Trưa rừng sau cơn mưa, lá cây
chuyền động trong sự lặng lẽ âm thầm, những búp non nảy thêm ra. Nhựa cây chảy
rạt rào trong thân cây.
Tôi cứ quên đi những luồng thán
khí do cây thở ra và làm hại đến sức khỏe con người mà tôi cứ tưởng đây là cảnh
rừng thơ mộng với các áng hương thơm lâng lâng sực nức lòng người.
Nhưng nghe câu chuyện càng rầu.
Chuyện qua đã không hay ho chi . Còn chuyện sắp tới thì không như mình tưởng.
Hồi ở Hà Nội, tôi cứ tưởng
tượng qua các bài báo bốc tếu tới trời. Tưởng vé tới quê hương là toàn bầu trời
xanh mát, xuồng ghe tấp nập, bộ đội hành quân bằng đò máy v.v…
Tôi sực nhớ có một thằng nhiếp
ảnh bất lương nói láo. Hẳn ta bịa tạc, giàn dựng đâu ra tấm ảnh một cô gái ” co
kéo ” rất ngon lành chẳng thua đào hát bóng, vậy mà cô ta chống xuồng bằng cây
sào rất dài, ở phía sau cô ta tố nhố xuồng ghe và người. Dưới bức ảnh để một
câu nghe khoái chí tử:
“Đuổi giặc trên Đồng Tháp Mười
trong sương sớm”
Ông vải ơi ! Bây giờ tôi mới vỡ
nhẽ ra. Giặc đi trực thăng mà ta đuổì bằng xuồng ! Vác xuồng câu đặt trúm của
Tháp Mười mà đuổi giặc đi trực thăng. Theo như cậu Tấn vừa nói thì trực thăng
đâu phải là chuồn chuồn mà dễ xơi như vậy !
Vậy mà tấm ảnh đó được các báo
tranh nhau đăng trang đầu xuân, và nhà nào cũng tìm cho bằng được để đem về
treo cho con cháu xem cái sự đánh giặc đánh giã ở trong Nam !
Tôi quay lại hỏi Tấn:
- Thế rồi bọn mình làm sao mà
đối phó ?
- Cái gì chớ cái trực thăng
mình không đối phó được anh ạ ! Nó kỳ cục lắm ? Để anh về trỏng rồi nếm mùi
trực thăng, chứ bây tôi nói, ông già ổng bảo là tôi đánh giá địch quá cao.
Anh Khẩu đội trưởng gắt ầm lên
làm đứt ngang câu chuyện của tôi và Tấn:
- Đâu, cậu nào trong Khẩu đội 2
đâu, tập họp ! Mau lên !
Chẳng có ai nhúc nhích cả.
Anh Khẩu đội trưởng ! Đó là một
hình tượng ai trông thấy cũng thương tâm. Tôi không hiểu anh là người gì, là
cái gì nữa cơ! Đầu thì băng bó, mặt mũi bơ phờ, tay chân thì trắng bợt ra,
những đầu ngón tay ngón chân thì tím ngắt.
Anh chỉ còn mặc mỗi cái quần
đùi. Anh vừa dưới nước trồi lên như từ dưới âm phủ hiện hiện về vậy.
Vâng, anh cũng khá lãm. Anh còn
nhớ mình là Khẩu đội trưởng phải điều động cái nòng pháo lửa đi tới, đi cho
thấu tới Miền Nam. Vì thế cho nên anh mới bị linh dưới quyền của anh tẩn cho
một trận thừa sống thiếu chết, có lẽ một trận tệ hại nhất trong đời làm chỉ huy
của anh.
Anh ta đi lật mặt từng người lên
mà xem và gọi và quát. và…năn nỉ. Vâng, chỉ huy ở đâu chứ chỉ huy ở cái đường
Trường Sơn này không có nghĩa lý cái chi, nếu không nói là nó không giống như
chỉ huy ở các nơi khác. Vi sao ? Chỉ huy là khoa học, là kỷ luật.
Nhưng ở đây thì chỉ có một vế thôi,
nghĩa là chỉ bắt lính giữ kỷ luật … sắt Nhưng muốn cho nó giữ kỷ luật sắt thì
ít ra phải cho nó ăn uống đầy đủ, ngủ nghê đẫy giấc, quần áo giày dép tươm tất,
xe pháo đúng tiện nghi. Chứ cỏn một hạt muối không phát thêm cho nó, thép khối
như thế kia, bảo nó khiêng nó vác làm sao? Mà lại đi dưới nước thay vì đi trên
bộ, leo núi thay vì đi đường phẳng , pháo thì phải kéo bằng xe chứ chẳng có
quân đội nào mà lại di chuyển pháo bằng vai, trừ ra những đạo binh hồi thế kỷ
thứ 13 trở về trước .
Thế cho nên cấp chỉ huy như anh
Khẩu đội trưởng này đây phải có hai “cây gậy chỉ huy” một cây đúc trong lò
“cách mạng vô sản ” hai là cây gậy làm bằng bông gòn có tẩm nước hoa , không
phải dùng để quơ múa ra lệnh mà để dùng quét qua quét lại trên mũi của chiến
sĩ.
Anh Khẩu đội trưởng đã dùng cây
gậy sắt đối với lính anh ta hôm qua rồi. Cây gậy đó bi những ông thần đói quật
lại gãy tan tành và chính vị chỉ huy cũng no đòn, suýt chết. Vì thề cho nên anh
ta phải dùng tới cây gậy bằng bông gòn. Chứ sao ? Thằng khôn ngoan là thằng
phải biết xoay trở theo thời thế, nhân tâm. Cưỡng lại nó thì tan xác ngay thôi
mà.
Anh Khẩu đội trưởng đi đến một
anh đang ngồi trên rễ cây. Anh ta vỗ vai cậu lính:
- Đi cậu, trở lại tiếp một tay.
- Tiếp làm gì ạ?
- Khiêng pháo !
- Chặng này đâu phải phiên em!
- Cậu tên gì nào ?
- Thủ tưởng quên cả tên em à ?
- Ừ, ừ mày tên Tùng phải không
?
- Em tên Tụng ạ. Trần Thế Tụng.
- À, cậu đã từng …
Cậu linh có tên Tụng cúi nhìn
xuống đất. Cậu ta nói cái tên của cậu ta ra, như muốn nhắc lại cho anh chỉ huy
nhớ một thành tích bất hảo của cậu ta.
Và có lẽ anh Khẩu đội trưởng đã
nhớ lạ í rồi. Anh đã nhớ ra thằng Tụng là thằng gì rồi.
Hắn nhảy tàu nổi tiếng, và lúc
nào cũng tìm cơ hội để quay. Hắn ta có cặp giò quấc và đôi mắt chim mèo. Có lẽ
vì biết rõ thành tích của cậu lính này mà anh Khẩu đội trưởng không muốn tiếp
tục năn nỉ nữa.
Anh ta quay sang một cậu có
gương mặt bầu bĩnh dễ thương đang treo võng nằm vắt vẻo ở một hốc đá.
- Này, cậu tên là Thường phải
không ?
- Dạ vâng ạ.
- Cậu còn khỏe thì trở lại
khiêng tiếp cái nòng pháo với tớ. Nó còn nằm đằng kia.
- Dạ em sốt quá, thủ trưởng.
- Tớ cũng đang sốt đây.
- Em đi không nổi ạ !
- Thế thì làm sao ?
- Có mấy cậu kia còn khỏe lắm.
- Mấy cậu nào ?
- Thủ trưởng bước quá vào cái
bụi kia. Chúng nó đang ngồi dụm ở đó, nói chuyện râm ran.
Anh Khẩu đội trưởng hơi nóng
mặt. Anh ta lại quơ cây gậy thứ nhất lên.
- Các cậu vô kỷ luật đến thế là
cùng.
- Dạ, em đâu dám ạ !
- Các cậu coi chỉ huy của các
cậu còn kém con b…
- Dạ không ạ, em không dám ạ !
- Chúng mày sẽ bị đưa ra tòa án
quân sự.
- Dạ vâng ạ, em sợ lắm ạ!
- Đồ láo ! Chúng mày là một lũ
vô dụng !
- Dạ vâng, chúng em toàn một lũ
vô dụng, ăn hại ăn bám cả cho nên bây giờ em không thích ăn bám nữa ạ ?
- Mày đừng có lắm mồm!
- Em sốt quá t Thủ trưởng còn
kí nín không ?
-Còn cái gì?
- Thủ tướng còn muối không ?
- Đây này, còn cái này này. Anh
Khẩu đội trưởng văng tục.
- Muối em chảy ra nước đổ hết
cả rồi ?
- Tao bây giờ chỉ còn trên răng
dưới dế, chứ còn cái gì ?
Nói xong, anh ta ngồi phệt
xuống đất, không còn sức lực đứng để nới gì nữa.
Tôi bèn nhắc anh ta, như cậu
lính nói lúc nãy:
- Anh nên đi lại gọi cái đám
sau bụi cây kia. Mấy cậu đó trông còn khỏe.
Tôi nói vậy mà anh ta dựng
người lên như nhớ lại một điều quý báu. Anh ta xăm xăm đi về phía bụi cây, chân
rảo bước, cổ nghển cao nhìn, như đặt hết hy vọng vào cái đám người ” còn khỏe ”
đó !
Tôi cũng hy vọng sao cho anh ta
tìm được một số người giúp anh khiêng cái của nợ kia tới đây.
Tôi nghển cổ nhìn theo.
Anh Khẩu đội trưởng vừa đi tới
thi đám người kia ù té chạy vứt tung cả đồ đạc và bỏ cả quần áo đang phơi ở đó.
Anh Khẩu đội trưởng nhặt những
hòn đá và những mẩu củi mục vứt bừa theo, vừa ném vừa nghiến răng chửi om tỏi:
- Con mẹ chúng mày, đồ quân…
quân…
Quân gì, tôi cũng không nghe
rõ, nhưng chắc chắn đó là “quân đội nhân dân” đồng dội của anh ta.
Anh Khẩu đội trưởng quay trở
lại, mặt tái xanh tái ngắt, ngồi xuống bên võng tôi và thở như trâu cắt cổ.
Bây giờ tôi mới nom rõ thân
hình anh ta. Những nốt thâm đen khắp người và những vết sẹo trên mặt, chân có
những vết còn đỏ hỏn. Vết thương mới trên trán còn rỉ máu ra nhuộm ướt vành
băng.
Để cho anh bớt mệt, tôi mới
hỏi:
- Gì mà tụi nó chạy toán loạn
vậy ?
- Mẹ… mẹ… chúng nó!
- Sao ? Cái gì ?
- Lũ khốn kiếp! Mấy thằng nó
đánh tôi hôm qua.
- Thế à?
- Tôi giết chúng nó chết cha!
Anh ta nghiến răng ken két.Tôi rơi mất khẩu súng ngắn rồi. Nếu không tôi bắn
chết hết . Chúng nó phản động.
- Thôi đồng chí ạ !
- Thôi sao được.
Tôi nói:
- Mình là cán bộ ! Vui hưởng
sau, cực chịu trước.
- Thì đồng chí coi tôi đây, tôi
có còn ra cái thứ gì nữa hay không ? Tôi là con người hay con vật ?
Anh ta xông tới giật khẩu AK
của ai treo trên cành lên đạn và chạy vút đi Nhưng anh ta đã không tìm thấy lũ
người. Họ vừa tẩu thoát.
Anh ta quay lại, ném khẩu AK
vào bụi và nói:
- Lính tráng gì thế? Lính tráng
gì đánh chỉ huy.
Tôi nói xụi lơ:
- Thì chúng nó đói, chúng nó
khổ quá mà. Với lại theo như tôi đi gần họ tôi biết, họ cũng không muốn đi vào
Nam. Đi vào Nam là tôi đây này, vì tôi ở trong đó, mồ mả tổ tiên tôi ở trong
đó, còn họ, còn anh, chính anh nữa, anh cũng đâu có muốn đi, đi làm gì ? Nhưng
bị bắt đi thì phải đi cho nên gặp khổ thì muốn quay lại.
- Ừquay thì quay, thiếu gì “bê
quay ” trên đường này. Nhưng sao lại đánh cấp chỉ huy ?
Tôi sẵn trớn, nói luôn:
- Vì cấp chỉ huy đánh nó, có
phải không ?
- Ừ đúng tại tôi đánh chúng nó
!
Anh Khẩu đội trưởng như vừa
phát giác ra một vấn đề gì vô cùng quan trọng. Ừ tại anh ta đánh chúng nó t Cho
nên chúng nó đánh lại, khổ quá mà còn bị đánh thì chúng đánh lại, điều đó rất
dễ hiểu thôi.
Những người tù bi giam trong
khám rất khổ, và bị mất hết tự do giữa bốn tấm vách tường, sinh mạng như treo
chỉ mành mà còn dám đánh lại có khi giết chết cả cai ngục thay, huống gì ở đây,
họ không phải là tù.
Anh Khẩu đội trưởng bỗng giơ
hai cánh tay gầy guộc lên mà kêu thảm thiết:
- Trời ơi t Như vầy thì tôi làm
sao chì huy ? Làm sao tôi hành quân nốt con đường này được ?
Anh ta đấm ngực thùm thụp, nhảy
tưng bừng lên, hai mắt đỏ nọc hai hàm răng nhai ngấu nghiến như có vật gì trong
mồm:
- Thế này thì tôi chết, tôi
chết ! Tôi nghỉ, tôi nghỉ !
Rồi anh ta ngồi thụp xuống như
đôi chân anh ta bằng sáp bị hơ lửa.
Tôi thương anh ta quá.
Chiều hớm qua khi xô xát nhau
giữa anh ta và mấy cậu lính, tôi có trông thấy rõ màn kịch đó từ đầu tới cuối,
khi mấy cậu lính đánh anh ta rơi xuống suối thì tôi lấy làm thích thú xem như
sự uất của chính mình lâu nay được trả thù, được thỏa mãn, thấy vui thích cùng
với các cậu lính kia, nhưng giờ đây, tôi mới hiểu thêm lòng dạ anh ta và thương
hại anh ta, tội nghiệp cho cái nô tính của anh ta.
Anh Khẩu đội trưởng bị kẹp giữa
hai cái gọng kềm “lính” và “nhiệm vụ. ” Lính kiệt sức không muốn đi, không
khiêng nổi nòng pháo quá nặng, còn anh ta là chỉ huy lại bắt buộc chúng nó phải
khiêng và phải đi đến nơi. Vì chúng không làm theo ý anh cho nên anh đã đánh đã
bắn (dọa) chúng nó. Và chúng nó sắn sàng đánh ‘lại anh.
Anh ta khóc rưng rức.
Tôi không biết lấy lời gì để an
ủi anh ta, mà cũng không biết có nên an ủi anh ta không ? Để cho anh ta khóc,
có khi vơi đi nỗi sầu.
Tôi quay sang cậu Tấn giao
liên.
- Bao giờ thì đi tiếp hở cậu
- Chờ cho họ tới đủ thì đi.
- Biết bao giờ họ mới tới đủ ?
- Bao giờ thì bao, tôi biết làm
sao bây giờ ?
- Nhưng biết bao nhiêu thì đủ?
- Ba mươi hai người dân chánh
và một khẩu đội pháo. Đó ông Khẩu đội trưởng đang ngồi khóc hu hu đó.
- Họ đã tới đây bao nhiêu rồi ?
- Đó họ đang ngồi rải rác đó.
Anh thử đếm dùm xem ?
- Độ hai mươi người. Nhưng nếu
họ không đến đủ thì sao ?
- Tới giờ đi mà chưa đủ rồi sẽ
hay ?
- Bây giờ cũng đứng bóng rồi.
- Ờ nhỉ.
Anh giao liên có vẻ thản nhiên
không tỏ một sự thương xót nào đối với ai, kể cả đối với anh Khẩu đội trưởng .
Anh ta dửng dưng như một người xa lạ, hoàn toàn ngoại cuộc.
Tôi thấy vậy bèn hỏi:
- Cậu không có cách nào giúp
cho anh Khẩu đội trưởng sao ?
- Giúp gì được mà giúp.
- Thấy rầu quá. Đã khổ rồi, lại
còn gặp những chuyền thế này, tôi đi hết muốn nổi.
- Tôi gặp những cái cảnh này đã
chán mắt. Thú thật với anh tôi không thích bộ đội trên đường này một tí nào.
- Sao vậy ?
- Vì họ ẩu quá, bết bát quá.
- Thì phải thông cảm với sức
khỏe và hoàn cảnh của họ chớ.
- Ai không biết vậy, nhưng họ
kỳ cục lắm !
- Ví dụ.
- Ví dụ như trạm tôi đang cấm
không cho bắn thú rừng vì sợ lộ bí mật. Nhưng họ không tuân theo. Họ bắn tối
ngày. Con gì họ cũng bắn. Thậm chí con chim bằng ngón chân cái họ cũng bắn bằng
súng AK.
- Cậu có nói thêm cho họ không?
Tội nghiệp họ cậu ạ ?
- Tôi nói gian cho bà móc mắt
tôi đi.
- Cậu thành kiến với họ quá !
Đó là vài người lính thôi chớ !
- Nếu lính thì tôi không nói,
còn chỉ huy thì anh biết sao không ? Các ông trời có súng ngắn thì bắn cả cá
lòng tong dưới suối. Bắn hai ba phát chỉ được mấy con cá bằng đầu đũa ăn thôi.
Thế mà cũng bắn !
Tấn ngưng một chốc rồi tiếp:
- Họ.bị nghẽn đường một tuần
lễ, trạm tôi phải dời đi không dám ở chỗ cũ. Anh biết ở rừng mà dời chỗ ở cực
nhọc biết bao nhiêu. Cồng kềnh đủ các thứ nồi niêu, tăng võng lôi thôi lếch
thếch. . . Vậy mà bọn tôi có can thiệp là họ hăm bắn, hăm đánh.
Tấn ngưng câu chuyện và hỏi
tôi:
- Mấy giờ rồi anh ?
- Gần đúng trưa rồi ! Tôi xắn
tay áo lên xem đồng hồ tay.
Tấn nom sát vào mặt đồng hồ và
kêu lên ngay:
- Ồ, đồng hồ Liên Sô đẹp quá
nhỉ. Vầy mà người ta bảo đồng hồ Liên Sô như cái cối đá, không đeo được.
- Ai bảo?
- Những người ngoài Bắc về như
anh.
- Họ nói hồi nào ?
- Năm ngoái năm nay ! Em cũng
không hiểu sao, nhưng em tự ái quá!
Tôi cười:
- Thì họ nói đúng chứ sao t Tự
ái cái gì ?
- Anh nói sao ?
- Đồng hồ Liên Sô là đúng như
vậy chứ sao !
- Sao cái này lại đẹp thế này ?
- Sao cậu biết cái này là đồng
hồ Liên Sô ?
- Ở ngoài Bắc về không đeo đồng
hồ Liên Sô thì đeo đồng hồ gì anh?
Tôi lại cười:
- Vậy cậu có trông thấy cái
đồng hồ Liên Sô nào không ?
- Có thấy một cái.
- Cậu thấy thế nào, nói thiệt
đi.
Thấy Tấn ngập ngừng, tôi nói:
- Sợ mất lập trường hả ?
- Quả thật là không đẹp mấy.
- Không đẹp thì nói không đẹp,
lại còn màu mè “không đẹp mấy” nữa.
Tấn lại hỏi tôi:
-Còn đây là đồng hồ gì đâyanh?
- Thụy Sĩ “xách mách đâm ba
nha” (Suisse made Printania) . Nói đùa chứ đây là Movado.
- Hèn gì đẹp quá ! Ở ngoài đó
cũng xài đồng hồ của phe đế quốc nữa sao anh?
- Xài chớ sao không xài. Mình
không chế được thì mình phải xài của đế quốc chớ. Nhất là đồng hồ thì phe mình
đâu có ăn thua gì so với thằng Thụy Sĩ ? Nhưng không phải chỉ trong lãnh vực
đồng hồ mà thôi, còn nhiều món hàng khác mình cũng thua nó xa.
Bỏ mạng rồi ! Tôi quên rằng ở bên
tôi có cái cây lập trường đang nằm chình ình ra đó. Tôi vừa tốp câu chuyện lại
thì cũng vừa lúc ông Chín ra miệng. Ông Chín đang nằm, ông ngồi dậy ngay. Ông
xòe bàn tay ra dấu cho tôi ngưng câu chuyện. Ông Chín nói: .
- Các cậu nên giữ lập trường
một chút. Tại sao đồ của mình lại thua đồ của đế quốc ?
Tôi bỏ lảng ông Khẩu đội trưởng
đang khóc kia mà gay vào cuộc chiến đấu với ông lập trường. Tôi nói:
- Chuyện đó có gì mà mất lập
trường ông cụ ?
- Không mất lập trrường à, khen
phe đế quốc chê phe ta mà lại không mất lập trường à?
Tôi suýt bật cười. Tôi và Thu
đã đụng với ông Chín nhiều trận trên cái chiến địa “lập lường” này nhiều rồi.
Trốn máy bay ông cũng giở sách Các Mác ra mà lý luận, rồi xem đùi đàn bà, ông
cũng cho là mất lập trường, bảo chân bộ đội như nhũng cái cọc màn, ông cũng cho
là khinh rẻ quân đội cách mạng và những người nói như thế là mất phẩm chất, lần
này khen đồng hồ Thụy Sĩ tố hơn đồng hồ Liên Sô, có lẽé tội nặng hơn tất cả
những trường hợp ở trên kia.
Tôi nói:
- Đây là vấn đề hàng hóa rất là
hiển nhiên, có gì đâu mà mất lập trường.
- Đồng chí nói như vậy mà không
ngượng mồm à ?
- Theo như ông Chín cầm hai cái
đồng hồ Wyler và Bobéda thì ông Chín dùng cái nào ?
Ông Chín hơi ấp úng rồi đáp
ngay:
- Nếu dùng thì tôi dùng cái
Wyler.
- Đó ? Sao ông Chín lại bảo
rằng tôi mất lập trường ?
- Tôi dùng đồng hồ Wyler nhưng
tư tưởng của tôi lại khác đồng chí.
- Xin lỗi, ông Chín khác thế
nào ạ ?
- Khác là dù tôi đeo đồng hồ
Wyler nhưng tư tưởng tôi vẫn cho là chiếc đồng hồ này là do sự bóc lột công nhân,
bốc lột kỹ sư mà ra chớ không phải như trường hợp cái đồng hồ Bobéda.
- Khác thế nào ông Chín ?
- Cái đồng hồ Bobéda là do sự
toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, của công nhân, kỹ sư chung đúc lại thành và
vì lý tưởng Cộng sản mà nó mang cái tên đó. Bô bê đa là ý nghĩa là thắng lợi
đồng chí biết không ?
Tôi hỏi tiếp:
- Vì toàn dân toàn ý phục vụ
nhân dân và vì chủ nghĩa Cộng sản thì sao lại xấu hơn cái thằng đế quốc bóc lột
công nhân và nó không vì cái gì cao siêu hết hở cụ ?
Ông Chín chẳng ngờ tôi lại ngoan
cố mà ví ông ta vào cái chân tường mà chính ông tự xây cho ông trong mọi cuộc
tranh luận ” Lậptrường.”
Ông Chín chới với, chưa tìm ra
câu trả lời.
Cũng may lúc đó Tấn đứng dậy và
bảo mọi người.
- Chuẩn bị hành quân !
Chao ôi, nghe tiếng hành quân,
tôi ớn cả xương sống, ớn cho tôi và ớn cả cho Thu. Vì ngoài cái sự lê xác của
tôi đi tôi còn phải nâng đỡ Thu nữa, một cái việc phải phung phí sức lực ,
nhưng chẳng có lợi lộc gì cho tôi hết, mà tôi phải làm.
Trời ơi! Con đường gì mà càng
đi, càng thấy mình đi vào tử địa, vô cùng, đi vào tuyệt lộ. . Nhưng mà vẫn phải
đi tới, không thể đi lùi được. Tất cả mọi người nhốn nháo, kẻ thì lơ láo nhìn
quanh kẻ thì cứ ngồi lỳ ra đó, cơ hồ như cái lệnh kia không tác động chút nào
đến mình.
—>Chương 6
- 6-
Không biết từ đâu, bác sĩ Năm
Cà Dom xuất hiện, như một nhân vật trong truyện thần thoại.
Năm Cà Dom nói:
- Anh xem có giống quân thứ tư
không ?
Tôi nói:
- Quân thứ tư là quân gì ?
Năm Cà Dom nói:
- Nhìn đó thì rõ, có ra cái thể
thống gì hay không ? Ấy vậy mà bảo là quân chiến thắng, đi giải phóng Miền Nam
đó, giải cái con mẹ tôi chớ giải sao nổi mà giải, hả ?
Tôi hỏi:
- Nãy giờ cậu ở đâu ?
- Tôi mắc võng ngủ trong bụi
cây chớ đâu. Tôi nghe các vị nói đủ thứ hết, nhung tôi không có lên tiếng làm
chi, nhất là chống đối ông già lập trường minh nguy to. Tôi nói toàn chuyện đâm
hơi không thôi mà ! Ổng chỉnh mình có mà sói đầu !
Có lẽ Tấn thích thú vì cách ăn
nói dí dỏm của Năm Cà Dom cho nên Tấn rề rà không thúc giục thiên hạ đi ngay.
Tấn hỏi:
- Hồi nãy anh nói quân thứ tư là
quân gì anh ?
Năm Cà Dom nhìn Tấn rồi nói:
- Cậu không biết có quân thứ tư
đâu. Cỡ tuổi tôi với ông nhà văn này thì mới biết được cái thứ quân đó. Hồi
kháng chiến chống Pháp kia, cái quân đó rất nổi tiếng nhất là ở chỗ nào có “phờ
nờ” thì loại quân này thường xuất hiện.
Ông Chín gầm lên:
- Tôi không hiểu tại sao các
cậu kháng chiến chín năm rồi, ra Bắc sống trong xã hội chủ nghĩa cả chục năm mà
hở miệng ra toàn nói chuyện mất lập tường.
Năm Cà Dom cười khè khè:
- Nói chơi cho vui cái bụng, để
cái chân nó bước theo, nếu để ủ rũ như cụ thì buồn lắm, bước đi không nổi đâu,
mà rồi dễ sinh bịnh hoạn lắm.
Tôi chêm vào:
- Bác sĩ nói cái gì cũng kèm
bệnh hoạn vào đó hết.
- Con người là sanh, lão, bệnh,
tử mà. Chạy đường nào cho khỏi ! ý mà quên chớ để tôi nói chuyện quân thứ tư
cho cậu Tấn nghe nhé…
Năm Cà Dom dặng hắng lấy trớn
rồi nói:
- Số là hồi kháng chiến chống
Pháp thì ta có ba thứ quân. Một là chủ lực quân, hai là địa phương quân, ba là
du kích quân.
- Còn quân thứ tư? Tấn sốt ruột
hỏi. Quân thứ tư là quân gì anh?
Năm Cà Dom vui vẻ tiếp:
- Xin lỗi ông Chín, để cháu kể
cho cậu bé này nghe chút xíu , vui chơi không có gì mất lập trường đâu !
Số là có một gia đình nọ có một
cô con gái, một hôm có bộ đội tới đóng trong nhà. Ông già cô ta thấy mấy chú em
khi chiều đùa giỡn với đứa con gái thì sinh nghi, cho nên nửa đêm ổng thức dậy
thắp đèn giả đò đập muỗi. ông ta đi vô buồng rọi mùng cô con gái thì thấy ngoài
vách mùng thòi ra hai cặp chân. Ông ta lẳng lặng quay ra…
Ông Chín cau mày, nhưng không
biết làm sao mà chặn câu chuyện của Năm Cà Dom lại được. Ông bèn lảng đi chỗ
khác.
Năm Cà Dom thì cứ vui vẻ kể
tiếp:
- Ông già thấy nguy to rồi,
nhưng không lẽ làm gì bây giờ. Làm to ra thì đổ bể mất thanh danh bộ đội mà
chằng hay ho gì cho con gái mình. Cho nên, dung hòa giữa sự tức giận và thanh
danh con gái, ông già bèn gọi anh chỉ huy thức dậy, đốt đèn, châm trà mời anh
ta, rồi cuộn thuốc hút chậm rãi từng hơi. Hút độ nửa điếu thuốc ông ta mới bèn
quay sang anh chỉ huy và bắt đầu câu chuyện.
Năm Cà Dom cười:
- Chắc ông Chín ghét tôi lẩm.
Nhưng mà ổng cũng biết câu chuyện đó mà.
Tấn nói:
- Hay thật ! ông già hay thật !
Năm Cà Dom nói:
- Tôi cũng phục lăn ông già !
Tấn nói:
- Thôi các ông mình chuẩn bị
đi. Đường đi sắp tới toàn leo dốc và vắt.
Thu hỏi:
- Vắt gì anh?
- Con vắt nó đeo chân đeo tay
nó cẩn nó hút máu mình chớ vắt gì ? Nói rõ ràng hơn là nó là một loại đĩa sống
trên khô và trên cành cây.
- Eo ôi ! Sao kỳ vậy !
- Chớ nhỏ lớn chị không biết
con vắt à ?
- Không thấy bao giờ.
- Thì đại khái nó đeo có chùm,
nó hút máu mình. Và khó bắt khó gỡ lắm. Tấn nói tiếp với mọi người: Bây giờ tôi
xin phổ biến một việc đề chống vắt nhé, bà con mình có ai làm theo thì làm,
không làm thì thôi. Tùy ý tôi không ép ai hết… Bây giờ chịu khó vô rừng chặt
cái dây bồ hòn đâm ra cho nhuyễn. Bỏ vô một cái ống trúc rồi đổ vào đó một tí
nước. Đi trên ớ đường này người nào cũng làm một cái ống trúc đựng bồ hòn như
vậy, để trị vắt. Vắt nhiều lắm. Tôi nói thật đấy. Nó đeo có chùm chứ không phải
đeo từng con như các ông các bà tiểu thư tưởng tượng đâu. Các bà các cô nào
nghe nói vắt cũng nghĩ rằng nó sẽ đeo cắn từng con một và muốn bắt nó chỉ cần
đưa hai ngón tay nắm nhéo lấy nó như một cử chỉ sang trọng vậy thôi. Tôi báo
trước là không phải như vậy đấy Nó đeo cả chùm, nó đeo kín cả bàn chân, nó đeo
tới cổ, trên đầu mà cắn đấy. Tôi nghe nói có một người. bị vắt cắn vào động
mạch cổ mà ngủ quên, tới sáng máu ra nhiều quá, mệt ngất không dậy nổi chớ
chẳng phải chơi đâu.
Tấn tiếp:
- Bây giờ các ông các bà đi
chặt dây bồ hòn và ống nứa bào chế một món thuốc trị vắt như tôi vừa nói đó đi.
Còn ai có nhiều kí-nín thi gói kí-nín vào cái mảnh vải, làm thành một cái bọc,
cứ hễ vắt đeo thì chấm vào là nó rớt xuống ngay. Nhưng tôi biết không ai lấy kí
-nin mà thay bồ hòn chí nên lấy bồ hòn mà thay kí-nín thôi.Tôi nói vậy, không
có nghĩa dùng bồ hòn để trị vắt mà thôi, mà dùng bồ hòn để trị sốt rét cũng rất
tốt. Người ta nói đắng như bồ hòn, thật là đúng vô cùng, tôi đã từng uống bồ
hòn thay cho kí-nin để cắt cơn sốt. Chao ôi, uống một hớp, đi tới mật xanh !
Đắng hơn kí-nin gấp một trăm lần.
Thu lắc đầu:
- Tôi nghe mà cũng ngán ngẩm
tâm thần. Đường gì mà kỳ cục quá. Càng đi càng kỳ cục ra thêm.
Thế là đoàn người bắt đầu đi
chặt dây bồ hòn. Con suối đã ở lại phía sau lưng, nhưng cái dốc núi lại dựng
lên trước mặt.
Anh Khẩu đội trưởng tự nãy giờ
vẫn ngồi sụp ở đó bây giờ mới tỉnh ra. Anh ta ngơ ngác.
Có lẽ anh ta đang đấu tranh tư
tưởng xem nên đi cùng với đoàn hay quay trở lại khiêng cái nòng pháo.
Tội nghiệp, làm chỉ huy như anh
ta cũng khó. Ở lại thì ở với ai, ai sẽ góp sức khiêng với anh ta, còn đi thì bỏ
mất cái nòng pháo ấy hay sao ? Không có ông nào giải quyết giúp anh ta.
Ông Chín biết rõ câu chuyện bèn
lân la tới hỏi: .
- Đơn vị lớn của đồng chí ở đâu
?
- Trung đoàn của cháu đã đi
trước. Nghe nói bộ phận tiền tiêu bị biệt kích tiêu hao, có cả đồng chí Trung
đoàn phó trong số hy sinh.
- Ở sau đồng chí, còn đơn vị
nào thuộc trung đoàn của đồng chí nữa hay không ?
- Dạ, đơn vị pháo của cháu là
đơn vị đi sau cùng của Trung đoàn.
Ông Chín ngẫm nghĩ một chốc rồi
nói:
- Đồng chí là người chịu trách
nhiệm về cái nòng pháo đó và cả đơn vị của đồng chí trước cấp trên. Nếu đồng
chí để đơn vị tan rã, mất vũ khí thì giai cấp vô sản thế giới sẽ thất vọng ngay
vì có một cán bộ vô trách nhiệm như thế mà lại đứng trong đội ngũ tiền phong
của giai cấp. . .
Tôi và Năm Cà Dom nháy nhau che
miệng cười. Ông lập trường lại giở sách vô sản ra rồi. Giai cấp cái gì ? Bắt
con người ta è cổ ra khiêng thép khối như thế mà không cho cái gì đắp đầu gối
hết cả mà cứ ngồi ở trong nhà rượu thịt đầy phè, cứ khen “chiến sĩ ta vai đồng
chân sắt. ”
Tôi nói với anh Khẩu đội
trưởng:
- Anh cứ đi tới đi. Vô gặp
trung đoàn rồi báo cáo. Chứ quân số hao hụt như thế làm sao di chuyển cái nòng
pháo kia nổi ? Mà anh ở lại, coi chừng mấy thằng đánh anh hôm qua, chúng gặp
lại anh chúng thịt anh đấy nhé ! Lũ ấy nhất đinh sẽ trở thành phỉ chớ không có
trở về đơn vị nữa đâu.
Anh Khẩu đội trưởng lắng nghe
cả ông Chín và tôi, nhưng có lẽ không có lý do nào làm cho anh đi tới bằng cái
lý do tôi vừa nêu lên.Anh ta tàu bàu:
- Lính tráng gì khốn nạn thật !
Rồi Tấn dẫn đầu, cả đám người
vừa nam phụ lão ấu vừa đau vừa mạnh lôi thôi lếch thếch đi theo sau. Vừa được
ít bước thì đã đụng dốc.
Dốc gì dốc vậy chớ. Năm Cà Dom
đã chửi thề ngay:
- …. Tôi mà có phép gì tôi sẽ
san bằng hết tất cả núi non này ! – Mộtt chốc lại nói. – Tôi xin đổi cái dãy
núi này với một lon gạo, ai có đổi không ?
Tôi để cho Thu đi trước, tôi đi
kế tiếp, Năm Cà Dom, ông già Noël và ông lão lập trường đi phía sau. Còn anh
Khẩu đội trưởng lưỡng lự một chút rồi cũng đi theo luôn. Anh ta đi khặc khừ
trông đến thương hại. Có lẽ anh ta không dứt khoát với “cái đuôi ” là nòng pháo
nặng nhọc ở phía sau và với cái “đầu lập trường” là ông Chín.
Tôi nghĩ vậy mà đúng thật. Tôi
chú ý thấy ông Chín đi ít bước lại quay lại nhìn anh Khâu đội trưởng, như cật
vấn:
- Anh đi như thế, bỏ cái nòng
pháo lại cho ai ?
Dốc càng ngày càng đứng sững
lên. Thu đi rất khó nhọc vì trời mưa đường trơn mà lại phải trèo. Người đi
trước đã bẻ quặt nhữngcây nứa bên đường xuống để làm tay vịn cho những kẻ đi
sau bám đó mà trèo lên.
Tôi vừa đi vừa ngước cổ lên.
Không thấy gì cả, ngoài cái đít ba lô của Thu.
Cái đít ba lô và cái lưng… của
Thu nữa.
Lần nào tôi ngước lên thì mắt
tôi cũng chạm vào hai cái đó. Tôi bảo:
- Cố gắng lên em.
Thu không nói không rằng. Bước
đi nặng nhọc, day dứt. Sở dĩ tôi nói bước đi day dứt là vì tôi biết trong bụng
Thu không vui. Nếu không có tôi kềm cặp nàng thì chắc nàng không đi tới. Nàng
đã nhiều lần nói thật với tôi cái điều đó, không úp mở. .
Con sông vừa vượt qua chiều hôm
trước như một cái lằn mức tư tưởng của nàng. Nàng định tạm biệt tôi ở phía bờ
Bắc. Dù hai đứa có yêu nhau thì đành hẹn nhau một cơ hội khác, có lẽ ở kiếp sau
vậy. Còn trên đường đi này, yêu nhau là một cái tội, một cái khổ một cái nợ,
cái nần, hay bất cứ là cái gì không phải là cái vui.
Vì yêu nhau thì phải phí sức,
phí sức một cách tự nguyện, rồi lại còn phải phí sức vì những việc khác như
mang đồ đạc giúp , dìu dắt nâng đỡ v.v…
Nhưng Thu vượt qua bờ Nam của
con sông vô danh đó là vì một trận bom tơi bời. Cả trạm lẫn khách đi đường đều
phải tức tốc dời qua phía bên bờ Nam để ẩn náu. Vì thế Thu phải đi cùng với
tôi. Sang bờ Nam, Thu lại cũng định nằm lại tạm biệt tôi lần nữa. Nhưng ở bờ
Nam lại không có trạm, không có ai nhận Thu. Cho nên Thu lại phải đi vào với
tôi vượt con suối ác nghiệt vừa rồi và bây giờ thì trở thành chú rùa leo núi
trước mặt tôi đây.
Đấy, một con người ” đi giải
phóng miền Nam” với một tâm tư như thế đó, như thế đó mà lại đi giải phóng miền
Nam !
Tôi nhìn cái gót chân của Thu ở
ngay cái chót mũi của tôi. Trời, dốc đứng gì ác thế!
Anh giao liên đứng ở trên đầu
chúng tôi quát xuống:
- Đi cho chắc, ngã một cái là
rơi vào đầu người ở dưới đó nghe.
Tôi cũng biết điều đó, nhưng
khi nghe Tấn nói thì tôi càng sợ hơn. Hãy tưởng tượng một người ở phía trên rơi
xuống đầu mình với tất cả ba lô, đồ đạc, có khi cả súng . Rồi người ở dưới lại
rơi xuống . đầu người đi dưới nữa, thành ra hằng loạt người sẽ ngã ! Một sự
đồng loạt ngã !
Cái bàn chân của Thu cứ ở trước
mũi tôi . Tôi nhìn cái bàn chân của nàng như một cái mục tiều đề nhắc chân tôi
lên. Cái bàn chân thon thon nho nhỏ bị ràng trong nhũng sợi dây thun đen bó
riết lại làm cho làn da nhăn nhúm đi. Cái bàn chân đặt trên chiếc đế cao su
cũng đen và xừi xễ như nền tảng của sự đau khổ và của cái tương lai cũng đen
ngòm như màu cao su đó. Cái mà đôi chân ngọc ngà của Thu phải đặt lên, phải
bước lên, phải dẫm lên phải là cái nền nhung lụa, phải là gấm vóc, phải là trái
tim của những chàng thanh niên say đắm nàng. Đôi bàn chân ấy là niềm tự hào của
nàng, vì cái sự xinh xắn của chúng, vì cái tài hoa của chúng . Đôi bàn chân ấy
đã đưa nàng bay lên như đôi cánh vỗ mênh mông trong nghệ thuật.
Thế mà giờ đây, đôi chân ấy lại
bị bó riết trong những sợi cao su thô kệch, đặt trên cái đế cao su cứng và
chẳng có nhiệm vụ gì hơn là dẫm trên những mô đất nhấp nhô, trèo leo trên những
dãy đá tai mèo.
Đôi chân ấy chính là sự ước mơ
cháy bỏng của tôi. Đôi bàn chân như hai cái búp non bay lượn lung linh trên sân
khấu Hà Nội, trong sự hớn hở, chào đón của mọi người trong một giấc mơ ngắn
ngủi và thú vị. Trong một cơn mưa mù mịt dầm dề, tôi đã làm chủ của đôi bàn
chân ấy. Tôi ôm ấp chúng trong sự thỏa mãn hoàn toàn, vừa của tình yêu vừa của
nghề thuật.
Cho nên bây giờ trông thấy đôi
bàn chân ấy trơ trọi ra trần trần bằng thịt xương trần tục và bị đọa đày khổ sở
thì tôi đau xót khôn cùng.
Bất thần, tôi nắm chặt lấy cổ
chân nàng, nắm thật chặt làm cho nàng kêu lên và dừng lại. Nàng quay lại nhìn
xuống và nói:
- Em ngã bây giờ.
Tôi cười:
- Ngã đi ! Ngã đi !
- Em ngã thì anh chết !
- Em cũng chết.
- Nhưng mà anh chết trước em.
- Em chỉ chết sau anh một tích
tắc thôi.
- Như thế anh vẫn chết trước
em.
Tôi cười. Tôi nói tiếng chết
với nghĩa bình thường nhưng về sau tôi lại đâm ra dùng nó trong một cái nghĩa
thứ hai. Có lẽ Thu không hiểu cho nền tôi nhắc đi nhắc lại cái tiếng chết. Tôi
bảo:
- Thôi em đi lên đi rồi anh
theo kẻo người ta giục.
Mà thật, ông Chín ở phía sau đã
gầm lên:
- Đùa cái gì mà đùa giữa lúc
này ? Muốn hại mấy người đi sau hả?
Thu lại bướng lên. Tôi nói
tiếp:
- Phải rồi, con gái thì bao giờ
cũng chết sau con trai, phải không em ?
- Vâng đúng như vậy, em chẳng
bao giờ chịu chết trước anh.
- Nhưng nay mai anh sẽ có cách
làm cho em cùng chết một lúc với anh hoặc chết trước anh cho mà xem.
- Không ! Em nhất định không
chết trước anh ! .
Tôi cười ý nhị, có lẽ giọng
cười làm cho Thu sực nhớ ra rằng tôi dùng cái tiếng chết với ý nghĩa tân kỳ
hơn. .
Tôi nói:
- Em không nhớ có lần em chết
trước anh à?
- Anh chỉ bịa…
- Anh không bịa. Em không nhớ
cái lầ đó… ó… à ?
Thu lặng thinh. Có lẽ Thu đã
ngẫm ra cái nghĩa thứ hai mà tôi cố ý dùng một cách ý nhị. Thu lầm lũi đi, một
chốc mới quay lại nhìn chăm chú vào mặt tôi và nói:
- Em ghét mặt anh lắm.
Tôi cười:
- Ừ thì ghét. Tôi vừa nói vừa
nắm cái cổ chân nàng mà ghì xuống.
Nàng kêu lên:
- Ây chết ! Em ngã…
- Ừ ngã xuống đây, ngã đi nào…
Ơ kìa không dám ngã à ?
Thu càu nhàu:
- Anh nghịch ghê cơ.
- Ừ anh nghịch lắm cơ.
Cái tiếng “nghịch “cũng lại là
một tiếng chúng tôi hay dùng với nhau nhất là Thu hay dùng để cần nhằn tôi
trong những giây phút đặc biệt của nhau. Cho nên vừa dùng nó là Thu lại sợ tôi
lạm dụng nên nàng lặng thinh không nói gì nữa.
Anh giao liên từ trên nói
xuống:
- Cố lên ! Còn một cái dốc nữa
là tôi cho nghỉ xả hơi.
Tôi nghe ù ù như muốn vỡ màng
tai, mồ hôi vã ra như tắm. Hai chân tôi như sắp rời ra khỏi thân mình. Hai sợi
dây chằng háng như không còn sức co dãn để lôi hai chân tôi lên nữa.
Tôi bám từng nhánh cây, từng
thân cây một, từng hòn đá, từng mô đất một, để ghì lấy mà câu cả cái khối nặng
vừa thân thể vừa ba lô đồ đạc lên. Nhiều lúc tôi phải bò. Đúng là con vật đi
bằng bốn chân của thời nguyên thủy. Con đường gieo neo, vất vả và hai bên lúc
nào cũng có hố sâu vực thẳm. Tôi nghĩ. Cái gì cũng dẹp hết. Chỉ còn lại cái quê
hương nhỏ bé riêng tư của mình. Chỉ còn lại cái mái nhà xưa cũ của mình, trong
đó có hai mái tóc – ngày mình ra đi, hãy còn xanh, mà cho tới nay tôi cũng
tưởng là vẫn còn xanh nhưng với thời gian những máí tóc ấy đã bạc ra từ lâu vì
mong nhớ!
—>Chương 7
- 7 -
Cũng trên đường này một hôm tôi
ngồi nghỉ bên bờ suối, tôi móc túi ra lấy tấm ảnh của cha tôi ra đưa cho anh em
xem. Một anh bạn nói ngay với tôi;
- Anh giống in bố anh.
- Cả bên nội bên ngoại tôi đều
bảo thế. Tôi đáp.
Nhưng anh bạn tôi lắc đầu:
- Anh giống bố anh, chuyện đó
đã đành, nhưng tôi muốn nói là anh đã bằng tuổi bố anh trong ảnh này.
Tôi mới sực nhớ ra rằng mình
đâu còn trẻ trung gì. Vậy mà cứ nghĩ rằng mình còn ngây thơ khờ dại. Đúng như
lời anh bạn nói, hồi cha tôi bằng tuổi tôi bây giờ thì tôi đã mười sáu tuổi,
tôi đã học gần hết ban trung học Pháp rồi.
Còn tôi bây giờ mình trần thân
trụi, đi theo cách mạng hai mươi năm vẫn cái ba lô trên lưng với cái “chí lớn
ngang trời” đựng trong cái ba lô, nói thì cụ thể vậy mà mò mãi không đụng , tìm
mãi không ra và đốt đuốc tìm cũng không thấy.
Trên đời này có cái gì mà người
ta phải mất bằng ấy tuổi tác tháng năm để dốc sức đi tìm mà không thấy không.
Bemard Palissy thiêu đốt hết gỗ ván trong nhà nhưng đã tìm ra chất sơn. Cái
chất sơn đó bù lại sự khổ tư khổ tưởng của ông ta.
Gutenberg tìm ra được máy in,
Newton tìm ra luật hút của trái đất Và tất cả những nhà khoa học vật lý, triết
lý, không có ai phải mất nhiều công sức và thời gian như thế để tìm mà không
thấy le lói một tí ánh sáng nào.
Còn nhũng người đi trên đường
này, không phải quãng đường Trường Sơn mà là cả con đường này từ 1945 đến 1965
hai mươi năm chẳn, thấy cái gì ở cuối đường ?
Phải chăng:
- Vách đá không nấc thang.
- Suối sâu không cầu.
- Sông rộng không đò toàn những
trở ngại không có phương tiện để vượt và:
- Gạo không có, thuốc cũng
không, sốt rét triền miên.
- Muối không đủ ăn, súng nặng
như núi.
- Quai dép đứt hết, áo quần
rách ra và ở trên đầu thì luôn luôn dội xuống, nào:
- Quyết tâm chiến thắng.
- Nghị quyết nọ, nghị quyết
kia.
- Lời kêu gọi của ông này ông
nọ, anh Ba, anh Tư. Tôi lượt kê ra đây những ” món ” mà tôi tổng kết trên con
đường vinh quang này,dành riêng cho mỗi chiến sĩ, đó là chưa kể những thứ bệnh
tật và thiếu thốn kỳ cục khác xảy ra bất kỳ. Đó, một con người đi trên con
đường này gánh trên vai đội trên đầu mang trong lòng bằng bao nhiêu thứ đó, thì
đi “giải phóng ” miền Nam bằng cái gì ? Và bao giờ thì giải phóng xong ?
Cho nên tôi nhiều đêm nằm giữa
sự lặng im ghê rợn của núi rừng nghĩ đến cái ngày mai của mình, mà ớn lạnh. Nó
là:
- Sốt rét.
- Dốc đèo !
Không có gì khác hơn. Nếu có
cái gì khác hơn thứ đó là cơn sốt rét nặng hơn, dốc đèo cao hơn. Thế thôi.
Và kiểm điểm lại cái quyết tâm
còn sót lại của mình:
- Về để gặp lại gia đình. Đó là
ý nghĩ cao siêu nhất sau hai mươi năm trời đi làm cách mạng của tôi.
Đi tìm cái gì cho xa xôi, khi
cái mà mình đi tìm thì mình đã có ngay ở bên cạnh mình.
Chủ nghĩa Cộng Sản tối kỵ với
chủ nghĩa cá nhân. Cho nên chủ nghĩa Cộng Sản không bao giờ thực hiện được. Bởi
chừng nào còn con người thì còn chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ có thể
bị diệt vong khi trên mặt đất này chỉ còn có một con người mà thôi. Cho nên
không thể có chủ nghĩa Cộng Sản khi còn loài người.
Con người ! Đó là một sản phẩm
vừa xấu vừa tốt và Bất Diệt. Còn lại trong tôi cái gì riêng tư, cá thể, sau hai
mươi năm đi tìm cái thế giới Đại Đồng.
Và quanh tôi là gia đình của
tôi, cha mẹ anh em tôi. Làm người ai cũng muốn vươn lên sống có lý tưởng, nhưng
lý tưởng không phải là không tưởng. ”
Lý tưởng nào rồi không dẫn tới
việc ăn ngon mặc đẹp ? Vậy thì người đã có sẵn những điều đó rồi, còn đi tìm
cái gì ? Tôi cảm thấy chủ nghĩa Cộng Sản không hợp với cá nhân tôi từ khi tôi
biết rõ bộ mặt thật của đảng, sau một thời gian ngần đi kháng chiến, hay nói
cho cẩn thận hơn là vài năm, qua tác phong và đạo đức của một số lãnh tụ.
Tôi vốn sinh trưởng trong gia
đình không thuộc thành phần “lý tưởng” và tôi lớn lên cũng không cùng với giai
cấp “lý tưởng. ”
Vô đảng là một sai lầm của tuổi
trẻ, một sự sai lầm to nhất và nó đáng giá bằng sự mất mát cả tuổi thanh xuân ,
một sai lầm không thế sửa chữa được.
Nhiều kẻ đã chạy theo một thời
trang, một tiện nghi, một kiểu cách (mode) chớ không phải đi theo lý tưởng
nhiệt tình. Vì ai cũng thừa biết rằng có đảng thì mới mong lên chức được mà
chức tước, ở chế độ nào cũng vậy, nó đi đôi với nồi gạo túi tiền. Vậy xin hỏi
câu hỏi có vẻ thô lỗ, thử xem sao: “Anh vô đảng vì đảng hay vì tiền ? ” trong
đảng có bao nhiêu đảng viên vì đảng, có bao nhiêu người vì tiền mà luôn luôn bô
bô cái mồm vì đảng !
Tôi còn nhận thấy ở một cơ quan
văn hóa nọ, khi kết nạp đảng viên mới thì toàn những bồi bếp, gác cổng được chú
ý còn trí thức mài mòn hết cả trí óc vì phục vụ chánh sách đường lối của đảng
thì lại bị cho lùi ra xa, vì thành phần của họ không “cơ bản”.
Tôi tin chắc có rất nhiều người
không thấy vinh quang gì khi được mang cái danh hiệu chiến sĩ tiền phong của
giai cấp vô sản Nhất là học sinh. Họ vô đảng không phải vì tiền, cũng không
phải vì đảng và cũng phải chạy theo cái “mốt” nào cả, vì lúc bấy giờ họ chưa
biết vô đảng là một cái “mốt”. Vậy xin hãy nói thằng ra rằng đa số người vô
đảng là vì không hiểu đảng là cái gì hết’
Sau khi kháng chiến được năm
năm (1951) tôi đã bỏ cơ quan đi về Sàigòn nhưng rủi thay trên đường đi tôi lại
gặp anh bạn thân mà sẽ có dịp tôi nhắc tới sau này cản tôi lại. Không phải vì
lập trường mà vì tình cảm bạn bè với nhau, tôi đã nghe theo anh bạn này cũng
không phải vì lập trường mà vì tình bạn. Vì không đi được cho nên năm 1954 tôi
phải đi tập kết.
Và cũng nhờ trời đất phù hộ cho
nên sau mươi hai năm ly biệt quê hương tôi đã về Nam ở vùng châu thổ sông Cửu
Long. Tôi vẫn viết. Tôi viết hơn hai ngàn trang truyện và tiểu thuyết, chẳng
đảng nào ngó ngàng tới cả, trong vòng ba năm. Tôi thấy không sao, không mất mát
gì, nghĩa là vẫn vui vẻ, không khổ tâm vì không được đảng chú ý, chỉ khổ tâm vì
không có tiền mua gạo. Tôi mới rút ra kết luận: nếu không là đảng viên, người
ta vẫn cầm bút không hại gì cả mà lại càng được tự do hơn.
Nhưng thôi, tôi không kể lể dài
dòng. Lìa bỏ chế độ Cộng Sản để đi sống bất cứ chế độ nào khác, tôi cũng không
mảy may tiếc rẻ. Đó là một sự may mắn cho cả tôi lẫn đảng.
Trên cái con đường mà tôi đi –
mà người ta nói là đi lên chủ nghĩa xã hội – thiên đường của thế gian, tôi chỉ
là một kẻ bộ hành bất đắc chí.
Cứ mỗi bước đi, tôi lại suy
nghĩ, lại dằn vật, tiếc rẻ, ân hận. Tôi càng leo lên cái dốc núi đứng sững này
thì tôi càng cảm thấy tôi đi xuống, hay tôi chỉ leo lên thật cao để rồi lao đầu
xuống vực thẳm.
Thu càng leo càng ục ịch, chậm
chạp, càng thở ra, càng chắt lưỡi. Tôi biết rõ Thu muốn dừng lại từ bên kia bờ
con sông vô danh chi đó. Sang sông vào một buổi hoàng hôn hỗn mang không tả
xiết và khi vừa lên bờ là phải cắm đầu chạy khoảng bốn cây số để vượt cái vòng
đai trắng chất độc, cho nên Thu lại cũng không thể nằm lại mà phải cuốn võng
theo tôi. Chứ nếu Thu nằm lại (để làm “bê quay”) thì anh trạm trưởng sẵn sàng
chứa chấp cô nàng vì anh ta nom chừng đã có ý định với cô nữ văn công rồi!
Cho nên càng đi vào thì Thu
càng khổ tâm vì khó lòng làm bê quay được nữa. Trên mặt đất thì Thu đã vượt cái
lằn mức phân ranh Nam Bắc như tôi vẫn nói, nhưng một cái Bến Hải thứ hai, còn
trong tâm tư thì con sông đó vẫn cứ ở trước mặt Thu, mà Thu tưởng không bao giờ
vượt nổi. Bỗng Thu ngừng lại và ngó xuống:
- Dốc gì dốc thế này anh!
- Thi dốc núi chứ còn dốc gì ?
Tôi phát cáu, trả lời cộc lốc. Đi cố lên kẻo ở đằng sau người ta quát cho.
- Ai giỏi thì lên trước, chứ em
không đi mau được.
Tôi lặng thinh.
Thu tiếp:
- Em muốn làm cái đèn đỏ sau
lái xe và cuối cùng tắt luôn chứ em đâu có muốn làm cái đèn pha phía trước.
Tôi không nói nữa. Vì leo dốc
mà càng nói thì càng mất sức huống chi lại những chuyện không bồi dưỡng gì cho
tinh thần. Tôi nhìn hai ống chân của Thu.
Mồ hôi tuôn xuống ròng ròng
đọng trong lòng dép đẫm ướp cả bàn chân như Thu vừa mới lội dưới nước lên. Ở
phía sau, phía dưới tôi là một lũ rùa, đúng là rùa leo núi. Ông Chín với đám lá
ngụy trang bảo thủ sum suê như một cái bụi cây lào xào rung động, ông già Noël
với hai chiếc gậy nhưng trên cái dốc này thì cặp gậy hầu như vô ích không dùng
vào đâu được, nên ông ta phải dùng cả hai tay để bám vào rễ cây, để bò như hai
chân. .
Các bạn độc giả thử nghĩ đùm
cho tôi xem những người lính phải khiêng cái nòng pháo đi trên con đường này
thì họ phải đứng làm sao? Khi mà cái gót người đi trước bao giờ cũng suýt chạm
vào mũi người đi sau đi sau, hay người đi sau luôn luôn bị đe dọa bằng cái tai
nạn là người đi trước nếu sút tay sẽ nện nguyên cặp mông lên mặt mình.
Anh giao liên Tấn đứng trên một
cái rễ cây ngất ngưỡng ở phía chót vót trên đầu tôi. Anh ta đứng dạng háng ra,
tay chống nạnh tay ngoắc lia:
- Nhanh lên ! Nhanh lên !
Thu cố bường lên và đưa tay cho
anh ta. Anh ta xoạc hai chân ra thật rộng, rồi một tay bám chắc vào một cái rễ
ở phía sau lưng, một tay thòng xuống cho Thu.
Thu đưa hai tay lên bám chặt
vào đó. Anh giao liên cố rút cái khối vừa bằng thịt xương vừa bằng vải vóc sắt
nhôm đó lên, như kéo cả một quả núi.
- Hè ! Anh giao liên hô lên.
- Hè ! Thu cũng đáp lại để hợp
đồng hai cái lực kéo và bật . Cả hai cùng đem hết sức kéo và đu người lên. Tấn
đã thành công trong việc lôi tuột Thu lên. Thu nằm soài ra trên đất.
Tôi cũng đến nơi. Tôi ngắm
nghía mãi không thấy có cách nào khác giúp mình leo lên bằng cái cánh tay của.
Tấn. Nhưng Tấn đã lắc đầu. Tấn nói:
- Không được đâu anh. Anh nặng
lắm ? Tôi lôi anh lên không nổi đâu mà tôi sẽ cắm đầu xuống hố.
Tấn đi đi lại lại mãi mà không
có cách nào giúp tôi. Còn tôi thì cảm thấy mình không thể trèo nổi một bước nữa
để vượt lên trên cái mặt phẳng ở ngay trước mũi đó.
Bỗng Tấn đứng sát mép đá và
nói:
- Anh bám lấy cổ chân tôi đây
này ? Được không ?
Tôi giơ tay lên bám thử vào và
nói:
- Tôi sợ cậu chịu không nổi.
Cái chân sẽ như cái cây trốc gốc.
- Thế thì chịu.
- Để tôi coi ? Năm Cà Dom ở
phía sau bò trườn lên trước mặt tôi và đưa hai tay bám vào mép đá cất bổng mình
lên một cách nhẹ nhàng. Đứng lên ngay, Năm Cà Dom quay lại bảo:
- Nắm tay tôi đây !
- Chắc không ?
Vút cái là Năm đã lôi bật tôi
lên. Và vút vút! Năm lôi lên một hơi mấy người nữa, trong đó có cả ông Chín và
ông già Noël. Hai người này ngồi phệt dưới đất gục đầu vào hai đầu gối mà thở.
Trông ông Chín tôi càng thương
hại. Mà nhìn ông già Noël tôi càng thương hại hơn. Hai người này rồi sẽ đi làm
sao?
Đầu gối ông Chín thì đã sưng
lên, còn cặp giò của ông già Noël thì chỉ còn lại như hai cái cọc màn, không
hơn không kém.
Đá tai mèo đã róc hết thịt
xương trên cặp chân tươi trẻ này, đã biến chúng thành cặp chân hương (nhang)
tưởng như không còn chống đỡ nỗi cái thân cò lép của anh ta.
Tấn nói:
- Bây giờ nghỉ xả hoi một chốc
đi. Chờ phía sau đi tới.
Người nào người ấy rũ ra, không
còn ai muốn nói chuyện gì, chỉ có bác sĩ Năm Cà Dom là tươi tỉnh hồn nhiên.
Năm Cà Dom nói:
- Bây giờ mà có một ly nước
chanh he!
Không ai nói gì.
Năm Cà Dom không cần thiết sự
hưởng ứng của những người nghe. Năm Cà Dom cứ thản nhiên nói tiếp:
- Leo cái dốc này bằng đá một
trận banh ở làng, trên một cái sân đầy lỗ chân trâu. Đá thì rất ẩu, còn cái sân
thì lúc nào cũng sẵn sàng bẻ lọi cặp giò mình bằng những lỗ chân trâu đó.
Năm Cà Dom cười hề hề:
- Nhưng có một điều rất khoái
chí là hễ đờ-mi-tăng là có nước chanh uống. Một thùng nước chanh vĩ đại được
khiêng ra tận sân cỏ cho cầu thủ. Cầu thủ uống đã đành, mà những tay ba xạo
cũng nhảy vô ăn ké làm một vài ly dễ dàng. Bây giờ mình không ước mong cái
thùng nước chanh đó mà mình chỉ mong sao được một cái mẩu vỏ chanh thả lêu bêu
trong thùng nước. Mình vớt ra bỏ vô miệng ngậm thì đỡ mệt xiết bao phải không
các bác?
Nghe cái hơi nước chanh của Năm
Cà Dom mang đến tận miệng, mọi người như tỉnh ra dần. Năm Cà Dom nói tiếp:
- Có những trận đá banh cầu thủ
được đãi dừa nạo! Trời đất ơi! Bây giờ bất ngờ tôi mới nhớ tới trái dừa của xứ
Nam Kỳ, trái dừa không ở đâu trên đất nước mình có được. Nó bổ thấu mây xanh
đi! Các bạn nghĩ đang mệt mà uống một quả dừa xiêm có vắt tí chanh thì đã vô
cùng!
Nước dừa xiêm hồi thời kháng
chiến chống Pháp, chính tôi đã từng dùng thay cho xê-rum, tiêm vô mạch máu kia
mà! Nhưng nên nhớ trái dừa bẻ ra khỏi buồng dừa không nên quăng nó xuống đất vì
có thể cơm dừa vỡ ra pha lẫn trong nước tiêm vô máu không tốt, mà phải cắn cái
cuống của nó đem xuống đất. Nước dừa thật là tinh khiết, tiêm vào có thể bồi bổ
cơ thể ngay.
Tôi thầm nghĩ:
- Thằng cha bác sĩ này thiết
thực và tâm lý vô cùng. Nó ném ra câu chuyện nào cũng đúng lúc, đúng tình cảm
con người… mỗi câu chuyện như điểm một cái vô yếu huyệt tình cả.
Trái dừa Nam Bộ được nhắc đến ở
đỉnh dốc Trường Sơn này và trong cơn khát cháy cổ họng phải chăng đã làm dịu đi
cơn khát?
- Thôi nhé! Uống dừa xong, bây
giờ tiếp tục đi! – Tấn bảo.
- Đi thì đi, sợ gì? – Năm Cà
Dom nói.
- Nhưng kìa anh Tấn, anh lính
gãy chân đâu rồi?
Mọi người mới sửng sốt, quay
lại nhìn không thấy đoàn cáng anh lính gãy chân đâu nữa. Cả anh Khẩu đội trưởng
cũng không thấy ở đây.
Tấn nói:
- Thì hồi nãy thấy họ cũng theo
sau mình mà!
- Họ đi nhưng vất vả lắm.
- Anh có nhớ lúc nào không thấy
họ theo mình nữa không?
Tôi đứng sựng ra một chốc rồi
nói:
- Tôi nhớ là… hình như là…
Năm Cà Dom cướp lời tôi:
- Hình là hình như gì. Lúc mà
chuyển qua cái rễ cây lủng lẳng ở trên vách núi đó, nhớ chưa? Nhớ rõ chưa? Đến
cái chỗ đó thì đường tắt không còn lối đi nữa, mà muốn đi tiếp phải níu cái rễ
đó. Trời đất ơi! Đường đi gì bất nhơn sát đức vậy? Phải níu vào cái rễ tòng
teng đó, không biết nó có đủ sức treo mình không. Mà thấy người trước đánh đu
sang được thì mình cũng cứ làm theo.
Cha chả! Có hai sự nguy hiểm.
Một là mình sút tay. Hai là cái rễ đó đứt đi. Rơi xuống hố thì có ngớu xương,
không lượm được một miếng thịt.
Như vậy thì làm sao mà cái đám
cáng đưa anh lính gãy chân qua chỗ đó được? Hoạ may có cánh?
Tấn đứng lặng thinh ra vẻ suy
nghĩ. Có lẽ trong lúc đi vừa nhọc vừa cố gắng leo trèo cho nên anh ta đã quên
khuất đi những người xấu số đó.
- Bây giờ các anh ngồi đây chờ
tôi nhé. Tôi trở lại tìm xem. Khổ hết sức.
Năm Cà Dom nói:
- Cậu biết trước con đường này
hiểm trở như vậy sao còn để cho họ đi.
- Không đi thì nằm lại đó à?
- Chớ sao!
- Nằm lại đó, ai chịu trách
nhiệm?
- Vậy chớ họ nằm cả đêm qua ở
ven suối thì ai chịu trách nhiệm. Chẳng có ai chịu trách nhiệm về họ cả. Chẳng
phải cậu, mà cũng chẳng phải tôi.
Tấn lặng thinh. Tấn đưa tay lên
cào đầu lia lịa bằng năm ngón tay xoè ra như cái bừa cào, như để xua đi mọi sự
rối rắm trong đầu.
- Tôi muốn bỏ phứt mẹ nó đi cho
rồi.
- Cái đó tùy cậu.
- Tôi đi chuyến này về là xin
nghỉ luôn.
- Cái đó cũng tùy cậu nốt.
Nói xong, Năm Cà Dom tìm chỗ
mắc võng rồi ngả lưng ngon lành.
Bao giờ nghỉ xả hơi, tôi cũng
để ý xem cái chân đau của Thu, nhưng ít khi tôi dám nhắc tới cái vết thương đó.
Nó vừa là vết thương vừa là vết thương lòng.
Động tới nó, Thu vừa đau lại
vừa đau trong tim…
—>Chương 8
- 8 -
Tôi bảo Thu:
- Em chuẩn bị đi, sắp tới chỗ
có vắt rồi đấy!
Thu hỏi lại tôi:
- Vắt là cái gì anh?
- Trời đất! Em hỏi thiệt hay
hỏi chơi?
- Em hỏi thiệt mà. Em không
biết vắt là gì?
- Em biết con đĩa không nào?
- Dạ không ạ!
- Con đĩa mà em cũng không biết
à?
- Em không biết thật.
- Em chưa bao giờ lội ruộng à?
- Dạ… hình như chưa bao giờ.
- Trời đất ơi! Đúng là nàng
công chúa chuyên môn sống trong lầu son gác tía. Em không lội ruộng, nghĩa là
sao? Chính tôi, tôi cũng không hiểu được việc đó.
- Em thú thật với anh là em
chưa rời Hà Nội một ngày nào, có chăng thì cũng chỉ đi bằng xe hơi, tàu hoả. Xe
tàu chạy băng băng qua những cánh đồng xanh mát mắt. Và em cũng thấy vui như
trong bài hát Tiếng Vọng Đồng Quê: “Cây xanh lá xanh trời xanh, chim líu lo
trên cành, lom khom người đang cấy…” thế thôi!
- Chết chữa!
- Thú thật với anh đây là lần
đầu tiên trong đời chân em lội xuống bùn.
Tôi cười:
- Thôi được rồi, để anh giải
thích cho em hiểu “vắt” là con gì nhé !
- Dạ vâng!
- Vắt là một loại sâu bọ, nó có
thể cắn và hút máu mình từ ba đến năm phân khối một lúc.
- Eo ôi ! Khiếp thế!
- Ồ, anh nói thật mà ! Để chốc
nữa rồi xem. Nó đeo trên mình mà cắn có khi hằng hai ba tiếng đồng hồ mà mình
không hay biết gì hết. Đến chừng mình hay gỡ nó ra được thì nó no căng ra bằng
ngón tay, chích một cái thì máu xịt ra đỏ tươi.
- Nó có nhiều không anh ?
- Nói đến vắt thì phải nói như
muỗi vậy. Nghĩa là vô số.
-Eo ôi!
- Nếu qua một vùng có vắt thì
nó đầy đàn như mạ gieo, ở dưới đất có đã đành, trên nhánh cây cũng đầy hết.
- Vậy làm sao đi?
- Thì cứ đi bừa qua thôi… Đặc
điểm của nó là chui rúc vào những chỗ hiểm hóc khó trông thấy.
- Eo ôi khiếp!
Năm Cà Dom đang lim dim ngủ
bỗng lên tiếng:
- Con vắt lợi hại lắm đó đồng
chí văn công ạ ! Liệu liệu mà đề phòng. Nó nguy hiểm hơn cả cọp beo và rắn rết.
Mồm nó có bộ răng hình ba chia. Sở dĩ tôi biết rõ vậy là vì tôi bị vắt cắn rất
nhiều. Sau khi gỡ nó ra lau sạch máu ở da mình, tôi trông thấy rõ cái dấu răng
ba chia của nó in rõ nét bằng sợi tóc như khắc trên da mình . . Cái vết thương
nhỏ thế mà máu mình chảy ra rất nhiều.
Năm Cà Dom ngồi bật dậy và
tiếp:
- Tôi nghe có một đồng chí bị
vắt cắn, chẳng may lại bị cắn ở cổ mà lại trúng nhằm động mạch. Chú vắt cắn no
rồi thì buông tay rơi xuống. Vết thương cứ chảy máu, cho đến lúc quá nhiều đồng
chí kia ngất đi không ngồi dậy nổi. Sau đó nghe nói đồng chí đó chết, không
biết có đúng vậy không ?
- Có thật không anh ? Eo ôi !
Khiếp quá, làm sao em đi được ?
- Nghe câu chuyện thì cũng có
lý, vì động mạch bị thương thì máu chảy rất nhiều, mà hễ máu chảy nhiều thì
ngất xỉu. Cái đó dễ hiểu thôi. Trong lúc mệt quá, lại ngủ say không hay. Cũng
có thể chết lắm !
Thu ngồi nghe chuyện mà cứ “eo
ôi” từng chập một.
Tôi sực nhớ một câu chuyện thời
kháng Pháp của cô nữ sinh thuộc nữ học đường Gia Long vừa mới ra bưng biền Đồng
Tháp kháng chiến. Một hôm tôi dắt cô bạn ra đồng để hái rau về ăn mắm. Cô đang
lội , bỗng một chú đĩa trâu to bằng ngón tay cái đeo vào bắp chân. Cô bạn hốt
hoảng quá, không biết làm sao gỡ nó ra. Cô cứ giơ bắp chân lên mà la bài hãi.
Tôi chạy tới, nhưng không kịp.
Sẵn con dao trong tay, cô bạn
chặt đại vào con đĩa. Con đĩa thì còn nguyên, nhưng da cô bị đứt một đường rất
sâu. Tôi phải xé áo băng cho cô bạn và cõng cô ta về nhà.
Tôi kể câu chuyện đó cho Thu
nghe. Tôi chủ quan tưởng rằng đó là một câu chuyện vui giải trí lúc mệt nhọc,
chẳng ngờ nó làm tăng sự sợ hãi đối với Thu.
Tội nghiệp, Thu cứ lo lắng hỏi
mãi về tai hại do con vắt có thể gây ra. Tôi phải nói ngược lại. Tôi nói:
- Nói chơi vậy chớ chẳng ăn
thua gì. Mình lại đi sợ con vật bé tí ti hay sao ?
Thu ngồi tần ngần ra, vẻ mặt vô
cùng thiểu não. Tôi trông Thu mà thương hại vô ngần.
Cái thân nam nhi của mình thì
dầm mưa dãi nắng chi chi cũng được, xơ xác rách nát ra xem cũng không đến nỗi
nào, nhưng một người con gái đẹp mà tung vào rừng núi thì phí phạm quá. Ví như
ta đốn một cây kiêng quý đã uốn hình con rồng, con phượng làm củi chụm nấu tấm
cho heo ăn vậy.
Tôi biết giờ này Thu bước đi
trong đoàn cùng với tôi về phía Nam nhưng con tim của Thu thì lao ngược về phía
sau, tìm đường về Hà Nội.
Có lẽ Thu ân hận về những tình
cảm có lúc xốc nổi của mình. Tuổi trẻ sao tránh khỏi được tình cảm đó, nhất là
khi nó được phỉnh nịnh tâng hót bằng những lời ca ngợi xúi giục và hứa hẹn?
Ghê gớm thay cho miệng lưỡi con
người !
Rồi khi đổ người ta vào con
đường này, họ hầu như không còn trách nhiệm gì nữa.
Riêng tôi thì dù cái chết ở
trước mắt, tôi cũng phải cố gắng mà đi. Tôi không chịu đựng được một cuộc sống
gò bó, bực bội và ngạt thở nữa. Tôi phải đi về xứ sở, nguyên quán của tôi. Tôi
là cây dừa. Tóc tôi là lá dừa. Da thịt tôi là sớ thịt cây dừa. Máu tôi là do
nước dừa kết tinh. Chân tôi có triệu ngón bám vào đất như những mẩu rễ dừa muôn
đời ăn sâu vào đất. Tôi đứng giữa quê hương tôi, chân lún giữa bãi phù sa của
dòng sông Cửu Long thắm đỏ máu tiền nhân và đồng đội, tóc dừa tôi xanh lên vì
gió nắng màu mỡ đầy sinh tố vùng nhiệt đới của quê hương Miền Nam.
Thân cây dừa kết thành chiến
lũy ngăn những vàm sông chống giặc ngoại xâm, trái dừa trở thành những chùm bom
rụng xuống đầu giặc những năm kháng chiến chống Pháp. Dừa đã trở thành một
giống cây thiêng liêng cao quý tượng trưng cho đất nước trù phú, cho con người
bất khuất.
Tôi lớn lên giữa những hàng
dừa. Tôi mang trong tôi khí tiết của Cây Dừa. Hay tôi chính là cây dừa.
Tôi không thể mọc lên, xum xuê
hoa lá ở một cái đất núi non. Không ai đem cây dừa lên núi mà trồng cũng như
không ai đem nứa mà cặm xuống nước mặn. Một giống cây có mảnh đất riêng của nó
huống chi là con người.
Cho nên tôi dù có chết tôi cũng
đi về.
Có lẽ ông già Noël, ông Chín,
Năm Cà Dòm tâm trạng như tôi. Đi xa nhà xa cửa lâu quá mà, anh cố trung với
đảng hiếu với dân mãi ư? Anh sẽ trở thành đứa con bất hiếu, người chồng bất
nghĩa và người cha vô trách nhiệm. Cái luân lý thông thường nhất đối với người
Việt Nam là phụng thờ cha mẹ, nuôi đay con cái, bảo bọc vợ hiền, mà mỗi người
đi tập kết đều không làm được, còn nói chi đến những chuyền cách mạng ( !) đâu
đâu.
Tôi thèm một cách ghê gớm được
trở lại nhà, đi trên bãi cỏ đầu ngõ nhà nhặt những lá khô ở thềm nhà. Tôi muốn
được ngồi ăn cơm với cha tôi với mẹ tôi ở chiếc bàn đó, ở căn nhà đó, chắc nay
đã xiêu vẹo … nơi tôi đã từng ngồi ăn những bữa cơm bình thường nhất trong đời,
nhưng từ khi tôi xa nhà thì tôi không còn tìm ở đâu ra những bữa ăn như vậy nữa
.
Cái việc làm cao quý nào cũng
phải mang lại kết quả tốt đẹp cho con người không sớm thì chầy. Ở đây những
người chịu đựng quá nhiều mất mát hầu hết, cả tuổi thanh xuân, mong được hưởng
một lạc thú nho nhỏ về gia đình, nhưng cũng không có.
Những người Nam trên dưới bốn
mươi tuổi đi trên đường này đều là những người xa vợ trên mười năm hoặc chưa có
vợ. Hai hạng người này đều mong về tận quê nhà, có phải chăng để hy sinh cho
giai cấp ? Hãy lắng lòng lại mà trả lời.
- Không !
Giai cấp thuần nhất là một sự
bịa đặt, một điều chỉ có trong sách vở. Thực tế thì chẳng có bao giờ. Vì trong
giai cấp lại có giai cấp, rồi trong những giai cấp đó lại có những giai cấp
khác nữa.
Vậy thì cái mục đích của họ đi
về Nam, bị bao bọc bên ngoài bằng một cái lớp áo đấu tranh và bị hiểu lầm!
Tôi suy từ tôi mà ra điều đó.
Vô số người Nam tập kết bốn
mươi tuổi chưa vợ? Thật vậy mà!
Những người này bôn ba “về
nước” là để cưới vợ. Họ đã cắn răng chịu đựng những trận mưa phùn những ngày
nắng hạ những giông bão cùng những buổi đẹp trời là để thực hiện cái câu “ta về
ta tắm ao ta, trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta”.
Bởi vì họ đinh ninh rằng ở miền
Nam những thiếu nữ mơn mởn đào tơ trong “những vùng giải phóng rộng hơn những
vùng giải phóng thời kháng chiến chống Pháp” luôn luôn mơ tưởng như Joséphine
mơ Nã Phá Luân, như Ngọc Hân mơ Nguyễn Huệ vậy.
Tội nghiệp thay, họ vẫn bị lừa
một cách rất khôn ngoan và rất chánh trị. Có ai đâu mơ những mái tóc hoa râm ?
Trừ những mụ nạ dòng?
Ấy đó kết quả thiết thực là
nhiều đoàn người vì ở rừng cho nên vẫn không tìm ra vợ, một số người thì “hốt
ổ” hai, ba con là sự thường!
Cuộc đời, trong khái niệm thời
gian thì đi nhanh như vó câu qua cửa số, còn trên dãy Trường Sơn này thì nhịp
độ chậm chạp dềnh dang ghê gớm. Người ta có cảm giác rằng mình đang dẫm chân
tại chỗ, và lún xuống giữa những đồi cát sa mạc của bệnh tật và bi lụy.
Cậu giao liên Tấn đã trở về.
Cậu ta lắc đầu nguẩy nguậy:
- Các cha non đi đâu mất hết
rồi !
- Đi đâu được mà đi ?
- Ai biết . Ai có chân nấy chớ
!
- Nhưng chân nó gãy, nó đi là
nhờ chân người khác ?
- Chân ai thì chân, nhưng nó không
còn ở chỗ đó nữa.
Tôi hỏi:
- Cậu đã trở lại đến chỗ bờ
suối đó à ?
- Chớ sao !
- Sao nhanh vậy kìa !
- Tôi nói gian cho bà móc nhãn
tôi mà !
Rồi Tấn nói tiếp:
- Dắt các anh tôi phải chờ, chớ
từ đây tới bờ suối đâu có bao xa. Đường chim bay không đến hai cây số. Nhưng vì
leo lên tuột xuống, đi chậm hơn rùa mà lại mệt nhọc kinh khủng cho nên tưởng
như mình đã đi hằng chục cây số vậy. Hồi tôi mới ra đây, đi trên đường này tôi
cũng có cảm giác như các anh vậy thôi.
Tấn nói tiếp:
- Cái nòng pháo họ đã đưa tới
bờ suối rồi. Tôi bảo họ đi cùng tôi Nhưng họ đã không đi, lại còn chửi tôi như
chửi chó. Họ bảo tôi là vô nhân đạo chọn cái con đường thất âm đức như vậy mà
bắt họ khiêng pháo đi.
Tôi vọt miệng hỏi:
- Bộ không có con đường nào
khác hay sao cậu ?
- Chắc anh tưởng bổ khỏe cho
tôi lắm sao ? Tôi sướng ích gì mà dắt các anh đi con đường mẹ rượt này chớ !
Tôi lại hỏi tới:
- Sao không tìm con đường nào
khá khá hơn.
- Tôi đã bảo với các anh là
không có con đường nào khác mà !
Tôi lặng thinh.
Tấn bảo:
- Bây giờ thì mình đi chớ. Liệu
đi sớm đi. Chiều là bị mưa đó. Mưa xuống là vắt nó ra nó đón đường không qua
nổi nhé các ông các bà!
- Đi thì đi.
Thu biết lo xa nên Thu đi
trước. Rồi kế tôi đi sau.
- Có dốc không anh ? Thu hỏi
cậu giao liên.
Tấn nói:
- Dốc cao dốc thấp, dốc đứng
dốc lài, dốc nhiều dốc ít, dốc nguy hiểm nhiều hay nguy hiểm ít, chớ không chỗ
nào bằng phẳng bước sướng chân được mười lăm hai mươi bước.
Bỗng Tấn quay lại:
- Có vắt rồi đấy nhé !
Rồi Tấn dừng hẳn lại bảo:
- Các anh chuẩn bị xem cái ống
bồ hòn của mình đi. Còn chị văn công thì phải túm ống quần lại cho chắc, buộc
nhiều nận. Không thì… nguy hiềm đấy.
Thu bỏ ba lô xuống, lấy dây
trong ba lô ra, lấy cả đôi tất ni-lông màu da người mỏng dính. Có lần Thu đã
cho tôi xem và khoe rằng lúc đi Stockholm biểu diễn Thu đã mang đôi tất cao này
chống lạnh và mua nó ở Hà Nội mất chín đồng bạc nghĩa là bằng nửa tháng lương
tối thiểu của một công nhân.
Thu sợ vắt quá nên Thu dùng cả
đôi tất quí này để chống vắt. Thu mang vào. Chao ôi ! Cặp chân ngà trắng muốt với
những đường nét mềm mại vô cùng lại được bọc trong một lớp ni-lông mỏng dính,
làm cho sự tưởng tượng của người trông thấy nó càng tăng lên gấp bội. Vâng, cái
gì mơ màng mơ hồ thì người ta phải tưởng tượng, phải ước mơ, nhất là nó vừa
hiện ra đó, nó lại biến đi như lẩn khuất sau tấm màn sương mỏng.
Thu mang tất xong, buông hai
ống quần xuống, và nghe theo lời của anh giao liên, Thu lấy dây buộc từng chặng
từ dưới mắt cá lên đến đầu gối như bó bánh tét.
- Được đấy thế mới chắc ăn. Còn
ống bồ hòn đâu chị ?
- Sẵn đây rồi !
- Các anh nhớ nhé. Sắp sửa đánh
nhau với lũ vắt đấy ! Để rồi xem ! Khiếp lắm !
Rồi đoàn người lại đi. Tấn giải
thích:
- Trước kia, đúng ra là chỉ có
một khu rừng bề dài độ hai cây số có vắt thôi. Qua nhanh cái là xong. Nhưng bây
giờ nó lan tràn ra rồi. Cái trận địa vắt dài gấp ba gấp bốn lần. Là vì những
đoàn từ Bắc vào Nam, khi đi qua khỏi khu vực này đã mang theo một số vắt trong
mình. Mối người ít nhất là một con vắt. Một trăm người một trăm con mà ngày nào
cũng có ít lắm là hàng trăm người vào. Ngược lại, những người từ Nam ra Bắc
cũng mang theo số vắt y như vậy ra phía Bắc. Những con vắt di cư ấy hiện nay đã
có đất đai, có quê hương rồi. Và nó kết thành một dãy liền với đám cố cựu chống
lại những kẻ nào quấy rầy bọn nó. Những kẻ đó chính là chúng mình đây.
Tấn dừng lại, nhìn Thu và nói
tiếp:
- Chị có dây thun nên buộc hai
ống tay áo nữa.
- Chi vậy cậu ? Ống tay áo mà
ăn thua gì ?
- Úy chị đừng xem thường nó !
- Tại sao ?
- Vì nó đeo cả trên nhánh cây
mà. Vắt nó khôn lắm chị ơi. Nó biết đánh hơi người và biết đón người đi qua, để
chốc nữa rồi chị sẽ thấy. Nó bò ra tận ngoài chót nhánh cây bỏ vòi ra. Cái vòi
nó quơ quơ như cái vòi voi tí hon để tìm đối tượng. Hễ ngửi đúng đối tượng rồi,
nó búng một cái tách thế là văng qua đeo vào tai, hoặc vai, hoặc tay mình. Nó
cứ thế mà bò và tìm chỗ thịt ngon mà cắm vòi vào, hút máu.
Thu rùng mình.
Tôi bảo:
- Thôi đi, đừng có nói nữa, cô
ấy không dám đi đấy.
Trông Thu nai nịt mà thảm
thương. Vừa đáng thương lại vừa tức cười. Giống như một nữ lâu la của một đảng
cướp núi.
Tấn giục:
- Thôi đi ! Kẻo trời mưa tới
thì khổ.
Rồi cả đoàn lôi thôi lếch thếch
kéo nhau đi. Vừa leo trèo, vừa bò lê, vừa lấy tay làm chân, lấy đầu gối làm
chân, và lấy chân làm tay. Đi trên chặng đường này thì càng có nhiều tay càng
tốt. Tay để bám, để níu, để ôm để làm đủ mọi động tác giữ thân mình lại khỏi
phải rơi xuống hố, trợt lăn xuống sườn núi.
Khổ đời nhất là chân phải mang
dép. Cái đế dép dày mo làm cho bàn chân mất cảm giác, và làm cho nó không có
sức bám trực tiếp vào mặt đất. Đi dép thì hay trợt hay ngã, khó leo trèo. Thay
vì đôi chân của mình phải được võ trang thêm những cái ống giác nhám đặc biệt
như chân thằn lằn thì nó lại bị thay vào đó là cái đế dép trơn lỉnh.
Tấn bảo:
- Tới xứ vắt rồi đây nhé quí bà
con.
Ai nấy vừa đi vừa dớn dác nhìn,
để tìm đối thủ, nhưng không ai trông thấy.
Sự mệt nhọc lôi hút tâm trí của
người đi đường theo một hướng khác. Cho nên không ai để ý gì cả.
Khu rừng đặc biệt lầy lội.
Những lớp lá khô chồng chất lên nhau có lẽ đến hàng trăm năm, lớp cũ lớp mới đã
biến thành phân, bùn đen như than bùn ở vùng U Minh. Nhưng ở đây thì than bùn
này gớm ghiếc hơn, cũng như những con suối độc.
Lội vào những lớp bùn này người
ta cảm thấy như da thịt mình bị bỏng, tuột ra theo mỗi bước đi. Chất độc trong
bùn bị hút vào lỗ chân lông và thâm nhập vào cơ thể, làm cho người ta thấy gây
gây sốt. Cái không khí đầy thán khí và cả một vùng cây lá dày đặc không có ánh
sáng mặt trời, làm cho da thịt mình như bị vô số mũi kim châm.
Dưới bóng những cây cổ thụ tàng
lá dày đặc như mái tôn, mái sắt này không một loại cây nào nảy mầm được. Và con
người lành mạnh bước vô đây thì ngã bệnh ngay. Đúng là rừng thiêng nước độc.
Tôi cũng đã sống ở rừng U Minh,
nhưng rừng U Minh đáng yêu hơn nhiều. Những cây tràm, vỏ sùi lên như những mảnh
lụa màu mỡ gà ngả màu nâu. Bông tràm trổ trắng tinh khắp cả một dãy giang sơn
với những đàn ong bốn phương đến hút mật bông tràm và trả lại cho đời những
giọt mật tinh chế mỡ màng hơn. Lá tràm xanh cứng, chứa đầy dược chất tiết ra
một mùi hương thơm bát ngát cả một vùng trời.
Nước rừng U Minh đỏ sậm không
như màu phù sa thắm tươi sông Cửu Long, chạy một dòng từ rừng sâu đổ ra sông
lớn. Người đi rừng khát nước có thể vốc lên uống cho kỳ đã khát mà không sợ
bệnh.
Còn đất rừng U Minh thì sốp như
phân. Cây chuối, cây mì cặm xuống đó rồi cứ bỏ quên đi, vài tháng sau trở lại
đốn lấy buồng, nhổ lấy củ . Nhiều vùng trong rừng U Minh cho ta than bùn năng
nhiệt rất cao. Những người đi rừng đôi khi bị sa lầy vào những vùng sình lầy
này, nếu không biết cách thì sẽ bị chìm mất tích vào đáy vũng bùn.
Còn cá tép, rùa rắn, chim chóc,
sấu ở U Minh thì không sao kể xiết. Heo từng, nai cũng rất nhiều. Nếu rừng
Trường Sơn mà dễ yêu và người như rừng U Minh thì chúng tôi đâu có trở thành
thân tàn ma dại như ngày hôm nay.
Đi cái rừng Trường Sơn mà nghĩ
về rừng U Minh với những mơ ước vô tận.
Chỉ cầu mong cho lá rau lá rác
được hiền lành và dễ tìm như ở vùng U Minh thôi thì cũng đỡ cho chúng tôi rồi.
Rau kim thất, rau tàu bay, đọt choại, đọt vừng, đọt chiết v.v. . . Nội bấy
nhiêu đó cùng với giọt nước hiền lành của U Minh cũng đủ bồi đắp thịt da cho
chúng tôi rồi.
Ở U Minh có bao giờ chúng tôi
bị sốt rét !
U Minh lúc thời kỳ kinh tế khan
hiếm đâu có mùng ngủ đâu có quần áo mặc. Dân U Minh toàn ngủ trần, mặc quần gai
áo bố. Nhiều người đi rừng lỡ đường, tìm một gốc đớn to. Rễ dớn đan vào nhau
như những lớp vải mùng, cứ dở nó lên chui vào đó, ngủ vừa ấm vừa khỏi bị muỗi
đốt.
Muỗi U Minh có đốt cũng không
việc gì.
Cho nên đất U Minh “muỗi kêu
như sáo thổi, đĩa lội lềnh như bánh canh, ” mà người dân vẫn khỏe mạnh không
bệnh tật.
- Dừng lại bắt vắt nửa giờ !
Tấn đang đi bỗng quay lại ra
lệnh.
Mọi người dừng lại, và tự nhìn
mình. Tôi đâu có thấy gì đâu:Tôi cứ nhìn sơ qua tay chân quần áo và lấy làm
sung sướng vì thấy mình không bi chú vắt nào đeo hết.
Tấn nói:
- Xem kỹ trong quai dép và các
kẽ ngón chân.
Tôi bắt đầu thấy ngứa ngáy. Tôi
bèn rút chân ra khỏi dép. Trời ơi ! Tôi trố mắt ra nhìn. Những kẽ ngón chân đều
bít hết.
Những chú vắt đỏ lưởng căng
tròn như những múi bưởi chín.
Cứ lấy bò hòn quét vào là nó
rụng hết.
Tôi sực nhớ ra cái ống bồ hòn
đeo ở thắt lưng. Tôi lấy cái que nhúng vào bã bồ hòn và quét lên những kẽ ngón
chân. Bọn quỉ tí hon đang chụm mỏ vào nhau hút máu tôi, bi phép thần thông rưới
bất ngờ ngã lăn ra rơi xuống, nhiều con phún cả máu ra đỏ loang mặt đất. Tôi
tiếp tục chấm nước bồ hòn vào những chùm vắt rơi rụng thưa dần. Những chú rơi
xuống đất bò lổm ngổm tìm hơi người hoặc nằm im ọc máu ra không nhúc nhích.
Còn nhiều chú cứ đeo dính trong
kẽ chân mình đẫm nước bồ hòn, nhưng hình như chúng đang hút được nguồn béo bổ
bất ngờ mà quên thuốc độc đang xối trên lưng.
Tôi ngại, không dám dùng tay để
gỡ bắt chúng nó, tôi bèn lấy một cái que mà gạt chúng đi, nhưng chúng đã bám
chắc vào da thịt tôi hầu như chúng đã trở thành da của tôi vậy.
Buộc lòng tôi phải bắt bằng
tay. Những chú vắt nhớt nhòm trơn thột thật khó nắm và rứt ra. Tôi phải vất vả
lắm mới “giải phóng” cho hai bàn chân của tôi.
Xong tôi lại quét nước bồ hòn
vào khắp hai bàn chân tôi, chờ cho nó khô lại quét thêm lớp nữa lớp nữa cho
chắc ăn.
Nhìn lại vùng đất tôi đang đứng
đã thấy nhiều nơi nhuộm máu và trên những lõm máu ấy những chú vắt đang nằm hấp
hối vì bị tôi rải chất độc hoặc đang bò thật nhanh tìm mồi. Chúng nó rất hăng
hái vì say mùi máu.
Thân hình của chúng như chiếc
cung chưa giương đặt trên mặt đất rồi đít đun tới, khi đít vừa chạm mõm thân
hình chúng cong lên như những chiếc móng ngựa thì mõm lại lập tức bổ tới ngay,
thu ngắn đường đất một quãng độ ba phân tây. Cứ thế, cứ thế.
Hàng chục chú vắt tiến tới cùng
một phía, chằng khác một tiểu đội xung kích đang xông tới mục tiêu.
Chúng quờ quạng một chốc rồi
đổi hướng. Chúng lại nhắm về phía bàn chân tôi mà thẳng tiến.
Một chú vắt màu nâu, to nhất
đám, có sọc trắng trên lưng da láng ngời dẫn đầu đoàn xung kích. Chú ta vươn
những bước rất dài cho nên đã bứt xa lũ em út ở phía sau. Khi đến gần bàn chân
tôi thì chú ta dừng lại, không đi nhanh nữa.
Chú ta dựng đứng lên với tất cả
bề cao và quơ quơ cái vòi trong không khí như một chiếc ăng-ten có mắt thần để
tìm mồi. Trông thật khiếp đảm. Ở phía sau chú ta mấy anh nữa cũng làm theo cái
kiểu ấy.
Tôi cứ lặng nhìn để xem chú to
đầu làm ăn ra sao ?
Khi chú ta đến bên bàn chân tôi
thì cái mõm của chú chĩa ra hẳn phía trước nhọn hoắc như mũi con quay kéo vải.
Còn đít chú to bằng dầu cây đinh thì gắn chặt dưới đất. Xong chú mới ngoặc
xuống dán vào bàn chân tôi như một cái móc câu ghim vào thịt tôi.
Nhưng lập tức chú ta rụt mõm
lại ngay, thun cổ lại, và cái vòi ngoáy ha như có vẻ bực tức, khó chịu lắm. Vì
nó chạm vào chất đắng bồ hòn mà lại ! Nhưng cái đít của chú ta vẫn cứ cắm chặt
trên mặt đất ở nguyên chỗ cũ chứ không chịu lùi trong lúc cái vòi bỏ tới bỏ
lui, hai ba lần để tìm chỗ tốt. Cuối cùng nó cắm được vào da tôi và nhấc cả
thân hình lên bàn chân tôi.
Chú ta bò xung xăng trên lưng
bàn chân tôi một cách đắc thắng và kiêu hãnh. Cái vòi chú cứ quơ quơ rồi lại
bập xuống kéo cái đít đi tới Chàng hiệp sĩ cơi cái lưng bàn chân tôi là một
mảnh vườn hoang không người.
Nhưng tôi đã chấm nước bồ hòn
chực sẵn và chờ cho cái mõm kia quơ lên kiêu ngạo thì tôi cho một giọt thuốc
rơi đúng vào đầu! Chàng hiệp sĩ bị trời giáng bất ngờ không đỡ kịp, co quắp
người lại, vo tròn như một hạt đậu và lăn xuống đất mình mẩy đằm nước dơ do
nhớt của chú ta và nước bồ hòn hóa hợp.
Những tên đàn em của chàng hiệp
sĩ có sọc lưng cũng nghển cổ lên và sắp đổ bộ lên cái mảnh đất mầu mỡ do chàng
ta phát hiện.
Nhưng tôi lại cho bồ hòn rơi
tới tiếp xuống đầu chúng đánh tan ngay cuộc tấn công và lập tức tôi nhảy sang
chỗ khác với sự yên tâm rằng mình đã dụ địch gom lại một nơi và đã tiêu diệt
chúng sạch sành sanh rồi.
Nhưng tôi tỉnh người ra ngay. .
.
Lúc nhúc chung quanh tôi, những
cái cây tăm ai cẩm dày đặc mà mỗi cái đầu tăm quơ qua quơ lại rất đều nhịp như
có một ngọn gió đay đưa.
- Vắt! Trời ơi vắt !
Vắt gì mà ghê thế. Có thể nói
không có một chỗ nào trống để tôi đặt bàn chân vào hay nói khác hơn, bất cứ
bước vào đâu, tôi cũng dẫm lên ít nhất là vài ba chú vắt.
Vừa ngửi thấy hơi người chúng
ào ào bò tới ngay, và cùng một lúc có đến năm, bảy chú bám vào bàn chân tôi mà
leo lên. Tôi lại chạy đi. Rồi tôi lại chạy đi, không thể đứng yên ở một chỗ.
Rõ ràng lũ vắt có tri giác.
Chúng rất khôn ngoan. Từ trong những đám lá mục chúng nhoi lên và bò thẳng ra
đường mòn. Khi đến mép đường mòn thì chúng dừng lại và bỏ vòi ra ngửi. Chúng
quơ quơ cái vòi với vẻ thèm khát ác liệt. Nhiều con bò vào một cái dấu chân và
cứ dừng ở đấy mà dò dẫm. Hình như chúng ngửi thấy hơi người để lại trên dấu
chân đó, nhưng chúng rất tức vì không tìm ra da thít người.
Tấn quát lên:
- Mò trong nách trong háng bà
con ơi !
Nãy giờ Tấn đang tiếp sức “giải
phóng” cặp chân cho cô nữ văn công. Dù Thu đã dùng tất ni-lông mang lên rất
cao, nhưng vắt vẫn cứ chui hẳn.vào mà cắn, hoặc có những con chỉ chui đầu vào
mà hút máu thôi.
Thu phải cởi tất ra lấy que tấm
nước bồ hòn và gạt từng con một. Đôi tất của Thu không còn tác dụng.
Rồi cả đoàn lại đi. Càng đứng
lâu một chỗ thì càng làm mồi cho chúng nó.
Tấn lại kêu lên:
- Coi chừng nó đeo đầy quai ba
lô rồi nó bò lên chui vào tai đấy.
Bỗng Thu kêu lên thất thanh:
- Ối! ối! ối !
- Cái gì vậy?
- Cái gì la dữ vậy?
Thu đang đi bỗng ném cái ba lô
xuống đất và chạy lủi vào một bên đường.
Tấn bảo:
- Cứ bình tĩnh, không sao đâu,
cứ quết bã bồ hòn nhiều vào là nó rụng đi thôi.
Chúng tôi phải quay mặt đi.
- Xong chưa ? Năm Cà Dom hỏi.
- Bắt được chưa Thu !
Một chập sau Thu lại kêu. Lần
này thì chú vắt không tấn công chỗ hiểm hóc bằng lần trước. Nó chỉ đeo dính ở
sau cạnh tai.
Thu vừa phủi ha lịa vừa nhảy cà
tưng như đạp phải lửa.
Tôi gắt:
- Đưa đây coi ?
Thế là tôi bắt con vắt ra. Hắn
ta đã hút no máu của cô nàng. Tôi nắm căng hắn ra và rứt hắn làm đôi và ném
xuống đất. Tiện chân tôi chà dẫm lên như chân voi chà một trái cà.
Nhưng không đúng như thế. Khi
tôi rút chân lên thì hai mẩu mình con vật vẫn còn ngo ngoe.
Tấn cười:
- Thế là anh đã biến một con
thành hai con !
- Giỡn cậu ! Năm Cà Dom nói.
- Ủa, tôi nói thiệt mà!
- Ai đồn chú như vậy đó ?
- Hồi nhỏ ở nhà, tôi nghe người
ta bảo con đĩa ai làm gì nó cũng không chết , trừ ra đốt nó mà thôi.
- Rồi sao nữa ?
- Tôi nghe lời người ta tôi bắt
một con đã, tôi lấy gai quít căng nó ra phơi nắng trên mặt đất hai ba ngày, tới
chừng trời mưa xuống là nó ngo ngoe ngay !
- Dóc tổ!
- Dóc trời đánh nó!
- Ừ thì trời đánh nó chứ đâu có
đánh chú !
- Anh nói tức quá t Tôi thấy,
tôi làm rõ ràng mà !
- Đẩy cây thoa mỡ bò chú em ơi.
Tấn không chịu thua, cứ nói sấn
tới:
- Một lần khác, tôi lấy dao bằm
một con đĩa ra trăm mảnh bỏ trong lá môn đổ nước vào, túm lại. Ba ngày sau tôi
dở ra, thấy một bầy đĩa con.
-Thật à?
- Chính mắt tôi trông thấy đây
mà !
Năm Cà Dom cười khì khì.
- Tôi cũng biết một chuyện khác
nói về sự bất tử của loài đĩa. Như thế này nhé. Một nàng dâu nhà nọ đi xúc cá
bị đĩa chui lọt vô lỗ tai mà không biết. Con đã ấy chun lên sọ và đục khoét
phía bên trong hằng ngày để tìm thức ăn. Nàng dâu thấy ngứa ngáy da đầu, cho
nên mỗi lần nấu cơm sôi nàng có thói quen lấy cái vung nồi úp lên đầu một chốc
cho đỡ ngứa. Bà mẹ chồng thấy cơm thường hay sống bèn để ý. Thì bắt gặp cái cử
chỉ đó của nàng dâu. Bà ta rầy. Cô dâu chỉ cất cái nắp vung một lúc rồi khi bà
mẹ chồng vừa đi khỏi bếp thì cô nàng lại lấy cái vung úp lên đầu. Một hôm bà mẹ
lại bắt gặp. Bà ta giận quá, sẵn chiếc đũa bếp của cô dâu đang sơ cơm, bà ta
bèn giật lấy và gõ nhẹ vào đầu cô dâu, chẳng ngờ nó vỡ ra như một cái nồi đất,
và đổ xòa ra mặt đất . Các bạn biết cái gì không ?
- Không.
- Óc chớ gì!
- Không phải óc, mà là một đàn
điã mẹ điã mén. Chúng bò lểnh nghểnh trên mặt đất đen ngời ngời.
- Trời đất, kỳ lạ vậy !
- Thì đã bảo là cô dâu bị đĩa
chui vào tai mà.
- Rồi sao kỳ vậy ? Tấn hỏi.
- Thì nó chui vào tai, nó chui
lên óc, nó đục khoét óc nó ăn óc để sống và sinh đẻ ra càng ngày càng đông chớ
sao, và cái xương sọ bị khoét mỏng dần, cho nên bà mẹ chỉ gõ nhẹ một cái là nó
vỡ toang ra . . .
- Thiệt sao anh ?
- Thiệt chớ sao không thiệt ?
- Anh có thấy thật không ?
- À… cha chả, cái đó thấy thì
không có thấy đâu.
- Vậy sao anh biết tỉ mỉ vậy ?
- Còn cậu sao cậu cũng biết tỉ
mỉ vậy ?
Tấn cười xòa, biết ông bác sĩ
Năm Cà Dom thấu cáy mình nên lặng im, nhưng Tấn cũng không tự ái.
Tôi đang đi bỗng thấy một vật
gì nâu nâu to bằng ngón tay cái đang ngọ nguậy trong bùn. Tôi ngỡ là con sùng,
nên tiện chân, tôi dẫm lên thật mạnh. Máu từ dưới đế dép tôi bắn ra ngoài. Một
làn máu in trên mặt đất. Tôi gọi Thu. Thu dừng lại. Tôi trỏ cho Thu cái xác con
vật và làn máu còn tươi roi rói và hỏi:
- Thu biết máu ai không?
- Máu ai vậy anh ?
- Của nhà nữ múa sĩ chớ còn của
ai nữa.
- Eo ôi ! Thu lắc đầu – ăn cả
ngày không được giọt máu mà tự nãy giờ mất không biết bao nhiêu là máu.
Năm Cà Dom xen vào:
- Cứ xem như mình chiến đấu bị
thương thôi. .
- Chậc ! Vô lý quá !
- Mỗi người có cái lý của mình.
Những người bắt mình đi trên con đường này thì cho rằng đó là chân lý, còn mình
thì lại cho rằng vô lý Nhưng cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng là chân lý. Cho
nên lũ vất mới được những bữa tiệc no nê.
Năm Cà Dom cười hắc hắc:
- Những chú vắt ở khu rừng này
từ mấy năm nay đã biết mùi tanh của máu thịt. Nếu không có con đường này thì
chúng mãi mãi là những kẻ ăn chay trường. Còn bây giờ thì chúng đã là những kẻ
sát nhân uống máu người không tanh. Chắc chúng phải cảm ơn thiên hạ lắm lắm !
- Cảm ơn ai ? Tôi hỏi.
Năm Cà Dom cười:
- Muốn cảm ơn ai thì cảm! Hì hì
!
Ông Chín đi ở phía sau cũng với
cái rừng cây cặm trên lưng ông. Cái rừng rậm di động ấy quến vắt rất có hiệu
quả. Ông mặc quần đùi cho nên thỉnh thoảng ông dừng lại để dùng cái que gạt
những chú vắt đeo trên bắp chân ông. Ông bị vắt đeo nhiều nhất, máu trên chân
ông chảy xuống những dọc dài như sọc vải, như để trang trí thêm cho những bắp
thịt teo tóp xệu xạo của lão già ngoại ngũ tuần.
Ông Chín lặng thinh bắt từng
chú vắt một, không kêu ca, cũng không tỏ một thái độ nào đối với chúng. Có lẽ
ông cho là trong lúc này phải vận dụng lập trường giai cấp để chống lại với bọn
vắt là có hiệu quả nhất.
Còn ông già Noël thì càng đi,
càng tụt hằn lại phía sau. Giờ đây hai chiếc gậy của ông ta cũng kiệt sức. Nhìn
vào ông ta, tôi chỉ còn trông thấy có “bộ râu” phất phơ dưới cái quai của chiếc
nón tai bèo, một màu trắng dấu hiệu của sự bệnh hoạn và không còn sinh lực.
Anh chàng này bất cần đến ai.
Tôi gặp anh ta ở rất nhiều chặng đường nhưng tôi chưa hề thấy anh ta kêu ca bất
mãn về bất cứ việc gì, gạo muối, đường đi, mưa gió.
Anh ta cứ lầm lủi đi như một
cái bóng mờ nhạt giữa hoàng hôn, giữa những người khác, đồng đội đồng hành của
anh. Tôi đoán chắc anh ta có một sự chịu đựng ngấm ngầm ghê gớm bên trong để
cuối cùng đạt được một việc gì, mà đến một ngày nào đó sẽ có một sự bùng nổ bất
ngờ.
Đôi khi tôi cũng muốn gợi
chuyện, nhưng anh ta không tỏ vẻ thích thú hoặc ưng chịu trao đối với ai bất cứ
chuyện gì.
Mưa bắt đầu đổ hột, như cậu
giao liên dự đoán. Những hạt mưa rất to, rơi rất nhanh và chỉ nhoáng một cái là
mưa tầm tả ồ ạt xuống đầu lũ khách yếu đuối này.
Mọi người lấy vải mũ ra choàng.
Những con người dầu ọp ẹp tàn tạ đến đâu mà khoác áo choàng vào trông cũng oai
phong. Bởi vì nhìn vào họ người ta đâu có thấy được sự gầy gò, bệ rạc.
Bỗng Năm Cà Dom kêu toáng lên:
- Bỏ mẹ rồi ! Bắt được thằng ăn
trộm!
- Ăn trộm gì ? Đâu đâu ?
Năm Cà Dom ném ba lô xuống đất
ngoáy hẳn một cánh tay ra sau lưng và kêu lên:
- Nó đây này ! ở chỗ “vói không
tới” đấy.
- Cái gì chớ ! Tôi hỏi.
-Dở áo lên thì thấy!
Tôi làm theo lời Năm. Quả nhiên
một chú vắt to bóng lưởng như một quả ớt nâu. Tôi bắt lấy thủ phạm chưa kịp ban
cho hắn ta một cái hình phạt nào thì Năm quay lại bảo:
- Đưa đây cho tôi !
- Đây !
Năm cầm lấy con vật đầy nhớt
nhau bỏ vào cái ống đựng bồ hòn và lấy cây que ấn tuốt hẳn xuống. Năm Cà Dom
cười hắc hắc:
- Mày cắn tao thì tao trị mày ở
đời là thế. Nếu mày không chạm tới tao thì tao để mày yên thân.
Tôi ghé mắt nhìn vào. Thủ phạm
bị chất đắng cạo sạch nhớt trắng ra như bị trộn nước sôi, bao nhiêu máu hút
được của thiên hạ ọc ra hết, và hắn ngọ nguậy một cách tuyệt vọng trong cái mớ
chất độc kia.
Năm Cà Dom cười:
- Mày ở đây thế nào cũng bị sốt
rét. Tao cho mày uống bồ hòn thay ki-nin!
Năm Cà Dom sắp sửa mặc áo vào
thì tôi phát hiện trong nách chàng một chùm vắt. Tôi kêu lên, vừa chỉ điểm cho
Năm vừa bắt tiếp với Năm.
Bắt xong lũ vắt đó, nhìn xuống
chân thì thấy hai bàn chân của tôi lẫn của Năm đều bị một đám vắt khác phủ kín.
Chúng bò tứ tung cái mõm chúng chìa ra vung vít như một lũ đói khát đang chạy
trên một mâm cỗ vĩ đại, quýnh quáng, lóa mắt, điên dại không biết phải chĩa món
thế nào trước.
Tôi giơ chân lên rảy lia lịa,
nhưng không rớt đi chú nào. Chúng rạp mình xuống và mõm chúng như những mũi dùi
bắt đầu mọp xuống cắm lút vào da thịt tôi. Tấn bảo:
- Các anh phải vừa đi vừa gỡ,
chớ nếu dừng lại thì chúng đeo đầy chân ngay, không bao giờ gỡ sạch được. Đấy
nhìn cái ba lô kia kìa!
Quả thật, trên ba lô lại lểnh
nghểnh những chú vắt. Chúng bò trên quai, trên miệng ba lô, không khỏi chúng đã
chui vào ba lô. Tấn nói tiếp:
- Ta cứ đi thôi. Mưa xuống
chúng nó hoạt động mạnh lắm. Bồ hòn mình phết trên chân trôi hết, chúng càng
đeo tợn. Nhưng dù không mưa chúng cũng không sợ, bồ hòn.đã lờn đối với chúng
cũng như sốt rét không sợ kí nín vậy mà. Tôi nghĩ chúng có thể sợ một món thôi
!
- Món gì ?
- Ớt!
- Có thể chúng sợ, nhưng ở đây
làm gì tìm ra được một trái ớt ? Nghe anh nhắc tới ớt tôi thèm rớt nước miếng.
Rồi chúng tôi lại đi.
Trời mưa. Đói lạnh, vắt. Bùn
lầy. Cái nào cũng là cái lưỡi dao gọt đẽo sức khỏe của chúng tôi. Đầu đội mưa
chân lội bùn, da thịt bị vắt cắn. Bụng lại tóp ve, bi-đông ọc ạch nước suối.
Vinh quang cho lắm, người ta cũng không ham.
Chúng tôi đến cái nơi gọi là
trạm lúc mặt trời mặt trăng đều mất hết. Tôi cũng không biết giờ đó là giờ nào
?
Không củi, không bếp núc. Ai
chế tạo ra được món gì thì xơi món nấy. Nhiều người cứ để bụng đói mắc võng leo
lên nằm. Trong số đó có tôi và Thu.
Tôi cố tìm một sự nghỉ ngơi
toàn vẹn sau cơn rã rời tứ chi.
Tôi thay quần áo, mò tìm khắp
nơi để lôi óc những thằng kẻ trộm định hoặc đang hút máu mình xem mình là miếng
mồi ngon béo bổ cho chúng. Chúng chui rúc kỹ lắm ! Mình không ngờ máu mình lại
bị tiêu xài phí phạm đến thế.
Cái mồm chúng đỏ loét, nhưng
chúng hãy còn thèm. Chúng muốn thỏa mãn cuồng vọng. Chúng đói thịt người.
Hãy giật chúng ra khỏi mâm cỗ,
nắm lấy cổ chúng mà giơ lên cho thiên hạ nhìn rõ: này là những tên thủ phạm !
Yên trí rằng mình sẽ được nằm
yên trong đêm nay. Cơn đói sẽ bị xóa nhòa vì thần kinh được thỏa mãn, nghỉ
ngơi.
Nhưng tôi nhầm. Khi bụng đói
thì không một giác quan nào yên ổn được. Và khi nằm yên. tôi mới hiểu hoàn toàn
cơn đói.
-Thu ơi!
- Dạ.
- Em yên tâm chưa?
- Yên tâm gì ạ ?
- Yên tâm rằng mình đã đi qua
thêm một cái ải.
- Em không bao giờ yên tâm
được. Em không muốn gì cả.
- Về Hà Nội, muốn không ?
- Cái chuyện đó thì ngoài ý
muốn.
- Nghĩa là em không muốn ?
- Không phải không muốn mà muốn
không được ! ..
- Bây giờ thì em chỉ còn đi tới
thôi !
- Đó cũng là việc ngoài ý muốn
! .
- Nghĩa là, như em vừa nói em
muốn mà không được ?
- Không, ở đây thì khác hẳn
lại.
- Em cứ thế mãi. Em không bao
giờ thay đổi ý định à ?
- Em suy nghĩ kỹ rồi.
- Nhưng bây giờ thì làm sao ?
- Để em xem đã.
-Xem gì?
- Để rồi anh sẽ thấy ! Biết đâu
đấy !
Tôi nói:
- Anh rất hiểu em, nhưng anh
không thể giúp em, cũng không ngăn em.
Chúng tôi lặng im. Lần nào Thu
đề cập tới chuyện khúc mắc này của tình cảm thì in như rằng cả hai đều bế tắc.
Tôi biết Thu không có can đảm
quay lại, nhưng đi tới nữa thì Thu quả là một kẻ bất đắc chí.
Trời tối quá. Le lói một vài
ánh lửa như linh hồn của những người hấp hối. Những đốm linh hồn còn bám víu
vào trần gian bằng những sợi tơ mong manh như tơ nhện mà chỉ một luồng gió thổi
qua cũng đủ tung nó vào cõi hư vô vĩnh viễn.
Bỗng nhiên một trụ võng của tôi
gẫy đổ, tôi rơi ngay xuống đất. Sình lầy đẫm dưới lưng tôi.
Tối quá. Thán khí dày đặc không
thể cho hai lá phổi thanh sạch được mà làm cho chúng càng nặng nề hơn.
Thì ra lúc nãy trong khi mò mẫm
tìm cọc mắc màn tôi đã quờ nhằm một gốc cây mục.
Tôi phải dời chỗ. Cả chiếc tăng
tôi cũng phải dời đi. Tôi mắc một đầu vào cây cọc màn của Thu. Đó là một sự mất
tự do cho cả hai người nhưng tôi không biết tìm đâu cho ra một cây cọc chắc
chắn..
Rồi tôi lên võng nằm.
Năm Cà Dom im thin thít. Anh ta
sử dụng thời giờ rất khoa học như bản thân anh ta là một cái máy chịu sự điều
khiển của chính anh. Có lẽ anh ta đang ngủ.
Tôi lại tiếp tục trò chuyện với
Thu. Tôi nói.
- Có những cặp vợ chồng không
yêu nhau, nhưng vẫn có con hoài hoài. Và cuộc đời cứ kéo lê mãi như thế.
Thu thở dài:
- Em ngán ghê cơ anh ạ!
- Ngán nỗi gì?
- Nỗi gì em cũng ngán cả!
- Nhưng có gì đâu mà phải ngán
?
-Có chứ!
- Gì nào ?
- Chuyên môn, đời sống cá nhân.
- Ai chẳng thế.
- Anh thì có gì đâu mà ngán.
Anh cứ viết lách đều đều. Vượt cái Trường Sơn này rồi anh tha hồ mà sáng tác.
Và khi về đến quê anh rồi thì anh gặp lại cả gia đình. Còn em thì.. . trái
ngược với anh cả. Cố chân em hỏng rồi, có lành cũng sượng không nhạy và khỏe
như xưa Và em càng đi vào thì càng xa gia đình. Thu bỗng hét lên thất thanh. Ớ
ớ… anh ơi, anh ơi ! … Rồi Thu ngất lên.
Tôi ngồi bật dậy.
- Gì thế? Gì thế?
- Ơ… Ơ… bớ bớ…
Tiếng Thu bị tắt trong cổ họng.
Tôi quờ quạng tìm lấy chiếc đèn pingìn rọi sang Thu. Trong vệt sáng xanh nhạt
của chiếc đèn pin tôi nhìn thấy một mảng tuyết trắng muốt trên đó nạm một mẩu
cẩm thạch đen ngời ngời.
Tôi nhìn không chớp mắt cái
hình tượng nghệ thuật đó. Nhưng Thu lại dẫy dụa và kêu lên kinh hãi. .
Tôi chạy vọt sang và bất giác
tôi đưa tay ra cào cái vật đen ngời đang bám chặt vào đùi nàng. Nhưng cái vật
đó, chú vắt, đeo chắc quá .
Tôi bắt mãi mà không kết quả.
Có lẽ tôi cũng hốt hoảng vì tiếng kêu và sự vùng vẫy bạt mạng của nàng.
- Cứu em ! Cứu em !
Tôi quát:
- Thì nằm êm xem nào !
- Ơ Ơ… Chết em, chết em !
- Cái gì mà ghê thế!
Vừa quát tôi vừa đè chặt đùi
nàng xuống võng và gỡ chú vắt ra và vút cái tôi vứt nó ra rừng. Cái thân hình
tròn nung núc của nó vút đi trong không khí như một đầu đạn và rơi xuống đất
như một quả dâu.
Tôi vụt nghĩ. người thiếu nữ
này tuy không bị thương nhưng máu nàng đã nhuộm thắm một hòn đất vô đanh của
rừng này.
Tôi nằm mà tay cứ mằn mò từ
bụng ngực đến sau lưng. Từ chân đến mặt mũi, cạnh tai không bỏ một chỗ nào.
Cái không khí của khu rừng này
thật ẩm ướt. Ngủ phải đắp chăn mà không hết lạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét