Năm cùng
tháng tận, tết nhất đến nơi mà thành phố vẫn phấp phỏng không biết bom đạn trên
trời ập xuống lúc nào. Dáng ai cũng vội. Mưa bụi hơi nặng hạt. Tiếng pháo rải
rác. Con chuột cống trụi hết lông trong rãnh nước lép nhép ra, gặp ánh điện lại
lõm bõm thong thả quay vào. Ngày mùng một, những bộ quần áo mới và những người
đẹp loé lên như nắng sớm. Kiểu áo Thái Lan vạt không viền gấu ngổ ngáo được các
ông phó may đất Kẻ Chợ làm cho dịu đi, ưa mắt. Thì cái áo đại cán ở Thái Nguyên
về chẳng ra sao mà đến Hà Nội cũng hoá nhũn nhặn, dễ trông. Chiếc chả giò Sài
Gòn bé bằng ngón út mà ra đây hoá thành cái nem rán nhân cua bể, món ăn quốc tế.
Chỉ những mái tóc xun xoăn lên như cô gái châu Phi thì hình như các tay thợ
ngôi chịu, vẫn để nguyên mẫu thế trên đầu các cô gái đời mới.
Đêm công viên Thống
Nhất. Đèn treo vòng qua mặt cầu quán Gió. Hoa cúc trắng trong bóng tối. Những
quả quất đốm vàng nhấp nhoáng. Thoảng mùi thơm hoa hồng. Ôi, sao chưa vào xuân
mà đã hồng hoa. Hay là cứ tưởng ra thế. Thành phố đường vắng vẻ thiên nhiên -
hay là ở nơi đô hội người ta không để ý, mùi hoa, mùi đất, mùi lá và mùi gió mơ
hồ thả xuống lòng đường, những sáng sớm vừa dứt mưa đêm. Trong lùm cây, ghế đá
thì rõ ràng cảnh tất tả khác thường. Đôi trai gái xe đạp dựng, nón, ba lô, túi
dết, chai dầu, nước mắm đeo túm sau yên. Vừa về tới, đã ngủ đêm trong thành
phố, hay chốc nữa đạp ra làng sơ tán tận đâu.
Mới mùng bốn đã lao xao
và gay gắt như mọi ngày trong năm. Mụ mắt cú vọ đứng sắp hàng mua cá bể muối từ
Hải Phòng đưa lên đã đóng tảng trước quầy cửa chợ. Gần đến nơi, trỏ tay, hỏi.
Cô nhà mậu lạnh lùng bảo cá bán theo phiếu cán bộ. Mụ quay ra giữa hè, mặt
phừng lên, vô vô:
- Cha tiên nhân cái mặt
này! Sao mày không đẻ ra cán bộ, chỉ đẻ ra thằng nhân dân! Cha tiên nhân...
Những câu chửi, cũng
một câu chửi, câu thì mánh khóe té tát, câu thì khoe ý nhị, nhiều nhẽ. Bà ở quê
ra chơi, cháu bé lon ton chạy tới, bà cười cười: Cha đẻ mẹ thằng cũn kia! Tối
mùng sáu, ra ăn mở hàng cháo gà lão Chữ ngã sáu.
Năm mới, được ngày tốt,
bác hàng cháo chỉ làm một ít bán lấy may. Khoảng mười giờ, nồi cạn đã sôi ục
ục. Không thấy cái chú mọi khi lúi húi rửa bát ở chiếc bồn gỗ cạnh bếp lò quây
miếng sắt tây. Thằng bé về quê ăn tết chưa ra à? Ông Chữ đương ngồi lau bát,
ngước lên, cùi tay đấm lưng bùm bụp, rồi khoe khéo.
Cám ơn ông hỏi thăm. Bố
đương ốm mà bỏ đi thanh niên xung phong, ông ạ. Vào tận mặt trận Quảng Trị,
Thừa Thiên đấy. Cha tiên nhân nó, gần Tết gửi được cái thư về báo cáo gia đình
đi có năm tháng đã được tiên tiến, bây giờ phụ trách C đấy, ông ạ. Ông bảo cái
ngữ rửa bát chưa sạch thì phụ trách, phụ móc gì mà cũng nên cán bộ cán thuổng?
Ôi chao, cái câu chửi,
câu phàn nàn mà âu yếm. Thành phố sôi nổi mà lại như lặng lẽ, khinh bạc, phớt
đời. Lại đòn đánh mới, lại sắp bom, lại sơ tán, triệt để sơ tán. Lần nào cũng
tưởng đã vợi hết người rồi vẫn cứ thấy trẻ con người già lốc nhốc ở đâu bò ra
lắm thế. Đám tý nhau đeo ba lô, quảy túi lễ mễ trông đến thương - nhân đấy là
mình nghĩ. Chúng nó bước lon ton, hớn hở, nghếch mắt ra vẻ ta đây.
Cái thói quen đêm giao
thừa tụ hội nghe giọng sang của Đàm Mộng Hoàn, giọng đẹp Chu Thị Năm Tuổi ba
mươi đã lại dư một vài... Tuổi năm mươi, tuổi sáu mươi... bảy mươi đã lại dư...
Chiếc máy hát cũ hỏng đã lâu, cũng chẳng buồn chữa.
ừ đã lại dư... mà đã có
người xuống mộ rồi. Ngoài hạ nêu, vào dịp bốn mươi chín ngày, đi Nam Định với
Yến Lan, Bùi Hạnh Cẩn và Phạm Lê Văn viếng mộ Nguyễn Bính ở nghĩa trang thành
phố. Chúng tôi đặt chiếc bia bên cạnh cái bia đã có. Thế là một mộ hai bia,
nhưng chắc hôm đưa đám vào ba mươi áp tết ngày cùng tháng tận chẳng có mấy
người. Thơ Nguyễn Bính, tình buồn mà cảnh đẹp, nhưng những luỹ tre xác xơ làng
Thiện Vịnh, đồng chiêm ngập nước loi ngoi cỏ lẫn lúa xơ xác chẳng mảy may như
trong thơ. Con trâu cày đồng sâu chỉ thấy hai lỗ mũi nghếch lên mặt nước. Không
có rơm rạ, làng trồng cỏ tranh trên gò lấy cái lợp nhà. Gió ào ào qua rặng tre
nghiến răng. Những thôn Đoài nhớ thôn Đông và đám rước quan trạng vinh qui qua
làng Trang Nghiêm không phải dưới đất có được mà chắc là ở trên cao xanh đẹp đẽ
xa kia.
Tôi mơ màng tưởng tượng
và cũng thật tôi đương ngồi trong căn nhà ấy. Nếp nhà tranh một gian hai chái,
cửa buông. Trước hiên, giàn đỗ ván đã quăn queo còn vương lại mấy quả khô đen
như quả bồ kếp, thế mà mưa xuân đương độ phơi phới bay, vẫn nở như một đoá hoa
tím ma quái. Mảnh sân đất ngoài đùn từng đống cứt giun và cạnh bờ rào thưa, hủm
xuống một cái chuôm cạn. Cái ao cấy cần của nhà thơ. Mặt đất đáy ao, những khóm
cần nhà ai đương lên xanh mởn.
Hỏi ra mới biết năm ấy
nhà xuất bản Phổ Thông - nơi Trúc Đường làm việc, in truyện thơ dài Tiếng trống
đêm xuân của Nguyễn Bính. Có tiền nhuận bút, nhà thơ nảy ra cái ngông về làng
quê làm nhà, cái nhà đơn sơ như trong thơ xưa. Nhà tôi có một vườn dâu... Có
giàn đỗ ván, có ao cấy cần... Hoa đỗ ván nở mùa xuân. Lứa dâu tháng tháng, lứa
cần năm năm... Rồi vợ chồng con cái Nguyễn Bính dời thành Nam, về làng. Chỉ ở
được ít lâu, đôi bên lục đục, đánh chửi nhau, chăn bông xé đôi mỗi người đắp
một nửa - báo Nam Hà trong mục thơ châm biếm đã có bài thơ mỉa mai. Rồi cái nhà
này, cái sân đất, cái ao hệt như trong thơ, phải bán đi. Lại gồng gánh nhau ra phố
ở. Buổi trưa ấy, tôi nghỉ nhờ bác chủ mới của nếp nhà ấy - một người làng. Nhìn
cái cửa buồng, chiếc then tre treo lắc lư, nghe tiếng bụi tre đưa võng kẽo kẹt
bên đầu hồi. Nhà tôi không bán vườn dâu. Tháng hai giàn đỗ bắt đầu ra hoa. Sang
năm tôi phải về nhà. Đợi xem vườn đỗ ra hoa có nhằm? Trong tôi rỗng không chẳng
một ý nghĩ, nhưng mắt thì rưng rưng. Tiếng tàu hoả về Phủ Lý đằng cuối cánh
đồng thuốn hun hút vào giữa trưa, có lẽ canh khuya nghe còn thăm thẳm hơn.
Đêm về viết bài đi
viếng bốn mươi chín ngày Nguyễn Bính cho đài phát thanh buổi gần nửa đêm gửi
miền Nam báo tin buồn với bè bạn trong ấy - Nguyễn Bính đã lặn lội mười mấy năm
trời ở thành, ở chiến khu, cũng là một đứa con miền Nam.
Các cửa hàng, phiếu
thịt chỉ bán mỡ - mà hoạ hoằn mới có. Người đổ ra đường, suốt ngày nháo nhác
sắp hàng, xếp hàng mua từ mớ rau đay. Bom đánh trên đầu, dưới đất thì kéo dài
hàng như thế này, biết sẽ ra sao. Tôi ra nhận làm công tác trưởng khối phố, tôi
đi xem xét các nhà thiếu đói để xin cứu tế cuối năm. Vào một nhà, chị ấy làm
nghề y tá, chồng li dị. Ba mẹ con cả tháng ăn cháo quấy lẫn rau muống. Nửa phần
gạo phiếu đã bán để thêm tiền chi tiêu và mua rau, mắm muối. Ba khổ mặt xanh
rớt, sáu con mắt thì trong Tháng hai qua như cuốn đi, đôi lúc nhìn cây cỏ mới
nhớ ra. Những cây xoan vẫn khẳng khiu. Cây táo còn sót lại trên cành những quả
vàng, rung một cái, rụng lộp bộp lẫn với những giọt sương. Chiếc búp bàng đã
dựng đứng như cái tai thỏ xanh. Tiếng con chim vành khuyên bay trong làn mưa
mới nhè nhẹ nửa bụi nửa hạt. Hoa vông đỏ, màu gắt đỏ hoa vông, đông miếng tiết.
Bụi mưa vân vân quanh người trên đường.
Đêm xuống rồi mà gió
dải đồng còn thổi dài mặt hồ Hoàn Kiếm. ánh điện hẩng trong lòng tháp hắt ra
trông thấy một chiếc thuyền thúng ghép bằng mảnh thiếc đủng đỉnh lượn quanh bờ
cỏ tháp Rùa. Người trên thuyền, một bàn tay bơi, một tay thả xuống những cái
ống đánh lươn. Hè phố Tràng Tiền, những viên gạch đã mòn trũng, trơ ra cái vỉa
viền đá xanh, như con cá giơ xương. Khung cửa sổ trên gác im lặng trong cánh
mành buông, một chiếc bóng nhìn ra, tay nâng cái chén. Chén chè ngon hay chén
rượu một mình. Êm ả, tĩnh mạc, các cửa sổ ban đêm giữa thành phố phòng không
như trong chuyện cổ tích.
Khuya rồi bỗng hiện ra
một con quái vật của chiến tranh Việt Nam 1966. Một xác chiếc máy bay không
người lái cụt mất một bên cánh, nằm trong thùng chiếc xe bò, một người cầm càng
kéo đi. Thằng không người lái này ban chiều vừa lẻn vào tiếng nó réo lọng óc.
Tự vệ quận Đống Đa đón lõng bằng đại liên, đã hạ nó rơi trên bờ đê, bây giờ xe vào
đây. Cái lạc hậu tha cái tối tân lủi thủi lọc cọc trong đêm.
Cái nào đi với đặc điểm
ấy trong thời chiến. Quán cà phê Miền Nam cạnh bệnh viện Mắt. Chủ vốn lái xe,
áo xanh, tay nhọ, bàn ghế ngổn ngang trong cửa hàng tối hũ nút. Vợ chồng nhà
quán cũng đen như bóng tối, hàng dọn lúc ở bờ hè, lúc vào trong nhà, chẳng khác
cà phê đá nhạt thếch ở bến xe đi Nam Vang xế cửa chợ Bến Thành ngày trước. Cà
phê Trần Hưng Đạo, một tay thương binh chán đời. Những người vắng mặt trong câu
chuyện đều bị lão gọi bằng thằng. Khách hàng, áo ka ki đại cán bạc như khuôn
mặt thờ ơ của những cán bộ bàn giấy các cơ quan quanh đấy. Cà phê Lâm chơi
tranh trễ tràng, các thứ nam nữ cô bồi, cá chìm, họa sĩ nổi tiếng ngồi lẫn với
thợ vẽ Bờ Hồ, những loại đú đởn học đòi, những cặn bã tự cho là nhất thiên hạ
tới đây để rồi khoe tầng uống chịu của ông chủ cà phê chơi tem rồi chơi tranh
và mua sách của các nhà văn túng thiếu đem gán nợ. Cà phê Lương, cà phê Lâm
hàng Da thì đã tàn. Thế mà cái cà phê nhà mậu đường Điện Biên lại đương nổi, ngoài
cửa xe đạp chồng đống. Chẳng ra gì mà đông như chọi gà. Mới biết bán hàng cốt
có cái duyên. Nhưng dù sao, vẫn khác những quán cà phê nhợt nhạt ô Yên Phụ, chỉ
được cái ngọt ấm mùi hoa xoan trước cửa. Anh cô bồi ngoắc ria mép gọi hai ấm
chè. Mỗi lần lên hồ Tây, tôi đến uống suông chai bia Hữu nghị rồi ngồi nhìn
xuống lưng đình Yên Phụ kề mặt hồ. Thế mà bận sau, cô hàng đầu ô vẫn nhớ mặt.
Khách dị dạng một chút, đã dễ quen.
Đêm Nôen năm ấy, đi
chơi với một người khách trẻ măng không biết tên và trong tối sáng nhấp nhem,
cũng không hẳn tường mặt. Những ngọn đèn đường chỉ rình tắt, sắp báo động. Suốt
chiều, chốc chốc tiếng loa: Máy bay địch cách Hà Nội sáu mươi ki lô mét... ba
mươi ki lô mét... hai mươi ki lô mét... Khách trẻ trung, trắng trẻo vẻ búng ra sữa,
giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, áo va rơi dạ mặc ngoài, mũ bông có tai ấm. Cũng như chúng
tôi, cái bóng bù xù đi trong đêm đông lạnh. Nhưng mà khác chúng tôi.
Những bước thong thả
trên đường khuya. Lúc này chỉ còn lại đám người vun quanh khu nhà thờ Hàng Trống
và mấy cửa hàng Thuỷ Tạ, Phú Gia mở cửa trắng đêm đón người chơi Nôen. Đâu ai
có thể tưởng cái anh chàng non tuổi ấy là một giặc lái bay cùng tốp với phi
công Phạm Phú Quốc vượt vĩ tuyến ra đánh nông trường Tây Hiếu ở Nghệ An. Tin
tức Sài Gòn tâng bốc rùm beng phi đội Việt Nam Cộng Hoà anh hùng đầu tiên ném
bom miền Bắc. Nhưng câm miệng hến về chiếc máy bay rơi này.
Chúng tôi thường viết
bài cho mục phát thanh của quân đội nói với thính giả miền Nam. Đọc tài liệu,
giấy tờ bắt được ở chiến trường, trò chuyện với phi công tù binh Mỹ. Có lần,
tôi vào làng La Cả uống rượu ăn thịt chó với đại tá Phạm Văn Đính, đại tá Vĩnh
Phong - người hoàng tộc đã ra hàng quân giải phóng ở điểm cao Cồn Tiên Dốc
Miếu. Hai sĩ quan hàng binh này sơ tán ở một nếp nhà tranh của quân đội ẩn
trong lùm cây ổi cây nhãn giữa làng. Thỉnh thoảng, kéo nhau ra thị xã Hà Đông
sắp hàng mua bia hơi. Có người đến thăm, khói bếp thịt chó nghi ngút cả ngày
Tôi cũng thường đọc
trên đài một Thư Hà Nội gửi nhà văn Quan Sơn ở Sài Gòn. Chẳng mấy ai biết bút
hiệu ấy của Doãn Quốc Sỹ ngày trước trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Doãn
Quốc Sỹ người Cầu Giấy, gần làng tôi. Chúng tôi quen nhau khi mới cầm bút. Một
trong những truyện ngắn đầu tiên của Doãn Quốc Sỹ, Đôi mắt của Hiền, cô Hiền
ấy, con gái bác Tú Mỡ. Bức thư tình đăng báo mà rồi nên nhân duyên. Doãn Quốc
Sỹ theo nhà vợ tản cư ra Bắc Giang ít lâu rồi vào Hà Nội, rồi di cư vào Nam.
Báo chí và các nhà xuất bản ở Sài Gòn in sáng tác của Doãn Quốc Sỹ, lại biết Sỹ
dạy học ở Hà Tiên, được tu nghiệp ở Mỹ mấy năm. Chẳng biết cách mạng có nợ
tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức còm ở một làng làm nghề dệt nghề
giấy ngoại ô này không, tôi tin là không, thế mà Doãn Quốc Sỹ viết chửi cộng
sản hăng thế. Chắc chẳng khi nào Doãn Quốc Sỹ nghe bài của tôi để biết đến
những tiếng nói cùng quê của anh.
Cái cậu giặc lái trẻ
tuổi này cũng là một tài liệu sống mà quân đội cho chúng tôi mượn. Anh ta gốc
Hà Nội. Nhà Hoả Lò thả cho đi dạo phố đêm Nôen với chúng tôi. Đã hơi khuya, trở
lại ngã sáu, ghé vào ông cà phê 81 một lúc đợi đến gần nửa đêm mới lững thững
lên nhà thờ Hàng Trống.
Ngã sáu vẫn như mọi
khi, những đêm vào mùa lạnh, mặt đường mênh mông ra trong ánh đèn thoi thóp
quãng một. Những cây sữa trụi lá đứng trơ trỏng. Tôi chợt thấy thú vị nhận ra
chưa phải mùa hoa sữa. Tôi không yêu, cũng chẳng ghét hoa sữa. Nhưng bạn bè
thường chiều sở thích của Nguyễn Tuân, quên cái mình ưa hay không ưa. Nguyễn
Tuân ghét hoa sữa, hoa dạ hương - những mùi đậm quá làm điếc mũi cả đêm. Chối
của nào trời trao của ấy, ngay bên cửa sổ gác nhà Nguyễn Tuân, đến mùa, hoa sữa
nở từng chùm trắng ngà nồng nàn buông mùi vào ngập cả phòng. Nguyễn Tuân bực
bội không ngủ được, lúc nào cũng đóng cửa sổ về phía ấy. Một năm, cây sữa bị
chặt, không biết vì mọi người kính trọng bác Nguyễn hay vì các hộ trong nhà
thiếu củi đun.
Bỗng anh thanh niên
giặc lái nói:
- Thưa bác, ở ngã ba
quãng này có nhiều cây sữa. Cháu còn nhớ.
- Cây sữa bây giờ đã
rụng lá. Như cây mùa đông bên châu Âu..
- Cháu còn nhớ, mỗi hôm
đi học qua. Khi cháu học lái ở tận bên Mỹ vẫn còn ngửi thấy mùi, như cả đời học
trò có mùi hoa sữa.
Nguyễn Tuân lặng im.
Chắc vì không muốn nói như mọi khi tôi khó chịu cái mùi hoa sữa hắc lắm mà cậu
học trò này đương nhớ mùi hoa thuở cắp sách. Chúng tôi ngồi xuống tấm ghế dài.
Ông hàng nhô ra bên ngoài cái chụp đèn hoa kỳ. Vẫn ông 81, áo nâu lẫn bóng tối.
Tôi tưởng ông đã đi sơ tán để đứa cháu nào nán lại trông hàng ~ giữ khách. Tôi
hỏi:
- Ô! Ông công sứ
Gotapphơi còn đây à?
- Thưa, vưỡn ạ. Khốn
khổ, cháu đã chạy ra ngoài Vọng. Được ăn mấy trận no bom, mà không chết thế là
lại quay về. Cái thằng Mỹ cũng trông gà hoá cuốc, cứ chỗ đồng không mông quạnh
nào có cái lò gạch là nó choang bom. Chúng cháu lại ở nhờ cái xóm làm gạch, cả
mấy cái lò đỏ ối. Chặp tối lúc nãy nó ném nghe gần lắm. ở đâu thế, chư ông?
- Chắc lại dưới cầu Giẽ.
- Sao bảo lễ Nôen thì
nó cho bên đạo nghỉ - Cầu Giẽ, cầu Hàm Rồng, lúc nào ta cũng xe tàu tải đạn tải
người vào Nam, nó im sao được Các họ đạo vùng cầu Giẽ phải lên lễ nhờ nhà thờ
Hàng Trống. Chắc năm nay cũng thế. Ông cũng lại nên thu xếp, chỗ ngã bảy thế
này không yên đâu.
- Nghĩ thế mà tôi chạy
ra Vọng, mới hút chết.
- Thôi, ông ạ.
- Nhưng chỗ này thì yên
sao. Tay cà phê Hoà vừa chết bom giữa phố Huế đấy.
Ông đặt cái khay trước
mặt chúng tôi. - Chạy đâu cho khỏi số, hả ông? Cái năm thằng Mỹ thả bom Nhật,
tôi ở ngõ Hàng Đũa sau ga Hàng Cỏ, bom rơi bốn phía, tôi đứng giữa. Lần này Mỹ
bỏ bom tạ ở Vọng, tôi vẫn ở giữa. Hoá tam ba bận, Nam Tào Bắc Đẩu quáng mắt xoá
hộ khẩu mình rồi, bây giờ chẳng đi đâu nữa cho nhọc!
Tôi không để ý. Có lẽ
những chuyện tàu bay tàu bò thế này không thể làm khuây khoả được anh giặc lái
trẻ tuổi. Anh trầm ngâm nhìn xa xa. Lúc đứng dậy, anh nói nhỏ:
- Nhà cháu trước ở đằng
kia, cuối phố Công chúa Huyền Trân.
- Cậu có muốn nhìn lại
nhà không?
- Cám ơn bác.
Chúng tôi thong thả
ngược lên Bờ Hồ. Một lúc, anh nói một chuyện khác:
- Cháu trông ông cụ bán
cà phê, không hiểu sao, cháu cứ ngỡ ông cụ ấy là ông Lý Thường Kiệt.
- Hay nhỉ!.
- Ông Lý Thường Kiệt
chắc cũng có nước da bánh mật thế và ông đánh nhau đến già không thua trận nào,
cụ cà phê cả đời bị bao nhiêu trận bom vẫn không việc gì.
Nguyễn Tuân cười:
- Mình chỉ thấy ông ấy
giống cái pho tượng Nhịn ăn chùa Tây Phương. Ông lão quê mùa thế mà đã có mấy
năm ăn chơi ở Pa ri đấy.
Mọi người đều cười. Cậu
giặc cái chắc cũng chưa trông thấy ông phật gầy giơ xương trên chùa, thường
được gọi là ông Nhịn ăn. Anh ta theo bố mẹ vào Nam từ lúc: mười tuổi, lớn lên
sang Mỹ học nghề hàng không, trở về lái máy bay vận tải, rồi máy bay chiến đấu,
lần đầu vượt giới tuyến. Tôi cũng chỉ chốc lát với anh ta đêm ấy, như đọc trang
tài liệu, không biết tên mà cũng không bao giờ còn gặp lại.
Cái ông Nhịn ăn cà phê
bít tất, bị hai đời máy bay Mỹ quần mấy trận mà vẫn trơ ra, ừ cũng có thể như
tướng quân Lý Thường Kiệt, lại cũng như cái người nhịn ăn rồi thành phật. Ông
lão đã trên tám mươi, mấy năm sau ông mất bệnh già, nhẹ nhàng như người đi ngủ.
Ông có thằng cháu được sang học bên Tiệp, lấy vợ Tiệp và ở lại bên ấy. Thằng
này chẳng thể biết đời ông nội nó lội bùn ở đồng chiêm lên Kẻ Chợ từ năm mười
bốn tuổi, rồi làm bồi công sứ Gơrapphơi rồi cà phê ô lê, rồi cà phê bít tất...
Anh trí thức mới lấy vợ Tiệp kia, làm sao anh tỏ rõ được ngọn nguồn cái nước An
Nam, cái người An Nam Mít... Chao ôi, nói đâu ai, tôi đây tôi cũng không biết
tên ông nội bà nội tôi và mù tịt các tên các cụ tổ tông nội ngoại nhà mình, mà
tôi cũng chẳng khi nào áy náy cả.
Xế trưa, máy bay ném
bom vùng ga Văn Điển. Cao xạ, tên lửa vi vút lên. Một thoáng, trời lại lặng yên
trong xanh. Rồi tối đến, phố xá vẫn đông một tối chủ nhật giữa tháng lĩnh lương
kỳ hai. Quanh Bờ Hồ và khu hàng Giầy bộn người. Cả mấy quán ăn đều hết chim
quay. Cà phê Lâm, cà phê Ca không còn chỗ chen chân. Những cửa hàng thắp đèn
dầu nhấp nhoáng. Lão khách béo chủ hiệu - như lão Sáng nhị mũi, và mấy cô chạy
bàn vóc dáng mỡ màng phục phịch, vừa nhàn nhạt, vừa bong bóng. Những đôi mắt
đưa đẩy óng ánh khác thường. Dường như không ai còn nhớ vừa mới chặp tối một
cái máy bay không người lái dã lướt qua lưới cao xạ Ngã Tư Sở sang Phà Đen.
Giống cái thằng xác máy bay đêm trước nằm trên xe bò người kéo lênh khênh qua
phố Tràng Tiền? Nhưng thằng này bay thoát.
Mỗi buổi sáng, băn
khoăn của những người còn ở lại thành phố: nó làm gì hôm nay? Đại khái vẫn đánh
đấm thế, vẫn như thường ngày chăng. Người ta vừa khẩn trương, vừa lừ đừ. Cái
chòi gác có mỗi khẩu súng trường trên đê Thượng Cát cũng chăm chăm ngước lên trời.
Không thể nhận được ra mới hôm qua làng Ngọc Hồi bị bom rải thảm khắp xóm.
Ngoài đồng đương gặt chiêm, ống chân lội xuống thụt nước, tay tóm cổ lúa từng
bó cắt trên mặt bùn - lúa chiêm năm nay xấu, hạt vàng xám như răng sún. ở đầu
công viên Thống Nhát, trường đại học kiểu kiến trúc hiện đại cao cao thanh nhẹ.
Dọc mái bằng trên nóc, bốn ụ đất đắp to lù lù ghếch ra những khẩu trung liên
của sinh viên trực chiến. Nhưng cái trận địa giả đầu làng Ninh Sở thì như trò
trẻ rỡn. Giữa ruộng khoai tốt lá xanh eo éo, một bãi vuông vắn được rẫy cỏ như
cái đầu cạo trọc nhẵn thín. Cả dàn ống tre bôi hắc ín đen nhánh ngóc đầu lên
thành một dàn cao xạ nhiều nòng. Cuối bụi tre, hiên ngang một trận địa tên lửa.
Bệ phóng đất thó gan gà nện được đắp cao, vàng choé. Giữa mặt phẳng đặt hai
cây. chuối đã bóc bẹ nõn nà, bóng loáng như màu trắng thau vỏ tên lửa. Những
trận địa trò chơi này bị choảng bom liên tiếp hàng ngày. Chiến tranh, liều
lĩnh, tiếu lâm và thương tâm. Phố Yết Kiêu, quầy bán vé xe lửa, đám đông nhốn
nháo sắp hàng đi sơ tán. Người đứng đợi, người nằm ngổn ngang. Một người đàn bà
tựa cột đèn, mặt rầu rĩ, đăm chiêu giữa đám trẻ con lố nhố đợi bố mẹ mua vé
tàu. Thoáng trông, không biết là mụ dở hơi, mà ngỡ một người yêu trẻ, đương trò
chuyện rủ rỉ. Nhưng bọn trẻ thì bao giờ cũng khoái chơi với người điên. Một đứa
quát khẽ: Giơ tay lên! Cả bọn trố mắt nhìn kết quả cái mệnh lệnh. Người đàn bà
khổ sở từ từ giơ tay. Có đứa nói: Bỏ tay xuống. Mụ uể oải để rơi hai tay. -
Cười đi? Người đàn bà ngước hai con mắt nhờ nhếch rồi nhếch mép tự dưng cười
mếu máo. - Không phải! Đây là mếu. Cười đi? Cười đi!. Người đàn bà điên lại nhe
hàm răng cải mả, nhăn nhó. Đám trẻ con và người điên cứ quanh quẩn chơi hiền
lành bên chỗ sắp hàng lấy vé.
Bỗng dưng, một bác râu
quai nón xồm xoàm như Trương Phi, áo cánh rách sã cả hai vai, không biết ở đâu
đi ra. Hai tay hề chèo múa lên, vừa hơi vừa đế, lại vừa trống mõ... Bung bung
nhóc... bung nhóc... tất cả ở cái miệng, con mắt và bộ râu đều làm chèo.
- Bớ quan viên làng
nước, lệnh sức mỗi đình làng: rơm một bó, cỏ một gông, vải hồng để đi rước quan
huyện nhá?
Tiếng đế khàn khàn:
- Tháng tư ngày tám,
lấy đâu ra rơm?
Hề mõ:
- Thế nhà mày không có
rơm ổ chó à?
Đột nhiên, bác rậm râu
lùi lúi, nhớn nhác, như trông thấy quan huyện đương khệnh khạng bước tới. Bác
nói thầm thì:
- Quan đã ra? Quan đã
ra?
Rồi thét to thật lực:
- Nhà ai có gà thì nhốt
lại nhá! Nhốt lại nhá!
Bọn trẻ con nọ cười rầm
lên xúm sang bác lên cơn rồ hát chèo. Cũng chẳng biết là bác dở người hay là
người vui tính thích đùa. Thành phố túi bụi bom đạn đình đoàng tối ngày, sao
vẫn lắm người ngẩn ngơ, người chập mạch bông lơn đến thế. Những cành khế lúc
líu chùm quả, quả mẹ quả con vàng khé bíu vào nhau thành chuỗi. Đêm mưa rào,
sáng ra, cây ngâu đầu hè đổi màu lá xanh đậm. Hoa ngâu, hoa móng rồng chín
trong nắng sớm thơm nồng nàn. Thường có mưa thì hoa rữa, nhưng những chấm hoa
ngâu được mưa lại vàng ròn.
Trên lan can, cửa gác
các nhà dọc phố, củi đuốc ghếch từng thanh, từng bó. Mỗi que củi bây giờ cơ hồ
được nâng niu như phong lan và chim yến. Các báo hô hào đun than, nhưng nào
biết mua than ở đâu. Mỗi tháng, may ra mới xách được về vài cân củi phiếu. Nhà
có trẻ nghịch ngợm leo trèo bẻ cành cây khô bờ hè thì lúc nào cũng sẵn củi lửa
đun. Đàn ông đâm ra đun bếp khéo, đến tôi mà cũng thổi cơm được bằng giấy má
sách báo vơ ở cơ quan về.
Kho xăng Đức Giang bị
ném bom lúc xế trưa. Máy bay nhào xuống, một chiếc trúng đạn lết ngược vào
thành phố, rơi xuống vườn chùa Thông làng Mọc - cái chùa mà hai mươi năm trước,
ở báo Cứu Quốc, tối tối tôi ra ngủ đấy, đề phòng Tây đánh úp Hà Nội ban đêm.
Cột khói bốc gồ lên hình nấm, đen đặc, lan ra một dải mây thành chắn ngang chân
trời. Chặp tối, tôi đạp xe ở lớp dạy viết văn sơ tán bên Thi Xá huyện Quế Võ về
qua, nhìn lại còn thấy sáng rực bên kia cầu Long Biên. Hà Nội vẫn lờ lững nửa
hốt hoảng, nửa như không. Các chợ họp từ bốn giờ tới tám giờ sáng và mở lúc
chặp tối. Tin đồn thiếu tá Mạc Kên lái máy bay Rase, bị bắn rơi xuống hồ Trúc
Bạch, khai rằng Mỹ đã định ném bom huỷ nhà máy điện Yên Phụ và cầu Long Biên.
Những người ở trên bờ sông và các phố đầu cầu quanh Hàng Than ban ngày chạy
tránh xuống phía chợ Hôm. Nhưng đến hôm giữa phố Huế chợ Hôm bị trận bom đổ mấy
toà nhà chết nhiều người thì chẳng biết rồi chạy đi đâu.
Kho Đức Giang chồng
đống những thùng đựng xăng cháy đỏ hắt. Ngoài bờ rào, ruộng lúa mới cấy mạ đã
bén rễ xanh rờn. Những người đàn bà lúi húi cắt cỏ. Một người đàn ông đặt thúng
thóc trên đầu gối, vung tay gieo hạt, hạt lúa giống vãi xuống mặt ruộng xâm xấp
còn sóng sánh đường bừa. Chú bé kia nằm trên lưng trâu giữa bãi cỏ, hai chân
cong như móc câu, mắt lơ đãng nhìn ra đường. Những người dừng xe đạp Phượng
Hoàng, xe Mipha cười nói tíu tít. Xa xa, hai vế gầu sòng tát nước nhô lên thủng
thỉnh đưa đi đưa lại. Trận bom dữ dội cháy kho xăng trước mặt đã ra chuyện hôm
qua, hôm xưa.
Bom đạn lẫn lộn với
công việc làm ăn nhẫn nại đến khủng khiếp. Trên dọc đê, những khẩu súng trường
và trung liên đầu cầu Đuống đã được thay bằng những khẩu đại liên ba nòng. Đơn
vị đến nhận trận địa mới, bộ đội đương đứng ăn cơm. Nhưng cạnh ụ súng lớn vẫn
nhô lên hai mô đất nhỏ, thò hai đầu ruồi khẩu súng trường của tổ dân quân trong
làng ra trực chiến. Hai cô gái - hình như được cắt tua ngày nữ đêm nam, mỗi
buổi được ăn mười công điểm hợp tác xã. Sông Hồng báo động số 3, nước chảy réo
quanh chân cầu, xoáy tròn từ chân tre ra, xôn xao, đỏ xuộm. Lũ tháng sáu dềnh
lên to quá. Bờ rào cây vông ngập, lá héo to bằng chiếc quạt nan rụng vàng mặt
sóng. Nước vào ngập lưng vách. Những đàn gà và lợn con trốn lên nóc nhà kêu tán
loạn. Bốn phía xám ngắt rồi tối ụp xuống, tiếng ngũ liên hộ đê chống tràn thúc
suốt sáng như xưa trống báo cướp. Những ngôi nhà hai tầng dưới bãi - mà ngày
trước không ai dám xây, nước chảy ngang cửa sổ. Người chạy nước lên phố dựng
lều suốt vỉa hè bờ sông vào quanh nhà hát lớn. Khói bếp u ám như đốt rác tẩy
uế. Những người đàn bà mặt vàng nghệ, bồng con ru ời ời. Chạy lụt năm nào cũng
thế. Chỉ khác, mấy năm nay, phải lo cả giặc trời.
Còi báo động rợn mặt
sóng. Một vệt khói đỏ tên lửa ngoằng lên trong tiếng nổ. Chiếc máy bay bỗng
chằng chịt khói như một cuộn thừng trắng, lại một chiếc không người lái rơi
xuống giữa sông Cái. Thế mà quán bia Chuồng Cọp bên hồ Thuyền Cuông vẫn người
xếp rồng rắn quanh hàng lan can sắt suốt ngày đến chặp tối. Chỉ có những quán
bia bán giờ giấc ngoài luật lệ phòng không. Người ta uống bia cho đến lúc trông
lên không nhận ra ánh sao hay sáng điện lóng lánh giắt trên lá cây đề. Mùi sen
thơm thoảng - lứa hoa cuối vụ, lẫn mùi lá sen già, không còn ngát như sen đầu
mùa. Nhưng quái, đã lâu hồ này thả cá mè, có trồng sen nữa đâu. Thế mà rõ ràng
mùi sen. Lạ nhỉ. Uống vại bia xong cũng không biết hết báo động chưa. Thế thì
chắc lại mơ màng mùi sen mùa hạ trước rồi.
Một chuyến xe lửa toa
lộ thiên vào cầu Long Biên. Trên sàn tàu những gióng bệ phóng xếp một chồng
cao. Cánh tên lửa nghênh ngang vướng thành đầu cầu phải cho lên tàu hoả mới đưa
nổi qua sông Cái. Những chú bộ đội xinh xẻo như học trò tan học đứng chỉ trỏ
xuống lòng đường phố Hàng Giấy. Hẳn đương đoán nhà mình chỗ kia, chỗ kia. Cạnh
các ống đạn buộc những bu gà, những rọ lợn, một dãy quả đu đủ, buồng chuối
xanh, các đồ ăn thức đựng loi thoi khi chuyển quân. Một con chó xích tự nhiên
cong cổ sủa ngẩn ngơ lẫn tiếng bánh tàu nghiến ken két, khi tàu chui qua chỗ
nóc cầu bị bom xập.
Chợ Bắc Qua đông nghịt
suốt đêm, đến chớm ban mai thì tan. Vẫn cái chợ đổi vai mùa nào thức ấy, hành
tỏi, khoai sọ, cà chua, rau cải, củ cải bên Bắc sang bán mớ ở chợ này để người
buôn đường ngắn tải xuống chợ Châu Long, chợ Hôm, chợ Hàng Bè và các chợ xanh,
chợ cóc góc phố.
Trời sáng ra thì chợ
Bắc Qua tan biến hết người, như chợ ma.
Có tiếng gọi giật. Tôi
quay đầu lại. Anh Sổ, chủ nhiệm hợp tác xã trong Bật. Sau xe đạp đèo những bó
cải củ cao có ngọn. Hẳn là Sổ ra Bắc Qua bán vải quả hay bắp cải, dưa hồng đêm
qua bây giờ tải rau về. Nhưng phía Hà Đông thiếu đâu chợ đổi vai, chợ xanh, chợ
ngã tư mà phải lần mò ra đây.
- Đi đâu thế?
- Hôm qua em ra tỉnh có
việc, quá chân đến đây mua ít cải về làm dưa thôi.
- Mua rau à? Rõ chở củi
về rừng?
- Cải bên Bắc lắm búp,
lại rẻ hơn cái cải chết rét quê em.
Chúng tôi vào một hàng
nước. Sáng rồi, quán đương dọn về, nhưng có khách, cũng không vội. Ông hàng cứ
tự nhiên lấy cái phun nhựa ra rót hai chén nước trắng. Bảnh mắt, uống rượu súc
miệng, hay thật. Chợ Bắc Qua tỉnh ngủ cả đêm, có lẽ nhờ cái thứ nước này. Cái
anh Sổ du kích trông như người bổ củi thuê. Nếu xách chiếc rìu qua phố, thế nào
cũng có nhà gọi ông Thạch Sanh, Trước kia ở vùng tề, du kích Sổ đã thủ tiêu
người táo tợn lắm. Sổ đóng quần áo rằn ri giả lính dù vào nhà thổ phố Vân Đình,
nã thủng màn chết cả thằng Tây với con nhà thổ. Sổ mặc váy bà già đi chợ, bất
chợt tốc váy lên, thò khẩu súng trường cưa báng ra lia ngã gục quan ba đồn giữa
cầu chợ. Một mật thám ngoài Hà Nội hay về dò la, Sổ tìm biết nhà nó ở Khâm
Thiên. Sổ ra tận nơi, bắt sống ban ngày điệu về chém ở cánh đồng Tía. Cấp trên
cho lệnh thi hành án chánh tổng Canh Hoạch. Ngày giỗ bố chánh tổng, Sổ giả làm
dõng đi hầu. Các quan khách lũ lượt, chỉnh tề tới ăn cỗ. Đột nhiên, Sổ bước vào
vung dao bầu lia đứt cổ chánh tổng. Cái người cụt đầu máu phun, nhảy chồm chồm
như con ếch - Sổ đã hiền lành cười hềnh hệch kể lại những câu chuyện ghê gớm
như thế. Còn bây giờ thì:
- Ông ạ, tiện tay em
mua vơ ít cải, chứ em ra đây cốt đòi nợ. Có một thằng ở phố Nhà Chung về chợ
Đình rủ người đặt tiền mua than. Mình ngỡ nó tử tế, cũng đóng cọc một ít. Nó
lặn biệt tăm. Mất không bao lăm, nhưng mà tức. Trốn thế nào được ạ, lên giời em
cũng nắm cẳng lôi xuống. Hôm qua em ra tận nhà, tẩn cho một trận lòi tù và cả
nhà nó lạy như tế sao, phải nhả tiền ra trả ngay tắp lự. Kìa, mời ông chén nước
sớm. Ông đi đâu lên đây?
Sổ đã cho nó một trận
lòi tù và thế nào không biết, nhưng tôi hỏi:
- Nó đi lừa mà để cho
người ta biết nhà à?
- Che mắt đâu được
thằng du kích tám năm này? ối lại báo động...
Rồi Sổ cười hô hố.
Cục địch vận quân đội
đưa Nguyễn Tuân một tập nhật ký lấy được của một lính ngụy chết ở trận Đèo
Nhông tháng ba 1965. Một quyển sổ nhỏ, tôi chép lại làm tài liệu về cuộc chiến
tranh muôn mặt. Trang đầu nắn nót mấy dòng: Nhật ký đời tôi (trong những ngày
nghĩa vụ quân dịch, kỷ niệm một đêm mưa ở trại Trương Tân Bửu 1/8/1964 - 24/6
Giáp Thìn - Nguyễn ích Tắc, số quân 104.229).
Tờ cuối ghi mấy trang
những con số chi tiêu: Kim chỉ 3 đ. Sửa bộ quần áo vàng 80 đ. Sửa cái quần trận
30 đ. Mua một mũ vàng 45 đ. Mua cái gương đeo mắt 75 đ. Mua một ca, một muỗng
10 đ. Hai ngòm nguyên tử 16 đ. Bộ chìa khoá 20đ. Sắn dây xích 15 đ. Giặt bộ áo
quan 7 đ. Hớt tóc 17 đ. Kem đánh răng 10 đ. Giấy và bì 5 đ. Chụp ảnh 65 đ.
Tập nhật ký của một con
người vốn làm ruộng trong làng mà thật chịu khó ghi liền từng ngày, từ hôm đi
quân dịch đến ngày chết trận.
Đây là những ngày cuối
cùng.
15/1 - Một đời binh
ngũ, suốt đời lưng mang ba lô, vai mang khẩu súng, ngày ngày đi qua những con
đường bị bắn tỉa đạn veo veo trên đầu, nghe mà tái nước da.
20/1 - Đi qua quán lúc
9 giờ, biết thế nào nó cũng bắn tỉa, lúc hai đứa chạy qua một khoảng trống bị
nó bắn 6 viên. 3 viên bay dưới chân, 3 viên trên đầu, mình chạy đại vào trong
một cái nhà.
24/1 - Hành quân bằng
phi cơ trực thăng, tưởng đi qua Qui Nhơn ứng chiến thì cũng là đỡ khổ, có nhiều
bạn mang rađiô đi sửa, nhưng máy bay chỉ qua một cái eo biển và đỗ lại một cái
làng hiu quạnh không một bóng người. Thế là mộng về Qui Nhơn bị vỡ.
31/1 - Vừa rồi, nó bò
vào ném lựu đạn, nhưng may quá, không ai bị. Thế là nằm trong nhà cả ngày đi
đâu cũng không được. Như chim lồng cá chậu, ra một bước cũng sợ không biết nó
bên lưng lúc nào. Đêm gác hai giờ đồng hồ xanh mặt.
31/1 - Tết đến, người
ta vui vẻ đón quân còn mình sống trong tình trạng cắm trại và báo động, mình
nằm ở cái trường Toàn Mỹ, đồng bào sợ tản cư hệt, mình luẩn quẩn trong cái
trường không dám đi ra ngoài nửa bước.
Lại một quyển nhật ký
khác lấy được ở mặt trận Plâyme tháng mười 1965. Cũng chép ra sổ tay này làm
tài liệu đời người. Một sinh viên quân dịch, trang in chữ Pháp, được điền vào:
tên, bí danh, nghề, địa chỉ riêng, địa chỉ liên lạc, số điện thoại, khi cần báo
tin cho... Đã ghi: Svsph Hoàng Quang Hiểu 151 Trần Quí Cáp, Sài Gòn, 71 Hoàng
Diệu Đà Lạt. Mặt trang sau dán một ảnh người con gái tóc uốn, mặt trái xoan, gò
má cao, mắt một mí, môi thưỡn khêu gợi, áo dài trắng. Sau tấm ảnh viết hàng
chữ: Bán mình cho Mỹ! Hoàng Quang Hiểu bị chết ở Pleime khi trung đoàn 40 sư 23
của Hiểu đi tiếp viện. Có lẽ cũng vào những ngày gần tết:
17/12 - Bận rộn vì phải
đặt kế hoạch hành quân ngày mai. Ban 3 chỉ có mệt vào những lúc như lúc này.
18/12 - ở đây gần biên
giới. Dân cư ít ỏi. Vài cái quán. Vài mái nhà. Chiều chiều nhìn đàn vlt giới
bay về tổ xa xa nơi chân trời, mình có một nỗi buồn day dứt.
23/12 - Có cảm tưởng
rằng mọi người quên mình có mặt trên trái đất này.
24/12 - Đêm nay là Nôen.
Đi săn kiếm thịt về ăn réveillon 1 được 4 con heo rừng. Cả đại đội tưng
bừng nhậu nhẹt. Ngủ ngon vì quá say.
25/12 - Được phép về
Pleiku. Sướng quá. Lại được bạc!
26/12 - Chiều, cờ bạc
lại thắng..
Chủ nhật 27/12 - Suốt
ngày cờ bạc, toàn là thắng. Tối đi nhậu với Trọng, ghé Phượng Hoàng, nhảy vài
bản với Quỳnh.
29/12 - Đi chơi với
Trọng, đánh bạc và nhảy với Quỳnh. Pleiku ăn chơi bốn mùa chỉ có thế.
30/12 - Còn đúng 400 đ.
Hôm nay không đánh bạc, ở nhà ngủ. Tối đi chơi với Trọng và Mai. Đi chơi đêm
chót với chúng nó rồi mai' về rừng.
31/12 - Ngày cuối năm
dương lịch. Nhưng mình cảm thấy cái buồn của một đêm trừ tịch ở một nơi xa vắng
với cảnh núi rừng buồn tẻ. Trong lúc đó ở một nơi khác, thiên hạ đương mở sâm
banh vui cười để từ bỏ một năm cũ, đón một năm mới. Không hiểu rồi đây đến cái
ngày xum họp gia đình sắp đến của người Việt Nam, mình còn có phải hưởng cái
cảnh xa vắng này nữa không? Đời nhà binh không thể nói trước được. Sau một tuần
vui tạm bợ ở Pleiku, mình về đây càng thấy chán chường hơn.
Mong rằng Tết này được
về thăm gia đình. Thôi giã từ năm cũ và hân hoan đón tất niên.
Dĩ vãng dẹp qua một
bên...
(Tập nhật ký đến đây bỏ
lại hơn 50 trang giấy trắng. Một số địa chỉ ghi ở bìa sau: Nguyễn Thị Thu Thuỷ
23 Nhà Chung - Đà Lạt, Nguyễn Thị Oanh 58 Lê Lợi - Sài Gòn (số điện thoại ds
20011 xin 40683). Cô Bích Hảo 61 Phan Bội Châu - Huế. Cô Trang Thiên Thu 104/5
Nguyễn Thái Học - Gia Định. Chuẩn uý Trương Văn Hữu, lưu trữ bưu điện Phú Vinh,
Vĩnh Bình).
Đêm nay Hà Nội lại giao
thừa.
Chặp tối, năm hết tết
đến, vẫn loa báo động máy bay địch cách 40 ki lô mét... máy bay địch 20 ki lô
mét... trong cái thành phố thương tâm bất cần đời này, cái tết mơ ước vẫn đến
như từ bao nhiêu năm qua. Tối rồi, vô khối xe đạp còn hối hả đi mua hoa - những
bó hoa cúc vạn thọ vàng rỉ ế ẩm, người chơi hoa năm nào cũng khuân cúc vạn thọ
sau cùng.
Cả ngày ba mươi tấp
nập. Trở trời, cá úi quẫy như đánh sóng trên mặt nước. ở hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy
Mẫu, Ba Mẫu trẻ con vớt cá từng xâu. Từ gà gáy, người ùa ra ven hồ. Gậy, xiên
sắt, túi, chậu... Tảng sáng, đám đông quanh hồ chen chân lẫn với công an và những
người canh cá. Không ai bẻ cần câu, thu vó, đuổi người xúc, người câu ném như
mọi khi. Mặt dầu, đã thành thói quen, túm được một con cá mè ranh, trẻ con lại
len lét chạy ra xa. Quanh hồ, đông đến trưa. Được cá trời cho tất niên mà, ai
cũng xoa xuê, vui vui. Rồi từ từ đêm giao thừa về. Hai cô bé tóc buông xoã vừa
đi vừa hát ven hồ. Mùa xuân đã trở lại sao? Nửa đêm, người đi chơi đổ ra đông
như hội. Trời rét cóng mà các quán bia hơi, bia chai sáng đèn suốt đêm. Mặt bàn
lênh láng bia như tuyết tan. Nhiều người nước ngoài lẫn lộn giữa đám đông.
Những người Cu Ba da màu vừa nhảy múa vừa vỗ trống. Có thể, họ là bộ đội pháo
cao xạ hay tên lửa rời trận địa ra, vui nhộn đến thế. Hôm cuối năm, đi tảo mộ ở
Văn Điển trông thấy sáu ngôi mộ xây, để tên các liệt sĩ Cu Ba.
Uống bia trước ga Hàng
Cỏ. Những chuyến tàu cuối cùng lúc chặp tối đã tải hết những đoàn người về quê
ăn tết, hôm qua hôm kia còn nằm ngồi chờ đợi chồng đống các phố quanh đấy tưởng
chừng không thể vơi đi được. Thế nhưng trong nhà ga vẫn nhốn nháo người, những
cô hồn lang thang và gái điếm không biết có giao thừa. à cái lão Vinh làm vườn
và quét vôi bệnh viện ở độc thân trong ngõ phố vẫn giặt xi líp, nịt vú cho bọn
này đây. Buồng lão, từ gầm giường ra, lổn nhổn bô ỉa đái và bột màu quét tường
lấy cắp ở cơ quan. Trên dây dợ chăng ngang dọc khắp nhà phơi những miếng quần
xanh đỏ gớm chết của gái làng chơi. Ai manh mối cho lão già cái việc kiếm tiền
khốn nạn ấy. Lão một thân một mình, đến nỗi nào. Hôm đến kiểm tra, hỏi lão, lão
ngồi câm như thóc. Người ta nói như đùa không phải lão Vinh túng bấn đâu, lão
phải gió ấy nghiện hơi đồ lót của đàn bà.
Có lẽ đêm nay yên. Trên
sân ga, mấy con đĩ rỗi hơi lại say rượu đương cong cớn tranh nhau xỉa xói, kể
lể mắng tưởng tượng cái thằng giặc lái Mỹ đứng trước mặt. Quân chó má kia, mày
đã cắn trộm quanh năm rồi, cũng phải nghỉ bom cho người ta thong thả nuốt được
cái Tết chứ. Xung quanh, đèn thành phố vẫn tù mù thế, mà như tươi tỉnh hẳn. Mới
chiều qua, máy bay vun vút lao vào như những con cá chuối bay. Hơi bom phần phật
rung cửa hầm, tiếng súng và tên lửa khạc rền rĩ. Người dồn vào quán bán bia. ở
Hàng Khay đông ních. Dân bợm bia thấy trú ẩn ở chỗ nhà bia an toàn quá. Có hơi
bia, coi thằng đánh bom là cái đinh? Mãi chặp tối còn nổ ầm ầm, hàng bia phía
Tràng Thi đã lên cái đèn dầu lom đom. Những vại bia và mặt người không biết mồ
hôi hay hơi bia nhễ nhại.
Các nhà ở đầu cầu Long
Biên hàng ngày chạy xuống phố Huế ẩn bị ăn bom dưới ấy. Nhưng mới bị hôm qua,
bây giờ đi qua phố Huế đã khó nhận ra cảnh tàn phá thế nào giữa cái phố lúc
nhúc những nhà những người.
Cây xà cừ mới trồng còn
khoanh đất đỏ trên vỉa hè cháy chết đứng. Mặt đường nhựa lỗ chỗ, nham nhở lất
bom bi. Cột đèn và đường ray xe điện bật lên oằn queo vỏ đỗ. Một ngôi nhà ba
tầng đỏ ụp cắn chân tường thành một gò vôi gạch, mảng xi măng. Cả phòng thương
nghiệp, phòng giáo dục khu và lão cà phê Hoà chết vùi trong đống vụn vỡ ấy. Lão
Hoà từ ngày vào làm mậu dịch đứng bán giải khát ở quán Gió ngoài công viên. Tự
dưng xin về phòng làm chân chạy giấy cho nhàn. Tội nghiệp, đâm ra chết! Những
bó hương vẫn nghi ngút, mùi hương, mùi long não dầu xả vừa nhức mũi vừa lạnh
lẽo hơi đám ma. Nhiều người còn đương dỡ những tảng vôi gạch hoen máu đen sạm.
Sau vì tường đổ, nhà hai bên phố vẫn hầu như mọi khi. Trẻ con đùa nhau ngoài vỉa
hè. Cửa hàng chữa đồng hồ lấp lánh ánh điện dưới cái chao đèn úp. Một ông lão
gầy leo kheo đeo kính ngồi trên gác đọc sách trong cái cửa sổ toang hoác đã
băng mất cả hai cánh. Tôi ngồi vào ghế ông cắt tóc. Cái đinh treo mảnh gương
lên gốc cây sữa. Câu chuyện rả rích trong tiếng kéo tí tách. Bình tĩnh, bình
tĩnh, ông nhỉ? Bom xuống đâu thì đấy bị, phải không ông?
Tôi biết đáp lại thế
nào là phải cái triết lý ông thợ cúp cứ sống sờ sờ nhãn tiền quanh đấy. Quãng
phố phải bom như con thằn lằn bị cụp đuôi. Xưởng tiện - bên kia lại mới xe về
một đống vỏ phuy ét xăng dầu nhờn, chẳng khác những quả bom tạ, bom tấn chưa
nổ. Nhưng đấy là những thùng xăng phụ máy bay đeo ngoài cánh. Trong nhà, bàn
tiện quay xè xè. Những miếng đuy ra vỏ thùng được cắt khéo thành cái lược, hình
tháp Rùa, chùa Một Cột - công nghệ tặng phẩm đem kỷ niệm khách nước ngoài làm
bằng xác máy bay địch. Ngay ngã tư, các chợ cóc vẫn la liệt những chậu rau
muống chẻ ngâm nước, những thúng cua đồng chát đất cho nặng cân ở ngoài ô vừa
vào. Trên thùng chiếc xe tải mới đỗ, các ông tài ông ét dỡ củi xuống chất làm
bếp thổi cơm chiều ngay trước hè ngôi nhà đổ. Đằng kia lại có hàng bia mới mở,
trên những thùng bia chất như lợn con căng lên cái dù ni lông đỏ - như bãi biển
Sầm Sơn mọc giữa thành phố - dù đỏ ấy của máy bay Mỹ thả quân dụng và biệt
kích. Những bối rối trước mắt, không biết đương trận mạc hay đương bình thường,
lộn xộn cái buồn thảm với cái cười. Cửa trong bán rượu, người xúm đông như
ngoài hè bán bia. Rượu phiếu, môi người được mua nửa lít. Tay đưa phiếu kèm
tiền ẩn qua cái lỗ vuông, bàn chân sắp hàng nhích dần vào với cái túi xách đen
nhẻm ấy là chân người mua và túi đựng chai rượu - những khuôn mặt bự rự, lìm
lịm. Mấy chú tí nhau và những ông Tàu dởm bán lạc ngọt, lạc mặn trước hàng bia
đã kéo đến, đương tranh nhau chỗ ngồi. Cái thùng sắt tây đựng lạc treo trước
ngực như chiếc đàn phong cầm - phong cầm lạc rang. Ông Tàu bán phá xa mặt
nghiêm như Tưởng Giới Thạch, bộ ria quai nón, đầu quả táo, bắp tay rám đen, chỉ
cái dáng ấy cũng toả ra sự kiên nhẫn chịu đựng của con người. Nắng hoe hoe đã
tắt trên ngọn cây sữa, tiếng loa trong cái thúng bằng tôn úp treo trên giữa
lòng đường... máy bay địch cách... rồi còi báo động lại vi vút từng đợt dài...
Nhưng quanh chỗ phố Huế mới bị bom, mọi sự hồ như thản nhiên.
Suốt hôm qua, hôm kia -
đã bốn hôm, máy bay vào quấy đảo loạn trời. Chiều, đánh sân bay Nội Bài, sáng
sớm lại bom lại. Cầu Long Biên gãy ba nhịp từ phía Gia Lâm sang. Đòn hiểm, địch
diệt những nhịp cầu giữa luồng nước sâu. Nhưng ngay trong đêm, đường sắt được
chữa lại, những dòng cầu gãy như mái che vẫn để nguyên chỉ vừa lỗ cho con tàu
chui qua. Thoáng thấy, tưởng cầu sụp thật thì những đoàn tàu chở khách và chở
súng cao xạ, tên lửa vẫn chạy suốt đêm. Cái cầu giả chết lúc nào cũng như ngái ngủ.
Bom bi như mưa rơi xuống phố Mới, phố Hàng Vôi, cửa đền bà Kiệu. Hai đứa trẻ
núp trên cành đa cạnh đền, bom bi nổ móc lòi ruột. Những phát tên lửa pun pớp
thuốn chảy thép lao xuống cạnh chỗ rửa rau vo gạo buổi chiều phố Trần Quốc
Toản, phố Lý Quốc Sư. Vòi nước vẫn ri rỉ chảy, rá gạo và những bó rau muống chơ
vơ không có người. Trong làng Giá, hôm nay Sửu nhập ngũ. Nó đeo theo cái giỏ,
trong có mảnh ni lông xanh, túi bút và hộp thuốc màu. Ba hôm, xóm giềng họ hàng
tới chơi. Bố Sửu trải thêm cái chiếu ngoài hiên, đặt rổ giầu vỏ ra đấy. Hôm qua
đem phiếu đến cửa hàng mậu dịch lấy hai cân thịt, đặt một cỗ lòng. Hai vò rượu
cất bên Sấu đem sang. Một mâm tiên thường mời các cụ dưới âm về tiễn cháu,
người trên trần thì đánh chén tới khuya. Hôm nay giết hai gà, mâm cúng trên bàn
thờ và đặt cả ngoài cây hương.
Hội trường giao quân ở
sân phơi hợp tác. Người các xóm kéo đến từ sáng. Mấy chõng hàng nước chè tươi,
thuốc lá cuốn đã bày ra. Cả huyện lấy con số tròn năm trăm. Thêm mười lăm nữ
tình nguyện. Mỗi đám bước ra, những vòng người hai bên lô xô nói: Đi nhé? Đi
mạnh khoẻ nhé! Đi dăm bảy tháng thống nhất thì về nhé. Những chú lính mới bước
nhanh như lướt. Có người đeo sẵn hai cái bu trong để viên gạch chỉ đem đến nơi
tập đeo vác vượt Trường Sơn. Đi qua rồi quay lại nói to: Nào đi xẻo ít thịt Mỹ
về xào. Đám con gái cười ré lên: Không ăn đâu, không ăn đâu.
- Chỉ đợt này nữa đến
thống nhất thôi.
- Xem khí thế vui lắm,
cơ chừng xong đến nơi.
- Lạy giời...
Mít tinh chặp tối, đoàn
tân binh đi luôn trong đêm trăng.
Trận địa 57 đầu bãi
Nghĩa Dũng. Mười khẩu cao xạ 57 bóng nhoáng lỗ chỗ như đầu rắn mai gầm. Phía
này cản đòn cho nhà máy Yên Phụ và cầu Long Biên. Trên bờ đê cao, trông xuống
sông Hồng cát bay mờ mờ. Nhà máy điện xám đen lồng vào những nhịp cầu đan thành
mảnh như nan bu trên lùm cây sà cừ. Con mắt thần ra đa quay ì giữa những luống
hoa cẩm chướng xung quanh cắm miếng kền xác máy bay - để gà khỏi vào bới. Báo
động, lại báo động. Tất cả vụt vào vị trí. Số 4 tính góc phần tử, máy bay nhào
sau hai giây cho lệnh bắn. Chỉ cần một viên đạn, nếu mọi bộ phận điều hoà đúng.
Nhưng rồi lại báo yên. Hôm qua, địch thả bom xuống trận địa này, bụi còn bám mù
mịt. Hai con bò của đại đội gặm cỏ trong bãi trúng bom bi. Ngả thịt ăn không
hết, phải đem ra chợ Châu Long bán bớt. Cấp tốc sơ tán 18 con lợn ra vệ đê. Chỉ
riêng đàn gà của mỗi khẩu đội chẳng biết thế nào là sống chết, vân túc tích
quanh quẩn ra vào bên cỗ pháo. Đến lúc bom nổ tối mắt, những con nhép ấy mới
biết sợ, chui vào cỏ nằm im phắc.
Trận địa súng cỡ 37 thì
lênh đênh giữa hồ Tây, chỗ chùa Trấn Quốc trông ra. Những thùng đựng tên lửa đã
khéo kết thành nền bè phao, lát phên nứa. Tám khẩu 37 xếp hàng đôi dọc bè. Sóng
oàm oạp rung rinh đầu súng. Mép bè, những máng vầu đựng đất trồng viền những
luống hoa bóng nước rực rỡ hồng. Các chiến sĩ trực chiến đứng giữa hồ trông vào
đường Cổ Ngư. Trong ấy, loáng thoáng người ngồi bàn ăn bánh tôm dưới gốc đa.
Chặp tối, vòng đạp xe của tôi kết thúc cuộc thăm các trận địa quanh Hà Nội về
đến ngõ Văn Chương, trong ấy cũng đóng một đơn vị bảo vệ ga Hàng Cỏ. Tiếng chó
con lắc rắc sủa hoàng hôn như ở trong làng. Trẻ con lấp ló đầu nhà ngó xem
người đi qua. Đại đội 6 này đã bắn rơi chiếc F 105. Thằng thiếu tá phi công
Sáclơ phải nhảy dù xuống tràn than ngay trong tường nhà máy điện Yên Phụ. Bên
kia mặt hồ, nhà ga Hàng Cỏ sáng trưng một vẻ không bình thường, giữa một vùng
tối om. Tiếng còi tàu, trong khói hơi nước phụt phụt trắng bông. Những con tàu
cả ngày chui lủi đâu bây giờ lừ lừ vào ga, bắt đầu đêm hoạt động. Ngoài đường
Khâm Thiên ồn ào như chợ. Tưởng như chẳng ai để ý sau lưng bức tường, có những
nòng cao xạ vươn đầu lên.
Nhà máy điện Yên Phụ
đằng kia, nghe tiếng máy chạy rền rền, ngày đêm bụi than tuôn ra bám đen kịt
những cành cây cơm nguội cổ thụ hai bên hè phố, từ thuở tôi cắp cặp đi học
trường tiểu học Yên Phụ.
Thế mà cái nhà máy cổ
lỗ này đã chịu mỗi ngày vài đợt bom, không biết bao nhiêu trận dòng dã. Cái nồi
súp de lò hơi, quả tim của nhà máy phía tường trường Yên Thành được bọc đất thó
quấn rơm như cái áo giáp kỳ quái giữa những hố bom toang hoác thành từng vũng
nước ao chuôm. Thế mà chưa một lần lò bị bom. Nhưng ngôi chùa Am bên kia đường,
hơi bom đã đánh đổ sập. Quán hàng nước chè tươi trước cửa chùa, thợ nhà máy sớm
nào cũng ghé uống bát nước ngon, cả ông hàng nước cùng bay mất tích. Suốt ngày
đêm, than được chở vào nhà máy, lúc ô-tô tải, lúc xe trâu kéo. Một dãy người
đứng sàng, đổ than lên đường máng đưa vào lò. Các chị sàng than đi giầy vải,
chít khăn đen chỉ hé hai con mắt, như cô gái Thuỷ Nguyên kín mít khăn vuông.
Cái cột xi măng tròn sừng sững giữa nhà. Lúc còi báo động, mọi người ôm cột tụt
xuống. Người leo cả ngày những cái cột đã lên nước bồ hóng đen nhoáng.
Báo động máy bay cách
30 cây số, công nhân trên gác xuống cả tầng dưới. Chỉ còn ba người đã được phân
công bám máy. Chết cũng đứng đấy với mỗi một chiếc đồng hồ đo áp suốt trơ trọi.
Nóc nhà máy chính thủng đạn nham nhở như cái áo tơi rách. Két nước băng mất từ
lâu không còn nước trữ, công nhân phải bắc vòi cao su và gánh nước suốt đêm
lên. Nhưng sau cái ống khói đen sì vẫn sừng sững. Một ống khói bị quẹo nghiêng
như sắp khoác vai ống kia. Cái tuyết bin trên tầng và nồi hơi dưới nằm lọt thỏm
trong những lớp rơm nhồi bùn, cao như những gò đất. Miếng bảng đồng gắn trên
tuyết bin, tựa con rùa thò cổ trong đống bùn ra có chữ đề công ty Derlikon Thuỵ
Sĩ 1920. Cỗ máy cái của nhà máy điện đã già ngoài nửa thế ky rồi. Không thể
tưởng tượng được biết bao đơn giản đến thế nào. Nhưng cũng ở nhà máy hiên ngang
này lại có cán bộ tài vụ dính vào vụ án tụ tập xem táp lô ở góc phố Cầu Gỗ. Có
phải vì thế mà nhà máy chưa được phong anh hùng. Ba hôm liền, toà án xử phúc thẩm
mấy vụ. Còi báo động nổi lên, không ai chạy ra hầm. Bởi vì toà nhà xử án của
thời Tây để lại, kiên cố hơn hầm trú ẩn nổi hay cái lỗ phòng không cá nhân
ngoài kia chăng. Trưởng ban khối phố, tôi được mời dự. Thành phố muốn cho cán
bộ cơ sở biết những tệ nạn xảy ra trong lúc bom đạn để về xem lại an ninh trật
tự ở phố mình.
Có một người đàn bà
thường ngày bán vé sổ số ở vỉa hè phố Huế. Chịu không đoán được hạng người thế
nào. Chưa hẳn nạ dòng, cũng không còn trẻ. Vẻ hơi quê, nhưng có lẽ cũng ra phố
ở đã lâu. Chiếc áo cánh lụa mớ gà cổ và gấu viền đăng ten. Tóc búi, đôi mắt lá
dăm đưa đẩy trên những câu thưa gửi chợ búa ngọt xớt. Nhưng đến lúc nghe ông
công tố đọc cáo trạng thì những đoán mò của tôi đều quá hiền lành và vu vơ. ả
nọ có trong tay 36 cái chìa khoá của 36 cái nhà, cái buồng. Những chùm chìa
khoá làm chứng được đặt loảng xoảng trên bàn chánh án. ả đã thuê lại từng giờ
những cái nhà, cái buồng vắng người để làm nhà thổ. Thế là ả có 36 buồng trong
tay của những người đi làm theo giờ, của người sơ tán, của người độc thân nghèo
túng chịu khó vắng nhà một vài giờ lấy ít tiền tiêu.
Còn khoé làm tiền khác
nữa. ả đóng vai người mẫu cho bố con một ông chụp ảnh tài tử. Những tấm ảnh
cũng được bày chỗ tang vật cạnh vành móng ngựa. ả làm tình với con thì bố chụp,
với bố thì con chụp. Các kiểu. Đám lông trên mu được khuếch lên thành một gò cỏ
đậm nhạt thơ mộng. Có cái ngậm chiếc tẩu nghi ngút khói, lông xùm xoè như anh
chàng râu na quái dị hút thuốc. Lại một đám ăn chơi khác. Đám này có công ăn
việc làm đàng hoàng, người thì xã viên tổ mì sợi người làm thợ máy, người tài
vụ kế toán. Người nào cũng đến cơ quan và nơi làm việc giờ giấc tử tế. Nhưng
tan tầm thì không ai biết ai thế nào. Tối tối, họ tụ bạ trên cái gác ba một toà
nhà giữa thành phố mới bị trưng dụng, chủ nhà còn được ở một buồng nhưng bỏ
không. Chùm trò là một lão đã đứng tuổi như lão Văn Hiến ở với chúng tôi trên
Việt Bắc, trước kia đã từng ở Pari - lão khoe thế. Tôi tin là thực, khi nhớ đến
ông Hiến rách rưới, lúc nào cũng đói nhưng đã từng đàn đúm ở xóm ăn chơi
Môngmac. Lão Văn Hiến này làm bảo quản phòng máy một trường đại học. Mỗi lần
ngồi cả đám, bọn đàn em cứ cong cổ, cong mắt nghe đại ca đấu hót chẳng biết
thật hay bịa về những truy hoan ban đêm xóm Môngmac thủ đô hoa lệ nhất thế giới
chứ tép riu đâu như cái Hà Nội nhà quê này. Rồi xoắn na lên lão gật gù: Tao bây
giờ có trần ai đến thế nào cũng là mãn kiếp, chỉ thương các chú mày đầu xanh
tuổi trẻ chưa được ngửi cái mùi mẹ gì!.
Sau đó cả bọn tà tà kéo
nhau đi săn bò lạc. Chúng nó rà rẫm đến bến Nứa, bến Kim Mã, Kim Liên, ga Hàng
Cỏ hóng những người nhỡ tàu nhỡ xe. Đương thời chiến, thành phố lấy đêm thay
ngày, bến bãi quán xá đâu đâu cũng bề bộn, ngổn ngang người cơ nhỡ. Chúng nó
tán tỉnh đèo về được những cô gái không may đương ngẩn ngơ tìm chỗ trọ. Nhiều
cô bị lừa tưởng chúng tử tế cho nghỉ nhờ đã ra toà kể tội bọn chó đểu: Những cô
sinh viên trường sơ tán tận Lục Ba, Ký Phú, Mai Sui, Biển Động, những chị công
nhân nhà máy đã di chuyển đi tỉnh khác.
Người dự phiên toà được
đi tham quan cái tổ quỷ ấy. Trên gác ba, trong một phòng trần trụi, giữa trải
một chiếc chiếu. Rải rác, những vỏ bao 3 số như vô tình vứt đâu đấy quanh một
cái vại da lươn. Tàn thuốc lá gạt vào trong vại đã cao có ngọn, nhấp nhô như
núi non bộ. Góc phòng kê một quầy gỗ giả làm chỗ uống đứng trong quán giải
khát. ở giá trên tường bày một loạt chai uýt ky, chai vang nguyên nhãn, cả nút.
Nhưng trong đựng nước lã. Những chuyện ăn chơi nghiêng trời được kể lại bên
những vỏ chuối lá, cái núi tàn thuốc trong vại và những vỏ chai rượu đắt tiền.
Để tưởng tượng ra những phá phách thú vị mà đêm nào lão Paridiêng nọ cũng
nghếch ria lên kể. Còn những bí mật nữa trong phòng này. Mặt vách trang trí
ghép những cây trúc hun khói màu ngà. Giữa mép trúc, mép tường được đục những
lỗ chỉ ti hí bằng lỗ khoá cho người đứng ngoài nhòm vào xem táp lô. ở trong,
một gã đương gạ gẫm cô nghỉ nhờ, rồi được bằng lòng hay phải cưỡng hiếp ra sao,
tất tật lọt ra những con mắt dán vào cả chục cái lỗ ấy. Hôm sau chúng nó ngồi
cãi nhau, phong chức và cá cược xem đứa nào giỏi hơn đứa nào.
Lại một vụ xử trấn lột,
toà dưới làm án nhẹ, phải xử lại. ấy là một bọn cứ chặp tối đến chầu chực cửa
rạp Tháng Tám - cả những đêm báo động. Đã lâu, theo lệnh phòng không thành phố,
rạp đóng cửa, nhưng cái vỉa hè ngã tư ấy như thói quen, người dừng lại vẫn
đông. Một người đạp xe qua. Một đứa chạy ra, tót lên sau xe, vừa ngồi vừa nói
khẽ: Nhờ một quãng xuống cuối phố nhé? Nhưng vừa qua khuất bóng cây sấu rậm rì,
người đạp xe chưa kịp quát hắt nó xuống đã cảm thấy lạnh toát mũi dao thích vào
sườn và một tiếng rít nho nhỏ. - Rẽ đằng này! Rẽ đằng này? Mũi dao nhói vừa đủ
khiến cho người ngồi trước run rẩy đạp theo lệnh. Đường phố hai bên vẫn nhộn
nhịp hơn bình thường. Ai cũng đoán vu vơ là máy bay Mỹ nghỉ đánh lúc chặp tối
để giặc lái còn ăn cơm, người ta đổ ra đường tấp nập. Đến một chỗ bóng cây tối
đen. Đứng lại! Thằng cướp đường nhảy xuống. Mũi dao sáng loáng chĩa ra. Thế là,
cái đồng hồ, cái phu la, cái áo len, ví tiền, đôi giày cũng bị lột cả bít tất.
Thằng trấn ôm bọc đồ quay lại cửa rạp, cả bọn đã đợi. Chỉ ra đến Bờ Hồ mọi thứ
đã bán xong. Rồi kéo nhau lên quán cạnh rạp Kim Phụng đánh chén. Hôm nào đét
không được món nào cũng cứ đàng hoàng sà vào hàng phở, mì vằn thắn, gọi rượu.
Chè chén xong cắp đít đi ra. Các hàng quán bị xúi quẩy này đã thuộc mặt từng
đứa. Không dám đòi tiền, cũng không dám báo công an hay mách các hàng bên. Bởi
chỉ khác mắt, thì cửa kính, mâm bát và cả ông chủ được xơi gạch củ đậu ngay. ở
ngõ hàng Giầy, một chủ quán phở chua đã bị một lần ăn gạch vỡ trán, sợ quá,
phải đóng cửa hàng.
Toà tuyên án tử hình
tên cầm đầu băng trấn hai mươi mốt tuổi. Cả phòng xử lặng im. Nghe tiếng khóc
thút thít ở hàng ghế nào. Luật nghiêm thời chiến có khác.
Cũng tiếc ngày ấy tôi
không quen cái huyện trung du ven sông Hồng nọ để được về ăn uống lu bù ở cái
nhà khách huyện mà chỉ nghe ở phiên toà cũng cảm thấy nơi nghỉ ngơi này dễ chịu
chẳng kém khách sạn ở Hà Nội. Bây giờ thì bí thư huyện ngồi án tù 18 năm rồi.
Tôi chắc cũng chỉ đến giường lùn kiểu Đức, bàn ăn trải khăn hoa... nhưng quả là
nó càng rực rỡ linh đình trong lúc bàn dân thiên hạ nháo nhào chạy máy bay. Tài
liệu ở cáo trạng thì cái huyện ấy như một quốc gia nhỏ. Hai mươi tư chủ tịch
hai mươi tư xã. Bí thư huyện trước kia ở làng, vốn là tay cứ mỗi năm đến vụ
nông nhàn thì đi buôn gà Bắc Giang về bán chợ Đồng Xuân. Bí thư cựu lái buôn
này lắm mưu mẹo đã gọi các chủ tịch, bí thư xã lên cắt tiết gà uống máu ăn thề,
làm kế hoạch mỗi xã hàng năm dựng lên công trường thuỷ lợi, ghi con số ma dân
công để lĩnh tiền nhà nước. Lần lượt các chủ tịch, bí thư xã đều xây nhà. Các
ngành các giới lên huyện họp được cấp tiền ăn như ăn cỗ gấp mười tiêu chuẩn.
Chánh văn phòng giữ sổ sách, chủ tịch, bí thư huyện, cả ban thường vụ không hề
biết mặt đồng tiền lương. Kho bạc nhà nước như chĩnh gạo trong nhà. Ai cũng
ngập miệng, cán bộ cả huyện, cả các xã ngậm tăm.
Đến khi phải bắt đi tù
vãn cả huyện uỷ, uỷ ban, thì hàng huyện mới ngã ngửa ra. Trong ban chấp hành
chỉ có một đảng viên nữ không dính, bởi sợ nhưng cũng không dám nói ra.
Một hôm, có chiếc máy
bay bị tên lửa bắn rơi trên đê. Thằng lái nhảy dù xuống cánh đồng chui vào
ruộng ngô, mở điện đài gọi cấp cứu. Một tốp nữ dận quân núp giao thông hào
trong xóm xô ra bắn đám máy bay lên thẳng vừa ập đến cứu nhưng chỉ quần đảo
trên đầu, không dám bom, cũng không dám thả thang. Cô dân quân đội mũ cát quai
ghì dưới cằm, gí mũi khẩu súng trường vào sườn thằng giặc lái. Cô thấp bé,
thằng tù binh gầy, cao lêu đêu. Bức ảnh oai hùng ấy được truyền đi khắp thế
giới. Những con người dũng cảm như thế, như thế, thời chiến, thời chiến mà. ở
ngay cái huyện đương hỗn loạn coi trời bằng vung ấy đấy.
Vừa lên đèn, lại một
toán giặc lái được dẫn từ sau lưng Nhà hát Lớn ra đi qua phố Tràng Tiền, Tràng
Thi xuống Cửa Nam, về Hoả Lò. Năm mươi hai người xếp hàng đôi, áo bà ba xám
nhờ, chân đi dép râu, thong thả, mệt mỏi. Cách quãng, một bộ đội kèm. Không lo
tù binh chạy, mà đề phòng đám đông hai bên đường xô xuống đánh. ở ngã tư đầu
Tràng Tiền, người nhốn nháo giơ tay hô đả đảo đế quốc Mỹ, đả đảo giặc Mỹ? Đến
phố Tràng Thi, đám đông càng hò hét loạn xạ. Mấy người nhẩy ra thụi bừa một quả
rồi lại chạy vào. Có một bà nạ dòng vào đến hè, cười nắc nẻ: cái gáy thằng Mỹ
nát nhẽo, đấm ghê cả tay! Những bộ đội giải tù chạy lên chạy xuống cản người ùa
ra. Không để ý cả tiếng còi báo động trên nóc Nhà hát Lớn đã lại rú lên. Chúng
tôi ở cửa hàng Tràng Thi cầm vại bia đứng trông ra đám người túi bụi. Lại một
bà phốp pháp tất tả dưới đường lên, tay còn giơ nắm đấm, cười hơ hớ: Cái thằng
Mỹ hộ pháp thế mà bụng nó toàn thịt mỡ bạc nhạc.
Đêm Nôen năm nay lại
vào Hoả Lò chơi với tù binh lái. Âu cũng thêm một phong tục thời chiến, Nôen
Tết tù binh. Thói quen người Mỹ, bữa ăn thịnh soạn nửa đêm nhà nào cũng có món
thịt gà tây - như ta tết ông táo cúng cá chép. Thời Pháp, người Tây đã đem gà
tây giống sang, nhưng thỏ và gà tây chưa thành món quen như gà thiến, gà ta...
Không mấy ai nuôi gà tây. Con gà đóm đen, mào đỏ, người đến gần thì cau có, xoã
cánh chìa đuôi kêu cộ cộ. Thế mà những năm ấy, nhiều làng hai bên sông Đống,
các hợp tác xã đã chuyển ruộng cho xóm khác, chỉ chuyên nuôi gà tây. Đến áp
Nôen, hàng đoàn xe tải biển đỏ của quân đội về lấy gà, đem ra cho tù binh Mỹ ăn
tết.
Cả hai cuộc kháng
chiến, tôi đã gặp nhiều tù binh Pháp, Mỹ sĩ quan các cấp uý, tá. Trong chiến
dịch biên giới phía bắc 1950, ở châu Bắc Sơn Lạng Sơn, Nam Cao và tôi đã trò
chuyện với tù binh Pháp, đám quân quan thua trận của các binh đoàn Sác Tông và
Lơ pa bị bắt trên đường số 4. Đông quá không đủ lán trại, phải lùa cả vào các
khe đồi hốc đá. Có đứa khát nước hay khát rượu, nằm rống lên một lúc, rồi thắt
cổ. Có đứa phơi lá duối khô nhét vào ống đu đủ làm thuốc lá hút phì phèo tiêu
sầu. Bước chân phiêu lưu vào lính, coi như đã cầm cái chết trong tay, người
lính binh đoàn Tabo lê dương chỉ còn biết nốc rượu và giết người. Một lần kia,
gã da đen gác cửa khách sạn Kônisốp ở Bon, nước Cộng hoà Liên Bang Đức, tên là
Rimi người Ma rốc quê ở Casablanca. Rimi hỏi tôi:
- Thưa ông về Hà Nội?
- Phải.
- Tôi xin nhờ ông một
việc.
- Việc gì?
- Ông tôi là Rimi Idri,
đi lính Pháp sang đánh nhau bên Đông Dương năm 1949, mấy chục năm nay gia đình
chúng tôi không được tin tức. Thưa ông, nếu ông có khi nào gặp ông tôi...
Có thể người lính da
đen quê ở Casablanca ấy đã đăng lính trong những binh đoàn Tabo bị tiêu diệt,
bị bắt sống rồi chết trên rừng núi Lạng Sơn. Dễ thường tôi cũng đã gặp ông nội
Rimi hay đã trông thấy nấm mồ ông nội nó ở Bắc Sơn. Nhưng lính Mỹ khác hẳn bọn
lính Pháp loang toàng bạt mạng. Người lính Mỹ nào cũng từa tựa nhau. Trước cái
chết có thể và sự giết người, nhưng mỗi người Mỹ đăng lính đều đã tính toán
thành con số. Lương chính, phụ cấp chiến trường gửi nhà băng tỉnh quê. ăn uống
hàng ngày và chi tiêu bằng tiền thưởng, sổ ghi cẩn thận. Không xem báo, chỉ đôi
khi đọc truyện trinh thám, đi câu và đi săn. Hết ba năm mãn lính, dành dụm làm
sao gom đủ tiền mở được một cửa hiệu trong thị trấn hay tậu một trang trại nhỏ
và một đàn bò. Những cái tính cộng trong túi mỗi người đại để thế, bởi vì đi
lính kiếm đồng tiền nhanh hơn nhiều nghề lao động khác.
Nhà Hoả Lò, vẫn căn
phòng mọi lần, có một chậu cảnh trồng một cây xương rồng châu Phi, cao bằng
chiếc đũa cả, giống xương rồng ông của ta. Một lát, chiếc xe Jeep đít vuông che
bạt kín vào sân. Bạt sau mở, một tù lái bước xuống sau người lính. Tôi ngờ
người tù binh nọ vẫn ở trong Hoả Lò này. Các ông quản giáo cho bịt kín xe, đi
loanh quanh một lúc rồi quay về. Tôi ngỡ người tù binh biết như thế. Tuy không
trông thấy và xe đi qua nhiều nơi mới đến, nhưng những tiếng động ở đây vẫn
quen thuộc: tiếng phát thanh ở cái đài ngoài sân, con vạc, con chim lợn kêu đêm
bay qua. Sau này, đọc phóng sự Trận tập kích Sơn Tây của một phóng viên Mỹ viết
tôi càng tin thế. Người phi công Mỹ nào cũng được học các mật hiệu, nếu bị bắt
giam, có thể làm dấu cho máy bay bay qua biết được.
Chuẩn uý Giôn 26 tuổi,
chưa vợ, người bang Ôhiô. Bố mẹ chết tai nạn ô-tô. Hai em ở trại cứu tế. Lái
A4, bị đạn cao xạ. Thoát ra biển cách bờ khoảng hai cây số phải nhảy dù ngoài
khơi Hà Tĩnh, tháng ba 1966. Hàng không mẫu hạm đậu ngoài biển Đông, Giôn chưa
đặt chân xuống Việt Nam lần nào. Hai mươi lần đi ném bom, tám trận ra đánh miền
Bắc. Đã được đi nghỉ ở Nagasaki, ở Manila, ở Băng Cốc.
Chúng tôi và người
phiên dịch, với Giôn ngồi quanh chiếc bàn nhỏ, trên đặt gói thuốc lá Thủ đô bao
bạc và một đĩa kẹo. Chiếc ghế đẩu của thằng tù thấp - không được ghế mây như
khách, mà Giôn vẫn cao lêu đêu ngang chúng tôi.
Tôi rơi xuống nước, thả
phao nổi bơi được ngay. Thế mà, không biết vướng vào đâu, một bên đầu gối sái
không cựa được. Tôi chưa kịp mở điện đài. Nhìn ra, thuyền và súng đã vây quanh.
Bị bắt hơn một tháng, thưa các ông, lúc nào tôi cũng thèm thịt bò. Thèm mãi
không có rồi quên đi. Bây giờ, đã hơn ba năm, ba năm hai tháng, một ngày rồi.
(Chiếc áo tay rộng ông
màu lá cơi. Số 31 in trước ngực và lưng áo. Dạo có những cuộc trao trả tù binh
ở sân bay Gia Lâm, tôi đã trông thấy những tù binh phi công Mỹ đội nón lá, cổ
đeo chuỗi hạt gọt bằng mắt tre, gộc tre, trong cái túi lưới đeo vai đựng bộ
quần áo cánh có số và đôi dép râu, hệt quần áo và dép của chuẩn uý Giôn. Họ xin
được đem những kỷ niệm ấy về xứ). Chuẩn uý Giôn này lấc cấc, nhanh nhẩu, không
ủ rũ, mệt mỏi (như thiếu tá tù binh Mác Tuên năm ngoái gặp cũng ở phòng này).
Lúc ấy khoảng hai giờ
trưa. Lên bờ, tôi được cởi trói, mô tô đèo tôi một quãng rồi xe camiông đem đi.
Một mình tôi trong thùng xe, với một người gác. Cảm giác đầu tiên: thế là cuộc
đời đánh dấu chấm hết. Nhưng đến chặp tối, được khai giấy tờ, có bác sĩ đến
khám, cho thuốc mỡ bôi cái đầu gối sưng, tôi thoáng nghĩ tôi đương chờ đợi cái
gì, cái gì không rõ, nhưng không phải cái chết.
Cho đến hôm nay, tôi
còn sống, thế là tết. Và cái tôi chờ đợi đã rõ. Tôi hy vọng một ngày kia được trở
về. Bằng cách nào? Chỉ có Thượng Đế biết được. Còn tôi, tôi cầu mong chính phủ
Mỹ suy xét lại về cuộc chiến tranh này. Hai bên thương lượng, cuộc đổ máu sẽ đi
vào quá khứ. Nhưng bây giờ thì tôi đương ở trong tay các ông. Tôi được sống hay
tôi phải chết, không phải do tôi. (Giôn thở dài rồi chép miệng. Giôn hay thở
dài như lấy hơi rồi chép miệng. Giôn lực lưỡng, cao lớn. Tôi nhớ năm 1944 hai
mươi năm trước một phi công Mỹ lái máy bay hai thân đến ném bom ga xe lửa thành
phố Vinh bị Nhật bắn rơi. Tôi trông thấy người lính Nhật giải tù binh vừa bị
bắt sống qua trước ga Vinh mới phải bom sập còn khói nghi ngút. Người tù binh
lênh khênh, hai cánh tay bị trói giật sau lưng, người lính Nhật cầm cái thừng
dắt đi. Miệng người tù binh Mỹ há hốc, máu đỏ lòm chảy ròng ròng hai bên mép.
Không biết bị đánh gẫy hết răng hay nhảy dù ngã).
Thưa ông vâng, hoà
bình, tôi được trở về. Tôi sẽ được tha.
( áo bà ba của Giôn
rộng thùng thình, nhưng không có túi. Nguyễn Tuân cầm bao Thủ đô, kéo một điếu
ra mời. Giôn cảm ơn. Cầm bao diêm Nguyễn Tuân đưa, Giôn rút một que đánh. Nhưng
đã thó nhanh hai que diêm khác, cong ngón tay, gảy vào giấu trong ống tay áo.
Tôi trông thấy).
Chính phủ Giônxơn đương
điều đình với các ông? Tôi cũng nghe loa phát thanh tiếng Anh được biết. Tôi
nghĩ cuộc nói chuyện có thể có kết quả nếu chính phủ miền Bắc thôi tiếp tế cho
Việt Cộng. Tôi đã được cho biết từ khi mới đến Đông Dương như thế.
(Ngoài cửa sổ đột nhiên
mưa rơi bập bùng xuống lưng tàu chuối như trông đánh. Tiếng nhạc đài oang vào
tường, vang đi vang lại vách đá. Không biết ở các buồng giam, có nghe tiếng mưa
và tiếng hát mọi khi cũng như thế này)
Thưa ông, ông bảo tôi
nên kết luận lấy? Quả thực tôi không biết thế nào. Người ta bảo tôi là chính
phủ Hồ Chí Minh không muốn thương lượng nên chiến tranh vẫn tiếp tục.
Vâng, vâng, tôi xin trả
lời câu hỏi: tôi chỉ đánh phá xuống những nơi có thể cắt đường vận tải súng đạn
và lương thực của miền Bắc cho Việt Cộng. Tôi phải thi hành lệnh cấp trên, vì
tôi là lính..
Vâng, tôi ở hạm đội 7.
Mỉa mai quá, đây là lần đầu tôi xuống đất liền ở Việt Nam...Các ông là nhà báo
hỏi tôi có cảm tưởng thế nào, khi gặp các ông. Tôi ít có báo đọc, tôi nghĩ là
các ông muốn biết ý kiến một tù binh Mỹ về chiến tranh và hoà bình. Tôi xin
nói: hoà bình tốt, chiến tranh xấu. Một ngày kia không ở đâu còn chiến tranh,
tôi mong thế.:
(Mỗi khi nghe xong câu
hỏi, Giôn trả lời ngay. Có lẽ bẩm tính nó bốp tốp).
Không, không phải độc
lập của Mỹ hay của Việt Nam bị xâm phạm. Nhưng nếu Mỹ không chặn lại thì cộng
sản quốc tế sẽ chiếm miền Nam Việt Nam rồi chiếm Thái Lan, Miến Điện và những
nước khác. Vì thế người Mỹ phải sang đây cản lại. Ông hỏi nếu tôi được trở về
Mỹ mà thấy trong thành phố có biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam thì thái
độ tôi thế nào?
(Tôi đã ghi được một ít
con sô' mỗi ngày ăn của tù binh Mỹ ở Hoả Lò giá là 1 đ. Không có ăn sáng. Ngày
hai bữa, mỗi bữa một bánh mì, bát canh rau muống cà chua, đĩa su su xào mỡ.
Thỉnh thoảng được ăn món thịt gà tây rán, gà tây nấu như đêm Nôen này).
Nếu tôi được về nước,
chắc khi ấy chiến tranh đã chấm dứt. Thế thì không còn biểu tình chống chiến
tranh nữa. Nhưng nếu còn chiến tranh mà tôi vẫn là lính, tôi cũng không để ý
đến đám biểu tình. Vì chính phủ Mỹ trả lương cho tôi không phải để làm việc ấy.
Nếu tôi là thường dân, tôi có đi biểu tình không? Tôi không trả lời được ngay
bây giờ, chỉ biết là tôi phải xem hai bên thế nào đã. Các ông bảo tôi lo bị bí
mật thu tiếng để các ông phát lên đài, nếu tôi nói về chiến tranh không như
chính phủ Mỹ đã nói, tôi có thể mất lương, có thể bị tù, khi trở về. Xin lỗi
các ông, tôi không biết, tôi không trả lời được câu này.
Tôi học trường đại học
tổng hợp Pensule. Chuyên khoa địa lý, nhưng bỏ dở, năm thứ ba khi 18 tuổi. Vì
hoàn cảnh gia đình.
( Nguyễn Tuân cười
khẩy: Chuyến này ông sinh viên địa lý biết thêm địa lý Việt Nam).
Tôi đã thưa với ông,
tôi chỉ được biết Việt Nam trên bản đồ. Tôi mới học kiến thức chung về địa lý.
Năm thứ ba phải thôi học. Tôi đi kiếm ăn khá vất vả. Bố mẹ tôi chết, khó khăn
quá cho chúng tôi.
Một giờ bay đi thả bom,
tôi được phụ cấp bao nhiêu? Thưa ông, phụ cấp và tiền thưởng ở chiến trường trả
theo cấp bậc và từng chuyến khác nhau, bay làm gì, đi đánh phá, đi yểm trợ, đi
cứu đồng đội. Trung bình, mỗi tháng tôi lĩnh trên dưới một trăm đô la, chưa bao
giờ hai trăm. Tôi được bay ít lắm. Không hiểu tại sao.
(Nguyễn Tuân bảo: Anh
nói dối'. Chuẩn úy Giôn chỉ đáp: Thưa ông rồi im lặng. Sự thực hạm đội 7 vào
trận đánh, đồng loạt mỗi phi công phải cất cánh ngày một lần, không kể các
chuyến bay ngoại lệ).
Thưa ông, tôi rất thích
không quân. Bởi khi giải ngũ vẫn có nghề. Nhưng tôi không muốn bay trên trời
Việt Nam làm những việc như vừa qua. Nếu còn làm nghề này, tôi chỉ muốn bay ở
nước Mỹ của tôi.
(Nguyễn Tuân nói nghiêm
nghị: Nhưng thật thì chúng tôi đương ngồi trước mặt một tên giết người'. Nét
mặt hớn hở của Giôn chìm hẳn, Giôn mím môi).
Chiến tranh là tàn
khốc, tôi biết, nhưng tôi phải làm theo lệnh chính phủ. Máy bay Mỹ bị các ông
bắn, người lái rơi chết, nghĩa là các ông cũng giết người.
(Nguyễn Tuân cười nhạt,
hỏi vặn: Giá thử bây giờ anh lái tàu bay từ Bắc nước Mỹ lên ném bom Nam nước
Mỹ, thì thế nào?)
Mỹ và Việt Nam khác
nhau, Bắc và Nam nước Mỹ không phải là hai nước.
(Nguyễn Tuân gõ gõ đầu
tẩu thuốc. Đấy là cách lấy lại bình tĩnh. Thế là bực mình rồi. Những tiếng bộp
bộp nặng nề của cái gạt tàn thuốc trong đêm thanh vắng, làm những vết nhăn trên
trán Nguyễn Tuân dãn ra. Nguyễn Tuân nói, thong thả: Nêú được tha, anh hãy về
học lại đi. Đại học địa lý rồi mà dốt quá! Ai bây giờ bảo phía nam nước Mỹ là
tư sản, phía bắc là cộng sản, anh nghĩ thế nào?
Thế là điên, thưa ông.
(Nguyễn Tuân đứng lên,
hầm hầm trỏ tẩu thuốc vào mặt Giôn: Anh đương nghe lệnh một bọn điên đấy).
Tôi chỉ làm theo chính
phủ tôi. Tôi đã khai là tôi có lái máy bay đi bắn và ném bom miền Bắc Việt Nam.
Nhưng tôi chỉ bom bắn cầu đường phá xe của Hà Nội vận tải cho Việt Cộng. Thưa
ông, tôi không giết người.
(Giôn ngồi ở cái ghế
đánh dấu như chiếc ghế năm trước. Tôi vừa nhận ra con số 2541 quét sơn trắng ở
chân ghê, đúng cái ghế năm ngoái thiếu tá tù binh Mác Tuên đã ngồi. Lúc nào
Giôn cũng giữ một tay trên bụng áo. Giôn không biết tôi đã thấy nó lấy cắp que
diêm nhét vào ống tay mỗi lần được cho thuốc lá hút. Giôn biện bạch một thôi).
Vâng, tôi chỉ được phép
phá cầu, phá đường phá xe. Nếu có người chết, cũng là chẳng may người ấy gặp
tai nạn, tôi không cố ý. Nhưng dù thế nào, xẩy ra cái chết cũng là bất hạnh,
tôi không muốn. Đức chúa Trời dạy con người phải thương yêu nhau. Chúa dạy tôi
sợ máu, tôi không dám nhìn máu, tôi không dám giết ai. Đức chúa Trời...
(Nguyễn Tuân lắc đầu
nhè nhẹ: Giết người mà lại nói con người phải thương yêu nhau! Không hiểu Người
tù binh như sợ hãi, nói luống cuống).
Tôi không giết người,
tôi không... Tôi không thù ghét, nước Việt Nam Cộng Hòa hay nước Việt Nam Dân
chủ Cộng Hòa. Những người chết là người bị tai nạn chiến tranh. Nếu trên cầu
trên đường lúc ấy chỗ ấy không có người thì không ai chết. Vì người ta đi đến đấy
chứ tôi không chủ tâm làm người ta chết.
(Nguyễn Tuân lừ lừ đứng
dậy, giơ tay: Nhắc lại này: bao giờ mày được về thì nhớ học lại địa lý Không có
hai nước Hoa Kỳ, không có hai nước Việt Nam. Nhớ đấy. Trung uý Giôn, con mắt
xanh lơ ngó ngác).
Các ông không phải là
nhà báo. Các ông là quan tòa? Các quan tòa lấy khẩu cung tôi. Các ông sắp đem
tôi ra xử. Tôi xin hỏi thực các ông?
(Nguyễn Tuân rút hai
điếu Thủ đô đưa cho trung uý Giôn. Anh này mặt lúc đỏ lúc tái run run cầm
thuốc: Cám ơn, cám ơn. Các ông có phải... Không giải thích hay an ủi, Nguyễn
Tuân bước ra, mặc câu nói dở dang sau lưng. Nguyễn Tuân trầm mặc, nghiêm mặt và
một vẻ ta đây. Tôi thường chứng kiên dáng điệu đĩnh đạc ấy ở Nguyễn Tuân, khi
tiếp xúc với người nước ngoài. Nguyễn Tuân lý lẽ và cứng cỏi. Âu cũng lại một
thói quen, cái người hay nói tôi không thích chính trị cũng đương chính trị mà
không biết).
° ° °
Báo động.
Nhưng máy bay địch không vào Hà Nội. Như găng, cũng lại như bình thường. ở Pa
ri, đương xuất hiện hai khả năng mà. Các ngóc ngách phố vẫn đông. Hôm nào ban bảo
vệ khối phố cũng chia nhau đi vận động người sơ tán. Giục đi, nhưng cả người giục
cũng nghĩ chỉ khi bom xuống người ta mới chịu đi. Đã nhiều lần như thế, mà cũng
chỉ dạt đi ít lâu, nhạt bom lại về.
Bom rền bên kia sông ở ngay Gia Lâm. Rung chuyển nặng nề đến tận gần sáng. Hai
tháng im ắng, bây giờ lại rộ những trận bom đêm. Gió bấc đã về buổi sáng mây mù
xao xác vần vụ. Mùa đông lại bắt đầu rồi.
Trong phố lan tràn tin đêm qua những đợt bom B.52 thả dàn từ Giang Biên lên
quanh cầu Đuống. Báo động suốt đêm, thế mà sáng ra người xúm xít mua báo ở ngã
sáu quanh những gốc cây sữa. Những đợt bom nửa đêm kéo đến sáng. Còi báo động
trong bóng tối u ám vừa dứt lại tiếp. B.52 xay thóc ỳ ỳ trên mênh mông, ào ạt từng
làn như gió dải đồng. Mép lửa viền chân trời theo ánh chớp giật. Bom đánh xuống
khắp vùng Đuôi Cá phía nam trên ngã ba đường đi Văn Điển. Nhưng vừa sáng bảnh mắt
chiếc tàu điện lụ khụ kéo hai toa, cứ đúng giờ ra khỏi xưởng chứa Thuỷ Khuê lại
rỉnh ràng chạy ngang thành phố. Tàu không dừng lại chỗ tránh giữa phố Quán
Thánh gần nhà máy điện, ở đấy dãy nhà cao tầng xung quanh cháy đen đã đổ sập cả.
Suốt ngày, tàu điện rong ruổi chợ Mơ chợ Bưởi, xuống Kim Liên, vào Hà Đông.
Trên các toa tàu lơ thơ người, vẫn nỉ non tiếng hát xẩm của một ông lão loà.
Quán rượu ngã tư chợ Hôm vẫn thế. Hồi này hàng nước nào cũng có nước trắng. Cái
bà nạ dòng chủ quán chao chát đôi mắt. Ba ấm giỏ bày song song, nhưng chỉ một
giỏ nước chè bán cho khách đầu ghế. Làm phép thế thôi.' Trong nhà, bốn góc tường,
người lố nhố không ai nhìn ai, có người ực một chén rồi đi ngay. Lắm hôm, chỉ
có Dương Bích Liên và tôi ngồi suông. Chúng tôi gặp nhau tình cờ lúc xẩm tối,
không rủ mà cùng lặng lẽ bước về phía cái vòi máy nước lấp ló trước quán rượu.
Ba người đầm ở sứ quán Pháp bước ra, giữa tiếng bom vang động. Toà nhà chính của
sứ quán giữa trưa tháng trước bị bom đánh đổ, chết cả ông đại sứ. Như còn bốc bụi
trong ánh điện. Tiếng bom chùm của B.52 không rít khủng khiếp như những quả bom
tạ hôm trước tương xuống khu nhà này nên người ta thản nhiên chăng. Họ ở sân quần
vợt về khách sạn hay sứ quán Anh, sứ quán Thuỵ Điển gần đấy. Vẫn báo động dai dẳng,
chốc chốc, lại chớp bom sáng loé nhằng nhịt. Nửa đêm về sáng, B.52 bom khu An
Dương ven sông rồi quét một vệt lên nóc nhà Bác Cổ, bãi Lương Yên, bệnh viện Bạch
Mai. Lại ném bệnh viện Bạch Mai.
Các sở bia Trần Hưng Đạo, Tôn Đản, Chuồng Cọp đông hẳn hơn mọi khi. Đuôi dài đứng
sắp hàng quanh bãi, thò ra tận giữa đường. Người nốc từng cốc vại, người còn
đương sắp hàng chưa được giọt nào, những khuôn mặt sốt ruột cũng đỏ phừng.
Quanh cốc bia toàn những chuyện thảm. ở bãi Lương Yên, một cô bác sĩ, ngày cưới
24, đêm qua chết. Người nhà liệm cho cô chiếc áo dài kếp hoa đào. Mùa cưới đã đến.
Trên đường, chặp tối thấy phấp phới những dấu hiệu đám cưới: chiếc xe đạp phóng
nhanh, sau xe buộc chiếc trống to của ban nhạc. Một người ngồi đèo, tay ôm cái
chậu thau men hoa đồ mừng bọc giấy hồng. Một nhà hé cửa, những hình các thứ hoa
thập cẩm rực rỡ mặt bàn. Trên tường chữ L, chữ N bồng lên nhau. Bom liên miên
suốt đêm quanh phía ngoại thành. Có tin bí mật phổ biến đêm nay Mỹ đánh vào các
phố trung tâm. Khi báo động B52, đài truyền thanh sẽ phát khác thường ngày. Khi
đài nói liền hai câu giông nhau: Giặc Mỹ có âm mưu đánh phá ác liệt vào Thủ
đô... ấy là ám hiệu cho các đội bảo vệ biết B52 đương vào thành
Từ chiều, mấy lần báo động đã nghe cái câu ghê rợn ấy trên đài. Người vào từng
nhà xem còn ai thì xua ra hầm. Các phố lại im ắng. Đột nhiên, gần nửa đêm cho tới
sáng, từng đợt B52 ào ào ù ù cối xay cối giã trên trời không lúc nào ngớt. Những
quả bom đầu tiên rơi xuống bờ hồ Thiền Cuông. Một khúc đường nhựa cong vồng
lên. Hàng cây sanh cây si trước công viên Thống Nhất đương mơn mởn buông rễ
chùm, biến mất. Một chiếc ô-tô vận tải đậu ven hè, nhà xe và mấy người khách ngủ
nhờ để mai đi sớm, xe và người nổi lều bều mặt hồ. Những đợt bom nối nhau trút
xuống Kim Liên, loang sang cả vùng Khâm Thiên phố xá, ngõ ngách chằng chịt, xuống
tận ô Chợ Dừa. Bom rơi ngay trước mặt, gần quá không nghe rền nữa. Tiếng gió
hú, tiếng nổ chát chát vào hai mang tai.
Một cái đuôi tên lửa rơi ình xuống mái hiên quán cà phê phố Hàm Long, sau sứ
quán Pháp. Người ở đâu các phố tuôn ra nháo nhác: bom bịt cả bốn cửa ô rồi. Một
người phong phanh cái may ô, gặp ai cũng bíu lấy kêu ối giời ôi, thủng đầu rồi...
tôi thủng đầu... Tôi vít cái đầu tóc rễ tre xuống. Không sao, không sao, thủng
đầu thì không chạy lên được tận đây đâu. Anh ta lại bổ xấp, bổ ngửa chạy và
kêu: có phải... ối giời ôi, tôi thủng đầu...
Một con trâu đằng cửa ô lồng vào phố chạy nhong nhong như ngựa. Đội cứu hoả các
phố xuống Khâm Thiên cứu khối bạn. Chỉ còn lại vài người, nhưng cũng đủ bộ cái
xe nước, cái bơm mới sơn đỏ choé, với thang, cáng cứu thương... Tôi cầm một chiếc
câu liêm. Qua chắn xe hoả, bụi bom bụi đường ngập mắt cá chân. Trời dần dần
sáng, trông rõ các ngõ ngách lấp đổ từng quãng, mùi dầu xả xông lên, hắc như ở
nhà xác. Những ngọn điện chằng dây vừa mắc ra ngoài tường, sáng đỏ lòm. Tiếng
nước vỡ ống chảy rào rào. Bên những dãy nhà đổ thành đống, còn một mảnh tường đứng.
Bốn gian cầu chợ Khâm Thiên tan tành, ngổn ngang, trơ ra cái hầm công cộng nổi
lù lù như cái mả. Mà cái mả thật. Cả nhà con ông Thảo đội dân phòng phố tôi phải
hơi bom tạt vào trong cái hầm nổi này. Bảy người đứng đầu hầm, chết ngạt cả.
Một ông chếnh choáng rượu ngồi trong đống gạch chửi lên cái loa phóng thanh còn
sót lại đương nói xa xả trên nóc nhà đầu tường đằng xa. - Tắt bố mày đi! Không
trông hàng phố chết hết rồi à? Ông say rượu chửi như gào thi với tiếng loa. Một
người đứng lên trên đầu tường thò cổ ra - Loa của thành phố tận ngoài kia mà...
Ông say lại réo: Tiên sư cái thành phố nhà mày, trông mả nhớn mả bé kia kìa...
Trong các ngõ, người lổm ngổm đào, moi dũi ra từng vốc đất. Xe cần trục đứng xếp
dãy ngoài phố không có lối vào được. Khói hương nghi ngút lẫn mùi xả trên từng
dãy xác người nằm đắp chiếc chiếu một bên vỉa hè. Vừa rạng sáng, ở phố ngoài
người ở đâu ra đã sắp hàng đong gạo đông hơn mọi khi. Cửa hàng mua dầu còn xúm
xít hơn nữa. Nhiều nhà lục tục dọn đến ở ngay các hầm công cộng. Trong nhà thờ
Hàm Long, nhà thờ hàng Trống và bên tường các sứ quán ở phố trên người ta che
ni lông ăn ở luôn đấy. Chỉ có sứ quán Pháp, sứ quán Angiêri mới bị bom, không
ai dám lai vãng. Dây phơi quần áo căng ra. Tiếng trẻ ho, tiếng nhóc con khóc.
Khói thổi cơm vẩn vơ trên bờ tường. Những con bò kéo xe, khoác khố tải đứng cạnh
gốc cây. ở Uy Nỗ, ở Mễ Trì bị bom đêm, các chủ xe đã đuổi bò rùng rùng vào
thành phố, qua vùng Khâm Thiên trơ trụi hẳn một bên.
Khâm Thiên cổ kính, xa xưa. Mùa thu canh tuất 1010, ngót một nghìn năm trước,
nhà Lý định đô ở Thăng Long, đắp đê La Thành. Từ thời ấy ô Chợ Dừa cuối phố
nghiêm ngặt đồn gác của một cổng chính thành Thăng Long - Hải Thượng Lãn ông đã
kể trong Ký sự lên kinh.
Phường Đông Tác - ngõ chợ bây giờ, phường Thịnh Quang ở cuối phố, ô Chợ Dừa với
khu Thịnh Hào, phường Xã Đàn ở phía nam, phường Bích Câu phía bắc - những phường
đông vui nhất kề bên cửa ô. Khu Trung Phụng gần chợ có cầu Muống, rau muống Kẻ
Chợ ngon nổi tiếng. Cung Tả Phụng Thánh, dinh cơ của các thời chúa Trịnh bên cầu..
Con đường nhựa phố Khâm Thiên bây giờ vẫn là đường cái quan xưa từ đầu ô vào
Văn Miếu qua Thịnh Hào, Văn Chương, cửa Đại Hưng đến Hàng Cỏ lại lộn về Khâm
Thiên giám. Khâm Thiên ngày nay 26 ngõ phố, cũ mới chằng chịt. Ngõ Liên Hoa vào
chùa Liên Hoa. Ngõ Thổ Quan có đền thờ ba chị em họ Đào, tướng của Hai Bà
Trưng. Các ngõ đều ra đời theo lịch sử và thời gian. Ngõ Cống Trắng, một cái cống
thoát nước úng vùng Văn Tân, Linh Quang, Văn Chương ra hồ Ba Mẫu ô Đồng Lầm.
Ngõ Sơn Nam, tên nhà triệu phú Bạch Sơn Nam, có dãy nhà cho thuê suốt ngõ. Trần
Huyền Trân ngày trước đã ở đấy. Cũng như các ngõ Vạn Lợi, ngõ Tân Châu, ngõ Nam
Thái, đều là những tên chủ ngõ.
Khâm Thiên, Hăm Bốn Gian, Vạn Thái, ấp Thái Hà, Vĩnh Hồ, Ngã Tư Sở, những phố ở
xa nhau nhưng có nhiều nhà hát ả đào. Tiểu thuyết Sau ánh sáng của Trần Huyền
Trân miêu tả lầy lội chui rúc, cái ngõ, động mưa thì ngập nước, lập lờ những mảnh
đời tăm tối sau ánh sáng của các tiệm nhảy Rex, Takana, nhà đốc Sao... Cao lâu
Trung Sơn tàng tàng của chú khách đầu ô chẳng món gì đáng nhớ, nhưng mà nhớ, vì
khách chơi đặt chầu mặn và các món nhắm khuya ở đấy.
Ngang dọc hai cây số các ngõ Khâm Thiên xưa và nay bề bộn lịch sử đã tan tành
trong đêm bom khủng khiếp. Chợt nhận ra tàu hoả rời ga hàng Cỏ về phía nam, trước
tiên ra ô Đồng Lầm qua giữa hồ Ba Mẫu và hồ Bẩy Mẫu. Trong những ngày thành phố
bị tàn phá này dường như lịch sử được chú ý nhiều hơn.
Mùa đông năm nay, thời tiết Hà Nội bị B52 giằng xé, cái gió cái mưa thay đổi từng
hôm. Đương hanh hao lại chợt nồm rồi lại rét, lại mưa dây mưa rợ. Đồng bào chú
ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 60 km... 40 km... 20 km... thế là
còi ủ, máy bay địch đã vào... có khi lâu cả tiếng đồng hồ, lúc lặng như tờ, lúc
bom súng dội lên. Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã bay xa. Khi ngớt tiếng nổ, chỉ
thoáng hai tiếng chú ý, người ta đã đoán hết được. Nhẹ nhàng, thong thả và hai
tiếng đã bay xa mới thanh thản sao. Trên hồ Bẩy Mẫu đã biến mất cái bến thuyền
và ngôi nhà hàng nổi mới hôm qua bán giải khát và bánh tôm. Các cô mậu dịch ở
bãi bia Chuồng Cọp đã bỏ quán đi cứu sập cửa hàng và bến thuyền này, hôm nào đến
lượt bãi bia?.
Sân bệnh viện Bạch Mai điện sáng choang. Những chiếc cần trục hùng hục ngoạm đất.
Tiếng hát lẫn tiếng tường đổ rào rào. Ngoài đường trước cửa, ánh đèn dầu le
lói, loáng thoáng bánh xe người qua lại. Khay thuốc lá. Cái bơm xe đạp. Bàn phở
gà che mái lá. Phố ngổn ngang, nhưng cái chắn xe lửa vẫn còn nguyên. Chị gác
barie rút lá cờ đỏ, cắm cúi đẩy cái chắn. Chân chắn đã rít chặt đất, phải đem
cuốc chim ra moi. Trong lòng phố vẫn thoảng ra lẫn lộn mùi xả, mùi hương đám
ma.
Một hàng nước và ngô luộc lập loè đèn bên vỉa hè chỗ xếp một dẫy xác chết đắp
chiếu hôm qua. Người ngồi quanh thúng ngô luộc khói nghi ngút, kể chuyện nhà
kia ở ngõ Lệnh Cư, có bảy người chết cả, chỉ còn một người thì đang ở chiến trường
B. Người ta im lặng nghe đài đọc tin của sở công an về trị an mấy ngày bị bom
liên miên. Tên lưu manh Như Bảo lấy trộm chiếc xe Favorit lúc bom B52 đêm hôm
kia. Toà án kết án 6 năm tù và 3 năm không được ở Hà Nội.
Lại thì thào chuyện ở Pari ông Thọ với lão Kít đã ký tắt đình chiến. Không ai
tin, vì còi báo động và tiếng bom vẫn ình oàng xuống. Lời đồn đại như một ước vọng.
Lại thêm những rỉ tai sốt dẻo. Ngày kia 13 - đúng 13, lão Kít đến Hà Nội... Người
ta mách nhau cả bộ dạng thằng Kít: lão ấy tóc mai to, kính trắng gọng vàng, và
lại kể vanh vách: Kít sẽ thăm Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai. Ôi! Thằng bỏ mẹ!
Nó đi xem chỗ nó vừa giết người. Kít sẽ dạo chơi công viên Thống Nhất. Kít xem
văn công... Thế là thế nào!
Chẳng biết ra thế nào? Nhưng có điều đích xác là các quán bia mấy hôm nay đóng
cửa. Người ta kháo nhau rằng công an sợ các bợm bia bốc bên kéo ra chặn xe ném
cốc vào mặt lão Kít. Không thể, ai cũng còn đương ngỡ ngàng cái thằng kẻ cướp bỗng
hoá ra con mèo hiền lành, sao lại đã sang Hà Nội còn hôi hổi hơi bom của nó thế
này! Đám trẻ đùa bên tường hầm trú ẩn. Chúng nó gọi nhau: Kít? Kít! Rồi cười
the thé. Một đứa thò đầu vào dây phơi quần áo như cái mành mành buông. Nhà nó
đã ra ẩn ở đấy.
- Bà ơi! Thằng Kitsingiơ sang hỏi thăm bà đấy
- Con đẻ mẹ mày, kít với chẳng két!
Thế rồi mọi việc không mong không đợi đường như cứ đến. Có người quả quyết đã
trông thấy lão Kít kính trắng gọng vàng ngồi xe qua Khâm Thiên. Rồi tù binh đôi
bên được thả ở Lộc Ninh, ở Hà Nội. Sân bay Gia Lâm chín giờ sáng còn sương mù.
Một chiếc máy bay quân sự Mỹ hạ cánh cuối đường băng, nhả cái thang dưới bụng.
Nhân viên uỷ ban quốc tế xuống trước. Mấy sĩ quan ta và Sài Gòn đi sau. Một người
thấp bé, áo quần rằn ri, mũ nồi đỏ, cái cần máy ảnh giơ cao. Phóng viên chiến
tranh Phan Nhật Nam, tác giả phóng sự Giữa mùa hè đỏ lửa tôi vừa đọc. Trở về
Sài Gòn, Phan Nhật Nam viết báo than phiền Hà Nội buồn lắm, nhưng ăn gà luộc ở
khách sạn thì quả là thấy thịt gà ngon đậm như ông Vũ Bằng đã viết trong Miếng
ngon Hà Nội. Anh ta xin phép gói mấy miếng bỏ vào cái áo tám túi.Lại ngao ngán
nỗi không thấy văn nhân nghệ sĩ nhà báo nào được ra sân bay cho hắn thấy.
Rõ hồ đồ, Nguyễn Tuân và tôi từ sáng sớm đã đứng uống bia Trúc Bạch trong quầy
nhìn ra đám tù binh Mỹ áo xanh lá cơi, cổ đeo tràng hạt gộc tre, cả bọn xếp hàng
chui vào bụng máy bay. Và xem chúng mày ngọ nguậy lên xuống, giơ máy ảnh.
Ngay chiều hôm ấy, tôi có việc sang Libăng. Rời Hà Nội, vẫn ga trời Gia Lâm.
Nhưng đề phòng bất trắc, bay trong chiều thật muộn. Chiếc IL 18 đỗ một mình
trên đường băng. Hành khách lèo tèo vài người. Một bà người Hung đương uống cả
một cốc to rượu bồ đào. Cô chiêu đãi viên hồng vệ binh Trung Quốc áo xanh công
nhân, bật đèn trong khi kéo kín các rèm cửa sổ. Máy bay chưa khởi động đến cánh
quạt thứ tư, bà người Hung đã ngủ vùi trên ghế phòng đợi. Bà uống để tránh biết
máy bay Mỹ, nếu nó đến. Nhưng quá liều. Người ta phải dìu bà lên máy bay.
Hà Nội sau lưng âm u trong chuỗi đèn vàng vọt. Máy bay bay thấp, ánh đèn lập
loè như đom đóm bám ngoài cánh. Chưa cởi dây an toàn, đã đương xuống Nam Ninh
thảnh thơi.
CHƯƠNG SÁU
Tôi ở lại Maxcơva mấy hôm. Được tin Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng sớm
mai tới đây cùng một chuyến bay. Nguyên Hồng dự kỷ niệm một danh nhân văn hoá
Nga. Nguyễn Tuân đi nghỉ bạn mời.
Hai người sẽ trọ ở khách sạn Bắc Kinh như tôi. Vốn quen thuộc với khách sạn này
- một nhà nghỉ và cao lâu bấy lâu cũng chìm nổi theo thời sự. Những năm 1958,
khách sạn Bắc Kinh mới khai trương, tôi đã được chứng kiến những ngày huy hoàng
đầu tiên vả cũng là sau cùng của khách sạn này.
Matxcơva vốn có một phong tục hay. ở đấy có quán ăn của các nước cộng hoà và của
nhiều nước khác. Mới đây, hãng Mỹ Mác Đô Nan mở cửa hàng bánh mì kẹp nhân thịt ở
cạnh quảng - trường Puskin, người xếp hàng dài vào mua cái món ăn quen mà lạ.
Cao lâu Grudia, cừu nướng thơm ngạt mũi chẳng khác khói mỡ các quán cố kính,
hoang dã dưới hầm ở thành phố Tybilitxi. Người nhà bàn, áo sơ mi trắng viền đỏ
quanh cổ. Tiếng nhạc grudia như vẩn vương từ thảo nguyên tới. Các phòng ăn cao
lâu Bắc Kinh, kiến trúc và trang trí như một dinh thự, một lâu đài, một hành
lang bao quanh hồ ở Di Hoà Viên. Cột đình sơn son thếp vàng chói lọi. Những bức
lụa quốc hoạ én bay liễu rủ. Món vịt quay Bắc Kinh nổi tiếng, nhà bếp bưng cả
con vịt lên bàn trước mặt khách, với dao và thớt phụ bếp xách theo. Con vịt
vàng hây đã được rút hết xương, dao chặt hoa lên như múa. Hàng ngày, máy bay chở
rau, gia vị và các thứ nhà bếp cần dùng, chỉ có bảy tiếng từ Bắc Kinh đưa thẳng
tới.
Rồi trải ba thập kỷ, khách sạn Bắc Kinh ở Matxcơva tàn lụi, thoi thóp. Nhà hàng
vẫn giữ vẻ bề ngoài, vào bàn có thể cầm đôi đũa mun đen bóng, có đĩa măng khô
và miến xào mộc nhĩ. Mặc dầu, nhà bếp Nga đã thay đầu bếp Trung Quốc, nhưng mà
đường xa và thói quen hơi hướng đũa bát quê hương cũng là một cái thích khiến
tôi vẫn mỗi khi qua thì ăn nghỉ ở đấy.
Từ năm ngoái, có sự giao lưu trở lại, khách sạn Bắc Kinh đã tươi tỉnh hẳn lên,
có thể còn xuân sắc hơn xưa. Kiến trúc sư, hoạ sĩ và các nhà chuyên môn Trung
Quốc sang tu bổ nội thất. Những xếnh xáng nhà bếp Tàu đội mũ nồi ngất ngưởng
màu xanh, màu hồng lại bưng cả con vịt quay vàng tía bóng mỡ lên rồi múa dao chặt
thành miếng trước mặt thực khách. Biết tin vui thế, nhưng chưa lần nào còn được
trở lại. Những người đi việc công có đôi chút ghé gẩm nghé nghiêng ra vẻ du lịch
như tôi kiểu nhà nước cấp tiền và nhờ vả, rặt những trớ trêu và buồn tủi. Miếng
ăn, cái uống, nơi nào sao mà tự mình định được. ở Tân Đê li, khách sạn ba sao
Giampat mỗi lần tôi qua tầng trệt, các chủ hàng thoáng thấy, vội ra đứng trước
quầy cúi đầu cung kính mời vào xem vàng bạc, đồ da, đá quí và các thứ rượu.
Nhưng túi rỗng, tôi ngước mắt đi qua không chào lại vờ như còn đương mải nghĩ.
Chả là tôi vừa nhận giải thưởng hội nhà văn á Phi 1969, bà thủ tướng J.Ganđi
trao tặng kèm nghìn bảng Anh. Nhưng trong va li tôi chỉ có tờ bằng chứng nhận
và chiếc huy hiệu bằng đồng to như cái đĩa. Và mấy chai vôtca các bạn nhà văn
Nga cho, ai đến mừng thì nâng cốc vui sướng. à hôm sứ quán ta nhận tiền giải
thưởng tôi đưa, có làm một tiệc đứng ăn nem rán mời khách.
Cái năm Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng với tôi đến ở khách sạn Bắc Kinh cạnh quảng
trường Mai còn hiu hắt. Chúng tôi vẫn còn được uống Mao Đài, kể cũng là cái thú
còm. Không biết ai là người trước nhất nhớ ra năm 1978 ấy, nhà văn Nguyên Hồng
tròn sáu mươi tuổi. Nên chơi một cuộc chúc thọ ông chứ!. Mọi tốn kém trông vào
tiền bài báo tôi vừa nhận của báo Tin tức, bạn thân Misen đưa cho. Tự huyễn cho
có mẽ, chứ chỉ là bữa chén thường, có của quí Mao Đài với mấy bạn nhà văn và bạn
phiên dịch tiếng Việt ở Matxcơva. Phía chúng tôi, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng và
Nguyễn Văn Mãi với tôi, hai chúng tôi đương đợi ngày hẹn tàu hoả đi Vacsava.
Phòng ăn lớn đông nhộn. Dàn nhạc cuối phòng nổi lên, người ta bắt đầu nhảy.
Marik bảo tôi: Này ông để ý nhé, những người vừa làm chầu sâm banh xong ra sàn
nhảy kia không phải như ông là khách nước ngoài trên phòng xuống ăn tối đâu.
Không bọn chó lợn ấy là giám đốc, là người làm cửa hàng nhà nước ở các phố
quanh đây. Anh Vlat phiên dịch tiếng Pháp khi còn sống, hay đưa tôi xuống thành
phố bờ biển Yanta trong bán đảo Crưm. Lúc đầu tôi không hiểu sao Vlat rất ghét
những người có nhà rộng, buồng đẹp hàng năm cho khách thuê mùa hè. Nhưng rồi
Vlat nói: Bọn chó này thời chiến tranh thì chạy hết xuống phía nam, đi buôn lậu,
giầu lên, có tiền tậu nhà, chúng nó sướng đến tận bây giờ, mà em trai tôi thì bỏ
mạng ở chiến hào ngoại ô Matxcơva. ờ mà sân khấu Hà Nội đã diễn vở kịch Câu
chuyện ở Iêckut, có hai thanh niên xung phong đi khai hoang đã chửi người chị
là nhân viên cửa hàng của nông trang không dám ra khỏi nhà một bước, chỉ bám
vào cái quầy bách hoá rình ăn bớt của khách từng đồng xu. Những ti tiện ấy tôi
cũng đã chứng kiến ở bistro và các quầy ăn đứng trong khách sạn. Những hôm vắng
khách, không phải xếp hàng, có mình tôi mua gói sữa smêtan hay miếng phó mát,
thế nào tiền trả lại cũng thiếu vài hào, vài xu. Những bà bán hàng béo ục ịch ấy
đã biết tôi không có tiếng Nga.
Đương vui, lại thấy Nguyên Hồng lật đật ra thang máy. Chốc chốc lại bỏ đi một
lát.
Cô Ina Zimônina hỏi:
- Ông Nguyên Hồng quên những gì trên buồng mà cứ phải lên nhiều lần?
Tôi cười:
- Không, ông ấy có bệnh.
- Thế thì phải đi khám. Bệnh gì?
Tôi chạm cốc với cô bạn Nga kỹ tính.
- Không cần. Bao giờ cô được ăn mừng lên lão sáu mươi tuổi thì cô sẽ biết những
bệnh của người già, bệnh già.
- áp huyết hay thấp khớp?
- Ina thân yêu, bệnh Tào Tháo đuổi thôi. Không đáng lo!
Bao giờ cô đến sáu mươi... bệnh già... Không khi nào tôi hỏi lại Nguyên Hồng
hôm ở phòng ăn khách sạn Bắc Kinh làm sao cứ mỗi lúc lại phải chạy lên buồng.
Biết rồi, chẳng đái giắt thì cũng đi trống tràng, mà hôm nay không ra đến phố
chỉ ở trong nhà nên hà tiện một viên thuốc rửa. Đã lâu, nghiện rượu chợ, rượu tạp
với ớt, với ổi với mướp đắng heo hút ở đồi Nhã Nam, vơ váo ăn và uống lộn xộn
đã quen dạ. Đến nỗi cái ngon lành lại đâm lạ miệng, rối loạn tiêu hoá. Tôi đã
biết từ lâu ông bạn rượu của tôi khoẻ nhưng yếu bụng kinh niên. Trong cái cặp
da bản thảo thường cắp theo, lúc nào cũng kẹp sẵn mảnh giấy dầu vỏ bao ximăng
Con rồng xanh không thấm nước. Có việc cả đấy, việc cực gay gắt. Đêm ngủ đâu nhỡ
một cái, mà chuồng xí ở nhà dưới, ở sân sau, đèn đóm không có, khuya khoắt quá
rồi thế là người lần ra hiên hay cạnh cửa sổ, trải mảnh giấy dầu ra. Được cái
phân tháo tỏng thì ít nặng mùi, rồi gói lại kỹ lưỡng bỏ vào cặp. Hôm sau vứt xuống
hồ hay đống rác nào đấy. Có khi tiếc cái giấy còn tốt, lại gột sạch đem phơi.
Chẳng coi là sự bẩn thỉu phải giấu diếm, nhiều lần Nguyên Hồng đã cắt nghĩa cho
tôi về tác dụng nghệ thuật so sánh hiện đại của mảnh giấy dầu. Nguyên Hồng bảo:
Trên máy bay người ta bĩnh vào bọng hố xí thì cũng thế. Cái kiểu tuôn xuống đường
sắt ở xe lửa còn kém văn hoá hơn nhiều. Lý sự đến vậy thì chịu. Khốn khổ, cái
lão cãi chày cãi cối cho bệnh già mà lão không khi nào chịu ai chê lão già. Lão
thường phàn nàn ầm ĩ là vợ lão kheo khư như con mèo hen khiến lão mất cái hứng
của Dương Khuê Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa. Không, nhưng mà cũng có,
những tơ nhện thoang thoảng. Nạ dòng, má phúng phính bánh đúc, áo cánh chồi,
nhai trầu môi cắn chỉ là ăn ý lắm. Mỗi khi gặp người dáng dấp vợ cai vợ lính
xưa mà chúng tôi đều đặt tên là bà ách và ghép tưởng tượng cho lão Nguyên Hồng,
bà cai ách bán bia hơi gần chợ Hôm, bà cai ách bia chai ở bờ hào trên Sơn Tây
là vậy.
Có một trận tan hoang hơn. Dạo ấy, trên Yên Thế ở cái chợ chân đồi mà Ngô Tất Tố
đã miêu tả trong bút ký Phiên chợ trung du ở Tạp chí Cứu Quốc có một mụ hàng
xén tản cư. Chẳng hiểu ông anh câu được bà mèo già ấy từ bao giờ. Chỉ biết rồi
mãi cái kim trong bọc cũng phải lòi ra, có người mách, một hôm bà chị đã kéo cả
đại đội binh mã con cái ra đánh ghen một trận. Mụ hàng xén bán sới đi nơi khác.
ít lâu sau, tôi hỏi: Bóng chim tăm cá ra sao, có còn gặp lại nàng Kiều không?
Nguyên Hồng nhăn nhó trả lời: Mất mẹ nó cái màn Chẳng biết người ta dọn chạy
đòn với cái màn nhà văn gửi bán hay cái màn của ông ấy đem ra mắc để đêm nằm
cho đỡ muỗi!
Vẫn chưa hết những chuyện tầm phơ. Có một quán bia hơi gần ngã sáu mà trong một
thư của Nguyễn Tuân viết cho tôi lên Lai Châu có nói đến quán bia bà cai ách vẫn
còn bữa đực bữa cái - cái tên bà cai ách cũng vẫn là chúng tôi đặt và gán cho
ông cai ách Nguyên Hồng. Bà cai ách và lại một câu chuyện gần hương gió bay đâu
cũng thây kệ. Nguyên Hồng để ý cái bà nạ dòng phì nộn ấy. Mỗi lần có xe bia về,
lão xích lô co chân đạp hai thùng bia lăn xuống hè, bác gà trống cứng cựa
Nguyên Hồng tỏ tình bằng cách lau chau ra ghé vai vác thùng bia vào, kê lên bệ
cẩn thận. Hôm khác, lão xích lô xe bia về, lót gạch đạp xe lên hè vào sát cửa.
Làm cho tình địch Nguyên Hồng mất một dịp ra tay giúp đỡ và gần gũi. Nhưng mỗi
lần bia về, Sơn Tinh xích lô và Thuỷ Tinh Nguyên Hồng khi nào cũng được bà lão
người đẹp rót cho mỗi người hai vại bia tươi đầu tiên và chúng tôi cùng được
chan hoà hưởng lây.
Một hôm, tôi mách Nguyên Hồng: Ông ạ, quán bà cai ách sắp bị đóng cửa? - Sao?
Sao? - Bà ấy bảo chúng nó đổ cho bà tằng tịu với lão xích lô, tai tiếng ầm ĩ,
nhà máy không cấp sổ đại lý cho nữa!. Nguyên Hồng cười hê hê. ối mẹ ơi nhà máy
bia ô Mền bây giờ kiêm cả công tác bảo vệ đạo đức bà phó Đoan.
ở khách sạn Bắc Kinh, sớm hôm sau, Nguyễn Văn Mãi và tôi đi Vacsava. Chia tay,
tôi hỏi Nguyễn Tuân:
- Hôm nào ông xuống nghỉ dưới bãi biển Yanta?
- Không, mình ở đây...
- Đi nghỉ cơ mà?
- Đây cũng là đến nơi nghỉ rồi? Cuối mùa thu, sắp có tuyết, xem tuyết Matxcơva
cũng hay.
Tôi chịu. Đó lại là sáng kiến tự gây hứng thú, ai mà cãi được. Khi mùa đông tới,
người Matxcơva xuống Hắc Hải tránh cái băng giá phương bắc. Nguyễn Tuân thì muốn
ở lại nơi ban đêm ba mươi độ âm để xem tuyết? Mà Nguyễn Tuân mới chỉ qua cảng
Ôđetxa, chưa đến thành phố thoáng đãng cửa biển và lịch sử Yanta trong bán đảo
Grưm lần nào. Cái kiểu nói của một người cả đời thèm đi bây giờ cũng đâm ra ngại
đi rồi.
Đến hôm tôi ở Vacsava trở lại, cả Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đều đã về Hà Nội.
Anh bạn Marik kể rằng ông Nguyên Hồng xuống Khackôp đi xem bóng đá thấy những
pha đẹp mắt, ông đứng trên khán đài huara huara loạn xạ rồi ôm đại các bà đầm
hai bên, nhẩy lên. Cô phiên dịch Galina khiếp quá phải điện về hỏi Matxcơva, cô
Ina - lại một người đàn bà khác, cũng sợ quá, lập tức bảo đưa ông ấy về ngay.
Thế là ở Matxcơva hai ông cùng nhau ngày ngày ngồi uống rượu trông ra cửa sổ
xem tuyết rơi. Hôm Nguyên Hồng về, Nguyễn Tuân cũng về theo - trước cả ngày hết
hạn nghỉ.
Tôi đến chơi nhà, Nguyễn Tuân đứng dậy mở cánh cửa chớp, rồi lấy ra một chai cô
nhắc năm sao trong đám hành lý mới về. Một chút nắng chiều đông nhợt nhạt còn rớt
lại ngoài cửa sổ, đung đưa như miếng lụa hoa cau bị xô rách. Không ai nói một
câu về mấy ngày Matxcơva vừa qua mà bỗng chốc đâu có thể quên ngay, dẫu cho
không có gì vui buồn đến gợi nhớ. Một lúc lâu, Nguyễn Tuân mới rầu rầu nói: Chẳng
ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà tớ, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản
chí của người già bạc đến hết cả lông mới nghĩ quẩn thế chăng.
Lại còn không biết sao nữa! Chẳng qua đây chỉ là lão giang hồ tự hỏi, tự hận.
Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi dần dần không đi đâu cứ quanh quẩn,
bức bối, bực dọc, dằn vặt. Trải mãi gió bụi, mái tóc càng thưa thêm. Tâm sự và
tóc. (Cao Bá Quát). Hai cẳng chân ngày càng giở chứng, làm mình làm mẩy. Ngày ở
rừng Việt Bắc, tôi đã thấy cái người hay nay đây mai đó ấy chịu khó chăm lo cho
hai chiếc bàn đạp chân cẳng mình thế nào. Chân Nguyễn Tuân đã lôi thôi từ những
khi ấy. Cái đận ở rừng Thường Yên âm u ẩm ướt, vào tiết đổi mùa, nhiều khi phải
nằm bệnh suốt phiên chợ. Cả buổi cháu Trần Mai Thiên lụi hụi ngồi xổm trên cái
giát tre bóp chân cho bác Nguyễn. Đi đâu, lúc nào Nguyễn cũng trữ miếng cao hổ
bọc giấy bản trong ba lô. Cả ngày lội suối, cảm thấy trục trặc, đêm lại ngậm
tươi một miếng cao. Không biết chừng, người ấy đã nuốt xương cốt đến cả mấy chục
chú hổ Lai Châu, hổ Xiêm, hổ Lào?
Sức khoẻ dần dà xuống dốc tự nhiên, như nhiệt độ hàng ngày và dự báo mưa nắng.
Cái xe đạp mất cắp ở cạnh cửa khách sạn Thống Nhất thế rồi bỏ đi xe đạp. Vài đoạn
đường bách bộ với chiếc gậy song Sa pa, hay là một cuốc xích lô. Nhưng cuộc
chia tay của Nguyễn với cái máy chữ Baby thì thương và nhiều nghĩ ngợi hơn.
Cái năm mới trở về Hà Nội, Nguyễn Tuân có dịp cùng đoàn đại biểu hoà bình Việt
Nam đi Hen sanh ky dự đại hội hoà bình thế giới. Hoà thượng, linh mục, nhân sĩ,
trí thức, đại biểu công nhân, nông dân, chiến sĩ quân đội, thanh niên, phụ nữ...
Chẳng thích thú gì đoàn, chưa chắc đã nhìn mặt những người cùng đi, nhưng có cơ
hội được tới nước Phần Lan trên mỏm bắc bán cầu. Rồi lại một chuyến đi xa nào đấy,
Nguyễn Tuân sắm cái máy Baby xách tay dấu quốc ngữ. Hay là mua máy ở chợ giời
tôi không biết. Bởi vì mỗi khi đổi vạc thì bộ mặt thời cuộc thành phố này lại
phơi bày đủ thứ ngoài chợ giời. Những đĩa hát của Mộng Hoàn, của Chu Thị Năm
năm xưa cũng là những chứng sống của thời thế mà ông đã nhặt ở chợ giời. Tôi thực
không biết gốc gác cái máy chữ Baby ấy - vỏ rách một góc vải, nhưng những con
chữ còn mới cạnh sắc.
Tháng ngày qua, con người ở vào tuổi triền núi bên này, cứ sớm tối như chiêm
bao. Lại nữa, cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm
đủ miếng ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần. Hữu thân hữu khổ phàn
nàn cùng ai, khác nào người sơn tràng cả đời thừng chão, rìu búa đi kiếm củi rừng
đến khi về già leo dốc thở ra cả hai tai mà vẫn ao ước và tưởng tượng trèo lên
lưng cây, mạng sườn quấn chão, lưỡi rìu khoác vai. Nhưng chẳng còn một hột sức
ôm nổi cái gốc cây. Thì lại thở dài nhìn cái đứa mạnh chân khoẻ tay hơn.
Môi người viết có một thói quen khác nhau.
Nguyễn Tuân thì cả đời chữ nghĩa và xung quanh người bái phục, người điếu đóm,
người bắt chước cái ăn, cái mặc và hóng chuyện để đồn thổi. Tiểu thuyết Bốc đồng
của Đỗ Đức Thu ngày trước đã vẽ ra được những nho lại làng văn và những khỉ bắt
chước người như ở trên. Chẳng cứ chỉ có xưa kia, mà về sau này cũng tương tự thế.
Người ta châu tuần và chầu rìa quanh Nguyễn Tuân, đợi được sai bảo, được đi
chơi với, uống với. Năm cũ ông Văn - tên nhân vật trong tiểu thuyết Bốc đồng mà
bạn đọc có người đoán là Mạnh Phú Tư, ông bán cả ruộng hương hoả, ném vào các
cuộc chơi, lăn lóc đến phát bệnh sốt rét vì liên miên thức trắng đêm ở nhà hát.
Thế mà các cụ vẫn mạnh khoẻ, lại gật gù: Các cụ cho là được! Ông lang Hà Văn Thực
phố hàng Cót đánh đu với tinh cũng mở nhà xuất bản Lượm lúa vàng rồi nghiện bẹp
hai tai vỡ nợ tan cả hiệu thuốc bắc gia truyền. Ông Lê Trọng Quỹ giọng trầm não
ruột, không biết có phải vì nhờ hơi thuốc phiện làm cho tiếng khàn khàn mà ngâm
thơ buồn đến thế, rồi ốm phải phát mại cả cái cửa hàng sắt vụn. Ông Lê Đức tập
tọng viết văn về nhà cầm đoạn mại ruộng đem nắm tiền ra, theo gót đàn anh, chỉ
học được mỗi cái trò giắt trong cạp quần lá tọa một cái tẩu thuốc, chiếc ấm mạnh
thần với cái chén hạt mít để theo đòi trà đạo. Có người cũng mặc áo gấm trần,
chít khăn lượt đi giày Gia Định, tay cầm quạt thước - như Nguyễn. Cả những năm
sau này Nguyễn đã cao niên mà cũng chẳng thiếu ông làm dáng theo. Có ông hoạ sĩ
chải ngược tóc như Nguyễn, đến lúc ông Nguyễn xoã mớ tóc bạc phơ sau gáy, cũng
lại lắm ông xoã tóc, như Nguyễn. Ông Nguyễn Tuân rởm ấy đi nước ngoài, lên máy
bay, mặc sơ mi ngắn tay kẻ ca rô, tay chống ba toong nghênh ngáo nhìn xem người
ta có nhìn mình như nhìn ông Nguyễn không.
Cũng là cảnh thảm với nhau mà thôi. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng chuyện về những
người bắt chước dở hơi ấy. Hay gọi một cách kính trọng, những người rồ chữ, chữ
thật và chữ giả. Ông anh con nhà báo trong quê ra, hỏi tôi: Này chú, cái lão
Xuân Diệu thế nào ấy nhỉ?. Chả là anh tôi làm chủ nhiệm hợp tác xã mà hôm trước
nhà thơ Xuân Diệu về huyện nói chuyện thơ, các chủ nhiệm được lên dự. Nhà thơ
nói về Kiều. Ai cũng xuýt xoa ông nói hay quá. Nhưng người ta buồn cười vì thấy
ông nhà thơ cứ chốc chốc lại đổi chỗ lọ hoa, bê cái đèn nơi này sang nơi kia vẫn
chỉ ở trên bàn. Thỉnh thoảng lại quát người nghe: Vỗ tay đi chứ. Tôi lao động
thì đồng bào phải vỗ tay khuyến khích tôi lao động. Vỗ tay nào? Tôi nói: Anh
Xuân Diệu nói chuyện giỏi lắm, thế là nói theo mốt Tây đấy, bác ạ. Anh tôi cười:
Cũng là rồ chữ, rồ chữ, chú ạ. ừ, rồ chữ cũng có nghĩa đẹp là hay chữ, hay chữ
quá hoá rồ. Có ông già nửa đêm thức dậy, ngồi nói từng tràng tiếng Tây một
mình. Có ông dạy đàn xưa kia giàu có rồi cái trường nhạc của ông phải đưa vào
quốc doanh, bô Duyệt mới chơi trống bỏi lấy một nàng nửa chừng xuân. Bây giờ
thì ông trắng tay, nhưng dẫu cơm trộn mì, ông cũng dọn lên bàn, cầm thìa dĩa
thái, cắt rau muống luộc, và húp bát súp nước rau, cay đắng gậm nhấm sự hoài cổ.
Một nhà văn nọ sắm mấy bộ thìa dĩa cho cả nhà. Ông ấy mơ màng, ngỡ kháng chiến
thành công rồi thì đốt được giai đoạn ăn cơm đổi đầu đũa và lấy đũa chùi ngang
mép thay khăn mặt, bây giờ hứng phấn sắp bước sang thời nếp sống ngồi bàn thìa
dĩa cầm như Tây thì phải sắm đồ Tây.
Nguyễn Tuân tủm tỉm:
- Thì cười ngay tao đây chứ còn phải cười thằng nào. Tao qua Bắc Kinh, gặp Tào
Ngu. Tào Ngu vỗ lưng tao, - nói tiếng Pháp: Các toa có tự do, thật sung sướng.
Moa thèm đi Hà Nội. Chuyến ấy Nguyễn Tuân ở khách sạn với vợ chồng Vercors
đương thăm Trung Quốc. Đã ngỡ rồi ra quảng cáo những cảnh tưng bừng, sách của
ta bày bán bát ngát trong nước ngoài nước. Hàng năm xách vali đi du lịch bằng
tiền túi. Phải có thư ký riêng chứ - thuê một cô hay là luyện cho con gái mình
làm thư ký. Nhưng trước mắt ngay lúc ấy thì vẫn túi lép kẹp, đến Bắc Kinh thăm
chợ Đông An, hai tay đút túi, đứng chỉ xem hàng và cố đi nhìn cái hiệu Thôi Tụ
Đức thịt quay Bắc Kinh tiếng tăm lừng lẫy thế giới cho biết mặt, chứ làm sao bước
chân vào được. Mà mỗi khi ở sân bay Gia Lâm về qua cầu Long Biên, ra ngã sáu dốc
hàng Kèn làm cuộc tẩy trần bát cháo gà lão Chữ cũng phải nhẩm xem trong túi có
bao nhiêu. Mới nhớ ra cái vé máy bay, cái tiền ăn và tiền tiêu vặt hàng ngày là
của người ta cho, chẳng phải đồng nào của nước mình, của mình. Có ra gì mà
vênh? Dần dần đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn!
Nói thế chứ, đồng tiền phân bạc, Nguyễn Tuân áo rách cũng vẫn đượm màu phong
lưu, tiền thì cứ tiêu và chỉ tính thôi chứ không đếm. Nguyễn Tuân, một người ý
tứ, trân trọng, thận trọng, khéo thu xếp. Giựt nóng tiền của ai để ra bà hàng
hoa quen ở ngã tư Tràng Tiền mua bốn bông hồng vàng lòng trứng đưa đến bữa ăn
sinh nhật nhà bà nhạc sĩ nọ. Chỗ này dọn dẹp sang chỗ kia, làm cho những người
mình nhờ cậy, những người mình biếu tặng cứ tự nhiên nghĩ mà phải bằng lòng phải
cảm kích. Tài nghệ lắm mới sáng tạo, mới tính ra được những khu xử tế nhị đến
thế.
Nguyễn Tuân bảo:
- Lại nói nốt chuyện hôm nọ.
- Chuyện gì?
- Chuyện ta mộng thành nhà văn cỡ quốc tế ấy mà.
Nguyễn Tuân kéo trong gầm giá sách ra cái hộp nhựa giả da nâu đã sờn góc. Chiếc
máy chữ Baby xách tay mọi khi tôi vẫn trông thấy đặt dựng hộp máy trên gờ thềm
gạch giữa buồng.
- Hôm nọ đã nói đấy, tớ cũng tô hồng và ảo tưởng đáng chửi chẳng khác cái thằng
sắm thìa dĩa để sắp sửa vứt đũa, chỉ chén cơm tây. Chiếc máy chữ này, cứ nhìn đến
mà sượng cả mặt. Máy chữ để cô thư ký tưởng tượng đánh máy bản thảo hão huyền.
Ông xách nó đi cho tôi. Tôi không gán nợ ông đâu nhé. Dưng mà ông mang đi đâu
thì mang. Cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải đem ra đập nó mất. Mang đi,
mang đi giúp tôi. Đả tự khí! Đả tự khí? Thời các cụ ta gọi máy chữ là cái đả tự
khí. Bớ tổng binh Tô Hoài, nhà ngươi hãy mau mau đem trôi sông cái đả tự khí
Baby đi cho trẫm. Ha ha? Trẫm ngứa mắt lắm rồi.
Mặt Nguyễn Tuân đỏ găng. Vua đương ra vai đập cái nậm rượu gỗ, cả rạp cười ngoặt
nghẽo, nhưng người đóng vai thì bụng lép và vợ ốm nằm nhà. Tôi không muốn điều
mai mỉa này làm rầu lòng thêm Nguyễn Tuân. Tôi lây cái sợ. Tôi lặng lẽ xách cái
máy chữ Baby chặt ních mơ ước một thời, tôi bước giật lùi ra cửa. Không biết
còn có những ai đem đi giùm anh đôi giày đẹp, những bộ quần áo nhã nhặn mùa
thu, mùa đông, mấy chiếc bút máy Sapphơ cho nó tiêu tan xoá sạch giấu mộng kê
vàng nhà văn thắt cà vạt đỏ đi du lịch năm châu - như cái câu ghen tức vu vơ của
cậu Hoàng Huế cầm bút hồi 1956 đã viết trên tập san Đất mới mỉa Nguyễn Tuân như
thế. Cái máy chữ ấy tôi không biết dùng. Dẫu cho bây giờ người cầm bút trên thế
giới ít người viết tay, những nhà sáng tác ở Sinaia, ở Yanta, ở Pitsunda, đêm
máy chữ mưa rào rào. Nhà văn Colombia, Gabrien Gaccia Mackêt, năm 1989, đã viết
cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông bằng máy chữ điện tử, người nói vào máy, chữ
tức khắc hiện lên. Mackêt trả lời một nhà báo phỏng vấn: nếu chiếc máy thần diệu
này xuất hiện sớm, chắc chắn số tác phẩm của tôi còn nhiều gấp mấy lần. Mackêt
năm trước đã tới Hà Nội. Tất nhiên, ông ngao du bằng tiền túi của ông. Ông đi
chơi với vợ và con trai, vào Sài Gòn qua đường Băng Cốc rồi ra Hà Nội. Nguyễn
Văn Bổng và tôi đã đến đánh chén với gia đình Mackêt trên gác nhà khách chính
phủ gần hồ Gươm. Hai con trai Mackêt, một đứa học ở Paris, một đứa ở Nữu ước.
Tôi đưa cậu bé học ở Paris đến nơi ở đoàn ca múa Hà Nội phố Hàng Quạt mua cái
sáo trúc. Đêm xem biểu diễn, cậu ta mê cây sáo Việt Nam. Makêt nói ông có thể
biếu ta một tàu chở giấy để in tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Chỉ có một yêu cầu:
không được cắt đoạn nào. Liên Xô đã xuất bản Trăm nam cô đơn, tự ý bỏ một số
trang. Mackêt không thèm đến Matxcơva nhận bản quyền, mặc dầu nhà xuất bản đã mời
tác giả nhiều lần.
Những chuyện trời đất huy hoàng đâu đâu của người ta, còn chúng tôi vẫn kỳ thu,
cặm cụi với cái bút máy, bút bi, bút chì. Nguyễn Tuân dùng bút dạ. Đã lâu, cũng
chỉ thấy viết những đầu đề bài to thô lố lên đầu trang giấy rỗng ruột cặp vào tấm
bảng nghiêng như cái giá vẽ - thỉnh thoảng lại thay cái đầu đề mới, không có được
hàng chữ nào ở dưới.
Tôi bán cái Baby cho ông Quí đánh máy ở cơ quan, được hai trăm - đồng tiền thật
là phấp phỏng khi bom đạn đương trút xuống thành phố. Cũng không biết đắt hay rẻ,
chỉ thấy ông lão công nhân đả tự khí ấy cũng thờ ơ, ông bảo chẳng cần cái máy
nhỏ này, tôi bán thì ông mua vậy. Năm ấy, không còn quán Tiểu Lạc viên. Ông
cháo gà giải phóng quân cũng bỏ cao lâu Tứ Kỳ ra bán hàng vỉa hè, rồi chắc hàng
họ ế ẩm, lại sang làm cho quốc doanh Mỹ Kinh, rồi biến đi đâu mất. Bôđêga, Phú
Gia, món ăn uống và gia vị loạc choạc. Chim quay chấm nước mắm dấm và nhà hàng
chỉ có rượu chanh. Chả cá Sơn Hải đóng cửa đã lâu rồi, Lã Vọng cũng nghỉ hết.
Hàng ăn Nguyên Sinh của nhà mậu bán chả cá theo xuất mỗi xuất kèm một chiếc
bánh đa, một đĩa bún rối. Có miếng chả nhằn được cả xương. ế chỏng gọng không
có khách. Dưới ngã sáu cũng không còn ai - lão 81 đã về âm phủ làm bồi cho khâm
sứ Grapphơi, ông cháo gà Chữ đau lưng cũng ra tha ma đã lâu. Các quán ăn Tàu chỉ
còn lại lão Sáng nhị mũi. Ông Sáng không phải nhà bàn, nhà bếp, không nghề gì,
nhưng được mẽ người mỡ màng. Cứ đeo tạp dề lướn phướn từ bếp ra chỗ để xe đạp,
rồi lại quay vào, nói ề à mấy câu nhị mũi, giọng nhà bàn nhà bếp Quảng Đông hô
món đối đáp như hát. Thế là khách có cảm tưởng vào cao lâu Tàu.
Sáng nhị mũi mở quán riêng, vẫn quanh quẩn ở Hàng Giầy. Nhưng phố xá tàn tạ, đường
đá lổn nhổn, phơi ra những cái ngõ rác rưởi, nhà đóng cửa im ỉm. Quán hàng như
ngọn đèn leo lét. Nhà mậu bán phân phối từng thanh củi và mỗi chục lá dong gói
bánh chưng Tết. Ba mươi Tết, quầy chợ Hôm bán chân giò còn nguyên cả lông.
Nguyễn Tuân hỏi tôi:
- Mày làm thịt được cái Baby rồi à?
Thì ra ông Quí đánh máy đã khoe với Nguyễn Tuân ông mới mua cái máy chữ của
tôi. Tôi cười, không đáp. Chắc Nguyễn cũng chẳng cần tôi trả lời ăn thịt cái
máy chữ, chúng tôi đến quán Sáng nhị mũi, hảo, hảo à...
Những chuyến đi vất vả, con sư tử già đã rụng cả răng rồi. Lần ấy ở Sài Gòn ra,
Nguyễn Tuân xuống ga Nội Bài, bên nách chống nạng. Bệnh tê thấp kinh niên đã vật
Nguyễn cả tháng ngay ở cái thành phố cao ráo mà xưa kia cũng như bây giờ, những
người phong lưu ở miền Bắc ưa thay đổi nơi ở ít lâu thường vào đấy để tránh bệnh
hen, bệnh tê thấp hay hành hạ người ta vào mùa đông ẩm ướt. Sở thương binh Sài
Gòn đã biếu nhà văn chiếc nạng đỡ bên chân đau. Về Hà Nội rồi còn phải nằm bệnh
viện suốt mấy tháng.
Hồi 1954 mới trở lại thành phố, nhà Nguyễn Tuân ngụ tạm trên đường Hàng Lọng,
ít lâu rồi thuê được hai buồng trên gác hai cạnh bệnh viện Đặng Vũ Lạc cũ. Cứ ở
đấy tới bây giờ, trên ba mươi năm đã qua. Vùng ấy quanh ga Hàng Cỏ, cuối thế kỷ
trước còn là bãi Quần Ngựa giữa cánh ruộng nước. Rồi những nhà có của cất dần
lên cả khu phố cho thuê. Chủ hiệu vàng Chấn Hưng Nhà Đỏ Hàng Bạc có nhà cả ngõ,
đặt tên là ngõ Tân Hưng. Cái dinh thự đồ sộ mà nhà Nguyễn Tuân thuê hai buồng ở
sâu có đường dẫn qua cổng sắt, ngày xưa, chắc cũng là lối vào ra của xe song
mã, xe nhà, xe ô-tô. Toà nhà ấy, các chủ thừa kế chuyển đến điền chủ Phỏng ở
Thái Bình thì đem cho thuê từng buồng. Mấy năm đầu, bà Hoàng Yến vợ Hoàng Cầm
còn đến thu tiền nhà hàng tháng. Rồi sở nhà đất quản lý, nhà đông dần thành một
cái xóm nhỏ trong một số nhà chật chội, bưng bít, ngổn ngang.
Hai bên tường bị cơi lấn, chỉ còn một lối đi ngóc ngách. Cái thang gỗ vươn lên
tầng hai buồng bác Nguyễn màu lim đã lên nước tối sầm mắt. Tủ sách, giá sách và
dãy chai lọ rỗng nhãn các loại rượu nước ngoài - lại cả một tranh áp phích Ba
Lan vẽ chai rượu to tướng, có thằng người bơi trong chai. Bầy cho vui mắt, tất
cả mọi đồ lề hồ như tàn tật, buồn bã, mệt mỏi. Dạo ấy, điện hay bị tắt tự dưng
thình lình có khi mất điện chốc lát, có khi cả đêm, cả ngày. Chiếc quạt nan,
cái đèn hoa kỳ đặt trong vỏ hộp bia lon và cây nến đỏ cũng thành những trang
trí bên chiếc mâm đồng cỗ bát bằng vỏ đạn cao xạ xin được ở một trận địa pháo
ngoài Bờ Sông đã đem nhờ lò đồng Ngũ Xã đúc thành cái mâm. Cũng chẳng có của nả
nào quý. Nguyễn Tuân không mê đồ cổ. Các thứ bày biện chỉ để cung đốn cho cái
thích vật dụng và kỷ niệm. Trên tường, bên tờ áp phích Ba Lan có áp phích của
Cu Ba kỷ niệm sáu trăm năm Nguyễn Trãi. Những cái tranh, mẩu tin cắt ở báo ra
thay đổi theo lịch hàng tuần bên đoá hoa hồng vàng lòng trứng mua ở hàng hoa
ngã tư Tràng Tiền. Có khi, một nhánh lan địa tim tím thơm ngát cắt ở chậu cảnh
nhà Kim Lân. Và Tết đến, có một cành đào phai, dáng thế kỳ dị với quả phật thủ
của Phạm Văn Khoa, có khi là quả bòng trong Canh tôi mua ở chợ Bưởi. Con chó đá
và cái tượng gỗ canh cửa chúng sinh không biết lôi ở đình chùa hay nhà địa chủ
nào về. Một ống đựng cả chục chiếc ba toong, gậy song, chiếc sơn then cán bạc,
chiếc gậy lụi. Ngoài hàng hiên, lủng củng dãy vỏ chai sâm banh, bia hộp, vang
dâu dưới bóng dây thiên lý leo trên lan can. Những thức bị đày ải ngoài trời ấy
sắp đem tống xuống quang gánh bà đồng nát, mà bây giờ là ai chai lọ, giấy báo
cũ ơ... Riêng chiếc gối sành trắng nhễ nhại to bằng hòn gạch vồ rỗng ruột vẫn đứng
giữa trời nắng trời mưa bên song sắt. Cái gối trong tiệm thuốc phiện ở Chợ Cũ,
đã khuân trong Sài Gòn ra. Rải rác, trên tường, trên giá sách, hòn cuội, hòn đá
lăn lóc mà mỗi chuyến đi bể đi núi về tôi hay đem cho Nguyễn Tuân với những ký
họa giấy và sơn dầu, sơn mài, ảnh và tượng đầu Nguyễn Tuân của Nguyễn Sáng, Bùi
Xuân Phái, Sĩ Ngọc, Thành Chương, Hoàng Kim Đáng.
Nếu mất trộm, chỉ có một chiếc đài Liên Xô con con đặt đầu giường may ra còn
bán được tiền. Nhưng cái đài cũng đã lão lắm, mấy lần Nguyễn Tuân nhờ tôi,
nhưng bên Matxcơva cũng không còn đâu bán phụ tùng thay thế loại đài cổ ấy. Chủ
nhân hàng ngày mở đài linh tinh các mục. Cho phòng có tiếng người, đỡ vắng. Chiếc
mâm vuông gỗ sơn then Sĩ Ngọc mài, làm bàn nước, bàn ăn, bàn viết, bàn khách, với
mấy cái ghế mây thấp người Thái ngồi bếp ở Lai Châu, chẳng biết nhặt nhạnh được
ở những đâu.
Hôm ấy se se lạnh, từng làn gió nửa dải đồng, nửa heo may rạt rào vào đầu tường.
Có cái gió hiu hiu này, ở ngoài đồng chắc thơm đầy mùi lúa cốm đương gặt. Những
ngày vào thu ngắn ngủi đáng yêu. Nguyễn Tuân khép cửa. Cồn 90 trong lọ được đổ
ra chiếc đĩa nhôm. Giữa lưỡi lửa xanh rờn, con mực Bắc Hải nâu nhạt mỏng manh
như cái lá đề ưỡn dần lên. Nguyễn Tuân cầm chiếc kẹp bông băng lật con mực đã
xém cạnh. Và tần ngần, như nói một mình: Cái gió này giục, người ta bồn chồn lắm.
Nhưng mà với mình ấy à? Bây giờ thì Sài Gòn cũng xa lắm rồi. Thất tiểu muội Mộng
Tuyết có thư ra bàn triết tự về nét mác đuôi chữ Nguyên ký vòng lên gông cả chữ
Nguyễn vào trong, Nguyễn ngồi tù trong cái gông ấy thì còn đi đâu được. Nguyễn
Tuân cười buồn, đến không muốn trả lời người xem bói triết tự cho mình bởi vì
thực thì cũng chẳng còn nghĩ đến bay nhảy. Đôi khi mới ra khỏi phòng, chiếc gậy
đưa bước chân thong thả trên quãng phố vắng, rồi nhức mỏi và buồn tình vẫy một
cái xế lô trở về.
ở nhà Nguyễn Văn Bổng, một bạn bộ đội mời chúng tôi vào Thủ Đức xem phong lan,
vườn của bạn ấy nhiều lan lạ và hiếm chỉ có trên núi cao vùng á nhiệt đới. Nguyễn
Văn Bổng, Kim Lân và tôi sốt sắng. Nguyễn Tuân gật gù: cho mình củng cố cái
chân đã rồi bảo tôi: Này ông hoả tốc hỏi Lai Châu cho tôi xem thế nào. Trên Mường
Tè còn hổ, may ra có của thật. Chứ cái cao Thái Lan, trông nó vuông vắn mượt mà
quá, nuốt cả lạng chẳng ăn thua. Không biết cao giả hay mình đã nhàm thuốc quá.
Rồi chuyến đi vào Sài Gòn xem phong lan á nhiệt đới cũng chẳng bao giờ có.
Binh đoàn 559 tổ chức Nguyễn Văn Bổng và tôi đi dọc một chuyến Trường Sơn. Một
chiếc xe, một cán bộ đơn vị tháp tùng. Bắt vào đường Hồ Chí Minh từ Đông Hà lên
Khe Sanh, đến đoạn đường Cuba làm khi mở đầu chiến dịch, rồi cả tháng ruổi qua
A Sầu, A Lưới sang huyện Giàng bên Quảng Nam, dọc các tỉnh Tây Nguyên, bám vết
đường 13 cũ xuống Sài Gòn. Dọc đường, lắm hôm chúng tôi ước:
- Giá mà có Nguyễn đi chuyến này?
Nghĩ thế thôi, nhưng cả trước khi đi cũng không dám đến chào ông anh. Có lẽ rồi
Nguyễn Tuân cũng biết, bởi chúng tôi vắng mặt lâu. Nhưng ai cũng ngại không dám
đụng đến tâm trạng của một người thèm đi, mà không đi được mà lại thấy người ta
cứ đi. Có Nguyễn Tuân, lắm khi khốn khó vì những sáng kiến dềnh dàng bất thường,
nhưng mà chỉ trơ trọi hai thằng nhạt nhẽo thì bỗng dưng thấy trống rỗng hàng
ngày quá. Cái tài Nguyễn Tuân chọn chữ, chọn cảnh, chọn chơi cũng như mỗi khi
trong tẻ nhạt thông thường, Nguyễn Tuân bỗng thấy ra những chi tiết đậm đà hẳn.
Có lần, tôi lên vùng rừng quế ở Viễn Sơn trên Yên Bái, bên kia sông Hồng. Khi
trở ra qua Đại Phác và Đại Bục rồi lên Phố Ràng - những nơi chúng tôi đã dự những
trận đánh đồn trong chiến dịch Sông Thao 1949. Nếu Nguyễn Tuân cùng đi, thế nào
cũng dừng đại Mậu A tạt vào đền Đông Cuông để nhớ chặp tối ấy, cái lần gặp Két
trung đội trưởng trinh sát. Kìa cái đồi chúng tôi trú quân với hai thằng Tây địch
vận, giữa tiếng súng nổ ran bụi tre trên đầu và cái đồn Đại Bục chặp tối cháy đỏ
lòm Nguyễn Tuân đứng thúc trống ở quãng sân đồn phía nào, cái lô cốt đã xảy ra
trận đánh khốc liệt cuối cùng có còn dấu vết gì không. Rồi ngược sông Chảy, có
còn cái nhà ông chánh Khít dưới chân Phố Ràng. Tôi thì tôi chỉ ngồi yên nhớ lại,
giá mà Nguyễn Tuân cùng đi thế nào cũng đủng đỉnh tìm xem và ngâm ngợi một cái
gì. Giá mà...
Tôi chỉ ngồi nghỉ chân ở cửa hàng bách hoá trông vào đồi Đại Bục. Trong lòng
cũng xốn xang nhớ lại, nhưng không đủ kiên nhẫn và cố gắng tìm tòi, lục lọi
theo thói quen chịu khó như Nguyễn Tuân. Tôi thờ ơ nhìn lên dãy đồi trọc trồng
sắn và những ruộng nước bao quanh. Cũng định kể với hai cô người Tày bán hàng rằng:
Các cháu ơi! Ngày trước tôi đã trèo lên đồi kia, bộ đội ta ở bên đồi này bắn
sang cháy cái đồn đại Bục. Nhưng lại rụt rè. Bấy giờ cha mẹ chưa sinh ra các cô
thì các cô có thể cũng chẳng biết là thế nào. La cà hàng quán, ngồi tán tưởng
tượng những chuyến phương trời. Bây giờ thì con người ấy phải bước ra ngoài mọi
cuộc rồi. Nguyễn Tuân lặng lẽ giơ cốc: Thôi nhé, chúc cất cánh hạ cánh bình
yên. Có khi chẳng nói chẳng rằng, lầm lì uống một hớp rượu rồi lại ngửa cổ bỏ
vào miệng viên thuốc trợ tim. Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng, hai người đã chăm sóc
về bệnh tật của mình một cách hoang dại, tợn tạo như thế. Nguyên Hồng không làm
sổ khám bệnh ở bệnh viện. Ê ẩm xương cốt thì đấm lưng và chửi: Chúng mày đồ ăn
hại mới hay đi khám bệnh, chứ ông thì... Ông... Bây giờ, Nguyễn Tuân thêm chứng
thấp khớp kinh niên lôi thôi đến tim, phải khám định kỳ và uống thuốc phòng.
Nguyễn Tuân đã uống thuốc phòng khi nâng chén. Hẳn cho là thuốc trợ tim vào
cùng lúc nạp cồn có chất ấm áp thì cản được bệnh? Khi vui chén, Nguyễn Tuân hay
chửi yêu tôi: Mày đi lắm, mày đi thật còn tao chỉ được mang tiếng là đi thôi. Vừa
nói đùa xong lại trầm ngâm buồn, buồn nhiều. Một đời viết được tuyển vào có hai
quyển, nhìn sách mà chẳng nói nên lời. Cho sách tôi, cái câu đề cho đúng như
tôi muốn, nhưng cũng chẳng còn biết ý tứ thế nào. Anh không thích sách xén sẵn,
nhận bản xồm xoàm mà rọc lấy vậy. Đi đâu, đã không còn bay nhẩy được, giờ đây
thêm cái day dứt, cái bực bội của con người ngày ngày quanh quẩn mở đóng cửa sổ.
Tôi được Nguyễn Tuân gửi cho một chai hảo hạng Giôn Uackơ, đằng một lít, bọc giấy
báo cẩn thận. Của hiếm này, hãn hữu mới kiếm được mà có thì Nguyễn Tuân thường
chỉ cho nhấp một hai chén. Cái ngon phải chia, còn phần người khác, tôi biết thế
và giữ ngữ thế, ít khi dám nài thêm. Tôi uống phí rượu, thường hai ba chén sau
cùng Nguyễn Tuân mới để cho tôi. Trong khi ấy, Nguyễn Tuân cầm cái cốc một góc
quốc lủi với lát chanh cả vỏ và miếng dá, một thứ cốc tay tự pha. Nguyễn Tuân uống
rượu nội hoá để cho khách và nhìn khách sài sang, có vẻ thích thú hẳn hoi. Làm
thế nào, chủ rượu nhường cho cái thơm tho ấy cơ mà. Ôi chao, bần bách ngụm rượu
đến phải tính đếm đong từng chén mắt trâu, nhưng vẫn một cung cách riêng. Nguyễn
Tuân uống rượu kiểu các cụ ta xưa. Mỗi bữa thanh cảnh ba đôi chén, hiếm khi mềm
môi và không nát. Rượu ngon mua có thổ, không rượu chợ, không đụng đến các thứ
lăng nhăng cái chanh, cái dâu, vang mơ, vang mận. Cả đến sa kê Nhật vị ngọt,
Mao Đài có hơi rượu khê cũng không ưa. Những chén khuya, với miếng cơm nắm, muối
vừng cũng là cái thú riêng.
Tôi hỏi:
- Ông anh phát tài phát lộc thế nào mà thưởng cho em cả cái hũ chưa bóc tem thế
này?
Nguyễn Tuân rót cho tôi một cốc rượu ở chai khác đương dùng dở. Trang trọng, lịch
sự, thong thả, lần này Nguyễn Tuân cũng uống rượu quý, mà không ngồi ngắm người
khác xơi rượu ngon của mình như mọi khi.
Nguyễn Tuân gật gù:
- ở Paris, người ta mời tôi sang chơi.
- Thằng Buđa dạy ở Pari 7 nhỉ?
- Người ta bảo sang giảng cho ít buổi. Không, thằng Buđa kiết xác ở độc thân,
có gì mà mời? Nhà Việt Nam của Việt kiều có nhã ý.
- ờ đi đi chứ ông!
Nguyễn Tuân thong thả lắc đầu.
- Không, không đi. Mình muốn sòng phẳng, đằng nào rõ đằng ấy. Đi chơi hay đi
làm việc. Người ta có nói riêng: làm việc chỉ là cái cớ mà mời ông đi chơi là
chính. Làm việc khác đi chơi chứ sao lại có cái cớ được.
- Thế thì thế nào?
- Trả lời không đi rồi..
- Bởi thế, có ngụm rượu uống. Đáng lẽ người ta đặt mua vé ở đại lý hàng không
Pháp chỗ góc đường Tràng Thi, thì tôi bảo đặt mua cho tôi ở cửa hàng bách hoá
quốc tế Giảng Võ. Và cái vé thành những cái của này. Nào ông, mời ông...
Hơi men hôm ấy đưa chúng tôi vào bao nhiêu chuyện đường trường. Không hiểu tại
sao bay đường xa máy bay lại hay cất cánh hạ cánh đêm. Những canh khuya, những
mờ sáng, xuống Matxcơva, đến Batđa, Đamat, đến Bâyrut... Chín giờ tối từ Tân Đê
li ra sân bay Pa lam. Ô-tô đương chạy, một cái chai không của thằng say nào
choang vào thành xe, vỡ tan. ở ấn-độ, quốc lễ không uống rượu. Tôi đã nghiệm,
đâu mà cấm, người ta uống chui càng khá lắm. Mỗi buổi sáng, một ông nhà buồng
ria vểnh đến dọn dẹp. Tôi rót một cốc to vôtca. Ông ấn-độ ấy vén ria làm hai
hơi xong cả cốc rồi lấy đi túi quần áo giặt. Thế mà như không, bên thắt lưng
đeo chùm chìa khoá, mở đóng ý tứ, không lẫn cửa nào. Tôi kể với Nguyễn Tuân
trên trời Đà Nẵng có những lỗ hổng không khí, tôi đã bì hẫng xuống một lần như
tụt thang máy, chuyến đi Campuchia năm 1962.
Lời từ chối và câu cắt nghĩa không đi Paris của Nguyễn Tuân không thể bao giờ đầy
đủ. Cái tâm sự nát lòng người ta thì không một lời chữ nào thổ lộ và giãi bày
cho hết được. Hai cái chân đã rỗng cả ống của con người vốn khoẻ đi ấy gây cái
khó vô cùng cho sự đi, xoá mờ cả tấm tình sông hồ rồi.
Tháng bảy, tôi ra Cát Bà. Tôi vẫn có ao ước được đến vùng đảo khác lạ này chỉ
cách Hải Phòng có nửa buổi tàu ven biển mà chưa khi nào tôi được đặt chân tới.
Người bản địa bảo đi mùa thu ra Cát Bà sẽ được ngắm cá heo, hàng trăm con cá
heo đùa rỡn theo tàu.
Nắng gắt, thành phố oi nóng ngột ngạt. Tôi đến chào khoe với Nguyễn Tuân một
chuyến đi còm, nhưng thú vị. Cuối buổi sáng, xách xâu bánh giò, khoanh giò bò
mua ở quán quen bên kìa đường trước nhà. Cũng như ai và đã thành lệ, phải đoản
đình, trường đình một cái chơi chứ. Cụ bà bảo tôi ngồi đợi đấy, có muốn uống
thì cứ lấy mà uống, cụ ông đi bách bộ quanh đây, chắc cũng sắp về. Một lát,
nghe ba toong chọc chọc lên thang gác. Cái gậy song Sa pa vàng cánh gián, tiếng
gậy chống xuống mặt gỗ nghe lưa thưa rời rạc. Đoán được bước chân khó nhọc, nặng
nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt bơ phờ tía tím, không phải mặt rượu đỏ hồng.
Nhưng cất gậy vào ống, ngăn nắp vẫn đâu vào đấy. Nguyễn Tuân ngồi xuống tấm phản
lim.
- Mới đến à? Có việc gì không?
Tinh ý thì biết là câu hỏi của người ngại khách. Muốn đuổi bời đương mệt, đương
khó chịu. Còn việc gì nữa. Đến đây chỉ có việc chơi chứ việc gì. Tôi ngần ngừ rồi
nói:
- Không, nhung nhăng thôi.
Nguyễn Tuân ngả lưng, hai tay buông xuống mặt phản.
- Lấy mà uống. Chai nút đỏ ở phía ngoài, cái ấy đậm lắm. Mình phải nghỉ một lát
đã.
Rồi Nguyễn Tuân khép mắt. Ngẩn ngơ nhìn quanh rồi tôi lặng lẽ ra về, khi Nguyễn
Tuân đương nằm thiêm thiếp. Tôi không dám nói tôi sắp đi Cát Bà.
Cuối phố Cát Bà cũ - bây giờ còn trơ những tảng đá, đám cọc nhà sàn lửng, bên bờ
trông ra vịnh. Nhà trọ Chùa Đông trước kia là cái sòng bạc cạnh chùa Đông, nền
chùa mờ mờ cỏ còn hình lại chỗ vết đường băng máy bay lên thẳng của Pháp. Xung
quanh đìu hiu như chơi vơi tới chân trời nào. Chặp tối, điện chạy máy nổ, đến
chín giờ thì thay bằng đèn hoa kỳ. Lúc ấy chỉ còn thấp thoáng sóng nước trong vụng
ven đường đá và ánh cây đèn đảo Long Châu ngoài khơi.
Chiều thứ bảy, như có đoàn thám hiểm ập đến nơi hoang vu. Đấy là những chuyên
gia Thụy Điển làm việc ở xưởng tàu Phà Rừng ngồi ca nô đến, có mấy cô gái điếm
đi theo. Một cô khoe với tôi ở ngoài hành lang là cô đã đọc Vợ chồng A Phủ! Các
người nước ngoài chơi trên sân gác sáng tràng, quẳng vỏ chai Lúa Mới xuống vịnh,
hò hát lảm nhảm suốt đêm. Hôm sau, một đám trai gái từ Hà Nội xuống đi tàu ra đảo.
Như những người digan lang thang. Bạt và màn cuốn trong ba lô, vai đeo những
can nhựa đựng rượu. Hỏi ra đều là cán bộ kỹ thuật và văn phòng đi chơi ngày nghỉ,
sớm thứ hai lại có mặt ở các sở làm. Các bạn trẻ đều đã học ở nước ngoài về. Cuộc
nhảy không có nhạc, nền xi măng lạo xạo ngay trước phòng tôi. Các bạn mời tôi
ra chơi rồi xúm lại kéo tôi nhảy. Không ánh trăng, không đèn, không tiếng nhạc,
chỉ có tiếng quay mình huỳnh huỵch, chân lào xào như người đi đêm trên bãi cát.
Tôi đành kiếu. Nhớ một đêm nhảy múa man dại thế này trong tiếng trống rầm rộ
trên bờ biển thành phố Đaet Sa lam xế dưới Đông Phi. Chốc nữa, các bạn ấy trở về
dãy nhà ngang đằng kia, mười mấy người mà chỉ thuê có một buồng. Tôi ngồi lại
đây trông vào mịt mùng nhìn thấy xa lắc xa lơ một thời đã qua. Âu cũng là cái
nhộn nhạo thuở nào được khuấy động chốc lát. Tôi cũng sợ rồi, tôi ngôi im.
Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi:
- Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi.
Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi uống một mình ở nhà ông trước hôm đi Cát Bà, như
Nguyễn Tuân vẫn nằm yên từ buổi sáng hôm ấy. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi. Ô hô?
Ô hô!
Bãi tắm Cát Cò, hai bên vách đá thẫm đen, không bóng người. Con kỳ đà đủng đỉnh
bò ra giữa đường hầm, bạnh mang, dưới chân nhìn quanh rồi lại nép vào mép tảng
đá. Bỗng lại nhớ rừng già Thượng Yên. Những con kỳ đà mốc thếch như gốc cây ra
rình chộp gà tổ gà của Aki. Người bạn Nhật ăn chuối tây trộn lòng trứng. Chúng
tôi vào quán ông 81 ngã sáu dốc hàng Kèn... Vết chân người lẫn chân con kỳ đà
in vân vân trên cát.
1990
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét