền chính thống có khuynh hướng đề cao một cách tuyệt đối ông như thần
thánh, nhưng thực tế lại là hạ thấp ông, làm hại uy tín của ông. Mặt khác cũng
không thể thóa mạ ông một cách cường điệu, tàn nhẫn và bất công.
Nếu quả thật ông có người yêu, có vợ khi còn trẻ thl có gì là xấu? Nếu có cô
Biere (Pháp), cô Tuyết Cần (Trung Hoa), cô Véra Vasiliera (Nga)... là bạn, người
yêu, là vợ thì cũng là tự nhiên, bình thường, có thể là nét đẹp nữa, vì ông
cũng có trái tim như mọi người chứ. Chỉ có kẻ đạo đức giả mới muốn coi ông là
thánh.
Đầu năm 1993, nhà báo Mỹ Sophie Quinn Judge từ Moscou qua Paris để về Hoa Kỳ
tìm gặp tôi, kể rằng bà đã được xem một số tài liệu lưu trữ của Quốc Tế cộng sản
nói về ông Hồ. Bà cho biết Nguyễn Thị Minh Khai từng khai lý lịch của mình ráng
chồng tên là "Lin", tên của Nguyễn ái Quốc hồi ấy. Hơn nữa, bà được
xem một bức thư của Hà Huy Tập năm 1935 nói rằng Minh Khai là vợ của Nguyễn ái
Quốc. Những tư liệu lịch sử này cần xác minh thêm... Đến ngày sinh nhật của ông
19- 5- 1890 cũng chắc chắn là không đúng. Vậy thì cũng nên xác định lại ngày
nào, hoặc năm nào là đúng hoặc gần đúng nhất. Chúng ta được biết khi ông viết
đơn xin vào trường thuộc địa hồi 1911 thì ông đã ghi năm sinh là 1892, khi khai
ở Sở cảnh Sát Paris ngày 20 tháng 9 năm 1920 thì ông ghi sinh ngày 15 tháng
Giêng năm 1894. Đến khi ông khai tại Đại Sứ Quán Liên xô ở Berlin tháng 6 năm
1923 thì ông lại ghi ngày sinh 15 tháng Hai nam 1895; bà Thanh chị cả ông lại
khai tại Sở Mật Thám Trung Bồ năm sinh của ông là 1893, còn ông Khiêm anh của
ông thì khai đó là năm 1891, trong khi các hương chức xã Kim Liên quê hương ông
thì khai rằng ông sinh vào tháng 3 năm Thành Thái thứ Sáu (theo âm Lịch), nghĩa
là tháng Tư năm 1894. 1890 hay 1891? Hay 1892, 1893 hoặc 1894? Hay là 1895? Thật
rối mù! 6 năm! Mà năm nào cũng có chứng cớ. Ngày mất của ông bị các nhà lãnh đạo
hồi ấy "điều chỉnh" chậm lại một ngày do nhu cầu tuyên truyền, đã được
trả lại cho sự thật là ngày 2- 9- 1969. Họ cứ muốn cưỡng lại sự thật, theo cố tật
của họ, để không cho phép ông được mất vào ngày Quốc Khánh! Tôi rất mừng đã góp
phần đưa toàn bộ di chúc của ông ra ánh sáng và nhân đó ngày mất của ông được
xác định lại.
Nhà sử học Trần Quốc Vượng rất thích khám phá những điều mới mẻ trong các chuyến
đi "thâm nhập thực tế mà ông gọi là các chuyến "điền dã" (thăm đồng
quê). Ông đã sưu tầm được ở vùng làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An quê ông Hồ,
nhiều chuyện đáng chú ý. Các bậc cao tuổi trong vùng kể lại rằng ông Nguyễn
Sinh Huy (sau lấy tên là Nguyễn Sinh Sắc), thân sinh của ông Hồ, không phải thuộc
gióng máu mủ của họ Nguyễn Sinh, mà là con một ông đồ nho, đỗ cử nhân, quê ở
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, cùng tỉnh Nghệ An, tên là Hỗ Sĩ Tạo. Ông Cử Tạo
đến nhà họ Hà, ở làng Sài cùng trong xã chung cư với làng Sen (Kim Liên) để dạy
học. Nhà này có cô con gái tên Hà Thị Hy, đàn hay, múa đẹp, lại ế chồng. Ông Cử
Tạo đã có vợ con, song trai tài gái sắc ở chung một nhà nên cô Hy có chửa. Ông
chủ nhà liền nảy ra "giải pháp" đánh tiếng để gán con gái cho một ông
nông dân làng bên góa vợ. Thế là cô Hy trở thành vợ kế của ông nông dân Nguyễn
Sinh Nhầm và sanh ra anh Nguyễn Sinh Sắc, về..sau là thân sinh của ông Hồ. Họ
Nguyễn Sinh phát từ đó, vốn chỉ biết cày ruộng, thất học, cậu bé . Nguyễn Sinh
Sắc học khá, lại được bố thật là ông Cử Tạo kèm cặp gửi gấm nên sau đỗ phó bảng,
làm quan. Nhờ gien" của đôi trai tà gái sắc áy mà cậu bé Nguyễn Tất Thành
cũng học hành khá sau này. Việc ông Nguyễn Tất Thành rồi Nguyễn ái Quốc họ Hồ để
trở thành Hồ Chí Minh có thể là do ông nhớ đến nguồn gốc thật của ông chăng? Tất
nhiên với thái độ giáo điều, sùng bái cá nhân những người lãnh đạo bảo thủ hiện
nay ở trong nước không thể chấp nhận sự phát hiện mới mẻ của nhà sử học. Ông Trần
Quốc Vượng lại có tính bộc trực có gan nói và viết những điêụ mình nghĩ dù những
điều ấy không hợp với khẩu vị các nhà lãnh đạo, nên hiện ông bị kèm chặt sau
chuyến đi làm việc ở trường Đại Học Cornell Hoa Kỳ, vào năm 1991. Họ vẫn mắc bệnh
dị ứng với sự thật. Cần trả lại cho mỗi con người các giá trị đích thật của họ.
Tô vẽ người này, bôi nhọ người khác theo yêu cầu chính trị là việc làm không
lương thiện.
Về ông Hồ, có khá nhiều vấn đề cần xác minh cho thật rõ, thật đúng. Hiện nay tư
liệu ở Pháp cũng như những kho lưu trữ ở Moscow đang được mở ra cho các nhà
nghiên cứu, cho công chúng... Gần đây nhà sử học Pháp Daniel Hemery đăng trên tạp
chí Tiếp Cận Chất á (Approches- asie) số tháng 1- 1- 1992 một bài báo dài: Hồ
Chí Minh đến năm 1991 với một phụ lục gồm 21 bản tư liệu (thư của Nguyễn Huy
Sinh gửi Khâm sứ Trung Kỳ, thư của Nguyễn Tất Thành gửi Khâm sứ Trung Kỳ, công
văn của sở mật thám Trung kỳ, lời khai của trưởng làng Kim Liên, lời khai các
hương chức Kim Liên, lời khai của ông Nguyễn Tất Đạt (anh của ông Hồ), khẩu
cung của bà Nguyễn Thị Thanh (chị ông Hồ), ghi chép của Sở Mật Thám Nam Bộ, điện
của toàn quyền Đông Dương... Tháng 1- 1993, ông Hemer đưa tôi xem bài báo nói
trên và nói: tôi là giáo sư lịch sử, nhà nghiên cứu lịch sử, với thái độ khoa học
là tìm ra sự thân viết lên sự thật. Ông vừa được tổng thống Mitterand mời tham
gia đoàn nhà nước viếng tham chính thức Việt nam, do sự am hiểu sâu sắc lịch sử
Việt nam của ông. Trở về, ông kể với tôi rằng đã "xông" đến tận nhà
thăm nhà văn Dương Thu Huơng ở Hà nội những tư liệu xác thực cho thấy: năm
1911, khi anh thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu xuất dương, anh chưa nghĩ rằng
đó là cuộc đi tìm đường cứu nước, như các nhà viết sử Việt nam bị ép nói vậy. Bằng
cấp anh có trong tay chỉ là bằng Certificat (tiểu học) sau đó anh mới học năm
thứ hai bậc trung học, tương đương lớp 9 phổ thông hiện nay. Anh vào trường Dục
Thanh, Phan Thiết, làm trợ giáo là do sinh kế trước hết. Bi kịch gia đình đang
tác động mạnh mẽ đến anh. Ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượu rất nặng khi còn ở
Huế, bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông bố
đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn. Tháng 5- 1909, ông được bổ đi Tri huyện
Bình Khê ở tỉnh Bình Định; khi 47 tuổi, nửa năm sau đó, tháng Giêng năm 1910,
ông bị thi hành kỷ luật rất nặng do đã đánh anh nông dân Tạ Đức Quang bằng roi
và gậy, đến mức làm cho anh này chết! Sở mật thám mở cuộc điều tra: vụ ngộ sát
xảy ra khi ông Sắc say rượu! Hội đồng Nhiếp chánh ở Huế lúc ấy quyết định tước
mọi chức quyền Tri huyện của ông và hạ xuống 4 bậc trong ngành quan lại. Bi kịch
này hết sức nặng nề, làm đổ vỡ giấc mộng danh vọng của ông Tri huyện bị thu hồi
ấn tín. Ông đi dạy học vài tháng rồi vào Lộc Ninh (Nam Bộ) đi làm
"surveillant", giám thị ở đồn điền cao su, sống ngoài lề của bộ máy
cai trị, trong niềm lo âu tủi nhục và thiếu thốn. Ông đã đệ đơn gửi Khâm sứ
Trung Kỳ để xin việc, nói rõ ông đang sống trong cảnh túng bần. Anh Nguyễn Tất
Thành, vào tháng 12- 1912 còn gửi cho Khâm sứ Trung Kỳ bức thư yêu cầu thương hại
đến hoàn cảnh túng bần của cha anh và "xin ngài Khâm sứ" tìm cho một
công việc gì đó ở Huế cho cha anh, dù là thừa biện ở các Bộ hoặc làm giáo thụ
cũng được, với lời lẽ như sau:
"Tôi cầu mong Ngài vui lòng cho cha tôi được nhận một công việc như Thừa
biện ở các Bộ, hoặc là Huấn đạo hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan
tâm cao quý của Ngài. "Với hy vọng rằng lòng tốt của Ngài sẽ không từ chối
lời yêu cầu của một người con chỉ còn biết dựa vào Ngài để làm nghĩa vụ của
mình, xin Ngài Khâm Sứ nhận những lời chào kính cẩn của người dân- con và kẻ
tùy thuộc chịu ơn của Ngài.
"Ký tên: Paul Tất Thành
"New York, ngày 15 tháng 12 năm 1912."
Nguyên văn tiếng Pháp:
" jose mê me đésirer vous prier de bien voulolr lui accorder ùn emploi com
me Thừa biện des Bộ cu Huấn đạo, Giáo thụ, afin qưil puisse se gagner sa vie
sous votre hau te bien veillance.
"En espérant que votre bonté ne refuserait la demande dun enfant qui, pour
remplir son devoir, na lappui que vous ét en attendant votre réponse, veuillez
agréer, Monsieur le Résident Supériềur, les respectueuses salutations de votre
flial peuple el reconnaissant servileur.
"Paul Tất Thành
"New York le 15 Décembre 1912."
Cho nên khi xuống tàu xuất dương, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đang ở tâm trạng
phẫn chí và bế tắc, việc học dở dang, ông thân sinh bị "đứt gánh" đột
nhiên trên con đường hoạn lộ, anh ra đi để cứu mình trước hết, tìm việc, tìm
nghề và phần nào để giúp gia đình (anh viết thư từ New York đề ngày 31- 11-
1912 ký tên Paul Tất Thành yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ chuyển một số tiền mọn 15 đồng
bạc Đông Dương đến cha anh, và Tòa khâm sứ đã làm theo nguyện vọng của anh). Vừa
đến Pháp, anh Thành đã nộp đơn xin vào Trường Thuộc Địa (15- 9- 1911, từ
Marseille) và bị từ chối, Bộ Thuộc Địa cho rằng: số được nhận vào quá ít, phải
dành cho con những quan lại cao cấp bản xứ? Và phải có học vấn khá. Sau đó anh
đi làm bồi tàu, có lúc mơ sẽ làm mai tre dhôtel (chủ khách sạn hay chủ cửa hàng
ăn). Trong đơn từ, anh dùng những công thức như: "Xin ngài nhận ở đầy sự
biểu hiện lòng trung thành của một kẻ tôi thuộc...", có lúc còn tự nhận là
người hàm ơn "công khai hóa của mẫu quốc"... Phải đến sau chiến tranh
thế giới thứ nhất 1914- 1918, tư tưởng chính trị của Nguyễn Tắt Thành mới hình
thành rõ nét, sau khi tiếp xúc với những người thuộc Đảng Xã Hội, sau đó là Đảng
cộng sản.
Phái viết sử ở Hà nội theo sự chỉ đạo của đảng, đã tô vẽ ông Nguyễn Sinh Sắc
thành một nhân vật cách mạng kiên cường chống thực dân Pháp nên bị mất chức, là
cố tình bịa đặt sai sự thật. Việc nêu lên chuyện anh Nguyễn Tất Thành vì thấy
cách mạng bị bế tắc do chủ trương Đông Du và cải lương thất bại nên ra đi để
tìm đường cứu nước là cố nói lấy được nhằm tô vẽ lãnh tụ đã giác ngộ cách mạng
từ lúc còn rất trẻ, cũng là việc sai sự thật lịch sử. Việc nói ông ra đi ở bến
Nhà Rồng rồi lập nhà kỷ niệm tại đó, cũng là việc làm khiên cưỡng vì hồi ấy nhà
thương chính chưa được xây dựng và tàu thường cặp bến ở dưới xa nơi đó. Đã đến
lúc phải trả về cho lịch sử những nét chân thật của nó, không thêm bớt, vẽ vời,
trái với khoa học và rất có hại, người ta sẽ nghi ngờ cả những điều có thật.
Một vấn đề rất lớn về ông Hồ Chí Minh: ông là người yêu nước theo chủ nghĩa dân
tộc hay là một người cộng sản? Theo tôi, ông vốn là một người yêu nước. Ngay cả
khi ông chọn Quốc tế Ba cũng là do lòng yêu nước, ông từng nói: Quốc tế Hai, quốc
tế Hai Rưỡi hay Quốc Tế Ba? Tôi theo quốc tế Ba vì chỉ có quốc tế Ba mới có lập
trường rõ ràng là ủng hộ việc giải phóng các nước thuộc địa. Về sau dần dà ông
trở nên cán bộ của quốc tế cộng sản Ba ông bị ảnh hưởng lớn của Stalin và Mao
Trạch Đông, đích của ông là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho đất nước
và đích cao hơn nữa là cách mạng vô sản ở Đông Dương, ở Châu á và toàn thế giở
ông lao của ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước
là rõ ràng. Khó ai có thể bác bỏ hay phủ nhận được. Ông từng bị tù, bị truy nã,
ông từng hy sinh tận tụy cho sự nghiệp ấy. Ông có nếp sống giản dị dù là Chủ tịch
nước, ông không hề giành cho ông những đặc lợi. Ông đã góp phần quan trọng, có
thể nói là công đầu để nước Việt nam độc lặp được sự tôn trọng của thế giới.
(Có người sẽ cãi lại là độc lập gì? Chỉ là tay sai cho Nga xô và Trung Cộng? Đó
là một ý kiến cần chú ý, nhưng theo tôi không thể vì thế mà phủ nhận nền độc lặp
của nước ta được). Bi kịch của cả dân tộc, cũng là của ông Hồ là chính ông đã
đi đầu trong việc đưa chủ nghĩa Mác Lênin, nhất là chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa
Mao vào Việt nam, trong đó chủ nghĩa Stalin là đậm nhất! Vì chủ nghĩa Mác Lênin
được đưa vào rất ít khi bằng những tác phẩm của Mác và Lênin mà đã ít nhiều
Stalin- hóa rồi, thông qua cách giải thích, tóm tắt, giới thiệu của Stalin (Lịch
sử đảng cộng sản Bôn Xê Vích Liên xô; những vần đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Mác với vần đề dân tộc, chủ nghĩa Mác với vấn đề ngôn ngữ...) và một
loạt sách giáo khoa được biên soạn trong thời kỳ Stalin.
Tai họa của chủ nghĩa xã hội hiện thực, dù cho ở Liên xô hay Đông Âu, ở Trung
Quốc hay Việt nam, Cu Ba, Triều Tiên... đều từ đó mà ra. Cho rằng cứ thay đổi
quan hệ sản xuất là sẽ có chủ nghĩa xã hội, hợp tác hóa vội vàng, đưa vào quốc
doanh mọi cơ sở, ngành nghề, thủ tiêu quyền tư hữu, quyền tự do kinh đoành và cạnh
tranh, công nghiệp hóa gấp gáp lấy công nghiệp nặng làm trung tâm, chỉ đạo thô
bạo đời sống văn học cơi hiện thực xã hội chủ nghĩa là bút phát duy nhất... đều
là học theo Staline cả.
Cho đến đảng độc quyền lãnh đạo, không cho phe phái xuất hiện trong đảng, giữ một
khối thống nhất nguyên khối (monolithique) đều mang nhãn hiệu Stalin (thời
Lênin còn cho phép tồn tại các nhóm, các phe phái đa số, thiểu số trong Đảng,
có tỷ lệ khác nhau trong đảng). Và cái tệ Đảng là nhà nước, đồng nhất với nhà
nước, đảng là luật pháp, coi thường luật pháp, đất nước không có trường luật,
không có Bộ tư pháp... đều là từ Stalin và Mao mà ra. Rồi cái tệ sùng bái cá
nhân dẫn đến đảng và chính quyền là của một nhóm lãnh đạo là của một lãnh tụ
duy nhất, sự chuyên quyền độc đoán ngự trị, việc trấn áp, bắt bớ lan tràn cũng
là theo Stalin và Mao mà ra. Rồi học theo Trung Quốc trong nhảy vọt lu bù,
trong cải cách ruộng đất, trong đàn áp văn nghệ sĩ và trí thức qua vụ Nhân Văn
Giai Phẩm đều là do mù quáng tuân theo tư tưởng Mao Trạch Đông. Cùng với ban
lãnh đạo đảng cộng sản, ông Hồ chịu trách nhiệm chính về những thất bại nặng nề
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. Dù cho ông có thiện chí, có mong muốn
tốt đi nữa, nhưng thực tế đã dẫn đến những nổi khổ ải của nhân dân, sự đổ vỡ của
nền kinh tế, sự lạc hậu triền miên của xã hội, tình trạng nghèo đói và bất công
của số đông...
Đó là những vấn đề manh nha từ khi ông còn sống, và ngày càng nặng nề, trầm trọng
thêm từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến nay. Hiện nay, những người lãnh đạo
đang lập nên cơ quan nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh để quảng cáo cho tư tưởng
này, làm cơ sở cho sự "đổi mới"! Vẫn là kiểu làm khiên cưỡng, gán ép,
tô vẽ rất có hại. Chính họ trước đây cho rằng tư tưởng Trạch Đông đã đủ. Chỉ có
tác phong Hồ Chí Minh thôi. Họ chỉ định ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyễn
Giáp... tham gia làm cái việc tán tụng lạc lõng này! Vì thật ra ông Hồ Chí Minh
ít có chính kiến riêng về đường lối chính trị. Đến tinh thần dân tộc trong tiếp
thu chủ nghĩa Mác Lênin như ông Ti- tô ở Nam Tư, ông Hồ cũng không có. Ông tuyệt
đối tin ở đường lối và kinh nghiệm của Liên xô, không một chút phê phán, với
thái độ giáo điều. Ông chỉ có ưu điểm là trong chỉ đạo chiến tranh cùng với một
số người lãnh đạo khác trong đảng không mù quáng theo lời khuyên của Mao là chỉ
nên tiến hành chiến tranh du kích ở miền Nam và cũng không theo sức ép của Liên
xô là phải ngửng chiến tranh để tìm một giải pháp thương lượng nhằm chung sống
hòa bình bằng mọi giá. Còn trong xây dựng, ông hoàn toàn buông lỏng, không chút
tự chủ. Kết luận trên đây rất quan trọng, nó nhắc nhở cho những ai sẽ cầm quyền
ở nước ta là chớ có đi theo mù quáng chủ thuyết này hay chủ thuyết khác, nước
này hay nước khác, coi chế độ ở đây hay ở nơi kia là mẫu mực để noi theo! Ta phải
tìm hiểu kỹ mọi kinh nghiệm đế tạo nên một chế độ thích hợp nhất với ta, với biện
pháp, chính sách, đường đi nước bước của ta, có tính đến sự hòa nhập với thế giới.
Đó là kinh nghiệm đau xót nhất, từ thực tế mấy chục nam qua, phải làm mở to mắt
bất cứ ai sẽ cầm quyền ở nước ta.
Cách mạng Việt nam từ mấy chục năm trước đây có thể đi theo một con đường khác
với con đường đã trải qua hay không? Đây là một giả thuyết của một số người.
Con đường mà Thái Lan, Indonêxia, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Singapore đã đi rất
khác ta. Vậy mà họ đạt đến độc lập, phát triển thịnh vượng, tuy rằng đối với họ
đang có vấn đề dân chủ được đặt ra. Chuyện đã qua rồi, rất khó đặt vấn đề trở lại
với chữ "nếu.
Để mở rộng đường suy nghĩ, xin trích vài đoạn dưới đây từ bức thư của cụ Tây Hồ
Phan Chu Trinh gửi cho anh thanh niên Nguyễn ái Quốc ngày 18 tháng 2 năm 1922.
Lúc này cụ vừa 50 tuổi, hoạt động ở Marseillc. Cụ từng bị tù ở Côn Đảo từ 1908
đến 1911, ra khỏi tù cụ sang Pháp, viết cuốn sách Đông Dương Chính Trị Luận nêu
rõ đường lối đấu tranh không bạo động, tố cáo chế độ thực dân hà khắc và hệ thống
quan lại tham nhũng trước dư luận Pháp. Cụ chủ trương đường lối đấu tranh lấy
văn hóa, giáo dục, dân trí làm nền tảng lâu dài, theo phương châm: khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, có nghĩa là mở mang sự hiểu biết của đông đảo
nhân dân, làm cho khí thế khí phách của nhân dân phấn chấn lên và làm cho cuộc
sống được cải thiện (hậu đây có nghĩa là làm cho dày, cho hậu, cho hùng hậu, chứ
không phải là: cuối cùng là dân sinh, như một số sách dịch nhầm). Chủ trương
này bị Nguyễn ái Quốc cho là thủ cựu.
Bức thư có đoạn viết: "Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (là Phan Văn Trường,
luật sư nổi tiếng về trình độ hiểu biết và lòng yêu nước hồi ấy) đàm đạo nhiều
việc; mãi tới bây giờ anh cũng không ưa gì cái phương pháp Khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi lại không thích cái phương pháp Ngọa ngoại
chiêu hiền, đãi thời đột nội (ngồi ở nước ngoài kéo người tài từ trong nước ra,
đợi thời cơ để trở về gấp) của anh, và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của
Phan. Bởi phương pháp bất hòa mà anh đã nói với Phan là tôi là hạng hủ nho thủ
cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tý nào cả, bởi vì suy ra
thì tôi đã thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở
cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh
Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế, tôi nói thế chẳng hề
dám ví anh là kẻ tử mã lục thạch (4 chữ này, nhà học giả Hoàng Xuân Hãn có ý kiến
dịch là ngựa non háu đá, theo cách nói ví von hóm hỉnh thường thấy ở Cụ Phan
Tây Hồ)".
Bức thư còn viết thêm: "Từ xưa đến nay, từ á sang Âu, chưa có một người
nào làm cái việc như anh. Anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giàng tứ bề, mà về nước
ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền
nên sự hấp thụ lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp Ngọa
ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội; cứ như cái phương pháp ấy thời anh viết bài
đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh
thần nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi!... Anh không
nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác
gì công dã tràng
Cần nhớ rằng Cụ Phan Chu Trinh cùng một lứa thi cử với Nguyễn Sinh Huy, thân
sinh của Nguyễn ái Quốc. Cụ Phan cũng đỗ phó bảng. Cụ hơn Nguyễn ái Quốc 22, 23
tuổi. Trong lá thư trên, rõ ràng Cụ phê phán Nguyễn ái Quốc về phương pháp cách
mạng. Tuy cụ không chấp gì việc Nguyễn ái Quốc nhận xét cụ là bảo thủ, là thủ cựu,
là hủ nho và cải lương, cụ vẫn một mực can ngăn Nguyễn ái Quốc chớ chủ quan cho
phương pháp của mình là đúng. Cụ còn phê phán Nguyễn là xưa nay, từ Âu sang á,
chưa ai làm cái việc như Nguyễn làm. Cái cách làm ấy chỉ phí công? Cụ còn ví
von nói, ngựa non háu đá! Cụ một mực khẳng định con đường của cụ: Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh là con đường đúng đắn cần theo. Con đường cụ Phan chủ
trương gần giống như con đường của các ông Gandhi và Nehru ở ấn Độ. Đó là con
đường bất bạo động, con đường nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, mở mang
học vấn, cổ động tinh thần đấu tranh, đồng thời tranh thủ các thế lực dân chủ
và tiến bộ ở chính quốc. Cụ rất ưa dùng hình ảnh đông tay vỗ nên bộp, nghĩa là
giác ngộ đồng bào, hướng dẫn đông đảo đồng bào đồng tâm đấu tranh, nhiều người
cùng vỗ tay sẽ tạo nên cảnh hưởng ứng rộng lớn, có uy lực buộc kẻ thù nhượng bộ.
Nhiều nhà trí thức có lý khi đặt vấn đề rằng: nếu như hồi ấy đường lối đấu
tranh đại loại như của cụ Phan đề xướng được chạp nhận và thành hiện thực thì đất
nước ta rất có thể đã khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất, có dân chủ
và phát triển, có thể tránh được chiến tranh, và tránh bị cỗ máy nghiền mà chủ
nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao đã đứa đến thông qua đảng cộng sản với biết bao hậu
quả nặng nề mà chưa biết đến bao giờ mới khắc phục được...
CỖ MÁY NGHIỀN: NHỮNG
CÂU HỎI CÒN NÓNG HỔI
Mác và
Engels có biết đâu ở tận chân trời xa xăm bên Châu á, có một dân tộc được biết
về hai ông, được học về hai ông nhiều đến vậy! Tên hai ông được nhắc đi nhắc lại
hằng ngày trên báo, trên đài, trong các nhà trường. ảnh hai ông la liệt đầy
nhà, đầy phố. Và nay tâm lý xã hội cả nước đầu những năm 90 này là cay đắng khi
nghe đến ông. Nếu tỉnh dậy hai ông có thể bàng hoàng, giận dữ nữa, bảo rằng
"chủ thuyết chúng tôi đâu có đơn giản, thô kệch, phi lý đến như vậy?, rằng
"tư duy chúng tôi đâu có ấu trĩ, cứng đờ như người ta gán ghép một cách
tai hại", rằng "chúng tôi chỉ muốn cung cấp cho người đương thời một
phương pháp luận rất uyển chuyển thì các người lại coi đó là những nguyên lý cứng
nhắc không có sức sống". Chúng tôi không nhận ra những gì mang tên chúng
tôi, vẽ nên mặt mũi của chính chúng tôi. Không? Chúng tôi khác hẳn?
Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt nam thì phải nói đến Stalin và Mao Trạch
Đông. Hai lãnh tụ kiệt xuất hay hai kẻ gian hùng? Hai vị lãnh tụ kiểu mới từ
dân, do dân, vì dân hay là hai kẻ độc tài? Hai vị cứu tinh hay hai kẻ tàn phá
cuộc sống của nhân dân? Tất cả đã rõ. Hai nhân vật này đã mang đến Việt nam những
cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng
con người ở Việt nam? Tất nhiên là thông qua "thiện chí mù quáng" của
đảng cộng sản Việt nam. Tất cả bi kịch là ở đó.
Vậy thì xin được kiến nghị với các vị lãnh đạo của đảng cộng sản, hơn 100 vị
trong viện Mác Lênin, hơn 800 cán bộ lý luận của hệ thống trường đảng Nguyễn ái
Quốc... thông báo cho toàn xã hội biết chủ nghĩa Mác Lênin còn có những giá trị
đích thực gì cho đất nước Việt nam ngày hôm nay để nó vẫn được ghi bằng nét đậm
trên Hiến pháp 1992? Rằng họ đánh giá Stalin ra sao, hay vẫn là công 7 tội 3?
Mong rằng ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam họ chỉ ra mọi người được biết
chủ nghĩa xã hội hiện còn tồn tại ra sao? ở đâu? Như thế nào? Và cái chủ nghĩa
xã hội mà họ ghi trên giấy trắng mực đen trong cương lĩnh và đang được quá độ
xây dựng hình thù nó ra sao? Và vì sao các vị lại mời ông Lý Quang Diệu làm cố
vấn, mời chuyên gia pháp luật của chính phủ Pháp giúp để thảo các bộ luật mới?
Họ là những người nắm chắc chủ nghĩa Mác Lênin chăng? Họ là những nhân vật kiệt
xuất soi sáng con đường Việt nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội chăng? Không dứt
khoát đoạn tuyệt với sai lầm trong quá khứ thì không thể tìm ra con lường đúng
đi đến tương lai.
Không phải là ai khác, chính ông Viện trưởng Viện Mác Lênin ở Hà nội là Đặng
Xuân Kỳ, con ông Trường Chinh từng tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội ở Việt nam sẽ
ra sao, chúng tôi chưa hình dung được, chúng tôi còn phải nghiên cứu! Nhiều cán
bộ ở Viện Mác nin cũng nói: mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt nam chưa có, hiện cứ
vừa làm vừa tìm tòi thế là cứ nhắm mắt mà đi! Đi vào chốn tù mù đáng sợ! Và họ
vô tình giam cả đất nước vào một khối tù mù! ở Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình
đang lãnh đạo nước Trung Hoa quá độ đi về chủ nghĩa tư bản, một kiểu chủ nghĩa
tư bản do đảng cộng sản lãnh đạo, theo kinh tế thị trường. Thà ràng cứ nói thẳng
như vậy.
ở Việt nam, đảng cộng sản Việt nam đang lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
với nền kinh tế thị trường, với 5 thành phần kinh tế, mà khu vực quốc doanh là
chủ đạo, là then chốt. Một mô hình đầu Ngô mình Sở, sẽ không có chủ nghĩa xã hội,
cũng sẽ chẳng có chủ nghĩa tư bản; một sự pha trộn giữa nước và lửa; một sự
ghép lại của những điều trái ngược, phủ định nhau. Sẽ chỉ đẻ ra một quái thai:
xã hội hỗn loạn, không pháp luật, một số kẻ đặc quyền thao túng, nạn tham nhũng
buôn lậu thành dịch, giàu nghèo phân hóa theo hai cực, đất nước thành mồi béo
cho các nhà tư bản nước ngoài ranh ma và lão luyện thao túng, tài sản quốc gia
bị thất thoát vào mọi túi tham trong và ngoài nước. Tất cả trong không khí tù
mù về lý luận và đường lối!
Trách nhiệm thuộc về ai? Về đảng. Đảng là ai? là cơ quan lãnh đạo hay cả gần
hai triệu đảng viên cộng sản? Trách nhiệm tập thể. Nghĩa là không có ai chịu
trách nhiệm cá nhân cả. Cá nhân nấp kín sau tập thể khi đổ vỡ. Tất cả đều phủi
tay! Chỉ riêng vụ sai lầm cải cách ruộng đất là có kỷ luật cá nhân. Thế nhưng kỷ
luật cũng như không! Ông Trường Chinh mất chức Tổng bí thư thì sau đó lại được
làm chủ tịch Quốc hội, rồi trở lại quyền Tổng bí thư. Ông Hoàng Quốc Việt sau
đó làm chủ tịch Tổng công đoàn, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc; ông Lê Văn Lương sau
khi b! kỷ luật, vào lại Ban bí thư và kiêm Bí thư Thành ủy của Hà nội. Ai lập
công đầu tận diệt nền công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc hồi 1956, 1957, diệt
trừ sức sản xuất mới của tầng lớp tư sản dân tộc, làm điêu đứng cả người lao động?
Ai phải chịu trách nhiệm chính làm cho bộ đội ta sa lầy, chuốc lấy hậu quả kinh
khủng: 50 ngàn chiến sĩ chết oan, 200 ngàn bị thương (phần lớn là cụt chân do
mìn Trung Quốc), ngân sách quân sự táng quá đáng, bị cả thế giới tẩy chay, trừng
phạt, chỉ vì giấc mơ hão liên minh ba nước Đông Dương!
Nếu trách nhiệm cá nhân rõ ràng thì rất khó mà ông Lê Đức Anh có thể thu được
100% phiếu ngon ơ! Có thể thấp hơn nhiều, và cũng có thể dưới 50% và dưới nữa,
dưới nữa nếu có một nền dân chủ đích thật, có tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Tai họa của đất nước đến từ đâu? Ai là người chịu trách nhiệm? Câu hỏi này xoáy
sau trong óc của tất cả những nạn nhân trong toàn xã hội. Cỗ máy nghiền mang
nhãn hiệu ngoại lai và những người cầm lái cho chạy cỗ máy ấy trên đất nước ta
là nguyên nhân và người chịu trách nhiệm về thảm họa dân tộc hiện nay.
Nếu nguyên nhân và trách nhiệm về cuộc khủng hoảng hiện nay của đất nước được
làm rõ thêm chút nào qua phần viết này của cuốn sách, người viết cảm thấy sung
sướng vì đã góp phần đề cập đến một vấn đề hệ trọng trong lịch sử của đất nước,
nhằm tìm ra một lối thoát cho quê hương.
PHẦN II
NHỮNG HỒ SƠ CHƯA KHÉP
Bất cứ một
nhà nước nào cũng phải tự bảo vệ mình. Quân đội và cảnh sát được lập nên để bảo
vệ chủ quyền, lãnh thố của đất nước, an ninh của xã hội. Nước Việt nam cũng
không thể ở. ngoài quy luật tất yếu ấy.
Thế nhưng nếu cường điệu đấu tranh giai cấp, cường điệu chuyên chính vô sản sẽ
dẫn đến một chế độ độc đoán, đàn áp những công dân bất đồng chính kiến với nhà
cầm quyền, trên thực tế là tước đoạt và chà đạp lên quyền tự do của công dân.
Nhất là khi xã hội không có luật sư tự do để giúp công dân nắm chắc pháp luật
cũng như quyền hạn nghĩa vụ của mình, thì người công dân dễ dàng bị mất tự do
mà không biết cách nào giành lại tự do. ở một chế độ cực quyền, đảng đồng nhất
với nhà nước, thì tai họa đối với người công dân, người dân đen, người phó thường
dân như ta thường nói, không sao lường hết lược. Những người ngay thật, dũng cảm
hay nhẹ dạ thường bị thiệt thòi và vùi dập. Đó là tình hình ở Liên xô, ở Đông
Âu, ở Trung Quốc, ở Cu Ba và ở cả Việt nam ta, trong các nước xã hội chủ nghĩa
hiện thực, cùng đúc trong một khuôn mẫu
Đã đến lúc toàn xã hội ta nhìn lại nửa thế kỷ qua, nhận rõ những sai lầm đã phạm
phải để rút kinh nghiệm và thực hiện công bằng đối với những người bị oan ức, để
xây dựng một xã hội có pháp luật trong đó người công dân sống ung dung, yên ổn
trong danh dự và nhân cách, không bị nơm nớp lo sợ; để ai cũng ngẩng cao đầu
không khúm núm, sợ sệt. Có nhìn quá khứ một cách rõ ràng, sòng phẳng, có trách
nhiệm mới xây dựng được một nền dân chủ công minh và hiện đại, một xã hội đáng
sống.
Xí xóa ư?
Hay gì cứ
bới móc những chậu cũ! Sẽ có người kêu lên vậy Họ cho rằng cần nhìn thẳng tới
phía trước, những gì đã qua thì cho qua! Những người trong cuộc, bị oan ức kẻng
kêu, những kẻ đứng ngoài lại kêu to để hòng gây rối! Lập luận này không đứng vững.
Mọi việc oan ức trong quá khứ cần nhìn lại cho rõ ràng, kết luận lại nếu cần,
minh oan cho những người bị xử trí oan. Không phải để trả thù, cũng không phải
để truy cứu tội lỗi của ai (tuy việc này có trường hợp cần làm) mà chủ yếu là để
rút kinh nghiệm chung cho xã hội.
Đúng là dân tộc ta rất cao thượng, nhân dân ta số đông có lòng nhân ái và độ lượng.
Họ sẵn sàng đại xá cho những người lầm lỗi từng gây oan ức cho người công dân.
Thế nhưng không thể lợi dụng lòng tốt ấy để xí xóa tất cả, để cho chìm vào bóng
tối tất cả những việc làm xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, thân thể, tài sản
của công dân. Và người bị oan chỉ có thể độ lượng khi những kẻ gây ra tội lỗi
nhận thật rõ sai tâm và có lời xin lỗi chính thức và công khai. Đó là lẽ thường
tình trong đời sống xã hội.
Hơn nữa, lịch sử đất nước ta cần nhìn lại và viết lại. Mỗi người công dán có
công tâm, mỗi nhà sử học biết tự trọng và có trách nhiệm cần giúp một ta góp phần
viết lại lịch sử của đất nước mình một cách khách quan, trung thực, không bị
bóp méo và xuyên tạc theo yêu cầu hất thời của giới cầm quyền.
Lịch sử dân tộc có liên quan đến việc đánh giá những con người tham gia việc
hình thành lịch sử, đến việc nhìn lại cho đúng những nhân vật bị thanh trừng, bị
thất sủng, bị xử trì, từ đó lập lại công bằng cho những nhóm người và những người
có liên quan bị xử trí sai, bị vu cáo, bị án oan. Tôi được biết cho đến nay có
đến hàng nghìn người bị xử trí oan mà chưa được kết luận lại. Có người đã gửi
hàng trăm lá đơn đến các cơ quan có thẩm quyền, từ tòa án tối cao, viện kiểm
sát tối cao, thanh tra chính phủ, ban kiểm tra của trung ương đảng, các cơ quan
an ninh, cảnh sát, các cơ quan ngôn luận... vậy mà vẫn cứ là biệt vô âm tín.
Tôi đã tận mắt thấy ở văn phòng báo Nhân dân, các cô văn thư nhận những lá đơn
ngoài bì đề rõ: đơn thứ 24, đơn thứ 76, có lá đơn ghi đến dân thứ 120? Thật là
kêu trời không thấu. Cơ quan này đá sang cơ quan kia, dưới đệ lên trên, trên
chuyển xuống dưới, dồn cho nhau, thế là yên, còn sự việc vẫn để đó, không ai
thèm xem xét đến. Nỗi oan khiên cứ việc tồn tại, cứ việc lưu cữu, cứ việc hành
hạ những gia đình và những con người... cho đến tận khi chết vẫn còn ôm hận
sang thế giới bên kia!
Xã hội không có pháp luật lõ ràng, lại không có cả một đội ngũ luật sư tự do giỏi
nghiệp vụ đê bênh vực cuộc sống của người công dân, lại không có tự do báo chí,
tự do ngôn luận, để nêu lên những trường hợp ngang trái tiêu biểu nhất, gây sức
ép của dư luận đòi hỏi phải giải quyết đến nơi đến chốn. Những người có trách
nhiệm ở Viện kiểm sát, ở các ban thanh tra thú nhận rằng đơn từ xếp đống từ nền
lên đến trần nhà (ở Viện Kiểm sát nhân dân thủ đô Hà nội và thành phố Hồ Chí
Minh), nhưng chỉ giải quyết theo kiểu nhỏ giọt. Hãy cho một số nhà báo có công
tâm khui ra một vài vụ tiêu biểu. Chả lẽ tình cảm của xã hội nay đã trở nên trơ
như đá, không mảy may động lòng thương cảm, xót xa cho những người bị oan đầy rẫy
thông xã hội, hậu quả của một thời kỳ dài sống dưới chế độ chuyên quyền, độc
đoán, coi thường quyền công dân, cá nhân nấp sau tập thể để trốn trách nhiệm và
làm bậy.
ở nông thôn nước ta, tôi được biết tình hình còn thê thảm hơn nữa. Không ít nơi
chính quyền nằm trong tay những cường hào mới, họ xây dựng quyền lực theo dòng
họ, phe nhóm, án cánh với nhau, bênh che nhau, hà hiếp những người dân đen thấp
cổ bé họng, dèm pha dọa dẫm người này, vu cáo kẻ khác, thêu dệt đủ chuyện để
bôi nhọ những người lương thiện, trả thù những người ngay thẳng có công tâm,
gây nên vô vàn cảnh oan ức, đày đọa cuộc sống của biết bao công dân.
Nhiều người nông dân không còn biết kêu oan cho ai, ở đâu "quan" thì
xa, "lại" thì gần; "quan" thì quan liêu, "lại"
thì nhũng nhiễu, không biết luật sư là gì, không biết ai cầm cân công lý, nên
chỉ còn biết nhẫn nhục chịu đựng. Họ không biết, cũng không được hướng dẫn về
quyền công dân trong xã hội, không am hiểu luật pháp, kể cả những điều sơ đẳng
nhất? Họ là những công dân loại hai trên thực tế, vô hình bị tước quyền công
dân, bị hà hiếp mà không biết phản ứng ra sao để tự vệ. Họ cần mẫn lao động
ngoài đồng ruộng, lo cho gia đình riêng, vậy mà vẫn không được yên ổn, con cái
bị phân biệt đối xử, có khi chỉ vì thuộc một họ tộc khác, vây cánh không có, thần
thế càng không. Có người hồi còn tạm chiếm, bị bắt buộc đi lính bảo an, dân vệ,
vài tháng bị buộc làm hội tề, thế là bị lý lịch "xấu, "liên quan với
địch", không sao gỡ ra được nữa, thua thiệt suốt đời. Ngược lại có kẻ trước
kia thực sự tham gia chính quyền cũ còn áp bức nhân dân, cậy thần thế áp chế
nông dân, thế mà do khôn khéo nịnh bộ cán bộ, lại tạo nên thế chính trị mới
trong đảng, trong chính quyền để cưỡi đầu cưỡi cổ dân. Nhìn ra nước ngoài, lại
hầu hết các nước, người công dân đã hiểu và đã hưởng cuộc sống trong pháp luật
là thế nào, họ biết luật pháp cấm họ, răn đe họ không được xâm phạm tự do của
người khác ra sao và cũng biết cách không cho phép ai xâm phạm đến thân thể,
tài sản, danh dự của mình. Họ hiểu rằng trong xã hội, họ bình đẳng với mọi người,
kể cả những người quyền cao chức trọng nhất. Họ sống ung dung, thư thái, đàng
hoàng, không bị ai quấy rầy. Thủ tướng khi có lỗi, có tội, cũng phải ra hầu
tòa, như ông Laurent Fabius, trước là thủ tướng Pháp, đầu năm 1993 cũng bị tòa
án triệu tập đến để điều tra về trách nhiệm của ông trong vụ truyền máu cách
đây 6,7 năm, làm cho mấy chục người bị nhiễm SIDA...
VỤ ÁN 48 NĂM TRƯỚC
Tháng ba
1993 vừa qua, trên đài RFI (Pháp), ông Hoàng Khoa Khôi thuộc tổ chức đệ tứ quốc
tế (Troskýt) đã nói đến vụ ám sát nhưng người lãnh đạo troskyt ở Việt nam hồi
1945. Ông nhắc đến cái chết của các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch...
và mong rằng các vụ án này sẽ được đưa ra ánh sáng. Đã có hơn 100 nhân vật
chính trị và khoa học, văn hóa ký tên đòi phục hồi danh dự cho Tạ Thu Thâu, vì
khi ông bị Việt Minh giết hại trong một nhà tù tại vùng ven biển Mỹ Khê (Quảng
Ngãi) vào tháng 9- 1945, ông bị kết tội là Việt gian, tay sai của phát xít Nhật!
Hai ông Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch cũng đều bị Việt Minh bắt và giết tại Dĩ
An (Thủ Đức- Sàigòn) cùng một thời gian ấy.
Tạ Thu Thâu sinh năm 1906 ở Long Xuyên, Nam Bộ, học tại trường Chasselup-
Laubat Sài Gòn, đậu tú tài Pháp năm 1925. Ông sang Pháp năm 1927 để học chương
trình cử nhân toán học. Ông tham gia thành lập Việt nam Độc Lập Đảng, ra báo La
Résurrection (Nổi Dậy), tổ chức phong trào sinh viên Việt nam ở Pháp. Năm 1929
ông tham gia phong trào Trốt kýt Pháp, phê phán chính sách hẹp hòi của Đảng cộng
sản Pháp trong vấn đề thuộc địa. Ông bị trục xuất về Sài gòn sau khi tổ chức cuộc
biểu tình trước điện Elysées, Paris, ngày 2 tháng 5 năm 1930, lên án việc chính
phủ Pháp hành quyết những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Về nước ông lập
phong trào Tả đối lập, rồi lập ra tờ báo La Lutte (Tranh đấu). Tháng 5- 1935
ông được bầu vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn, trở thành nhân vật lãnh đạo nổi bật
nhất các cuộc đình công và biểu tình lớn trong hai năm 1936 và 1937. Cùng với
hai ông Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch, ông được bầu vào Hội đồng Thuộc địa Nam
Kỳ tháng 4 năm 1939. Trong cuộc đàn áp lớn khi chiến tranh thế giới nổ ra, ông
bị bắt tháng 4 năm 1940 và bị đày ra Côn Đảo tháng 10 năm 1940. Ông ra tù cuối
năm 1944. Giữa năm 1945 ông lên đường ra Bắc, giữa đường thì Cách mạng tháng 8
nổ ra, ông quay về Sài Gòn thì bị Việt Minh bắt.
Điều rất mỉa mai là Tạ Thu Thâu, nhà trí thức Trôi kýt xuất sắc đã chủ trương bắt
tay chặt chẽ với nhưng người cộng sản thuộc đệ tam quốc tế, lập mặt trận chung
chống đế quốc. Ông là bạn thân của Nguyễn Văn Tạo (1908- 1972) vốn là ủy viên
trung ương đảng ông Sản Pháp, của Dương Bạch Mai (1904- 1965) đảng viên đảng cộng
sản Đông Dương. Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai đều
trúng cử vào Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn tháng 5- 1935 vả cũng là linh hồn của tờ
báo La Lutte (Tranh Đấu) rất có ảnh hưởng hồi ấy.
Chính sự hợp tác chặt chẽ giữa những người Trốtkyt và những người cộng sản theo
tinh thần rộng rãi của Mặt trận Bình dân Pháp đã làm cho phong trào cách mạng mở
rộng, tổ chức các công đoàn phát triển. Đến cuối năm 1937, Mặt Trận Bình dân
suy yếu, Đảng Xã Hội Pháp đi ngược lại cương lĩnh của họ trong ván đê thuộc địa,
đảng cộng sản bị Stalin hóa, nhóm La Lutte tan vỡ.
Cuộc đấu tranh trở nên gay gắt về đường lối và biện pháp cách mạng giữa Tạ Thu
Thâu, Nguyễn An Ninh và Hà Huy Tập, Tổng bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương
khi Mặt Trận Bình Dân tan rã. Đảng cộng sản Đông Dương chịu ảnh hưởng nặng nề của
chủ nghĩa Stalin và bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mao, đề xướng việc hình thành Mặt
Trận Dân Chủ, trong đó Đảng cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo. Việc hình thành Mặt
Trận Việt Minh năm 1941 là theo tinh thần biệt phái như thế.
Đến năm 1939 qua những cuộc vây ráp rộng lớn của mật thám, phong trào cách mạng
đi vào thoái trào. Những người cộng sản và những người trôtkýt gặp nhau ở Côn Đảo,
tiếp tục tranh luận về đường lối cách mạng Việt nam. Các cuộc tranh luận, cãi
vã đôi khi dẫn đến xô xát và thanh toán lẫn nhau? Những vụ án Moscou nổ ra,
Stalin kết tội Trốt- kyt là phản bội! Những người theo Trôt- kyt bị Stalin tàn
sát với danh hiệu: phản bội đảng, làm gián điệp cho phát xít Đức. Cuối năm
1939, Nguyễn ái Quốc trong báo cáo gửi quốc tế cộng sản chỉ rõ: "Đối với bọn
trốtkýt, không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ
chúng như là tay sai của phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị". Sau
đó, từ Trung Quốc ông gửi thư về nước, chỉ rõ: "Bọn trốtkýt là một lũ bất
lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát xít Nhật và chủ nghĩa phát xít quốc
tế.
Xin nhớ trên số báo Pravda ở Moscou, ra ngày 14 tháng 3 năm 1937, Staline đã viết:
"Chủ nghĩa Trôt- kýt dùng phương pháp đấu tranh hèn hạ nhất, nhơ bẩn nhất,
khốn nạn nhất. Nấp trong bóng tối, đàn chó Trốtkyt tụ tập những kẻ không còn
tính người, sẵn sàng gây mọi tội ác... Khủng bố cá nhân là phương pháp hành động
của bọn chó săn Trốtkýt".
Nguyễn ái Quốc còn nhắn về nước: "Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc bản
xử án bọn Trốt kýt ở Liên xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ
mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốtkyt và bọn Trốtkýt" (Hồ chí Minh Toàn Tập,
tập 3, trang 97).
Vu khống, chụp mũ những người trốtkýt Việt nam, ám sát, thủ tiêu những người
lãnh đạo trốtkýt như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch là những người bạn
chiến đấu một thời của những người cộng sản, những người lãnh đạo đảng cộng sản
Đông Dương đã thực hiện chủ nghĩa Stalin, đã phạm một tội ác trong lịch sử đấu
tranh giành độc lập của dân tộc. Yêu cầu của những người troskyt Việt nam hiện
nay được các trí thức quốc tế ủng hộ là khôi phục danh dự cho những người bị
sát hại với cái tội là "Việt gian" là một yêu cầu chính đáng, không
thể bỏ qua được.
MỘT THỜI KỲ HẤP DẪN ĐỐI
VỚI CÁC NHÀ SỬ HỌC
Nhà sử học
Pháp Daniel Hemery chuyên nghiên cứu lịch sử Việt nam vừa viết một bài báo dài
nhan đề "Sài Gòn Đỏ", kể lại tình hình ở đó trong những năm trước chiến
tranh thế giới thứ hai. Ông đã dựa vào một số tư liệu mới lấy từ kho lưu trữ của
Bộ Thuộc Địa Pháp và Sở Mật thám Dông Dương hồi ấy. Những điều ông viết rất
khác với nội dung mà sách xuất bản ở Hà nội từng nói về phong trào đấu tranh
trong những năm ấy. Theo Daniel Hemery, trong những năm 30, Sài gòn trở nên một
địa bàn đấu tranh sôi động nhất. Phong trào đòi dân chủ của Việt nam khởi đầu tại
đó. Đó là một cuộc nổi dậy vừa chống Khổng giáo, vừa chống chế độ thuộc địa. Chế
độ thuộc địa ở Nam kỳ, khác với chế độ bảo hộ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc đấu tranh. Hội đồng Thành phố Sài Gòn và Hội đồng Thuộc địa
Nam Kỳ được bầu, tạo nên một đời sống chính trị và công luận vì cùng với công
dân Pháp, một số người bản xứ cũng có quyền bầu cử. Báo chí tiếng Pháp và tiếng
Việt phát triển rất mạnh, hơn hẳn ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đó là La Dépeche
dIndochine, LImpartial, La Tnbune Indochmoise, Echoannamite của Bùi Quang Chiêu
và Nguyễn Phan Long; Đuốc Nhà Nam của Nguyễn Phan Long. Tờ Le Bulletin
Socialiste de la Cochinchine của cánh xã hội cũng được phát hành.
Phong trào cải cách xã hội được Nguyễn An Ninh (1900- 1943) mới đậu cử nhân luật,
đề xướng vào cuối năm 1923, vừa phê phán Khổng giáo, vừa phê phán cái gọi là sứ
mệnh khai hóa của nước Pháp, đòi quyền tự do của công dân và cải tạo xã hội.
Ông chỉ rõ: nền văn minh phương Đông có thể kết hợp với nền văn minh phương
Tây. Ông mạnh dạn đề xướng việc cải cách văn hóa và nếp sống, không nên quan niệm
chữ hiếu một cách cổ hủ, bố mẹ bắt buộc con cái phải tuyệt đối cúi đầu vâng lời
cũng như quan niệm áp bức người phụ nữ. Báo Phụ Nữ Tân Văn ra mắt từ năm 1929 ở
Sài Gòn theo tinh thần ấy. Nguyễn An Ninh cũng ra tờ báo La Clochc fêlée (Cái
Chuông Rè) từ đầu năm 1924, gây thêm tiếng vang sâu rộng
Sự kiện Nguyễn An Ninh bị bắt vào tháng 3 năm 1926, rồi ngày 4 tháng 4 năm đó lễ
tang Phan Chu trinh đã tạo nên những cuộc đấu tranh qui mô lớn. Riêng ở Sài
Gòn, hàng chục nghìn lao động, tập họp theo ngành: thợ may, thợ giày, thợ cắt
tóc, thợ nề, thợ mộc, kéo xe, công nhân cảng, cùng đội ngũ học sinh biểu tình
và tuần hành. Một số học sinh bị bắt, thế là bãi khóa diễn ra rộng khắp. Nguyễn
An Ninh liền lập ra Việt nam Cao Vọng Đảng, hoạt động chủ yếu gồm thanh niên, học
sinh, công nhân... trong hai năm 1927 và 1928.
Hồi ấy Sài gòn đã trở thành trung tâm công nghiệp lớn nhất Việt nam, với 50
ngàn thợ thuyền như xưởng đóng và sửa tàu (1500 thợ), xí nghiệp thuốc lá, xay
xát gạo, đường sắt, cảng..., trong đó đã có một số thợ kỹ thuật có tay nghề khá
cao. Phong trào công nhân tác động mạnh đến các vùng nông thôn và đồn điền.
Tháng 2- 1930, 3000 phu đồn điền Phú Riềng bãi công và chiếm đoạt một phần cơ sở
trong đồn điền rộng lớn này. Theo thống kê của Sở Mật Thám Đông Dương, chỉ
trong mùa hè 1930 đã có 125 cuộc đấu tranh ở 13 tỉnh trong tổng số 21 tỉnh Nam
Bộ. ở Sài gòn, viên thanh tra cảnh sát Legiand bị giết chết trong cuộc đấu
tranh bởi anh thanh niên Nguyễn Huy mới 14 tuổi; Cậu thanh niên dũng cảm này bị
án chém. Cuộc đàn áp diễn ra rất tàn bạo, đồng thời ở Nam Kỳ và ở Nghệ An.
Tháng 4- 1931 hầu như toàn bộ Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Đông Dương
bị bắt, Tổng bí thư Trần Phú chết trong khi bị tra tấn ở Sở mật thám. Chỉ riêng
ở Sài Gòn 3500 chiến sĩ cách mạng bị đưa ra tòa án. Riêng phiên tòa đại hình
Sài Gòn diễn ra từ ngày 2 đến ngày 7 tháng 5 năm 1933 xử 131 người; 8 người bị
kết án tử hình, tòa kêu án tổng cộng 900 năm tù cho 101 người. Thoái trào bắt đầu
từ đó.
Cũng chính từ Sài Gòn, phong trào cách mạng được hồi phục nhanh và mạnh khi xuất
hiện phong trào Mặt Trận Bình Dân ở Pháp. Vai trò đầu tàu của cuộc hồi phục thuộc
về nhóm Trốtkýt Việt nam từ Pháp trở về. Họ vừa bắt tay với những người cộng sản
vừa phê phán Đảng cộng sản Đông Dương về tinh thần quốc gia có phần hẹp hòi, ít
tinh thần giai cấp công nhân, cũng như về xu hướng theo Stalin của Đảng cộng sản.
Nhóm La Lulte hoạt động mạnh, như phần trên đã nói; điều cần nói thêm là thế lực
Trốtkýt lên khá mạnh trong trí thức, sinh viên, học sinh, thợ thuyền Sài Gòn, với
lá cờ búa liềm đỏ mang số 4 (đệ tứ). Phong trào Đông Dương Đại Hội lên mạnh, có
tới 600 ủy ban hành động ở Sài gòn và vùng lân cận, trong đó thế lực của nhóm
Trốt kýt vẫn ở hàng đầu. Hồi đó thế và lực của Đảng cộng sản lại là ở Bắc Kỳ, ở
Trung Kỳ (chủ yếu là vùng Nghệ An, Hà tĩnh), ở Hoa Nam và một số vùng Thái Lan.
Tất cả những nét đấu tranh trên đây chưa được phản ánh đúng trong các cuốn lịch
sử phong trào cách mạng và công nhân do những người cộng sản chỉ đạo việc soạn
thảo. Cái khuynh hướng viết sử để tự đề cao tổ chức của mình, hạ thấp các tổ chức
khác, thậm chí chụp mũ "Việt gian" bừa bãi cho những người không theo
mình, làm cho sự thật bị xuyên tạc, bóp méo, là thái độ không khoa học. không
lương thiện. Nhiệm vụ các nhà sử học chân chính việt cho thật đúng lịch sử còn
rất nặng nề vậy.
TỪ NHỮNG CÁCH YÊU NƯỚC
KHÁC NHAU
Trong các
giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay, nhiều sự kiện, nhân vật...
cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt nam Quốc Dân Đảng sau cuộc
khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức Việt nam Quốc
Dân Đảng sau đó rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân, cũng như cách Mạng
Đồng Minh Hội... đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sau của
Quốc Dân Đảng Trung Quốc, tay sai của thực dân Pháp, hay của đế quốc Mỹ; nói
tóm lại, những tổ chức ấy đều là những tổ chức "Việt gian", là kẻ thù
của dân tộc. Đó là quan điểm chụp mũ nhưng người không chịu theo Đàng cộng sản,
nhưng người bất đồng chính kiến về chính trị với Đảng cộng sản là kẻ thù tuốt.
Họ tự nhận, chỉ những người cộng sản mới là đấu tranh cho dân tộc, mới là người
yêu nước; còn mọi người khác đều là ở trận tuyến đối lập, đều chống lại tổ quốc
và nhân dân...
Trong các cuốn sách lịch sử, trên báo chí, đài phát thanh, những nhân vật như
Trần Trọng Kim làm Thủ tướng sau cuộc đảo chính 9- 3- 1945 bị coi là phản động,
bù nhìn và tay sai cho đế quốc Nhật; Phạm Quỳnh, nhà văn hóa, nhà báo, chủ nhiệm
tờ Nam Phong, sau làm Thượng thư Bộ Giáo Dục rồi Bộ Lại của Nam Triều Bảo Đại
cũng bị gán tội là Việt gian, tay sai thực dân Pháp, bị Việt Minh giết đầu
tháng 9- 1945 ở Huế, Ngô Đình Diệm, Thủ tướng rồi Tổng thống ở miền Nam Việt
nam, bị coi là phản động, Việt gian, do CIA Mỹ huấn luyện và đào tạo. Rồi một
loạt nhân vật chính trị, văn hóa khác như: Võ Hồng Khanh, Nguỵ Tường Tam, Khái
Hưng, Hoàng Đạo,.. cũng bị nhận định là phản động, bán nước, Việt gian, tay sai
thực dân và đế quốc...
Ngay ở trong đảng cộng sản, việc chụp mũ cho một số người là phản bội, la
"xét lại", là "chống đảng" trong một loạt vụ án nội hộ cũng
rất tùy tiện. Hoàng Văn Hoan, ủy viên bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt nam sau
khi bất đồng chính kiến với ban lãnh đạo đảng, trong một chuyến đi ra nước
ngoài đã ở lại Pakistan rồi sang Trung Quốc, bị kết tội là phản bội và bị kết
án tử hình. Một số nhân vật như: Thượng tướng Chu Văn Tấn Tư lệnh Quân khu Việt
Bắc, ủy viên đảng ủy quân sự Trung ương, Phó chủ tịch Quốc Hội; Trung tướng
Nguyễn Vịnh, Trưởng ban Thống Nhất của Trung ương đảng; Thiếu tướng Đặng Kim
Giang, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần; Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện triết
Học; Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ Tân, Bộ ngoại giao; Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng
Bộ ngoại giao cũng từng bị nhận định trong nội bộ đảng là phản bội, theo chủ
nghĩa xét lại chống đảng và là tay chân của nước ngoài... Việc chụp mũ những
người không có cùng chính kiến với Đảng cộng sản là "Việt gian" có thể
là một kiểu cách học theo Đảng cộng sản Trung Quốc hồi nội chiến Quốc Cộng: Đảng
cộng sản Trung Quốc coi những kẻ hợp tác với phát xít Nhật là Hán gian; coi
chính phủ Uổng Tinh Vệ là Hán gian, tay sai Nhật. Về sau chữ Hán gian được dùng
rộng rãi, cứ ai không đồng tình và phê phán đường lối của Đảng cộng sản Trung
Quốc thì đều là Hán gian cả... Từ hai chứ Hán gian mà sinh ra hai chứ Việt
gian. Đã là Việt gian thì đáng tội chết, đáng bị xử tử.
ở phía trận tuyến đối lập, thường gọi là phía quốc gia, trên báo chí hải ngoại,
cũng có những người có quan điểm cực đoan, coi những người lãnh đạo cộng sản mới
là "phản động", là "tay sai của Nga xô", "tay sai của
đệ tam quốc tế, là "bán nước cho Nga cộng và Trung Cộng", là cõng rãn
cắn gà nhà, là nguyên nhân của chiến tranh huynh đệ tương tàn, là nguồn gốc mọi
đau khổ và tổn thất của đồng bào... Họ không ngần ngại dùng những từ ngữ xấu xa
nhất để chụp lên đầu những người lãnh đạo của đảng cộng sản.
Tất cả những điều trên là hậu quả của một thời kỳ lịch sử. Đã đến lúc tỉnh táo
nhìn lại và đánh giá một cách điềm tĩnh, khách quan. Có thể nói, ở các bên, chỉ
có một số ít người đi làm chính trị để nhằm kiếm chác tiền tài và danh vọng. Phần
lớn đi làm chính trị là nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội.
Họ chịu đựng những hy sinh, tổn thất trong dấu tranh, có khi bị bắt bớ, tù đày.
Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà họ
cho là đúng đắn. Họ lại phải tính đến những thế lực quốc tế, đến cuộc đấu tranh
giữa những thế lực quốc tế ấy ở trong khu vực và trên thế giới. Và họ tìm chỗ dựa,
tìm sự giúp đỡ và ủng hộ của bên này hay của bên kia, trong cuộc đấu tranh của
tổ chức chính trị mà họ dựng lên hay tham gia ấy cho nên cần quan niệm một cách
khách quan rằng: ở bên này hay ở bên kia, trong tổ chức này hay tổ chức khác,
những người hoạt động chính trị trong thời kỳ lịch sử vừa qua đã có những cách
yêu nước khác nhau, dẫn đến đường lối và biện pháp khác nhau. Trong đấu tranh
quyết liệt đối địch nhau, họ coi nhau là kẻ thù và có những nhận định quá đáng
về nhau. Nay lịch sử đã sang trang, cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng
nhau ở động cơ yêu nước, có thể phê phán nhau về đường lối và phương pháp,
không nên giữ mãi hận thù kiểu sống mái và triệt tiêu nhau. Những người cộng sản
đã thắng trong chiến tranh, do họ đã dựng được lá cờ yêu nước trong nhân dân,
nhưng họ đã thất bại trong xây dựng đất nước do đã không giữ đường con đường tự
chủ tự lập. Đó là bi kịch của họ, cũng là bi kịch cửa đất nước do họ độc quyền
lãnh đạo. Sớm muộn những thế lực lành mạnh của đất nước vốn ở hai trận tuyến đối
lập, sẽ biết tìm thấy nhau, bắt tay nhau, hợp tác vì nghĩa lớn: xây dựng một nước
Việt nam độc lập, dân chủ, phát triển và phồn vinh, trong dó luật pháp được tôn
trọng và công bằng xã hội được thực hiện, hòa nhập với thế giới ngày nay. Đến
lúc ấy danh từ "ngụy" cũng sẽ biến hẳn đi, để trong hồ sơ, lý lịch,
lưu trữ của chính quyền, trên sách, báo, trong lời nói, không còn có ai bị xúc
phạm, khinh thị, bị phân biệt đối xử là thuộc "ngụy quân" và "ngụy
quyền" như từ 1975 đến nay. Đáng lý ra, ngay sau khi ấy, danh từ "ngụy"
đã không nên không được dùng đến, cũng như những lớp "học tập cải tạo
không nên có; thực tế đó là những trại giam của những người chiến thắng nhằm
giam cầm, đầy đọa những người thua trận, làm cho chữ "giải phóng" trở
nên một tai họa ghê gớm cho hàng triệu con người, kéo dài oán thù lẽ ra đã có
thể sớm nguôi ngoại và chấm dứt.
ĐOÀN KẾT VÀ HÒA GIẢI
HÒA HỢP
Chữ đoàn kết
được nêu lên không biết đến bao nhiêu lần trong các văn kiện của đảng cộng sản.
Đoàn kết dân tộc. Đoàn kết quốc gia. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công. Có báo Đoàn kết, câu lạc bộ Đoàn kết, cửa
hàng Đoàn kết, cho đến bánh kẹo cũng mang nhãn hiệu Đoàn kết. Đoàn kết nghĩa là
bắt tay nhau, chung lòng chung sức, hợp quần, đồng tâm nhất trí để phấn đấu...
Thế nhưng đối với những người lãnh đạo cộng sản, chữ đoàn kết có ý nghĩa khác
với ý nghĩa thông thường. Theo họ, đoàn kết luôn có nghĩa, và chỉ có một ý
nghĩa là: Theo tôi! Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, trong Mặt trận Liên Việt
hay trong mặt trận Tổ Quốc có nghĩa là theo sự lãnh đạo của đảng cộng sản, vâng
lời đảng cộng sản, chịu mọi sự áp đặt của đảng cộng sản. Nói khác với đảng, cãi
lại đảng là vi phạm tinh thần đoàn kết, là nhằm cách phá vỡ khối đoàn kết, là
có tội, có khi tội rất nặng. Ngay ở trong đảng, vấn đề giữ đoàn kết của đảng
như con ngươi của mắt mình, có nghĩa là luôn phải tuân theo ý kiến của lãnh
đạo, không được có ý kiến khác, nếu có ý kiến khác thì liền bị kết tội là bè
phái, là chia rẽ, là phá vỡ sự đoàn kết thống nhất, thậm chí là phản bội, là
phản động... Có hồi Đảng Dân Chủ Việt nam và Đảng Xã Hội Việt nam cùng với Đảng
cộng sản Việt nam đoàn kết trong Mặt Trận Tổ Quốc trên tinh thần bình đãng, tôn
trọng lẫn nhau, nhưng thực tế hai đảng đó phải tuân theo sự chỉ huy và lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng cộng sản. Hai chữ đoàn kết, bình đẳng chỉ là hai sợi dây
buộc chát hai tổ chức ấy vào cỗ xe của đảng. Họ giải thích rằng đoàn kết thì
phải có lãnh đạo; tinh thần dân chủ tập trung là thế! Cũng như đoàn kết trong
phe xã hội chủ nghĩa, đoàn kết với Liên xô .luôn bao hàm ý tuân theo sự lãnh
đạo và chỉ huy của Liên xô, những ý kiến của Liên xô luôn phải coi là chỉ thị
để chấp hành nghiêm chỉnh. Trong mối quan hệ giữa đảng cộng sản trên bán đảo
Đông Dương, giữa ba nước Việt Miên Lào cũng vậy, đoàn kết bao gồm ý phải công
nhận sự lãnh đạo của Việt nam, phải coi ông Hồ Chí Minh là người lãnh đạo của
cả 3 đảng. Nước lớn và nước nhỏ, nước đàn anh và nước đàn em luôn rõ ràng, phân
minh, không thể nhập nhằng được! "Đoàn kết" trở thành một sợi giây vô
hình trói buộc mọi cá nhân với đảng, mọi tổ chức với đảng cộng sản, thủ tiêu
các quyền dân chủ, thủ tiêu sự bình đẳng, làm cơ sở cho mọi sự chuyên quyền và
độc đoán tệ hại. Đây cũng là một kiểu cách lạt mềm buộc chặt của ông Hồ Chí
Minh.
Cần khôi phục lại ý nghĩa chân thật của hai chữ đoàn kết, cùng nhau đoàn kết
trên cơ sở ngang nhau.
Nhân đây cũng xin có vài lời về cụm từ "hòa giải, hòa hợp dân tộc";
vấn đề này từng gây biết bao tranh cãi trên báo chí hải ngoại. Người thì nói
rằng đây là vấn đề quan trọng bậc nhất, không thể bỏ qua. Người thì cho rằng
không cần, đó chỉ là cái bẫy nguy hiểm, một sự lừa lọc. Đầu năm 1993, trong
cuộc họp với một số Việt Kiều ở Sài gòn, ông Võ Văn Kiệt nói bảy lần đến đoàn
kết và hòa hợp, không nói đến hòa giải. Hòa hợp là một yêu cầu nhằm giải quyết
vấn đề ngăn cách, chia cách, xa lánh, bất hòa, không hiểu nhau, không gần nhau,
không quan hệ hay ít quan hệ với nhau vì xung khắc, vì định kiến... Hòa giải là
một yêu cầu nhằm giải quyết những vấn đề xung khắc, xung đột, có khi là hận thù
với nhau, xuất hiện so những điều kiện trước đây, nay cùng nhau gặp gỡ trực
tiếp để thanh toán cho êm đẹp đi đến hiểu nhau, gần nhau, đạt đến mối quan hệ
thân quen khác hẳn trước.
Nếu hiểu rõ như vậy thì trong xã hội Việt nam rất cần đến sự hòa giải, hòa hợp,
vì do những điều kiện lịch sử, đã có những sự đối địch giữa chế độ miền Bắc và
miền Nam, đã có chiến tranh huynh đệ tương tàn, đã có người của phía bên này và
phía bên kia, do đó người dân thường ít hiểu về chính trị cũng bị ảnh hưởng
trong suy nghĩ. Trong nhân dân, đã có khá nhiều điều đã được hòa giải một cách
tự phát, trong gia đình, giữa bạn bè, người thân quen ngay từ sau 30- 4- 1975.
Sự hòa hợp đã được thực hiện khá rộng và khá sâu trong nhân dân vốn giàu tình
cảm và lương tri (bon sens).
Tuy nhiên vẫn cần có chủ trương hòa giải và hòa hợp trên phạm vi quốc gia, để
thực hiện một cách đầy đủ, rộng khắp, nhất quán trong nhận thức, trong văn
kiện, tầl liệu, trên sách báo, trong nếp nghĩ, trong cả đánh giá những sự kiện
và nhân vật lịch sử cũng như trong xử sự hiện nay. Biết bao nhiêu việc cần làm
để mở trang sử mới, không bị quá khứ giam hãm và đè nặng để thanh thản nhìn tới
tươnglai.
Hòa giải và hòa hợp cần thực hiện rộng khắp, trong quan hệ nhà nước với công
dân, không còn định kiến dân "ta" và dân "ngụy", "ngụy
quân" và "ngụy quyền" cũ trong các cơ quan hành chánh, an ninh,
các cơ quan của đảng cộng sản hiện nay, quan hệ giữa các cơ quan hành chánh,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học với công dân; quan hệ với bà con Việt
Kiều... trong đó nhà nước và Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước phải giữ vai trò
chủ động và chân thành. Đây không phải là kiểu trịch thượng, ban ơn, "ta cho
các người được hòa giải và hòa hợp với ta" mà là hòa hợp và hòa giải trên
cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau về nhân cách và nhân phẩm. Nếu không, vẫn
là kiểu "đoàn kết" có nghĩa là khuất phục, theo tôi! Và hòa giải, hòa
hợp lại là cúi đầu xin tha tội, rồi mới chìa tay ra bắt.
Do đó hòa giải và hòa hợp phải xuất phát từ thiện chí, từ tình anh em trong một
nhà, từ tình nghĩa ruột thịt, con em chung một tổ quốc, nhìn lại quá khứ với
con mắt am hiểu, độ lượng, thông cảm nhau, từ đó tôn trọng, quí mến nhau trên
tinh thần bình đẳng.
Ngay trong cộng đồng Việt ở nước ngoài, với những quá khứ và lịch sử khác nhau,
trong các tổ chức khác nhau, quan điểm chính trị khác nhau, có khi đối địch
nhau, cũng cần đặt vấn đề hòa giải và hòa hợp, tôn trọng nhau trên tinh thần
dân chủ, đa nguyên, chung sức hợp tác xây dựng cộng đồng lớn mạnh, đóng góp có
kết quả nhất để xây dựng tổ quốc. Trong cộng đồng người Việt, cũng có ý kiến
cực đoan cho rằng đối với cộng sản, không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết,
chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền (rút lui
như thế nào và giao quyền ra sao thì có người không phát biểu rõ được) vì họ là
những kẻ có tội, phá hại đất nước... Đây là lối nhìn trịch thượng, không thực
tế. Còn cần tạo nên nhiều sức ép trong và ngoài nước mạnh mẽ mới có thể ép
những người lãnh đạo Đảng cộng sản chấp nhận bầu cử dân chủ thật sự theo quan
diềm đa nguyên. Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, những người có cách nghĩ
cực đoan không nhiều, số này lại đang giảm đi rõ rệt. Tôi đã có dịp gặp hàng
nghìn người ở nhiều nước, với những đặc điểm rất khác nhau về quá khứ, hoạt
động đảng phái, nghề nghiệp cũ, động cơ rời đất nước, hoạt động hiện nay...
Thật là phong phú. Họ là giáo sư, trí thức các ngành khoa học, tự nhiên và xã
hội. Họ là nhà kinh doanh. Họ là cựu sĩ quan của miền Nam cũ, có người là thiếu
tướng, trung tướng, đại tướng. Họ là dân biểu, thượng nghị sĩ ở quốc hội Sài
gòn cũ. Họ là nhà báo, văn nghệ sĩ, bác sĩ, dược sĩ. Tôi không e ngại gặp gỡ,
thảo luận, đối thoại với bất cứ ai.
Suốt hơn hai năm gặp gỡ nhiều người, tôi ghi chép tất cả và nhận thấy mỗi người
một vực, không ai giống ai, thế nhưng tất cả đều có một nét chung: Họ là những
người lương thiện, có thiện tâm, ít nhiều đều có lòng yêu nước, mong mỏi quê
hương phồn thịnh. Cá biệt lắm mới có người cực đoan, mù quáng, thiên về cảm
tính, bị quá khứ cầm tù, và những người này dù sao vẫn có thể cảm hóa được. Tôi
đặc biệt quý trọng thế hệ trẻ, từ 20 đến 30, 35 tuổi, là sinh viên, cán bộ kỹ
thuật các ngành, họ không bị quá khứ ràng buộc, có cách nhìn thoáng rộng, độc
lập và tự chủ. Chính số cán bộ trẻ này có nhiều kinh nghiệm khoa học, kỹ thuật,
quản lý, kinh doanh, chắc chắn sẽ có ích cho mất nước trong thời gian tới, khi
họ có thể trở về một thời gian ngắn hoặc đài tùy theo yêu cầu để làm việc ở
trong nước. Số cán bộ, trí thức trẻ này có tấm lòng hòa giải và hòa hợp rất tự
nhiên, nhẹ nhàng mà không kém phần sâu đậm. Có anh chị em trẻ còn nói, việc hòa
giải hòa hợp là chuyện của các vị, chúng tôi không muốn kế thừa cái truyền
thống chia rẽ của các vị! Tuổi trẻ chúng tôi ở trong nước với ở ngoài nước đã
là bạn bè anh em với nhau rồi. Tất cả thành kiến và thủ đoạn chia rẽ dân tộc,
phân chia giả tạo từ cả hai phía thành: yêu nước và phản động, yêu nước và bán
nước, yêu nước và "việt gian"; quốc gia và cộng sản, tay sai đế quốc
Mỹ, tay sai Nga Tầu, bù nhìn của kẻ này và kẻ khác... đã đến lúc phải thanh
toán triệt để. Sẽ gỡ đi được gánh nặng đè lên cuộc sống của dân tộc ta, mọi
người thanh thản lao vào sự nghiệp lớn: phát triển đất nước, khắc phục lạc hậu
và nghèo khổ, ráng đuổi kịp các nước láng giềng.
DƯỚI ĐÁY GIẾNG
ở miền Bắc,
từ khi còn ở tuổi mẫu giáo, các em đã được các cô dạy cho lòng căm thù. Cái gì
xấu xa là đế quốc, dịa chủ, ngụy. Tập bắn súng là có sẵn bia: lính Mỹ, máy bay
Mỹ, lính ngụy. Tập đánh giặc, tập bắt tù binh. Tập tra hỏi tù binh. Tập giải tù
binh đi.. Khi làm tính, lập đếm, cộng trừ nhân chia cũng dùng số lính ngụy,
lính Mỹ bị diệt trong 1 trận, trong hai trận lớn nhỏ để tính. Cách xưng hô cũng
rõ ràng, bạn thù ta rạch ròi. Bác Hồ, chú cán bộ, ông Stalin, bác Mao, đồng chí
bộ đội, còn thì phía bên kia phải gọi bằng thằng tuốt. Thằng Tổng thống Mỹ, thằng
Tổng thống ngụy, thằng Việt gian, thằng sĩ quan Mỹ, thằng chỉ huy ngụy, thằng
lính biệt kích, thằng Tỉnh trưởng... Trong những câu chuyện kể cho tuổi thơ
trong trắng và ngây thơ, ông Stalin, bác Mao, bác Hồ hiện lên như thần thánh,
tiên phật, các chú bộ đội luôn hiền ơi là hiền, dũng cảm, mưu trí, nhiều sáng
kiến, cứu đồng bào trong bão lụt, thật thà, ngay thẳng, còn những kẻ hung ác, lừa
đảo, tham lam, ngờ nghệch, ngu ngốc thì đều là "Mỹ- ngụy" và
"tay sai"!
Từ tuổi thiếu niên, qua giáo dục của nhà trường, đội thiếu niên tiền phong, lập
trường bạn thù ta trong các em đã vô cùng rõ ràng. Phe ta, phe nó, chúng ta và
chúng nó; ta nhất định thằng, địch nhất định thua. Tất nhiên trong chiến tranh,
động viên cổ vũ hậu phương, tuyên truyền ủng hộ tiền tuyến là cần thiết. Thế
nhưng việc giáo dục từ trẻ thơ những điều kể trên, có tính chất cường điệu
thiên lệch, không đúng với thực tế đã gieo vào lòng các em các nhận thức sai lệch.
Công bằng và lòng nhân ái bị coi nhẹ. Lớn lên khi tự tìm hiểu được thực tế, các
em sẽ nhận ra rằng thực tế không phải là như vậy, dễ sinh ra hoài nghi, hoang
mang, mất phương hướng trong nhận thức.
Việc tuyên truyền một chiều: ta cái gì cũng đẹp, cũng tuyệt vời, địch cái gì
cũng xấu, cũng tồi tệ đã tạm thời đạt được kết quả không phải chỉ vì đồng bào
ta nhẹ dạ và thiếu tỉnh táo. Nguyên nhân chủ yếu ít người nghĩ đến chính là ở
chỗ miền Bắc hồi ấy bị cách ly hầu như triệt để với bên ngoài. Thông tin bị cắt
đứt giữa miền Bắc và miền Nam. Tôi có một chị ruột, một em gái ruột ở miền Nam
từ năm 1954, vậy mà suốt năm năm không có một mẩu tin? Đến năm 1960 mới biết được
vài hàng qua một người trong họ xa ở Pháp. Phần lớn đều đứt liên lạc như thế.
Giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17 bị đóng chặt. Hai bên bờ sông Hiền Lương như
hai thế giới riêng biệt. Điện thoại, điện tín, thư từ bị cát đứt với nửa nước
phía Nam và cũng là với cả thế giới.
Từ năm 1950, biên giới phía Bắc được mở ra, bắt đầu quan hệ với Trung Quốc, rồi
sau đó với Liên xô. Sau 1954, vấn đề quan hệ với bên ngoài vẫn bị phong tỏa chặt.
Chỉ có những quan hệ với "phe ta", mà cũng là quan hệ rất ít ỏi. Vũ
khí, hàng hóa, thuốc men, thực phẩm, máy móc từ Liên xô, Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa khác được chở đến. Một năm có chừng mấy chục đoàn chính phủ đi
thăm, ký kết với các nước "phe ta", còn các đoàn thể xã hội như công
đoàn, thanh niên, phụ nữ, nhà văn, nhà báo đi ra nước ngoài thì có thể đếm trên
đầu ngón tay. Một số văn nghệ sĩ, nhà báo dự Đại hội Liên hoan Thanh niên Thế
giới (do Liên xô đứng ra tổ chức) ở Moscou hay Berlin trở về, đi nói chuyện khắp
miền Bắc liền 4 tháng trời, thu hút và hấp dẫn mọi người tò mò muốn biết tình
hình ở ngoài nước ta ra sao. Chiến sĩ thi đua nông nghiệp Trịnh Xuân Bái, anh
hùng nông nghiệp Hoàng Hanh đi thăm Trung Quốc, Liên xô về là tha hồ mà kể chuyện,
nửa năm không hết chuyện! Mỗi buổi đều chật cứng các nhà hát nhân dân ở ngoài
trời. Mọi người thích thú, sung sướng, nức lòng nghe kể về nông trang tập thể ở
Liên xô máy cày máy gặt trên đồng ruộng, về công xã nhân dân Trung Quốc, về những
thửa ruộng năng xuất cao...
Ai nấy chung một nguyện vọng: ngày nay của Liên xô, Trung Quốc là ngày mai của
Việt nam. Nghe chuyện về còn bàn tán suốt đêm, cho đến cả tháng trời sau đó...
Những đoàn văn công, đoàn xiếc Liên xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ
Hungari, Anbani... sang biểu diễn ở Hà nội và các tỉnh là những sự kiện mà hàng
1, 2 năm sau mọi người còn nhớ và nhắc đến. Cũng phải nói cả thời đó, tuổi trẻ
sống trong cống hiến, trong chiến đấu, cuộc sống không có ước mong gì cao xa về
vật chất, mọi người sống ngang nhau, thậm chí gần giống y như nhau, về tình cảm
và tinh thần còn lạc quan, lãng mạn nữa. Hàng hóa viện trợ đầy đường, đầy bãi,
trong vườn hoa, mà vẫn nguyên si, không mất mát.
Miền Nam và thế giới ra sao? Qua thông tin, tuyên truyền, người dân chỉ hiểu đại
khái là miền Nam mất độc lập, phụ thuộc Pháp rồi Mỹ. Nhân dân trong đó khổ cực,
lầm than, người yêu nước bị giết hại trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng rất
tàn bạo, máy chém lê đi khắp mọi nơi; ở các thành thi chỉ là phồn vinh giả tạo,
xã hội suy đồi, văn hóa đồi trụy, nạn xì ke, đĩ điếm, cờ bạc tràn lan, nạn tham
nhũng tràn ngập... Tất cả những thông tin từ miền Nam theo nội dung ấy được chắt
lọc, tô đậm, đưa lên báo, đài. Chính do tuyên truyền một chiều như thế mà sau
30- 4- 1975, bà con ta vào miền Nam bị choáng ngập bởi hàng hóa đẹp dù và tốt
khác hẳn những điều dự đoán. Về xã hội, con người cũng thế. Xã hội miền Nam
không đến nỗi hỗn loạn, thối nát, vẫn có những gia đình nề nếp, con người nhân
hậu ở vùng tạm chiến và thành thị. Ngay trong những gia đình bị coi là thù địch
trước đây vẫn có không ít những con người ngay thật, có văn hóa và lương tâm,
có tư cách và hiểu biết. Nhìn ra thế giới cũng vậy. Miền Bắc trước đây có rất
ít người đi được sang thế giới phương Tây. Họ chỉ là một số rất ít nhà ngoài
giao được chọn lọc rất kỹ càng. Còn thì toàn xuất ngoại là đi các nước
"phương ta". Sách báo, thư từ hầu như không có. Cho nên chỉ hiểu thế
giới phương Tây qua các khái niệm quen thuộc trên đài báo: khủng hoảng, thất
nghiệp, trộm cáp, lạm phát, bất công, đĩ điếm, cờ bạc, bãi công và đấu tranh của
người lao động!
Trong tất cả giáo trình giảng dạy chính trị và kinh tế, lý luận và thực tế về
chủ nghĩa xã hội được truyền bá là: ở chủ nghĩa xã hội ưu việt không có khủng
hoảng vì tất cả đều sản xuất theo kế hoạch thống nhất, tính từ cái kim, chiếc
quần đùi đến hộp diêm. Không có thất nghiệp vì ai cũng được nhà nước phân công
làm việc. Không có bóc lột vì mọi giai cấp bóc lột không còn tồn tại, không có
tư bản, địa chủ, phú nông thì làm sao có bóc lột được. Chỉ có thiếu thốn tạm thời.
Sản xuất chỉ có tăng không ngừng, không bao giờ có thể giảm sút! "Chúng
ta" hơn "chúng nó", "phe ta" hơn "phe họ" là
lẽ đương nhiên. Họ dựa vào một số thành tựu có thật của Liên xô (phóng vệ tinh
đầu tiên của quả đất, đưa người đầu tiên lên không gian vũ trụ...) để khẳng định
rằng tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội là rõ ràng, không cần bàn cãi nữa. Tất cả
sự thua kém chỉ là vì chủ nghĩa tư bản có trước hơn 200 năm; còn chủ nghĩa xã hội
còn non trẻ.
Vì không thấy thế giới phương Tây ra sao, không có sách báo, thư từ, lại chưa
có vô tuyến truyền hình nên cả xã hội đều hiểu tình hình thiên lệch, méo mó.
Nam 1971 ở Hà nội mới thử nghiệm vô tuyến truyền hình mỗi tối một giờ. Năm 1973
mới chính thức phát truyền hình, nhưng nhìn ra thế giới qua đài TV Nga, theo hệ
thống kỹ thuật Bông Sen. Chỉ có phim truyện của "phe ta", của các nước
xã hội chủ nghĩa. Sau 30- 4- 1975, cách nhìn thế giới đã bắt đầu thoáng rộng.
Thế nhưng người đi ra nước ngoài vẫn bị kiểm soát gắt gao. Phải đến 1986 trở
đi, với "đổi mới" và "mở cửa", ngọn gió bên ngoài mới thổi
vào, người đi công tác sang phương Tây ngày càng nhiều (tuy cũng chỉ mới chiếm
chừng 1 phần ngàn trong bộ máy hành chánh, kinh tế có hơn 6 triệu người). Trăm
nghe không bằng một thấy! Thư từ, ảnh gia đình từ bên ngoài gửi về, hàng ngàn,
hàng vạn bức thư và bức ảnh đến tận từng gia đình, từng người, chọc thủng những
màn che chắn, những bức tường giả tạo. Điện thoại, fax, máy quay phim, máy ảnh,
máy chiếu phim, băng cassette, băng video trở nên những vũ khí lợi hại về thông
tin trung thực, từng ngày, từng ngày mở ra nhận thức chân thật, phong phú, kịp
thời về thế giới xung quanh cho đông đảo người dân khao khát tìm hiểu và suy
nghĩ.
Con người là động vật cao cấp, khác các động vật khác là biết quan sát, biết so
sánh, biết bắt chước. Mấy chục năm trước, sống kín mít không có thông thương, bặt
thông tin với thế giới, đông đảo nhân dân- về mặt nhìn ra thế giới- giống như đứng
cả dưới đáy giếng! Chỉ trông thấy nhau, so sánh với nhau, bắt chước nhau. Và do
đó hài lòng với cuộc sống của mình. ăn, mặc, ở, quan hệ với nhau coi như ổn,
không thành vấn đề. Mặc gần như dông phục, ăn uống cũng gần giống nhau, theo mức
của tem phiếu. Lấy vợ lấy chồng cũng giống nhau, "được phép của đảng, của
tổ chức", đám cưới đơn sơ giản dị. Cưới nhau về là yên ổn, không được ly dị,
vì ly dị là thành bê bối to, thành xì căng đan, thành chuyện nhục nhã cho cả
hai gia đình, đã có tổ chức hòa giải đứng ra dàn xếp bằng được. Cho nên vợ chồng
an phận, không cần chinh phục nhau tiếp, chẳng cần chiều gì nhau thêm, không cần
có động cơ vun đắp hạnh phúc lứa đôi, không ít cặp vợ chồng sống tẻ nhại, cam
chịu số phận, chẳng khác gì xưa bố mẹ đặt đâu con ngồi dấy. Nay là tổ chức đặt
đâu đảng đặt đâu xin ngồi nguyên đấy cho yên phận tránh mọi rắc rối và tránh bị
chọc cười...
Thế là trong gần 30 năm, do điều kiện chiến tranh, do chính sách bế quan tỏa cảng,
hàng chục triệu nhân dân Việt nam bị tước quyền được là công dân của thế giới.
Họ không hiểu đồng loại đang sống ra sao, có những điều gì hơn để học tập, có
những điều gì kém để giúp đỡ, không có đối tượng để so sánh, để vươn lên bằng
người. Đất nước bị trì trệ khủng khiếp về mọi mặt cho đến tận nay bắt nguồn từ
đó. Nếu như từ mấy chục năm trước ta được biết cuộc sống ở các nước khác, người
dân được tự do ăn nói, tự do suy nghĩ, tự do đi lại ra sao, con người bình đẳng
trước pháp luật thế nào, cái lợi của một xã hội co pháp luật ro ràng, có luật
sư tự do, có người viết báo tự do... thì chúng ta không bao giờ cam chịu tình
hình ở nước ta sao mà chậm tiến đến vậy! Chúng ta đã bị bịt kín mắt, không có đối
tượng để quan sát và so sánh. Chỉ nhìn thấy nhau, chúng ta mất hẳn động lực dể
vươn dậy cho như người, cho bằng người, cho hơn người. .
Cho đến tận bây giờ, khi đã gọi là mở cửa", là đổi mới", vẫn còn tình
trạng nhân dân ta sống cứ như ở một hành tinh khác, với những qui tắc khác xa lạ
với thế giới ngày nay. Các "thước đo" kích thước, giá trị ở nước ta
cũng khác với các "thước đo" thế giới. Có những quan niệm trái ngược
nhau ở các nước dân chủ, người công dân sinh ra là nghiêm nhiên có nhiều quyền.
Quyền suy nghĩ, quyền phát biểu, quyền đi lại, quyền xuất cảnh, quyền tín ngưỡng
hay không kín ngưỡng quyền giao dịch với bạn bè ở nước ngoài. Người công dân có
quyền tự do rộng lớn, không phải nhà nước hay đảng nào ban phát cho mà tự mình
có sẵn khi sinh ra và trưởng thành là đã có sẵn. Họ làm mọi chuyện theo ý muốn,
không phải xin phép bất cứ ai, chỉ trừ những điều gì mà luật có khoản cấm. Mà
những điều luật ngăn cấm xét cho cùng cũng chỉ vì quyền tự do của toàn xã hội.
ở nước ta, một thời gian dài, cấm đủ thứ. Cấm tự do đi lại phải có giấy phép mới
được đi vào Nam, lên vùng biên giới; cấm đi ra nước ngoài, phải có giấy phép đặc
biệt; cấm gặp gỡ nói chuyện với bất kỳ người nước ngoài nào, cấm thư từ với họ;
có dạo cấm làm bánh cuốn, cấm mở hàng phở vì vi phạm chính sách lương thực! Lại
còn có đạo cấm thanh niên để tóc dài, mặc quần loe, lập tố cờ đỏ (hỗ trợ cho cảnh
sát) chặn người, đè họ ra cắt tóc và cắt quần! Tất nhiên những điều quá quất
thì hiện nay không còn, nhưng kiểu cách ban ơn, cho phép, hạn chế tự do vẫn còn
dai dẳng. ở nước ta chỗ nào cũng đề phục vụ nhân dân, cơ quan nhà nước nào cũng
được giáo dục về phục vụ nhân dân, nhưng nạn cửa quyền, quan liêu trái với tinh
thần ấy vẫn là cố tật. ở nước khác, không có khẩu hiệu phục vụ nhân dân, vậy mà
ai nấy đều có ý thức: tôi làm việc là để phục vụ những người khác cần đến tôi,
tôi phải làm hết trách nhiệm cho họ hài lòng đến mức cao nhất là lẽ đương
nhiên; luật pháp, đạo lý, lẽ ứng xử xã hội ắt phải là như thế. Những tiếng
"cám ơn", xin lỗi" luôn ở cửa miệng, không phải hình thức, mà là
thành nếp nghĩ, nếp sống, cách ứng xử bình thường trong xã hội. Đã trở nên hết
sức cấp bách là những người cầm quyền ở nước ta có nhiều dịp ra nước ngoài quan
sát nghiên cứu một thời gian để tìm hiểu nếp sống trong xã hội có luật pháp và
dân chủ. Đi, tìm hiểu, quan sát, đối chiếu với ta và suy nghĩ. Có người có dịp
đi, nhưng lao vào các nghi thức hiếu hỷ và làm ăn, bỏ phí việc tìm hiểu và quan
sát. Và đến bao giờ số đồng bào ta được đi thăm các nước láng giềng, rồi các nước
xa gần ngày càng nhiều, thì tình hình xã hội ta sẽ càng đổi thay nhanh chóng và
sâu sắc hơn. Cho đến nay, do "mở cửa", mở rộng giao lưu, mở rộng quan
hệ qua thăm viếng, du lịch, bằng điện thoại, điện tín, fax, bằng thư từ, ảnh,
phim chiếu, cát sét, qua đài phát thanh các nước và vô tuyến truyền hình được
truyền qua vệ tinh, nhân dân ta không còn ở đáy giếng nữa. Đó là điều kiện đã
giành được để chúng ta bòa nhắp ngày càng sâu rộng vào thế giới, trở thành công
dân thật sự của cộng đồng thế giới ngày nay.
NHỮNG NỖI LO
ở một xã
hội thiếu dân chủ hoặc không có dân chủ, người dân bình thường, muốn được sống
bình thường, thường lo sợ đủ thứ. Trước hết là lo. Từ lo mà phải sợ. Trước kia,
ở miền Bắc là như thế. Lo cho bản thân mình và gia đình mình yên ổn. Lo để lý lịch
mình luôn trong sạch, lý lịch cả nhà mình trong sạch. Lo để các giấy tờ hợp lệ,
để hàng năm được cấp phiếu bình thường. Lo để con cái đi học thuận lợi, không bị
trục trặc nửa chừng, được học lên đại học, thi đỗ được nhà nước tuyển dụng. Lo
cho con được vào Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, rồi động viên nó phấn đấu
vào đảng. Cao hơn một chút, lo cho con thi đại học có điểm cao theo qui định
hàng năm, để được tuyển đi học nước ngoài ở Liên xô, Trung Quốc hay một nước
"anh em". Cái lo của ai cũng gần giống như nhau, trong một xã hội mặc
"đồng phục". Lo được lên lương, lên cấp đều đều, vì có lên lương lên
cấp mới được cấp nhà có phòng rộng hơn một chút, mới được cấp phiếu lương thực,
thực phẩm và hàng bách hóa loại cao hơn. Từ nhân viên lên cán sự, từ cán sự lên
chuyên viên trung cấp, rồi lên chuyên viên cao cấp là cả một cuộc hành trình
không giản đơn.
Hầu như ai cũng là công nhân viên nhà nước, nên cái lo của mỗi người, mỗi gia
đình thật giống nhau. Hàng năm lo cho bản thân và vợ con hoặc chồng con, nếu là
nhân viên, cán bộ nhà nước, nếu được bình hầu "lao động tiên tiến. Hầu như
ai cũng là "lao động tiên tiến", chỉ trừ bị một lỗi gì nặng, mất
"lao động tiên tiến" là bị một kỷ luật rất nặng. Chao ơi là một thời,
mỗi con người có những mối lo nhỏ nhoi mà được coi là hệ trọng, mòn mỏi lo âu,
mỏi mòn phấn đấu trong những mảnh đời chật hẹp, trong khung cảnh của một chế độ
được coi là ưu việt, tự nhận là ưu việt, hơn người. Do không có luật pháp trong
nếp sống xã hội, nên con người phải lo ứng xử theo một kiểu cách khác thường:
lo làm vừa lòng nhà chức trách. Mà nhà chức trách thì quá nhiều? Phải lo vừa
lòng ông bà Thủ trưởng trước hết. Thế nhưng ở một cơ quán, xí nghiệp, đâu chỉ
có ông Thủ trưởng cùng với 2,3 đến 4,5 ông bà thủ phó. Còn có bộ tứ. Bộ tứ
không phải là bộ bài tứ sắc, như một anh bạn ở miền Nam ra hồi 1976, 1977 hỏi lại
tôi khi tôi kể cho anh nghe. Bộ tứ là bốn vị cai quản một đơn vị cơ sở thường gồm
có: Thủ trưởng, Bí thư đảng ủy, Chủ tịch..hay Phụ trách. Công đoàn, Bí thư Đoàn
thanh niên cộng sản. Có nơi mở rộng thêm thành bộ 5, thêm bà phụ trách nữ công,
nếu ở đó có nhiều phụ nữ; thành bộ 6, thêm trưởng ban thi đua, hoặc trên trưởng
ban kiểm tra hay thanh tra, tùy theo tình hình.
Người biết lo toan nghĩa là biết sống yên ổn với tất cả các vị chức sắc trên;
cao hơn, khôn hơn là biết sống đẹp với tất cả các vị đó; khôn hơn nữa là tìm kiếm
một thế lực, một chỗ dựa, một người đỡ đầu cho mình trong số các quan chức ấy.
Trong một năm, có những sự kiện được coi là quan trọng nhất. Cả đơn vị cơ quan
bàn tán xôn xao, thăm dò, điều tra, truyền tin, vui mừng, thất vọng, chia vui,
chia buồn... theo những sự kiện ấy. Đó là các dịp kết nạp vào đảng, kết nạp vào
đoàn (thường là nhân dịp những kỷ niệm lớn). Ai được xét chọn là đối tượng, ai
bị gác ở lại? Đó là dịp xét khen thưởng, cất nhắc và đề bạt thường vào cuối
năm. Đó là dịp bình bầu, xét khen thưởng thi đua tháng 5 và tháng 11, dịp giữa
và cuối năm để xem ai là lao động ưu tú, ai là lao động xuất sắc là lao động
tiên tiến? Cũng là dịp xét lên bậc, lên cấp lên chức, lên lương. Rồi những
phiên họp cấp nhà ở, cấp phòng rộng hay hẹp, tầng cao hay thấp, ở nơi gần hay
xa, nhà mới hay nhà cũ, bổ xung thêm diện tích bao nhiêu. Cả gia đình được 16
mét vuông hay 20 mét vuông, hay được 26 mét vuông?
Tất cả những chuyện mà ngay này có người cho là tủn mủn, chàng đâu vào đâu, vớ
vẩn, vô duyên ấy, cả một thời đã gây biết bao sóng gió trong lòng người. Do
ganh tỵ, suy bì, do kèn cựa nhau mà dèm pha, bịt đặt, vu khống, tung tin thất
thiệt cho nhau, để đến mức cãi vã, hay giận hờn nhau kéo dài. Và biết bao nhiêu
là oan ức, do oan mà ức, mà uất hận.
Những người ngay thẳng, không xu nịnh thì thiệt thòi, những kẻ cơ hội thì được
chiếu cố. Và những kẻ cơ hội thường không thiếu. Sáng mồng một tết họ đã có mặt
sớm ở nhà Thủ trưởng, cùng vợ con đông đủ mang theo bó hoa thật đẹp, gói quà có
giá, đến trình diện và chúc tụng. Từ dưới lên trên. Cho đến ủy viên Bộ chính trị,
các Trưởng ban của Trung ương. Dưới có kẻ cơ hội ở dưới, trên có kẻ cơ hội ở
trên. Đó là những đệ tử trung thành, để "anh không quên đến em" trong
các cuộc họp liên quan đến nguyện vọng của chúng em... Và những lời chúc tết.
Không ai chúc nhau: nhất bản vạn lợi thời xưa, kiểu tư sản bóc lột! Không ai
chúc nhau giàu sang, phú quý, cũng là của phong kiến cổ hủ. Chúc sức khỏe. Chúc
nhau được vào đảng, con cháu được vào đoàn, được đi học nước ngoài, được lên
lương, lên chức, được cấp nhà, đổi nhà rộng hơn dám bảy mét vuông. Cả một thời,
cuộc đời vươn lên, ước mơ chỉ có thế! Dạo ấy người ta ít lo về tài năng, lại rất
lo về chính trị.
Vì lý lịch được bổ xung luôn, nửa năm một lần. Nhận xét đều ghi lòng lý lịch.
Những vấn đề "liên quan" là phức tạp nhất, đáng lo nhất. Có
"liên quan" đến địa chủ, tư sản? Hoặc: thuộc gia đình bóc lột",
là thành vấn đề. Vợ hoặc chồng thuộc thành phần bóc lột cũng thành vấn đề liên
quan hệ trọng. Có anh, chị, em ở miền Nam cũng thành vấn đề phải khai báo, họ
làm gì? Hiện có quan hệ gì không? Nếu là công chức, sĩ quan ở miền Nam thì lại
càng thêm gay gắt. Bà con, anh chị em ở nước ngoài cũng vậy. Nếu là ở một nước
"đế quốc, thì phiền to. Một gạch chéo, một dấu hỏi, thế là ở vào một thế kẹt
cứng. Tất cả mọi chuyện sẽ bị chân lại hết, từ vào đoàn, vào đảng, lên đại học,
đi học nước ngoài, hoặc lên lương, lên cấp, lên chức cũng vì vậy mà... để xem
đã.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét