Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 5


1           3      4      5      6      7      8

Chương XIII

Đầu năm ấy, chiến dịch lao động đào sông Tô Lịch. Lao động công ích, mỗi năm một công dân thành phố góp bảy ngày bằng sức hoặc bằng tiền. Đào sông cũng như đắp công viên Thống Nhất, được trừ điểm lao động công ích lại được trả công đào. Không đi, thuê người khác đi hộ. Lấp mạch sủi đê sông Cái, đào hố chứa rác, vét bùn, đều được tính cả. ấy thế nhưng phải tổng vệ sinh trước lễ Quốc Khánh đã Sáng chủ nhật, sáu tổ lấy sáu người đem chổi và cái hót rác lên trường Trưng Vương tiễn đồng bào chạy nước về lại dưới bãi- thông tri viết thế, nhưng cung cách chỉ dẫn các thứ vậy thì hiểu nghĩa là lên quét dọn làm vệ sinh cho nhà trường các chỗ đồng bào đã tạm trú cả tháng qua.
Rồi tôi lên khu nghe về sông Tô Lịch và công việc đào sông. Sông Tô Lịch chảy qua làng tôi. Bút danh tôi có chữ Tô cũng bắt đầu từ dòng sông này - nhưng ấy chỉ là dòng sông mơ mộng trong sử sách và trong câu chuyện của ngườì già mà thôi. Sông Tô Lịch đã bị lấp cửa từ bao đời. Khúc sông còn lại chui ngay dưới lòng phố đã thành cống nước thải ra đến đầu làng Thụy thì nổi lên chảy qua các vạc nấu dó làng Hồ, làng Đông, làng Yên Thái. Những đầm nước để ngâm dó, đãi bìa, vào mùa hạ, trẻ con các làng ra câu cá, chỉ có sáng kiến của tôi là nói nhạt nhẽo không hung hăng như ông cán bộ nọ. Cái con sông Tô Lịch trong tưởng tượng đẹp ấy đến bây giờ hơn bốn mươi năm sau vẫn chưa ai trông thấy nó cũng những chuyện trên trời, như sự tích con Trâu Vàng mà sông Tô Lịch là vết thừng, là cái đuôi Trâu Vàng, là chuyện của cán bộ bốc phét.

Người đi đào sông thành tlểu đội, tập trung ở ngă tư giữa phố. Tôi ra nói động viên mấy câu rồi xuất phát. Mọi người lên xe đạp, buộc cái mai, cái sọt - công trường cũng phát dụng cụ, nhưng của mình làm thuận tay hơn. Việc được giao khoán cho mỗi tiểu đội. Tát nước, hót bùn, chặt cây, đào đất dánh đống xong ra trả thẻ, người công trường đến ngắm nghía kiểm tra, rồi về lẻ tẻ, không phải đợi cả lũ như lúc đi.

ở mỗi ghi đông xe treo cái cặp lồng nhôm. Bấy giờ chẳng cứ buổi lao động, mà đến sờ làm, đi bộ hay xe đạp, người người đều cặp kè cái cặp lồng ăn trưa. Tương tự, trong chiếc hộp nhôm dưới để cơm, lẻ bo bo như xôi nếp cái hay bột mì xào hành mỡ. Ngăn trên, miếng cà, vài ngọn rau muống xào, dúm tép kho, gói muốì rang. Đến trưa, mở cơm ra ăn rồi ngả lưng đâu đấy.

Tôi chưa tường mặt cái công trường sông Tô Lịch. Tôi chỉ đưa người đến một lần. Không ai bảo trưởng ban được miễn, nhưng tôi cũng không nghĩ tôi phải đi ít nhất tôi cũng khác người. Tôi đi tuần, tôi muốn đi, chứ tôi bảo "bận làm nốt báo cáo” thì tôi ở nhà cũng chẳng ai trên tôi nhắc tôi. Vả chăng, tôi vai thờ, đến chỗ gồng gánh khiêng vác, tôi biết xoay xở thế nào. Lần sau cùng tôi đi với tổ đến nửa đường tôi về. Tôi lại trông thấy Tiến thứ trưởng bộ ngoại giao, quần áo nâu, mũ lá, cái mai buộc dọc khung xe đạp, nhưng không thấy cái cặp lồng. Tôi khó chịu. Rồi nghĩ: ông này trước bán thuốc lào ở phủ Từ, đã quen quảy, thì lại thấy là thường. Ông không nhìn thấy tôi, mà tôi cũng không muốn trông thấy ông ấy có cái mai buộc xe đạp.

Lại đến việc cưới cũng nhộn nhịp. Hồi ấy, cưới xin nhiều cái cũng hay. ở ngoài "hậu phương” đưa vào thành phố mốt cưới tiệc trà vỗ tay "vui duyên mới không quên nhiệm vụ".

Những đám cưới giản dị khiến tôi nhớ lại ngày chúng tôi lấy nhau, còn "mới” hơn cả các đám cưới kháng chiến. Năm 1947, sau chiến dịch Thu Đông tôi ở chợ Rã trên Bắc Cạn về nơi gia đình tản cư ở Phú Thọ. Chẳng cưới, không đăng ký kết hôn, chẳng có gì nhớ mà nhớ suốt đời. Đã ra năm mươi năm qua, tình nghĩa đối với nhau, không có gì để soi, để thử bởi không soi thử được, như là tự nhiên và đã là tự nhiên thì mãi mãi.

ở Hà Nội, nếp sống mới thêm cái thiếp báo tin họ hàng và bạn bè. Có nhà hôm sau sửa vài mâm, thiệp đính kèm miếng giấy nhỏ mời dự "bữa cơm thân mật”. Đám cưới tất cả các con trai con gái tôi rồi cũng vậy. Có thế thôi.

ở phòng cưới nhà hàng Phú Gia chiều thứ bảy nào cũng liền mấy đám cưới phải đặt trước mới xếp được chỗ.

Cưới tiệc trà chỉ lắm trẻ con. Bàn ghế kê liền khít, khách hai họ chẳng ai biết ai. Tôi họp tình hình trị an trên khu nghe báo cáo, phòng cưới nhà Phú Gia bên Bờ Hồ đông người qua lại. Công an để ý một người mặc đại cán đóng khuy cổ cẩn thận đứng ngoài cửa, khi đông người vào, người ấy cũng bước vào, đám tiệc trà trước và đám sau liền như thế. Công an giữ lại, nhốt cho nhịn đói một đêm một ngày rồi thả. Tối thứ bảy, cũng như đi chơi vào cắn mấy hạt bí, lấy mấy cái kẹo, "tôi không phải là trộm cắp”, anh ta khai thế.

Nhưng hôm lên nhận đăng ký trên khu thì long trọng và ý nghĩa. Hội trường lớn, hai họ và bè bạn, cả ban đại biểu phố chúng tôi. Người nhà mời trầu nước, thuốc lá. Vị phó chủ tịch khu đứng lên nhắc nhở và mừng hạnh phúc cô dâu chú rể rồi đưa giấy đăng ký kết hôn, bắt tay chặt chẽ và chụp ảnh chung.

Năm cách mạng thành công, tôi đã đi dự đám cưới Trần Huyền Trân- Hạc Đính tổ chức trên phòng đăng ký kết hôn của ủy ban Giải Phóng cũng trang nghiêm như thế.

Một thanh niên đợi tôi ở cửa.

- Bác xác nhận hộ khẩu cho cháu.

- Việc gì thế?

- Cháu đi xin giấy đăng ký kết hôn.

- à nhớ rồi, cậu này. Hôm nào lễ nhận đăng ký trên tiểu khu nhớ báo sớm tôi mới thu xếp đi dự được. Hôm nào?

- Trên khu thôi không tó chức lễ đăng ký nữa ạ. Bảo tại đông quá, sắp hàng cũng hết chỗ, tổ chức không xuể. Chúng cháu chỉ lên nộp đơn, trên ấy hẹn ngày lên lấy.

Thế là lại như cũ. Lại đến uỷ ban ngồi ghế băng đợi gọi như đi làm khai sinh, đi đóng thuế thổ trạch, hay nhận biên lai chó đã tiêm phòng dại... Chẳng ra thể thống gì.

Nhưng việc cưới, ăn ở với nhau, đăng ký hay cưới, có hay không, ngổn ngang trăm nỗi không bận đến khu, đến thành phố mà ở đường phố thì lúc nào cũng rối bời bời.

Có đơn của cô Dung kiện người ta bỏ thuốc độc vào bát nước cơm của con cô ấy. Mới như hôm nào, Dung ở cữ thằng bé, thế mà đã được hơn một năm.

Bé kháu khỉnh như con chó con, lẫy cứng. Hàng phố bảo mặt thằng bé lau láu hệt mặt anh Bá - Bá ở cùng số nhà với Dung. Dung bỏ chồng, lấy nhau không cưới, không đăng ký, bỏ nhau cứ như không. Có lần người chồng lảng vảng về, mẹ con cô vác gậy, cầm dao đuổi đánh kêu: cướp, làng nước ơi, cướp! Thằng kia chạy bán chết. ấy thế nhưng thỉnh thoảng vẫn lại mò về, sáng sớm đi, có người nhìn thấy. Dung chạy chợ, gặp món buôn đi bán lại. Thằng cu mới đẻ, Dung cũng chẳng đi khai sinh. Chặp tối Dung ẵm bé đứng vỉa hè, cười nói nhởn nhơ với người qua lại..

Mấy hôm ấy vợ Bá ở quê ra. Mỗi vụ khi nông nhàn rảnh rỗi chị ra, có khi bốn mẹ con đi cùng. Nghề đời, tiếng đồn có gió bay, không bỗng chốc mà tốn kém cả ngày đường tử Ninh Bình ra, ở làng chị đã nghe tiếng thế nào rồi. Nhưng mà chị ấy hiền lành chít khăn vuông mỏ quạ, chúng tôi vào nhà thấy đương ngồi, đầu rũ xuống bên tường, như con gà dây. Bá đứng cạnh cửa điếu thuốc lá phập phèo, trông ra đường. Nhà này có ba hộ, người lớn trẻ con chui rúc một cái buồng, mỗi hộ mỗi góc.

Dương yêu cầu mọi người phát biểu. Cô Dung cô đơn được nói trước. Đương tự dưng, Dung nức nở vừa khóc vừa kể lể:

- Tôi đi chợ, bát nước cơm chắt để cho cháu ở chạn bát đầu hè, đậy cái rổ cẩn thận. Đến trưa về, thấy bát nước đục vẩn, vón từng cục. Tôi không dám cho cháu ăn. Nó hại mẹ con tôi, nó bỏ thuốc độc giết cháu ối giời ơi...

Dung bưng mặt khóc hu hu. Gian buồng đông ních người, thêm người ngoải cửa thò cổ vào. Ba hộ ba góc trong nhà ngoài hiên, nằm trải chiếu xuống gạch, nhà rỗng tuyếch như cái nhà trọ ngoài bến xe. Chẳng biết thổi nấu, ăn uống, ngủ nghê ra sao. Người hàng rong, người chạy chợ đi vắng tối ngày. Cả chục người chui vào chui ra, thằng Bá có nằm lẫn với cái Dung nửa đêm gà gáy lúc nào chẳng được.

Bát nước cơm bảo vệ Dương đã bưng vào đặt giữa chiếu. Trông lờ lờ màu bột nước cơm loãng, biết sao.

Dương dõng dạc cất giọng.:

- Số nhà này có mấy hộ, tôi đã báo tối nay phải có mặt đầy đủ. Đủ chưa, thiếu ai không. Người ngoài cửa không được ngồi lẫn vào đây. Việc này nghiêm trọng, phạm đến an toàn, trật tự xã hội. Chị kia ở đâu đến, đến từ bao giờ, đã khai báo tạm trú chưa?

Vợ Bá ở quê ra, cả mấy nhà quanh đây đã biết mặt nhiều năm nay, có lần chị còn đi chào hỏi láng giềng, mà Dương cứ dửng dưng hỏi thế.

Bá đáp:

- Dạ, chưa ạ.

- Thế thì không được. Ra khai báo tạm trú ở mấy ngày ngay bây giờ, không thì sáng mai tôi đuổi.

Tôi nảy ra sáng kiến: Cho gà mổ thử bát nước cơm thì biết có độc hay không.

Dương nói vun vào:

- Sáng kiến ông trưởng ban hay đấy.

Tôi lại hỏi:

- Nhà này có nuôi gà không?

- Không ạ.

- Các nhà quanh đây có gà không? Cho thử, gà chết thì được đền. Nhà nào có gà?

- Không ạ.

ở ngoài cửa có người nói: "Gà chết thì được nhận cái giấy biên lai. Chả chơi! ”. Mọi khi, tôi vẫn nghe bốn phía tiếng gà gáy ran nửa đêm như ở trong làng.

Gà nhốt chuồng, hầu như nhà nào cũng nuôi. Nhưng cách trả lời ấy là không ai muốn cho mượn. Cái mẹo gà uống thử nước cơm của tôi đâm ra vu vơ, vớ vẩn, .

Ngoài cửa lại thì thào, rồi tiếng cười...

Dương lại nói như quan toà: .

- Cho gà uống nước cơm cũng chưa chắc. Có thuốc bả thì gà chết, nhưng có con chết ngay, có con khặc khừ vài hôm. Không được. Bát nước cơm này mai sẽ đem lên trên bộ Y tế xét nghiệm. Nhưng trong hộ từ hôm qua chỉ có chị này là người lạ, lại ở nhà cả ngày, chị là đối tượng bị tình nghi. Từ nay cho đến hôm nào trên cho biết kết quả xét nghiệm, cấm không được đến đây, chị phải về quê đợi toà án gọi. Chị mà thò mặt đến, đề nghị đồng chí Đàng công an cho bắt ngay. Tôi kết luận thế, anh trưởng ban có phát biểu, cô Đàng có ý kiến không?

Mẫn đã bỏ đi từ lúc nãy. Tôi và cô công an để im chẳng biết nói thêm thế nào. Thế là chính quyền đồng ý rồi. Hôm nay Dương hoạt bát hách dịch điều khiển, ở các cuộc họp khác Dương thường nhẹ nhàng... đề nghị anh cho... đề nghị đồng chí... Vợ Bá lại gục mặt xuống nữa, hức hức nảy cái cổ. Cuộc họp xử kiện chỉ một mình cái Dung nói và Dương phán xét.

Ra về, tôi hỏi Dương:

- Con Dung thuê anh mấy đồng đuổi vợ thằng Bá?

Dương đứng sững:

- ôi trời, trưởng ban phát biểu thế thì chết mẹ em. Không đâu, không...

- Có thì từ giờ chừa đi, không thì thôi. Trắng trợn quá.

- Thằng Đại, thằng Mẫn đã ton hót nói xấu em, em biết rồi.

Có hôm gặp Dung đi chợ, tôi nói:

- Cô Dung đuổi người ta khéo nhỉ?

Dung không chối giãy nảy như Dương, Dung cười tít mắt, ỡm ở hỏi lại:

- Bác phê bình em đấy a?

Vừa xong vụ hoà giải, đến một đám cưới buồn. Tôi nhận một cái phong bì đề giấy mời, nhưng lại dán kín, nét chữ Nguyễn Sáng. Hôm nào chúng tôi cũng đi uống bia, mà lại viết thư? Nguyễn Sáng đương ký hoạ tôi một tranh sơn dầu. Tôi không phải ngồi, Sáng nhớ dáng mà vẽ. Sáng đã mang đến nhà tôi treo. Tôi mặc áo sơ mi trắng, một tay chống lên má, trên một nền hoa cúc vàng. Sáng bảo: “Bà Cúc bà ấy gác đằng sau ông đấy". Nhưng mấy hôm sau, Sáng thấy tôi mặc áo nhung đen kẻ, cổ ni lông nâu giả lông cừu, Sáng nói: “Những màu này hay hơn”. Sáng xách cái tranh đi làm lại.

Hay là thư hẹn giả tranh, hẹn đánh chén mừng tranh. Không phải. Thư Nguyễn Sáng mời vợ chồng tôi chủ nhật này dự đám cưói Nguyễn Sáng lấy Thuỷ. Việc vui lớn này, một tối Nguyễn Sáng theo tôi đi tuần rồi vào uống bia ở ga Hàng Cỏ đã nói, lại một lần quán Gió trong công viên, Sáng nói lại, nhưng cũng chưa hẹn hôm nào. Và tôi cũng ử hữ biết vậy.

Đã lâu, hoạ sĩ Sáng thôi ăn kem bùa mê hàng Tiến Đạt Nguyễn Sáng theo đuổi Thuỷ, một cô ngồi mâu trường Mỹ Thuật. Thuỷ trắng trẻo, nhỏ nhắn, buồn bã gầy úa như giò hoa huệ héo. Đến nhà Sáng, những khi Sáng vắng thấy Thuỷ nhặt rau, bắc lò thổi cơm. Tôi nhắn hỏi Sáng xem cưới xin thế nảo, nếu nhố nhăng thì tôi không đi. Sáng bảo: cưới đời sống mới, khẩu hiệu là thanh lịch, tiết kiệm, lịch sự. Chương trình và thực đơn sẽ: Uống nước chè, cắn hạt bí, không kẹo bánh, không vỗ tay. Khách không mang đồ mừng. Không có hai họ, chỉ có cô dâu chú rể ra chào khách. Chỉ mời- Sáng đếm ngón tay, độ tám hay mười bạn, nếu đến đủ. Không tính dăm đứa cánh trẻ phù rể, phù dâu. Được không?

Tối hôm ấy cùng với vợ chồng tôi, có hai bác Nguyễn Tuân và Sỹ Ngọc, Mai Văn Hiến, hình như thế, tôi không nhớ thêm có ai nữa. Tôi ngượng nghịu và buồn buồn thế nào, không muốn trông tỏ mặt mọi người ngồi đấy Phòng họp của hội Văn Nghệ, đèn nêông sáng trắng, chiếc bình hoa lay ơn tím giữa cái bàn dài và mọi thứ hạt bí, ấm nhôm nước chè, cũng chị phục vụ mọi khi, như buổi họp thường ngày, đúng như Sáng đã báo trước. Chú rể Sáng đầu vẫn đội mũ cát két vàng ố kẻ ca rô thường ngày che cái trán hói, nhưng bộ đồ trôpican xanh nhạt còn mới, là thẳng nếp và đi giày da đen. Chú rể ra tận thềm đón khách.

Không nghe tiếng cắn hạt bí ti tách, cũng không ai to nhỏ trò chuyện. Chuyện gì ở cái đám cưới vừa như buồn cười lại như thương thương này.

Nguyễn Sáng trịnh trọng đứng dậy.

- Tôi thay mặt vợ tôi, xin cám ơn các bạn có lòng yêu đã tới dự lễ thành hôn của chúng tôi. Đến giờ rồi, các bạn ngồi chơi tôi xin phép đi đón dâu.

Rồi Sáng với mấy thanh niên, cũng giầy và quần áo mới- chắc mấy cậu sinh viên Mỹ Thuật, cả bọn ồn ào ôm những bó hoa xuống bậc thềm trước cửa. Không biết ra ngoài đường họ lên ô tô hay đi xe đạp. Chúng tôi ngồi chờ phút trọng đại của đôi vợ chồng mới.

Nhà Thủy ở phía sau phố Lò Đúc, nhà đông anh em, bố cô hình như đạp xích lô hay xe ba gác. Tôi đã uống rượu nem rán với bố Thuỷ ở cái gác con con nhà Sáng. Ông ấy kém tôi hai tuổi, chưa chắc đã hơn tuổi Sáng. Thế nhưng Sáng lễ phép, khúm núm xưng “con” nhẹ nhàng. Lần sau Sáng gọi tôi đến ăn bún chả, nhắn là Thuỷ làm và khách chỉ có “Ông cụ” và tôi.

Tôi không đến nữa.

Có đến ngoài chín giờ mới thấy chú rể về. Cái mũ lưỡi trai lệch vẹo một bên, vẫn bộ quần áo đẹp. Sáng ôm một bó hoa rực rỡ, mặt đỏ rừ. Chắc lại mới nạp thêm rượu. Các bạn trẻ phù rể xúm hai bên, không ra khoác vai, không ra xốc nách. Họ vẫn cười cợt, vui nhộn. Mọi người vào hết rồi mà chưa thấy cô dâu.

Nguyễn Sáng lại chắp tay, cất tiếng lễ phép như lúc đi:

- Kính thưa hai họ, đúng đến giờ đón dâu, Thuỷ bị mệt. Thuỷ nhờ tôi xin lỗi các bạn, vợ chồng tôi xin lỗi các bạn đã đến mừng chúng tôi. Bây giờ thì mời hai họ giải tán.

Hôm sau, Mai Văn Hiến kể tôi mới biết. Sáng đã sửa soạn đám cưới thân mật như thế. Buổi chiều, Thuỷ đi chợ Hôm, bị ngất ở chỗ hàng bán hoa. Thuỷ vốn bệnh tim. Xe cấp cứu đến chở Thuỷ vào nhà thương Phủ Doãn. Sáng đã biết cả những trắc trở ấy, nhưng im lặng, sợ nói ra ở chỗ vui mừng thì bị sái. Lúc Sáng bảo là đi đón dâu, nhưng Sáng và các bạn trẻ đã đi uống ở đâu rồi quay về.

Hồi này, làm mạnh công tác chống mê tín. Tôi cũng vừa đi chống mê tín hụt về. Công tác văn xă của Mặt Trận thành phố, chúng tôi chọn đi đền Ghềnh.

Tôi chẳng soạn kế hoạch thế nào, chỉ nghĩ nhẹ nhàng đến xem ra sao rồi về rút kinh nghiệm, điều cốt yếu trên dặn là phải từ việc cụ thể phân biệt ra cái mê tín dị đoan, cái tín ngưỡng. Đền Ghềnh bên kia sông, có tiếng xưa nay. Thuở trẻ, năm nào hội đền Ghềnh tôi cũng đi. Nhưng chỉ còn nhớ quà hội đền có bánh đa, đa vừng, đa đường, bánh đa gối và người trong làng ra bán những xâu khế cơm không ngọt không chua. Bao nhiêu năm rồi, bây giờ, ngoài cửa đền vẫn bán bánh đa và những xâu khế cơm - nhưng bánh đa bột sắn và con mắt, cái miệng tôi làm sao mà còn thấy được các thử ấy ngon ngọt như ngảy trước nữa.

Đền đông người lễ, nhà đền có tiệc. Chúng tôi đi như những người đi lễ, không giới thiệu trước, không ai biết đoàn công tác. Cho nên bị chèo kéo ngay vào chính điện, không kịp xuống nhà hậu xem có nhảy đồng không. Có lẽ nhà đền có vẻ nghi ngờ dạng cán bộ, công an, đã chặn khéo: “Nhà đền chúng tôi cúng thánh, không theo việc đường âm". Con công đệ tử đến tuần về lễ, ăn cỗ chay. Có đến cả chục mâm bày ba gian giữa. Dưới nhà hậu còn nghe tiếng hát, tiếng người nói, chắc dưới ấy cũng đương đánh chén. Chỉ không biết cỗ chay hay cỗ mặn. Ngay bấy giờ tôi không nghĩ có thể có người đã báo cho nhà đền biết trước đoàn kiểm tra đến.

Chúng tôi được mời ăn cỗ. Chúng tôi không phải đặt tiền thật vào mấy lá vàng lá đem để vào án thư.

Cỗ chay có rượu, lúc đầu vò rượu để khuất sau cột. Tôi cười, bảo một cụ đi lấy rượu: “Ta cứ tự nhiên, rượu cũng là cỗ chay không phải là sát sinh”. Được khách thành phố buông cương, ông bưng luôn ra cả mấy vò. Đến lúc về tôi còn ngây ngất cả hai chân, thế là thất bại, chẳng thu hoạch được cái mê tín, cái tín ngưỡng khác nhau thế nào.

Trên trời thì mênh mang nghe báo cáo được, nhưng việc ở sát sườn trong phố thì không thể lơ mơ để yên.

Dương nói:

- Người ta bảo nhà mụ Na hay xách túi ra chợ, túi có maý nải chuối xanh, bó hương. Mụ đứng trong cửa, mắt trước mắt sau rồi mới bước ra, tôi nghi mụ đi đồng bóng..

- Theo dõi kỹ xem sao.

Mấy hôm sau, Dương lại nói:

- Nhà mụ buôn chuối, buôn hương.

Tôi nói:

- Chắc là nó đi bán đồ cúng. ở bên đền Ghềnh người ta đem cúng nhiều chuối xanh, cứ ngày ngày nhà đền lại quảy gánh chuối với từng túi hương thẻ sang chợ Đồng Xuân.

- á à! Thế là nhà này mê tín dị đoan rồi.

Tôi nói:

- Phải cẩn thận không có phạm vào tự do tín ngưỡng.

Cúng lễ là tín ngưỡng, ngồi đồng, xem bói, sóc thẻ mới là mê tín. Cái này cho đặc công Mẫn lặn vào tận nơi xem đích xác ra sao.

Một buổi tối, Mẫn hí hửng nói:

- Đền thờ ở trên gác, lạ lắm. Chuông mõ rồi hát ê a, người ngồi đảo đầu như rượu say. Nhà dưới đóng cửa cài chặt, nhưng ngoài đường cũng nghe được tiếng chuông mõ chập cheng. Thế mà không ai đi báo.

- Ai dại mà đi báo để nó chửi cho ủng mả! Mụ Na đanh đá có tiếng.

Tôi nói như ra lệnh:

- Chúng ta phải giải tán cái mê tín dị đoan này, không để nó lây lan.

Tối rằm, tổ công tác đại biểu và bảo vệ đến nhà mụ Na. Một ông đứng tuổi, dáng bệ vệ công chức cũ.

Nhưng ông không sẵn cái cười xã giao tứ thời, mà ông lé mắt nhìn trộm. Bộ ria huê kỳ lốm đốm, hồi trẻ chắc du côn du kề, bây giờ trông còn cáo lắm. Ông chắp hai tay như ra sân khấu:

- Chào chư vị.

- Chúng tôi kiểm tra sổ vãng lai.

Ông lấy trong ngăn kéo ra quyển sổ bọc giấy bóng cẩn thận, đặt lên mặt bàn. Trong khi cô Đàng mở, chăm chú xem từng tờ các mục tạm trú, tạm vắng. Tôi hỏi:

- Nghe có tiếng mõ trên gác?

Ông ta cười hề hề:

- Các vị khéo vờ. Có bắt bỏ Hoả Lò bọn ngồi đồng ngồi kềnh thì xin cứ việc lên.

Rồi ông làm điệu giơ hai tay, xin mời. Lại lẩm bẩm, không biết rủa ai “Con giời đánh, cho mày chết bỏ mẹ mày! ”

Chúng tôi xộc lên gác. Cái gác lửng cạnh sân thượng, trong phòng mù mịt khói hương.

Góc trong, người cung văn già, áo đại cán, chòm râu lưa thưa, quần vải nhuộm cậy, cây đàn với người nghiêng ngả ê a bên một bà, tôi đã nhận ra mụ Na béo phục phịch. Mụ Na kéo trên đầu xuống một vuông nhiễu điều, miệng nhai trầu, mặt đỏ như uống rượu. Xung quanh, mấy bà nạ dòng đương rì rầm khấn vái.

Thấy người lố nhố, tất cả im bặt.

Trên bàn thờ, khói hương trắng mờ. Mấy nải chuối xanh chồng lên nhau giữa mâm ngũ quả. Hai bên chân án thư dán hai con thanh sà bạch sà bằng giấy viền trang kim vàng choé miệng há ngậm hòn ngọc giấy điệp nhấp nhánh. Cái đuôi con rắn ngoắt lên.

Mấy người quay ra, ơ mặt nhìn cô công an. Cô Đàng đội mũ lưỡi trai, áo kà ki vàng cứng nếp, nom oai vệ nhất. Tưởng cô ấy sắp lấy còng số 8 ra xích cả lại.

Mụ chủ nhà bỏ hẳn vuông nhiễu trên đầu xuống, trông rõ không phải vuông lụa vuông nhiễu, mà là hai ba cái khăn quàng đỏ của trẻ đi học khâu ríu lại.

Tôi hỏi:

- Bà là bà Na?

- Thưa vâng.

- Thế này là tụ tập trái phép làm mê tín dị đoan.

- Nhà cháu cúng người ốm.

Lúc ấy cái ông có bộ ria lởm chởm ở nhà dưới đã lên:

- Chúng nó đồng bóng nhảm nhi phạm luật nhà nước, các ông các bà cứ bắt đi cho tôi.

Bà Na bỗng cong cớn trỏ vào mặt lão:

- Bắt đứa nào! Bắt đứa nào! Bắt thằng tổ tôm, xóc đĩa, bắt thằng phản động việt gian đi tù về kia kìa.

Trong lúc hai vợ chồng to tiếng xỉ vả nhau, mấy bà hầu bóng đã lủi đằng nào. Ông cung văn già cũng biến mất, để lại cái nguyệt dựng trong tường. Cô công an Đàng mà mọi người đều hãi, vẫn đương tò mò ngây nhìn cái bàn thờ sặc sỡ, trang kim óng ánh, có hai con rắn...

Tôi nói:

- Tôi nhân danh chính quyền cấm gia đình từ nay không được phạm vào đồng bóng dị đoan. Chúng tôi tịch thu các đồ mê tín. Yêu cầu các đồng chí bảo vệ làm việc.

Cái mõ gỗ, cái cảnh, cải tìu, những bát hương cúng vọng, cúng hậu trên bàn thờ thì đổ hoa giấy và cát ra, Dương bỏ cả vào cái túi vải đã đem theo. Dương với tay lôi chiếc đàn nguyệt. Tôi nói. “Cái này là nghệ thuật, không tịch thu”, Dương để đàn vào chỗ cũ. Hai con mãng sà trơ ra hai bên chân bàn chưa ai đụng tới. Dương vơ vét mọi thứ, cả mấy nải chuối, nhưng có vẻ ngại con rắn giấy.

Tôi bảo cô Đàng:

- Cô bóc nốt cái mê tín này đi!

Cô Đàng như mới hết ngơ ngác, cô bước đến lột hai con rắn cuộn lại, kẹp vào quyển sổ.

Nhà dưới chỉ còn ông bà chủ nhà. Vẫn như mất hồn, như còn sợ, như hầm hầm giận dữ.

Tôi nói an ủi:

- Chúng tôi chỉ tịch thu đồ mê tín.

Bà Na nhăn nhó:

- Các ông bắt nạt nhân dân. Chúng tôi không phải quân mê tín!

Cánh cửa vừa đóng lại, tiếng đàn ông quát: “Con giời đánh! Con chết chém! Chúng tôi... chúng tôi... Ông bận gì đến cái mê tín của chúng mày”

Rồi huỵch huỵch, chát chát, không biết ai đánh ai, tiếng đấm đạp, tiếng phá tủ.

Tôi nói:

- Vào can người ta đánh nhau!

Mẫn bảo:

- Thằng chồng thế là tiến bộ, cho nó đánh con vợ mê tín dị đoan mấy cái.

Lệnh vào can của tôi không có hiệu quả, mà tiếng đấm đạp, tiếng kêu cũng im.

Tôi bảo cô Đàng:

- Cô cầm mấy thứ này lên khu báo cáo.

Dương nói:

- Cô cho tôi con rắn về làm mồi nhóm bếp.

Rồi chẳng đem thứ gì lên khu cả. Mấy cái bình hương mỗi ngưòì lấy một cái, đựng muối, làm phạng muối dưa, tôi lấy một cái để trên bàn làm ống bút. Đại xin chiếc mõ, chiếc cảnh đem về quê để gõ đuổi gà vào vườn bới.

Đến đợt kiểm tra vệ sinh chuấn bị toàn thành phun thuốc muỗi. Phát hiện ra ba nhà nuôi lợn trên gác, một nhà nuôi chó, bốn nhà hố xí phè cứt ra ngoài.

Tôi đi cùng các tổ trưởng và cô Nghệ phụ trách vệ sinh, rồi hội ý..

Tôi nói:

- Không được nuôi lợn trên gác. Bà tổ trưởng phải vận động người ta bán lợn, không có đến hôm phun thuốc trên khu về thấy thì không ra thế nào.

- Vâng, em sẽ vận động.

Bà ấy “vâng” rất nhẹ nhõm. Bà vâng để đấy, nếu tôi không đến xem lại, hỏi lại thì bà cũng chẳng nhòm đến con lợn người ta nuôi trên gác đâu. Cứ ừ, cứ vâng văng mạng, tôi đã dần dần quen như thế.

Tổ y tế xem đã phun thuốc được chưa. Thấy có thể phủn được. Đã hỏi cẩn thận, không có nhà nào không chịu cho phun như năm ngoái. Chỉ một buổi sáng thì phun xong. Tất cả các tổ trưởng, tổ phó, vệ sinh viên và hội viên chữ thập đỏ đeo băng đi hai ba người một kiểm tra khắp các phố. Một chiếc xe tải đã đưa các phuy thuốc tới. Sinh viên trường Kinh tế Quốc dân làm công tác xã hội, các cô các cậu cõng bình thuốc, tay cầm vòi, miệng đeo khẩu trang, vệ sinh viên hướng dẫn vào từng nhà, phun khắp từ hố xí đằng sau lên trước cửa, từ các phòng trên gác xuống nhà dưới. Mọi nhà đã được báo trước, nhưng cũng không phải đã dễ dàng. Nhà cẩn thận, chỗ này cho phun chỗ kia không.

Có người sợ mùi thuốc, đóng kín cửa, ra ngồi ngoài hồ. Cũng có nhà khoá trái, không ai ở nhà. Người ta không muốn cho phun thuốc, nhưng hôm nọ hỏi cũng cứ ừ.

Cả phố rộn rịch như đi mít tinh. Có người không phải ở ban vệ sinh cũng sốt sắng khuân thùng thuốc, chỉ dẫn nhà phun, chỗ phun. Buổi trưa, cả xe tải ra máy rửa tay chân rồi vào ăn liên hoan mỗi người một bát miến gà.

Vẫn cuối năm, nhiều việc dồn lại. Trật tự trị an lên hàng đầu chẳng khác dịp Quốc Khánh và các ngày lễ ngày Tết, - đến Tết cả thì dân phòng tuần từ giữa tháng chạp sang tháng giêng..

ở trụ sở dân phòng, bắc cái đèn, kê ra chiếc bàn với hai ghế băng, trên tường treo bảng mới kẻ chữ: trụ sở dân phòng thường trực tuần tra. Bắt đầu cắt lượt hai tiếng một tua, từ tám giờ tối. Hai ngưòì, bốn người hết tua về trụ sở đưa băng đỏ và chiếc đèn pin cho kíp sau tớì sáng.

Tuần tra đêm đêm, những góc phố êm ả. Ban ngày chỉ có hàng rong mua đồng nát, sách báo cũ, gánh củ khoai lang, lọ kẹo, ô mai, đôi khi hàng bánh tôm trước cửa trường học, phố này không có chợ xanh, chợ cóc.

Có khi, nứa đêm nghe tiếng kêu thét lên rồi im lặng. Không biết trộm hay người mất của. Bên cạnh, lô nhô những ngõ ngang, thoắt một cái đã lẩn sang phố khác. Có mỗi một lần bắt được trộm, năm ấy, tôi vừa dọn nhà lên được mấy tháng. Tiếng chân chạy rậm rịch.

Lố nhố người dẫn ra một người bị tóm trói ngoặt tay, tóc xoã, máu chảy bê bết, không trông thấy mặt. Thằng trộm không thuộc đường đã chạy húc đầu vào tường cuối ngõ cụt.

Đi tuần khuya tôi hay đến rủ Nguyễn Sáng ra quán Gió hay cửa ga hàng Cỏ, làm vại bia thiu. Bia đêm không phải sắp hàng, mà những ông mua bia cánh tay đeo băng, chẳng biết ông bẻ ghi, ông trưởng toa, trưởng tàu, ông “cờ đỏ", nhiều người đeo băng đỏ quá, và đều là người phải nể, nếu sắp hàng cũng được vẫy lên ưu tiên. Nguyễn Sáng nói: “Bận sau cho tớ mượn cái băng đỏ. Uống bia được mời, khoái quá".

Lại chuyện bất ngờ về trị an. Đằng sau những nhà lẫn lộn phố ga với vùng bờ hồ, có cửa sau dãy hàng ngoài Hàng Lọng. Quán nhà mậu, cơm bát bán xuất.

Người đủ loại, các tỉnh, người công tác, người đi buôn, không đoán đếm xuể được, cả đứa lang thang, gái điếm.

Cũng như chẳng phải địa phận cũng đánh dẹp cho chúng khỏi tràn lan. Cốt có công an, nhưng việc này cô Đàng lại không làm nổi. Vào xét nhà lão Vinh quét vôi, có người báo lão giặt xi líp thuê cho gái điếm. Cô Đàng đứng lại:

- Cháu không vào đâu. Phạt người đái đường, chỗ bến xe lúc nào cũng cả chục đứa uống bia rồi đứng lên đái, thấy cháu chúng nó quay ra đái vung vãi, cháu hãi lắm.

Tôi thông cảm những khó khăn của cô gái hai mươi mốt tuổi quê miền đồng khô cát tráng trồng ớt trong Quảng Bình. Trong nhà lão Vinh, Dương tịch thu đem ra cả túi những cái xì líp, xú chiêng sặc sỡ. Dương ra kể cho cô Đàng viết báo cáo, rồi cô ấy ký.

Cô công an hộ khẩu này còn một tật nữa. Cô sợ chuột. đến kỳ diệt chuột, thế nào cũng vắng mặt cô Đàng và Mẫn bảo vệ. Cô Đàng thì chẳng lạ, nhưng Mẫn sợ chuột thì thật quái lạ.

ấy đêm qua, phổ biến kế hoạch diệt chuột. Năm ngoái đánh bả được ngót một nghìn con, toàn chuột cống. Được giấy khen của hội chữ thập đỏ. Chỉ phải một khuyết điểm là để người vứt chuột chết bừa bãi, lần này phải cúng cố khâu nhặt chuột, chôn chuột. Buổi trưa, trên khu mang một bọc thuốc chuột xuống.

Cô Nghệ nấu một nồi cơm to, để nguội đổ ra ni lông rồi trộn thuốc đem phát. Cả phố đặt mồi cùng một đêm, rồi ba hôm liền, tổ hội viên chữ thập đỏ đi từng nhà nhặt xác chuột. Cuối ngày, xe đạp thồ những sọt chuột chết vôi bột rắc cả trong cả ngoài. Trên bờ sông, một dẫy những huyệt chôn chuột đã được đào sẵn cho các phố đem lên. Năm nay không đánh được cả nghìn con như năm trước. Không vứt bừa bãi hay chuột đã chết thối, đem bỏ vào xe rác, hay đã báo cáo thổi phồng.

Không hiểu tại sao. Có lẽ đã đánh bả mấy năm liền, những con chuột thoát chết bảo nhau thế nào, không đụng đến cơm bả. Năm nay, cơm bả nhà trộn lấy, hôm công bố kế hoạch dặn phải phi hành mỡ lẫn vào cho mồi có mùi thơm. Mà số chuột chết cũng kém hắn. Con chuột ở thành phố cũng ngày một khôn hơn.

Buổi sáng trông đồng hồ tôi thường có một ám ảnh buồn cười. Chợt nghĩ sắp có người đến, sắp có người đến, nhiều khi y như rằng. Nhưng cái ám ảnh có người đến hôm nay lại vào buổi trưa. Một người đàn ông mặc áo pydama, ung dung đi với Dương.

Anh này xúng xính quần áo ngủ pơpơlin lá mạ viền tím. Tôì nhớ năm trước người cửa hàng trưởng cao lâu Bôđêga phố Tràng Tiền. Ông ta cũng mặc pydama xanh. Chặp tối, Phạm Văn Khoa với Nguyễn Tuân và tôi vào nhà hàng. Cửa hàng trưởng ngồi ghế ngoài hiên, đứng dậy chào. Nhưng Nguyễn Tuân đã quay ra ngay. Sang bên kia Bờ Hồ, Nguyễn Tuân nói: “Mặc quần áo ngủ đón vào ăn, bẩn quá, không nuốt được". Lên quán cà phê Nhân, uống một cái phin rồi về. Ông Nguyễn bỏ luôn bữa ăn tối ấy ở nhà. Bây giờ mới lại trông thấy một ngườỉ mặc pydama đi công việc ngoài phố giữa trưa. Chàc là ông cửa hiệu Bôđêga báo cáo thành tích thì đua cải tiến đã tiết kiệm thời chiến, mặc quần áo pydama đi ngủ, ngồi bàn giấy, ra cửa chào khách, chỉ phải một bộ. Có thế nào, bộ quần áo mới được nhiều người trong ngành ăn uống, hàng quán bắt chước nhanh thế. Ông này cũng gày gù, khắc khổ, ngăm ngăm đen.

Nghe giọng nói đường trong, biết ông cùng quê với ông cửa hàng Bôđêga. Ông ấy nói:

Chào anh trưởng ban, tôi có việc đề nghị anh. Tôi phụ trách nhà trọ cửa hàng ăn uống Ga. Tôi luôn luôn giữ trật tự trị an nhưng có một bọn càn quấy, cứ mười hai giờ trưa đến thuê phòng ngủ. Chả là giờ nghỉ thì các đồng chí công an không đi xét giấy. Các anh phải đến triệt cho hết giống đĩ bợm thì thành phố mới sạch được.

- Công an đã quy định: người có chứng minh thư ở Hà Nội không được thuê khách sạn, nhà trọ. Nhà anh ở Hà Nội, sao đi ngủ lang, chơi gái à? Không được. Làm hắc vậy mà vẫn khe hở ấy là giờ nghỉ trưa, bọn ăn chơi hay thuê chỗ trọ vào luc ấy.

Tôi hỏi:

- Anh cho chúng nó thuê phòng lại còn kêu gì!

Người ấy trợn mắt, giơ bàn tay khía vào cổ.

- Không cho thuê, chúng nó cắt cổ tôi. Có thế mới phải nhờ anh can thiệp.

Tôi hẹn trưa nào có đứa đến thuê buồng để hủ hoá thì anh vào báo, chúng tôi sẽ ra.

Ông ta cám ơn rồi bắt tay, đi ra với Dương. Nhưng lại quay đầu, nói: “Ngay bây giờ anh ra cũng được, sắp mười hai giờ rồi.”

- Thôi hôm khác.

Chẳng lâu la gì, trưa hôm sau, người bồi xăm tự phong là phụ trách nhà buồng đã vào gọi: “Chúng nó đến! ”

Tôi báo với Mẫn và cô Đàng. Nhưng Mẫn đương bận chữa xe, cô Đàng thì họp trên khu chưa về. Chỉ có Dương và tôi Người pydama đưa chúng tôi vào nhà trong. Im lặng, trỏ tay vào cái buồng trên cửa có số 5.

Dương đấm chát chát như phá cửa. ở trong có tiếng hỏi ra: “Đứa nào đấy?”- “Mở cửa mau, kiểm tra hộ khẩu". Thấy lặng im, Dương lại đập cửa. Một cánh cửa bị đẩy hắt ra. Trán Dương cộc bốp một cái vào mặt gỗ.

Dương sừng sộ:

- Chúng mày chống lại chính quyền a?

- Không biết, tôi nhỡ tay. Ông tha cho.

Người ấy cười gượng ngượng nghịu. Không thấy nó vẻ du kê, du côn như người bồi săm nói. Nhìn vào gian buồng trống, trên giường góc trong có một người đàn bà đương ngồi búi lại tóc, áo đại cán tím, quần đen, đôi dép có quai hậu, như cán bộ ở tỉnh lên.

- Anh đưa gái đi hủ hoá?

- Không ạ, vợ tôi.

- Giấy giá thú đâu?

- Tôi để ở nhà.

- Không có giấy giá thú thì là hủ hoá rồi. Chứng minh thư đâu?

- Tôi quên ạ.

- Anh tên gì? ở đâu? Làm gì?

Tôi...ở Hải Dương làm nhà máy đồ hộp.

- Chị kia?

Anh nọ đáp hộ:

- Vợ tôi cũng ở Hải Dương.

Tôi nói:

- Mỗi người một tờ khai viết những điều tôi vừa hỏi. Tôi sẽ ghi biên bản. Một gửi về nhà máy ở Hải Dương, một gửi khu công an ở đây. Trước mắt, tôi cảnh cáo hai người từ giờ không được đi ngủ lậu thế này.

- Vâng ạ.

Người pydama đi lấy tờ giấy, người đàn ông nọ ngồi chép hai bản đưa cho tôi. Dương sẽ nộp khu và gửi về nhà máy. Người bồi săm cứ tấm tắc khen tôi giải quyết việc nhanh gọn. Rồi lấy trong túi ra mười đồng đưa cho tôi để các anh uống bia". Tôi không cầm, cũng không đưa cho Dương.

Có hôm đi qua hè phố lại thấy cái thằng nhà máy đồ hộp - nó không nhìn thấy tôi, hay là nó đã nhìn thấy tôi trước. Nó chạy vào nhà trọ ấy. Tôi về bảo Dương

Dương hỏi tôi:

- Có ra khám nữa không, lần này thì bắt...

Không hiểu sao tôi lại nghĩ ra và gạt đi.

- Chúng ta đã bị lỡm. Thằng pydama chứa trọ nhờ ta khám doạ thằng kia để nặn thêm tiền đấy thôi. Mà hình như cái dãy nhà này không thuộc địa phận phố ta.

Dương nói một câu lạ tai:

- Nó nhờ anh giúp mà, chỗ ấy là khối phố khác.

Tôi bực mình:

- Nó nộp anh bao nhiêu tiền?

- Anh lại nghi oan em. Em thề...

Tôi nghĩ bụng: “Nó đút tiền mày trước cả lúc vào gặp tao. Mà mày cũng vứt hai cái đơn rồi". Nhưng tôi lại không nói.

Ngày ngày Dương tha thẩn trong phố và các ngõ như con gà, con chim đi kiếm mồi, nhặt hạt thóc, hạt rền. Dạo này không thấy đi giữ xe đạp nữa. Tôi cũng không bao giờ cất công đi dò hỏi xem ở trong Nam có phải Dương đã bị án, ngày trước vợ Dương đi làm nhà thổ. Cái ngại của tôi cũng có lý vì ở đây túi bụi việc trước mắt- như thời hồng hoang, không ai biết gốc gác ai và chẳng có lương lậu ngạch bậc để nhấp nhồm chèn cạnh nhau, thế thì đi hỏi làm gì. Thằng Dương kiết xác không vơ váo kiếm ăn thì có khi phải đi ăn trộm nuôi sáu miệng ăn cũng nên.

Vẫn việc trị an, cái này mới thật sự to chuyện.

Cô Đàng trên khu về truyền đạt công tác đặc biệt. Cái nhà góc phố, một cơ quan nước ngoài thuê. Nhà này hay đem gái điếm vào. Chơi gái trong nhà ấy thì không ai làm gì được vì nhà thuộc ngoại giao đoàn. Không biết đã từng thoát bẫy ở đâu hay họ biết ta có thể chặn bắt ngoài đường, nên họ đề phòng lắm mẹo. Chở gái bằng ô tô, nhưng không ngồi ô tô che vải hoa lên cửa kính - xe nước ngoài không có thói che rèm như ô tô các cấp của ta, mà cửa xe Tây cứ thông thống, người nằm xuống ghế cũng trông thấy. Bọn ở đây cao tay, nó đặt cái thùng gỗ đằng sau xe, chằng dây cho khỏi bung lên, như tải về cái xe máy, cái tủ lạnh mọi khi vẫn làm thế. Chỉ khác, có lần ở trong ngồi một nàng Kiều..

Chúng tôi bố trí Mẫn gác ngoài đường, xế cửa, ngăn nó không tọt được vào cổng. Thấy bóng cái xe có thùng đằng sau thì Dương huýt còi, chặn lại. Tôi ra nói tiếng Tây và làm biên bản. Nếu xe cắm quốc kỳ thì tước ngay. Rồi yêu cầu mở thùng. Trong thùng không có người thì cắm lại cái cờ và cho qua. Có sai luật thì chúng tôi cũng chỉ như dân phố không biết pháp luật.

Cô Đàng và công an khu nấp đằng kia, có thế nào thì Mân chạy lại gọi. Kế hoạch tác chiến đã bàn kỹ và bố trí như thế.

Phố vắng, chặp tối đã im lìm. Đèn đường thấp thoáng, những cây xà cừ xào xạc rụng lá, vào mùa hạ nếu mưa to đường phố này có khi mấy ngày ngập ngang đầu gối. Có người thắc mắc quãng phố ấy có mấy nhà hộ đặc biệt, sao để đường tệ thế. Nhưng lại có người giải thích mỉa mai: ô tô kề thềm hè, biết lụt lội ra sao, đến tết Công Gô vẫn lụt, cũng chẳng lo.

Nhưng công toi đã mất mấy hôm. Mỗi lần, có một hai xe về lúc chặp tối. Trong nhà lên đèn sáng, tiếng máy hát mở to, chắc là họ vừa ăn vừa nhảy đầm. Vào khuya gần nửa đêm, một xe nữa về, xe vào khoá cửa sắt ngay. Đèn trong nhà không sáng thêm. Xe này đi tiệc đâu về. Không xe nào có cái hòm đằng sau.

Cô Đàng nói:

- Các anh ấy bảo gác nốt đêm nay thì rút.

Chặp tối, cũng hai xe, vẫn không có hòm xiểng buộc đằng đuôi. Xe bóp còi, trong nhà ra mớ. Gần nửa đêm, lại một xe về, vào khoá cửa sắt, không có vẻ gì khả nghi. Hai cánh cổng sắt đóng, ô tô đã tắt máy trong vườn. Dương đi từ hè bên kia đến. Dương đẩy một cô gái trong bóng tối gốc cây ra sáng điện giữa đường.

Như ở đâu hiện ra, người con gái mặc áo vét, đầu phi dê mốt mới “u xi” xoắn lên đỉnh. Dương lôi cô gái ra đứng giữa chúng tôi, nói to:

- Chị này núp gốc cây định theo cái xe vào.

Người con gái nói:

- Không phải. Tôi vừa đi đến đấy.

Tôi hỏi:

- Cô đi đâu khuya?

- Em đi làm ca về.

- Nhà ở đâu?

- Nhà em dưới Khâm Thiên.

Dương nói:

- Quần áo, đầu tóc thế kia không phải đi làm ca.

Tốp công an trên khu cũng đã ra tới. Một công an nói: “Việc tối nay thế là giải tán. Bây giờ đem chị này về trụ sở Hôm sau chúng tôi không phải đi rình nữa, cô gái bị dẫn về trụ sở rồi ra thế nào.

Có lúc tôi lại nghĩ hay đấy là công an thả người ra bẫy cò ke mấy ông Tây.

Không thì giờ đâu mà nghĩ lâu, những việc khác đã ập tới chúng tôi họp công tác bàu cử hội đồng nhân dân thành phố. Tôi cũng đương Hội đồng Nhân dân, mà ứng cử huyện Tử Liêm, khoá Quốc hội thì ra đại biểu trên huyện Thạch Thất. Chưa khi nào tôi thấy việc ở khối phố tôi bận gì đến các chức danh và công tác ở trên của tôi.

Việc nhiều đấy, nhưng cứ làm theo trên bảo rồi cũng tuần tự trôi chảy cả. Tài liệu thì đã có các tờ bướm chỉ dăn. Số người ứng cử có sáu thì lấy năm, bỏ một. Bỏ người nào thì gạch một cái, ở chỗ viết phiếu đã sẵn chiếc bút bi buộc vào cọc chân bàn. Trước kia có giải thích bỏ cho ai, bỏ cho ai. Nhưng lần này không thấy trên tiểu khu xuống bảo gì cả.

Hội đồng nhân dân thường họp ở hội trường uỷ ban thành phố. Đến năm xây xong khách sạn Giảng Võ thì xuống dưới ấy. Nhớ lại các cuộc họp cũng chẳng nhớ công tác, chủ trương thế nào, chỉ không quên những cái vớ vẩn. Lần nào tôi cũng chịu khó mấy hôm đi họp. ở hội trường uỷ ban trên Bờ Hồ, buổi trưa được ăn bồi dưỡng bát phở gà, phở bánh hẳn hoi và một quả chuối. Ngày ấy không phải ăn phở miến dong riềng, phở “không người lái” là nhất Hà Nội rồi.

Cái bảng với hàng chữ to tổ bố “Khách sạn Giảng Võ” thực sự nó là cái hàng cơm chứa trọ của ga bến Nứa. Cơm thì ngồi bàn ghép mâm, buồng thì nằm bốn người, sáu người. Mép cửa sổ đóng hai cái đinh khoằm vào nhau, bên cạnh dán mảnh giấy “chỗ mở bia". Nghiêng đầu chai vào, bật nút. Có hôm, tôi thấy bác sĩ Phạm Biểu Tâm- ở trong Nam ra họp, rửa mặt ở vòi nước nhà ăn. Hỏi thì bảo nước ở buồng không chảy. Nội qui ghi khách giả buồng thì giao chìa khoá cho nhà buồng.

Chúng tôi ra đứng ngoài cửa, cô nhà buồng cầm sổ vào đếm l, 2, 3 theo số: cái chén, cái phích, cái gối... Đếm xong, cô bước ra tươi cười: “Đủ rồi ạ, các đồng chí về mạnh khoẻ”.

Đấy nhớ vẩn vơ cái hàng cơm chứa trọ Giảng Võ như thế. Và nhớ buổi họp mỗi lần giải lao gặp nghệ sĩ chèo Diễm Lộc ra uống bia hơi. Cô Diễm Lộc uống hơi ác đấy.

Một buổi tối họp phố, tôi đương giải thích các tiêu chuẩn người ứng cử hội đồng nhân dân. Một ông Tây mặc sơ mi hở cổ, ria mép trắng lốm đốm, mặt rượu đỏ thậm lù lù vào ngồi xuống cái ghế băng cuối. Chết tôi rồi, đấy là lão tổng đại diện Pháp, lão P. Susini.

Hôm mới đây, Quốc khánh Pháp, tôi đến dự tiệc đứng trong vườn sứ quán. Tình cờ, ông ta đến mời rượu rồi nán lại chuyện linh tinh. Ông nói ông chưa đọc tôi, nhưng biết tiếng. Và hỏi tôi đương viết gì thú vị. Tôi bảo tôi đương làm một việc rất vui là làm đại biểu một khu phố, mà ở trong làng thi như người trưởng xóm. Tôi khoe đương có cuộc vận động bầu cử hội đồng thành phố. Ông hỏi: “Tôi đến xem được không?”- “Được, được lắm. Mời ông". Rồi ông đi bàn khác. Tôi tiếp tục uống và coi như những câu nói gió bay lên trời.

Nhưng lão Susini đã đến. Tôi không lạ người ta đến, nhưng tôi ngại cái sự lão tò mò chui vào cái phòng họp ở chỗ ngóc ngách và ngồn ngang như lớp học trong tranh thày đồ cóc.

Tôi ra chào ông. Và nói xin lỗi, tôi đương giải thích về bầu cử. Ông ấy nói không sao, không sao, ông ấy đi bách bộ chơi, nhìn thâý tôi thì vào, tôi cứ làm việc, mặc ông ấy.

Rồi lão P. Susini đi lúc nào không biết. Ông ấy nói xã giao- khó lòng, vì cái buồng phòng họp giữa nhà, ngoài đường không trông thấy người ở trong, hay là ông ấy thấy vẻ ngơ ngác của tôi- tôi không ba hoa chích choè như hôm uống vang Boocđô ở sứ quán, ông ấy đã lẳng lặng rút. Không có qui định luật lệ tiếp xúc với người nước ngoài, nhưng người ta đều tránh.

Cô bán bia Bờ Hồ kể chuyện. Có một Tây không biết người nước nào nói tiếng ta sõi, chiều chiều đến uống bia tán gẫu. Cô hàng bia bảo khách: “Đồng chí đến uống bao nhiêu chai bia cũng được, nhưng không nên đến nói chuyện với tôi. Nói chuyện với tôi thì mai tôi mất việc". Và cô đá mắt nhìn người công an đương thản nhiên như không đương đi đi lại lại bên ngoài.

Hôm sau, cô Đàng hỏi tôi:

- Bác có biết người Tây tối hôm qua đến chỗ phố họp không?

- Tôi không biết.

- Ông âý là đại sứ nước Pháp. Sao nó biết ta họp?

- Biết được!

- Nó hỏi gì thế, hả bác?

- Nó có hỏi gì đâu!

- Nhân dân bảo bác ra nói chuyện với nó.

- à người ta vào nhà thì mình phải ra chào hỏi, phép lịch sự quốc tế mà.

Cô Đàng lại ghi vào sổ, không hỏi thêm rồi đi.

Một người đến. Không phải cô Đàng quay lại, mà cô Nghệ. Cô Nghệ đã trên năm mươi tuổi, ai cũng quen miệng gọi là cô, bởi vì cô chưa có chồng. Người làng nhàng, quắt queo, hay gắt gỏng, mặt khó đăm đăm, lại bệnh đau gan. Cô hay nhờ tôi tìm thuốc tiêm bổ gan sêlêpa. Các hàng thuốc không có những thuốc quí hiếm ấy. Tôi mua hộ cô ở y tế cơ quan. Cô Nghệ làm ban vệ sinh, thành phố chuẩn bị phòng không cô kiêm thêm ban cứu thương. Lại có việc gì đây.

- Anh Vân đội viên dân phòng...

- Anh Vân lái xe ở phố bên ấy a?

- Vâng. Mấy hôm nay lôi thôi to. Cái hố xí hai ngăn của chung số nhà nước cứt đái ngấm sang cả mặt tường nhà anh ấy. Mấy hôm đã cãi nhau ầm ĩ, mà anh Vân thì ốm, con còn bé, nheo nhóc quá. Anh sang xem thế nào.

- Cô về báo số nhà ấy tối nay họp, tôi đến.

Cô Nghệ đã đi rồi, lại trở lại.

- Hay là trên đương giục báo cáo vệ sinh hố xí hai ngăn, anh để mai ta đi kiểm tra làm báo cáo rồi vào nhà anh Vân một thể.

- Thế thì chiều mai ba giờ tôi sang bên nhà cô rồi cùng đi.

Mấy lâu nay thành phố vận động các nhà làm hố xí hai ngăn. Việc ỉa đái của đất Kẻ Chợ từ thời Tây đã cứ không dưng như mưa nắng, như trời đất hết mùa hạ sang mùa thu. Hồi xửa xưa, chỉ độc mấy phố hàng Đào, hàng Gai, các nhà quan cách khá giả trổ ngõ sau ra phố tắt, ra vườn hoang, mọi đi lại, chợ búa, con cháu ở quê ra, người vào lấy phân tro đều đi cửa khuất ấy. Rồi quan đốc lý Tây cho thầu phân, các nhà làm hố xí đằng sau, nửa đêm có phu gọi cửa “đổi thùng! đổi thùng! ”- mà người nghe lúc ngái ngủ nhầm là “đổ thùng". Nhà có cửa nách cho phu thùng, nhà chật chội thì mỗi đêm phu cứ xách thùng phân qua suốt cảc phòng ra cửa trước. Năm 1956, về hoà bình rồi, buổi tối tôi vào hiệu vằn thắn phố Huế, đương ăn còn thấy người công nhân vệ sinh quảy đôi thùng phân đi ra, qua ngay giữa nhà. Đấy là nơi có phố, còn lều quán chưa thành phường thì vẫn ngồi nấp bờ đầm, bờ sông, bụi rạm. Làng tôi ở ven nội, người lớn trẻ con đều ra các chân tre đầu đồng, mỗi hôm có mụ “mũi thung"- những người đàn bà lam lũ trên mặt nổi vết chàm có lông như miếng da lợn, họ ở các làng vùng trong quảy thúng tro đi gắp phân về bán.

Nhà người Tây có hố xí máy, còn người ta ở Hà Nội thì cả trăm năm thuộc Pháp các phố cứ “đổi thùng” cho mãi đến những năm 1958. Không biết ai cải tiến ra cái hố xí hai ngăn đến bây giờ còn người khen, ngườì thì bài bác kịch liệt đòi truy cho ra đứa có sáng kiến ấy để bỏ tù. Tôi là người đứng giữa có thực nghiệm với tư cách nhà có một hố xí hai ngăn và bây giờ trông nom hơn hai trăm cái hố xí hai ngăn của hàng phố, tôi thấy không phải tội ở người nghĩ ra, mà tại những đứa xây và đứa cai quản với thói kẻ cắp bớt xén, thói lười biếng. Lý nhẽ và lề lối nghe ra thuận tai, vẫn cái hố xí mọi khi đem chia thành hai ngăn. Đầy ngăn này, đậy nắp lại cho phân ngấu. Khi ngăn kia sắp ứ lên thì ty vệ sinh đến hót hố bên. Hàng tuần, đem tro và mùn đất rắc vào hố phân, lại trát vôi cho khít nắp. Mọi việc đều được giải thích ra các thành tích và kết quả. Phân này đưa đến nông trường, tốt bằng trăm phân hoá học nước ngoài phải bỏ tiền ra mua nhập.

Cái tưởng là sẽ tốt đẹp ấy đều đặn tử tế được vài tháng đầu. Các người ở ngoại thành vào lấy trộm phân khốn khổ lắm. Công nhân vệ sinh bắt quang sọt, công an phạt tiền. Nhưng vẫn có người đi chui, có các nhà cho vào múc lậu. Chỉ ít lâu, đến khi chểnh mảng chẳng thấy công nhân đưa mùn đất, không đến chát nắp, lại những xe thùng cũng đỗ bất thường. Cả hai hố đã phè ra, chủ nhà phải ngồi ở cửa hóng người hót phân chui, lại phải dúi tiền để các bác ấy làm phúc vào lấy cho. Sự tích cái hố xí hai ngăn nẫu ruột là vậy, mà đêm ngày nhà nào cũng phải dùng đến, mà cái hố xí tự hoại, cái hố xí máy thì xa vời chưa bao giờ dám tưởng tượng đến, hoạ may chỉ có thật ở các nhà hộ đặc biệt cũng một phố tôi thôi. Nhà tôi nêu gương đã đợt đầu làm ngay hố xí hai ngăn. Xây thành hai hố, hai cửa, hai lỗ, lại chát xi măng lót tường, thợ xây đưa đến một xe ba gác mấy chồng gạch xỉ than. Tôi bảo:

- Gạch xỉ than thì vỡ ngay, thấm hết.

Anh thợ nề và anh công nhân vệ sinh cắt nghĩa quả quyết:

- Gạch xỉ than nhẹ và xốp, phân hả hơi càng chóng khô, phân sẽ rất tốt, bác ạ.

Tôi không thề hiểu biết hơn những người miệng nói tay làm này. Nhưng cái hố xí hai ngăn nhà tôi không thấm. Có lẽ người ta làm cẩn thận kỹ lưỡng cái hố xí nhà trưởng ban.

Tôi với cô Nghệ đến nhà Vân. Cái hố xí sát tường ấy không phải của một hai nhà mà chung năm hộ trong một số nhà. Trên gác, tầng dưới, nhà ở bếp, nhà vẩy mái đằng góc sân. Nhà anh Vân ở xưa kia là nơi để xe. Không biết chủ để xe nhà, xe đạp hay ô tô, nhà này trước là cái biệt thự nhỏ một chủ.

Chỉ một gian thông thống, trong cùng kê cái thùng gỗ đựng xống áo. Hàng hiên là bếp, có cái hoả lò đun củi. Anh Vân nằm, chưa phải mùa lạnh đã đắp chăn, chốc lại ho sù sụ- cái chăn rung nảy lên mới biết có người bên trong. Mọi khi, có lần đêm gọi Vân đi tuần tra, tôi chỉ đứng ngoài cánh cửa, không trông thấy cảnh tiều tuỵ này.

Tôi ngồi xuống.

- Chưa khỏi ho à?

Giọng Vân tự nhiên:

- Ho lao thì chỉ khi nào chết mới khỏi, anh ạ.

Tôi không dám động đến chuyện anh ốm nữa.

- Thế nào, cái hố xí...

Vân ngồi lên, trỏ tay bảo tôi và cô Nghệ vào chỗ góc tường. Tối như hũ nút. Bật điện cũng không sáng tới Khi này người ở các buồng nhà trên thấy “chính quyền” tới đã xúm đến.

Một bà phân trần:

- Cái cô Nghệ nghe báo cáo báo mèo thế nào mà hoá ra tôi cãi nhau với anh Vân. Cãi nhau đâu với cái anh ốm như con gà rù thế kia. Tôi chỉ nói rằng anh Vân ơi, anh làm ở sở nhà nước có ô tô, có thế lực, nhờ anh đi báo cáo cho nhà này được làm cái hố xí chỗ khác, cái hố xí này khốn khổ cả xóm, mà khổ nhà anh ấy trước. Có phải hố xí riêng của nhà tôi đâu. Thế mà thiên hạ chúng nó đã nói bẻ queo ngay đi.

Có người đem đến cho mượn cái đèn pin. ánh đèn lia vào góc tường, tôi thoạt thấy đã kinh hãi. Chân tường thâm kịt, tình cảnh này thì chỉ ít lâu nữa, chỗ thấm càng nhầy nhụa ra. Bấy giờ tôi mới ngửi thấy hình như trong buồng có mùi thum thủm.

Bà hàng xóm mau miệng, lại nói:

- Ông xem có khốn nạn không, cháu nói vô phép ông, đứa nào ngồi phón bên kia, ở đây cũng nghe tiếng phèn phẹt. Đã nhục chưa!

Cái bà lão chết toi, ăn với nói!

Tôi sang nhìn cái hố xí. Vốn là một mảnh đất toen hoẻn bằng bàn tay, công nhân vệ sinh đã xây tường cửa, mặt ngồi, tường ngăn, nhưng không trát xi măng, lỗ hẹp quá, thế là phía trong để mộc. Bên trên mái lợp miếng ni lông với que chống. Không có cửa, người ngồi thò đầu gối ra thì ở ngoài biết trong có người.

- Hố bé quá, nó lại không lát đệm, cái tường con kiến để nguyên, không tráng xi măng...

Tôi nói như quan sát kết luận. Nhiều người thêm thắt:

Chúng tôi đi cả ngày, làm xong người ta giao cho thế thì biết thế...

- Tôi đã hỏi lại, chúng nó tô vẽ rồng phượng cái hố xí bền vững đâu ra đấy, cái quân bán mồm.

- Trăm sự nhờ ông.

Tưởng như tôi có thể sai, có thể ra lệnh hay là gọi ngay uỷ ban, công ty vệ sinh đến mắng cho một trận, bắt chữa lập tức. Tối hôm ấy tôi cũng làm một cái đơn kể sự tình- dùng chữ thời sự hôm nay, “để ô nhiễm môi trường đến vậy, đề nghị! ... Đơn viết ba bản gửi đi ba nơi. Mất hút, chẳng có tin trở lại. Tôi cũng đã đoán từ lúc chưa gửi kết quả sẽ như thế. ít lâu sau, anh Vân ho ra máu, chết ở bệnh viện Bạch Mai. Chị Vân rồi ẵm con đi ở nơi khác. Mỗi khi tôi đi qua vẫn thấy cái buồng đóng cửa, chưa có người đến ở. Cũng chẳng khi nào tôi vào hỏi thăm xem cái chuồng xí thấm ra tường rồi thế nào.

ở số nhà này đi ra, cô Nghệ và tôi sang một ngõ phố khác, làm việc cho cái báo cáo vệ sinh. Tôi đi suốt loạt hố xí một dãy nhà. Có đến mười mấy cái nhà một tầng, hố xí líền nhau đằng sau các gian nhà giống hệt nhau. ở thành phố có nhiều nhà như thế, trước kia của một chủ làm cho thuê. Các dãy phố quanh nhà thờ hàng Trống, ở Hăm Bốn Gian phố Huế, ngõ Yên Thái, ngõ hàng Cỏ, bây giờ phần nhiều đằng trước đã sửa sang lại, nhưng phía sau lưng thì vẫn như một trăm năm trước- một hẻm dài mỗi gian thò ra hai lỗ cửa chuồng xí, đấy cũng là lối đi cửa sau lấy thùng.

Tôi bảo cô Nghệ:

- Ta vào xem hết cái hẻm này đã đủ làm báo cáo được.

Cô Nghệ nhăn mặt:

- Anh vào à? Anh cho tôi đửng ngoài này. Tôi có chứng rức đầu.

Cô Nghệ không dám vào. Bẩn kinh khủng. Mùi hôi thối không trông thấy, nhưng có thể tưởng tượng như một cái cống, một cái bễ đương ngùn ngụt tuôn hôi thối nồng nặc ngạt thở. Hai bên tường, không quét vôi lở lói dưới hàng gạch lâu đời đã vỡ khấp khểnh xanh xám nhờn nhọt như màu tường nhà anh Vân lúc nãy. Cái chuồng xí cũ thì trống hốc, cái hố hai ngăn đã trát hai miếng vôi cát lờ tở, tôi đếm từng cái, mỗi thứ. Dưới rãnh, những con ròi trắng hếu bò lổm ngổm.

Nhưng không thấy nhặng xanh bay ngang mặt, có lẽ bí hơi quá, nhặng cũng không dám vào.

Đến cuối hẻm tôi quay ra. Cảm tưởng vừa xuống âm ty. Uám, nhơn nhớt, nghẹt cổ. ở Hà Nội, phố nào cũng đằng trước mặt hoa da phấn, đằng sau là cái lối vào chuồng phân như thế này, cả bao nhiêu năm nay thế.

Cô Nghệ bảo tôi:

Gớm cái anh, tôi ra kia mua nắm lá ngải cứu cho anh về đun nước tắm ngay đi.

Tôi cười:

- Có cái nãy khử hơi độc còn hay hơn. Mời cô sang bãi “chuồng cọp” uống bia với tôi.

- Chịu thôi, tôi không biết uống bia.

Việc chuẩn bị bầu cử đã vào độ rầm rộ cuống quít.

Tổ viết tên cử tri cả khối cọng lại, lên danh sách niêm yết ra trụ sở trước hai tuần lễ. Ai xem có tên mình, có sai sót thì báo ngay. Rồi phiếu đưa đến từng hộ.

Hôm đi bầu, cử tri đem phiếu vào khu vực tổ mình để người ta đánh dấu vào sổ đã đi bàu rồi. Quá trưa, soát thấy tổ nào còn người chưa đánh dấu thì tổ trưởng về gọi. Người đi bầu ra chỗ viết phiếu đã kê bàn từng ô có ngăn giấy che. Chẳng phải viết chữ nào, chỉ đọc một loạt sáu tên người rồi gạch một. Họp phố đã nghe dặn cách bầu nhiều lần.

Mỗi buổi chiều, đoàn thiếu nhi sắp hàng khua trống ếch inh ỏi. Chặp tối, đội dân phòng và thanh niên nam nữ lại đồng phục sư mi trắng, quần xanh công nhân, giày ba ta trắng, - không dội mũ sắt, hàng trăm người sắp hàng ba đi hô khẩu hiệu: Hoan hô bầu cử hội đồng nhân dân khoá... Hoan hô! Trông đội dân phòng lại oai, khác hôm thi cứu hoả phụt nước thua trên Cửa Đông, lỉnh kỉnh đẩy cáì xe máy bơm về, mặt ai nấy tiu nghỉu.

Bộn rộn nhất hôm sau cùng. Đêm trước đã họp các tổ trưởng, tổ phó, mọi người ra giúp việc rà lại giấy tờ, giấy mời, lại diễn tập hướng dẫn đi vào, lối ra, đến bàn đưa đóng dấu phiếu, vào viết phiếu, bỏ phiếu rồi hướng dẫn đi ra. Chặp tối mấy hôm nay các phố đã lên cổng chào tết lá dừa, chăng đèn kết hoa.

Trẻ con đùa chơi đến khuya. Tôi khoan khoái bảo Đại:

- Thắng lợi, phải thắng lợi chứ".

Từ tinh mơ, tôi sang sân trường nơi bỏ phiếu. Những người được phân công chuẩn bị các thử còn đến sớm hơn tôi, những cái thừng căng và những biển chỉ đường ra vào cũng đã cắm cẩn thận rồi.

Người ở các hộ đặc biệt đều ra đông đủ. Vài ba năm những cái phố eo sèo thường ngày mới có một lần long trọng thế này. Nhiều vị chủ hộ ăn mặc tinh tươm, có người thắt cà vạt đỏ, đội mũ phớt. Thời ấy mặc oách thế còn hiếm, đấy là dấu hiệu tôn trọng cuộc mít tinh bỏ phiếu. Các ông là bộ, thứ trưởng hay bí thư đáng đoàn, viện trưởng, vụ trưởng, trưởng ban nội chính, đại khái thế, tôi cũng đoán biết sơ sơ.

Dương đến ghé tai tôi:

- Hay quá, các kễnh ra hết.

- Nhiệm vụ công dân của các vị ấy chứ.

- Mời anh đến chào khách.

- Miễn! Các ông ấy không đến chào tôi thì thôi.

Chẳng ai đến chào tôi cả. Tôi cũng như mọi người ở ban bầu cử lăng xăng chạy đi chạy lại. Dương vẩn vơ muốn đến bắt tay các ông kễnh, nhưng thấy tôi không đến, Dương chỉ lảng vảng gần dăy ghế hàng đầu.

Còi ủ nổi lên xa xa gần gần, còi hiệu toàn thành bắt đầu mít tinh. Tôi đọc một bài phát biểu trước micrô.

Tôi đọc thong thả, rành rõ bài đã viết sẵn của trên khu gửi xuống. Năm trước, bài nói in chú thích: “Đọc nguyên văn, không thêm bớt nội dung". Có ông trưởng ban đại biểu nọ đã đọc nguyên tất cả câu ấy. Bây giờ chỉ dặn miệng.

Tôi đọc oang oang như lời mình viết, tai nghe cũng thấy oai. Tôi đọc xong, phó trưởng ban Đại hai tay giơ cao trước đám mít tinh cái thùng phiếu bọc giấy đỏ lại mở toang nắp, lật ngược lên, quay ra bốn phía để ai nấy chứng kiến cái hòm trong rỗng không có gì, không mờ ám gì cả.

Mười giờ, các tổ đi bầu đương đông. Trong các bàn, chỗ nào cũng tíu tít, có người đi bầu hộ cả nhà. Vẫn được ghi, vẫn bỏ phiếu vào hòm như thường. Có việc vội mới phải nhờ, người nhờ bầu cũng là hàng phố, xóm giềng thông cảm, biết nhau hết. Mấy phiếu người cao tuổi, có cả mẹ tôi, cụ yếu chân, lại không biết chữ, chốc nữa tổ công tác đưa hòm phiếu vào tận nhà, trưởng ban đi cùng, bảo vệ Dương bồng súng đi sau.

Quá một giờ, Mẫn phóng xe lên khu báo cáo cuộc bỏ phiếu khối tôi đã xong hoàn toàn lúc hai giờ bốn mươi phút. Nam nay sớm sủa, chắc ăn bằng khen rồi.

Còi ủ năm giờ, các nơi đều xong xuôi. Cái hòm phiếu được Đại dán giấy, niêm phong lại. Tôi viết lên tờ giấy, dán cạnh chỗ niêm phong: Hòm phiếu khối... bầu cử hội đồng nhân dân khoá... ngày... Theo chương trình, lúc ấy mít tinh bế mạc kết thúc cuộc bỏ phiếu thắng lợi Nhưng gọi loa các ngõ, chẳng mấy người ra mừng nữa. Chỉ có trẻ con đã nhảy rỡn à à. Tôi bảo ông Đại vác hòm phiếu, một bên vai khoác khẩu súng, đem vào trụ sở. Hai ban và đại biểu các giới bấy giờ mới ra đi theo, như đám rước. Hòm phiếu được đặt ngay ngắn lên- mặt bàn. Khi mọi người đã ra về, Đại cầm chìa khoá ra khoá trái cửa rồi bê hòm phiếu vào cuối phòng.

Chúng tôi bóc miếng giấy dán niêm phong, đổ cả thùng phiếu ra mặt bàn. Hai chúng tôi mở từng cái phiếu rồi lại bỏ vào thùng. Cả phiếu không gạch tên- phiếu trắng, cũng bỏ lại vào. Chỉ để riêng ra cái phiếu nào viết vẽ nhảm nhi hay viết phản động. Những phiếu này gói lại, tự tay trưởng ban đem nộp lên khu. Trong những năm tôi làm việc, mấy lần bỏ phiếu thành pbố hay toàn quốc đều làm như thế, theo kế hoạch mật của khu. Chưa lần nào tôi thấy có phiếu viết phản động, chính trị. Chỉ có vài phiếu để trắng. Phiếu vò lại rồi nhét vào hòm. Có phiếu vẽ nguệch ngoạc cái thẹo.

Các đội viên dân phòng đeo băng đỏ đã ra đứng gác trước trụ sở, trong có để hòm phiếu, cho đến lúc đưa hòm phiếu lên khu. Tôi về tắm, rồi đóng bộ đại cán xi măng xám, như Đại, như Dương, chỉ Mẫn vẫn quần áo bộ đội xác xơ thường ngày. Đại ghếch xe đạp, tôi ôm hòm phiếu ngồi sau xe. Dương và Mẫn hai xe đạp theo sau, mỗi người trên lưng khoác khẩu mút cơ tông của khu đội cho mượn. Đoàn cán bộ khối chúng tôi rước hòm phiếu lên khu.

Trời đã tối, trong ánh đèn đường nhấp nhánh người vào nhộn nhịp cũng thấy được vẻ ngày hội khác thường.

Bàn giao hòm phiếu, cầm tờ biên lai có đóng dấu ủy ban rồi sang nhận một chai rượu quít, hai bao thuốc lá Tam Đảo, quà của khu cho. Nhiều khối lúc ấy cũng đương lên. Có người ngồi đèo xe đạp như tôi, có người đi xích lô, hai tay bưng hòm phiếu bọc giấy đỏ, như cái quả đám ăn hỏi. Khối nào cũng có tay súng bảo vệ hòm phiếu.

Tôi bảo:

- Ta hoàn toàn thắng lợi rồi. Các cậu có uống rượu không?

Không ai trả lời. Tôi lại nói:

- Các cậu khéo vờ, sắp nói “không” đấy. Thắng lợi rồi, tôi thết các cậu chầu rượu.

Dương cười:

- Anh đoán sai. Tôi uống được chớ!

Tôi với ba vị chức việc khối phố vào quán rượu xế nhà thương Đau Mắt. Không phải lão 63 đặc sản ngầu pín, mà quán này có đậu nghệ nướng chấm muối, ông Be cắt tóc mách, tôi đã vào vài lần.

Dương và Mẫn dựng hai khẩu súng vào tường. Bà chủ quán đỏ đắn, béo tròn, mau miệng hỏi:

- Các ông đi giải tù về hả?

- ơ cái bà này lạc hậu! Súng danh dự gác hòm phiếu. Hôm nay ngày gì, không biết a?

- à à. ấy chết... tôi quên... Mà ai thuộc đâu được việc quan của các ông.

Phó Đại bảo tôi:

- Súng cho oai thôi, không có đạn. Tôi đã làm bầu cử, tôi biết.

Tôi hỏi:

- Thật á?

Dương đứng dậy, cầm một khẩu, kéo cò lách cách.

Tôi xua tay:

- Thôi đi ông!

Bà chủ quán quát to tướng:

Có ngươi nằm trên gác xép đấy. Đạn xuyên lên thì có mà vào nhà đá cả nút.

Nhưng đúng là không khẩu súng nào có đạn, như súng của trẻ con chơi. Tự dưng tôi thấy yên tâm hơn.

Chiếc đậu mát lạnh, phảng phất mùi khét, mùì nghệ quen thuộc từ thuở bé đã theo mẹ đi chợ Bưởi ăn đậu nướng. Bây giờ thì uống rượu giải nhiệt với đậu nướng, một ngày lôm lam cật lực.

Tôi ốm, có lẽ chuyến bầu cử thức khuya nhiều mà thói quen tôi hay ngủ sớm. Bệnh áp huyết tôi mắc từ năm trước, khi đang học trường Nguyễn ái Quốc. Thời gian đầu, thần kinh tim rồi áp huyết thấp, ít lâu sau hết các bệnh ấy thì đến áp huyết cao và bệnh lâu năm thành mãn tính. Mỗi lần bị choáng váng, đi khám, chẳng mấy khi không bị giữ lại. Đến lúc đã ổn định lại lên nhà điều dưỡng trên Quảng Bá. Tôi đi bệnh viện, rồi bệnh lại khỏi, tôi cũng thấy như việc phải tới, như thời gian qua.

Một lần kia, tôi có việc đi Cao Bằng với bác sĩ Phạm Khuê. Tôi hỏi Khuê:

- Tôi bệnh mà lại bia rượu, ông thấy sao?

Chỉ cấm không được nghiện nhưng cũng không nên kiêng.

Tôi thích thú người thày thuốc lão luyện nghề và đời đã nói như sấm truyền. Một câu có thể bàn ra cả một quyển sách.

Lần này, ở bệnh viện rạ, tôi lên nhà điều dưỡng trên hồ Tây. Vẫn còn phảng phất hãi cái chuyện mộng du - mộng du thật, mộng du không đẹp và và sầu não như người đàn bà mộng du nhân vật trong truyện Nguyễn Minh Châu - mà đây là một cụ mộng du.

Cụ Lý đã ngoài bảy mươi. Cụ nằm cùng khoa với tôi. Cụ gày làng nhàng kinh niên và mặt buồn hiu hiu kinh niên. Cụ là nhân sĩ trí thức. Thuở xưa làm tri huyện, bây giờ hoạt động đoàn thể trong mặt trận.

Tôi quen cụ vì công tác ấy. Giữa trưa, trong các buồng, người thức người ngủ, lặng lẽ. Một cô y tá lướt qua cửa. Tôi hỏi:

- Cái gì mà đi vội thế?

Cô ấy trỏ tay ra cửa sổ sau phòng, miệng suỵt suỵt khẽ:

- Ông Lý đương trèo tường. Bác sĩ bảo im hết, im hết, chẳng có...

Tôi ra cúi nhìn xuống thấy một cảnh hết sức kỳ quái. Cụ Lý đương lòng khòng bíu cái ống máng, hai chân run run, lúc quắp quắp, lúc quờ quạng vào cái đai sắt ống máng. Cụ đương tụt xuống tầng nhà dưói.

Trông mà rùng mình. Tôi quay đi, xuống cái ghế đá trong sân. Vẫn cứ thon thót sau lưng... này ngã... ngã... này ngã...

Bỗng cả nhà reo lên. Thì ra các buồng hầu như đều biết cụ Lý trèo ống máng, mà theo lệnh im hết, bấy giờ mới chạy cả xuống.

Cụ Lý không ngã. Cụ Lý ngồi giữa bãi cỏ, mặt tây ngây. Người ta xúm lại hỏi: Lúc leo tường, cụ có biết gì không?

Cụ Lý người nhợt nhạt, làc đầu, mặt vẫn hiu hiu.

Một người ra vẻ hiểu biết:

- Các bệnh thần kinh này, bấy giờ ai vô ý gọi to, cụ tỉnh ra thì cụ rơi vào thẳng nhà quàn kia rồi.

Lên nhà điều dưỡng, có nghĩa là bệnh đã lui, đi tẩm bổ ít ngày, thế mà còn cứ rợn cảnh cụ Lý trèo tường.

Nhà điều dưỡng Quảng Bá tiêu chuẩn hạng thường tem phiếu C mà ngày nào cũng tiêm thuốc bổ. Về sau và bây giờ bệnh viện bỏ lệ hàng ngày tiêm thuốc bổ. Khi đó y tá ném ống thuốc xoang xoảng và cơm thì bứa ba bốn món. Tôi có ông người làng công tác bên thương nghiệp, xưa ông đã làm chánh hội, ông cười to: “Bữa nào cũng ăn cỗ, chánh lý ngày trước cũng chẳng có đâu mà chén thế này". Các cô y tá kể chuyện có bệnh nhân một tháng, lên sáu cân. Hôm sau được ra viện thì nửa đêm ông lên cơn lăn lộn, đau đầu, nôn oẹ. Thày thuốc khám cấp cứu, tiêm một phát. Buổi sáng, khám lại, tiêm phát nữa, rồi cho xuất viện như đã định. Ông bệnh nhân nói: “Chân tôi còn run, đề nghị nằm thêm một tuần". Bác sĩ bảo. “Yên chí. Hai phát tiêm ấy chặn hết rồi. Trưa nay đồng chí sẽ ăn năm bát cơm cho mà xem". Bệnh nhân về rồi, các cô y tá đấm lưng nhau cười, nói vung lên: "Hai mũi B1 ấy mà".

Tổ phụ nữ khối phố lên thăm tôi. Các bà quở quang:

- Ông trưởng ban ở bệnh viện một tháng nữa thì về chị em chúng tôi không nhận ra.

Tôi chỉ biết cười trả lời. Câu nói đùa trong lúc ở ngoài đương trăm thứ khó khăn, chỉ có khu Ba Đình, khu Hoàn Kiếm là bộ mặt trung tâm thành phố, tem phiếu được đong gạo đôi khi mới kèm bột mì. Các khu khác, bo bo và sắn, bột mì Liên Xô đem nặn làm bánh luộc, bánh rán nhá cả tuần.

Dương đưa cho một nắm giấy tờ đọng lại từ hôm tôi đi bệnh viện. Cái cách cầm giấy mọt nắm, khiến tôi đoán có khi Dương chưa cắp sách đi học bao giờ.

Mọi thử đều nhét túi quần, giấy nhầu như mớ bạc lẻ của các bà các cô đi chợ về vo viên để khắp nơi.

- Có mấy giấy gọi nghĩa vụ quân sự, anh xem.

- Tôi đã bảo anh đừng đút công văn vào túi quần.

Tôi đã đưa anh cái cặp, sao không kẹp vào đấy.

Dương cười thật thà: “Tôi quên mất".

Thế là đợt này có năm giấy nghĩa vụ, ba người mới và hai người đợt trước đọng lại. Mỗi lần cầm giấy gọi nghĩa vụ, lại lo lắng thế nào cho đi được đủ. Sao có thể lên đường, những hô hào, những kêu gọi, những luật- lệ qui định, những đua anh đua em và tuổi trẻ ra đi, không biết thế nào. Máy bay Mỹ đã bắn xuống vùng ngoại thành mấy lần, có hôm thành phố báo động cả buổi. Dọc đường 5 xuống cầu Phú Lương, đường 1 ra cầu Giẽ, tiếng bom rền rĩ.

Các cơ quan đã lo các nơi sơ tán. Những cơ quan nặng đã đi rồi. Nhưng phố xá vẫn đông, tưởng như càng đông hơn mọi khi. Đã thêm nhiều lớp hầm nổi bên các ngã tư, ngã năm, lại đặt vào hố cá nhân những vành hầm, nắp hầm trát xi măng trộn sỏi cát, xỉ than.

Khu vườn nhãn cạnh nhà hát lớn thành phố từ lúc nào đã thành công trường phơi những giếng xi măng làm cốt hầm cá nhân. Những đợt gọi nghĩa vụ càng khít, không chỉ một năm hai vụ, mà mỗi qui một. Mỗi lần soát lại các sổ hộ khẩu, xem năm sinh thanh niên nam nữ đến tuổi thì báo cho nhà trường, cho cơ quan, nhà máy và khu đội, các nơi này trả lời khớp thì lên danh sách. Khu đội chọn lựa, đối chiếu tiêu chuẩn rồi chuyển lên uỷ ban phát giấy gọi nhập ngũ. ở nhà, ở khối liên hoan mặn và tiệc trà tiễn như mai đã lên đường nhưng mới chỉ là đến nơi khám sức khoẻ.

Nghĩa vụ không gọi phụ nữ, nhưng cũng xét những đơn tình nguyện. Đợt nào cũng có, lần này ba người.

It lâu sau, gặp hai cô bộ đội, mũ cát sao vàng, quần áo binh nhất, đi tới giơ tay ngang thái dương, nhoẻn cười: “Chào bác, bác có nhớ chúng cháu không? Tháng trước chúng cháu tình nguyện tòng quân âý mà".

- à bây giờ các đồng chí đóng ở đâu? – Chúng cháu về hậu cần...

Hai cô bộ đội trẻ, đi khỏi còn vẳng lại tiếng cười rúc rích. Có lẽ các cô cười cái tiếng “các đồng chí” nghiêm túc của tôi.

Tôi nhận được thư chúc Tết của các chiến sĩ mà tôi chẳng nhớ mặt ai. Có người ở chiến trường, có người được đi học chuyên môn, đi nước ngoài. Các thế hệ nhớn nhao nối tiếp, tưởng như ở một làng quần tụ đời đời có trên dưới ngôi thứ, có gốc rễ, có qua đình ghé nón trông đình... Các cụ ta ở quê ra Kẻ Chợ lập nghiệp đều xây đền miếu thờ vọng thành hoàng ngày trước đã vun xới ý nghĩa sâu xa, tinh thần khu phố thì cũng khác nào làng xóm.

Ba trường hợp mới không biết thế nào, nhưng hai tồn đọng thì cũng lôi thôi. Một trường hợp đã tránh mấy đợt không phải là mới gọi. Cậu này ở nhà phụ việc xén dép lốp. Nhận giấy báo gọi, người bố sốt sắng: “Cháu nó về quê mấy hôm. Vâng, chúng tôi nhắn cháu ra...

- Hai bác đừng để quá mang tiếng khối ta.

- Vâng, vâng... chúng tôi...

Cách một hôm, lại tới. Bác chủ nhà mời uống nước.

- Cháu biết tin rồi, cháu đã hẹn ra...

- Cuối tuần này đã tập trung...

- Vâng ạ. Cháu ra kịp...

Một hôm, Dương bảo tôi:

- Đã trông thấy thằng con nhà ấy rồi.

- Anh vào nhà nó à?

- Tôi trông thấy, báo anh ngay. Công tác tòng quân, trưởng ban nắm mà. Tối nay anh đến luôn, được không?

Dương đi cùng tôi. Chúng tôi uống nước, trong khi bác chủ nhà gọi lên gác:

- ấy ơi xuống bố bảo.

Một thanh niên trắng trẻo, hiền lành từ thang gác xép tụt xuống.

- Con chào hai bác chưa? Hai bác đến báo tin con đi nghĩa vụ đợt này. Qui hoá lắm.

Tôi lạ về cách nói niềm nở quá mức, không phải chỗ. Mà cũng không phải tôi mới chỉ đến đợt này và nhà này. Cả bốn nhà kia đều vui vẻ, tôi tin một cách mê tín chắc là ảnh hưởng dây chuyền tới đây. Không hiểu đối đáp thế nào cho hợp, tôi nói:

- Thứ sáu này, tôi đến đi đưa cháu ra tập trung nhé

Cả năm thanh niên khối đều đi đúng hẹn. Tôi ra tiễn tận bến xe tải đỗ trong sân trường học, hàng trăm thanh niên ở các khối phố khác ríu rít như đi cắm trại. Không ai khóc. Có lẽ những người mau nước mắt đã ở nhà, không đến đây. Nghe nói vào doanh trại luyện tập ở Miễu Môn giáp rừng Hoà Bình.

- Tôi đương đi trên Bờ Hồ. Một anh bộ đội bước nhanh nhanh tới, giơ tay chào. Tôi ngờ ngợ rồi nhận ra cái anh nhà làm dép lốp, dạo nọ tôi đã đến hôm sắp đi nghĩa vụ.

- Cháu chào bác.

- Cháu đóng gần đây à?

- Vâng, cháu được về thành đội.

- Thành đội ở chỗ kia hả?

- Không, cơ quan cháu ở xa. Đơn vị cháu sắp đi B.

Về thành đội lại sắp đi B, cậu ấy giấu đầu hở đuôi.

Vào lính mà ở cơ quan như thế người ta riễu cợt là “lính kiểng". ở đây cũng có lính kiểng, có cậu tối về nhà ngủ. Phải rồi, có thế nào nhà nó mới bỗng dưng thoải mái. Tôi đã ngờ ngợ. Việc cậu này “đi lính” ở nhà có người xì xào lão Dương ăn tiền. Nhà này có thể lo lót có chỗ, nhưng chắc chắn không phải Dương. Dương chỉ cò con ăn quẩn loanh quanh, chẳng ai đút lót đâu đến Dương. Có chăng, lúc con cái nhà họ đã trúng được ở gần, hôm nào đấy, Dương đến doạ khéo, có thể cung ra vài đồng. Dương đi lẩn thẩn các phố. Có khi trước cửa trường học, đứng bóc củ khoai luộc. Chị bán khoai vừa lót tay một củ khoai còn nóng. Tôi đi tránh sang hè phố bên này.

Đột nhiên gay go, buổi chiều, máy bay Mỹ bắn rải rác lung tung nhiều nơi trong thành phố. Bom bi rắc xuống cây đa cạnh đền Bà Kiệu, giắt khe rễ, tróc một mảng vỏ. Mái nhà và bóng cây cơm nguội nắng nhạt loang lổ tưởng như mọi khi. Nhưng khác. Sau cơn bom bắn, thành phố không vắng mà lặng lẽ hơn, mảnh nắng lao xao lặng lẽ vỡ ra trên mặt hồ và đầu đường. ở một vòi nước công cộng ngay trên phố, một loạt đạn đã xả xuống mấy người đương nhặt rau vo gạo làm cơm chiều. Mấy hôm không ai dám ra lấy nước, vòi nước vẫn mở, nước xối xả lênh láng suốt đêm.

Các hầm nổi lại được hối hả xây thêm. Đầu ngõ Khâm Thiên, các ngã tư phố Huế, quanh Bờ Hồ. Tưởng như làm thế cho người đi đường chỗ nào cũng có hố nấp, nơi nấp. Chao ôi, Hà Nội. Những cái hầm thế này, hơn ba mươi năm trước quanh chợ Đồng Xuân, chợ hàng Da... Cũng máy bay Mỹ - cái máy bay hai thân, bấy giờ là máy bay Đồng Minh đến đánh phát xít Nhật và Pháp Pê Tanh. Bây giờ có chỗ vẫn còn những hầm trú ẩn ấy, như cái gò cỏ nổi góc chữ nhật

Giữa vườn hoa bên hồ cạnh nhà bưu điện và trụ sở uỷ ban thành phố. Hầm của người Pháp, khi báo động máy bay, công chức Tây bên nhà dây thép và toà thị chính chạy ra, chui xuống.

Cả tổ vệ sinh cũng lên khu tập cứu thưong. Điểm danh mấy hôm, chỉ mấy chị trung niên nội trợ ở nhà hay chạy chợ vẫn chăm đi họp. Việc và người công tác ở phố bao giờ cũng đông và vắng chập chờn. Thanh niên đi học, người đi làm, theo thống kê hộ khẩu thì số người này ở phố nhiều nhất nhưng họ chỉ trách nhiệm với cơ quan và nhà trường, nhà máy đơn vị chẳng biết ở đường phố thế nào. Người thất nghiệp thì ngổn ngang không biết đâu là phố xá. Thanh niên cũng khó, cậu nào cô nào chưa có việc làm mà có tinh thần thì ra phụ trách thiếu nhi tập thể dục vui chơi dịp hè, dạy bình dân. Nhưng cũng nhấp nhem, lập loè như đom đóm. Thành thử mọi công tác, quen mặt nhất vẫn chỉ có các cụ các ông về hưu, các bà các chị ở nhà.


Chương XIV
  
Chi bộ đảng viên đường phố gồm các thầy cô giáo ở trường và công an trong địa phận với công chức hưu. Cũng lèo tèo vài người, không đại diện cho mọi tầng lớp người ở trong phố. Tôi chỉ họp chi bộ có một lần, cái lần đầu tiên Khang dẫn tôi đến. Rồi không bao giờ biết chi bộ ở đâu, có những aì. Bởi vì cả cái tổ chức ban đại biểu, ban bảo vệ khối, mặc dầu phụ trách sáu tổ dân phố, nhưng chưa hẳn là chính quyền, cũng không phải đoàn thể. Chỉ là tự nguyện và ngẫu hứng nhưng lại cáng đáng những công việc thiết thực liên quan sau cùng đến mỗi công dân. Hơn mười năm qua, từ khi tiếp quản đến bây giờ vẫn thế.
 Những việc thật quyết liệt: sơ tán triệt để đối phó máy bay Mỹ có thể đánh mạnh. Thế mà tôi sơ tán cũng được, không cũng được. Nhưng lại cứ phải có mặt vì không làm thì không có ai khác. May, tổ len dạo này đói việc, thế là kéo cả lên học cứu thương.

 Rồi cô Nghệ và mấy bà đi lĩnh đồ cứu thương về.


Bên dân phòng hỗ trợ lên khuân các thứ chất cồng kềnh một xích lô đem chia ra gửi các nhà. Bốn băng ca cáng thương, những bó nẹp, những cuộn bông băng, cả chục túi cứu thương..., các thứ mới nguyên nhãn hiệu Hungari, Balan, Tiệp Khắc...

Học trên khu, về tối lại tập. Tổ vệ sinh tập cáng thương, băng bó. Một cậu giả bị thương nằm trên cáng, cười hô hố. Hai cô khiêng bực mình buông phịch cái cáng xuống. Đội dân phòng lại đem đồ nghề ra luyện chữa cháy. Không có hội thi, tập ngay ở ngã tư đầu phố. Tô nô nước, vòi bắc lên bơm phụt phụt. Mẫn trèo thang buộc hai vành xe đạp vào nấc mười lăm, nấc mười tám thước. Lần nào nước bơm cũng phọt trúng vòng, có khi cao hơn. Tiếng reo ầm ầm, hay, hay quá. Chuyến này trên mà mở hội thi, khối ta ăn đứt! Cứu hoả, cứu thương, có đêm trong tiếng còi báo động, tai nạn thật sự đến nơi. Chuyện khẩn trương mà như trò đùa. Bốn cái cáng lại đặt một dãy.

Người giả bị thương nằm thẳng cẳng dưới đường. Chị cứu thương đeo túi đàng hoàng, lấy bông băng buộc bó garô cánh tay, ống chân xong rồi xốc lên cáng, hái người cáng đi. Người nằm cáng kêu ối giời ôi đau quá, sướng quá, lại cười hà hà. Y tế khu về quan sát, cho điểm. Lúc đọc lên, cáng nào đạt tiêu chuẩn động tác nhanh gọn, chính xác, được phần thưởng tràng vỗ tay đốp đốp hoan hô.

Chúng tôi phân công ban chỉ huy tác chiến khi có bom bắn, dù ban ngày hay ban đêm. Dương phụ trách cứu thương. Mẫn thì cứu hoả và tuần tra. Sắm thêm cả chục chiếc băng đỏ. Tôi và Đại trưởng phó ban đại biểu đôn đốc chung.

Cứ nghĩ ra việc mà cắt đặt như thế.

Cơ quan tôi dạo nọ sơ tán sang Quế Võ bên kia sông, sau trở lại Phủ Quốc, rồi về gần chùa Hương.

Vợ tôi làm ở cửa hàng thuốc cuối phố Khâm Thiên, luân phiên trực chiến thông tầm. Đến chủ nhật, đạp xe cả đêm mấy chục cây số vào bến Đục, đèo gạo, nước mắm, mỡ, dầu hoả, xà phòng. Các con lớn thì Phúc công nhân cơ điện đi bộ đội vào chiến trường Bình Trị Thiên. Đan Hà theo trường dược sơ tán đi Mai Siu Biển Động bên Đông Bắc. Đan Thanh sang học nghề ở Lêningrat. Mẹ tôi và ba con nhỏ của chúng tôi theo cơ quan, chúng nó đi học trường làng. Tôi ở thành phố về hàng tuần một. Hồi ấy đến phiên tôi làm tạp chí Tác Phẩm Mới, bài vở và việc nhà in phải đi lại luôn, khi ở phố khi sang nhà in bên kia sông.

Nhiều lần một mình trở ra thành phố. Không mua ngoài được cái gì ăn. Có phiếu nhưng cửa hàng chất đốt chưa có dầu hoả. Mà có cũng còn để nhà tôi đèo về nơi sơ tán cho bà cháu đun nấu. Thỉnh thoảng, tôi thổi cơm bằng giấy báo, giấy vụn. Có hôm ba giờ sáng, tôi đã đi mua mỡ cửa hàng thịt phố Tôn Đản mà người xúm xít đã vòng trong vòng ngoài.

Lại còn không thể thiếu sắp hàng bia... Dạo này người đường phố nạp bia rượu tợn, không còn tập uống bia pha sirô, cũng không cốc, mà vại, tay cầm vại bia làm một hơi mới đã và có hôm đôi ba vại thay cơm cũng thường. Đêm có báo động nghe tiếng bom thì ngồi dậy, đeo cái băng lên cánh tay, vào quán Gió trong công viên làm một hai vại cho tỉnh ngủ rồi mới lại ra đường. Vẫn còn báo động mà thấy người đi lướn phướn thì hơi bia của tôi quát: Chết cả bây giờ Xuống hầm! Xuống hầm!

Cái đêm máy bay biệt kích Mỹ nhảy dù đánh úp trại giam tù binh Mỹ ở sông Tích ngoại ô Sơn Tây, tôi đương công tác bên Li Băng. ở Saiđa lên thủ đô Bây Rút, thành phố ven Địa Trung Hải, buổi sáng xuống quầy khách sạn mua báo. Tờ Thế Giới ở Pari đăng đầu đề tin trang nhất: “Trận bất ngờ tập kích Sơn Tây ban đêm. Nhưng không kết quả". Trại tù bỏ không, tù binh phi công Mỹ đã chuyển đi từ lâu. Một máy bay lên thẳng của Mỹ gãy cánh quạt phải bỏ lại. Chúng nó lấy đi một cái vại và một con bò - có lẽ để kỷ niệm thành tích thật đã đến chỗ ấy..

Một cái tin ngắn, đọc cứ tưởng cả Sơn Tây, Hà Nội đương còn rung chuyển. Hàng đàn máy bay Mỹ đêm tối chui vào tận núi Ba Vì sâu như thế, trận đánh hiểm hóc, ác liệt như thế. Đến hôm trở lại Hà Nội, sân bay Gia Lâm vẫn vắng tanh như mọi khi. Chiếc máy bay IL 18 xuống, người đẩy cái thang, người ra đứng hai tay giơ hai mảnh cái quạt gỗ sơn trắng làm hiệu cho máy bay lăn vào chỗ đậu. Những ông này vừa ở trong phòng ra đường băng làm việc, sau lưng trên bàn nước còn cái bàn cờ quân gô và chiếc điếu cày dựng bên chân bàn.

Mấy anh dân phòng và Đại với Dương, Mẫn đến chơi. Họ kể cái tối Mỹ nhảy dù Sơn Tây ở Hà Nội có báo động, nghe máy bay ầm ì xa xa và vài đợt cao xạ rồi im suốt đêm. Sáng hôm sau đọc báo mới biết đêm qua thằng Mỹ nhảy dù trộm xuống Sơn Tây rồi lại cút ngay.

Lệnh trên xuống, diết dóng yêu cầu đi tuần đêm. Hà Nội lại thúc sơ tán. Người già, con trẻ cứ đi ít lâu, thấy yên yên lại về, nay lại rục rịch đi. Ngoài đường, xe ba gác, xe xích lô chở người qua câu Long Biên.

Không ai tản cư lên phía Sơn Tây. Lần này lại lục lại danh sách những nhà, những người có vấn đề. Lung tung quá, mọi người đã đi sơ tán hay đi đâu cả, ai biết được, biết đằng nào mà lần. Những mụ buôn lậu. Cũng chẳng có gì biết thêm nữa, không phải thuốc phiện hay buôn vàng mà là mấy bà chạy chợ tem phiếu, bánh mì, buôn gà... Mấy người pạc ti dăng, đội xếp cũ, xếp bốt dân vệ bỏ làng ra phố, có người thấy quyển sổ bảo vệ ghi từ đời nào là chỉ điểm, là tâm lý chiến, công chức Pháp, là nhạc vàng... Hầu hết những ông bà này đều đã ở dân phòng, ban vệ sinh và cũng gia đình năm tốt, vẫn đi họp mọi khi.

Thì cũng phải nắm lại.

Giữa trưa, vừa nổi còi báo động, lập tức nhoàng nhoàng tiếng bom, tiếng cao xạ dội vào các góc tường, đinh tai. Người hớt hải chạy đằng đầu phố lại: “Sứ quán Pháp ăn bom chết hết rồi". Cơ quan hội Văn nghệ ở láng giềng sứ quán Pháp. Bom rơi vào trong sứ quán, xung quanh tường vẫn nguyên, nhiều người còn đương chạy ra. Những ngày căng thẳng, ngưòì ở lại thành phố hay tránh quanh quẩn. Nhà gần cầu Long Biên thì xuống phố Huế, chiều mới về. Đến hôm giữa phố Huế bị giội bom lại nhảo lên. Bây giờ thì kéo đến ngồi ngoài tường các sứ quán, nhiều người đi đạo thì vào núp trong vườn nhà thờ hàng Trống. Thấy nói nước ý theo đạo Tin Lành không đi đạo Thiên Chúa, Mỹ đã choảng bom đổ cả nhà thờ dưới Phát Diệm, lại phân vân. Mỹ ném bom đến sứ quán Pháp, núp bờ tường quán nước ngoài cũng không yên rồi.

Nhốn nháo bấn lên. Thúc thêm được một số người lớn trẻ con đi sơ tán. Mấy cụ phụ lão trong phố ra ngoại ô. Cô Nghệ không đi. Cụ Thắng thì nhất định không đi rồi, ai hỏi cụ lắc đầu, trỏ ngón tay vào tai.

Cụ bảo cụ điếc không nghe tiếng bom hay ai nói gì cụ không hiểu. Đội dân phòng vẫn nguyên vị, mấy tay thủ công phất quạt giấy vót nan tre sửa soạn sang năm làm đèn tháng tám thì chẳng đi đâu. Hai ông xích lô xung phong tải thương, nhờ các ông này mà đội dân phòng, đội cứu thương không hụt người. Có hai người theo nhà máy, nhưng nhà máy chia rời bộ phận cũng chỉ ở dưới bãi bên kia sông, tối không làm ca lại về nhà. Trẻ nhỏ mỗi nhà cũng như nhà tôi, phải đi một nơi theo trường học, còn người lớn thì ai cũng thế, người đi làm, người chạy chợ, mọi người mọi nghề, không mỗi chốc xa phố xá được. Chúng tôi vẫn gần đủ quân số cắt lượt đêm tuần. Có thế vào mùa đông 1972, máy bay B52 ném bom giải thảm vùng Khâm Thiên mới có lực xuống khối bạn cứu sập, tải thương...

Hôm ấy máy bay bắn tên lửa giữa trưa đổ tầng chính toà nhà đại sứ quán Pháp. Ông tổng đại diện P. Susini bị thương nặng. Cô bồ của ông, Aléa El Hakim, người Ai Cập thì chết ngay lúc ấy. Con trai ông từ Pari bay sang, đưa bố về. Giữa đường, ông ta chết.

Có người chép miệng: “Lão này quan to mà số ăn mày, chết đường. Giá ở đây vào Xanh Pôn, Phủ Doãn có khi lại không tỏi. Nó chê thày ta, thuốc ta cơ". Cô Đàng hỏi tôi: “Có phải cái ông Tây đại sứ tối hôm ấy đến họp bầu cử ở phố ta? Tôi nói: “Hình như lão ấy đấy".

Máy bay quần ám suốt ngày. Bảnh mắt đã còi rú.

Rồi liên miên, chốc lại... alô, máy bay địch bay xa... đã bay xa... Loa phóng thanh to bằng cáì thúng úp treo trong cành cây khắp nơi công cộng, các loa hộp đài Hà Nội mắc ở mỗi nhà cũng dóng dả luôn đến đỗi rồi câu báo động lặn lẫn cả vào trong câu người mẹ chín đứa con ham chơi: cha đẻ mẹ mày, cứ suốt ngày đi xa về gần, bà mà tóm cổ được mày...

Mọi việc trong phố bận rộn chằng chịt không bao giờ một bề. Chợ đổi vai đêm ra họp ra tận Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, chợ Mơ, càng vất người kiếm ăn bám vào mớ rau, bó hành. Thế mà cách ngày lại tập cứu hoả, tập cứu thương. Kinh nghiệm bom phố Huế được khu phổ biến các khối tập thêm cửu sập, moi đất, trên phát cho cả chục cái xà beng.

Cụ Thắng điếc có sáng kiến, hỏi:

- Lúc đáo sự khó nhọc lắm, phải có người đem nước uống, tìm đâu ra chè tươi nhỉ, không có thì chết khát.

Một người nói trêu:

- Trên trời thì bom nện, dưới đất thì người chết, lòng dạ nào mà ngồi uống nước được. Thôi thế bây giờ chúng tôi phân công cụ nấu nước nhé.

Cụ Thắng hỏi lại: “Ông ấy nói gì thế?” Không dịch câu nói đùa cho cụ điếc nghe. Cụ Thắng lại nói với tôi:

- Tôi có việc báo cáo tiếp với anh.

Tôi lại đoán chừng việc gì. Tôi ghé tai cụ Thắng:

- Hồi này căng lắm, cụ về sơ tán với các cháu.

Cụ Thắng không nghe thủng câu tôi nói hay cụ không muốn ai bảo cụ sơ tán, cụ chống gậy, đủng đỉnh ra. Sơ tán gấp, sơ tán triệt để. Các cơ quan bàn giấy và các cửa hàng nhà mậu vắng hẳn. Đóng cửa các hàng mậu đi thôi, cho đỡ đứng đám xếp hàng rồng rắn, muốn đuổi theo đâu bán phiếu lít nước mắm, lạng mỡ, cân bột thì tìm ra ngoài kia. Nhưng cũng chỉ lơ thơ mươi hôm rồi người lại lác đác thập thò, chỉ có các trường thì vắng lặng hẳn. Biết bao người sinh sống ở thành phố không thể dứt đi được. Cụ Thắng đã tám mươi tuổi, lại điếc lác, chỉ còn lấy việc khu phố làm vui, các cháu đã thuê cả chuyến xích lô rước cụ đi. Cụ dửng dưng. Cụ cũng không biết hãi máy bay như tôi, vâng, cụ ung dung. Vài hôm, lại thấy cụ Thắng chống gậy lò dò đến.

- Báo cáo anh, tôi mới ra. Có việc thì phân công cho tôi.

Cụ Thắng thong thả ngồi xuống, lấy cái máy nghe đeo lên tai. Tôi đã đoán chuyện cụ sắp nói mà tôi biết khi nào cụ cũng ý tứ, chỉ lúc có một mình cụ với tôi.

Tôi nói trước công việc:

- Lớp bình dân phải nghỉ hẳn. Mà cũng không được phép tụ tập quá năm ngưòi. Chỉ bên tổ phục vụ còn nhúc nhắc cơm nồi nước sôi nhưng công tác này không hợp với cụ. Để tôi lên tiểu khu hỏi năm nay tem phiếu thế nào, nếu làm sớm tránh báo động thì nhờ cụ như mọi năm, chưa có thì mòt cụ lại về sơ tán, bắt buộc đấy, cho được an toàn. Khi nào có thì tôi cho nhắn.

Việc gì tôi cũng làm được.

Cái máy nghe hình như cũng chỉ giúp cụ câu được câu chăng. Cụ nhắc tôi:

Anh xem cái vệ sinh thế nâo, bây giờ sang mùa thu rồi chậm mất thuốc muỗi, nhưng còn cái bả chuột.

Thế là năm nay không phun thuốc muỗi như mọi khi Cái cô Nghệ cũng đoảng, tôi cứ phải giục cô ấy mới nhớ.

Tôi im lặng một lúc lâu, không đáp chuyện cụ. Nhưng cụ Thắng chưa về, cái máy nghe vẫn áp bên tai.

Cụ Thắng nói: Đồng chí là người trí thức, tôi rất quí. Tôi hoạt động Thanh niên Cách mệnh Đồng chi hội, tôi ở Thanh niên rồi sang cộng sản. Đồng chí biết Trương Văn Lệnh không?

Tôi có gặp Trương Văn Lệnh một lần. Sau khỏi nghĩa độ một hai tháng. Tôi làm phóng viên báo Cứu quốc. Hôm ấy có một cuộc họp ở Bắc Bộ phủ. Xuân Thuỷ, chủ nhiệm báo Cứu Quốc cho tôi biết một người to lớn bận đồ kaki kiểu áo Tôn Trung Sơn là Trương Văn Lệnh mới ở hải ngoại về. Tôi chỉ biết có thế. Tôi cũng chưa biết gì về đời hoạt động ngày trước của cụ Thắng. Việc khối phố hàng ngày có thế thôi, tôi cũng không muốn hỏi. Nhưng có thể đoán đại khái: cụ Thắng vào Thanh Niên với Trương Văn Lệnh rồi cụ bị bắt, đến khi được tha có thể là mất liên lạc, có thể là mất tinh thần, thực tế cũng là không hoạt động nữa. Và những uẩn khúc thế nào đó văn là một u uất cho tới giờ. Tôi tự chắp nối lại lý lịch cụ được đến vậy thôi.

Tôi cũng chưa khi nào trò chuyện hay hỏi han cụ về Trương Văn Lệnh, lúc ấy không hiểu sao, tôi lại nói:

- Tôi có biết ông Trương Văn Lệnh, người cao cao...

Cụ Thắng nhìn tôi, rồi thở dài:

- Phải, Trương Văn Lệnh chết rồi, chết đã lâu rồi.

Nhưng mà chuyện oan khuất của tôi thì không nói ra được. Mỗi khi nghĩ đến lại đau thắt ruột, không chợp được mắt. Khối đứa ngày trước là con chó, mà ngày nay...

- Chuyện cũ, bỏ đi, cụ ạ.

Nhưng nó sờ sờ trước mắt, nó chọc mắt trêu nguơi mình, có mù đi mới không trông thấy, mà không trông thấy cũng không quên được. Anh có biết thằng Thúc nghỉ hưu chuyên viên bảy trước cũng ra làm ban bảo vệ khối bên kia. Nó không phải Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học đâu, nó là phản động Quốc dân đảng. Hồi ở trong này, đáng nhẽ nó phải chết với Nhượng Tống ở chỗ chợ Hôm, nó cùng cánh thằng ấy mà, ban ám sát của ta lại chỉ khử có Nhượng Tống. Lý lịch nó khai láo thế nào hoá ra thành tích hoạt động nội thành...

Tôi không thể có điều gì hầu chuyện cụ Thắng được.

Cụ còn kể vô vàn những đầu lâu cuối lấu đâu đâu thế này thì tôi làm thế nào dứt ra. Vừa hay, ông Đại phụ trách “cơm nồi nước sôi” đến. Có người vào, cụ Thắng chống gậy, đứng dậy bắt tay tôi.

- Cơm nước ra sao đây ông?

- Ta bàn chuyện đóng cửa thôi.

Việc về kinh tế, tôi đã phân công cho Đại từ năm đầu. Cũng là cái cớ cho ông phó mộc có thể nhặt nhạnh thêm đồng ra đồng vào. Hôm trước đã tính nếu có bom đạn thì Hà Nội cũng vẫn còn người ở lại, ai cũng phải ăn phải uống thì vẫn duy trì, làm kinh tế, kế hoạch còn đương mở mang mà. Đã vận động mọi người tham gia công tác khối phố và ở cuộc họp dân phố kêu gọi mỗi người mỗi nhà đóng vài đồng hùn lại được một số tiền, như chơi họ, tổ phụ nữ đứng làm hợp tác xã có mục đích giúp bà con. Kế hoạch thành phố gọi là hợp tác xã mua bán đương vận động xây dựng khắp các nơi. Làm giỏi thì cũng như khiêng cả cái chợ về phố, cái gì cũng có, lại tự tay mình bán, tự tay mình mua. Và còn nghĩ rộng được nhiều sáng kiến, tổ phục vụ này cũng do nó mà ra. Tết nhất, các nhà đặt bánh, đưa bánh chưng gói sẵn, tổ hợp luộc bánh lấy công luộc, công củi. Lò than đỏ rực suốt ngày? nước sôi lúc nào cũng sẵn, nước phích, nước tắm gội bán phích, bán chậu. Cơm thì gạo các nhà vo đổ nước bỏ vào nồi, vào xoong đem ra đặt lên lò, hẹn giờ lấy.

Thức ăn, nồi cơm chỉ việc xách về, lại nhận tem phiếu mua hộ dầu, củi, đong gạo... Nàng dâu trăm họ, người khen trước mặt chửi sau lưng, người xói móc, nghi bớt xén. Nhưng mà vẫn gửi, vẫn “cám ơn”, vân “quí hoá quá", bởi thật cũng đỡ vất vả cho người ta. Đấy, đã được người tin, vốn hùn đã kha khá, mọi mặt đương trôi chảy.

Chúng tôi định sẽ lên một quán phở và bánh cuốn, phở bánh hẳn hoi không phải miến dong riềng. Sẵn lò than cả ngày, lại tráng bánh cuốn, cũng tiện một công. Tổ phục vụ này dựng lên được thế là tổ thứ 16, trong khu chỉ còn bốn khối chưa có. Làm quán phở đã. Dạo trước họp bàn khai trương Đại mời bà thương nghiệp, bà lương thực và công an khối. Họp xong, mỗi vị khách đã được mời chén một bát phở gà đầy có ngọn. Qui vị thưởng thức tự tay phó Đại trổ tài nấu nướng. Nhưng rồi ông Đại lại nói: “Múa võ thế thôi, chứ đến hôm làm phở thật thì miến dong riềng. Cái dong riềng hồi này trên Phùng quê tôi làm khá lắm, chẳng khác miến Tàu ngày xưa. Cốt cái nước thật béo. Bây giờ có bát phở, thịt gà thịt lợn ai cũng đều cân tất, thế đã hơn phở không người lái rồi”. Tôi gật gù khen tài giỏi ăn nói và con dao pha tưởng tượng của Đại. “Nhưng không đến nỗi thế, tôi đã rủ được một ông ở phố ta trước làm phở nhà mậu ở Quán Thánh mới về hưu. Ông ấy chuyên nấu nước phở rồi đứng chan, chan một giờ trung bình được một nghìn năm trăm bát, có nghề không- chiến sĩ thi đua chan phở mấy năm liền, ông ấy sẽ cộng tác với ta” Đại hào hứng bốc, thế mà bàn chuyện đóng cửa.

Tôi bảo Đại:

- Máy bay máy bò thì mặc kệ chúng nó, việc ai nấy làm, gì mà phải đóng cửa mở cửa, hết máu hăng rồi a?

Đại nói:

- Sơ tán loãng cả phố xá rồi. Bán hàng miếng sống mà ế một ngày thì thiu thối đi đứt vốn. Hai ngày vắng khách rồi, chạy ra chợ Hôm bán lại thịt ế lo bằng chết ông ạ. Cơm nồi nước sôi cũng chẳng còn mấy người gửi. Các bà nhà bếp ngồi giãi he cả buổi. Tính thế này thôi, xưa nay làm ta chỉ ghi thu chi vào sổ nháp, không kế toán thanh toán ra từng món, chuyến này xem lại sổ sách, rồi giữ lại nghe tình hình đã. Chẳng nhẽ thằng Mỹ cứ ở trên trời mà doạ nhau mãi a.

Tôi khoái những cái nghĩ về tổ phục vụ, hợp tác xã mua bán đương phấn chấn. Nhưng nghe Đại kể như thế tôi lại hình dung khác ra. Tôi đã trông thấy ông cháo gà Chữ cầm một túi những mảnh thịt gà ông Trí bán buổi trưa không hết về luộc lại làm cháo đêm. Phải, miếng hàng sống chỉ quá một buổi thì vứt đi, thì đóng cửa, thì mất khách. Chẳng biết bây giờ quán bánh tôm hồ Tây ngon lành thế nào, nhưng mấy năm trước, một sáng sớm, tôi chỉ nhá một miếng, biết ngay bánh ế hôm qua. Từ đấy, không đến cửa hàng này nữa. Thế là mọi tốt đẹp của tôi về tổ phục vụ lại hoá ra màu xám. Tôi nói theo đuôi Đại: Thế thì ông cho làm sổ sách đi. Tôi cũng chỉ biết nói vậy. Tôi đi qua chỗ đắp ụ than mọi khi lúc nào cũng rừng rực người ra vào người ngồi chơi, trước cửa một miếng ni lông đỏ giải ra, trên đặt lọ lạc rang, lọ ô mai hột mơ tẩm gừng và cái ấm giỏ chè chén- tiện lò than đấy, lúc nào cũng có nước sôi tới số, có cả chai nước trắng giấu trong kia. Đã hay mắt ra phết. ở trong làng cũng như ngoài chợ, chỗ nào dựng cái phên quán nước thì đấy có người đến, người ngồi tán gẫu.

Hôm nay đã vắng ngắt, trên cửa treo miếng cót ép đề chữ vôi trắng: Tạm đóng cửa, lệnh sơ tán. Tôi nhòm vào, một ông đeo kính trắng với ông Đại đương ngồi trước đống giấy má. Đấy là ông kế toán ông Đại thuê về tính sổ.

Hồi ấy, ở phố ở làng, các hợp tác xã mua bán mọc nhua nhúa. Nhà mậu cung cấp vật chất cho mọi nhà, cô đơn là lạc hậu, phải vào hợp tác mới hợp thời và tiến lên được. Đủ các thứ, hợp tác thợ mũ, thợ khâu, đẽo guốc, cả những ông vá giày, ông cắt tóc cũng vào hợp tác. Vì có vào hợp tác mới mua được cái làm. Sống cá lẻ bây giờ chỉ còn anh bán đóm, chữa khoá, lão mài dao kéo, móc cống, bổ củi và các cô cầu Giẽ bán rượu chui cứ quảy bìu rượu đựng ni lông xám hệt bọc phân đạm. đương phong trào như thế không vào chỉ thiệt, giấy tờ có hợp tác xã, có chữ ký chủ nhiệm thì thươngnghiệp nhà mậu bán hàng cho. Vào hợp tác, ông đánh máy chữ thuê ngoài vỉa hè mới mua được giấy pơluya, giấy than, dầu lau máy, ông cắt tóc mới được thương nghiệp bán định kỳ khăn mặt, xà phòng, than đá đun nước sôi.

Nhiều nghề kiếm ăn lần hồi mà vào hợp tác như là những trò chơi. Tôi đã lâu năm cắt tóc hàng ông Be, tôi biết. Hiệu cắt tóc ông Be đúng kiểu hay ho một thời. Trước kia, ông Be chủ hiệu, ông đứng cắt tóc và thuê hai ghế thợ. Đến đận cải tạo tư sản Be ta cũng ba đao lắm. Làm chủ với hai người làm thuê thì đúng tẩy lên thang tư sản rồi. Ông chỉ còn phân trần ông đứng một ghế, ông cũng lao động. Thế thì ông cũng như phú nông. Phú nông ngồi cùng chiếu địa chủ, cũng ghê bỏ mẹ. Ông Be nhanh trí xoay làm ăn đời mới, coi như ông canh ty với hai anh vẫn làm thường ngày, lại gọi thêm hai anh cắt rong nữa, cả nhà có năm ghế. Thế là đóng sổ biên bản họp xã viên lên hợp tác xã, báo cáo thương nghiệp khu rồi treo cái bảng kẻ chữ sơn đỏ: “Hợp tác xã cắt tóc Quyết Tiến". Hợp tác xã có cách hoạt động riêng chỉ biết với nhau. ấy là khách vào ghế ai người ấy làm rồi người ấy bỏ tiền vào túi. Khách thích một người làm, tôi chỉ cắt ông Be, mấy người tôi cũng đợi Chẳng bởi cầu kỳ mai trắng mai xanh, mà chỉ mỗi lần cắt tóc xong tôi lại thành bạn rượu đậu nghệ nướng chấm muối với Be. Bây giờ ông Be chỉ là xã viên, ông nhường anh khác làm chủ nhiệm mà ông vẫn còn hãi. Đến kỳ mua các thứ đồ nghề, cái khăn mặt, miếng xà phòng... mua bao nhiêu, cái gì, mỗi người xỉa tiền ra, một người mang sổ của hợp tác đi lĩnh mua cung cấp.

Ba tháng hợp tác xã cắt tóc Quyết Tiến thuê một ông kế toán già về hưu đến lập sổ, dựng lên các cột chi thu mua bán, cột lãi, cột cứu tế, cột linh tính... kẻ ngang dọc vui mắt. Rồi đánh máy cái biên bản gọi là đại hội xã viên, mọi người ký tên, đem trình lên thương nghiệp đóng dấu đỏ chứng nhận. Không có ông kế toán ấy đến vẽ vời cho vài con số ma đúng qui lát thì không lên được khung đình đám hợp tác. Chắc chắn trên cũng biết nó làm hợp tác xá dởm, nhưng năm thằng bờm đầu thì đến đời nào mới thành triệu phú được, cho nên trên dưới đều giả vờ không biết thế là trò chơi và không ai bới ra.

Tôi nói với Đại cho phải phép: “Nhớ phải sòng phẳng, không hợp tác xã ma đâu nhé". Đại cãi ngay và giải thích: “Các bà ấy kém chữ nghĩa, ông với tôi còn công tác cơ quan, thì giờ đâu mà gò đầu gồ cổ tính sổ sách. Tất cả trong bếp ấy, còn mỗi đống than để ngoài cửa, tối đã có người ngủ canh lò. Thuê người sổ sách mới ra tấm ra món được". Rồi Đại cười, cười cái gì không biết. Tôi cũng nói trống không thế, chứ tôi biết đằng mù nào những việc chi tiết và chuyện lén lút ma ăn cỗ.

Lại giữa trưa, như quen thói, máy bay Mỹ đến ném bom vào giữa thành phố, vùng Nhà hát Nhân dân, bộ giao thông, ga hàng Cỏ sang ngõ hàng Đũa. Cái ngõ hàng Đũa ấy, thời Nhật, máy bay Đồng Minh – cũng Mỹ đã thả bom triệt hạ cả phố. Hôm ấy, người ta nói Mỹ thả bom tia la de, bom biết tìm đến mục tiêu mới nổ. Bộ Giao thông, nền Nhà hát Nhân dân ngay bên kia, khác phố, nhưng cách nhà tôi vài ba trăm thước.

Tôi cũng đương ở nhà một mình. Nhớ như hồi ấy tôi đương viết cái tiểu thuyết Miền Tây. Ngồi đây tôi tưởng tượng lên với nhân vật mẹ con bà Giàng Súa bên Đào San, Phong Thổ, ở Sìn Hồ vùng thấp vùng cao.

Tôi kê mảnh ván bên thành giếng. Nếu bom rát quá thì trèo xuống giếng, cái giếng có hai bậc, thành trên tôi ngồi xổm mới kín đầu, còn thành dưới trong giếng có nước thì sâu nữa.

Gió lật tốc cả dàn cây móng rồng trên tường, hơi bom trút xuống cùng lúc với tiếng nổ. Tôi tụt vào giếng, trông lên vòm trời vòng tròn trên đầu. Bên cơ quan bộ Giao thông trúng bom hay tên lửa không biết, tàn than giấy bay đen trời rơi lả tả xuống đầu tôi.

Tôi đeo băng, vơ cái còi quàng vào cổ chạy ra trông về ga hàng Cỏ, thấy lạ hẳn. Toà nhà đồ sộ giữa ga vòm mái đá đen đã biến mất, chỗ ấy toang hoác như giữa bãi trống. Phía hồ Văn Chương sau ga, cao xạ ta vẫn nhả đạn từng đợt đoàng đoàng. Thế là máy bay lại bom bắn vào trong thành phố, lần này đánh nhiều chỗ. Có một cảm tưởng âm thầm cứ dần dà nghiêm trọng hơn.

Ban bảo vệ các khối lên họp trên tiểu khu, ở khu đội và công an dự. Dương và Mẫn về báo cáo: Trên thông báo lần này Mỹ sẽ đánh Hà Nội nữa mà đánh rộng có khi nó cho cả B52 đánh ác liệt. Đề phòng nó có thể bất thần nhảy dù tập kích như trận Sơn Tây.

Khu ta gần các cơ quan trọng yếu cũng là trọn điểm mặt trận. Phải triệt để sơ tán nhân dân, tuần tra mười hai tiếng suốt đêm, kiểm soát chặt chẽ sổ tạm trú, tạm vắng.

Nhiều việc “phải” nữa. Điều khó khăn, nhiều việc trái ngược và chồng chéo. Công tác chủ chất khối phố hầu hết bà con có tuổi, kể cả đội dân phòng, bây giờ sơ tán triệt để thì ai cũng vào diện đi, đi được, ấy là chưa kể những người bắt buộc phải theo cơ quan, theo xưởng máy. Mà cả trăm việc dồn xuống.

Quá nửa đêm, tôi đi với bảo vệ Dương từ phía ga hàng Cỏ ra hồ. Bom đã ném bay cái nhà thuyền góc phố đằng kia. Cửa hàng bia quán Gió vẫn đèn sáng, chỉ có quán bia cửa ga và quán bia nhà thuyền có nem nướng không nhân ăn rất hay thì đã hóa ra một lỗ trống hốc. Không biết các cô bán hàng cửa ga, các cô nhà thuyền mọi đêm, có ai còn sống? ánh điện ban đêm sáng lạnh, trời dìu dịu sang thu, sương mù hay là khói bom nhà cháy còn đọng luẩn quẩn trên các ngả đường

Nhưng đến gần thì không phải. Cái mờ mờ sương phủ ấy là lớp lớp những chiếc chông cắm nhọn hoắt nhấp nhô liền nhau rỡn lên như màu sương. Những bàn chông la liệt khắp nơi. Nhớ mùa đông năm 1946 trên đồng quanh các làng Nghĩa đô, Cổ Nhuế, sáng sớm trông ra chì chít liền mấy cánh đồng xám mờ những bãi chông tre cắm đề phòng Pháp nhảy dù. Bây giờ những chiếc chông sắt chống Mỹ nhảy dù cũng như sương phủ- không phải chỉ là phòng xa, mà trận tập kích đã xảy ra ở Sơn Tây.

Chúng tôi vòng về Nhà hát Nhân dân, cái nhà hát giữa trời này đã dỡ bỏ tử lâu, chỉ còn bãi cỏ hoang. Từ xa đã thấy trong ánh đèn phòng thủ nghiêng mờ mờ vun vút lên những ngọn chông. Mấy xe tải quân đội vừa đỗ, trên thùng xe đẩy xuống, tiếng gỗ, tiếng sắt loảng xoảng. Bộ đội khiêng vào trong bãi như những bó chông hay những bộ phận súng máy. Khu vực này bên nhà tù Hoả Lò- khách sạn Hintơn Hà Nội” nổi tiếng giam nhiều lái Mỹ không biết trong lúc quyết liệt này có còn người tù Mỹ nào trong ấy không. Vào Tết Noen mỗi năm, tôi hay đi với Nguyễn Tuân vào Hoả Lò gặp phi công tù binh. Giam nó ở đây, hỏi chuyện nó cũng ở đây, nhưng khi cho gặp chúng tôi thì người ta lại làm vờ cho chúng nó tưởng đi xa lắm mới đến chỗ các nhà báo. Mấy phi công Mỹ, trên xe tải bước xuống từ ngoài cổng vào, băng vải đen bịt mắt. Không biết nếu nghe tiếng loa phát thanh vang các góc tường và tiếng động ngoài phố đưa vào, những tù binh đã bị nhốt nhiều năm ở đây có nhận ra những tiếng quen tnuộc hàng ngày vẫn nghe không.

Tôi bảo Dương:

- Ta thử vào xem chỗ này chông tre hay chông sắt như chỗ kia.

Một bộ đội đứng gác trong gốc cây, đến tận nơi mới thấy bóng người và ánh lưỡi lê sáng nhoáng.

Tiếng quát giựt giọng:

- Đứng lại

- Chúng tôi dân phòng đi tụần tra.

Có lẽ anh bộ đội đã trông thấy cái băng đỏ và hai chúng tôi cầm đèn pin Anh nói nhỏ, tiếng vẫn đanh lạnh ngắt.

- Không được vào!

Chúng tôi quay ra, bước xuống đường. Dương nói: “Đằng kia thì chẳng thấy cấm". Và có vẻ ấm ức. Tôi chẳng thấy là phiền lòng, bảo Dương:

- Người ta cấm là phải chứ.

Tôi không băn khoăn chông sắt hay chông tre, nhưng lại nảy ra cái vẩn vơ so sánh: súng có lưõi lê của anh bộ đội hẳn đã lắp đạn, không phải súng lép như khẩu mút cơ toong hôm nọ khu đội cho mượn.

Sáng hôm sau, đi qua cửa ga và bãi cỏ Nhà hát, chẳng thấy gì cả. Nền nhà ga cháy đen và các bãi cỏ quạnh vắng. Như chuyện ma trong Liêu Trai. Mấy chiếc xe tải phủ bạt đậu dưới bóng vòm cây xà cừ, như những chiếc xe ban ngày tránh máy bay.

Người sơ tán các nơi nhiều, khu yêu cầu làm tem phiếu sớm. Vì không họp các tổ được, lên danh sách rồi phải nhắn đi các nơi soát lại người từng hộ, có di biến động thế nào. Đưa đi đưa lại vòng vo mất cả tuần, mà năm nay cũng không nhờ được học sinh giúp.

Đại và tôi mở đống sổ sách năm ngoái. Tôi bảo Đại:

- Tôi phải bàn với ông gấp một tý. Tuần sau, tôi có công tác đi ấn Độ. Ông ở nhà làm cho vào đà, đến hôm tôi về...

Đại nói:

- Ông yên chí, việc tem phiếu còn dài, ta chống Mỹ cũng còn dài. Chắc ông đi ấn Độ bằng tàu bay, không sợ gặp tàu bay Mỹ đánh sao?

Tôi cắt nghĩa Trạng Lợn:

- Sáng sớm nó còn ngủ, chặp tối nó đỉ ăn cơm. Bay những lúc ấy được.

- Tôi chưa trông thấy cái tàu bay lên xuống bao giờ.

- Thứ bảy này ông sang tiễn tôi thì được xem. Ông đi nhé.

Sớm tinh mơ trên sân bay Gia Lâm, phó ban Đại đứng trong đám các con tôi.

Tàu bay IL 18 lênh khênh sừng sững trước mặt rồi từng chiếc một, bốn cánh quạt lần lượt quay. Một ỉúc cả bốn cái cùng quay tít, bụi và lá khô mù mịt trước mặt.

Hôm về, Đại bảo tôi: “Nó rún lấy đà, quạt lên như bão. ừ, phải thế mới đẩy lên được".

Tối tối, tôi với Đại lại đếm lại các loại tem, đối chiếu từng hộ. Trong khi, các tổ đi tuần tra đến năm giờ sáng.

Cuối năm, xong đợt tem phiếu đến sang giêng hai dương lịch, thành phố sắp xếp lại các cấp hành chính được thông báo hết qui một, có thay đổi. Vẫn có uỷ ban trên thành phố, các tiểu khu nhập thành quận, trong nội thành có bốn quận. ở dưới mấy khối cộng lại thành phường. Các tổ vẫn còn. Ban đại biểu dân phố giải tán, ra đời bộ máy phường tương tự như xã ở ngoại thành. Chủ tịch phường có con dấu và ăn phụ cấp như lương.

Cán bộ Thắng tiểu khu mà mỗi Tết lại đến nhà tôi lấy dao phay, dao bầu đi mài, anh vẫn đến chơi Tết, anh đã xin đổi công tác về nhà máy sơn. Cái chạn bát, cánh cửa sổ nhà tôi cuối năm được sơn xanh lại tươi tắn. Dương ra giữ xe đạp cửa rạp chiếu bóng. Mẫn đổi chỗ lên ngồi chữa xe trên Bờ Hồ. Mẫn bảo dưới này đói quá, có hôm chỉ được vài nhát bơm.

Mẫn nói với tôi: “Anh cho em thôi cái bảo vệ đường phố, em còn phải đi bảo vệ cái dạ dày". Một năm, Dương đến mượn tôi cái va li, bảo là về Sài Gòn. Tôi đưa Dương cái va li cũ. Rồi Dương có về Phú Lâm hay đi đâu, tôi không biết.

Tôi thôi trưởng ban bao giờ, không nhớ. Khi làm, không ai mời, đến khi thôi thì thôi cũng không ai bảo.

Chỉ nhớ bấy giờ sau trận B52 máy bay Mỹ ném bom vùng Khâm Thiên, các khối dân phố đi cứu khối bạn, đội dân phòng, cả cáng thương và túi thuốc, cả xà beng như mọi khi đã tập, tôi vác cái câu liêm.

Chốc đã hơn bảy năm qua. Cái anh Khang đảng viên rủ tôi ra làm công tác phố ốm đã mất ba bốn năm nay. Nhiều ngưòi, cụ Thắng điếc, cô Nghệ, ông An cũng qui tiên cả rồi. Chẳng có cáo phó, khi ấy việc tang ma còn đơn giản, có người bảo tôi mới biết.

Nguyễn Văn Bổng và tôi vẫn hay vào quán Gió uống bia. Ngồi uống bia hiu hiu còm cõi, nhưng bên hồ nước, bao giờ cũng có cảm tưởng xa khoi. Không còn khi nào vào hàng nửa đêm. Mà các cô bán hàng thuở ấy không còn ai bây giờ và cũng không có bia hơi, cửa hàng đã lên cấp. Chợt nhớ anh phó mộc Đại.

Tôi tạt đến rủ đi cho vui. Cái nhà Đại ở mọi khi đã biến mất, chỗ ấy thấy quây bạt, lủa tủa cột bê tông, đương lên nhà tầng. Ông thợ may hàng xóm, trước ở đội dân phòng nhận ra trưởng ban.

- Ông đấy à, ông vào xơi nước- ông có đi uống bia thì đi với tôi - Mời hai ông. Nhà cháu bệnh áp huyết, bia rượu những cái ấy phải kiêng. Định vào rủ ông Đại- ông Đại thợ mộc trên quận đã nghỉ hưu. Ông ấy về quê Phùng được mấy tháng rồi.

Mấy năm mới lại vào ngõ này, khác quá, khác quá.

Chúng tôi đến quán Gió. Đọc báo thấy đăng tin có đàn cò về đậu ngọn cây ở cái gò giữa hồ. Đã bao nhiêu năm nay những đàn cò không về lòng hồ. Nguyễn Văn Bổng hỏi cô bán bia hôm nay đã thấy cò về trong hồ chưa.

Cô hàng nói:

- Buổi sáng còn bay loạn ngọn cây, bây giờ chưa về.

Chập tối, đã lên đèn. Chẳng thấy một bóng cò. Cô hàng nói một câu có ý nghĩa thế nào chăng.

Thời buổi này, con chim cũng vui đâu đậu đấy, có phải không hai bác?

1           3      4      5      6      7      8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét