Nghé ơ nghé
Nghé bông hay là nghé hoa
Như cà mới nở
Mẹ cõng xuống sông
Xem rồng lấy nước
Mẹ gọi tiếng trước
Cất cổ lên trông
Mẹ gọi tiếng sau
Cất lồng lên chạy
Lồng ba lồng bảy
Lồng về với mẹ
Nghé ơ
Mày như ổi chín cây
Như mây chín chùm
Như chum đựng nước
Như lược chải dầu
Cắn cỏ ăn no
Kéo cày đỡ mẹ
Việc nặng phần mẹ
Việc mẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ
Ông khách hỏi mua
Nhà ta chả bán
Ông khách hỏi hoạn
Nhà ta chẳng cho
Nghé ơ
(Bài “Gọi nghé” vùng Thụy Anh- Thái Bình)
Năm ấy, tôi ở một tổ đi thực tế nông thôn, nửa năm về Thái Bình.
Tổ tôi có tổ trưởng Hoàng Trung Thông với các tổ viên: Chu Ngọc, Phùng Quán, Trần
Lê Văn, Hoàng Cầm.
Tổ trưởng Thông họp chúng tôi lại, trước khi đi, dịch cái nghĩa
chuyến đi dài ngày này là xuống địa phương tham gia lao động cho thấy được, biết
được làng xóm sau cải cách ruộng đất và sửa sai đương lên hợp tác xã rầm rầm.
Tôi hiểu rằng không có yêu cầu về viết lách, thế là đi cho mở mắt ra. Năm trước,
tôi cũng đã về xã ngót hai năm, ba đợt làm anh đội cải cách rồi anh đội sửa
sai. Nghe Thông nói thế, tôi cũng lấy làm thường.
Lên họp tác rầm rầm là nói quen miệng, khoái miệng, chứ thực
phong trào hợp tác hóa nông thôn chỉ mới bắt đầu. Xã chúng tôi tới mới có một
thôn này được chọn làm thử- thôn ít phức tạp khi cải cách ruộng đất thì cho làm
thí điểm.
Lại được dặn thêm: lao động tuỳ sức, không như “ba cùng” phải
lăn vào bói việc ra mà đổ mồ hôi “thổ cải". Tổ trưởng phổ biến thế chứ có
gay go mấy tôi cũng chẳng ngại. Tôi đã hai năm với đồng ruộng từ Thanh Hóa ra Hải
Dương, hai cuộc tổng kết ở Hậu Hiền, ở Quỳnh Côi, ba đợt công tác từ đội viên
chân trắng lên đội phó phụ trách tòa án rồi làm báo đoàn sửa sai. Trước đấy tôi
chưa biết mặt cây lúa. Rồi tôi cũng xắn quần khỏi đầu gối ra đồng lội ruộng,
vai vẫn đeo cái túi sắc cốt da, vẻ cán bộ. Anh đội chúa chỏm một xóm, ngại ra đồng
thì mở túi lấy sổ vờ nghiên cứu, đói thì bảo cô Đăng con ông rễ trưởng xóm ra
chợ mua bánh ngô kẹo bột về ăn, có người đến thì đứng dậy cầm cái chổi đưa mấy
nhát quét nhà, ăn vụng, kể cả ăn vụng người, và làm che mắt thế gian, anh đội
tôi nào biết có ai trên đầu. Tôi chẳng bỡ ngỡ những cuộc đi thế này, kể cả khi
đương kháng chiến, ở Tuyên Quang làm thuế nông nghiệp với Nam Cao, xuống vùng
giáp địch ở Việt Trì, công tác thuế công thương với Xuân Diệu.
Nhưng tôi cũng không đi một lúc với cả tổ. Các anh đã xuống huyện
trước tôi. Tôi còn bận ở lại tổ chức cho các đội đi thực tế các nơi. Bấy lâu ở
cơ quan, tôi như con dao pha, chuyên làm những việc linh tinh và cụ thể.
Ban chấp hành và thường vụ hội đã bầu lại, sau mấy đợt học tập
kiểm điểm, trước mắt hãy đi thực tế, và tôi phải làm những việc này cho xong
đã.. Các chuyến đi, trước nhất là anh em công tác ở cơ quan. Nhưng nhiều văn
nghệ sĩ ở Hà Nội chưa có việc làm cơ quan nào cũng đến nói muốn được đi. Tất cả
mỗi người mỗi vẻ, mỗi nỗi. Có những người sẵn sàng đi xa. Nguyễn Tuân, Nguyễn
Huy Tưởng, Văn Cao, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý lên huyện Điện Biên trên Lai
Châu- rừng xanh núi đỏ quá, chẳng ai tranh, xếp đoàn đi xong ngay. Các nông trường
ở Tây Bắc, Trung Du, miền núi Nghệ An đương là những vùng đất mới kỳ diệu.
Nguyên Hồng, Võ Huy Tâm, Huy Phương, Nguyễn Hải Trừng về nhà máy và ra mỏ ở Hải
Phòng, ở Hồng Quảng. Kim Lân vác xà beng đi đào sông bên Bắc Hưng Hải... Trang nhất
báo Nhân Dân in ảnh Nguyên Hồng đẩy xe goòng nhà máy xi măng và Võ Huy Tâm đội
mũ thợ, tay xách đèn bão, đi lò. Còn nhiều đoàn, đội nữa, tôi nhớ đại khái thế.
Dẫu cho việc đi là được đi hoặc tự nguyện nhưng đều ý tứ, mỗi người cũng có
tính toán và thu xếp riêng, ai chả thế. Những người bị kỷ luật của Hội về vấn đề
Nhân Văn hay là có hơi hướng với đám này thì coi như nhất loạt thẳng cánh đi.
Những người trong kiểm điểm có tư tưởng hữu khuynh như tôi phải đi cọ xát thực
tế cho thấy được cái đúng ở đâu. Các người lãnh đạo thì chẳng ai nghĩ các anh ấy
phải đi. Nhưng cũng có người hăng hái với phong trào cứ thấy nay có bài về nông
trường Rạng Đông, mai có bút ký mỏ cọc 6, ngày kia đã có thơ tả cầu Hiền Lương-
đi nhanh quá, hăng quá, chẳng biết bằng ô tô hay bằng xe đạp. Các người bấy giờ
đương là những cốt cán vững như Đồ Phồn, Mạnh Phú Tư, Huyền Kiêu thì ở nhà củng
cố cơ quan. Nhưng các anh ấy nói nhún, cũng khoe khéo “tớ ở nhà canh gác cho
các cậu đi, khoái nhé". Chúng tôi đã ở Việt Bắc, ở khu Tư, khu Năm hay Nam
Bộ thế nào thì cũng đã quen các đợt công tác về làng xã, nhà máy hay đơn vị
quân đội. Nhưng cái khó và cái dễ là đối với anh chị em trước kia ở Hà Nội sau
chín năm kháng chiến. Chẳng mỗi chốc đã được mới đi thực tế, được vào học trường
Đại học Nhân dân, đấy là dấu hiệu rồi may mắn có thể vào biên chế nhà nước. Lo
lo và chờ đợi cái thước tin cậy đo đến mình.
Tôi vướng vô khối những cái bấn này chẳng ra đâu vào đâu. Bởi
đây không phải cuộc bắt đi nhưng ai cũng nên đi. Có người cần, có người ngại,
có người thờ ơ, mỗi người mỗi khác. Bác Tú Mỡ hăng hái đạp xe theo tổ trưởng
Đào Vũ mấy tháng ở Vũ La dưới Hải Dương. Tôi đến Vũ La, bác khoe: “Về nhà quê,
khí hậu tốt, lao động một tý, ăn khỏe hẳn lên". Trên có nhắc tôi rủ ông
Phan Khôi, nhưng bố bảo tôi cũng chẳng dám đến cái gác phố Thuốc Bắc mời ông ấy
đi thực tế. Lão quắc mắt lên, hỏi dồn, rồi xỏ cho mấy câu, chỉ dại mặt.
Họa sĩ Nguyễn Sáng cũng không đi. Tôi đã nói với Hoàng Trung
Thông cho Nguyễn Sáng đi với chúng tôi Về làng mà chỉ trần có mấy anh cầm bút
thì nhạt trò. Phải có người múa hát, người làm xiếc, người biết vẽ thỉnh thoảng
làm cái truyền thần cho bà con thì dễ nổi đình đám. Nguyễn Sáng xua tay: “Vẽ là
lao động rồi. Tớ bận vẽ".
Nguyễn Sáng có đương vẽ vời gì đâu. Hồi ấy, Nguyễn Sáng mê ăn kem
hiệu Tiến Đạt phố Yết Kiêu. Kem que thôi, nhưng Tiến Đạt được tiếng quay ra nhiều
thứ kem lạ miệng, kem dứa, kem cốm, lại còn kem mùi ổi, kem mùi mít, mùi na,
mùa nào thức ấy. Thật cũng không phải Nguyễn Sáng khoái kem, mà họa sĩ đương phải
lòng các cô bán kem. Nhà có mấy cô mười ba, mười bảy hay hay mắt, cái anh chàng
trên dưới bốn mươi tuổi này cứ lăn lóc mê tơi.
Hơn mười năm trước, năm 1946, Nguyễn Sáng đã có vợ. Cô Jennen
Đobrien, Pháp lai Đức, cùng sinh viên Mỹ thuật. Nhà ở phố Bùi Thị Xuân bây giờ,
tôi thường đến nhờ Nguyễn Sáng vẽ cho báo Hồn Nước cơ quan Trung ương Đoàn
Thanh niên Cứu quốc Việt Nam. Jermen nhỏ nhắn, búi tóc, mặc áo cánh nâu, quần
láng thâm. Mỗi người đã sẵn một chiếc ba lô xì cút sửa soạn đi kháng chiến. Hà
Nội đương vừa bí mật vừa sôi lên sắp sửa cho cuộc chiến đấu. Ngoài đường, người
quảy gánh và xe bò đồ đạc tản cư đi bên những hào lũy các đội viên tự vệ sao
vuông của khu phố và cơ quan. Họa sĩ Mai Văn Hiến, Nguyễn Văn Thiện, Thân Trọng
Sự, Nguyễn Tư Nghiêm đã ra Ngã Tư Sở ở địa điểm tạm, chờ đi. Trụ sở hội Văn Hóa
Cứu Quốc gần bờ hồ Thiền Quang không còn ai. Thâm Tâm đưa vợ con tản cư về Hải
Dương, trở lên thì đã nổ ra kháng chiến. Những bài thơ về đường số 5 trong khói
lửa của Thâm Tâm có hơi hướng những việc nhà này. Thâm Tâm vào bộ đội ở báo Vệ
quốc quân của Lê Tất Đắc. Tôi gặp lại trên đồi Đồng Lư bên sông Đáy gần chùa Trầm,
chùa Thày. Nam Cao về quê thu xếp việc nhà rồi ra làm báo kháng chiến của tỉnh
Hà Nam. Tôi có giấy tờ ở lại khu ll (Hà Nội) làm phóng viên mặt trận của báo Cứu
Quốc. Vợ chồng Nguyễn Sáng xắm nắm, không biết rồi sẽ đi thế nào. Nguyễn Sáng
công tác ở nhà in bộ Tài Chính, cơ quan tối mật in giấy bạc, tem và công phiếu
kháng chiến. Làng nào, phố nào cũng đương ráo riết đề phòng việt gian, canh cả
những giếng nước, vòi nước, sợ việt gian bỏ thuốc, bôi thuốc độc vào vòi nước.
Chẳng may ai có bộ quần áo tôpican mép vải viền xanh trắng đỏ tam tài, hay
trong túi có cái gương “ám híệu máy bay” thì bỏ đời rồi. Không thể cơ quan tài
chính quan trọng thế mà lại có con đầm mũi lõ mắt xanh đi theo. Nguyễn Sáng và
Jermen phải chia tay. Họ xa nhau thế nào, tôi không biết, cũng không bao giờ hỏi.
Chỉ đến 1954, trở về thành phố, mới hỏi có tin tức Jermen không. Nguyễn Sáng
nói: “Biết đâu mà tìm. Chắc nó về Tây đã lâu". Rồi đùa: “Mày làm báo hay
đi nhiều nơi, dò la hộ tao xem nó ở đâu". Từ đấy, chẳng bao giờ nhắc đến nữa.
Nguyễn Sáng mê gái hay để ý những cô gái mới lớn. Lý luận vơ vào
của anh ta rằng “tình yêu không có tuổi". Bởi thế hay đến ăn kem que nhà
Tiến Đạt. Tôi chẳng còn ở tuổi lăng nhăng thuở nào đi hộ vệ Đinh Hùng, Nguyễn
Bính ngày ngày vào mua phong thuốc lào Đông Phát trước cửa chợ Đồng Xuân có cô
bán hàng bắt mắt rồi lại đảo qua phố Mới cầm ra quyển Bồng Lai hiệp khách ba xu
của ông Tàu Lý Ngọc Hưng viết truyện kiếm hiệp, để được nhìn mặt, đụng tay cô
Sính con ông ấy. Nhưng cũng đôi ba lần tôi đến hàng kem Tiến Đạt làm khách đứng
ngoài quầy, xem Nguyễn Sáng ăn hết mấy que kem mà vẫn chưa dứt chuyện. Nguyễn
Sáng không đi thực tế là vậy, cũng chẳng ai để ý. Nhưng tôi thương nhất Nguyễn
Khắc Dực viết kịch, xin mấy lần mà không được đi. Tôi quen Nguyễn Khắc Dực trước
1945. Cái khi ở Hà Nội mọi thứ rối ren, từ miếng cơm đến thời sự. Quân Nhật đã
đánh vào Lạng Sơn, đổ bộ Hải Phòng. Đường tiếp tế ét săng Hải Phờng-Trùng
Khánh, Pháp cho Tưởng Giới Thạch thuê đã bị Nhật chặn phá. Rồi Pháp-Nhật có choảng
nhau to hơn không, ở những đâu nữa. Các đảng viên thân Nhật mọc nhua nhúa.
Trong khi các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh đã công khai bán tín phiếu, tổ chức
lan rộng, có cả Việt Nam Cứu quốc hội, nghĩa là bao gồm người cả nước cứu quốc.
Trong thanh niên, ở các tổ chức công khai và cả bí mật liên miên tranh luận lý
thuyết, đến cả ở sân trại giam sở Liêm phóng Bắc Kỳ, mà tôi đã được chứng kiến,
người ta cũng sôi nổi cãi nhau chửi nhau quốc gia hay quốc tế, đệ tam hay đệ tứ.
Tôi cũng quen mấy cha theo đệ tứ áng lứa tôi lúc ấy hơn tuổi một
chút có Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Xuân Huy, trên nữa có Phạm Ngọc Khuê, em em tuổi
tôi đôi chút cỏ Nguyễn Khắc Dực, Vũ Tăng... Tôi chẳng bao giờ nhớ mạch lạc thế
nào, cứ triền miên những câu biện chứng pháp hạt đậu thành cây đậu... cách mạng
thường trực, cách mạng phải lên toàn thế giới mới đến thế giới đại đồng... Cũng
là những câu nhặt trong sách Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu nhà xuất bản Tân Việt in.
Một thời hoang dại của con người ta, gân cổ cãi cọ những ngược đời và đam mê. ở
quãng không còn tuổi thiếu niên của chúng tôi, cũng chưa hẳn đã thanh niên,
dòng đời còn loăng quăng, cái gì cúng vỗ ngực ta đây, nhưng thật thì chưa biết
mình rồi ra sao. Có điều, nếu đứa nào làm mật thám Pháp, Nhật ăn lương tháng
hay được trả tiền vụ tiền từng việc, thì là quân trộm cướp, bị khinh, bị chửi
và mọi người xa lánh. Quốc Dân đảng hay Đại Việt mới mọc ra đấy và có quan thày
Nhật cũng coi là lớ quớ, làm tiền, cơ hội. Chúng tôi thiên về quốc tế mới hơn đệ
tam quốc tế mà tôi theo từ thời ái hữu, nghiệp đoàn rồi thành niên phản đế, bây
giờ là mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh, nghe có sự tin cậy và quyết tâm.
Nguyễn Khắc Dực cũng như tôi, nhưng nó lại mê cái cách mạng thường trực của tờ-rốt-kít.
Cho đến kháng chiến, cũng không gặp lại. Nghe nói Nguyễn Tế Mỹ bị thủ tiêu ở
Thanh Hà và Dực bị bắt ở Sơn Tây. Rồi đích xác thế, tôi còn biết Dực bị giam
cùng với Nguyễn Hoạt trên khu du kích vùng núi Ba Vì của tỉnh Sơn Tây. Tôi biết
như vậy cũng vì Nguyễn Hoạt. Nguyễn Hoạt người làng Đông trên Bưởi. Tôi quen
Nguyên Hoạt ở làng Đông hay Doãn Quốc Sỹ dưới Cót, những đứa trạc tuổi, cùng
vùng và có chút chữ nghĩa. Làng Đông có mấy thằng cùng tôi, Hóa, Uẩn với Hoạt.
Hòa và Uẩn học với tôi trường Yên Thải. Rồi sau Hòa làm lý trưởng, gọi là lý
Hòa. Uẩn thì đi lính không nghề Ons sang Tây. ấy thế mà năm 1952, trên mặt trận
Tây Bắc, tôi trông thấy thằng Uẩn mặc bộ đội đứng ăn cơm tập thể đổi đầu đũa dưới
nhà bếp địa phương quân tỉnh Sơn La. Tôi không tin mắt tôi. Tôi hỏi, anh em bảo
đấy là đồng chí Đông, sắp lên quân chủ lực. Lúc kháng chiến, ta hay đổi tên, gọi
là bí danh, nhưng Đông, làng Đông thì đích thằng Uẩn rồi. Tôi chưa kịp gặp, Uẩn
đã lẩn đâu mất. Chắc nó đã trông thấy tôi. Không hiểu sao nó lại lánh mặt. Còn
Nguyễn Hoạt tôi quen khi tôi đã ra học trường tiểu học Yên Phụ. Nguyễn Hoạt học
trưòng Bưởi, cấp trung học hơn trường tôi. Nó gãy còm nhom, hay bị trẻ con làng
Thụy, làng Hồ bắt nạt, đón đánh mỗi khi đi học qua. Trong cặp tôi đã trữ săn đá
đường tàu điện, gạch củ đậu để ném chó, ném sấu và phòng nện nhau. Tôi đã mấy lần
cứu thằng Hoạt, tôi đánh bọn làng Thụy, làng Hồ chó cậy gần nhà bắt nạt Hoạt.
Thế là chúng tôi thành bạn. Rồi bẵng đi đến 1945, tôi được tin Nguyễn Hoạt giữ chức
“tỉnh chính phủ Quốc Dân đảng” dưới Nam Định. Khi đó, tỉnh nào có quân Tàu Tưởng
đóng thì ở đấy có trụ sở Quốc dân đảng Việt Nam núp bóng treo cờ Tàu có hình mặt
trăng mà chúng tôi gọi là cái cờ “ru líp” xe đạp. Đến kháng chiến, Hoạt bị
tù.
Nguyễn Hoạt và Nguyễn Khắc Dực đều bị bắt ở Sơn Tây. Nói là phải
tù, nhưng đều làm công tác- Nguyễn Khắc Dực kể với tôi: “Chúng tớ công tác địch
vận. Viết và in đá lăn tay truyền đơn chữ Pháp cho bộ đội vận động lính âu Phi:
Có đến hơn ba năm di chuyển quanh quẩn trong chiến khu Ba Vì. Rồi hai đứa được
thả.
Mỗi người đi mỗi nơi. Nguyễn Hoạt “dinh tê” vào Hà Nội. Nguyễn
Khắc Dực tìm lên cơ quan văn nghệ kháng chiến. ở tận vùng hậu địch khu hai, khu
ba, lần mò thế nào, không biết dòng dã bao nhiêu lâu mà Dực tìm được, tới được
nơi chúng tôi đóng cơ quan quãng cây số 7 trong chân núi Là đường Tuyên
Quang-Hà Giang. Thế là Nguyễn Khắc Dực ở với chúng tôi. Dực lặng lẽ, nghiêm nghị,
chẳng còn hung hăng cách mạng lung tung kỳ củng như xưa nữa. Có lẽ cũng chỉ có
tôi biết cái thuở bát nháo ấy của Dực, chứ Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Ngô Quang
Châu, Nguyễn Văn Mãi chẳng biết đâu và tôi cũng không nói lại với ai là thằng Dực
phản động và ở tù ra. Nguyễn Khắc Dực tham gia phát động giảm tô ở Thái Nguyên,
viết kịch Con bò quả thực được giải khuyến khích của Hội Văn nghệ Việt Nam, năm
ấy đặt ra glải thưởng văn học đầu tiên. Dực hăng hái và nền nếp chẳng khác
chúng tôi. Đời người ta ai ngang bằng sổ ngay biết trước bao giờ, - ngẫm ra thế.
Nguyễn Khắc Dực không viết báo Nhân Văn. Không làm đặc san Giai Phẩm. Cũng như
nhiều anh chỉ mới có tên quảng cáo tác phẩm ở bìa 4 sách nhà xuất bản Minh Đức
“sẽ in, sẽ ra” cũng bị liệt vào cái bị ấy cả. Nhưng Nguyễn Khắc Dực thì không,
dù các anh kia thì cũng ở một cơ quan, hàng ngày gặp. Thế mà Nguyên Khắc Dực
cũng chả chơi, Dực tu tỉnh và biết mình. Cái vạ xảy ra ở trên trời rơi xuống. Bỗng
dưng Nguyễn Khắc Dực nhận được cái thư của Nghyên Hoạt từ Lào gửi về. Không biết
Nguyễn Hoạt ở Sài Gòn sang Lào hay nó ở Sài Gòn nhờ người bên Lào gửi hộ. Hồi
đó thư từ Bắc Nam không mấy ai viết vài chữ gửi đường bưu thiếp theo hiệp định
Giơ Ne. Người ta hay nhờ người quen ở nước ngoài chuyển. Tôi cũng thường có thư
cho chị Tư tôi ở miền Nam. Thư sang Pháp, cô Thu Trang ở Pari gửi tiếp cho về
Sài Gòn. Tôi không được đọc cái thư của Nguyên Hoạt viết cho Nguyễn Khắc Dực.
Nhưng nhiều người đã được đọc, hay là, chỉ được nghe nói lại rồi thêm râu ria
vào thì đúng hơn. Nhưng đã nhiều người biết, có khi cũng bởi Nguyễn Khắc Dực đã
khoe chăng. Cu cậu cũng thú vị chứ, các ông viết lách là chúa trống mồm, hay bốc.
Cái thư của “phía bên kia” của địch, giao thiệp với địch sờ sờ
ra đấy, lôi thôi hơn biết bao nhiêu những phóng sự “Xiếc khỉ” của Quang Dũng
hay bài ký tả chuyện mất xe đạp trước cửa hàng nhà mậu của Thanh Châu mà lúc ấy
có tiếng xì xào. Thư của Nguyễn Hoạt kể anh ta đương tài danh nhất Sài Gòn và
có tiếng ra thế giới, ký bút danh Hiếu Chân, đã viết báo lừng lẫy lại dịch đăng
báo và in Liêu Trai Chí dị. Đi xe hơi có vệ sĩ hộ tống, đương vận động vào nghị
viện. (Khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, Nguyễn Hoạt đã làm nghị sĩ trong Thượng nghị
viện). Tôi không biết Nguyễn Khắc Dực đã bị kiểm điểm tóe khói hay thế nào. Dực
đã về công tác hội Sân Khấu. Việc Nhân Văn Giai Phẩm đã qua lâu, nhưng việc này
thì như vết tràm trên trán, không xóa được. Cho nên Nguyễn Khắc Dực không được
đi thực tế như mọi ngươi. Nhưng rồi có Vương Lan nhà viết kịch xung phong về
giup sân khấu vùng mỏ, Nguyễn Khắc Dực lại lên xuống xin cơ quan mấy lần mới được
đi Hồng Quảng, công tác biệt phái đề tài công nhân. Đi vào các đề tài sáng tác,
chuyện tự nhiên với chúng tôi, nhưng đã bị mấy phen vấp váp, đến lần tai bay vạ
gió này thì quá rồi. Xuống vùng mỏ, Nguyễn Khắc Dực đã đi hẳn vào núi, viết về
người Dao quần ống chẹt. Một lần, Nguyễn Khắc Dực về Hà Nội tìm tôi, khoe: cái
kịch dài viết về dân tộc Dao của Nguyễn Khắc Dực sắp được diễn ở thị xã Hòn
Gai- tôi không nhớ tên vở kịch. Dực rủ tôi xuống xem. Nhưng tôi không cố gắng
đi được. Bẵng đi, nghe tin Dực ốm rồi qua đời. Còn các thằng Hiếu Chân Nguyễn
Hoạt làm báo Tự Do ở Sài Gòn, đã viết cái thư giết Nguyễn Khắc Dực kia, tôi được
biết nó ở lại Sài Gòn. Có lẽ cũng không ai buồn xách cái tã ấy đi di tản. Thằng
Điều bạn người làng tôi ở Sài Gòn lâu năm, Điều kể gặp Nguyễn Hoạt hỏi nó có muốn
gặp Tô Hoài không. Nguyễn Hoạt lắc đầu. ít lâu sau, nghe tin nó chết bệnh. Các
văn nghệ sĩ ở Việt Bắc, ở khu Năm, ở Nam Bộ ra đều đã quen các đợt công tác thực
tế trong kháng chiến. Cái dễ và cái khó nhất là đối với người đương ở Hà Nội bấy
giờ. Chưa mỗi chốc đã vào làm việc một cơ quan nào, nhưng được bảo đi thực tế, là
dấu hiệu được tin cậy.
Chị Mộng Sơn bảo:
- Tôi xuống lao động nhà máy dệt Nam Định.
Tôi thật tình nói:
- Chị đã quen thuộc thành phố, chị nên...
Mộng Sơn ngắt lời ngay:
- Anh cho là tôi không được đi với công nhân à?
- Không, không... Vâng, vâng... chị đi nhà máy... nhà
máy...
ở Nam Định về, mấy tháng sau ở tổ sáng tác, chị không nhờ tôi đọc
bản thảo, cũng không cho tôi những quyển sách của chị mới in, như năm trước chị
và anh Uyển Diễm đã tặng tôi sách của nhà xuất bản Vỡ Đất của anh chị. Chị cho
là tôi thành kiến khả năng sáng tác về công nhân của chị.
Với Hồ DZếnh thì gọn việc. Tính anh cẩn thận, chu đáo, tính
toán, người nhà vào nằm bệnh viện Bạch Mai, anh đi chăm nom, lại xin cái giấy
giới thiệu viết bài báo về bệnh viện. Anh bảo anh thích đi thực tế, nhưng anh bận
việc gia đình, nhà có cháu nhỏ, anh đề nghị đi nhà máy xe lửa Gia Lâm, vừa thâm
nhập thẳng vào giai cấp công nhân lại tiện đi về gần nhà. Nhiều người thiết tha
đi, phụ cấp tiền chỉ cái hương cái hoa. ở nhà máy xe lửa Gia Lâm, Hồ DZếnh làm
với tổ sơn toa tàu, được trả tiền công khoán cẩn thận - Hồ DZếnh bảo tôi thế,
tôi cũng lây cái ham thích của anh. Hồi ấy, anh cho tôi những tập thơ Rừng
phong của Vũ Hoàng Chương nhà xuất bản Đông Phương của anh in 1953 và tập thơ
thiếu nhi Mâý vẩn tươi sáng của Trần Trung Phương. Anh nói: “Tôi tặng sách,
nhưng tôi không phải người quị lụy đâu nhé". Tôi hiểu câu anh nói. Trước
kia, tôi cũng chỉ biết, không quen Hồ DZếnh. Khi ấy, anh đã thôi đứng bán hàng
tơ lụa cho Thượng Hải thương điếm, nhà Phan Thái Thành ở Hàng Ngang. Anh đi sửa
mo-rát, trông nom nhà in á Châu xuất bản cục phố Emin Nôly - đường Châu Long
bây giờ, chủ nhà in và xuất bản Nguyễn Bá Dĩnh mượn anh, nhưng Dĩnh cũng là bạn
anh. Tập truyện ngắn Chân trời cũ của anh in ở đấy. Những hôm cạn tiền đi uống,
đi ả đào, Vũ Trọng Can và tôi đứng đầu phố đợi Nguyễn Bính vào nhà in á Châu đả
tiền Hồ DZếnh. Anh thường cho chúng tôi tiền, nhưng cũng như Trúc Đường trong
Ngũ Xã, anh không kéo lũ đi đàn đúm với chúng tôi. ý tứ Hồ DZếnh là “tôi tặng
anh sách, nhưng tôi không cầu cạnh anh đâu"..
Nhiều anh em viết trước 1945 ở Việt Bắc về, Nguyễn Tuân, Nguyên
Hồng, Kim Lân... gặp lại người quen, nhưng cũng mỗi anh một cách. Nguyên Hồng
chỉ chăm chú quanh tuần báo Văn không gặp lại ai. Nguyễn Tuân gặp Đoàn Phú Tứ ở
ngã tư Bà Triệu. Vẫy xe đạp Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ nửa đùa nửa thật nói: “Moa
là đại biểu Quốc Hội đấy nhé". Trước kia, Đoàn Phú Tứ là đại biểu Quốc Hội
Nam Định thật. Nguyễn Tuân không bắt tay, đi thẳng.
Chương II
Tôi thì giao thiệp với các bạn vì công tác cụ thể, và cũng vì
tôi có những quen thuộc ngóc ngách hơn. Dễ thường chỉ tôi biết bút danh Sửu
(Nguyễn Ngọc) trước kia có sách cho thiếu nhi loại Hoa Mai nhà xuất bản Cộng Lực
của Bùi Xuân Tuy có ông phụ trách biên tập Lê Roãn Riệu- cái tên lạ quá, nên cứ
nhớ, đã sáng kiến vẽ huy hiệu cái thừng ở bìa sách, mà chúng tôi thường đùa là
cái thừng trói người viết vào người xuất bản. Thy Ngọc làm biên tập nhà xuất bản
Kim Đồng, một thời gian bị chuyển sang làm mi và vẽ, cái cơ quan “quyền rơm” của
chúng tôi chẳng giúp được gì Nguyễn Minh Lang học xong Đại học Nhân dân rồi đi
dạy học, chúng tôi xin về làm báo, sở giáo dục thành phố không cho, cũng chịu.
Chánh văn phòng Vĩnh Mai đưa các anh Thanh Châu, Hữu Loan, Quang Dũng ở Thanh.
Hóa ra vào biên chế báo thì được, vì các anh ở vùng kháng chiến, nhưng cũng như
mọi ai mới vào biên chế, phải đứng ở lương biên tập hạng khởi điểm. Hồ DZếnh đã
dịch và in một tiểu thuyết Nhật cho nhà xuất bản Thanh Niên. Nhà xuất bản muốn
nhận Hồ DZếnh vào làm. Những cơ quan có trách nhiệm xem xét thấy có thời gian Hồ
DZếnh làm đại diện bên Nhật của báo Thần Chung ở Sài Gòn. Mọi việc báo và xuất
bản của các cơ quan khác, chàng mảy may bận đến hội, nhưng đến lúc có trắc trở
thì bù nhìn chúng tôi được khiêng ra trả lời. Tôi có đọc một bài báo Trần Thanh
Địch viết về Hồ DZếnh có câu trách hội cái sự này. Và Hồ DZếnh sau đó, đi đường
gặp tôi, coi như không nhìn thấy. Cũng như Ngọc Giao đã dự đại hội thành lập Hội
Nhà Văn Việt Nam 1957, nhưng đến khi đại hội văn học nghệ thuật toàn quốc, Ngọc
Giao không được mời thì cũng không phải do Hội nhà văn cứng rắn đến thế. Trong
kháng chiến, trên tạp chí Văn Nghệ in ở Việt Bắc, tôi đã đăng một bài đánh tiểu
thuyết Mưa thu viết chửi cộng sản của Ngọc Giao in ở Hà Nội. Đến năm gặp lại,
Ngọc Giao bắt tay tôi, thủ thỉ: “Một đòn rất tốt, rất tốt". Anh lại đã viết
báo lời sám hối về tiểu thuyết đó và kể lại ơn tôi về bài phê bình Mưa thu của
anh. Nhưng không được dự đại hội văn nghệ, Ngọc Giao gửi cho tôi mấy câu thơ chửi
mỉa mai, cay cú. Biết làm thế nào, những “vạ đá” này. Bây giờ cũng ra những
chuyện ngày xưa cả rồi.
Nhưng Sao Mai đi thực tế thì khác, có thể là một thiên tiểu thuyết tự truyện kỳ
tình, xã hội, bi hài. Tôi biết tiếng Sao Mai qua mấy mẩu truyện cực ngắn trên tạp
chí Văn nghệ in một kỳ: Uất, Căm, Đi, Đổi mà Nguyễn Huy Tưởng khen rất hay, đã
chọn được trong những bài dưới khu Ba gửi lên và in tạp chí. Đi thực tế người
ta đi khắp nơi, Sao Mai xin về làng quê vợ vùng đồng chiêm Nam Định. Vừa tự
nguyện, lại tự giải quyết mọi mặt, nhẹ nhàng quá. Sao Mai viết khỏe, đã in ngay
phóng sự Trại di cư Pagot Hải Phòng- đến lúc tiểu thuyết Thôn Bàu thắc mắc ra
thì “có vấn đề” mà lúc ấy Sao Mai không muốn nhắc đến nữa, nhưng tôi chắc anh
này về làng, thế nào cũng viết được cái gì đây, tôi tin khả năng Sao Mai.
Một hôm chúng tôi với họa sĩ Phạm Khanh ăn chả cá ở nhà hàng Sơn Hải- có họ hay
quen thế nào với Sao Mai. Trong lúc nhấm nháp, Sao Mai làm vẻ đùa nghiêm: “Báo
cáo anh, tôi đi thực tế thành công rồi". Tôi còn chưa hiểu thế nào, Sao Mai
đã cười khà khà: “ ở lại thì phải sạch sẽ chứ. Tôi cắt được cái nợ, tôi đã cai
được". Mới hay Sao Mai vừa cai nghiện. Sao Mai đã chữa bằng một liều thuốc
dân gian, mạnh và dữ, phải có nghị lực mới cai được. Sao Mai đã nhịn hút. Cái
năm 1945, Nguyễn Tuân cũng đã cai. Khi cảm thấy cồn cào nhớ bữa, Nguyễn Tuân ra
đầu ô, làm mấy chén rượu, nằm kềnh cang lơ mơ một lúc, rồi về. Cơn nghiện biến,
không đến hành nữa. Sao Mai có yếu hơn anh chàng phải cố nhịn, mặc cho cơn nghiền
vật dựng người dậy. Cứ thế đến đứt cơn , rồi hết cơn, rồi quên . Tôi hỏi thế
anh có phải rượu kềnh cang như bác Nguyễn không ? Sao Mai cười không ra tiếng.
Sau này mới biết anh chàng còn uống thuốc tình tang hẳn hoi, không phải chỉ rượu
mà bằng mấy bác Nguyễn ấy. Bài thuốc cai của Sao Mai có gia giảm cả vị phụ nữ.
Anh không kể cho chúng tôi biết. Anh nói lảng chuyện. "Vũ Hoàng Chương,
Đinh Hùng cũng không muốn đi đâu. Nhưng các bố sợ các ông về thì rồi ngoài này
không có thuốc. "
Sao Mai đã khỏe, rắn rỏi, trở lên Hà Nội với vợ con và nhà được thêm khẩu bồng
bế theo cả dì hai nó. Anh khéo thu xếp phòng nhất phòng nhì, sở gốc thì cạnh
nhà thờ Tin Lành bên nhà hát thành phố, sở mới ngoài Thanh Trì. Sao Mai đương
viết về anh hùng nông nghiệp Đỗ Tiến Hảo ở đấy. Vừa tiện, lại có chỗ bấu víu hờ.
Tôi đã được đọc cái bản thảo người thật việc thật ấy cho Nhà xuất bản Thanh
Niên, có đến ba trăm trang viết. Nhưng rồi ông anh hùng này đổ vì cái tật hay
léng phéng. Ông Hảo đã đến trường Nguyễn ái Quốc nói chuyện về nghề nông, khóa
tôi học. Ông nói hay lắm. Một năm tôi vào khu kinh tế mới của Hà Nội ở Lâm Đồng,
ông Hảo bây giờ đã hết anh hùng rồi lại đã có phòng nhì mới đem vào, đương đào
ao thả cá. Chén bữa cá ao nhà ngon tố hảo. Vừa đây, tôi lại có dịp qua huyện
Lâm Hà hỏi thăm thấy bảo rồi lục đục thế nào, Hảo trở ra Thanh Trì đã lâu. Có lẽ
lão cũng đã trên dưới bảy mươi rồi mà cứ chạy loạn trong nhà đến nhược người,
thật khổ thân. Sao Mai thì thao tác tinh thông hơn Đỗ Tiến Hảo một cái đầu.
Thành phố đương vận động người đi kinh tế mới. Thế là bàu đoàn thê tử kéo nhau
lên vùng đồi núi Phú Thọ và trụ lại tới bây giờ. Sao Mai đã được cử về đi khắp
các huyện ngoại thành Hà Nội, báo cáo điển hình thành công gia đình đi kinh tế
mới. Quê mới ở làng đồi Văn Luông, cả một vùng rừng đồi Thanh Sơn, Đồn Vàng đã
thuộc làu rồi. Cái hay đã nảy ra từ cái bối rối “thôi thì lôi nhau lên rừng, có
đánh chém nhau ở xó xỉnh ấy thì cứ việc". Cái hôm chè chén ở quán chả cá
Sơn Hải, anh đương đợt, hay vừa xong báo cáo thành tích đi kinh tế mới của nhà
anh cho bà con các làng ngoại thành..
Chốc đã ra quá nửa đời người. Nhưng mà vất vả rồi dần dà lại ăn về hậu vận, kể
cả cái hoạn nạn long đong họ Tân bên Tàu, ông Tân Khải Minh Sao Mai cũng vượt
được. Sao Mai trong hoàn cảnh nào thì việc viết với anh cũng như một đòi hỏi. Bận
đến mấy Sao Mai cũng cầm bút. Cái nghề chân chính đã là quả phúc của ông. Đến
lúc trời mở cửa, trời vẫn thấy ông cầm bút, rồi được tỉnh Vĩnh Phú để mắt đến,
anh em kiệu ông ra làm một chân phụ trách văn nghệ tỉnh. Năm trước, gặp ở thành
phố Việt Trì. Sao Mai cười lấp lánh mắt, lại bốc, bốc thật chứ không phải bốc
phét: “Này ông, ở Văn Luông âý mà, nhà vườn của các con các cháu Sao Mai bây giờ
san sát liền một vệt năm bảy quả đồi chứ chẳng vừa". Tôi mừng bạn một câu
rằng: Nhớ đến cái đận ông về dự trại sáng tác ở Quảng Bá, thợ mộc theo về ăn đọi
nằm chờ ông vay tiền ứng sáng tác để trả công làm nhà thì tôi thật phục cái
gan, cái trí của ông. Tôi lại khoái ông có máu đa tình mâ lại chung thủy, léng
téng với ai rồi cũng lấy người ta. Nghe nói ông mới có phòng mới. Ông lại bán
cái đất có thật để ra xây tổ uyên ương trên cành lau ở bờ sông Thao.
Thôi ta trở lại cái hôm chả cá Sơn Hải thời kỳ ấy, uống rồi thì chuyện tử tế bỗng
đâm sang nói nhảm. Phạm Khanh nói nhảm đê mê đến ghê người, sởn gai ốc. Nhưng
lúc nói đứng đắn thì Phạm Khanh khẩn khoản: “Ghi tên tôi vào danh sách đi thực
tế, có lao động cải tạo mới nên con ngưòi, đi đâu cũng được". - Anh đề nghị
với hội Mỹ Thuật. Chắc cũng dễ. Tôi sẽ nói thêm với các anh ấy". Rồi Phạm
Khanh lên Lạng Sơn làm đường sắt. Lại thấy nói đến năm về, họa sĩ hàng ngày ngồi
thiền và tập yoga. Một hôm đến miếng cây chuối ngược, cây chuối đổ rơi từ sân
gác thượng xuống. Cũng có người thì thào: anh tự vẫn. Không biết thế nào.
Thanh Đình đã đứng tuổi, người thấp bé, nói láu táu, hôm nào cũng đến đòi đi thực
tế. Thanh Đình là tay viết truyện kiếm hiệp ba xu Người nhạn trắng từ thời tôi
còn học lớp bét, lớp ba đương mê những Dao bay, Mắt thần của Trường Xuân và Người
cá voi của Văn Tuyền Phạm Cao Củng. Những loại truyện ba xu này không được coi
là văn học. Vả lại, Thanh Đình bỏ viết đã lâu lắm. Hôm nào anh cũng đứng trước
cửa nhà xuất bản Văn Học. Gặp tôi, anh bảo. “Tôi có công tác, đợi anh Thạc".
Thạc là tên cúng cơm của Như Phong, đương làm giám đốc nhà xuất bản này. Thạc
và Thanh Đình là bạn học tiểu học trường Cửa Đông. Thấy Đoàn Phú Tứ đến tìm Như
Phong đưa bản thảo dịch kịch Ipsen, Thanh Đình nói: “Tao vào thằng Thạc, tao với
thằng Thạc là bạn nối khố cùng lớp, tao đương viết cho nó một cái trường thiên
tiểu thuyết roman neuve! ! . Nhưng rồi anh ấy cũng không năn nỉ đòi đi nữa. Buổi
chiều, tôi uống bia hơi cửa hàng ngã tư Bà Triệu-Trần Nhân Tông, thấy anh xách
cái làn to bước vào. Anh bắt tay tôi chặt. Anh không uống bia, cũng không trò
chuyện sáng tác. Anh đi bỏ mối bánh đậu, kẹo lạc cho các hàng nước. Bí nhất cái
lần gặp Nguyễn Hoàng Quân. Quân còn trẻ, không thuộc lớp cầm bút trước kia. ở
trên rừng, đôi khi đọc báo Hà Nội, thấy thơ Nguyễn Hoàng Quân. Người xạm đen,
tóc bù xù tổ quạ, mặt vuông gầy nhưng vóc người có thể lực lưỡng.
Anh tự giới thiệu:
- Thi sĩ Nguyễn Hoàng Quân..
- Chào anh Nguyễn Hoàng Quân.
- Tôi muốn được đi thực tế.
- Vâng, nhiều anh đã đi...
- Anh cho tôi biết các điều kiện đi thực tế...
- Anh có thể xuống lao động nhà máy hoặc...
Nguyễn Hoàng Quân mở to đôi mắt đờ đẫn:
- Đi làm cu li á? Tôi đã bảo với anh tôi thi sĩ...
Hình như tôi còn giải thích dài dòng đi nhà máy, đi nông thôn thế nào đấy,
nhưng rồi Nguyễn Hoàng Quân đứng dậy, đi ra. Cái dáng bước kiêu căng khuệnh khoạng,
cái bóng vía thi sĩ kiểu ốp đồng thế, làm thế nào nói cho anh ấy nghe ra được.
Nhưng Nguyễn Hoàng Quân không trở lại nữa. Tôi có ý tiếc anh còn ít tuổi, vẻ khỏe
mạnh. Nhà anh ở trên gác bên cửa rạp chiếu bóng Hàng Chiếu, cạnh cái ngõ nách
vào chợ Đồng Xuân được tiếng các gánh bún ốc, phở chua và chè sen, lúc nào cũng
bề bộn người ngồi. Một lần tôi đến, lên hết thang thấy các cửa đều đóng khóa
trái. Xuống hỏi thăm bà hàng nước ở gốc nhội vỉa hè, bà ấy nói:
“Anh ấy chết mấy tháng nay rồi, ông không biết à?"
Tôi ngỡ chẳng rõ Nguyễn Hoàng Quân chết thật hay là vì cứ huyênh hoang và to tiếng
cãi nhau với xóm giềng, người ta rủa thế.
Người đi thực tế không ai giống ai, lại nỗi những tin bối rối xa gần về. Ca sĩ
ái Loan lội bùn chết bệnh uốn ván ở Phủ Lý. Có người ở Hòn Gai lên kiện Nguyễn
Hải Trừng. Anh đã lấy vợ ở vùng than. Khi địa phương làm điều tra dân số, anh
đi khai giấu nhưng đã lộ ra có vợ trong Nam, có con ra tập kết, và anh đã rút
tuổi thật xuống gần nửa, hôm làm giấy giá thú. Người nhà nọ cốt báo cho cơ quan
biết thôi, không kiện tụng và đòi hỏi gì, cô nạn nhân ấy đã ra tòa ly dị được rồi.
Cũng lại anh ấy về sau sơ tán bom Mỹ vào Mỹ Đức, anh “nhảy dù” tai tiếng ầm
làng, rồi về Hà Nội lại lấy vợ, khi hòa bình lập lại bà ấy ra tòa xin tiêu hôn,
tôi lại phải thay mặt cơ quan đi chứng kiến. Lôi thôi quá..
Mỗi ngày loạn xạ một thứ việc, nhưng tôi lo đã ngớt, tôi sửa soạn đi Thái Bình.
Tôi sắm sổ tay, theo thói quen mỗi chuyến đi và mấy quyển sách đọc: Bàn về thực
tiễn và lời nói đầu sách Điều tra nông thôn của Mao Trạch Đông. Bài của Võ
Nguyên Giáp tôi đã nghe mấy buổi ở câu lạc bộ quân đội Kết hợp lý luận vơi thực
tiễn trong cuộc cách mạng ruộng đất ở nước ta nói về cải cách ruộng đất, chỉnh
đốn tổ chức và sửa sai. Những bài cắt ở báo của Minh Nghĩa (Trần Quang Huy)
phân tích sai lầm cải cách ruộng đất. Tôi ghi trên đầu sổ tay của chuyến đi một
câu không biết lấy được ở sách nào: Chân lý là quá trình (Lê Nin). Và đem theo
quyển phóng sự để đọc lại Tan rã (Kaputt, của C. Malaparte một phóng viên ý
trong chiến tranh thế giới lần thứ hai có chương viết về cuộc tàn sát Do Thái ở
thành phố Vacsôvi bị chiếm và các trận tuyến phía quân Đức và ý.
Bấy giờ ở Trung Quốc đã nổ ra cuộc đấu tranh trăm hoa đua nở trong văn nghệ, mà
sau đấy Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong đã phải đi lao động cải tạo trồng kê, đào
củ cải ở vùng quê nào. Nhưng chưa phải đảo lộn dữ dội như cách mạng văn hóa mấy
năm sau. Còn chúng tôi đi thực tế thì khác, chúng tôi bấy giờ đi với ý nghĩa rằng
đất nước đã sang giai đoạn mới, phải lao vào mà bắt kịp tầm nhìn. Mặc dầu tôi
đã đi làm cải cách ruộng đất và công tác sửa sai mà khi trở về xảy ra việc Nhân
Văn, cái nghĩ và làm của tôi vẫn chất chưởng, tôi cũng không cắt nghĩa được. Sự
tự ti nặng nề bấy giờ đã làm tiêu tan cả suy nghĩ và nghị lực, lắm điều đã biết,
đã nghiên cứu hẳn hoi, thế mà nghe nói lại, đọc lại cứ thấy như mới, như chưa tỏ
tường bao giờ. Tự nguyện hay không, tôi thấy tôi phải đi mới giải quyết được bế
tắc cho mình.
Tôi đáp tàu thủy xuống Thái Bình. ở bến Phà Đen tàu xuôi khi chưa rạng sáng,
cho đến lúc trông ra thấy mặt sông Cái đỏ ngầu mênh mang giữa hai bờ thấp
thoáng chân đê, lũy tre, bãi ngô, làng xóm. Những bụi chuối xơ xác vàng rượi,
những ruộng mới vỡ, những lò gạch- bóng con bò và người cày trên bãi hiện ra gầy
cao cao. Mới đi một lúc mà thành phố và mọi công việc tôi như đã bỏ lại ở đẩu ở
đâu rồi. Cái tàu thủy “màn xế” đỗ từng bến với người các vùng dọc sông quen thuộc
đã lâu đời. Người xuống khoang ngồi ràn rạt đầy các hàng ghế, nhà tàu mới đi đếm
đầu phát vé. Năm 1958 đã khác trước, làng xóm vào tổ đổi công, đương lên hợp
tác xã. Chuyến tàu Trung Hưng, tôi đi ngót một ngày về đến Cầu Bo, người lên xuống
các bến nơi nào thì đoán ra quang cảnh ấy. Một bà chít khăn vuông hoa choạc
ngón tay chùi mép quết trầu, nói: “ối dà, chính phủ đương thu người các nơi về
làm ruộng, làng nào cũng đông ơi là đông. Bây giờ mới ra cái thời nhất nông nhì
sĩ, các ông ạ".
Nhưng bà ấy thì đương chạy chợ, buôn chuyến. Những khiêng củ nâu không biết từ
bến đường ngược nào xuôi về. Bà xuống các chợ Thái lùng mua cau. Đến vùng mía
Trình Xuyên thì nhiều quang gánh buôn mật lên bến.
Nhộn nhịp khắp nơi, chẳng phải chỉ có một cảnh người về làng trong tiếng “ối
dà” câu nói lộn lưỡi của mấy mụ hàng chợ. Tôi nghỉ lại thị xã, trọ hàng cơm
trên bến Cầu Bo. Tôi đạp xe lên đầu tỉnh qua phố chính Guyn Pickê ngày trước.
Hai bên đường cỏ tranh cao ngập đầu. Bao nhiêu nãm đã qua, cái trường tiểu học
ông giáo Nguyễn Công Hoan dạy ở chỗ nào. Cái bến ô tô Thái Bình-Nam Định-Hà Nội
mà ông lang Dương làng tôi đã từng đứng đầu du côn tranh khách cho hãng ô tô Mỹ
Lâm con thỏ chẳng nhận ra đâu nữa. Đầu phố huyện Vũ Tiên, nhà hát bà ký Đường,
Nguyễn Khắc Mẫn đã viết truyện ngãn Bà ký Đưòng đăng tuần báo Ngày nay, có đêm
ông lang Dương đã dẫn chúng tôi vào hát. Chỉ còn trong tưởng tượng. Giữa bãi hoang
loáng thoáng những vườn dâu.
Hôm sau, đi Thái Ninh sớm. Cái xóm tôi đến là xóm Đồng. Về quê, chỉ những cái
tên cũng đã mường tượng được lai lịch làng xóm. Không phải như bây giờ nhà cửa
cứ mọc loang ra khắp nơi. Những cái tên ngày ấy đã chỉ ra gốc gác. Xóm Đồng,
xóm Trại, xóm Mới, xóm Ao... là những nơi ở mới bên lũy tre rìa làng, bọc quanh
các xóm Trung, xóm Giữa, xóm Đình sầm uất của các nhà có máu mặt, các nhà chức
việc. Xóm trong luỹ, ngoài lũy là nhà thiên hạ đến ngụ cư, nhà mõ, hay là nhà
đông người phải san ra, dần dần nhiều năm mới ấm chỗ, có khói bếp, cây cau, cây
rơm và đường cứt trâu.
Đứng trên đê trông xuống mênh mông - cả tỉnh Thái Binh đều bốn phía chân trời,
không nhấp nhô gò đống, không một chấm núi. Chỉ rợn lên những cánh đồng, những
con đê, những bờ tre. Con sông Diêm lừ đừ phẳng lặng. Cái chợ họp hôm họp mai
chốc lát đầu bến cũng gọi là chợ Phố, có lẽ vì cũng có lò rèn, lò may, quán nước.
Chốc chốc lại đi qua một bọn các cô, ống quần gấu váy túm lên tận bẹn, cặp đùi
đen nhánh tròn như cái chĩnh. Đoàn người vác những cái dặm xuống chuôm sâu. ở đồng
đất này, đàn bà đi đặt lờ cá, đánh te, cày bừa chẳng khác đàn ông. Gặp khi một
bọn đi dưới đồng lên các cô cứ nồng nỗng trần truồng ở đầu cống Bắc thì đàn ông
cũng không dám bén mảng qua.
Những đồng cao đương làm màu, khoanh bờ cuốc đi cuốc lại, cắm dây khoai. Người
ngâm mình dưới đìa nước vác bùn lên úp vào đầu bờ. Nhưng không phải đắp cho
khoai mà đánh đống phơi ải để ít nữa tãi xuống ruộng mạ. Mấy hôm sau, được biết
mỗi xã viên đương phải quảy ngày năm mươi gánh bùn. Phùng Quán đã đi làm được mấy
buổi, mỗi hôm xong gánh bùn khoán lại vớt lá trang, cỏ năn, dong nước về ủ cái
hố phân xanh của chúng tôi.
Cống Trà Linh ngăn mặn, làng xóm và cánh đồng bên kia lợ nước ra tận biển, đến
mùa nước, những con rươi hiếm hoi vẫn nổi từng đám. Đường ngoằn ngoèo xuống
Diêm Điền có đến mười mấy cây số ngập trong cỏ. Người sang đò về bên Thụy Anh,
trong bóng chiều chỉ nghe ánh ỏi, lao xao như tiếng chim chích choè chặp tối
hót về tổ.
Vào xóm càng rõ ra cái xóm trại còn tạm bợ. Nhà nhà đều tường đất, những hốc
khoét vào trong tường đựng mọi thứ, cái điếu cày, bó đóm, nắm giẻ rách, rổ đậu
đãi, niêu tép kho. Cái bùi nhùi rơm lấy dưới bếp lên, tiếng thổi lửa phù phù.
Đâu mà có giẻ rách làm nòm, ở xó xỉnh này cái giẻ cũng được khối việc khác. Một
người vục cái bát đàn vào vại nước, vừa uống vừa nhìn ra xem ai lạ vào xóm. ở
cái xe đạp của tôi phát ra tiếng kêu tách tách cũng kéo được mấy đứa trẻ tò mò
chạy ra, trong đám có Hoàng Trung Thông lực lưỡng cởi trần, râu rậm Trương Phi.
Tôi hỏi:
- Cánh ta ở xóm này a?
- Rải rác các xóm ở ngoài này. Rách một tý, nhưng thoáng mát dễ chịu.
Tôi đùa:
- Lại ôn nghèo gợi khổ, bắt rễ xâu chuỗi à?
Thông cười:
- Không, thích nhà nào ở nhà ấy. Tôi đã chọn cho ông một nhà ít người, kề ruộng
kề sông. Ông vào xem, mà không vừa ý thì đi nhà khác. Có rễ sẵn, rễ cái hẳn
hoi.
Tôi nói:
- Có phải bắt rễ tôi cũng xong ngay. Cậu không nhớ tớ đã đội phó cải cách a?
Tôi đi cải cách ruộng đất, hai đợt ở Quảng Xương, ở Nông Cống rồi cả đội chuyển
ra Hải Dương, đã dự hai kỳ tổng kết cả tháng trong Hậu Hiền rồi ra Quỳnh Cơi ở
Thái Bình này. Đến bây giờ vẫn như còn mê ngủ, chưa hết ngạc nhiên, ngơ ngẩn về
đợt công tác dài hạn. Quê tôi, làng nghề thủ công, dệt lĩnh dệt lụa, làm giấy.
Tôi không biết ước lượng được một miếng, một sào, một mẫu rộng hẹp thế nào. Thoạt
nhìn, cây ngô cũng như cây mía, cây lau. Thế mà tôi đã dạy cho nông dân kể khổ,
đấu địa chủ, rồi thống kê sào, mẫu, rồi cắm thẻ chia ruộng, thắc mắc gì cũng giải
đáp được tuốt, anh đội phải quán triệt mà, cứ linh binh, tất bật cả lên.
Chương III
Nghĩ lại giật mình vì sự bắt chước kỳ quặc. Cả nước ta bước vào
trường kỳ kháng chiến, có nghĩa là ở đâu cũng có tổ chức của chính quyền, của đảng,
được thế mới đánh nổi giặc ở Điện Biên Phủ chứ. Nhưng bây giờ đi làm cải cách về
xã coi như không biết, không được phép biết, không chào hỏi không bắt tay-
không mảy may giao thiệp với tổ chức sẵn có. Đội viên tôi một mình đeo ba lô lò
mò vào xóm. Cứ đoán nhà nào xơ xác nhất thì vào “bắt rễ". Rễ ấy “xâu chuỗi”
sang những nhà cố nông khác, cứ thế tôi lập nên trưởng thôn, chủ tịch, tổ đảng
và chính quyền mới toanh. Người chỉ có miếng ruộng loại riêng ra mà chẳng có ruộng
đất nhưng bị tố là có tội ác với nông dân thì cũng cùm ngay, gọi là tên cường
hào cá biệt. Tài liệu từng chữ dạy thế, khu đoàn ủy Chu Văn Biên lên lớp dạy thế,
lại nghe Trung ương Hồ Viết Thắng ngồi ô tô vôn ga đen mặc quần áo nâu về cắt
nghĩa thế, “Nông dân là quân chủ lực", chúng tôi bắt đầu tự gọi chúng tôi
là “quân ông Thắng". ôi thôi kế hoạch công tác phăm phắp từng ngày, chỉ
còn cách trí trá, nói dối mới sản ra các báo cáo kịp được. Hôm đầu đến Đồng Tiến
ở Nông Cống, tôi lảng vảng một lượt qua xóm rồi vào liều một nhà không có cổng
ngõ- đến cái cổng ngõ cũng không có thì ăn chắc là cố nông rồi. Trời đã xẩm tối.
Nhà chỉ có ba bố con, cởi trần. Thế là hay lắm. Đến lúc hỏi tỷ tê thì anh ấy
nói người ta có cái số, số tôi nghèo, trước kia, cũng có mẫu ruộng hương hỏa, rồi
bán dần. Tôi nghe mà rối ruột, thế là tại lười, tại không ăn nên làm ra, tại những
gì gì nữa, anh này có bị địa chủ đè đầu cưỡi cổ không? Tôi hỏi, anh bảo: Không.
Thế thì không phải bần cố rồi. Gà gáy, tôi đeo ba lô lủi tìm nhà khác, ba bố
con còn ngủ ngáy kho kho.
Cái khi xuống Quảng Xương, nhớ lại vẫn còn hốt. Tôi tìm vào một nhà, cái ang đựng
nước cũng làm bằng một mảnh trôn vại, nghèo quá. Đúng là rễ, mà rễ cái nữa. Thấy
anh đội ba lô vào nhà mình, sướng tỉnh ngưòi, chập tối người chủ nhà cầm ở đâu
về một bọc lá chuối.
- Cái gì thế?
- Cái dái trâu.
Rồi anh nói cho biết:
- Các xóm ngả trâu nhiều lắm, giết hết. Sợ bị lên địa chủ mà. Tôi bảo cho tôi
cái này về thết anh, được ngay. ấy nhờ oai anh mà tối nay nhà tôi mới được ngửi
hơi thịt trâu. Tôi cứ chạy đùng đùng, thằng Tào Tháo đuổi tôi cả đêm. May quanh
bờ rào bãi hoang, bĩnh chỗ nào cũng được. Vào nằm rúm ró thở mà không dám rên.
Tôi bảo:
- Anh đi hái cho tôi mấy cái lá ổi, anh ơi!
- Để cho nó cầm à? Không nên đâu. Chốc nữa ăn cơm thì khắc khỏi.
Tôi lử lả, không còn hơi để hỏi tại sao ăn cơm lại khỏi tháo tỏng. Hãy còn tối
đất, anh chủ nhà đem cái niêu mới bắc ở bếp xuống, tôi sờ tay thấy nóng, nhưng
lại ram ráp như bột, không phải cơm.
Anh ấy nói:
- Đã lâu không biết mặt hạt gạo. Cám đấy. Nuốt cái này thì bụng cứng lại ngay,
hết đi ỉa. Cố ăn một bát, anh ạ.
Cám thì như mạt cưa, mày gỗ, có lẽ cám đã hút tiệt phân lỏng trong bụng. Tôi hết
đi ngoài. ăn hai bữa cám, cả tuần không đi ra được, bụng réo òng ọc, rồi đau cuộn
lên, nổi từng cục. Đến bây giờ trông nhà nào tuềnh toàng, không có bức vách, lại
nhớ nhà anh ấy ở Quảng Xương, tôi còn trợn.
Tổ trưởng Hoàng Trung Thông cắt đặt cho tôi với Phùng Quán, hai người làm một
nhóm. Quán ở nhà khác, thường ngày đến chỗ tôi, lúc ngủ; lúc ngồi chơi, lúc bới
ra việc làm. Quán bảo tôi:
- Anh trông ông lão nhà anh ở có giống ông Phan Khôi không?
Tôi lạ vì cái so sánh của Quán. Một ông đù đờ mù chữ với một ông khinh khỉnh bụng
một bồ chữ, giống thế nào được. Nhưng rồi tôi để ý thấy Quán nói đúng, mặt ông
Ngải mai mái, không trắng, không xạm. Người suốt đời ở ngoài đồng áng mà da
không bắt nắng. Cái nước da nhờn nhợt ấy thì có giống ông Phan Khôi. Quán nhận
xét tinh, nhưng chỉ bề ngoài Phan Khôi, tất nhiên. Về cái ngang ngạnh đốp chát
của Phan Khôi thì chúa thằn lằn, tôi đã nếm mùi. Mấy năm cùng ông một cơ quan,
khi Phú Thọ, khi sang Thái Nguyên, khi trên Tuyên Quang. Còn non tuổi, tôi đã đọc
Phan Khôi trên báo Phụ Nữ Tân văn, Phụ Nữ Thời đàm ở Sài Gòn, ở Hà Nội, tôi nhớ
bài thơ dài in cả trang báo Chơi thuyền trên sông Tân Bình bài này nhớ được,
hay hơn bài Tình già, mặc dầu bài viết thể thơ cũ.
Ông ký Phan Khôi, Chương Dân, có khi ký Thông Reo tôi cũng nhận ra. Văn ông
khác thường. Kinh thánh cả Tân ước, Cựu ước của hội đạo Tin Lành, người ta bảo
ông dịch thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng đã đọc. Có chương Nhã ca lời rất
thơ, Phan Khôi lại có cái tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra in trong Phổ thông Bán nguyệt
san nhà xuất bản Tân Dân, nhưng viết nhạt đọc mãi mới hết, như gà ăn cám phải lắc
cổ.
Tôi bảo Quán:
- Tôi thích lời Phan Khôi bình bài thơ Cái thước của Nguyễn Xuân Huy trên Phụ nữ
Thời đàm. Nhưng sao không thấy in vào Chương Dân Thi Thoại. Có lẽ quyển này ra
trước khi ông viết bài đó. Tôi hỏi, ông ý ngồi im không trả lời, chẳng ra khinh
ngưòi, chẳng ra điếc. Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra đọc chán bỏ xừ. Lý luận Phan
Khôi chỉ thú vị lúc nào lời lẽ ngang như cua. Nhưng giáp mặt ông, tôi chỉ nói
tâng ông: Văn Phan Khôi ngang tàng. Ông ấy cũng lặng thinh, chẳng nói sao.
- Ông Phan Khôi còn coi ai ra gì! ông ấy đánh giá tôi là thằng con nít. ấy thế
mà ông lại thích bài Lời mẹ dặn của em.
- Chắc vì bài thơ ấy cũng ngang như cua.
Chúng tôi cùng cười. Tôi kể:
- Mình đọc Phan Khôi nhiều đến thế từ thuở bé, ông phải khoái lắm chứ. Thế mà
ông ấy đốp một câu:
"Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anh viết có ra cái gì. Nghe có
người nói anh viết truyện con giun, con dế".
Chuyện với ông Phan Khôi khi nào cũng ngại, nhưng lại vui và thích được khích
ra những cái ngang ngạnh. Ông tuổi tác, được trên trọng vọng, nhưng ngạo đời,
chúng tôi ở liền phải phục dịch ông và hứng những cái khó chịu. ở trên rừng,
không có lĩnh lương tháng, ông chén tiểu táo- tiểu táo là chế độ cao cấp, còn
chúng tôi ăn đại táo lại là hạng cơm ngữ với muối rang. Khi về Hà Nội ông được
đãi tiêu chuẩn nhân sĩ, cả khi xảy ra Nhân Văn, ông có dính líu nhưng vẫn được
hưởng thế, có người phục vụ là bà vợ bé của ông, cho đến khi ông mất. Các ông
Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách còn khuya cũng chưa bằng. Cụ Ngô Tất
Tố, cái khi bị ung thư gan đã nặng nằm nhà ở đồi Cháy trên Yên Thế còn ngậm
ngùi vì chuyện ấy. Anh em xung quanh như tôi, dưới mắt ông, chỉ là bọn để sai
phái “những thơ lại của chế độ", ông dửng dưng như không. ấy thế nhưng ông
lại dễ chuyện các thứ tiếu lâm và có Yến Lan giúp việc thư ký giải thưởng hội
Văn Nghệ, Yến Lan tính cẩn thận thì Phan Khôi cũng cẩn thận và chu đáo thế, ông
sốt sắng viết báo khi tôi hỏi móc ông những chuyện hiểm: “Có phải năm 1946, ông
làm Trung ương ủy viên Quốc Dân Đảng", mặt ông vẫn lạnh lùng nhợt nhạt thế.
Rồi lại những chuyện tiếu lâm. Tôi vẫn trêu:
- Ông Ngô Tất Tố kể là hồi làm báo ở Sài Gôn, ông hay tranh luận sinh sự, nhiều
người ghét muốn lánh ông, cho nên ông đi đâu cũng phải xách theo cái ba toong.
Ông Phan Khôi được gãi vào chỗ khó chịu, cười khẩy:
- Ông Ngô là thằng lý Đình Dù ra tỉnh mới tưởng thế chớ. Tôi cầm cái gậy song nạm
bạc, có đấy. Nhưng cầm ba toong đội mũ phớt là ăn chơi mốt Tây thời ấy chớ đâu
ba toong để đánh nhau, để phòng thân. Đồ nhà quê!
Tôi ngẫm có thể ông Phan Khôi nói đúng. Tận sau này cái thời tôi hai mươi tuổi,
ở trong làng đi chơi chúng tôi cũng nhung nhăng áo pigima xanh trứng sáo, viền
tím, tay chống ba toong song, trong túi có cái đèn Đe mông hai, ba pin.
Vì cái câu Phùng Quán nói ông Ngải giống ông Phan Khôi mà lại lan man. Quả là
Hoàng Trung Thông đưa đến nhà ông Ngải ở xóm Đồng cạnh rìa luỹ, thông thống ra
ruộng, xuống đến lợi nước mới lơ thơ mấy búi tre, búi hóp be bờ phòng mùa lũ khỏi
lở.
Ông Ngải lúi húi dưới cầu ao, đương mổ con vịt.
Thông nháy mắt nhìn tôi:
- Thế nào, ở được chứ? ông chủ nhà giết vịt đón khách đấy.
Ông Ngải đã chùi tay vào mỏm cọc cầu ao rồi lên tựa lưng vào bụi tre. Quanh đấy,
lỉnh kỉnh ống điếu cày, ấm nước, mấy mẩu gộc cây làm ghế cạnh cái bát đàn, như
bàn uống nước ngồi chơi ngay bờ ao. Tôi mới để ý cái khóm tre lép. Nói đến tre,
người ta tưởng lũy tre, khoanh tre chằng chịt, lởm chởm gai, trộm cướp và con lợn
con gà không lách, không chui được. Chiều chiều, đàn cô bợ đi ăn về đậu ngất
ngưởng trên ngọn.
Đêm gió bấc, những tay tre kẽo kẹt nghiến vào nhau.
Chẳng ai để mắt đến cái giống tre lép, cao hơn đòn gánh, bằng cây sậy mà không
có gai, mọc thành búi trong các xó xỉnh ao chuôm.
Bụi tre lép lá lưa thưa nhợt nhạt. Tên là lép, đã biết là giống tre hèn, vót
làm đũa, chẻ cái lạt cũng không xong. Mỗi búi vài mươi cây đầu xóm, bờ ao, ngõ
ngang như bờ rào chỉ đường. Trẻ con chơi đánh hú rúc vào giữa bụi. Những con
trâu, con bò dưới đồng về, đã thành lệ, bao giờ cũng đứng cọ sườn vào lưng cây.
Con đỉa rơi phọt máu tươi, con ruồi trâu mải hút máu, chết kẹp giữa thân tre.
Quanh búi tre, nơi cho người ngồi hóng gió. Ông Ngải luẩn quẩn quanh bụi tre
lép, tha việc ra đấy làm, kể cả cái điếu, ấm nước
Người đi qua, khách vào nhà, cũng ghé xuống, vui chuyện đưa đà ngồi một lúc.
Chẳng biết từ bao giờ, cái búi tre lép ngoài bờ ao đã thành chỗ dừng chân chẳng
khác cái quán dưới cây muỗm đầu làng. Những gộc tre đã lên nước sẫm như củ nâu.
Lưng búi, những bó lạt cật quàng vào đấy. Cái rỏ, cái lờ, cái hom lươn ông Ngải
đương đan rồi gác lên búi, như mái hiên. Ông Ngải nói: “Đêm hè ngủ ngoài này
mát, gió hây hẩy bằng mấy quạt kéo, quạt điện ấy chứ". Cả cái xóm Đồng
cũng chưa biết mặt cái quạt điện thế nào. Cạnh đấy, trên ba hòn gạch chỉ ông đầu
rau, nồi nước luộc vịt đã sôi lăn tăn.
Ông Ngải bảo Thông:
- ở đây chốc nữa chén thịt vịt.
Thông cười:
- Ông thánh quá, đã bói được hôm nay nhà có khách.
- Ông khách số đỏ. Tối hôm qua, con cạc này phải rái lên ngoạm mất cái cổ. Tiết
đông cả, mất hãm được tiết canh. May mà nghe tiếng vịt quác, tôi chạy ngay ra,
không thì nó tha mất. Ngoài sông, ở những bờ bụi kia, lắm giống rái cá, cả con
rắn hổ mang, hổ lửa nữa. Nhưng cũng chưa lắm bằng ngày trước.
Ông Ngải cầm chiếc đũa cả lật con vịt trong nồi cho được chín đều. Con vịt cụt
cổ, tròn thu lu như cục thịt
Ông Ngải trỏ xuống bờ ao. Chỗ con rái cá bò trong ráy ra, mặt bùn còn nhẵn dài
vệt bụng trườn
Thông nói:
- Thì bụng con cạp nong cạp nia, con mai gầm bò cũng hệt thế này. Biết sao được,
há ông?
- Khác chứ. Có bận tôi chậm lùa vịt về, chặp tối rái đã ra rình. Ngày trước còn
sẵn nữa, hôm nào giở giói đói mồi, rái nồi lên bơi cả đàn. à cái rượu đậm người
ngoài Diêm mang vào, tôi vẫn để dành các ông, có dịp...
Thông thoái thác:
- Hôm nay ông cho tôi kiếu. Tôi đưa được ông bạn đến mọi khi tôi đã nói với
ông. Bây giờ tôi phải lên xã họp. Chẳng biết việc gì mà mời hỏa tốc.
- Họp thì quanh năm chứ thịt vịt thì chẳng mấy khi...
Thông nói thêm mấy câu bãi ra, rồi mặc áo vào đi luôn, trong khi tôi cởi ba lô
trên xe đạp đặt ghé xuống mép búi tre. Tôi không nghĩ xã có việc gấp. Thằng này
phàm ăn phàm uống, thế mà có lẽ ghê con vịt bị rái cắn - con rái hay con rắn
thì cũng nó cả.
Còn tôi chẳng để ý. Ông ngoại tôi có môn thuốc gia truyền chữa rắn cắn, rắn cạp
nong cạp nia độc nhất cũng chữa được, đã cho tôi từ thuở nào cái cảm tưởng
không sợ rắn. Ông tôi mất đã từ nửa thế kỷ rồi, ngày còn bé cũng chỉ được ông
sai luyện thuốc, mật mai gầm trộn với hồng hoàng, nhựa duối rồi viên lại cho
người bị rắn cắn nuốt chửng. Chứ tôi biết bàì thuốc rắn cắn thế nào. Có lẽ đã
trông thấy nhiều rắn, lẽ cái không biết sợ từ ngày dại khờ mùa hạ mùa đông tha
thẩn các cánh đồng, cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho
người chơi chim hoạ mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với
muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon.
Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến còn
tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình,
chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mòng không có nọc độc, thịt mềm
như thịt gà con luộc. Đến khi đi công tác, những năm ở rừng trên Tây Bắc, ở Mường
Than uống rượu bọ hung sào với Lý Nủ Chu, hôm đến nhà thống lý Mo Chống Lầu ở
Háng Chú dưới Phù Yên nhắm thịt ngựa luộc không muối. Có lần ở Bản phải uống rượu
gấu tàu- cái rượu để đổ cho ngựa uống lấy sức lên dốc, vừa tợp một ngụm, hai
môi đã run bần bật. Cũng bởi cái tính tạp ăn từ tuổi thơ, chẳng phải liều hay
nhát, mà cả đời đã ăn tạp, thịt chó dại còn ăn được, con gà con vịt phải rắn cắn
thì xá gì.
ở nhà ông Ngải mấy tháng, lại được chén bữa vịt rắn cắn, lần này thì đích con rắn
chứ không còn ngờ rắn hay rái cá bò lên chuồng. Giữa trưa, đàn vịt đang rúc bèo
cạnh bờ ao. Một con hổ mang trong hang trên bờ lao thẳng ra. Rõ ràng tôi thấy
con vịt bỗng dưng như phải gió, gục cổ xuống, rãy cánh đành đạch trên mặt bèo.
Ông Ngải nói: “Anh này số thật may, toàn được đánh chén, hôm đến thịt vịt, hôm
đi lại vịt thịt".
Thông cho biết công tác sinh hoạt của tổ. Hàng tháng đem tem lên kho huyện lấy
gạo, tiền ăn và gạo đưa chủ nhà. Chung với nhà chủ, có gì ăn nấy, việc nào đỡ
tay được thì đỡ, nhà nào cũng vui vẻ cả. Tổ trưởng Thông đi họp xã, họp huyện.
Chúng tôi tổ viên chỉ họp tổ sản xuất với xã viên. Thông với tôi là đảng viên
thì họp tổ đảng ở xóm, họp chi bộ trên xã. Lâu lâu, tổ họp hội ý một lần. Thông
la đà rượu nhưng công tác nhanh nhẹn đâu vào đấy, như tỉnh uỷ viên Hoàng Trung
Thông ở Nghệ An năm xưa ra với chúng tôi trên Việt Bắc. Cuộc nào quá chén mà rồi
có họp, Thông nói hăng hái, mạch lạc và dài hơn mọi khi. Ta đây có ngất ngưởng
đâu. Riêng vẻ như thường mà khác thường ấy cũng đã là hơi hơi say rồi. Cuối
xóm, lác đác mấy nhà đã ở lan ra ngoài bờ tre, lại sắp lên xóm mới. Đâu đâu
cũng thêm người ra, nhà mọc như bè nghể. Trước kia, những nơi bị cháy, bị chết
dịch, mất mùa, cái năm đói người bỏ đi, cả xóm thành gò hoang, bây giờ thì cứ
ngày một chen chúc. Tôi về chưa được bao lâu, đã thấy chỗ gặt chỗ làm mùa, mặt
lúa cao ngang bờ lũy. Lại ruộng xếp ải đã nỏ, đết uốn cong lên. Mùa màng liên
tiếp mấy chiêm, mấy mùa, mấy màu, chẳng biết thế nào, trong làng ngoài đồng tất
tả bộn rộn, không tưởng được mới vài ba năm trước cũng ở đây đưong yên lành bỗng
nhiên sôi sục giảm tô, thổ cải, người chết bắn, người thắt cổ. Có hỏi đến cũng
chẳng ai muốn nói lại cái hồi nhố nhăng ai oán kia.
Về sự tích khi cải cách thì mấy xóm mới này không địa chủ- cộng ruộng đất mà
tính ra không nhà nào đến mức lên địa, mà phú cũng không có. Qui theo tỷ lệ khẩu
cứ bổ năm phần trăm địa cho mỗi xã mà cũng không moi được ra đủ. Anh đội ấy bị
đổi, vì bất lực, bao che, nhưng rồi đưa xã lên trọng điểm, cụm về, đoàn về cũng
phân vân không tìm được đủ địa. Ai cũng tìm ra địa, qui thành địa, không ai
nghĩ rằng ở đồng đất này người ta tự tay cày cuốc khai phá nên cái ăn.
Cả đời ông Ngải cuốc ra miếng ruộng, bây giờ ông vẫn ngồi dưới búi tre lép nhìn
ra những miếng ruộng ấy.
Các tay chức việc mà đội gọi là tổ chức cũ chỉ có mỗi người trưởng thôn chẳng
moi ra tội gì thì đã bị cách chức. Tề ngụy thời Tây vừa qua cũng có người ra
làm thư ký xã uỷ. Một đêm, du kích ta lội sông sang trói lôi đi chắc bị ngỏm
ngay đương lúc ấy. Nhưng ở đất tề gần bốt, lại có người ra làm. Bây giờ khôn,
làm hai mang. Ban ngày việc tề, tối bắt mối làm Việt Minh.
Tôi và cả đoàn cũng phân vân, nhưng rồi quyết bắt xã uỷ Khế. Hai mang, thì một
mang quốc dân đảng thế cũng là phản động cả. Đến hôm du kích chuỗi rễ sắp sẵn
thừng chão đến bắt thì lão Khế hai mang đã lặn mất. Vậy nó là cường hào gian ác
cá biệt, tịch thu miếng vườn, cái nhà lá ba gian, đuổi vợ con nó đi. Thế là đủ
số địa, lại có cường hào ác bá thêm cả quả thực, đội đương lẹt đẹt hóa ra có
thành tích.
Đến sửa sai, đội cải cách giải tán, rút đi, đội sửa sai về tuyên bố cởi cái
oan, thì lão Khế lù lù ở đâu về. Hóa ra lão chẳng đi đâu, lão núp ở hầm bí mật
ngoài chân tre, như hầm cán bộ thời kháng chiến. Ngày lão nằm hầm, tối thì xóm
giềng xách cơm rượu ra cho lão. Có đêm mưa to lão vào ngủ gác bếp nhà nọ, người
biết cũng mặc, chẳng trình báo ai cho lôi thôi ra. Lão Khế cười hề hề: “Làm cán
bộ, làm tề ngụy, nằm hầm mãi đã cả bồ kinh nghiệm, đứa nào mà bắt nổi ông!
".
Cũng là khỏi vòng cong đuôi, chứ thật đã bạt vía và nghĩ ngợi lắm. Được trả lại
nhà, vườn, lão gọi vợ con về ở còn lão kêu chán tình nghĩa cái làng này lắm. Rồi
lão bỏ cả đảng viên, lão đi. Lên tỉnh hay đi đâu, có người nói thấy lão dựng
cái quán nước ở cầu Bo, lại có người bảo lão ngồi xem bói chui bên chợ Rồng.
Thỉnh thoảng, lão Khế về, vẫn tươm tất bộ quần áo ka ki xi măng đại cán. Có khi
vác cái rọ nhốt con chó đem về làm thịt, mời các ông đã phúc đức che tội cho
lão hồi ấy, đến đánh chén. Hỏi việc làm ăn, vài chén vào rồi, lão cười ha hả
“người làm ra của, còn người còn của, đâu chẳng kiếm được", rồi lại đi. Từ
hồi xảy ra những nhố nhăng cây chuối mọc ngược, gà mái đạp gà trống, con cái vạch
mặt bố mẹ, vợ tố chồng, nhiều người vẫn đăm chiêu, âm thầm như lão Khế. Nhưng
tôi chưa được gặp ông Khế về lần nào.
Cái xóm Đồng lặng lẽ, ông Ngải nhà tôi ở chẳng bận những chuyện rối ren ấy. Từ
thời Tây thì ông Ngải ở dưới ruộng lên, vẫn ngồi bên búi tre lép, rúc điếu thuốc,
uống ngụm nước chè vò. Con sông nhỏ lấp lánh ôm vòng ngoài chân tre. Đến bây giờ
có tôi thêm vào, tôi ngồi không rỗi rãi cả buổi chiều, ông đan hom lươn, tôi
nhìn bóng chiều vàng từ mặt nước lên lan dần vào trong xóm. Đẹp đến ngẩn ngơ,
tôi không biết vẽ cũng nghệch ngoạc mấy nét êm ả vào sổ tay.
Nhà cửa trong làng khang trang hơn các xóm ngoài tre. Hũm ao cạn cấy cần đã
xanh om, gợi những tháng cuối năm sắp đến. Vườn chè loang loáng từng luống.
Trong bóng căy đa ngôi đình có lớp cửa giữa mối xông lên tận nóc suýt bị dỡ bỏ
hồi cải cách đã được đóng mới, uỷ ban cho các cụ phụ lão và ban văn hoá được ngả
cây nhãn cổ thụ đầu làng xẻ lấy gỗ.
Giữa xóm, một ngôi nhà tường xây trên nền cao có thềm bước lên, trông vào thấy
lóng lánh chiếc gương tàu in hình con phượng ngũ sắc trong gương, bên cạnh dán
những tranh cắt ở báo ra, xanh đỏ rợ mắt. Cụ phó- không biết phó gì, cụ mất đã
lâu, nhà có ba mẫu, hai chiêm một mùa, bị lên địa vì nhà tuy ruộng không nhiều
nhưng không có lao động chính. Dũng, con trai cụ phó, làm chi uỷ từ thời bóng tối,
bị tố phản động quốc dân đảng chui vào Đảng, đội bắt giam. Rồi sửa sai, Dũng được
tha, xuống thành phần trung nông, phục hồi đảng viên, nhưng xem chừng Dũng sợ
quá, cay quá người ngợm và nhà cửa chưa lại sức. Nhà ngang đã xiêu, phải chống
hai cây tre. Một cót thóc cỏn con quây lại, như cái chỏm tóc trẻ nít. Ngày trước
Dũng học trên tỉnh, lấy vợ rồi mới về làng. Đi gặt, không biết gánh. Vợ người
thiên hạ, dân tỉnh, quấn tóc, răng trắng- trắng tự nhiên, không phải răng đen mới
cạo, phảng phất chút phong lưu còn lại, không biết còn lại ở cái gì.
Chúng tôi gọi với lên: “Ông Dũng ơi! Đi họp".
Dũng ngồi bó gối trong phản nói vọng ra: “Tôi đương lên cơn sốt, không đi được,
báo cáo các đồng chí". Rồi nghe tiếng rũ chiếu phành phạch. Xem chừng còn
đau đầu, không biết thật hay vờ. Quốc bảo tôi thế.
Họp chi bộ buổi tối trong làng. Đi qua bóng tối bóng sáng le lói những cái đèn
con đặt giữa ruộng mạ để bắt bướm, nắc nẻ, sâu đo, xa xa gần gần nhấp nháy chấp
chới như ma trơi ra đêm mưa ngoài tha ma.
Cùng đi, chuyện với Quốc- một đảng viên kết nạp trong cải cách, vừa rồi bàu ban
quản trị được ít phiếu, không trúng. Quốc cho là bị dân thành kiến đảng viên hồi
bần cố. Nhưng Quốc vẫn phụ trách công an xă, lại kiêm công tác phân bón của hợp
tác.
Quốc kể trong làng không êm ả như các xóm ngoài ấy mà cũng không phải chỉ có một
mình chuyện ông Khế. Những cánh đồng, những bụi tre thì vẫn đìu hiu như bao đời
vậy. Quốc là người được dìu dắt nên cán bộ mà lúc đó nghĩ lại Quốc còn rùng
mình. Và dần dần Quôc nói tôi mới hay không phải chỉ có một chuyện đảng viên Khế.
Lý trưởng Vạn bị tố phải bắt, tự nhận là bí thư quốc dân đảng cả vùng. Những
người biết nhưng không dám nói. Lý Vạn cũng chẳng đảng phái phản động gì đâu. Tội
nó là làm lý trưởng, cán bộ về, nó không bắt, nhưng nó đuổi không cho vào làng.
Lại khoe ầm lên làm thế để cho làng nước bình yên. Cái hôm đội vừa về địa chủ Lịch
đuổi trâu qua sông, ngã chết đuối. Các tổ rễ chuỗi phân tích phát hiện là lý Vạn
giết mụ Lịch để trẩm đầu mối. Mít tinh mừng chính quyền mới ra mắt, lý Vạn bị
đem xử bắn đầu tiên... Nhưng thương nhất bác Đạt người giữ cống Bắc. Giữ cống, lĩnh
lương của bốt, lại được tiền của ta vì đêm thì mở cống cho cán bộ bơi qua. Việc
ấy chẳng mấy người biết, cũng không ai đem tố cho rắc rối.
Con gái bác Đạt là du kích, được đi canh gác, cứ ngứa tay thúc báng súng vào bụng
lão địa chủ Vạn. Vạn hộc ra một đống máu rồi nói. “Bố mày đã xơi lương của bốt,
lại ăn tiền của Việt Minh, mày về mà đấu đá khảo đả bố mày ấy". Không chỉ
có một con gái ông Đạt mà cả tổ du kích nữ ở đấy. Thế là cái tin, ông Đạt ăn tiền
hai mang loang ngay ra. Đến hôm đấu. Vạn còn rống lên: “Ông nông dân Đạt đã ra
cây nhãn đầu làng nhận tài liệu Quốc dân đảng đem về cho tôi, các ông các bà
nông dân có biết không".
Cán bộ đội phụ trách xóm ông Đạt bị gọi về trụ sở đội kiểm điểm để lọt lưới.
Đêm ấy, họp xóm, đã thay cán bộ mới. Mọi người đến đông đủ, anh cán bộ mới quát
to: “Địch ngồi lù lù với bà con, mà không ai biết à?” Hệt chuyện hồi tôi ở Nông
Cống, cán bộ Lâm xóm Trúc không phát hiện ra địch, tôi được điều về thay. Tôi
tính toán ra được một địa chủ hệt như đảng viên Dũng mà Quốc vừa kể, lúc nãy
chúng tôi vừa đi qua nhà. Anh này cũng ở tỉnh về quê trông nom vườn ruộng. Một
buổi sớm, dân quân du kích giải anh ta đi. Gặp tôi đầu xóm, anh ta vái tôi rồi
sợ sệt lễ phép hỏi: “Ông cho em lên địa chủ ạ?".
Cả đám họp quay lại nhìn ông Đạt. Ông ấy đứng phắt lên, chạy thẳng ra đâm đầu
xuống cống Bắc.
Mọi cái đều dữ dằn, Quốc bảo Quốc kể lại mà còn sợ, nhưng giọng Quốc lại nhẩn
nha, dửng dưng, tôi không đoán được tâm trạng anh thế nào. Quốc là cốt cán hồi
cải cách, nhưng bây giờ vẫn tích cực và được làm công tác. Quốc phàn nàn làm
công an ngày ngày bắt thuốc lào, bắt rượu, bọn buôn chè tươi, chỉ mua thù chuốc
oán. Nhiều lần đã bị ném gạch vào nhà.
"Chắc rồi tôi cũng không đậu được chân hội đồng nhân dân. Nhiều đứa ghét
quá. Có nhà giết lợn, tôi bảo để lại cho cân thịt. Vợ nó cắp rổ thịt hẳn hoi,
nói ráo hoảnh: thưa ông công an, hết rồi. Thịt này có phiếu người ta đặt, tôi
phải đem lên chợ trả người ta. Nó ghét tôi vì hôm trước tôi hỏi: “Nhà mày không
đóng sát sinh à? - Mà nó có đóng bao giờ đâu, nhiều nhà nấu rưọu lậu, tôi cũng
lờ, thế mà...
Chi bộ mười lăm đảng viên, chưa kể hai chúng tôi, ngồi họp trên ổ rơm. Chương
trình có đến một huyện việc, quá nửa đêm cũng chưa xong, phải dừng lại. Trước
lúc họp đã bàn ưu tiên gọi hai mươi người sáu ngày dân công đào sông Diêm chống
úng, tiêu chuấn thì tự túc. Một người nói: Thế thì đả thông khó đấy, điều dân
công bảo được tiền thù lao mà". Bí thư Sự nói bừa đi, nhưng át giọng: “Đấy
là đi dân công lúc kháng chiến, bây giờ thời bình thì khác. Nào bắt đầu họp,
chương trình dài lắm. Một người lơ lửng chép miệng một câu ví von: “Bí thư nói
đúng lắm. Sớm đúng, chiều sai, đến mai lại đúng, lúc nào cũng đúng".
Các việc bàn lần lượt: rút kinh nghiệm họp tác xã thí điểm vụ gặt đương lắm thắc
mắc; cho các liên tổ đổi công học tập chuẩn bị lên hợp tác xã; chuyển thóc lên
huyện vấn đề kết nạp đảng viên trong dịp đông xuân ; tuyên truyền thanh niên
nghĩa vụ quân sự đầu 1959 ; công tác bán thóc vụ này cho chính phủ quản lý thị
trường, tăng cường kiểm soát rưọu, thuốc lào, chè thuế sát sinh; hạn chế ăn uống
lu bù đầu mùa, các tổ báo cáo làm phân, gieo mạ đúng kỹ thuật...
Chủ tịch xã nói chen chẳng vào trật tự mục nào:
- Nhà tôi thì gieo mạ lối cũ, khổ thế.
Nhiều người cười: Ông chẳng quảng bá thì cả làng biết rồi. Bà chủ tịch đã rêu
rao khắp xóm: tôi học thế nhưng tôi không làm thế đâu. Giỏi thế thì ông mới làm
được chủ tịch.
Đáng lẽ việc họp tác xã thí điểm và tổ đổi công lên hợp tác xã lắm ý kiến nhất
thì lại êm đềm cho qua vì chẳng ai phát biểu. Có lẽ, ai cũng biết đằng nào rồi
cũng lên, nói hay không cũng phải thí điểm phải lên. Còn mấy mục nữa, nhưng
khuya quá, mấy người đã rúc vào ổ rơm ngáy rền rĩ vang gian nhà họp.
Bí thư Sự kết thúc, trịnh trọng nhấn một câu:
- Ta tiến lên lập hợp tác, vi như cái xe, là cái xe thì việc của cái xe là đi,
dù đường còn xấu, còn gồ ghề, nhưng vẫn là có đường cho cái xe lăn bánh, ta phải
cố gắng.
Bí thư đã nhớ câu này ai phát biểu ở cuộc họp nào trên huyện.
Một hôm, tôi sang chơi nhà Sự. Những đống thóc gặt hôm qua đã kéo xong. Sự đã tạm
chia ngay cho mỗi nhà mười cân. Đương có nắng, phơi nhanh. Gặt ăn ngay, bây giờ
đâm ra giáp hạt từng ngày. Trong làng mà biết, chắc lắm người cười thầm.
Vợ Sự người nhỏ con, đôi mắt lẳng đưa đẩy, vẻ như không phải người làng. Hỏi ra
cũng nhà bên kia sông, làng bên.
Chị Sự kể chuyện lúc kháng chiến.
- Nhà tôi chạy giao thông rồi sang bộ đội chủ lực huyện, đi cả tháng, cả năm.
Đêm tối trời, một trung đội đến trạm chờ trong làng đợi anh ấy dẫn sang sông.
Lúc ra sân nghe ngóng, thấy ở các gốc chuối lung lay nhấp nhô như người nấp. Bị
động rồi, làm thế nào báo được vào trong trạm dừng lại. Ra bây giờ thì chúng nó
gô cổ ngay. Tôi mới nói để tôi đi cho. Có lần tôi đã giả làm bà mụ đi đỡ đẻ đi
gặp du kích ở xóm trong.
Lần này tôi làm ngươi đi cho sữa. Tôi cầm đòn gánh, khua cả vào bụi chuối, làu
bàu râm ran: “Con đói sữa mà nửa đêm gà gáy mới gọi thế này, cha tiên nhân nhà
mày". Trong bụi chuối không thấy nhúc nhích, tôi vào báo được cho trạm,
lúc về lại cứ quơ đòn gánh, ca cẩm chửi. Thế là không ai ra đợi sang sông.
Nhưng anh ấy vẫn nằm trong nhà, bây giờ đến đợt sợ nhỡ cái chúng nó sục vào...
"Đến khuya, có tiếng gọi khe khẽ- Bà chủ ơi bà chủ- Đứa nào thế? - Bà làm
ơn cho mượn con dao tôi chặt cây chuối bơi qua sông, pạctidăng nó sắp tuần xuống
đây rồi- Cha đẻ mẹ mày, đêm hôm nhà đàn bà con gái, bà thì.. “ Tôi là bộ đội -
Bộ đội, đội thúng đội mẹt cái con đẻ mẹ chúng mày. Nhà tề đây có cút không thì
bà gọi bảo hoàng nó xuống gông lại. Im lặng. Thế là yên đêm ấy".
Cũng chuyện ngày trước, câu chuyện ma quái này Phùng Quán nghe được có người kể,
không phải chị Sự rỉ tai.
Đêm kia, Sự bơi qua sông về, trời sáng trăng. Sự trèo tường đất vào vạch cửa liếp
đăng sau. Toan gõ vách làm hiệu như mọi khi. Nhưng trông vào chấn song, thấy rõ
hai người nằm dưới đất. Một cái bóng thì đích là vợ Sự. Người kia là một thằng
đàn ông, đen sâm như mặc áo rằn ri trên bốt. Sự nhấc chót cửa vào, lặng lẽ hai
tay bóp cổ thằng đàn ông, lôi ra bờ sông, cho một nhát vỡ đôi đầu, ném xuống nước.
Vợ Sự vẫn nằm ngủ, không biết. Sự dựng con dao bầu vào vách, nằm xuống, vần vợ.
Cho đến bây giờ, người ta còn thì thào đoán với nhau. Không biết cái thằng bị
beng cổ chết mất xác là thằng nào. Chắc lính trên bốt. Hồi ấy làng không thấy
thiếu người. Ai cũng đoán con mụ vờ ngủ. Chuyện đã lâu và cứt trâu đã hóa bùn,
con quạ mổ vẫn đĩ tính, chua ngoa, chẳng ai dám dây. Nó chửi cả xóm, cả họ. Vợ
Sự bảo chồng: “Nhà là đảng viên, là bí thư, là chủ nhiệm thì phải vào hợp tác
cho có thành phần. Tôi ở ngoài, bao giờ làng này lên hợp tác xã hết thì mẹ con
tôi cũng lên".
Việc lao động của các nhóm chúng tôi thì cứ nghĩ ra mà làm, hay đôi khi làm đỡ
bà con tổ sản xuất
Không thì đi chơi, nằm đọc sách, đào giun cho vịt ăn. Cũng chẳng khi nào trò chuyện
sáng tác tối tác ra sao.
Tổ trưởng đã bảo đợt đi này không có kế hoạch sáng tác, nhưng chúng tôi như có
ý tránh những cái đã qua.
Kể cũng tế nhị, cùng một tổ, nhưng mỗi người mỗi nhẽ. Có anh chỉ dính với tập
san Giai phẩm có tên ở cái quảng cáo trên bìa bốn của nhà xuất bản Minh Đức. Có
anh không viết một chữ sai trái, nhưng bỏ đôi ba câu nói ngang. Tôi đã viết kiểm
điểm trên báo để nông nỗi tình hình văn học xảy ra thế thì tôi câm như hến là
đành một bề rồi. Nhưng tổ trưởng Hoàng Trung Thông vừa qua với bút danh Hồng
Vân đã tả xung hữu đột những bài đao búa cùng những bài của nhà sử học Nguyễn
Văn Phùng đã phang từ lý lịch Phan Khôi xuống. Trần Lê Văn thường kể những năm
về sau, Hoàng Trung Thông đã rượu và yếu nhiều, mỗi khi gặp, hay hỏi: “Ngày ở
Thái Bình, mình thế nào, có vấn đề gì không". Kể ra chẳng có vấn đề gì,
nhưng mà lại có vấn đề, có mà không cái hồi ấy nó thế đấy.
Ngoài đồng có ruộng đã cày vỡ, đương cữ nắng, nhiều xứ đồng cao ở gần chân tre
đã xếp ải. Vùng này làm ruộng có thói quen xếp ải - luống đất đã được cày lật,
bê lên đặt từng dãy, phơi nắng ít lâu rồi tháo nước vào bừa. Làm thế, đất khô
thoáng như bón phân. Chúng tôi ngày ngày ra đồng xếp từng tảng đất lên quanh bờ.
Có một việc tôi chỉ nghe kể lại. Khi tôi về Thái Ninh thì đã xong, đã vứt bỏ xó
rồi. ấy là tổ trưởng Thông có sáng kiến thử cấy dày, hưởng ứng nước bạn đại nhảy
vọt. Mỗi chân mạ không cắm hai ba dảnh, mà nhét bảy dảnh, mười dảnh một cụm. Có
báo đã đăng tấm ảnh bên Trung Quốc, trẻ con trèo lên chạy chơi trên mặt thóc ruộng
lúa cấy dày đã chín.
Chương IV
Năm sau, tôi học trường Nguyễn ái Quốc, cùng tổ với kỹ sư canh
nông Ngô Tấn Nhơn. Anh Nhơn là người đã cùng đoàn cán bộ đi tham quan Quảng
Tây. Bạn đưa đến một cánh đồng thí điểm cấy dày. Nhưng ruộng đã gặt, được nghe
báo cáo xem ảnh và trông gốc rạ chi chít liền như trải chiếu. Bạn trình bày có
kỹ thuật mới sang năm bình quân mẫu sẽ trăm tấn, bây giờ cho ruộng luân canh bỏ
hóa để đất được ngủ, được thở vụ sau càng tốt hơn nữa.
Anh Nhơn cười hiền lành: “Các đồng chí ấy và chúng tôi đều ước vọng như người
nông dân xưa nay ước vọng. Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên
nhận xét con số chỉ tiêu còn thấp còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến
nhất, không thể xoàng thế. Tôi nâng 4 triệu lên 6 triệu tấn gẩn gấp ba. Ra hội
nghị, nống lên nữa, thành 7 triệu ở các cuộc họp xóm, xã, tổ sản xuất, tôi đã dự
lắm cuộc thi đua đặt mức. Cũng như các cuộc họp anh Nhơn kể lại, làm ăn còn
trông vào ngày mưa ngày nắng mà đâu cũng thế, cứ sôi nổi nhận văng mạng thật cao,
càng cao, ở xã, rồi lên huyện, lên tỉnh lại đun lên. Thả sức ganh nhau, rồi chẳng
làm được cũng thôi. Bỏ vì được hạt thóc còn “trông trời, trông đất, trông mây”
cứ ước thế vầy, mất gì.”
Tổ ông Thông mượn được miếng ruộng vài thước vuóng rồi xin mạ về cắm liền tù
tì. Ngày ngày tát nước, bỏ phân, ú phân xanh, cả phân tươi. Cây lúa chen chân
lên, cũng xanh mỡ mượt mà, nhưng lúa xít gốc, nóng hầm hập, hút nước tợn quá.
Phải kế hoạch quạt cho lúa mát, vào làng mượn chiếc quạt thóc cánh phẳng nặng
như cái cùm- ở trên báo đã nói lúa cấy dày lên, nóng phải quạt, kinh nghiệm
canh tác đấy. Quạt vài hôm, lay thử, cả khóm lúa bềnh ngã ngửa, lá vàng ỏng, thối
rễ.
Ông Ngải kết luận hộ. “Các anh chơi trò trẻ ranh".
Rồi những năm sau, Phùng Quán còn đi lao động dài hạn, ngắn hạn ở những nông
trường Đông Hiếu, Tây Hiếu và đâu đâu nữa không biết, nhưng mà đợt này một nhóm
có hai chúng tôi, kể ra tổ trưởng Thông cũng khéo xếp. Một mình tôi thì nên cơm
cháo sao được, lại chỉ mồm miệng đỡ chân tay. Nhớ hôm ấy có mấy chén rượu
suông. Hồi này Thông cũng chưa uống mấy, nhưng máu nát rượu thì sẵn, không vì uống
nhiều hay ít, chỉ cầm chén ngùi hơi men đã ngà ngà rồi.
Thông đứng dậy, chân la đà. Phùng Quán giơ tay: Anh để em đỡ. Thông quắc mắt:
“Tao vừa công bố mày với ông Hoài một nhóm, tao có say đâu".
- “Anh cứ vịn vai em cho chắc". Thông quát: “Ông mà phải để cho Nhân Văn
giắt à?” Tôi nhớ một hôm ở cơ quan 84 Nguyễn Du, có liên hoan cuối năm, bấy giờ
chỉ có rượu mùi, chẳng biết Thông uống thế nào, đến lúc ra cửa, Quán dìu một
bên. Thông vùng tay ra, cũng nói một câu ấy: Tao mà... tao mà... Chẳng biết
Thông nhớ không. Chắc là không, nên mới nói lại đúng thế. Quán ngồi lặng im, vẻ
mặt buồn, nhìn Thông đi ra. Chúng tôi bàn việc làm hố phân. Cái sự người say
không cho là mình say, mà cũng không hẳn là say, bởi vì sáng kiến do tổ trưởng
Thông nảy ra bảo tôi và Quán làm một hố phân, không phải chúng tôi đã nghĩ ra.
Hai người một hố phân xanh. Các nhóm khác hình như cũng làm thế. Hố phân chúng
tôi đào ngoài góc vườn chè. Ông Ngải hỏi: “Các anh làm gì đấy?”
- Hố phân xanh ạ!
Ông Ngải không nói gì. Quán đi mượn thêm một chiếc mai về cho tôi.
Quán nói:
- Anh thì trình độ hon em, anh là nhóm trưởng.
Nhưng việc này thì em xin chỉ huy anh. Lệnh của em là: em đào, anh hất đất lên.
Đúng quá, vừa sức chân tay tôi, không thể còn ý kiến vào đâu được. Quán phạt cỏ,
làm dấu xới một vòng tròn to bằng cái miệng giếng, rồi bắt đầu thúc lưỡi mai,
nhanh nhẹn điệu nghẹ. Hai tay nhấc cán, bàn chân dận lên thành lưỡi, bầy đất
lên. Nhưng đất vụn ra, tôi không lùa mai hất được. Tôi lấy tay bốc, nhưng một
lúc vẫn chưa được bốc, chỉ đất cằn lăn ra nham nhở từng đám. Quán bảo: “Không cần
bốc vội, đợi dào quành thế này cho thành miệng hố đã".
Thì tôi cũng biết thế và ngồi tỳ khuỷu tay lên đầu gối, đợi.
Ông Ngải đi đâu về, ra vườn, đứng nhìn Quán cởi trần hì hục đào. Ông Ngải chép
miệng:
- Đào thế thì đến hai phiên chợ Diêm cũng chưa được cái hố đâu.
Quán hỏi lại, giọng rụt rè, không rành rõ tự tin như lúc nay giảng cho tôi:
- Ông bảo phải đào thế nào?
Hố ủ phân chỉ như miệng cái thúng, đào đâu to như cái giếng thế. Khoét hũm trước,
bằng cái đấu thôi. Xắn ra từng phía mới được.
Rồi ông Ngải cầm mai, đẩy chân một cái, chỉ ba bốn nhát, đất đã lên từng vốc.
Quán đứng nhìn ông Ngải, gật gù: “Được rồi, cháu sáng mắt ra rồi, cụ ạ.
Không phải chỉ anh mới có năm xe chữ, em chẳng mẹt chữ nào mà cũng suông cả.
Trí thức tiểu tư sản không bằng cục cứt thật. Cụ ra ví dụ thế đủ rồi, để cháu
làm tiếp.
Nhưng ông Ngải đương thuận tạy cứ đào, hai chúng tôi bốc liền liền lên. Quán cứ
tắc lưỡi: trí thức, trí thức...
ông Ngải thúc mai phăm phăm, vừa chuyện vừa hỏi: ông phó cạo ngoâi đê bảo ông
Ngọc mới được sang nước Tiệp Khắc về.
Đã mấy năm trước, hội sân khấu cử Chu Ngọc đi tham quan nước Tiệp. Chắc Chu Ngọc
đã khoe với ông phó cạo.
- Vâng ạ.
- Thảo nào, ông ấy đi cả ngày, không xếp ải, không đào hố phân như các anh. Cán
bộ to mới được thế.
Quán nói:
- Không phải đâu. Ông ấy cũng bằng cháu thôi.
- Cán bộ cốp là bác Thông, bác Thông chúng cháu cũng lao động cả ngày đấy. Lao
động là vinh quang, ông Ngọc ông ấy lười ạ.
- Thế hai bác đã được đi nước Tiệp Khắc chưa?
Quán cười to:
- ồi, ăn thua gì. Chỉ đi nửa buổi đã đến nước Tiệp Khắc, bằng từ đây xuống
Diêm, à xa hơn một tý. Bác Thông ngồi tàu bay nửa tháng mới sang đến nước Liên
Xô. Hôm nào cụ cứ hỏi chuyện bác ấy xem..
- Ô là vậy! ôi a ồ...
Chẳng mấy lúc đã rõ ra cái hố sâu, tròn vành vạnh ông Ngải vào lấy cái sảo cho
chúng tôi khiêng đất đổ đắp vào cáe gốc cây chè. Ông Ngải nói: “Đất tường, đất
vách ám khói bồ hóng ủ phân chóng ngấu. Sẵn cái mai, bếp nhà tôi có mảng tương
ám khói đã đổ một vì, tôi đợi có rơm thì lấy bùn ao đắp tường mới, các anh đem
đất ấy ra mà lót hố phân.”
Quán xua tay:
- Không, không, cụ ạ.
- Đất có hơi bếp, ngưòì ta gánh ra ruộng tốt như bỏ phân ấy mà.
- Thôi, thôi. Tổ trưởng đi kiểm tra lại bảo chúng cháu ăn gian đem lót đất dưới
đáy cho chóng đầy hố thì chết cha.
- Đất vách bếp khác...
- Các ông cán bộ to không biết đất nào vách bếp vách chuồng trâu đâu. Cháu lạy
cụ.
Tôi chen vào:
- Mà hố chóng đầy thì chóng hết việc, lại phải đào hố khác, vẽ chuyện.
Chán chuyện chúng tôi. Ông Ngải cười hiền lành, không nói nữa. Ông ra ngồi hút
thuốc bên búi tre lép.
Ông quay mặt vào bảo: “Nghỉ tay ra uống nước". Rồi ông vào trong bếp bưng
ra nồi nước chè buổi sáng còn ông ăn ngữ ba bát cơm. Ông chỉ nghiện thuốc lào
và nước chè vò. Sáng sớm, ông làm hết hai ấm chè tươi đặc rồi ra làm đồng, đến
trưa về mới ăn cơm. Mặc cả nhà ăn sớm, từ thuở trẻ, ông Ngải cơm nước thế, đã
quen lệ.
Chặp tối, từ trên đê lộc cộc xuống một cái xe ba gác người đẩy người kéo, người
bắt bánh chờ đồ đạc và máy “chớp phim”. Đội chiếu bóng huyện được lệnh cho ưu
tiên về phục vụ hơp tác xã thí điểm. Hai cái xe phủ bạt ni lông xanh, dây chằng
như buộc con trâu, phía dưới hở ra một hàng đít phuy xăng sơn hắc ín và những cạnh
hòm gỗ vuông. Ngoài nóc bạt cài chiếc loa thiếc to bằng cái thùng và một bu gà,
tiếng nhiếp nhiếp cả gà con, không biết là để thịt hay gà đàn nuôi.
Mỗi xe, một người xách lúc lắc cái đèn bão, cứ hô tiến lên, tiến, tiến lên mỗi
chỗ đường lồi lõm ổ trâu.
Đội chiếu bóng của huyện, của tỉnh lưu động qua các làng, đem đến những máy móc
và phim ảnh các nơi mà nhiều người trong làng chưa bao giờ được xem và cái gì mới
cũng thấy là lạ.
Hôm vừa rồi, hiệu chụp ảnh ở chợ Diêm bán được mấy chục chiếc anh một nữ diễn
viên Liên Xô, ông thợ dã khêo tô mặt mộc thành mạt son phấn, váy áo sặc sỡ.
Thanh niên bá vai hỏi nhau: “Mua ảnh em chăn ngựa chưa", ý nói ảnh cô giáo
trong phim Tiếng hát người chăn ngựa mới chiếu mấy đêm ở bãi chợ.
Ba tối liền, các phim Tống Cảnh Thi, Tiếng hát người chăn ngựa, người các làng
về xem ngồi kín mặt ruộng đồng cao. Ông Ngải đi xem, còn tôi nằm trong chõng cạnh
bụi tre lép, dưới ánh trăng suông, ngoài chân đê.. nghe loa hát đồng ca Hò kéo
pháo, tiếng máy phành phạch, tiếng người thuyết minh sang sảng, thánh thót.
Giữa mấy đêm vui, ngoài đồng nhiều thửa ruộng vẫn đương gặt và ban quản trị họp
khuya bàn những chuyện gấp. Khi giáp hạt, cái đói và cái ăn kề nhau, nhà nào
cũng nháo nhác, nhưng năm nay có hợp tác, có tổ, cái lo được đem ra đình, ra trụ
sở.
Hai cái xe ba gác của đội chiếu bóng lạch cạch chuyển sang làng khác rồi. Xẩm tối,
các xã viên đã đến đông đủ Chúng tôi đi họp, có tổ trưởng Thông và một cán bộ
ban công tác nông thôn không biết huyện hay tỉnh cũng dự. Mỗi một cái đèn hoa kỳ
trên đầu bàn đằng kia, cả gian nhà hũ nút tối lem nhem như trong chuồng trâu.
Các bà, các chị bó gối ngồi lố nhố dưới đất. Một anh dáng chừng thông tin xã,
nói to:
- Các bác văn nghệ ra cho một bài nào.
- Phải đấy! Ai đi hò lờ..
Bí thư Sự hét:
- Đây là các bác nhà văn, nhà báo, không phải văn công.
- Thì cũng là văn báo, văn công cả!
Một người ngồi đằng giáp tùờng bỗng lên một câu hò lơ lẩy Kiều.
- Nhà báo à? Báo cô báo cậu! Đội trời đạp đất ở đời, Ai đi hò lờ. Họ Từ tên Hải
vốn người ăn không Hò lơ hó lơ hò lừ...
Quán ghé tai tôi:
- Tên ấy xỏ chủng mình. Tôi phải ra trổ một bài đập lại.
Tôi kéo Quán ngồi xuống. Bí thư Sự tinh ý quát:
- Không được hát mất lập trường. Câm cái mồm!
Nhiều ngườì vỗ tay, cười ầm. Không biết cười cái gì. Thật quái, rồi cái năm tôi
học trường Nguyễn ái Quốc, đi với anh Thử cùng tổ về tìm hiểu một hợp tác xã
nông nghiệp ở Trôi Gối vùng các huyện Đan Phượng và Hoài Đức. Chúng tôi qua
cánh đồng, Thử có cái đài Orion đeo bên nách, hát eo éo. Một anh đương cuốc ruộng,
ngẩng đầu lên, hát đúng cái câu lẩy Kiều có chữ “ăn không". ở đâu cũng có
người làm, người chơi, những ví von xỏ xiên sao khéo bay xa thế.
Rồi vào cuộc họp ngay ngắn. Bí thư kiêm chủ nhiệm bắt đầu nói, giọng đều đều
như đọc giấy: thóc đương gặt, chưa lên sổ sách, không được hoang mang. Thóc
chưa về nhà nhưng thóc đã được quảy về sân kéo đá, thóc chạy đâu, thóc mất đâu mà
nháo lên.
Một bà vừa bước vào, nói ngay: “Mua xi măng chưa, trám xi măng vào mồm người ta
ấy à? Thấy mùa màng thóc lúa không ra sao thì phải sốt ruột chứ".
Chủ nhiệm lại nói, xung quanh lại to nhỏ lầm bầm.
Có lúc ồn lên như sắp cãi nhau, nhưng không, cứ vừa to tiếng lại vừa pha trò thế
thôi.
Đảng viên Quốc trình bày cái thắc mắc của mình, nhưng nay đã ổn. Trong góc nhà
có tiếng chép miệng, kháy:
- Anh chẳng ổn thì ai ổn. Anh ổn là phải.
Chủ nhiệm Sự nói:
- Năm nay, chắc rồi tôi cũng thiếu, nhưng...
Cái bà nói mua xi măng lúc nãy, đốp ngay:
- Anh thiếu, đố anh dám thắc mắc.
- Tôi không thắc mắc lung tung!
- Tưởng tôi thắc mắc lung tung a? Có ở đây đông đủ cả nhà, là trong nhà, tôi
nói toạc ra thế chứ làm người phải có ăn có nghĩ chứ. Nhà tôi ngay bên đường
cái, ai đi qua chẳng tạt vào nhờ điếu thuốc, chén nước vờ xem con gà con qué dò
la. Người kẻ bãi hỏi tôi năm nay thế nào, tôi chỉ vào đống thóc thuế anh Sự gửi,
tôi bảo thóc nhà được chia đợt đầu, chưa kịp cân lại.
Còn nữa, còn nữa. ối, đầu vụ mà hợp tác tống đến lắm thế. Đứa nào bảo tôi ăn
nói phá hoại, hả? Thời này, không phải thời cải cách, vu oan giá họa cho người
ta không được đâu.
Lắm cái biết rồi, hỏi không để làm gì, cũng cứ hỏi, như phải có thắc mắc, có hỏi
mới là đi họp.
- Chia cho vài hạt thóc thế thì làm sao tôi nuôi con tôi. Không nuôi trẻ con nữa
à?
- Nhà ai chẳng cõ trẻ con, chưa có hợp tác thì vẫn phải nuôi trẻ con chứ!
Bà ấy còn làu bàu nói một mình. Có người thì thào bà lão ban chiều dắt cháu vào
ăn cỗ cơm mới nhà ông đảng viên Dũng vừa xuống thành phần không vào hợp tác, chắc
lại mới nghe ông ta thổi cho mấy câu bất mãn bất mèo.
Mấy khi có cán bộ trên về và thế nào ông cán bộ cũng phát biểu và nói dài. Đã
quá mười giờ, lại giơ tay hùng hổ sang mục đích ý nghĩa đông xuân năm nay quan
trọng đến kinh tế, chính trị ra sao. Cả loạt người ngồi xa đã tựa vào tường, ngủ
từ bao giờ. Có bà ngủ gật giật mình ngồi chồm hỗm lên, hỏi:
- Ông này lắm lời nói đến sáng chắc?
Cán bộ nói:
- Không nói đến sáng đâu. Điều thứ năm là...
Cán bộ làm vẻ bình tĩnh nhưng bị câu hỏi sống sượng trắng trợn, cũng mất đà
thao thao, nhụt giọng dần, rồi đột nhiên ngồi xuống.
Cuộc họp cũng phải gác mấy việc, chỉ còn bàn làm mạ. Lại cãi cọ lao xao. Việc
làm, việc thi đua bao giờ cũng nói hăng, dẫu đương còn thắc mắc bề bề. Và ồn nhất
là lúc gắp thăm chia ba chiếc lưõi cày 51 chủ nhiệm mới sắm về.
Cái hố chúng tôi đã đào xong, sâu bằng chiếc vại, bây giờ đến công tác làm
phân. Quán hỏi:
- Thế nào?
Anh chàng hỏi cốt để khơi ra rồi lại nói:
- Việc này lại đến Quán ra tay thôi. Hôm nọ xuống Diêm đấy, Quán đã cắt nghĩa
cho mọi người biết ngọn nguồn hạt muối và nghề làm muối. Anh lại quên rồi.
Không phải chỉ tát nước biển lên phơi nắng thì ra muối. Tháo nước mặn vào, vừa
phơi vừa pha, đến lúc bỏ hạt cơm vào mặt nước, hạt cơm chìm là được. Lấy nước
cái chan lên mặt ruộng xi măng, hơi nước bay dần đi còn lại hạt muối, hạt vuông
mặt nhỏ là muối tốt, thế, thế...
- Quán nói thạo thế, chúng ta sẽ ở lại Diêm Điền, xin đi thực tế đợt nữa làm
công nhân nghề muối.
Quán cười hố hố.
Doạ chơi đấy thôi. Để anh thấy Quán lãnh đạo làm hố phân này là đích đáng. Ngày
ở bộ đội, làm cả một trăm hố phân cho đại đội, chả là tăng gia đơn vị riêng mà.
- Tớ vẫn làm theo Quán phân công đấy thôi.
Được rồi. Thế thì bây giờ, tính...
Chúng tôi ngồi hai bên hố, ngắm nghía, còn khoái cái công trình mới, đã quên mất
nếu ông Ngải không đào thử và chỉ vẽ cho thì còn loay hoay đến sang năm cũng
chưa chắc được cái hố nhép.
- Bây giờ tính... Theo lệnh tôi. Nhóm ta thi đua với các nhóm. Sáng mai triển
khai ngay hai công tác: đi gắp phân và bẻ lá ủ phân. Nhặt phân, gắp phân, gánh
phân không phải việc của anh, mà anh cũng không làm nổi. Tôi phân công anh đi
các bờ bụi bẻ lá ủ. Nhớ cái lá nào ngấu được, lá rền đất, dây mảnh bát, lá
xoan. Đừng rước về lá tre, lá duối ủ một năm không ngấu không tơi thì chết dở.
- ừ mà tớ không biết gánh. Tớ như anh cu đảng viên Dũng trong làng đem hai cái
vai thờ ở tỉnh về.
- Ai sinh ra mà đã biết gánh, lại gánh phân. Nhưng Quán đã sinh ra là bộ đội
thì biết hết, làm hết.
Rồi Quán về, vừa đi vừa hát thật to. Như diễu cợt, như quá vui, không biết bài
chòi hay hát dặm, chắc lại một câu Quán vừa nặn ruột ra- giọng Huế nghé ngọ lai
lai.
Trời mưa, trời gió đùng đùng
Cha con ông Sùng đi gánh cứt trâu...
Sớm hôm sau, tôi ra ngoài tha ma cuối đồng. Đã để ý trên bụi móc diều ở đấy leo
bùm tum chằng chịt những dây lá mảnh bát, mảnh cộng, dây tơ hồng. Ngày còn ở
làng, tôi hay đi ngắt lá mảnh bát về nấu canh láo nháo, canh cua, tôi vẫn thuộc
rau má, rền cơm, rau sam, mùng tơi- những lá nào người ăn được thì chắc chóng
ngấu, không như lá tre, lá duối dai hơn giấy dầu bọc xi măng. Quán ở trong xóm
đằng kia đi ra, gánh đôi quang lồng một, hai thanh tre gắp phân đặt trên mặt sọt.
- Không được hả?
- Không được là thế nào! Kết quả buổi khai trương vượt mức. Đổ vào hố rồi. Ra
giúp ông anh đây. Bỏ đống lá vào sọt này, tôi quảy về cho.
Mỗi buổi sáng, công việc nhóm tôi như vậy. Có hôm Quán xong việc ra sớm, tôi
còn đương leo trên bụi duối, cắt dây mảnh bát. Quán quăng cái quang gánh, ngồi
phệt xuống đám cỏ trên nấm mả nhà người ta. Quán kể nông nỗi đi gắp phân như là
đọc một mẩu chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo trong xóm trổ ra cổng đồng
còn tối đất. Những con trâu, con bò ra ruộng làm sớm, thói quen tự nhiên tới rệ
cỏ ven hào nước thì đứng lại ỉa. Đến khi sáng hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt
mở lốc nhốc kéo ra, ngồi bĩnh đấy. Hai thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt
cả phân trâu, phân người. Tìm ra những con đường phân này cũng chẳng phải tài
giỏi riêng Quán, mà sáng nào cũng có người nhặt phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng,
đi muộn có khi hết.
- Lá khoai lang ủ phân tốt, xuống lấy thêm vài nắm.
Quán xua tay:
- Đừng mó dái ngựa! Rau lang người ta cho lợn.
Anh chưa bị vố nào à? Cục cứt ở trong ruộng người ta cũng không được đụng vào.
Sáng nay thôi, tôi hót bãi phân dưới ruộng, một tên đến sừng sộ ngay. Con trâu
hay thằng người ỉa ruộng tôi làm là phân của nhà tôi, anh lên đường cái mà hót.
Luật đất đai đã nói đất của nhà nước, thằng cha lạc hậu thế mà mình phải chịu.
Chúng tôi làm hố phân cùng lúc với mọi bộn bề của những buổi gặt chính vụ. Rồi
ra cái xóm Đồng này hay hay dở không chỉ vì niêu cơm mỗi nhà trông vào, mà cả
xã, cả hàng huyện đương nghe ngóng, tọc mạch về cái hợp tác xã thí điểm. Đã lên
kế hoạch gặt trước trên ba mươi mẫu. Trời nắng thuận, lúa chín già mặt hạt
thóc, đã được mấy mẫu sớm. Đợt này thu tiếp một lèo trên mười mẫu, còn bọn ruộng
hom muộn để đến cuối tháng gặt nốt, chỉ ra đồng vài ba ngày là cùng. Công điểm
gặt không sổ sách như công cày bừa đầu vụ mà cân thóc trả tạm ngay cuối ngày.
Cả nhà cơm nước xong từ lúc còn tối đất. Ông Ngải thì ngồi uống nước, hai ấm đã
kiệt. Đòn càn, đòn xóc, dây dợ, thừng chão đã cắm sẵn từ hôm qua ngoài ruộng.
Giá như các năm trước chưa có tổ thì đã đi từ lúc sao mai còn lóng lánh đầu ngọn
tre. Bây giờ các nhà gọi nhau i ới, đến sáng bạch ngoài mặt ruộng mới dần dần rộn
tiếng cười nói rồi tiếng tay lúa chuyển rào rào.
Tôi cũng ra ruộng với ông Ngải. Ông Ngải dạy tôi gặt như bảo trẻ con chơi. Ông
Ngải bảo cách vun cây lúa, cắt quơ liềm, tôi nhận ra lý luận cái liềm, cái hái
là những tay máy đầu tiên thay tay người. Hình như ăng Ghen nói tương tự thế.
Tôi cười thầm tôi chưa đổ mồ hôi đã ra lý luận. Rồi tôi lại bực tôi tủn mủn hay
chế diễu cả những việc giản dị. Đến những động tác phức tạp nữa thì tôi cũng im
cắt nghĩa, tôi lại cười tôi Tôi gặt với ông Ngải, anh Sự và một lũ các cô Lẻn,
cô Dăm, cô Vĩnh. Tay con gái thoăn thoắt, không quờ quạng như tôi. Nhưng tôi
cũng không thấy ngượng.
Tôi vơ bốn khóm lúa, hai đầu gối khuỳnh đỡ như kiệu quì. Tôi phải nhớ: tay cắt
cất cao, chân cụp lại, duỗi ra, từng hiệp, từng hiệp. Có cô ngoảnh sang tôi, cười
như nắc nẻ: “Anh Tư đừng lo, ông Ngải mà dạy cắt lúa thì chỉ nửa buổi anh đã
hơn đứt chúng em". Các cô đùa như nói trêu trẻ con, chứ đòi nào tôi ví được
với các cô gặt khoan thai như văn công múa. Tôi nhớ năm trước vào giải phóng
Tây Bắc, ngẩn ngơ nhìn các cô gái Thái gặt ở Phù Yên, lưỡi dao cắt từng bông
lúa nếp thu vào ống tay áo chàm, như nhìn cô tiên trên trời sa xuống.
Hôm sau, gặt lúa dâu. Quán lại dạy tôi bài học khó hơn. “Biết gặt, biết bó, biết
gánh, gánh không đổ, làm được ba cái biết ấy mới là thợ gặt". Tôi hỏi:
- Quán thạo mấy biết?
- Gặt và gánh. Còn bó thì chân đạp và đầu gối tỳ còn đuối, bó chưa chặt.
- Tớ thì ông Ngải mới cho học quơ liềm.
- Anh đích thực “họ Từ tên Hải vốn người ăn không” đã lâu rồi, chính phủ miễn
cho anh chức nông dân.
Chuyện vui, chuyện cười lao xao trong ruộng, chẳng mấy lúc đã cao ngộn những xếp
lủa đầu bờ. Quán bỏ gặt lăng xang lên chen vào đám gánh. Quán nhanh nhẹn quơ mấy
cây lúa thành một khóm, ba bốn khóm ra một gồ, ba gồ một lượm, ba lượm một bó.
Một đòn xóc hai bên sáu bó, khỏe thì tám. Một mạch thẳng về đến sân- gánh thóc
không được đỗ, đỗ thì thóc rụng.
Quán gánh con cón, như trai làng, hệt thợ gặt. Chẳng quẩn chân ai chút nào. Ông
Ngải nói: “Anh Quán ở đây được. Đã vợ con chưa?
Cô Hến kể: Bố tôi yếu rồi, chứ ngày trước ấy a! Nhà ăn thế anh đã bảo sớm, chứ
khi chưa vào hợp tác, mẹ tôi thổi cơm từ canh hai. Hôm nào đi gặt mướn thì đến
ruộng mới tỏ mặt người. Bố tôi ra đơm đó, nhấc lờ về, uống xong vò chè rồi đứng
dậy ra ruộng còn tối đất.
Buổi gặt về, chiều đứng im. Dòng sông và bóng bụi tre, bụi chuối lẫn vào nhau.
Sao hôm vừa lặn, sao vược lên cùng chùm sao tua rua như một quang đèn treo trên
đầu khoanh tre. Khéo nhỉ, sao tua rua mọc như thắp đèn đến sang canh đêm kéo
lúa.
Ngày trước, nhà giàu thuê thợ hay treo giải gặt đầu mẫu. Chủ ruộng đếm từng quảy
về trước. Ai chẳng may cắt với ông Ngải thì biết trước là mất giải. Ông Ngải đã
ăn giải cả chục gánh một buổi. Làm ruộng giỏi như ông Ngải, ngày ấy, khi ở xóm
Đồng về, tôi đã viết một bài học văn cho học sinh lớp phổ thông miêu tả “Ông
Sóng vò lúa”. Bàn chân to ngoàm nghiến từng lượm. Người làm ruộng không cày,
không trâu, không kéo đá, cả đời chỉ cái cuốc và hai bàn tay, hai bàn chân với
những nét ác liệt". Đến bây giờ tôi vẫn nhớ mùa gặt ấy- mà cô Hến nói bố
tôi già yếu rồi, nhưng tôi trông ông vẫn như pho tượng đá không có tuổi, tay liềm
thoăn thoắt, một chốc đã ôm cả hàng lúạ ra xếp xòe đuôi cá. Rồi ông lên bó,
chân đạp đầu gối ấn, chiếc đòn xóc đâm ngọt xuống, nhắc lên, hai bó lúa ôm tròn
hai đầu đòn như hai thớt cối đá.
Buổi gặt chiều, nắng nhạt nhuộm phớt vàng lên ngọn tre rồi mờ dần như khói.
Phía bờ sông đã ngấn lên một vảy mồng trăng đầu tháng. Ngoài đồng vãn người thì
trong sân, mùi lúa chín, mùi hôi gà vịt ra rúc xốc thóc rụng, trong vách lom
đom lửa bếp. Cơm xong lại hối hả đổ đi vò lúa, kéo lúa.
Tập gặt, quẩn chân người ta, nhưng tôi đã xếp được, hai tay hai bên đặt bó lúa
đều, kiểu vẫy đuôi cá vược cũng như ai. Nhưng chịu không bó được và thử nhấc
cái đòn xóc, hai vai như sắp sụn xương. Thế đã là được, cũng không nghĩ thêm được
câu lý luận nào nữa.
Vừa buông tay liềm, nhìn xa đằng cánh đồng sâu đã thấy như chênh lên, mép ruộng
nước loang loáng nổi hình người vai đeo thừng, tay chống gậy gò lưng kéo bừa.
Các xứ đồng cao lại làm màu trồng khoai tây, Có mảnh đã xanh nhu nhú. Tiếng
chuông chùa bên sông bỗng ngân lên giữa lặng im. Hai chiếc thuyền bỏ mui trong
bến, lửa bếp ánh đỏ mặt nước.
Những mẹt cau bà Ngải mới bổ phơi ngoài sân đã được cất vào nóc chạn. Miếng cau
xếp dựng hạt cho nhựa chảy, mai nắng lại bưng ra. Trong bóng chiều mỗi lúc một
sẫm lại, tiếng gọi đò, tìếng trẻ cười, tiếng trống báo họp tốí, tiếng xe lúa về,
bánh xe lạo xạo trên đường ẩm hơn sương. Đến khi đã tối thui thì như có cái
vung úp xuống một trời sao long lanh ưỡn rợn lên.
Dẫu thế nào thì những ngày gặt hái được trông thấy hạt thóc, đâu cũng rộn rã nhất
vụ. Người lo các thứ cho mọi công việc. Hũ mỡ nấu nướng cơm nước ngoài đồng,
chai dầu thắp kéo lúa khuya, cân chè hạt, nụ vối, xó thuốc lào... Và có hạt
thóc, con chim gáy trong búi tre trong giọng hơn, con gà con chó mỡ màng, con
người quần quật làm bất kể đêm ngày, nhưng ra được hạt gạo mới, mặt mũi dúờng
như có phổng phao hơn. Cô Vinh nói đùa, mà thật: “Em như con gà, quanh năm gày
so vai, đến ngày mùa lại béo ú".
Chúng tôi bộn rộn ra đồng, nhưng vẫn chăm hố phân. Có cái hố phân xanh mà không
nên hồn thì còn ra sao- Phùng Quán bảo thế. Cái việc khó nhọc nhất vẫn là quang
gánh Quán đi gắp phân sớm, lỡ muộn là bị nhặt tranh hết. Thế mà hôm nào Quán
cũng về trước, lại đem quang sọt ra bờ rào giúp tôi khiêng đống dây dợ, lá lẩu
về đắp xuống hố. Chúng tôi vừa trễ nải lại như siêng năng, cứ lầm lũi, tuần tự
và thờ ơ tha thẩn như thế. Quán phải quang gánh đi tư tờ mờ nhưng chưa chắc đã
dậy sớm hơn tôi. Chẳng phải tôi mất ngủ bận bịu đọc hay viết khuya mà bởi ông
Ngải đã ra búi tre lép từ lúc sương đêm còn lùa vào nhà, gà vừa gáy tan canh. Lịch
kịch, lỉnh kỉnh ông Ngải dựng cánh liếp lên, đem cái nồi, rổ chè trong bếp ra
ngoài bờ ao. Cả đời cạnh búi tre, đã ngồi đấy rồi.
Tôi tan mất giấc, ra với ông Ngải. Ông chẳng quan tâm, chẳng khách sáo. Ông nói
cái đêm chỉ làm lười con người, dạy sớm thế mới phải. Đã thuộc việc, tôi lấy rổ
hái chè ngoài vườn từ chiều hôm trước vàó gác trên bờ tre. Hôm đầu, ông cầm rổ
rồi nói: “Chưa biết hái. Phải vứt lá già, ngắt lá đương lứa thì chè mới dậm, mới
sánh nước. Ông nhặt bỏ đi đến nửa rổ những lá còi, lá sần sùi mà tôi tiện tay
đã tuốt trụi cả cảnh.
Chẳng làm nổi cái thớ đút bếp. Trong đời, có mấy lúc ủ hố phân xanh để chơi mà
cũng lo, cũng không làm nổi. Thế thì tôi còn biết làm gì, tôi là ai, tôi là thằng
thế nào. Việc ấy cũng áy náy một thoáng nghĩ.
Bút mực, bút bi làm trò trống gì. Lởn vởn những câu Nguyễn Bỉnh Khiêm tự mỉa,
mà là thật như ông ấy ngồi trong bụng mình, - năm thế kỷ trước, thánh thật.
Không có tài mà được ngộ nhận, ban khen
Nhởn nhơ mà cứ dối là mình vất vả
Vốn học chưa đủ thỏa lòng mong mỏi
Chỉ chuốc lấy hư danh cho người đời chê cười
“Người đời” trước mắt tôi chỉ là ông Ngải thôi mà đã cảm thấy ngượng ngùng, ngượng mà trơ ra không tự biết, nghe như thơ chửi người khác. Bàn tay ông Ngải ngoàm ra, vò nắm chè như mớ rơm rửa bát. Bỏ chè vào rổ, ông Ngải dội nước sôi “luộc” rồi cho vào ấm. Nhấp ngụm nước chè xanh rợn, đắng tê đầu lưỡi. ấy thế mà rồi cái đắng ấy dân dà hôa ra ngọt đậm quen từ hôm nào, không biết. Mỗi sớm đi làm, chỉ bát nước chè đã no - ông Ngải bảo vậy. Tôi cũng bắt đầu cảm thấy thế.
Vầng trăng cuối tháng còn vệt sáng xiên ngang giữa nhà, bà Ngải đã gọi cô Hến dậy
thổi cơm. Cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng trăng, ông Ngải dửng dưng. Ba mẹ con quanh
cái chõng, lâu nay có thêm tôi, nhà vẫn sớm mai cơm nước giờ giấc thói quen thế.
Thường thì cơm khan, chỉ chan nước mưa, nước vối, ít bữa nấu canh. Có đêm ông
Ngải đi họp hợp tác về, hỏi tôi mấy giờ tôi bảo ba giờ sáng. Ông Ngải không đi
nằm, nhóm lửa đun nước ngồi uống đến gả gáy tan canh rồi đứng lên ra bờ sông đặt
đó. Hai bàn chân bàn cuốc, bước huỳnh huych. Đời ông chỉ cuốc, xắn mai, làm vai
con trâu kéo. Từ cái năm xây cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ
hoang được chín miếng thành ruộng rồi ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác
cũng kéo ra, cái xóm to dần.
Gặt đã vãn rồi ông Ngải dò dẫm lại từng góc ruộng, rồi đi nhấc lờ cá. Mẹ con cô
Hến thì bắt con chạch, con cua đến nhạt nắng mới về. Con tép bỏ vào chĩnh nước
cáy. Mớ chạch vùi nồi kho được thức ăn mai rồi.
Cu ốc thì đi tập dân quân, nằm vạ vật ngoài đình, sớm hôm ra ngay ruộng.
Bên kia sông, trên mặt đê kéo dài nền trời xám chẳng. ra chiều ra sớm. Những quảy lúa nhấp nhô, chiếc xe bò lạch cạch, tiếng vọng xuống nước nghe vời vợi. Còn khô thoáng thế này mà chỉ tháng sau đã đến cữ mưa dầm, gió bấc cho đến khi cánh đồng kiệt đã lên sâm sấp nước thì có lứa rươi đầu ngoi lên ngọ ngoạy chân cỏ.
Hôm ấy phiên chợ Thượng. Nhà có buồng chuối dấm, bà Ngái đem bán. Chịu khó đi
chợ xa quả chuối được tiền hơn quanh quẩn xó chợ Phố của rẻ như rác.
Đò ngang đằng sau chân tre mới gà gáy đã nghe tiếng mái chèo gạt nước sớm hơn
thường ngày. Bà Ngải trõ vào giường gọi: “Trỗi! Trỗi! Một lát, bà cũng lại đi
ngả lưng rồi cái Hến mới ầm ừ ngồi lên. Ông Ngải đã gật gù ngoải hiên với ấm nước.
Hến vào bếp bắc nồi, thổi lửa. Cơm đã cạn, Hến ghế nồi, quấn mồi rơm rác quanh
miệng kín nắp nồi rồi lại mò vào giường.
Bà Ngải cứ như cái máy lại ngồi lên, ra ngả chiếc mâm chõng, lại cất tiếng réo
“Trỗi, Trỗi” gọi thằng ốc, cái Hến ra ăn cơm. Tôi đương uống nước với ông Ngải
cũng vào mâm. Tối mò, chẳng đèn đóm, vẫn cơm chạch kho lại thêm món muối rang
như mọi sớm.
Tiếng cút kít, cót két cái lăn đá kéo lúa đã ánh ỏi ngoài đầu xóm. Ông Ngải uống
cạn ấm nước vẫn cằn nhằn đêm qua ra sân coi lúa, không biết bọn con đĩ dại nào
kéo đá cờn như ngựa bật cương, đú đởn nhau đùa nhau để lỏi thóc, sứt cả cái tai
lăn.
Sáng bạch thì cả nhà đã đi hết...
Quán ra bảo tôi: “Bận sau anh chớ có trèo lấy lá xoan ủ phân, cành xoan không
có thớ, nó mà khấc một cái rơi thẳng xuống đất, chỉ có gãy xương. Để xem chỗ
nào có bèo ong. Cái bèo ong lợn không chén, có khi còn". Quán nói để khoe
nó biết cành xoan ròn chứ tôi có trèo xoan bao giờ. ừ thì mày đi mà tìm bèo
ong. Ông đã chén cơm từ tám hoánh với cả nhà, bây giờ tức bụng chỉ muốn nằm khểnh,
mặc dầu tôi vừa mắng thằng tôi là ai, tôi là ai thì tôi biết quá chứ.
Tôi ngắm lên cái nhà ông Ngải mới làm năm ngoái chưa xong hẳn. Một tay ông lo
toan cặm cụi, chăm chút từ lúc trồng vườn xoan tơ cho đến năm những cây xoan đầu
lứa được ngả xuống cưa, đẽo rồi ngâm vào bùn ao. Ông Ngải lại cẩn thận đi lùng
cái thuốc bom, thuốc bom chống được mối mọt, ông hòa loãng ra quết vàng khè khắp
kèo cột ba gian nhà. Cái sân còn đất nện, nhưng đã lên tường xây gạch con kiến
bao quanh. Sau cổng trồng hai cây cau lùn. Vài năm nay nhà được đủ bữa, đã
khác. Một đời người chỉ cầm cuốc, dần dà lên được cái nhà tươm thế này.
Hồi Pháp chiếm, ông Ngải không bị bắt đi dõng, đi bảo an, vì đã hom hem râu
ria. Lão xếp bốt hương binh quát ra lệnh: “Râu dài quá rốn cùng mặc mẹ nó. Cứ
thấy đứa nào vẫn hau háu mắt cú thì biết nó còn nhòm ăn, nhòm gái được thì cứ bắt
cạo râu rồi giải cả về đây”. Nhưng không phải ông Ngải nuôi râu chống càn như
nhiều người trong vòng tuổi ba mươi, mà hai con mắt ông Ngải từ trẻ đã lèm nhèm
viền vải tây điều. Thế là thoát chân lính tráng. Nhưng ông Ngải cũng không đi
Việt Minh. Cũng như bây giờ, ông vẫn nói một câu lừng khừng “chẳng ôm rơm nặng
bụng".
Lúc cải cách, cả làng nháo nhào, ông đứng yên. Không ai đụng đến mấy miếng ruộng
tay ông cuốc nên. Ông Ngải chẳng tỵ nạnh với đứa nào. Bây giờ có hợp tác ông
vào ngay. Cái lý của ông cũng như người ta hiểu. “Cái ruộng nó trần trần ra đấy,
làm thì ra thóc chứ ra gạch a? Có ruộng thì có thóc, hợp tác cũng là ta cả
thôi". Ông nói thế, nhưng thật cũng không ai đoán nổi tại sao ông vào hợp
tác nhanh vậy.
Ông Ngải được bầu làm chân kiểm soát trong ban quản trị. Ông Ngải hỏi kiểm soát
có phải là “củ soát tế vật” như ngày xưa các cụ đi tế ngoài đình. Sự bảo: “Kiểm
soát là đứa nào làm sai thì kiểm soát, uốn nắn người ta”, ông Ngải chỉ “ừm” một
tiếng.
Tôi cũng lấy làm lạ cái tích cực bất thường của một người chỉ chăm chăm việc
làm quanh cái mai, cái cuốc. Một hôm, ông nói tôi mới nghĩ ra. Thì lại thật dễ
dàng cái sự nhận làm kiểm soát và vào hợp tác của ông. Ông tính: “Vợ chồng tôi
già rồi. Con cái thì có nhớn mà chẳng có khôn. Thì phải dựa vào trên chứ dựa
vào ai, trên bảo làm thế thì làm”. Ông vào hợp tác ngay cũng đơn giản cái nghĩ
thế. Ông lại cắt nghĩa rằng vào hợp tác ai cũng phải lao động. Lao động được chấm
công, ăn thóc, không làm thì nhịn há mồm ra. Ông thích rõ ràng như thế. Ông Ngải
ghét nhất đứa lười, quân lười thối thây. Năm trước, có người được chia ruộng, lại
ôm đống quả thực cả giường chiếu, chum vại, quần áo hẳn hoi, thế mà rồi nhai hết,
bán cả lúa non, lại cởi trần nằm ổ lá chuối khô. Ông chửi ầm lên, ông bảo cho
nó chết. Ông Ngải chửi đứa người lười cũng khác người ta. “Không phải nó chịu
hèn nằm ngửa ăn sẵn đâu, những đứa quân thâm hiểm lắm chứ chẳng vừa". Bọn
chúng thâm hiểm thế nào thì ông không nói.
Có việc trên khuyến khích làm bèo hoa dâu bón ruộng. Bàn ở ban quản trị, ông Ngải
nói: “Đừng nuôi bèo dâu mà công toi. Bên Quỳnh Côi làm được, còn ở ta đất bãi
nên đồng, không hợp bèo dâu". Chủ nhiệm Sự nhăn nhó: “Tôi họp cả ngày nghe
huyện dạy làm rồi bảo cho hợp tác xã thí điểm được lên huyện lĩnh một sọt
bèo"- “Các ông ấy dạy làm chứ các ông ấy có làm đâu". Sự nói: “Thôi
thì ta cứ đem về thả, có hỏng cũng chẳng chết ai”. Ông Ngải chẳng găng nữa, mà
lại nói hôm nào có bèo để ông đi lĩnh. Sự thì đa nghi, nói khéo: "Bèo là
phân bón, công tác phân bón của đồng chí Quốc, bố ạ".
Ông Ngải lặng im. ấy có lẽ ông lại tơ tưởng với những mảnh ruộng bãi tay ông cuốc.
Cứ ai bàn làm ăn, cả lúc ngồi yên dễ thường ông cũng nghĩ về nó. Tôi đã nghe
ông nói không biết cơ man nào lần, tôi cứ thành kiến về ông như thế. Nhưng mà một
tay một đời làm nên tác phẩm công trình thế, tự hào như ông là phải chứ. Cả cái
thung này ngày trước hoang mặn, chỏng trơ. Từng tảng cuốc lên rồi nhiều người
trong làng ra kéo đỡ nhau dần dà vượt qua được cái đất chua đất ác. Cũng bởi mọi
nhà sàn sàn, lại quen vất vả tối ngày, người ta cũng dễ một bụng, đổi công hay
hợp tác thì cũng ra hạt thóc ăn chia cả.
Nhưng các nơi khác soi mới nhìn vào tò mò và lo lo. Cũng có người rì rầm: “Vừa
được chia miếng ruộng, chưa ăn xong bát cơm đã lại cộng lại, rồi còn vần xoay
thế nào". Nhưng những băn khoăn ấy không biết đến đâu, rồi im. Bởi vì
chính phủ đã dựng cái hợp tác thì rồi ở đâu cũng phải bước vào. Dạo này, Quán
lên tận gần chợ Phố lấy phân. Chẳng biết có trâu bò xóm nào ra đồng đằng ấy,
nhưng Quán đã cáo lắm, đi tìm đồng vắng nơi đã bỏ phân chuồng, đến thuổng một
ít. Một hôm, đã chẳng được gắp phân nào, lại bị tẽn, Quán kể:
Người trong xóm ra hỏi:
- Hợp tác trên ấy gặt hết chưa? Nghe nói họp thắc mắc suốt đêm không xong mà?
à, à, đến lấy phân ruộng nhà người ta, không được đâu. Hợp tác trên ấy ăn hết
phân rồi á?
Quán lại chuyện:
- Chưa hết, chưa hết, đểu lắm. Còn có những đứa ra ngắm tôi rồi chép miệng: hôm
mới về các anh trắng trẻo béo tròn thu lu như ông cố đạo, bây giờ nhô vai gầy đen
nhẻm. Chân tay học trò của người ta thế kia mà các ông các bà hợp tác bắt con
người ta làm con mẹ mũi thung đi gắp phân. Dân ở bờ bãi quen xơi cả cứt có
khác. Chúng nó nói nặng hơn chửi, tôi không dám đối đáp lại.
Quán tong tả với cái quanh gánh sọt không. Chúng tôi nhìn nhau cười, chẳng hẳn
cười. Quán hay chửi bọn mỏ quạ ác khẩu. Rõ cái bụng ghét thì con mặt méo nhìn
người ta. Làm gì đâu mà đen nhẻm. Bữa nào cũng đánh mấy bát cật lực, ít thức ăn
càng tốn cơm gạo mới. Có về đây mấy đốt xương, khớp xương trong người tôi mới
được đụng đến. ở cái xóm lam làm đầu tắt mặt tối này, chuyện trong mọi nhà vui
buồn chan hoà với mình. Chúng tôi dường như ai cũng cảm thấy thế. Ngày rộng
tháng dài tôi cũng không sốt ruột về thành phố.
Tôi thích thú mọi chuyện nhà ông bà Ngải. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi
kéo cày mướn thay trâu. Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi
năm sào ruộng dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp
rưỡi người khác mà các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đâu
năm. Rồi lại việc sông nước, đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải
bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai. Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt
những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi
thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc, đất ngấu như bãi bồi. Thế
là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn tháu lăn lóc cả đồng.
Vừa sửa sang vườn ruộng, trồng rào hóp ra men sông thì xã ủy lập chòi hương
dũng, rồi Tây về đóng bốt, đuổi không cho người ở gần. Thế là phải chạy trở vào
làng. Nhưng chẳng bỏ vụ nào, vẫn lẻn ra đánh luống, chỉ phải cái không được ăn.
Nhớ làm thì ra làm thôi. Dưa hồng chín vàng bờ.. sông. Hai bốt Trả, bốt Cầu Sắt
chúng nó đem xe cam nhông ra khuân tiệt.
Năm bình yên rồi mới làm nhà, làm dần, tưởng như xong mà bây giờ vẫn chưa xong.
Sang năm xẻ gỗ mít, đóng cửa bức bàn. Mọi thứ ông đều làm tất tật. Bà Ngải lại
kể với tôi: “Buồn cười quá, khinh cả con trâu cũng chẳng bằng ông ấy, ăn thịt
thì còn được chứ kéo lúa thì chỉ biết kéo. Hai bàn chân tôi đây vò lúa khéo bằng
mấy trâu kéo đá. Cả lượm tôi vò chẳng rơi vãi một hạt".
Nhiều cụ già khác ngày trước như thế cả, như mẹ tôi khi sinh thời, người không
ăn cháo, có mệt mỏi cũng chỉ ăn cháo nấu như cơm nát. Ông Ngải nói người mà ăn
cháo thì liệt giường chầu trời đến nơi. Có lần ông Ngải đương lên cơn sốt rét
mà nhà còn sào ruộng chưa bừa, đã hẹn cấy. Ông dậy, đùng đùng vác bừa đi. Ông đặt
nghiêng răng bừa trên mặt nước, rồi quàng thừng kéo. Bừa xong cả thửa ruộng, ngồi
xuống bờ, không đứng lên được nữa. Ông nghĩ: phen này chết mất.
Không đi được, ông khoác bừa lên vai, lội xuống lạch nước, ông quờ quạng bơi bò
về tận bờ rào hóp sau nhà. Ông vào nằm đắp hai cái chiếu, đến nửa buổi, mồ hôi
toát ra như tắm, thế là tan cơn sốt. Ông lại ra chỗ ruộng mới bừa xem thợ cấy
đã đến chưa.
Người ta hay nói vui với ông Ngải: “Cái lão khọm này thì phải bao giờ cho đi
Liên Xô xem máy cày, máy gặt đập, cái tàu hoả, tàu bay thì may ra lão mới biết
sợ. Chứ con trâu con bò thì chỉ để mổ thịt, được cái bộ gì phải không?” Ông Ngải
cười: "Đúng đấy, nhưng mà biết đến năm thằng ốc, cái Hến lấy vợ lấy chồng
thì tôi còn sống mà được nhìn thấy cái máy cày chưa?"
Ông Ngải nói ví thử thế cho vui miệng chứ cái Hến chỉ khoảng tuổi mười lăm, mà
đã sắp về nhà chồng. Chú rể Toàn ở trong làng, cũng học lớp hai lớp ba cho biết
mặt chữ như Hến rồi ở nhà. Toàn chắc nhỉnh tuổi hơn Hến, dáng chững chạc. Mỗi lần
ra nhà Hến, Toàn đội cái mũ nan lá cọ bóng dầu, áo sơ mi trắng, quần phăng ka
ki xanh nhạt, trong túi quần có cái khăn mùi xoa.
Bố vợ sai xới luống rau, chữa cầu ao, đánh cây rơm. Toàn cởi trần, mạc độc cái
quần cộc. Thói tục đất này tự nhiên, mới ăn hỏi mà chàng rể đã năng đến nhà vợ.
Nhưng tôi chẳng thấy hai đứa trò chuyện, đùa nghịch khi nào. Chiều cơm nước
xong thì Toàn về.
Hôm ấy, Toàn với Hến ra vườn cắt hai buồng chuối tây mỗi buồng hơn mười nải. Một
góc vườn có đến mấy chục cây chuối, chuối dấm chuối chín chẳng mấy phiên chợ Phố,
chợ Diêm không có chuối ra chợ. Mà tôi không thấy nhà ăn quả chuối nào bao giờ.
Mai đi chợ Diêm từ lúc sao chưa lặn, thế mà khi Toàn về trong làng, tối mẹ con
Hến lại đi kéo lúa như mọi khi đến khuya ngủ một lúc gà đã gáy dồn. Bà Ngải lại
gọi: “Hến! Hến.! Trỗi! Trỗi! ”. Tinh mơ ông Ngải đã ngồi đầu chõng với cái vò
nước, cái điếu cày. Cô Hến trở mình, ngái ngủ. Phải vài ba lần bà Ngải quát gọi,
cô Hến mới ậm ự ngồi lên. Lại ra nhóm bếp, bắc nồi, tra gạo bà Ngải đã vo sẵn,
lúc quấn cơm xong lại vào gường lăn ra. Đến lượt bà Ngải bày mâm bát, bắc cơm,
lại hò: “Trỗi! Trỗi! ” Cô Hến trở mình, chép miệng, ú ớ. Phải mấy câu giật lên
nữa cô mó thật ngồi dậy được và ra chỗ mâm chõng. Rồi vẫn chỉ có ba mẹ con và
tôi ăn thầm trong bóng tối.
Tôi nói:
- Tôi cũng đi chợ Diêm. Lúc nào Toàn ra đây?
- Bây giờ thôi.
Bà Ngải đã ăn xong, đứng dậy. Tôi ra mái hiên nhìn trời chỉ còn ông sao mai
sáng rợn sau bụi tre. Toàn chưa ra, tôi lại vào uống nước. Ông Ngải kể chuyện
ngày trước quãng trời này ông đã đi “đón công” ở chợ Phố. Chủ ruộng đến chọn
người mướn đưa ra ruộng, cắt được một gánh, xóc đòn quảy về sân nhà người ta,
trời mới sáng.
Ông Ngải vẫn gật gưỡng, lại hút điếu thuốc. Sớm mai mừ mờ, lạnh đầu ngón tay.
Ông Ngải đã đặt đó lúc chặp tối qua, bây giờ đợi con rể ra, chúng nó đem chuối
xuống chợ thì ông xuống rệ sông nhấc đó. Nhưng ngại đi trễ nhỡ tuột cứ cá ra,
ông Ngải đứng lên. Đặt đó cũng không phải cứ quăng xuống cửa rãnh, phải bôi đất
thó nhẵn mép nước, cá bống vào mới không trợn. Đến lúc Toàn ở trong làng ra,
ông Ngải vừa xách đó về đã lại ngồi ngoài bụi tre lép chẻ lạt. Chỉ được một con
răn mòng không cá nào dám bén mảng, ông Ngải đem đó về ngay. Quay đi quay lại,
mới tinh mơ bảnh mắt ông Ngải đã được ối việc.
Toàn vác đến cái đòn ống. Hai buồng chuối buộc túm cuống lại, như trói con lợn,
mỗi người một đầu đòn. Cái đòn lắc lư đi một quãng, tôi bảo để tôi đỡ một vai.
Toàn bảo: “Nhẹ như bấc, có gì đâu". Từ nhà xuống Diêm, hơn mười cây, đi đã
mất ngót buổi. Mọi thứ mua bán đều gồng gánh trên vai, chẳng biết thế nào nặng,
thế nào xa.
Hai bên cánh đồng lác đác những đầu bờ cắm đòn xóc, treo cái mồi rơm, ấm nước.
Nhiều nơi còn gặt muộn. Nhưng nhiều chỗ đã làm mùa, đương cày dầm.
Rồi có ruộng cày xếp ải quanh bờ, đất đã nỏ, sắp tháo được nước. Chỗ làm mùa,
chỗ sang màu, đồng áng chẳng còn phân biệt mùa vụ, lúc nào cũng lật đất kiếm
cái ăn.
Đã trông xa xa những bãi sú xanh xanh ngang mặt biển. Rễ sú to hơn thân cây, trồng
từng hàng làm bờ rào ngăn sóng. Trên những vùng cỏ bằng phẳng mặt nước lợ, lốm
đốm những con cò trắng mỏ ngà, chốc lại bay vồng lên. Đàn vịt nhà hàng trăm con
lạch bạch, à à vỗ cánh đùa quẩn trên mặt nước.
Phố Diêm giữa đường cát, nổi lên lơ thơ tháp nhô mái lá như những chóp nón úp.
Nhà cửa, hàng quán vách quét vôi vàng như phố nửa thời tản cư. Một kho gạo, một
hiệu bách hóa nhà mậu thì tường gạch trần, lợp ngói.
Ngoài cửa sông, những đống lưới cao như gò. Mấy cánh buồm nâu. Không biết thuyền
sắp ra khơi hay thuyền buôn vào chợ. Nhà ai phơi cá, phơi moi ngay mặt đường.
Những đàn nhặng xanh bay từng đám chụm lại, tưởng như vốc tay được. Mùi cá, mủi
mắm thum thủm khắp nơi.
Xóm thưa thớt lẫn với cánh ruộng muối trắng. Biển tít mù ngoài bãi sú bạt ngàn,
những mái tôn, mái lá càng ẹp xuống dưới những tảng đá chặn lên ngăn gió thổi
bay. Không một bóng chim. Một vùng tiêu sơ ngày ấy, bây giờ đọc báo được tin
đương xây cảng hiện đại Diêm Điền cho tàu viễn dương hàng nghìn tấn ra vào được.
Không cắt nghĩa được mà lại thấy ra được, như hồi đầu thế kỷ, ở nơi chơ vơ sóng
gió, ăn còn không có lấy đâu ra chữ nghĩa và hiểu biết, thế mà ở đây đã sinh ra
người thanh niên Nguyễn Đức Cảnh xuất dương đi hoạt động từ khi cách mạng còn
trong trứng nước...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét