Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

TÔI ĐI TÌM TỰ DO - NGUYỄN HỮU CHÍ - PHẦN 1 ĐẾN PHẦN 20

Nguyễn Hữu Chí năm 1974
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do…. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách “mưu sinh, thoát hiểm” giữa hàng chục “lằn tên đường đạn”, nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.

o O o
KỲ 1
Tôi tên thật là Nguyễn Hữu Chí. Tên này do cha mẹ tôi đặt ngay từ khi sinh ra tôi. Sau này lớn lên, đi học, đi bộ đội ở ngoài Bắc; đi chiêu hồi, đi làm ở Nha Công Tác, Bộ Chiêu Hồi, dưới quyền của anh Võ Đại Tôn ở trong Nam, rồi đến khi bị cộng sản bắt đi tù cải tạo, vượt biên đến Hồng Kông, rồi đến Úc… lúc nào tôi cũng dùng tên thật do cha mẹ đặt. Chỉ có những ngày tháng tôi vượt ngục tù cải tạo, phải ngủ bờ ngủ bụi, trốn chui trốn nhủi từ Nam ra Bắc trong thời gian 2 năm từ 1977 đến 1979, tôi mới dùng nhiều tên giả với nhiều giấy tờ tuỳ thân khác nhau, mà không dám dùng tên thật. Đến khi sang Trung Cộng xin tỵ nạn chính trị, tôi cũng không dám dùng tên thật, vì tôi sợ cộng sản Trung quốc cũng nguy hiểm như cộng sản Việt Nam, nên tôi lấy tên là Phạm Thái Lai. Phạm là họ người anh rể tôi lúc đó đã định cư tại Úc; còn Thái Lai là tên của người cháu gọi tôi bằng cậu, sống ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Đây cũng là nơi tôi sống những ngày tháng hạnh phúc với gia đình người chị ruột, sau khi rời khỏi trung tâm chiêu hồi Thị Nghè.
Trong suốt thời gian khoảng 6 tháng ở Trung Cộng, tôi quen biết nhiều bạn bè người Việt, người Hoa, và ai ai cũng chỉ biết tôi là Phạm Thái Lai, gọi theo tiếng Quảng là Phàn Thai Lồi. Đến khi vượt biển đến Hồng Kông, xứ sở của tự do, tôi hết sợ hãi mọi sự rủi ro, nên tôi khai tên thật Nguyễn Hữu Chí. Lúc đó, mấy người bạn cùng vượt biên từ Trung Cộng rất ngạc nhiên khi thấy tôi thay đổi tên họ, và cho đến bây giờ, nhiều người vẫn gọi tôi là Thái Lai.
Sau này, khi tới Úc, tên họ đảo ngược, dấu mũ bỏ hết, nên từ cái tên Nguyễn Hữu Chí, tôi phải viết thành Huu Chi Nguyen, rồi dần dần chỉ còn Huu Nguyen, cho gọn. Khoảng giữa thập niên 1980, tôi được anh Nhất Giang nhận vô làm việc cho báo Chiêu Dương. Lúc đó, tôi thường viết mỗi tuần 5 bài thời sự và 5 bài khoa học. Một ngày nọ, anh Nhất Giang bảo tôi lấy một hai bút hiệu cho những thể loại khác nhau, nên tôi đổi tên Huu Nguyen thành bút hiệu Hữu Nguyên khi viết bài thời sự; và bút hiệu Phạm Thái Lai cho những bài khoa học.
Tôi hơi dài dòng về cái tên của tôi là vì tôi muốn những ân nhân, bạn hữu, người thân của tôi, ở khắp mọi nơi, nếu một ngày nào đó, có tình cờ đọc được những dòng chữ này, thì xin hãy hiểu, Phạm Thái Lai và Nguyễn Hữu Chí chỉ là tên của một người Việt Nam đã sống những ngày tháng bất hạnh trong chế độ cộng sản, nhưng nhờ tình thương yêu và sự giúp đỡ của cha mẹ, anh chị em trong gia đình; của thầy cô giáo, của ân nhân, bạn bè, mà rồi có được những may mắn, đặt chân tới Miền Nam tự do, và sau này tới được nước Úc tự do.
Tuy thời gian tôi được sống hạnh phúc trên mảnh đất Miền Nam tự do chỉ có mấy năm, nhưng đó là những năm tháng tuyệt vời. Tôi được ngụp lặn trong trong sách vở, được trò chuyện với những người dân Miền Nam chân thật, đôn hậu, giầu lòng nhân ái đối với cả chim muông, cầm thú, cỏ cây, gỗ đá… Sau này, trong những ngày tháng trốn khỏi trại cải tạo, tìm đường vượt biên, tôi mới thấy thấm thía tấm lòng thương người bất chấp nguy hiểm của người Miền Nam. Hai chữ Miền Nam tôi nói đến ở đây có tính địa dư và chính trị. Nghĩa là tất cả những người dân lớn lên trong xã hội Miền Nam tự do, từ vĩ tuyến 17 trở vô, ai ai cũng có tình, có nghĩa, sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ một người tù cải tạo vượt ngục, nghèo khổ, và nguy hiểm như tôi, cho dù tôi với họ không hề quen biết, thậm chí ngay cả tên họ, cũng không bao giờ nghe đến…
Đã mấy chục năm trôi qua, nhưng bây giờ, khi viết những dòng chữ này, tôi lại thấy những kỷ niệm cũ, những bóng hình xưa, sống lại một cách linh động, thương cảm, nhung nhớ đến vô cùng….
Tôi sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc suốt 20 năm trời. Ở đó, có không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt, bạn hữu của tôi. Nhưng kể từ khi trốn khỏi trại cải tạo, tìm đường vượt biên, tôi đi lại ngang dọc ở Miền Nam, lúc nào cũng thoải mái tự tin, như cá bơi trong nước. Gặp bất cứ người dân Miền Nam nào trên một chuyến xe lam, xe đò, hay trong quán nước, tôi đều tin tưởng thổ lộ mình là một người tù cải tạo trốn trại. Và lần nào cũng thế, khi nghe tôi nói vậy, họ đều giúp đỡ tôi một cách chí tình, cho dù họ, trong những năm tháng đảo điên dưới sự cai trị của cộng sản, cũng rất nghèo khổ, bấp bênh như tôi. Với Miền Nam thì như vậy, nhưng khi đặt chân đến Miền Bắc, quê hương của tôi, tôi đã sống những ngày tháng nơm nớp lo âu, không dám nói thật hoàn cảnh trốn tù cải tạo của mình, ngay cả với những người ruột thịt trong gia đình, hay bằng hữu thuở xưa. Trong suốt những ngày tháng lẩn trốn ở Miền Bắc, tôi chỉ dám nói thật hoàn cảnh của mình với mẹ và em gái. Ngoài ra, lúc nào tôi cũng phải mang một mặt nạ, một lý lịch giả với những giấy tờ giả. Tôi sống trên quê hương của tôi mà giống như con cá mắc cạn, như chim phải cung…
Cuộc đời của tôi phải xa mẹ ngay từ khi tôi còn rất bé. Sau này, qua những câu chuyện thầy tôi kể với cụ Đồ Tường hay ông Lang An, ông Tổng Tu (thông gia), tôi biết được, trong những ngày tháng chiến tranh đầy bom đạn của đầu thập niên 1950, thầy tôi phải thường xuyên bế tôi đi xin sữa của những người mẹ mới đẻ con trong làng Đồng Văn, hay những làng lân cận. Tuổi thơ ấu của tôi không được bú ẵm bằng sữa của mẹ mình, mà bằng sữa của những người mẹ, người dì, người cô, người bác trong làng… Phải chăng vì lớn lên nhờ sữa của thiên hạ, nên tôi là một người rất dễ xúc động, rất dễ khóc khi đọc chuyện hay nghe kể những chuyện thương tâm, dù trong lòng tôi lúc nào cũng muốn làm người can đảm, dũng cảm, sẵn sàng cứu khổn, phò nguy.
Tôi nhớ vào khoảng giữa thập niên 1980, khi đó tôi còn đi làm hãng. Một ngày nọ, chở vợ con đi shop, tôi mua tờ báo Việt Luận, đọc bài tường thuật thảm cảnh người Việt tỵ nạn bị hải tặc Thái Lan cưỡng hiếp, tôi đã khóc… thật ngon lành. Sau này làm báo, đọc những tin tức thương tâm ở quê nhà, tôi cũng thường đọc to cho vợ nghe, để rồi thấy chính giọng của mình bị lạc, cổ bị nghẹn, mắt rưng rưng vì không giấu nổi xúc động…
Thầy tôi mất khi tôi đang sống ở Miền Nam, nhưng tôi không hề biết. Vì thương thầy, muốn về gặp mặt thầy, nên trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, biết ở lại là vô cùng nguy hiểm, trong khi bạn bè cùng hoàn cảnh chiêu hồi, trong đó có bạn làm cho Hoàn Cầu Khải Tượng, đến rủ tôi đi, điều kiện đi lại dễ dàng, nhưng tôi nhất mực từ chối. Đầu tháng 5, 1975, tôi dùng giấy tờ giả, trở về Miền Bắc. Về đến Hà Nội, tôi mới biết được tin thầy tôi đã mất. Tối hôm đó, tôi phải đáp chuyến tàu đêm để lén lút về thăm mộ thầy. Đêm hôm đó, trời mưa tầm tã. Tôi đứng ở bậc lên xuống của tàu, trong cái lạnh lẽo, cô đơn, nghĩ đến thầy tôi sống khổ sở, thiếu thốn trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, đến số phận bấp bênh của tôi, trong hoàn cảnh tang thương của đất nước, tôi đã khóc…
Bước ngoặt lớn nhất trong đời tôi đã xảy ra đúng vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, khi tôi quyết định từ vùng núi ở động Ông Đô nhằm thẳng hướng thị xã Quảng Trị để đi chiêu hồi. Lúc đó, tôi chưa hề nghe, hay biết đến hai chữ “chiêu hồi”. Nhưng qua những lần kể chuyện của thầy tôi, tôi biết, ở mảnh đất Miền Nam, tôi có rất nhiều họ hàng, thân thích nội ngoại, trong đó có 5 bà chị đang sống ở Sàigòn, Vũng Tàu, Biên Hoà. Năm 1954, khi đất nước bị chia cắt, cả 5 bà chị, lúc đó đều có gia đình, đã lần lượt vô Nam. Riêng thầy tôi, vì còn mẹ già, tức bà nội tôi, tuổi đã ngoài 90, nên ông cụ nhất định ở lại để phụng dưỡng mẹ, không chịu vô Nam. Thầy tôi lo, bà nội tuổi đã cao, sức lại yếu, lỡ mệnh hệ gì nơi đất khách, thì thật ân hận. Ông nội bà nội tôi chỉ có thầy tôi là con trai. Khi lấy người vợ đầu tiên, thầy tôi có được 5 người con gái, không có người con trai nào. Vì vậy, thầy tôi lấy vợ hai, nhưng bà cũng chỉ sanh được một người con trai. Kết quả, thầy tôi phải lấy thêm người vợ ba, là mẹ tôi. Năm 1954, khi các bà chị vô Nam, thầy tôi ở lại, nên cả hai người con trai, đều phải ở lại đất Bắc. Khi đó, tôi mới 4 tuổi. Quyết định của thầy tôi lúc đó, khiến tôi phải ở lại Miền Bắc, phải trải qua những năm tháng khổ đau, thiếu thốn, mất tự do, và bị guồng máy tuyên truyền của cộng sản giáo dục đầu độc. Đây là một sự bất hạnh cho tôi, nhưng cũng là một sự may mắn, vì nhờ sống trong chế độ cộng sản, hiểu rõ những xấu xa, đê tiện, nham hiểm và tàn nhẫn bất nhân của chế độ đó, nên suốt cuộc đời tôi, từ khi tôi biết nghĩ và hiểu rõ cộng sản, tôi không bao giờ có ảo tưởng về chủ nghĩa, lý thuyết cũng như con người cộng sản. Nếu tôi không sống trong chế độ cộng sản 20 năm, biết đâu, tôi cũng sẽ ngây thơ, vô bưng chạy theo cộng sản, hoặc dại dột ăn phải bả cộng sản, cả nửa cuộc đời…

KỲ 2
Tuần qua, đi Hội Chợ Tết, được gặp gỡ, trò chuyện với một số vị thân hữu trong cộng đồng, trong đó có nhiều vị hỏi tôi, tại sao làm báo đã bao nhiêu năm, mà bây giờ mới viết hồi ký? Để trả lời những vị đó, và cũng là để trả lời chung những thắc mắc của quý độc giả, tôi xin thưa nguyên do chính như sau.
Kể từ khi bắt đầu làm tờ báo Sàigòn Times vào đầu năm 1993 cho đến nay, nhiều người đã nghi ngờ tôi là Việt Cộng. Tôi không hề bao giờ coi những nghi ngờ đó là “chụp mũ, vu khống”, vì tôi hiểu, những ai có nghi ngờ đó, đều hợp lý và chính đáng. Bản thân tôi tự xét, lý do đầu tiên khiến nhiều người dễ nghi ngờ tôi, vì quá khứ, tôi là một người đã sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Thêm vào đó, kể từ khi làm tờ báo Sàigòn Times, vì theo đuổi mục tiêu phụng sự cho chính nghĩa của người Việt tỵ nạn cộng sản và xây dựng, bảo vệ cộng đồng, nên đôi khi tôi ngây thơ và tin tưởng mọi người đã hiểu tôi, nên tôi viết bài mạnh dạn nói thật, nói thẳng những suy nghĩ của mình. Người bình thường nói thật nói thẳng đã dễ bị mất lòng, thì một người có quá khứ dép râu nón cối mà nói thật, nói thẳng, dĩ nhiên sẽ càng dễ bị nghi ngờ.
Ngoài ra, tôi được biết, cộng sản cũng tìm đủ mọi cách giảm thiểu hiệu quả chống đối trên báo Sàigòn Times bằng cách phao vu, nguỵ tạo đủ những tin tức thất thiệt về tôi, về tờ báo. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại.
Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được mọi người hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi thấy đã đến lúc cần phải nói rõ về cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của mình khi sống trong chế độ cộng sản, để quý độc giả thấy được, khi nào còn chế độ cộng sản trên quê hương Việt Nam, khi đó, dân tộc Việt Nam còn trầm luân, khốn khổ. Giữa thế kỷ 20, cộng sản Việt Nam, với sự tiếp tay của cộng sản quốc tế, đã chiến thắng trong cuộc cướp chính quyền và đô hộ Miền Bắc. Nửa cuối thế kỷ 20, cộng sản Việt Nam, cũng với sự tiếp tay của cộng sản quốc tế, tiếp tục chiến thắng trong cuộc xâm lăng và đô hộ Miền Nam. Cả hai lần chiến thắng của cộng sản chỉ đưa dân tộc Việt Nam đến bến bờ của tuyệt vọng, và những giá trị tinh thần, cùng nền văn hiến mấy ngàn năm của dân tộc bị băng hoại.
Vì vậy, trong hồi ký của mình, tôi cũng muốn kể lại những gian nan nguy hiểm, những may mắn, cùng những thương yêu đùm bọc, những tấm lòng nhân ái, đôn hậu vô bờ bến của những người người dân Miền Nam mà tôi đã trải qua trên đường vượt thoát chế độ cộng sản tìm tự do. Qua đó, tôi tha thiết hy vọng, tất cả những ai được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Miền Nam, đều thấy may mắn và tự hào với những giá trị nhân bản mà họ đã được ấp ủ, được bồi đắp. Và chính những giá trị nhân bản này sẽ là những yếu tố quan trọng làm hồi sinh đất nước, giúp cho dân tộc ta phát triển, sánh vai với các quốc gia trên thế giới.
Description: http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/02/2-nguyenhuuchi1972.jpg?w=220&h=300
TỪ ĐỘNG ÔNG ĐÔ ĐẾN ĐỒN CẢNH SÁT DÃ CHIẾN
Đầu năm 1972, cộng sản Hà Nội một lần nữa, chuẩn bị ráo riết mở chiến dịch xâm lăng VNCH thật quy mô. Tại mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên, Cộng sản tập trung 3 sư đoàn chính quy trong đó có sư đoàn 324B. Lúc đó tôi chỉ là người lính binh nhì thuộc đại đội thông tin hữu tuyến của sư đoàn 324B. Đơn vị của tôi được lệnh tiến lên Động Ông Đô, một căn cứ pháo binh của QLVNCH lúc đó đã triệt thoái. Tuy trước đó khoảng nửa năm, tôi đã theo sư đoàn 324B vô tận vùng rừng núi Nam Lào, rồi trở ra Bắc, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy quân trang, quân dụng của QLVNCH. Và chính những cuốn sách truyện, những trang báo, những tờ tạp chí, cùng những tấm hình, những vật dụng cá nhân, vứt bừa bãi trên Động Ông Đô vào thời gian đó, đã giúp tôi thấy được cuộc sống tự do của người dân, người lính VNCH. Điều này đã giúp tôi quyết định đi tìm tự do.
Điều quan trọng nữa khiến tôi đi tìm tự do là lúc đó, tôi thiệt ngạc nhiên và hoảng sợ khi chính mắt tôi chứng kiến những người bộ đội thuộc đại đội bộ binh, không phải binh chủng pháo binh, xúm vô mầy mò, sử dụng những khẩu pháo 105 ly, bắn bừa bãi về phía thị xã Quảng Trị. Tôi không biết những viên đạn pháo 105 ly trong những ngày “mở màn mùa hè đỏ lửa” đó, có gieo tai tóc tang thương cho người dân Miền Nam nào không, nhưng chỉ nhìn những người lính bộ đội hò hét, cười đùa, nhảy múa bên cạnh 3 khẩu pháo 105 ly, coi những phương tiện giết người bừa bãi đó như những đồ chơi, tôi hiểu rằng, cuộc chiến tranh của người cộng sản không những là cuộc chiến xâm lăng, mà còn là cuộc chiến gây tội ác bừa bãi. Chính những gì tôi được chứng kiến trong những ngày ngắn ngủi tại Động Ông Đô, đã khiến tôi thêm quyết tâm rời bỏ hàng ngũ cộng sản bằng mọi giá.
Những rời Động Ông Đô như thế nào để không bị chỉ huy và những người bộ đội khác phát hiện? Và trong hoàn cảnh hai bên đang giao tranh quyết liệt như vậy, liệu khi gặp tôi trong bộ đồ bộ đội, nón cối dép râu, những người lính, người dân VNCH
có chịu để tôi sống hay không? Nếu tôi đi ban ngày, tôi dễ dàng trở thành mục tiêu cho cả hai bên. Nếu tôi đi ban đêm, sự bất ngờ xuất hiện trong đêm tối của tôi cũng cực kỳ nguy hiểm. Và liệu tôi có nên mang theo súng, lựu đạn, hay chỉ đi chân tay không? Nhất là chiếc nón cối trên đầu là dấu hiệu vô cùng nguy hiểm, khiến tôi có thể ăn đạn dễ dàng, trước khi tôi kịp thốt nên lời… Từ Động Ông Đô, ban ngày cũng ban đêm, tôi nhìn về hướng đông và thấy được thị xã Quảng Trị. Ban ngày thì nhìn thấy thị xã ở xa tít tắp chân trời. Ban đêm thì ở đó là cả một vùng ánh sáng hắt lên, đầy quyến rũ. Tôi giống như một con thiêu thân, khao khát ánh sáng tự do. Và tôi hiểu, với tấm lòng chân tình của tôi, với quá khứ cuộc đời đau khổ của tôi, với những kinh nghiệm đau thương của một người cha bị đấu tố địa chủ, và 5 người chị ruột đang ở trên mảnh đất Miền Nam, tôi tin tưởng, một khi tôi đặt chân trên vùng đất tự do của Miền Nam, tôi sẽ được đối xử tử tế trong vòng tay thương yêu của những người bạn, những người anh, người chú, người bác…. Tôi là con thiêu thân đam mê tìm đến vùng ánh sáng tự do, nhưng sẽ không chết gục như con thiêu thân, mà sẽ được lột xác để hóa thành bướm…
Tôi vừa nói đến ba chữ “thêm quyết tâm”, vì từ khi bước vào tuổi 17, 18, tôi đã nung nấu quyết tâm từ bỏ chủ nghĩa cộng sản bằng mọi giá…
Là một thanh niên sinh ra và lớn lên trong xã hội Miền Bắc, tôi đã bị guồng máy tuyên truyền của cộng sản nhồi nhét hầu như mỗi ngày, mỗi giờ, từ lúc trên ghế nhà trường cho đến khi ra ngoài xã hội, từ trong sách vở giáo dục, đến phim ảnh, thơ văn. Tấm lòng ngây thơ trong trắng của tôi đã được chế độ cộng sản nhào nặn một cách tinh vi, từng bước từng bước, từ nhỏ đến lớn, khiến tôi ngây thơ đinh ninh tất cả những người địa chủ đều là những kẻ cùng hung cực ác, gây nên không biết bao nhiêu tội lỗi cho những người nông dân nghèo khổ. Tin tưởng như vậy, nên tôi đã sống trong mặc cảm của một người có tội, vì cha của tôi trong thời cải cách ruộng đất cũng là một người bị quy tội địa chủ, bị đấu tố, và ông cụ đã suýt bị tử hình, nếu khi đó không có vụ đội cải cách tử hình một ông địa chủ ở làng Sui về tội “phá hoại ném dây kẽm gai ở chân đê để ngăn cản không cho người đến cứu đê khi đê bị vỡ”. Tôi không nhớ tên ông địa chủ làng Sui là gì, nhưng qua những lần cha tôi với cụ Lang An nói chuyện, tôi vẫn nhớ cả hai người đều hay nhắc lại kỷ niệm này trong nỗi niềm thảng thốt sợ hãi cùng niềm biết ơn đấng bề trên đã cho cha tôi sống sót.
Trong những năm cải cách ruộng đất, 1955-56, tôi mới có 4, 5 tuổi, nhưng tôi vẫn nhớ như in trong óc những kỷ niệm đói khát, cùng sự hành hạ của đội cải cách đối với cha tôi. Đến năm 1957-58, cha tôi được ông lang An truyền nghề thầy thuốc, nên phải đi chợ xa 6, 7 cây số để bán thuốc. Đến nay, tôi không còn nhớ tên chợ này, nhưng đó là quê hương của cụ đồ Tường ở ngay bến sông Châu.
Mỗi buổi sáng, khi tôi thức dậy, trong căn nhà nhỏ ở phố chợ, đằng trước có 2 cây hòe, chỉ có tôi và bà nội, lúc đó đã ngoài 90 tuổi. Trên tấm phản gỗ ở giữa nhà là một chiếc mâm gỗ, có đậy lồng bàn cho khỏi ruồi. Mở lồng bàn ra, bao giờ cũng có hai chén cơm nguội, một chén cho bà nội và một chén cho tôi. Bên cạnh là chén muối mè mặn chát, và một nắm cơm đã được cha tôi nắm lại thật chắc, cho bữa cơm chiều của hai bà cháu. Bữa sáng, tôi phải bưng cơm bưng nước cho bà. Bữa chiều, vì cơm nắm đã khô, nên tôi phải ăn hết vỏ cơm nắm, còn ruột cơm nắm thì tôi dầm nát, trộn với muối mè, chan ít nước lạnh rồi mới đưa cho bà.
Sau này, bà nội già hơn, lại bệnh tật nữa, nên cơm không ăn được, tôi phải thổi cơm, chắt lấy nước cơm đem cho bà. Vì là gia đình bị quy chụp tội “địa chủ”, lại sống ở thôn quê, nên cuộc sống của gia đình chúng tôi lúc đó thật là cô đơn, ảm đạm và vô cùng thiếu thốn. Hàng xóm láng giềng, họ hàng cũng đều xa lánh. Đã vậy, mỗi khi đi ra ngoài, tôi còn bị trẻ em cùng lứa tuổi trong làng xúm vô bắt nạt, đánh đập, hoặc bắt tôi làm địa chủ để đem ra đấu tố. Trong những phiên xử như vậy, tôi bị bắt quỳ thật,
bắt phải nhận tội thật, rồi bị đem ra xử bắn giả, và phải chết giả. Vì vậy, tôi rất sợ phải đi ra khỏi nhà. Tôi chỉ luẩn quẩn trong nhà, nghe bà tôi kể chuyện khi bà tỉnh táo, và chơi với con chó Mực. Mỗi buổi chiều, khi hoàng hôn xuống là tôi buồn lắm, và nhớ cha tôi vô cùng. Nhất là những chiều mưa, bóng tối xuống nhanh, tôi đứng ở hè nhìn trời mưa kèm với sấm chớp, và lúc đó tôi chỉ biết khóc và gọi thầm: “Cha ơi! Cha ở đâu, cha mau về với con!”
Description: http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/02/3-nguyenhuuchi_cha.jpg?w=236&h=373
Mẹ tôi xa tôi ngay từ khi tôi mới đẻ, nhưng khi còn bé, tôi không hề biết chuyện đó. Tôi cứ đinh ninh mẹ của anh trai tôi cũng là mẹ của tôi. Đến khi biết suy nghĩ, tôi mới thấy trong cư xử, có sự khác biệt, nhưng không hiểu vì sao, nên tôi thấy tủi thân và đau khổ vô cùng. Bình thường, trong cuộc sống, bị phân biệt trong cư xử đã buồn tủi, huống chi trong hoàn cảnh túng thiếu, đói khổ của một gia đình bị quy chụp tội “địa chủ”, thì sự phân biệt đó còn đau đớn đến đâu. Tôi biết mẹ của anh trai tôi tuy không phải là mẹ của tôi, nhưng đã có công nuôi tôi khôn lớn, và cũng đã thương yêu tôi lắm trong suốt những năm dài cho đến ngày tôi phải đi bộ đội. Tôi luôn luôn nhớ ơn mẹ, coi như mẹ ruột của tôi. Nhưng tình thương yêu đó vẫn không thể nào bù đắp được tình mẫu tử. Có lẽ vì vậy, nên tình yêu thương của cha tôi dành cho tôi thật mênh mông vô bờ bến.
Tôi không biết rõ vì sao, nhưng nhiều người trong gia đình vẫn bảo tôi là “Mẹ tôi đã bỏ tôi vì không thương tôi!” Tôi buồn lắm, và đau lòng lắm. Nhưng khi hỏi cha vì sao mẹ bỏ con thì cha tôi không nói, chỉ thở dài.
Vì bị cộng sản tuyên truyền, địa chủ là những người độc ác, nên năm tôi mới 12 hoặc 13 tuổi, trong một lần bị cha đánh đòn, tôi đã buột miệng hét lên: “Con thù cha! Cha không phải là cha của con!” Nghe vậy, cha tôi ngạc nhiên, run giọng hỏi: “Chí, mày nói gì? Sao mày lại căm thù tao?” Tôi vừa khóc vừa nói: “Cha là địa chủ! Cha có nợ máu với nhân dân!” Nói xong, tôi lùi ngay ra cửa, chân trước chân sau sẵn sàng bỏ chạy, vì tôi đinh ninh, nghe tôi nói vậy, cha tôi sẽ tức giận vô cùng. Nhưng trái với sự lo lắng của tôi, cha tôi chỉ trợn mắt nhìn tôi một lúc, rồi cha tôi thở dài, vứt roi xuống đất, ngồi xuống giường bất động không nói. Nhìn vẻ mặt đau khổ của cha tôi lúc đó, tôi thấy có cái gì đó kỳ lạ mà mãi mấy năm sau tôi mới hiểu. Thì ra đó là sự đau khổ của người cha, vô cùng thương yêu con, bỗng nhiên tuyệt vọng nhận ra, đứa con thương yêu của mình đã bị đảng cộng sản nhuộm đỏ, nên nó đã trở thành kẻ phản bội chính cha ruột của nó! Và khi tôi hiểu được nỗi đau khổ của cha tôi, hiểu được lỗi lầm tôi đã phạm, tôi đã mang niềm đau đớn xót xa cùng nỗi ân hận thấm sâu vào lòng, trong suốt những tháng năm còn lại của cuộc đời. Và từ đó, tôi đã hận thù cộng sản bằng tất cả sự uất ức, đau đớn của chính mình.

KỲ 3
Không hận thù cộng sản sao được, khi chế độ cộng sản đó đã nhồi nhét, tuyên truyền, xúi dục tôi căm thù cha của tôi, một người đã thương yêu tôi vô cùng, đã bồng ẵm, nuôi nấng tôi khôn lớn, đã dậy cho tôi đọc cửu chương vào mỗi tối, đã nhường cơm xẻ áo cho tôi trong suốt những năm dài cơ cực thiếu thốn. Bình thường, tình phụ tử trong cảnh “gà trống nuôi con” đã lớn lao vô bờ bến. Rồi sống trong cảnh thiếu thốn, đói khát, ngay cả của khoai hà, khoai nhím cũng không có mà ăn, rau muống, rau sam cũng không có đủ để luộc, nước mắm không có phải dùng nước rau pha muối để chấm…. thì tình thương yêu, xót xa của cha tôi dành cho tôi hẳn phải lớn lao lắm.
Sau này, khi tôi có con, mỗi khi tôi cúi xuống chiếc nôi nơi con của tôi đang thiêm thiếp ngủ, để hôn con trước khi đi làm, thấy hơi ấm, mùi thơm da thịt của con thoang thoảng mùi sữa, tôi thấy yêu thương con tôi vô cùng. Tình yêu thương đó cứ ngây ngất trong tâm hồn tôi suốt chặng đường lái xe đến chỗ làm. “Sinh con mới biết lòng cha mẹ”. Có sống trong tâm trạng yêu thương con ngây ngất như vậy, tôi mới hiểu được tấm lòng yêu thương sâu thẳm không bút mực nào tả xiết của cha tôi dành cho tôi. Tôi cứ tưởng tưởng đến cảnh những đêm đông giá lạnh cắt da cắt thịt ở làng Đồng Văn, cách Hà Nội 5 cây số, cha tôi phải bế tôi đi xin sữa, kiên nhẫn đứng chầu chực
có khi hàng tiếng đồng hồ ở ngoài cửa, thì thầm, năn nỉ van xin, lậy lục… miễn sao cho tôi có chút sữa bú. Lúc đó tôi còn nhỏ lắm, nên đâu có biết được cảnh tượng đó đau lòng như thế nào. Sau này, thỉnh thoảng nghe cha tôi kể, tôi cũng không để ý nhiều. Mãi sau, nghe cô Vinh, có tiệm bán bánh mì ở Đồng Văn (mà khi còn bé tôi vẫn vòi cha tôi mua ‘bánh tây Vinh’), vừa khóc thút thít vừa kể lại cho tôi nghe, tôi mới xúc động, ôm cô Vinh mà khóc, để thấy tình thương chất ngất dành cho cha tôi….
Nhưng đó là tình thương yêu của cha tôi đến với tôi qua lời kể của cô Vinh. Còn sau này, tình thương yêu của cha tôi đến với tôi từng giờ, từng phút, trong nỗi niềm đau đớn xót xa, tủi nhục ê chề, của những người sa cơ thất thế, nghèo khổ vô cùng, phải sống cạnh những người khá giả, để thấy mình lúc nào cũng thèm thuồng, đói khát, cả vật chất lẫn tình yêu. Tôi đã sống trong nỗi đói khát rùng rợn, thèm thuồng thường trực đó, nên tôi nghiệm thấy, khi bụng đói không phải một ngày mà đói kinh niên, thì người ta dễ trở nên hèn hạ, dễ hư hỏng, ăn cắp ăn trộm và rất hay tủi thân, hay khóc thầm một mình… Tôi đã trải qua tất cả những chuyện xấu xa đó ở tuổi ấu thơ, và bây giờ khi viết những dòng chữ này, nhớ lại những chuyện xấu xa tôi đã phạm, tôi vẫn còn thấy người nổi gai vì xấu hổ, mà cổ thì nghẹn ngào, mắt lại rưng rưng…
Tôi phải thú thực với các bạn, đến hôm nay, khi viết những dòng chữ này, tôi mới viết được có hơn hai trang hồi ký, nhưng tôi đã xúc động nhiều lắm. Tôi thương cha của tôi, trong những bữa “cơm” chiều vào lúc hoàng hôn chập choạng, vẫn thường nhịn đói, chỉ húp nước rau muống trừ “cơm” để nhường “cơm độn mì, độn khoai” cho tôi ăn… Chính tấm lòng yêu thương vô bờ bến của cha và sự nhường nhịn của cha, đã giúp tôi không bước vào con đường tội lỗi, tranh giành, lừa lọc, bon chen, nhỏ nhe. Nhờ tình yêu thương của cha, tôi tuy lớn lên trong nghèo túng, đói khát, thiếu thốn, nhưng lúc nào cũng ngẩng cao đầu, biết khiêm tốn trong cư xử, nhưng trong lòng lúc nào cũng biết tự hào với những giá trị tinh thần mà cha của mình đã trau dồi, bồi đắp.
Cha của tôi, dưới thời Pháp thuộc có đi làm cho Pháp, nhưng vì cãi nhau với viên công sứ Pháp nên cha của tôi về hưu non. Sau đó, cha của tôi quay ra mở tiệm bán thuốc lào ở Hà Nội, mở đồn điền trồng lúa, nuôi bò, dê tại Bút Sơn (quê hương của vợ hai của cha tôi), mở các tiệm bán vải ở Phú Lý cho 5 bà chị trông nom tập làm ăn, và tậu nhiều ruộng đất ở làng Đầm, làng Sui, rồi nhà cửa ở Hà Nội. Vì thời đó, trọng nam khinh nữ, nên mỗi khi tậu ruộng, cha tôi đều cho người con trai trưởng là ông anh của tôi đứng tên. Việc này đã tạo nên nhiều sóng gió ghen tuông trong gia đình tôi nên sau đó, cha tôi đã bán cả trăm mẫu ruộng, lấy tiền chia cho các bà chị. Sau này, chuyện trò với cụ lang An, cha tôi vẫn thường nhắc lại chuyện này và coi đó là chuyện rủi mà hóa may, vì nếu không bán đi cả trăm mẫu ruộng, chắc chắn cha tôi đã bị tử hình ngay từ những cuộc đấu tố cải cách ruộng đất đầu tiên tại làng Đầm.
Sau này, trong một dịp nghỉ hè, trường tôi phải đi lao động ở nông trường ép đậu phộng ở gần Bút Sơn, tôi mới tình cờ được nghe ông cụ thân sinh của người bạn học kể chuyện khi cụ học ở Phủ Lý, cụ có trọ học ở nhà cha của tôi. Buổi tối hôm đó, cụ kể cho tôi nghe chuyện, năm đói Ất Dậu 1945, cha của tôi đã cho phá kho thóc ở làng Bút Sơn để phát chẩn cho người nghèo như thế nào, và người dân ở Bút Sơn đã coi cha của tôi như một vị ân nhân ra làm sao. Nghe chuyện cụ kể, tôi càng thêm ân hận, xót xa, thêm căm giận chính mình. Thì ra đâu phải ai địa chủ cũng là tàn ác, cũng là có “nợ máu với nhân dân”. Vậy là nhờ tình yêu thương của cha tôi, nhờ đọc những trang sách cấm của anh tôi giấu trên nóc nhà, nhờ được giao tiếp với những người thuộc thế hệ chú, bác, đàn anh, thời Pháp thuộc, và nhờ chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt trong xã hội cộng sản, dần dần tôi nhận ra, cái chế độ cộng sản mà tôi đang sống không thực sự lý tưởng, cao đẹp, “thiên đường xã hội chủ nghĩa” như người ta tuyên truyền, nhồi nhét… Cũng nhờ tôi “khôn lớn” hiểu rõ địa chủ là thế nào, nên từ đó, cha của tôi thường hay tâm sự với tôi hơn. Cho đến ngày tôi chuẩn bị lên đường “sinh Bắc tử Nam”, cha của tôi đã nói chuyện với tôi thật nhiều… Rồi trong nước mắt của cha, nước mắt của tôi, tôi nghe cha dặn dò, cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ: “Tao sinh ra mày không phải là để cho mày chết uổng. Trong Nam mày có 5 bà chị ruột, vào đó tìm các bà ấy, bảo các chị muốn báo hiếu cho cha thì lo nuôi cho em ăn học thành tài!”…
Vậy là tôi đội nón cối, đi dép râu, theo sư đoàn chính quy 324B của cộng sản xâm lăng Miền Nam, nhưng trong lòng tôi lúc nào cũng ấp ủ quyết tâm tìm bằng được các bà chị để bảo, “Các chị muốn báo hiếu cho cha thì lo nuôi cho em ăn học thành tài!”…
Là một người lính thông tin hữu tuyến, nên tôi phải đeo dây, đeo máy điện thoại, đeo 4 trái lựu đạn. Một tiểu đội thông tin có 4 khẩu súng AK-47, cứ trung bình ba người thì được phân phối một khẩu. Tôi nghe những người đã từng vô B (vô Nam) kể, nhiều khi lính “ngụy” (tức lính VNCH), cắt giây điện, rồi phục kích chờ tụi tôi đến sửa đường dây là làm “thịt” (bắn chết) hoặc bắt sống. Nghe chuyện, tôi nửa sợ, nửa mừng. Sợ là mình có thể bị lính VNCH phục kích, chưa kịp dơ tay đầu hàng thì đã bị làm thịt bất ngờ. Mừng là, biết đâu mình bị phục kích, nhưng sẽ được lính VNCH bắt sống, thì hay biết mấy… Sau mấy đêm thao thức suy nghĩ, tôi thấy tôi không thể để cuộc đời may rủi một cách nguy hiểm như vậy được. Tôi phải làm cách nào, để dù có bị phục kích, lính VNCH cũng không nỡ bắn tôi chết, mà chỉ bắt sống tôi mà thôi. Sau nhiều đêm suy nghĩ, tôi liền nghĩ ra một kế, nếu tôi được lệnh đi sửa đường dây điện thoại của sư đoàn, điều tốt nhất là tôi không đeo súng, và tìm cách tránh xa bất cứ tay bộ đội nào đeo súng. Không những vậy, tôi còn chú ý ăn mặc làm sao để bất cứ ai, đứng cách tôi cả chục thước, cũng biết rõ tôi chỉ là thằng lính quèn, trần như nhộng, không có súng dài, súng ngắn, không có lựu đạn, dao găm gì. Nói tóm lại, tôi phải tự giải giới mình trước khi “xông vào hang cọp”. Như vậy, chắc chắn những người lính VNCH khi phục kích một thằng lính không võ trang như tôi, họ sẽ chẳng cần phải nổ súng “thịt” tôi làm gì. Trong chiến tranh, bắt sống bao giờ chiến công cũng lớn hơn, lại bớt nguy hiểm, và bớt mặc cảm tội lỗi. Với khuôn mặt non choẹt chưa đầy 20 tuổi, tôi thấy kế hoạch “tự giải giới để nạp mạng” của tôi thật đơn giản, nhưng tôi biết chắc sẽ thành công. Dĩ nhiên, lúc đó, trong đơn vị chẳng ai nghi ngờ gì tôi, nên ai cũng cho tôi là thằng nhóc “gan lì”, dám tay không “xông vào hang cọp”…
Sau khi có kế hoạch “tự nạp mạng” tuyệt vời như vậy, tôi hồi hộp chờ đợi đường dây điện thoại bị đứt để đi sửa. Rồi mỗi lần đi sửa, tôi đều hồi hộp cầu nguyện cho lính VNCH phục kích, nhưng chẳng lần nào thành công. Nhiều lần, dây điện thoại bị đứt, tuy không đến lượt phải đi sửa, tôi cũng tình nguyện đi, làm cho ai cũng ngạc nhiên… nghĩ tôi là thằng khờ dại muốn thăng quan tiến chức bằng cách chui vào chỗ chết, để rồi “chưa đỏ ngực thì đã xanh cỏ”. Nhưng mấy tuần trôi qua, đi sửa đường dây liên miên, mà chẳng gặp ổ phục kích nào, tôi đâm nản, nghĩ bụng, phải tính kế khác, chủ động hơn.
Sau khi đơn vị thông tin hữu tuyến chúng tôi có mặt ở Động Ông Đô được một, hai tuần, thì có lệnh chuyển về trung đoàn, thu hồi toàn bộ mạng lưới hữu tuyến, chuyển địa điểm đóng quân. Nghe lệnh, tôi rất mừng, vì đó là cơ hội để tôi có thể chủ động thoát thân…
Thông thường, mỗi khi đi sửa dây điện thoại, hay bắt đầu tỏa mạng cho sư đoàn, chúng tôi đều phải đi theo đội hình một tổ 3 hay 4 người, trong đó có một người trang bị súng AK-47, còn lại thì người phải đeo dây, người lo rải dây. Vì đi tổ như vậy, nên việc vượt thoát là điều rất khó, dễ bị nghi ngờ, dễ bị phát hiện. Thời gian vắng mặt tối đa cho vệ sinh cá nhân, hay kiếm đồ ăn “cải thiện” như hái cây, bắt cá, cũng chỉ cho phép nửa tiếng, hoặc một tiếng đồng hồ là cùng. Với thời gian ngắn ngủi đó, tôi chỉ đi được cùng lắm 5 cây số trong rừng, trước khi bị đơn vị phát hiện tôi đào tẩu. Và trong phạm vi 5 cây số, nếu bị phát hiện, tôi dễ dàng trở thành mục tiêu ngon lành của các tay súng bắn tỉa, hoặc bị các đơn vị chung quanh bủa vây, bắt sống.
Còn việc thu hồi toàn bộ mạng lưới hữu tuyến thì tự do hơn nhiều. Việc thu hồi phải nhanh chóng, kịp thời, nên mỗi đường dây hữu tuyến dài có khi 10, 20, 30 cây số, chỉ có 2 người lính thu dây từ hai đầu thu lại. Khi thu, mỗi người lính hữu tuyến phải hoạt động độc lập, lủi thủi một mình cuộn dây vào một chiếc khung chữ nhật bằng tre, hoặc gỗ. Trung bình mỗi khung cuộn được khoảng 300 đến 400 mét. Thu xong cuộn nào đeo luôn trên lưng cuộn đó. Đeo được 5 cuộn là oằn cả vai, phải thả xuống một bụi rậm nào đó đánh dấu, rồi thu dây tiếp. Cứ như vậy cho đến khi thu đến khoảng nửa đường thì gặp người lính hữu tuyến từ đầu kia thu lại. Sau đó, đến màn thu các cuộn dây mà mình đã để rải rác trên đường. Công việc từ lúc bắt đầu thu, cho đến khi thu xong, có khi phải mất cả ngày trời. Cả ngày trời làm việc một mình, không một ai kiểm soát, liên lạc, tìm kiếm… Vì vậy, thu mạng hữu tuyến là thời cơ lý tưởng nhất cho cuộc đào thoát tìm tự do của tôi.
Nhưng thường mỗi khi đứng trước bước ngoặt của cuộc đời, con người bao giờ cũng sống trong tâm trạng đắn đo, ngần ngại. Vẫn biết, hiện tại là địa ngục, là nô lệ, là mất tự do, và bên kia là cả một chân trời mới đầy hứa hẹn,… nhưng tâm trạng của tôi lúc đó vẫn dùng dằng, sợ hãi những bấp bênh, những nguy hiểm đang chờ đợi ở một nơi nào đó, tôi chưa thể biết. Cuối cùng, tôi quyết định chui vào rừng, mắc võng, ăn lương khô, rồi nằm suy nghĩ…
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do….

KỲ 4
Tuần qua, tôi rất hân hạnh nhận được email của ông Huỳnh Bá Phụng, Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân tiểu bang Queensland. Ông Phụng là người tôi quý trọng đặc biệt kể từ khi tôi được gặp ông lần đầu tiên ở nhà của nhà thơ Nam Man. Hôm đó, trong lúc trò chuyện có đông đủ nhiều người, ông Phụng đã kể cho tôi nghe, khoảng chục năm trước, khi tôi viết bài cho báo Chiêu Dương của anh Nhất Giang, chính ông Phụng đã là người nghi ngờ tôi là một tên cộng sản nằm vùng. Khả năng bén nhậy của một sĩ quan tình báo phản gián của QLVNCH, cộng với tinh thần chống cộng của một người Việt tỵ nạn cộng sản, đã khiến ông viết thư gửi ngay cho anh Nhất Giang, trình bầy thẳng thắn những nghi ngờ của ông, và khuyên anh Nhất Giang “nên thận trọng đối với Hữu Nguyên”. Tôi không hiểu vào lúc đó, anh Nhất Giang có nghi ngờ gì tôi hay không, nhưng tôi thấy cách anh cư xử với tôi vẫn rất đằm thắm, đúng phong độ của một đàn anh trong làng báo. Tôi cũng biết, trong cộng đồng người Việt lúc đó, có nhiều người nghi ngờ tôi, cho dù tôi luôn luôn nói thực hoàn cảnh xuất thân “nón cối dép râu” của mình. Xem ra tôi càng nói thật cuộc đời của mình, thì sự nghi ngờ của người đối diện càng gia tăng. Vậy mới lạ! Nhưng có lẽ, tất cả đều giữ sự nghi ngờ ở trong lòng, riêng ông Huỳnh Bá Phụng là người đầu tiên nói thẳng với tôi sự nghi ngờ của ông.
Cũng trong tuần qua, tôi hân hạnh nhận được cú điện thoại của chị ĐTKM, vợ của anh HD, trên Queensland. Trong thời gian khoảng 15 phút đồng hồ được trò chuyện với cả hai vợ chồng, tôi vừa xúc động, vừa mừng, và thấy thật an ủi, khi nhớ lại những ngày tháng xa xưa…
Ngay khi nhấc điện thoại, nghe chị KM hỏi tôi có phải là Nguyễn Hữu Chí, và trước đây ở Sàigòn có quen cô C.T. Thuý Phương hay không, tôi vô cùng bàng hoàng, vì cả một quá khứ sóng gió, nguy hiểm đột ngột hiện về… Đó là những ngày tháng tôi vừa trốn khỏi trại cải tạo Kàtum, đang sống lang thang ở Sàigòn thì tình cờ quen cô Phương… Lúc đó, tôi đã nói thật với cô Phương hoàn cảnh của tôi, một hồi chánh viên, vừa vượt ngục, không nhà cửa, không tiền bạc… Với tấm lòng đôn hậu, thương người như thể thương thân, của một cô gái lớn lên ở Miền Nam, Phương đã giúp đỡ tôi, bất chấp nguy hiểm và sự can ngăn của gia đình.
Tôi nhớ có lần, để chuẩn bị vượt biên, tôi và Phương ghé nhà một người bạn ở ngõ Hoàng Văn Thụ, Tân Bình, để lấy bản đồ, địa bàn. Vì sống trong cảnh vượt ngục, nguy hiểm có thể đến bất cứ lúc nào, nên tôi đã dặn Phương đi cách xa tôi khoảng chục thước. Nếu thấy công an, bộ đội xét hỏi giấy tờ, hay bắt giữ tôi, thì Phương cứ bình tĩnh coi tôi như người dưng, để khỏi bị liên luỵ. Sau đó sớm muộn gì tôi cũng trốn thoát, và sẽ tìm gặp lại Phương.
Hôm đó cũng đúng như vậy, Phương đi sau tôi một đoạn. Khi từ đường Hoàng Văn Thụ đi bộ ra đến đường Võ Tánh, tôi thoáng thấy mấy tay bộ đội trước là vệ binh canh tù tại Quân Lao Gò Vấp. Trong số hơn chục tên vệ binh đánh hội đồng tôi tại nhà ăn Quân Lao Gò Vấp, khi tôi đang bị tù, có cả mấy tên vệ binh này. Dĩ nhiên, chúng biết tôi đã vượt ngục ở Kàtum, và đang bị truy nã. Khi trông thấy đám vệ binh, tôi đã chột dạ, tính rút lui, nhưng đã quá muộn, những tên vệ binh đó đã thoáng nhìn thấy tôi. Quý độc giả nào ở Tân Bình chắc biết đường Hoàng Văn Thụ, cổng 2 bộ Tổng Tham Mưu cũ. Đường này chỉ có một bên là nhà, đổ thẳng ra đường Võ Tánh. Ngay ngã ba Hoàng Văn Thụ và Võ Tánh là đám vệ binh bộ đội đứng đó tán gẫu. Nếu tôi quay trở lại, đám vệ binh sẽ nghi ngờ, và với con đường này, tôi cũng không có lối nào thoát…
Trong vài tích tắc suy nghĩ, tôi quyết định thản nhiên đi tới. Khi đi ngang đám vệ binh, tôi liếc mắt nhìn, và trong một tích tắc ngắn ngủi, tôi thấy một tên vệ binh cũng nhìn tôi. Trong ánh mắt của hắn, tôi nhận ra ngay vẻ ngạc nhiên của hắn… Thì ra hắn đã nhận ra tôi! Tôi nghĩ vậy, nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, ung dung rẽ trái, tiến về phía đồn cảnh sát quận Tân Bình… Được khoảng vài bước, tôi nghe có tiếng cãi cọ của mấy tên vệ binh… rồi tiếng chân người bước theo… Linh tính báo cho tôi biết, tụi vệ binh đó đã nghi ngờ tôi, và đang đi theo tôi…
Giả vờ định băng qua đường, tôi khẽ ngoái đầu về phía bên phải, lập tức ánh mắt của tôi đụng vô ánh mắt của mấy tên vệ binh… Một tên vệ binh liền la lên, “Đúng nó rồi! Thằng Chí trốn trại đó!” Tôi kinh hoàng, rụng rời tay chân, vội vàng quẳng luôn đôi dép, bỏ chảy thục mạng… Đằng sau mấy tên vệ binh la hét ầm ĩ, “Bắt lấy nó! Tù cải tạo trốn trại!”…
Vì lúc đó, xe chạy như mắc cửi trên đường Võ Tánh, tôi không thể nào băng qua đường nên phải chạy dọc theo đường Võ Tánh. Được hơn chục thước, tôi thấy ngay trước mặt một tên công an áo vàng từ trong đồn cảnh sát quận Tân Bình nhào ra. Mắt hắn đang nhớn nhác nhìn về phía tôi, vì không hiểu chuyện gì xảy ra… Trông tên công an, tôi biết ngay hắn có đeo súng… Nếu chậm chạp, tôi sẽ bị bắn chết… Tôi liền vội vàng liều mạng băng ngang đường Võ Tánh, lao thẳng tới đường xe lửa, quẹo phải, chạy thẳng vào một nhà dân, trong khi cả gia đình đang ngồi ăn cơm ở trước cửa…
Tương lai, khi có thời gian tôi sẽ kể lại chuyện này cho tường tận đầu đuôi, để quý độc giả thấy được, tôi đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc như thế nào, được những người dân Miền Nam thương yêu mà cứu tôi ra sao; và những người vợ sĩ quan QLVNCH có chồng đi cải tạo, ở đường Trương Minh Giảng, đã tin tưởng tôi, thương xót cho tôi, mà bầy mưu tính kế, giúp tôi giấy tờ, để tôi qua mặt tụi công an, vệ binh như thế nào…
Hôm nay, tôi kể lại chuyện này chỉ muốn đền đáp phần nào ơn sâu nghĩa cả mà cô Phương đã dành cho tôi trong những ngày tháng tôi phải trốn tránh cộng sản tại Sàigòn, cùng nỗi niềm tâm sự, những câu chuyện mà cô Phương đã gửi gắm cho chị KM, trước khi chị KM lên đường sang Úc cách đây hơn 20 năm… Tôi cũng xin cảm ơn anh chị KM & HD, qua cuộc điện đàm ngắn gọn hơn chục phút đồng hồ, đã tin tưởng, trao gửi những tâm tình sâu nặng cho tôi…
Trở lại câu chuyện của tuần trước, vào buổi trưa hôm đó, tôi vô rừng nằm. Tính ngủ một chút, nhưng không tài nào ngủ được. Đầu óc tôi rối bời với đủ thứ chuyện phải chọn lựa. Vật đầu tiên tôi phải nghĩ tới là khẩu súng AK-47. Tôi có nên mang theo nó hay không? Tôi biết, đi trong rừng, có khẩu súng trong tay bao giờ cũng ấm dạ. Nhưng đeo khẩu súng AK-47 cũng là điều vô cùng nguy hiểm, tôi sẽ bị bắn chết dễ dàng trước khi kịp trở tay. Sau một hồi suy nghĩ, cân nhắc, tôi quyết định, lấy nylong gói khẩu súng lại thật cẩn thận rồi vứt xuống một chiếc hầm. Tôi cũng lục trong ba lô tất cả những thứ gì không cần thiết, vứt hết xuống hầm. Sau đó, tôi lấp đất, đánh dấu cẩn thận. Làm vậy để lỡ chuyến đi tìm tự do của tôi không thành công, tôi còn biết đường quay về lấy tất cả những thứ đó, để trở lại đơn vị, chờ một dịp may khác…
Khoảng 4 giờ chiều, trời vẫn còn sáng lắm. Nhưng trong lòng tôi bồn chồn dễ sợ. Tôi không biết cuộc đời của tôi rồi sẽ ra sao. Tôi gọi thầm tên tất cả những người thân yêu, trong đó có cha tôi. Tôi cầu mong mọi người phù hộ cho tôi…
Đến 4 giờ rưỡi chiều, tôi lặng lẽ đeo ba lô, đội nón cối, rồi thẳng hướng đông, cắt đường tiến về thị xã Quảng Trị. Tôi ước tính, từ hành lang nằm về phía tây của Động Ông Đô không bao xa, tôi sẽ nhắm hướng đông đi thẳng băng như vẫn thường cắt rừng rải dây điện thoại… Như vậy, chỉ khoảng 5 đến 6 giờ đồng hồ là tôi sẽ đặt chân đến khu dân cư bên ngoài thị xã Quảng Trị… Tôi sẽ trở thành người của Thế Giới Tự Do!
Sau khi đi được khoảng hơn tiếng đồng hồ, băng qua được mấy ngọn đồi, thì mặt trời gác bóng. Tự tin đã đến lúc an toàn, tôi bỏ những bụi cây rừng, đi theo những con đường mòn nhỏ nối liền các triền đồi. Vừa đi được trên con đường mòn nhỏ hết một triền đồi, qua một khúc ngoặt, nhìn thấy cả một triền đồi mới rộng thênh thang, tôi chợt thấy một toán bộ đội khoảng trên dưới 30 người đang từ phía đông đi lại. Vì khoảng cách giữa hai bên quá gần, tôi thấy mình không kịp ẩn trốn, cũng không kịp quay lại được nữa… Chỉ nhìn thoáng qua, tôi biết họ là ban chỉ huy sư đoàn vừa đi thị sát chiến trường, trên đường quay trở về. Nếu tôi tiếp tục đi, tôi sẽ đụng họ. Đụng họ, tôi phải nói làm sao đây, khi tôi chỉ có một mình, lại đang đi về hướng “địch”…
KỲ 5
Trong thời gian ngắn ngủi không đầy mấy giây đồng hồ, tôi nghĩ rất nhanh, nếu tôi bình tĩnh, giữ vẻ mặt lạnh lùng, phớt tỉnh ăng lê một chút, tôi sẽ thoát khỏi cửa ải này. Kinh nghiệm cuộc đời cho tôi biết, tôi có một gương mặt rất ngây ngô, hay nói đúng hơn là rất thộn, rất quê mùa. Với gương mặt quê mùa, đần độn của một thanh niên mới ngoài 20 tuổi, tôi biết ban chỉ huy sư đoàn gồm toàn những nhân vật sừng sỏ, từng trải, sẽ chẳng bao giờ nghi ngờ tôi có đủ bản lãnh và khả năng để qua mặt họ. Vào thời điểm đó, tại chiến trường miền tây Quảng Trị, chúng tôi đều trao đổi mật khẩu mỗi khi gặp nhau. Vì lâu ngày quá, tôi không nhớ rõ mật khẩu là gì, nhưng lúc đó, tôi chọn thái độ thụ động, chỉ trả lời mật khẩu một cách miễn cưỡng nếu được hỏi. Và khi trả lời, tôi phải làm ra vẻ mệt nhọc chán nản, của một thằng lính binh nhì, sau một ngày phải thu hàng chục cây số dây. Có như vậy, tôi mới có thể thoát khỏi những cặp mắt cú vọ của mấy tay chỉ huy sư đoàn và toán trinh sát gồm hơn một chục bộ đội, võ trang đầy đủ…
Khoảng cánh hai bên ngắn dần. Bây giờ thì tôi đã nghe rõ tiếng cười đùa của họ, tiếng chân của họ, và không đầy chục giây sau, chúng tôi đụng nhau…. Tôi nhìn họ với ánh mắt uể oải, dửng dưng. Ánh mắt của một vài người đụng ánh mắt của tôi. Tôi thấy được nét dửng dưng trong ánh mắt của họ. Tôi cũng cố giữ vẻ mặt thản nhiên, chân bước mệt mỏi, không thèm chào hỏi “thủ trưởng” như mọi khi, những thằng lính quèn chúng tôi vẫn phải làm khi gặp cán bộ, bộ đội cộng sản cao cấp. Trong thoáng chốc, họ đi qua tôi, và tôi đi qua họ… tuy khoảng cách hai bên chỉ trong gang tấc, nhưng không ai đụng vào ai. Xem ra, cả tôi lẫn họ đều không một ai bận tâm hỏi mật khẩu. Tiếng cười đùa, trò chuyện của họ vẫn đều đều…. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, toàn ban chỉ huy sư đoàn đã đi qua. Tôi vẫn tiến về phía trước trong tâm trạng hú hồn bạt viá. Như vậy là tôi đã thoát nạn một cách bất ngờ… Tôi mừng quá, lúc đó chỉ muốn vắt giò lên cổ mà chạy. Nhưng tôi vẫn cố gắng bình tĩnh bước những bước uể oải… Bỗng nhiên, tôi nghe có tiếng gọi giật giọng phía sau:
- Ê, đồng chí kia, đứng lại!
Tôi giật mình, tim thót lại, người lạnh toát, chân run rảy muốn khuỵ xuống. Nhưng linh tính báo cho tôi biết, tôi không khuỵ được. Khuỵ xuống lúc này là chết. Linh tính cũng bảo cho tôi biết, tôi đừng đứng lại ngay. Tôi phải bước một hai bước nữa… Ngay lúc đó, tiếng gọi thứ hai cất lên, lần này nghiêm khắc, có ý đe dọa:
- Ê, đồng chí kia, nghe thấy không? Đứng lại ngay!
Tiếp đó, một tiếng quát khác lớn hơn, đầy giận dữ:
- Đứng lại!
Kèm theo tiếng quát là tiếng kéo quy lát súng, tiếng đạn lên nòng. Tôi biết ngay, lúc này, ít nhất một nòng súng AK-47 đang chĩa về phía tôi. Tôi dừng bước nhưng không quay hẳn người lại, mà chỉ ngoái cổ nhìn về phía sau, với vẻ mặt cố tạo nét ngạc nhiên, khẽ nhíu lông mày, nhưng không hề hoảng hốt. Trong một giây đồng hồ ngắn
ngủi, tôi nhìn thấy rõ cả ban tham mưu sư đoàn trên dưới 30 người đều đứng thành hình cánh cung phía sau, và tất cả đều quay về phía tôi, cách tôi khoảng 7, 8 thước. Hai người trinh sát lớn tuổi, đứng phía bên phải đều cầm súng AK-47 trên tay, nhưng bộ điệu ung dung, không có vẻ gì là uy hiếp. Riêng tay trinh sát đứng gần tôi nhất, mặt còn rất trẻ, để bôï ria mép con kiến, đeo chiếc kính râm trễ xuống tận mũi, tay hườm khẩu AK-47 chĩa về phía tôi, thì đầy vẻ hung hăng, trong tư thế cận chiến, sẵn sàng nhả đạn. Những người còn lại, đều đứng im, nhìn tôi, vẻ tò mò nhiều hơn là nghi ngờ. Đến lúc này, tôi quay hẳn người lại, giả vờ ngây ngô hỏi:
- Đồng chí bảo tôi đứng lại?
Tay trinh sát trẻ sẵng tiếng, nói giọng mất dậy:
- Tao bảo mày đứng lại! Mày điếc hả?
Tôi nóng mặt, máu liều lĩnh nổi lên:
- Này, đồng chí đừng có ăn nói bố lếu bố láo nhá…
Tên trinh sát trẻ toan phát tác thì một tay bộ đội râu quai nón, tuổi ngoài 50, đứng ở phía bên trái, dơ tay ngăn tên trinh sát lại, rồi quay về phía tôi, hỏi giọng chậm rãi:
- Đồng chí thuộc đơn vị nào?
Câu hỏi này đối với tôi quá dễ. Nhưng tôi nghĩ rất nhanh, trong tình thế này, nêu tôi trả lời ngay, và trả lời hết những gì mình biết, thì sau đó, tôi không còn sự thật gì để có thể giải toả những nghi ngờ của chúng. Vì vậy, điều tốt nhất là tôi phải chủ động tạo sự nghi ngờ của chúng bằng thái độ bất hợp tác với chúng trong lúc đầu, để rồi sau đó, khi nghi ngờ của chúng đã định hướng theo đúng ý mình muốn, tôi sẽ từ từ hé lộ những sự thật tôi biết. Có vậy, tôi mới có thể thoát khỏi hoàn cảnh hiểm nguy này. Nghĩ vậy, thay vì trả lời, tôi hỏi lại:
- Còn đồng chí thuộc đơn vị nào?
Tay bộ đội râu quai nón, ngạc nhiên:
- Tôi hỏi đồng chí thì đồng chí phải có bổn phận trả lời…
Tôi lắc đầu, ương bướng:
- Tại sao, tôi phải có bổn phận trả lời đồng chí mới được chứ?
Tên trinh sát trẻ đột nhiên gầm lên, giọng du côn:
- Vì đây là thủ trưởng của tao, mày biết không!
Tôi bình tĩnh:
- Là thủ trưởng của đồng chí, nhưng không phải là thủ trưởng của tôi. Các đồng chí cũng biết, nguyên tắc bảo mật của quân đội không cho phép bất cứ người bộ đội nào tiết lộ đơn vị của mình cho bất ai, nếu chưa biết rõ họ là ai.
Người có râu quai nón trả lời, giọng kẻ cả:
- Chúng tôi là ban tham mưu sư đoàn 304 (vì lâu ngày, tôi không rõ là 304 hay 308) vừa đi thị sát mặt trận Quảng Trị về. Còn đồng chí thuộc đơn vị nào?
Đến lúc này tôi thấy mình vẫn nên lấy sự ương bướng để tự vệ. Tôi nói:
- Đồng chí nói thì tôi biết vậy, nhưng làm sao tôi tin được. Vả lại, dù cho có đúng các đồng chí là ban tham mưu sư đoàn 304 đi nữa, tôi cũng không có bổn phận phải cho các đồng chí biết đơn vị của tôi…
Tôi trả lời như vậy là hoàn toàn đúng với nguyên tắc bảo mật của quân đội trong hoàn cảnh chiến tranh, và nơi đóng quân là rừng rậm, địch ta có thể trà trộn. Điều nguy hiểm lúc đó là tôi thì chỉ có một mình, lại không có vũ khí. Còn bên kia trên 30 người, súng ống đầy đủ. Nhưng chính tương quan lực lượng chênh lệch như vậy lại là điều có lợi cho tôi, khi tôi tỏ ra ương bướng. Đây là cái thế lấy hư làm thực, lấy thực làm hư như phục binh Hoa Dung Lộ của Khổng Minh thời Tam Quốc bên Tàu. Tôi biết tôi sẽ giả vờ ương bướng với họ cho đến khi nào tôi và họ trao đổi mật khẩu. Và đây là bí quyết tôi gieo sự nghi ngờ qua thái độ ương bướng của mình, để rồi sau đó, khi nghi ngờ của họ lên đến đỉnh cao, tôi sẽ trả lời mật khẩu một cách thông suốt, giải tỏa hết nghi ngờ của họ.
Một người bộ đội lớn tuổi, đeo sà cột, ống nhòm, tay chống gậy, cất tiếng:
- Chúng tôi là ban chỉ huy sư đoàn 304 vừa đi thị sát mặt trận về. Gặp đồng chí đi có một mình, lại đi về phía địch nên nghi ngờ cũng có mà lo ngại cho đồng chí cũng có. Vì vậy chúng tôi phải chặn đồng chí lại hỏi…
Tôi biết, đã đến lúc tôi phải dùng tới lá bài tảy. Tôi hỏi ngay:
- Nếu đúng các đồng chí là ban chỉ huy sư đoàn 304, thì các đồng chí phải biết mật khẩu của ngày hôm nay là gì. Và chỉ khi nào các đồng chí hỏi đúng mật khẩu thì tôi mới tin, lúc đó tôi mới trả lời các câu hỏi của các đồng chí.
Nghe tôi nói vậy, tay bộ đội có râu quai nón liền đọc ngay mật khẩu, câu hỏi. Tôi liền giả vờ vui vẻ đọc ngay mật khẩu, câu trả lời. (*) Nghe tôi đọc đúng mật khẩu, quả nhiên, không khí nghi ngờ của mọi người gần như biến mất. Cả ba tên trinh sát đều đeo súng vào vai, thái độ cảnh giác, hằn học của tên trinh sát đeo kính râm cũng biến mất. Riêng tên bộ đội chống gậy vẫn nhìn tôi với ánh mắt thận trọng, không thân thiện. Y hỏi:
- Bây giờ đồng chí cho tôi biết đồng chí thuộc đơn vị nào?
Trong thời gian mấy phút đồng hồ sau đó, tôi trả lời trôi chảy các câu hỏi về đơn vị, tên của sư đoàn trưởng, chính uỷ sư đoàn, trung đoàn. Thậm chí cả hình dáng, thói quen đặc biệt, số điện thoại của từng người… tôi cũng trả lời trôi chảy. Sau đó, tên bộ đội chống gậy nói:
- Đồng chí có biết đồng chí đang đi về đâu không?
- Tôi biết chứ, tôi được lệnh thu toàn bộ mạng lưới hữu tuyến số 8A (*) của sư đoàn vì sư đoàn của tôi đã chuyển quân vào sáng hôm nay.
Tên bộ đội chống gậy nói tiếp, giọng quả quyết:
- Tôi không biết mạng lưới hữu tuyến số 8A của sư đoàn 324B nằm ở đâu, nhưng chắc chắn là không nằm về hướng này. Toàn bộ vùng này, từ Khe Gió đến Mai Lộc đổ về hướng đông, đều là vùng của địch. Đồng chí đi đường này là đi về phía địch, rất nguy hiểm… Vì thế, tôi đảm bảo đồng chí đang đi lạc đường rồi.
Nghe tên bộ đội chống gậy nói quả quyết như vậy, tôi thấy có lẽ tôi phải chấp nhận giả vờ quay trở lại nơi xuất phát, rồi chờ tối đến, sẽ “ra quân” lần thứ hai. Quyết định xong, tôi giả vờ hỏi han đường xá, phương hướng, rồi đồng ý đi theo ban chỉ huy sư đoàn 304 đến địa điểm tập kết gần căn cứ 36 (*) rồi chia tay. Địa điểm tập kết này là một ngã 3. Một đường chạy về căn cứ của sư đoàn 304, một đường chạy về căn cứ của sư đoàn 324B, và một đường chạy về hướng đông, xuống tới thị xã Quảng Trị.
Sau khi chia tay với ban chỉ huy sư đoàn 304, tôi giả vờ đi một đoạn dài, đến khi chắc chắn họ đã đi khuất ở phía bên kia sườn đồi một khoảng thời gian thật lâu, tôi liền rẽ ngay vào rừng, kiếm chỗ mắc võng nằm nghỉ, chờ tối hẳn sẽ “ra quân” lần hai. Sau thời gian gần tiếng đồng hồ đụng độ, đấu trí, tưởng như cầm chắc cái chết trong tay, tôi mệt nhoài, nên ngủ thiếp đi lúc nào không biết…
(*) Vì chuyển xảy ra cách đây 36 năm nên những chi tiết đánh dấu (*) là những chi tiết tôi không còn nhớ rõ. Kính mong bạn đọc thông cảm.

KỲ 6
Tôi giật mình tỉnh giấc là lúc bóng tối đã bao trùm lên vạn vật. Bầu trời lấp lánh muôn vạn vì sao. Sương đêm khiến tôi cảm thấy lạnh. Trong lòng tôi lúc đó vừa phập phồng lo ngại, sợ hãi, vừa bồn chồn háo hức. Kiến thức và kinh nghiệm của một người lính thông tin cho tôi biết, nếu tôi cắt đường thẳng theo đường chim bay, tôi sẽ đi bộ từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ là tới thị xã Quảng Trị. Vì không có đồng hồ, nên tôi ước đoán,
lúc đó khoảng 8 giờ tối. Như vậy, tôi sẽ tới thị xã Quảng Trị lúc 2 giờ sáng. Nhưng liệu tôi có đủ may mắn, được đặt chân tới thị xã Quảng Trị hay không? Trong hoàn cảnh chiến tranh, ngọn lửa thù hận được hun đúc, chết chóc xảy ra từng giây, từng phút, làm sao tôi có thể kịp cất tiếng chào, nói một lời thân thiện trước khi tôi bị người lính VNCH bắn gục? Đó là chưa kể tới mìn bẫy của cả hai bên đã được gài trên những con đường mòn… Tôi không biết chuyện gì sẽ chờ đợi tôi ở vùng ánh sáng đèn điện đầy quyến rũ nhưng cũng ngầm chứa những nguy hiểm bất ngờ. Đứng trên đồi cao, nhìn về thị xã Quảng Trị, tôi đắn đo hồi lâu rồi quyết định, vật đầu tiên tôi phải vất bỏ là chiếc nón cối. Vì nếu tôi tiến về phía “địch” trong đêm tối, thì dù tôi có không đeo súng ống gì đi nữa, bảo đảm, chiếc nón cối sẽ là mục tiêu đầu tiên để những người lính VNCH nhả đạn. Vật thứ hai tôi muốn vứt là chiếc ba lô. Nếu vứt được nó, tôi sẽ bớt nguy hiểm hơn. Nhưng trong ba lô là hơn chục cuốn sách tôi vô cùng yêu quý. Tôi đã mang nó trên suốt đường rừng Trường Sơn. Có nó, tôi luôn luôn cảm thấy ấm áp trong lòng, vì mỗi cuốn sách là một gạch nối kỳ diệu giúp tôi thoát khỏi cái thực tại cơ cực đầy nguy hiểm, chết chóc, để tâm hồn, khát vọng của tôi được chắp cánh, bay cao…
Sau một hồi suy nghĩ, tôi đành giữ chiếc ba lô và những cuốn sách quý lại. Đeo ba lô vào người xong, tôi nai nịt quần áo, giầy vớ thật gọn gàng, rồi choàng tấm nylon ra ngoài, để che bớt chiếc ba lô. Tôi hy vọng, với tấm nylon choàng bên ngoài, nếu người lính VNCH có trông thấy tôi, họ sẽ có một vài tích tắc ngần ngừ không biết tôi là địch hay ta. Và biết đâu, trong một vài giây đồng hồ lưỡng lự đó, tôi sẽ kịp dơ tay đầu hàng, sẽ kịp nói cho họ biết tôi là ai…
Đứng trên đồi cao, tôi nhìn về thị xã Quảng Trị. Muốn tránh được mìn bẫy và những ổ phục kích của cả hai bên, tôi biết tôi không thể nào đi theo những con đường mòn. Tôi phải cắt đường, đi theo đường chim bay, cho dù gian nan, cực nhọc và có thể có những nguy hiểm bất ngờ khác.
Sau khi định hướng đông tây và tìm một vì sao làm chuẩn, tôi bắt đầu con đường về với TỰ DO! Trong khoảng ba tiếng đồng hồ sau đó, lúc đi lúc chạy, lúc bò lúc nằm, lúc té nhào xuống một hố bom đầy nước lẫn bùn, lúc đụng phải cây, lúc bị dây kẽm gai kéo… tôi âm thầm hăm hở lao về phía trước với tất cả sức mạnh, ý chí, nghị lực của tuổi thanh niên. Có những lúc tôi phải leo qua mấy hàng rào kẽm gai, quần áo rách bươm, tay chân chảy máu. Có lúc tôi phải lội bì bõm qua những thửa ruộng, bùn dính bê bết. Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng luôn luôn lấy vì sao đó làm đích để lao tới. Cả người tôi lúc đó giống như một mũi tên đã rời khỏi cung, bay trong đêm đen, thẳng băng một con đường…
Khoảng 3 tiếng sau, tôi đặt chân đến con đường nhựa. Hai bên đường có những hàng cây cao thấp không đều và những cột đèn điện tỏa sáng từng đoạn, từng đoạn. Dọc đường, có những căn nhà của dân, nhưng tất cả đều đóng kín, tối bưng. Tôi ước chừng lúc đó khoảng 11 giờ đêm. Tuy tôi không biết sự phòng thủ của VNCH như thế nào, nhưng tôi biết, trong tình hình chiến tranh lúc đó, chắc chắn thế nào cũng có những toán trinh sát, những ổ thám báo, hoặc những ổ phục kích, những người lính đóng chốt ở một chỗ nào đó dọc theo đường phố. Để bớt nguy hiểm, tôi chọn đi giữa đường, miệng thì huýt sáo. Vì tôi không quen huýt sáo, nên tiếng sáo của tôi của tôi không to, hơn nữa, huýt sáo như vậy, tôi rất chóng bị mỏi miệng. Sau tôi tính hát, nhưng vì không biết bài hát nào, nên cuối cùung, tôi đọc to một bài thơ của Nguyễn Bính. Đó là bài thơ “Hoa và Rượu” tôi đã được cô Vinh ở Đồng Văn dậy cho học thuộc lòng khi tôi còn nhỏ. Lúc ấy tôi tin là đi giữa đường, dưới ánh sáng đèn đường, miệng thì ông ổng đọc một bài thơ, đầu lại không có chiếc nón cối, thì dù tôi có đánh thức bất cứ người lính VNCH nào, bảo đảm, họ sẽ ngạc nhiên, buồn cười, chứ không thể nào xả súng bắn chết tôi.
Tôi quên nói với các bạn một điều quan trọng nữa là tối hôm đó tôi đã cầm que để “dò mìn”. Nói ra, quý vị có thể cười cho tôi là thằng ngố, giống như “đồng hồ có cửa sổ” hay “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Nhưng sự thực lúc đó, tôi rất sợ đụng phải mìn. Qua chuyện trò với những người lính bộ đội trong đơn vị, tôi được họ kể, dọc theo các đường phố, lính VNCH thường hay cài mìn, với sợi dây dăng ngang đường, thấp dưới đầu gối, một đầu buộc vào kíp hỏa của một quả mìn định hướng Claymore. Nếu mình đi đụng phải sợi dây, là chỉ một tích tắc sau, cả thân thể sẽ bị vài trăm viên bi ghim đầy, chết không kịp la. Vì vậy, để có thể phát hiện được sợi giây mìn, tay tôi cầm một chiếc que thật mềm, luôn luôn dơ ra phía trước khoảng một thước mỗi khi tôi bước. Nếu đầu que đụng nhẹ dây mìn, tôi sẽ biết ngay, và kịp dừng lại, rồi tìm cách bước qua… an toàn. Tối hôm đó, quả thực tôi có cầm chiếc que dò mìn như vậy, nhưng suốt đường đi, tôi không hề gặp một sợi dây mìn nào.
Đi trên đường phố ngoại ô thị xã Quảng Trị được khoảng nửa tiếng đồng hồ, dần dần tôi thấy nhà cửa san sát hơn, đèn đường cũng mau hơn, mặt đường nhẵn nhụi hơn. Bỗng nhiên, tôi thấy một căn nhà còn có ánh đèn thấp thoáng qua khe cửa. Tôi dừng lại suy nghĩ. Trong lòng tôi lúc ấy, tôi rất tò mò muốn nhìn xem cuộc sống của một gia đình người Miền Nam như thế nào. Tôi cũng muốn ghé vô một nhà dân, kể lể ngọn nguồn câu chuyện của mình để họ có thể giúp đỡ, đưa tôi đến một đồn lính hay một cơ quan nào đó của chính phủ VNCH, cho tôi đầu hàng. Trong bối cảnh chiến tranh lúc đó, dĩ nhiên, tôi gặp một người dân, bao giờ cũng an toàn hơn bất ngờ gặp một người lính VNCH. Điều quan trọng nữa, tôi muốn đánh đổi bộ đồ bộ đội mà tôi đang mặc. Nếu có được một bộ đồ thường dân mặc vô, đi trong đêm tối để về với VNCH, chắc chắn sẽ an toàn hơn mặc một bộ đồ bộ đội.
Bước đến cửa, tôi ghé mắt nhìn qua khe cửa. Và ngay lập tức, những gì tôi thấy vào lúc đó, là những hình ảnh tuyệt vời ngự trị trong tâm hồn, trí óc tôi suốt mấy chục năm dài. Cho đến những giờ phút của hôm nay, khi viết những dòng chữ này, hình ảnh trong căn nhà tối hôm đó vẫn sống dậy, hiển hiện trước mắt tôi như chuyện mới xảy ra hôm qua, hôm kia….
Trong phòng lúc đó tôi thấy có một thiếu phụ đang ngồi may đồ. Bên cạnh thiếu phụ có một cô bé tuổi chừng 10, 12 tuổi. Nét mặt cô bé rất sáng, cặp mắt đen láy, phản chiếu ánh đèn điện nên càng thêm đen. Người thiếu phụ có một gương mặt thật phúc hậu, nhu mì. Chính nét đẹp nhu mì, mềm mại của người thiếu phụ đã khiến tôi chẳng còn nhớ được điều gì ngoài gương mặt. Hình ảnh hai mẹ con hạnh phúc bên cạnh chiếc máy may trong lúc đêm vào khuya, đã làm tôi thấy tha thiết vô cùng đối với cuộc sống gia đình, yêu thương vô cùng mảnh đất và con người Miền Nam. Đứng trước cái hạnh phúc lung linh đó, tôi thấy mình không nên gõ cửa, không nên bước vô quấy rầy, nhờ vả bất cứ chuyện gì. Tôi đứng đó, im lặng trong vài phút, tận hưởng cái hình ảnh hạnh phúc êm đềm của hai mẹ con, cái thinh lạnh tinh khiết của đêm khuya tịch mịch, để rồi bồi hồi, xúc động, tôi nhớ lại trong đau đớn, xót xa, cuộc đời muôn phần khổ cực, thiếu thốn của hai mẹ con bà Huệ ở làng Phú Đa, miền Bắc Việt Nam…
Từ làng tôi ở đến làng Phú Đa khoảng 3 hay 5 cây số, tôi nhớ không rõ. Ở Phú Đa có nhà thờ rất lớn và là nơi Công Giáo toàn tòng. Tôi thỉnh thoảng theo thày tôi đến Phú Đa chơi vì ở đó có một gia đình thông gia với thầy tôi. Con trai của ông lấy chị cả của tôi. Năm 1954, hai vợ chồng đều vô Nam, mở tiệm chụp hình ở Biên Hòa. Làng Phú Đa là một làng giầu có nổi tiếng. Vì vậy nên làng mới có tên đã Phú lại Đa. Gia đình ông thông gia rất giầu có. Nhưng đó là trước 1954. Sau này, cũng giống như thầy tôi, ông cũng bị quy chụp tôi địa chủ, bị đem ra đấu tố. Nhưng vì mảnh đất Phú Đa là đất Công Giáo toàn tòng, nên ở đó, lòng kính yêu Chúa, thương yêu người đã thấm sâu vào mỗi tâm hồn. Nhờ vậy, cơn lốc bất nhân, vô nghĩa, tranh ăn, giành uống, bon chen kèn cực, vu khống tội lỗi cho nhau, do những người cộng sản mang tới, đã
không đủ sức làm thay trắng đổi đen những tâm hồn đôn hậu của làng Phú Đa. Vậy nên tuy bị quy tội địa chủ, ông thông gia vẫn sống cuộc sống ung dung, không đến nỗi chật vật.
Tại làng Phú Đa tôi có quên một người bạn, và qua người bạn, tôi quen mẹ con bà Huệ. Bà Huệ có chồng là một người đàn ông tài hoa, chữa đồng hồ nổi tiếng khắp vùng. Chẳng may khi cộng sản nắm chính quyền, chúng bắt ông đi cải tạo. Được hai năm, ông mất vì nhiễm trùng uốn ván khi ông bị thương trong lúc cầy ruộng cho trưởng trại. Ông Huệ chết đi để lại hai người con gái tuổi còn nhỏ, và người vợ có gương mặt trầm buồn muôn thuở như những tháng mưa dầm gió bấc của Miền Bắc quê tôi.
KỲ 7
Trong một dịp tôi cùng người bạn đến thăm mẹ con bà Huệ thì gặp đúng lúc trời mưa tầm tã, nhà giột tứ tung, nước trong nhà chảy lênh láng không khác gì ngoài sân… Cả ba mẹ con bà Huệ, anh bạn của tôi và tôi, tất cả 5 người ngồi trong nhà trùm mấy miếng chiếu cói mà chịu trận, vì không thể nào kiếm được một chỗ khô ráo trong căn nhà. Tôi cũng xin thưa với quý độc giả, ngay cả căn nhà của gia đình tôi thời đó cũng vô cùng thê thảm. Mỗi khi trời mưa to, gió lớn, mái nhà của nhà tôi ở cũng giột tứ tung, nhưng ít ra, tôi còn kiếm được khoảng chục chiếc chậu sành to, nhỏ để khắp sàn nhà mà hứng nước mưa giột từ mái tranh. Đằng này, ở nhà bà Huệ, trong nhà nước mưa rơi như ở ngoài trời thì dù có cả trăm chiếc chậu cũng chẳng tài nào mà hứng nổi nước mưa…
Cho đến bây giờ đã 40 năm trôi qua, cuộc đời tôi đã trải qua không biết bao nhiêu kỷ niệm yêu thương, buồn giận, xót xa, phũ phàng, đau khổ,… nhưng khi viết những dòng chữ này, tôi vẫn thấy xúc động khôn tả, khi thấy hiển hiện trước mắt hình ảnh người thiếu phụ xinh đẹp trong những đường nét trầm buồn, bối rối như làm phải điều gì lầm lỗi chỉ vì phải tiếp khách trong cảnh trời mưa, mà gia cảnh thì túng thiếu cùng cực…
Vào thời buổi đó, tôi biết những cảnh túng thiếu, đau khổ đã bao trùm trên hàng vạn vạn nóc nhà trên quê hương Miền Bắc của tôi, mà dưới mỗi mái nhà, là mỗi bi kịch diễn ra hàng ngày hàng giờ qua những đường nét đau khổ khác nhau. Tôi cũng xót xa nhận ra, trong chế độ cộng sản, không những con người phải sống trong bi kịch, mà ngay cả chim muông, cầm thú, cỏ cây, cũng vật vã khổ đau… qua muôn hình vạn trạng.
Hai hình ảnh của hai người thiếu phụ, trong hai hoàn cảnh khác nhau, đã làm cho tôi xúc động vô cùng. Tôi bước ra ngoài đường nhựa, lủi thủi đi dưới ánh đèn để thấy bóng của mình dài ra, ngắn lại, rồi lại dài ra… Lúc đó, tuổi đời tôi còn rất trẻ, nhưng vì sớm phải sống trong đau khổ, túng bấn, thiếu thốn tình mẫu tử, nên tôi giống như một con chim phải tên, phải ná, lúc nào cũng dụt dè sợ hãi và trong thâm tâm luôn luôn cảm thấy mình đã biết buồn từ khi chưa biết cười, biết nói…
Trong niềm xúc động của tâm tư, trong sự khát khao hạnh phúc của gia đình, tôi đi trên đường mà tâm hồn chìm đắm trong sự thổn thức không thể nào đè nén, chế ngự… Lúc này, tôi chả thiết tha gì đến chuyện cầm que để dò mìn. Cái hạnh phúc tôi vừa được hưởng, được chứng kiến, quá lớn lao, nếu lúc ấy tôi có dẵm trúng một quả mìn, mìn nổ tung, khiến thân xác tôi tan ra làm trăm ngàn mảnh, tôi vẫn thấy hạnh phúc, được chết cùng với cái hình ảnh tuyệt vời mà tôi đã thấy…
Tôi đi như vậy được khoảng 20 phút, thì nghe có tiếng người nói chuyện ồn ào ở phía trước. Chậm rãi nép mình vào một thân cây, tôi quan sát, rồi từng bước, từng bước tôi tiến về phía tiếng ồn. Khi còn cách khoảng 50 thước, tôi nhận ra hình dáng một chiếc xe tăng ngay cạnh đường nhựa, dưới chân cầu. Triền dốc thoai thoải, và dưới ánh đèn, tôi thấy khoảng hơn chục người lính đang tụ tập trò chuyện quanh một cái bàn, hay thân cây gì đó. Tôi phập phồng vừa mừng vừa lo. Tôi không biết có nên đến gặp những người lính đó hay không. Tôi không biết khi tôi nói với họ tôi đi tìm tự do, họ có tin hay không? Trong cái không khí đầy chết chóc của thời chiến lúc đó, tôi cảm thấy có cái gì ngại ngùng, lo sợ một cách vu vơ. Tôi thấy những người lính đó ăn nói bạo dạn, khí phách ngang tàng quá nên tôi thấy ngần ngại…
Sau mấy phút suy nghĩ, chẳng hiểu sao tôi lặng lẽ lùi xa dần, lùi xa dần, rồi rẽ phải, đi dọc theo con đường về hướng nam. Cho đến bây giờ, tôi cũng không còn nhớ rõ, con đường tôi đi vào nửa đêm hôm đó là đườngnào, về đâu, nhưng tôi thấy ấm lòng và tự tin, tôi đã bước vào một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời. Cuộc đời của tôi trong mai hậu tôi không biết như thế nào, hạnh phúc hay khổ đau, nhưng tôi biết chắc, tôi sẽ sống không uổng phí khi tôi đặt chân đến vùng đất của Tự Do.
Lúc đó tôi đoán khoảng nửa đêm. Đường nhựa rộng thênh thang, vắng tanh vắng ngắt. Đi khoảng mươi, mười lăm phút nữa, tôi thấy hiện ra ở bên tay phải một đồn lính khá lớn. Trong sân đồn, xe lớn xe nhỏ đậu đầy. Những bao cát chất chung quanh với nhiều hình thù khác nhau. Ngay lối vào, có mấy hàng dây kẽm gai cuộn tròn, loại bùng nhùng, có thể kéo ra, kéo vô dễ dàng. Phía bên tay phải lối vào đồn có một chuồng cu cao khoảng hơn chục thước. Mỗi bên chuồng cu khoảng 3 thước. Nhìn lên chuồng cu tôi thấy có một nòng súng thò ra, nhưng im lìm bất động. Vì bốn phía của chuồng cu đều trống, nên tôi biết ngay trên chuồng cu không có một ai.
Thời tiết lúc đó rất nóng. Nhìn vào sân của đồn lính, tôi thấy ngổn ngan đủ các loại xe cộ. Bỗng dưng tôi trông thấy một chiếc xe đạp, dựa vào một góc tường. Ngay lập tức trong đầu tôi nảy ra ý định, đi vào sân đồn, lấy chiếc xe đạp, rồi đạp thẳng vô Huế. Ý nghĩ đó có thể nói là rất viển vông, nhưng với tôi lúc đó, là một kẻ không biết gì, thì lại là điều thích thú, tôi tin là mình có thể làm.
Sau khi quan sát động tĩnh một hồi lâu, tôi thấy quả thực cả đồn lính với không biết bao nhiêu xe cộ, quân trang, quân dụng,vũ khí, nhưng rõ ràng là chẳng có một ai canh gác. Yên tâm, tôi từ từ rón rén bước tới. Ngó quanh quẩn một lần nữa chỉ thấy đường xá vắng lặng, trong đồn thì im lìm, không tiếng động. Hít một hơi thở thật sâu, tôi bước tới, thò tay cầm cuộn dây thép gai kéo qua một bên, cho vừa đủ rộng để bước vô. Nhanh chóng, tôi bước mấy bước là lọt vô được sân đồn. Tôi hồi hộp quá, vội bước nhanh mấy bước tới cạnh chiếc xe Jeep. Nhìn vô trong xe, tôi thấy ngay một khẩu AR-15 dựng đứng, báng để trên ghế, nòng gác vào vô lăng. Ngay cạnh khẩu súng là một chiếc nón sắt. Trong đầu tôi thoáng qua ý nghĩ: Điều đầu tiên là tôi phải có một chiếc mũ sắt đội trên đầu. Vì đó là dấu hiệu đầu tiên có những đường nét thân thiện “phe ta” đối với người lính VNCH. Nghĩ đến là làm ngay, tôi dơ tay với chiếc mũ sắt, đội liền lên trên đầu.
Ngay lúc đó, tôi nghe thấy tiếng huýt sáo. Nhìn ra, tôi thấy ở phía xa xa, có người đang đi tới. Luống cuống, không biết làm thế nào, tôi vội vàng nhưng nhẹ nhàng, lùi dần, lùi dần về phía bóng tối, để người kia không nhìn ra tôi. Sự luống cuống, thiếu bình tĩnh đã khiến tôi có những phản ứng vô lý. Rõ ràng tôi đã chấp nhận về đây tìm tự do thì tại sao lúc này tôi không mạnh dạn bước ra giữa vùng ánh sáng nói rõ ý định của mình cho người lính VNCH biết? Nhưng bây giờ thì không kịp nữa rồi. Thân hình tôi đã khuất trong bóng tối, tạo cho tôi cảm giác yên ổn, an toàn, nên tôi muốn níu kéo lấy cái an toàn, dù là tạm thời đó.
Nhìn ra, tôi thấy dưới ánh sáng của đèn điện, một người lính cởi trần, mặc có chiếc quần đùi. Trên cổ lủng lẳng chiếc thẻ bài và một chiếc còi. Vì thời tiết lúc đó nóng, nên người lính vừa đi vừa huýt sáo, bộ điệu rất yêu đời. Tôi đoán, người lính đó có bổn phận gác chuồng cu, mới bỏ chuồng cu đi đâu đó, giờ quay trở về. Trong thoáng chốc, tôi không biết có nên bước ra nói rõ ý định của mình với người lính hay tiếp tục ẩn mình chờ lát nữa lấy xe đạp rồi đạp về Huế. Tôi chỉ nghe thấy Huế đẹp trong thơ văn, nay tôi muốn thấy Huế bằng mắt… Giữa lúc tôi đang lưỡng lự như vậy thì người lính đã bước tới gần chiếc xe Jeep. Tôi biết anh chỉ cần đi vài bước nữa là tới chân cầu thang của chuồng cu, và khi đó, anh sẽ leo lên đó tiếp tục phiên gác của mình. Đột nhiên, người lính gác dừng lại, ngó quanh. Thôi chết tôi rồi, người lính đã nhìn thấy vòng dây kẽm gai bị kéo sang bên. Người lính đã phát hiện có người đi vô đồn… Làm thế nào bây giờ đây?…
Đột nhiên ngay lúc đó, từ phía thị xã Quảng Trị có một chiếc xe tuần tiễu chạy tới, đèn pha chiếu sáng quắc. Ngay khi chạy tới gần đồn lính, xe quẹo cua về bên phải, nên ánh đèn pha của xa quét một vòng từ trái sang phải. Cả sân đồn lính, bao gồm mọi vật, trong đó có tôi, bỗng dưng hiện rõ mồn mộn dưới ánh đèn pha. Tôi hoảng hốt nhìn về phía người lính. Trong thời gian không đầy một tích tắc đồng hồ, linh tính cho tôi biết, người lính đã nhìn thấy tôi, và người lính cũng biết, tôi đã nhìn thấy ảnh. Chắc chắn, hình ảnh của tôi đứng núp cạnh chiếc xe GMC không phải là hình ảnh thân thiện gì. Quý độc giả cứ tưởng tượng, lúc đó là nửa đêm của thời chiến, của một đêm mà các sư đoàn của VC đang dần dần bủa vây Quảng Trị, và thị xã Quảng Trị đang trong tình trạng thiết quân luật. Giữa sân đồn lính, có một người đầu đội nón sắt của lính VNCH, thân lại choàng một chiếc áo mưa màu đen của bộ đội, đang đứng im phăng phắc, mắt mở to thao láo, và đối diện trong khoảng cách khoảng 10 thước là người lính VNCH, cởi trần, trong tay không có một tấc sắt….
Vì ánh đèn pha của chiếc xe tuần tiễu chỉ quét qua sân đồn khi quẹo cua, nên sau một hai giây đồng hồ, sân đồn trở lại tình trạng như cũ. Nghĩa là tôi lại ở trong bóng tối, còn người lính VNCH thì vẫn đứng giữa vùng ánh sáng. Từ lúc người lính nhìn thấy tôi cho đến giờ, anh hoàn toàn bất động, đứng im lìm bên cạnh chiếc xe Jeep. Còn tôi lúc đó cũng im lìm, không biết mình phải nói gì, làm gì. Tất cả những chuyện quan trọng này đáng lẽ tôi phải lường trước và phải chuẩn bị, nhưng tôi đã không làm.
Giữa lúc im lặng căng thẳng và bối rối như vậy, tôi nghe người lính hỏi:
- Ai?
Theo phản xạ tự nhiên, tôi trả lời:
- Tôi!
Trả lời xong, tôi biết, câu trả lời của tôi rất tối nghĩa. Tôi định cất tiếng nói nhưng lúng túng không biết nói gì. Ngay khi đó, tôi thấy người lính vẫn nhìn về phía tôi, nhưng tay trái của anh đang từ từ thò vào trong chiếc xe Jeep. Tôi biết ngay, người lính đang thò tay lấy khẩu AR-15 gác trên vôlăng xe. Vì vậy tôi vội nói ngay:
- Ông không cần phải dùng đến súng đâu!
Lập tức, tôi thấy người lính rụt ngay tay lại, rồi đứng yên, bất động. Thấy người lính như vậy, tôi hiểu ngay, anh đã hiểu sai ý của tôi. Câu nói của tôi lúc đó chỉ có ý, tôi về đây với thiện chí của một người bộ đội đi tìm tự do, chứ không hề có ác ý gì, nên anh đâu cần phải dùng đến súng. Nhưng trong cương vị người lính VNCH, khi nghe tôi nói như vậy, anh tưởng, tôi là người đã sẵn sàng súng ống, sẵn sàng nhả đạn và câu nói của tôi là một lời cảnh cáo… (Ôi, người lính VNCH tối hôm đó, giờ anh đang ở đâu? Nếu đọc được những dòng chữ này, xin hãy liên lạc với tôi…)

KỲ 8
Vì lúc đó, tôi vẫn còn đứng trong bóng tối, còn anh lính VNCH thì đứng dưới ánh sáng đèn điện, nên tôi nhìn thấy anh rõ mồn một, còn anh, nếu có nhìn thấy tôi thì cũng chỉ thấy một bóng đen mờ mờ mà thôi. Chính trong hoàn cảnh đó, nên câu nói tối nghĩa của tôi, “Ông không cần phải dùng đến súng đâu!” càng khiến cho bầukhông khí thêm căng thẳng. Nhận ra sự nguy hiểm của câu nói tối nghĩa, tôi vội vàng nói thêm:
- Tôi về đây là để đầu hàng các ông… Tôi không có ác ý gì cả… Tôi đi tìm tự do mà ông…
Tôi nói lắp bắp liền một hơi mấy câu vì nói xong câu trước, tôi vẫn thấy không rõ nghĩa nên phải nói thêm câu sau. Nói xong cả ba câu, tôi thấy vẫn chưa đủ, mà cần phải làm một hành động gì cụ thể và rõ ràng để thể hiện thiện chí của mình hơn. Nghĩ tới đó, tôi vội vàng bước ngay ra vùng ánh sáng đèn điện, hai tay dơ cao lên khỏi đầu…
Thấy tôi như vậy, người lính có lẽ đã hiểu rõ phần nào ý định của tôi, nhưng chắc chắn anh chưa thể nào tin tưởng ngay những lời tôi nói… Lập tức, anh đưa ngay tay vô trong chiếc xe Jeep, lôi khẩu AR-15 ra khỏi xe, lên đạn, chĩa nòng súng về phía tôi, rồi đưa ngay chiếc còi đeo ở cổ lên miệng thổi liền mấy hồi còi ròn rã…
Nhìn nòng khẩu súng AR-15 chĩa về phía mình trong khoảng cách không đầy 5 thước, tôi rùng mình sợ cứng cả người. Tôi hiểu, lúc đó, nếu tôi sơ sểnh có bất cứ hành động gì, khiến anh lính VNCH hiểu lầm, lập tức tôi sẽ ăn đạn. Vì vậy, tôi đứng yên bất động, hai tay dơ cao khỏi đầu, miệng lắp bắp mà không biết mình nói gì… Tôi biết rằng, lúc đó, tôi càng tỏ ra sợ hãi, nhút nhát bao nhiêu thì cơ hội sống sót của tôi càng lớn.
Sau khi thổi mấy hồi còi, người lính VNCH liền chĩa nòng súng AR-15 lên trời và bóp cò… Những tiếng nổ chát chúa vang lên từng tràng, phá tan sự yên tĩnh của đêm tối. Lập tức, từ trong căn nhà, mấy chục người lính chạy ra, có người cầm súng, có người không, có người đeo trên vai lủng lẳng những băng đạn,… nhưng hầu hết đều cởi trần. Tất cả đều vây tròn quanh tôi và anh lính gác… Tiếng huyên náo nổi lên, đủ các câu hỏi, tiếng hò hét, mà tôi thì quá hoảng hốt, nên chẳng nhớ được gì. Nhất là từ ngày đó cho đến nay, cuộc đời tôi liên tục trải qua những biến động kinh hoàng có, đau khổ có, yêu thương hạnh phúc cũng có, mà cái nào cũng lớn lao, sâu đậm, nên đến giờ phút này, ngồi viết lại, tôi chẳng còn nhớ được nhiều… ngoài những chi tiết quan trọng, tạo nên những bước ngoặt lớn lao của cuộc đời tôi.
Đầu tiên là những câu hỏi gay gắt, nghiêm khắc, và có cả những câu hỏi doạ nạt, đến từ đằng trước, đằng sau, bê trái, bên phải… mà tôi nhớ đại khái như thế này.
- Anh là ai?
- Tôi là bộ đội.
- Anh vô đồn này lúc nào?
- Tôi vô lúc nãy.
- Lúc nãy là lúc nào?
- Tôi không nhớ là lúc nào.
- Anh vô đã lâu chưa?
- Khoảng 15, 20 phút.
- Ngoài anh, còn những ai nữa?
- Chỉ có mình tôi thôi.
- Anh phải nói thật. Chúng tôi sẽ ra lệnh bao vây và kiểm soát toàn bộ khu vực này ngay bây giờ. Nếu phát hiện ra một người bộ đội thứ hai, là anh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Anh rõ chưa?
- Thưa, tôi rõ!
- Có đúng là anh vô đây chỉ có một mình không?
- Đúng, tôi vô đây chỉ có một mình!
- Anh bảo đảm không?
- Tôi “đảm bảo”!
- Anh vô đây làm gì?
-Tôi vô đây để đầu hàng các ông. Tôi muốn tìm tự do…
- Nếu vậy anh là hàng binh. Anh phải khai đúng sự thật, thì anh sẽ được đối xử tử tế như một hàng binh. Anh hiểu chưa?
- Tôi hiểu. Tôi cảm ơn các ông.
Ngay lúc đó, tôi thấy có một người lính VNCH lớn tuổi, khoảng gần 50. Trong khi những người lính đều cởi trần thì ông mặc quần áo đàng hoàng. Nét mặt của ông có vẻ khắc khổ, nhưng phúc hậu. Ông quay ra phía mấy người lính nói gì không rõ, một hồi… Sau đó, tôi thấy mấy người lính đứng quanh tôi tản mát, người đi vô nhà, người đi lên, kẻ đi xuống. Riêng người lính già bước lại phía tôi, nhấc chiếc mũ sắt ra khỏi đầu và nhìn tôi cười. Nụ cười của ông thật chân thật và thân mật vô cùng. Tôi xúc động nhìn ông, không nói nên lời. Sau những phút căng thẳng về trí tuệ và thân xác, được trông thấy nụ cười của của ông, và cặp mắt ông nheo nheo, lấp lánh dưới ánh đèn điện, tôi thở phào một tiếng và nhủ lòng: “Vậy là mình thoát chết!”
Người lính già cất tiếng, giọng Nam, ấm áp và chân tình:
- Chiếc mũ sắt này nặng lắm. Bỏ ra cho đỡ nặng. Bây giờ chú em theo qua lại đây.
Tôi ngoan ngoãn đi theo ông. Chung quanh vẫn còn những người lính và những cặp mắt tò mò nhìn theo tôi. Chỉ một chiếc ghế đẩu ngay gần cửa, người lính già bảo tôi ngồi. Tôi vừa ngồi xuống, thì người lính già cúi xuống, ghé sát mặt tôi, rồi nói vừa đủ để tôi nghe:
- Qua trông chú em là qua biết chú em thiệt thà. Qua dặn chú em điều này, chú em phải nhớ kỹ và làm đúng như lời qua dặn nghe. Được vậy thì chú em đỡ khổ nhiều lắm…
Nghe vậy, tôi hơi lo lo, nên chỉ biết gật đầu nhẹ, mà không nói thành tiếng. Nhìn ra chung quanh, tôi vẫn thấy có những người lính VNCH đang nhìn tôi. Trong ánh mắt của họ, tôi thấy có sự tò mò, nỗi thương hại, và có cả sự tinh nghịch, thích thú trong đó…
Tiếng người lính già lại cất lên:
- Từ rày trở đi, có ai hỏi chú em về làm gì, thì chú em trả lời tôi về “chiêu hồi” nghe chưa. Chú đừng nói chú về đầu hàng. Vì nói vậy, là qua sẽ phải coi chú là hàng binh, là phải nhốt tù chú. Rồi sau này hết chiến tranh là qua sẽ phải trả chú về bển cho VC đó.
Nghe người lính già nói vậy, tôi giật mình, và tỉnh người ngay. Thực ra, từ khi đặt chân đến lãnh thổ Miền Nam, hành quân xuống vùng Nam Lào ngay sau khi trận Lam Sơn 719 kết thúc, tôi đã từng nhặt được những tờ truyền đơn do phi cơ thả khắp trong rừng. Nội dung của những tờ truyền đơn đó là kêu gọi cán binh, bộ đội VC ra “hồi chánh”, “trở về với chính nghĩa quốc gia”. Mỗi tờ truyền đơn là một giấy thông hành, trong đó chỉ rõ, bộ đội, cán binh VC cầm tờ giấy đó trình với bất cứ cơ quan công quyền hay đơn vị QLVNCH nào, lập tức sẽ được đối xử tử tế… Tuy được đọc những tờ truyền đơn đó, nhưng tôi không bao giờ cất giữ, vì làm vậy sẽ rất nguy hiểm… Bây giờ nghe người lính già nói vậy, tôi xúc động và mừng quá, vội trả lời:
- Con cảm ơn “qua”. Con nhớ rồi. Từ giờ trở đi ai hỏi con về làm gì, con sẽ trả lời con về “chiêu hồi”…
Thú thực với quý độc giả, ngay từ giờ phút đó trở đi, hai chữ “hồi chánh” đối với tôi rất thân thương và là niềm tự hào. Sau này, được hội nhập với đời sống của Miền Nam, được đi đây đó, học hành, làm việc, bất cứ ở đâu, gặp bất cứ ai hỏi, tôi đều tự hào nói, tôi là một “hồi chánh viên”. Cũng giống như sau này, khi trở thành một người Việt tỵ nạn, tôi cũng rất tự hào với hai chữ “tỵ nạn chính trị”. Những khi đi làm hãng xưởng, trò chuyện với người Úc, tôi bao giờ cũng dõng dạc và tự hào nói “I’m a political refugee”.
Trong thời gian về Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè, tham dự khoá giảng huấn do Bộ Chiêu Hồi tổ chức, tôi nhớ có một anh bạn, người Hà Nội, cũng chiêu hồi, đã đứng lên thắc mắc về chữ “hồi chánh”. Theo anh, chữ “hồi chánh” chỉ dành cho người đã đi theo tà phái rồi biết đường ăn năn, hối cải, quay trở về nẻo chánh thì mới gọi là hồi chánh. Nghe anh bạn nói, tôi thấy cũng có lý. Bản thân tôi từ khi còn bé đã không ưa gì cộng sản. Tôi không hề bao giờ có ý “phấn đấu” để được vô đoàn thiếu nhi, đoàn thanh niên. Cả cuộc đời tôi luôn luôn tránh xa những ai là đảng viên cộng sản. Tôi luôn luôn cho rằng, bất cứ ai đã là đảng viên cộng sản thì thể nào cũng biến chất và không bao giờ là một con người có lòng nhân ái, biết trọng lễ nghĩa, biết yêu thương nhau một cách chân thành. Duy vật biện chứng và tham vọng phấn đấu trên đường danh vọng của người cộng sản, sẽ giết chết tất cả những gì được gọi là thuần lương vốn có ở con người. Và tôi biết rằng, trong suốt những năm tháng tôi ở Miền Bắc, đâu đâu tôi cũng thấy nhan nhản những người Việt Nam là nạn nhân của chế độ cộng sản. Còn người Việt Nam là cộng sản có rất ít. Cả một làng quê tôi sống, cả mấy ngàn dân, hoạ may chỉ có khoảng 100 người cộng sản là cùng. Nếu lúc đó ở Miền Nam có ai bay ra được Miền Bắc mà nhìn xuống, người đó sẽ thấy cả xã hội Miền Bắc, hàng chục triệu người sống khổ sở, đói khát, lạnh lẽo và không hề có tự do, lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi, sợ cả người hàng xóm, sợ cả chính người cũng khổ sở như mình… Trong số đó, có rất nhiều người ngày đêm dí sát tai vào chiếc radio, nghe ngóng tin tức về những cuộc “Bắc tiến” của Miền Nam. Trong số những người ôm radio, ngóng đợi, mong chờ tin “Bắc tiến” đó có thầy tôi và ông Tổng Tu, thông gia với thầy tôi, mỗi khi thầy tôi ghé thăm ông ở Hà Nội vào dịp tết.
Mỗi năm, vào dịp tết đến, thầy tôi thường dắt tôi đi bộ qua hàng chục làng mạc khác nhau, rồi mới về đến quê là làng Đầm mà trên giấy tờ gọi là làng Bích Trì. Tại làng Đầm, ba tôi dắt tôi thăm mộ tổ, mộ ông nội, mộ bà nội, mộ ông ngoại, một bà ngoại, mộ chị Phúc, rồi mộ họ hàng chú bác…. Tất cả các ngôi mộ đó đều xây rất to. Nhất là mộ tổ xây vuông vức, mỗi chiều 4, 5 thước, cao tới ngực của tôi. Trong mộ tổ có 3 ngôi mộ khác xây vòng tròn. Riêng mộ chị Phúc, và mộ bà, khi qua đời là lúc ba tôi đã bị đấu tố địa chủ, rau cháo còn không có ăn, thì làm sao có tiền xây mộ. Bà nội tôi khi qua đời, ba tôi không có đủ tiền để mua một ngọn đèn cầy, một nén nhang, thì làm sao mua nổi chiếc quan tài. May mắn, lúc đó có cụ lang An tuổi đã cao, con cháu đã mua sẵn cho cụ chiếc quan tài để trong nhà, nên khi thấy bà nội của tôi mất, cụ lang An thương thầy tôi, không muốn bà nội của tôi phải bó chiếu chôn, nên đã cho thày tôi chiếc quan tài của cụ… Nhờ nghĩa cử to lớn đó, nên ba tôi lúc nào cũng coi cụ lang An là một đại ân nhân của gia đình. Và hôm nay, khi viết những dòng chữ này, tôi cũng rưng rưng lệ và âm thầm cầu nguyện cho cụ lang An được mãi mãi vinh hiển trên nước Chúa…
Vì mộ bà nội và mộ chị Phúc chỉ là nấm đất nhỏ bé, sơ sài, nên năm nào cũng vậy, ba tôi và tôi phải mất mấy tiếng đồng hồ, làm cỏ, dọn dẹp và khiêng những cục đất tảng, hoặc những viên gạch vỡ ở chung quanh về đắp lên trên mộ. Ba tôi vừa làm vừa khóc. Tôi cũng khóc theo. Làm xong, ba tôi và tôi đứng đọc kinh cầu nguyện thật lâu… Tết ở Miền Bắc bao giờ cũng là mùa đông lạnh lẽo, mưa phùn gió bấc. Mà gia đình của tôi lúc đó nghèo lắm, quần áo không có đủ để mặc. Lúc nào cũng phong phanh một bộ, rách như tổ đỉa, vá chằng vá đụp. Trong khung cảnh lạnh lẽo đó, ba tôi và tôi vừa mệt nhọc, vừa đói khát, chùm chung một manh áo mưa rách, vừa đọc kinh, vừa nhìn một bà, một chị Phúc… mà khóc…
Thầy tôi sống trong cảnh gà trông nuôi con, cả đời chỉ biết dùi mài kinh sử, yêu quý lời của thánh hiền, luôn luôn dậy tôi “khai quyển hữu ích”, mở sách là có lợi, nên đâu có biết gì đến kim chỉ. Nhưng do hoàn cảnh, phải cầm kim cầm chỉ để khâu vá quần áo cho tôi. Vì vậy, những miếng vá của thầy tôi trông xấu xí vô cùng. Thậm chí có
những miếng rách nhỏ, không có vải để vá, thày tôi chỉ lấy chỉ quấn quanh mấy vòng thành cái núm nhỏ, nên quần áo của tôi trong méo mó thê thảm. Mỗi khi đi học tôi xấu hổ với bạn bè vô cùng, và thường xuyên bị bạn bè dè bỉu. Đã mang tiếng là con địa chỉ, mà lại nghèo khổ nữa nên tôi khổ sở, đi học mà lúc nào cũng như con chim bị tên sợ đậu phải cành cây cong. Những lúc đến giờ ra chơi, tôi thường ngồi chết dí trong lớp, không dám ra ngoài, vì sợ bị chêu trọc, sợ những miếng vá trên quần áo, có thể rách, có thể tuột chỉ, làm trò cười cho thiên hạ….
KỲ 9
Sau khi thăm mộ và viếng thăm họ hàng ở làng Đầm, ba tôi và tôi sẽ đi bộ lên ga Phủ Lý. Từ làng Đầm lên Phủ Lý có 5 cây số. Trên đoạn đường 5 cây số đó, chúng tôi đi dọc theo khúc đê ngoằn ngoèo bên dòng sông Châu. Đó là đoạn đường thật tuyệt vời về mùa hè vì gió từ sông Châu lúc nào thổi lên cũng mát rượi, và dọc theo bờ đê là những rặng ổi chạy dài, khiến không khí lúc nào cũng được ướp trong mùi thơm của ổi. Mỗi khi đi qua đấy, tôi đều hít những hơi thở thật căng lồng ngực và thấy thật yêu đời…. Sau này, trong những năm tháng xuôi ngược khắp mọi miền đất nước, và ngay cả khi sang Trung Cộng, đến Hồng Kông, rồi định cư ở Úc, nhưng không hiểu sao, mỗi khi tôi hít một hơi thở đầy lồng ngực là tôi lại thấy thoang thoảng mùi thơm của trái ổi phảng phất trong không gian… Thì ra, quê hương là một cái gì thân thương, êm dịu, ngọt ngào và đi vô trong tiềm thức một cách vô hình, không thể nào giải thích được. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ đến những con đường lầy lội, những vũng nước chân trâu của quê nhà. Nhớ cái đẹp, cái thơm tho còn dễ hiểu, nhớ cả những cái xấu xí của quê hương, mới lạ lùng, khó hiểu…
Tới ga Phủ Lý, chúng tôi chờ mua vé có khi ghé Đồng Văn chơi, rồi sau đó ghé Hà Nội, đến nhà bà chị ở phố Huế. Trong những ngày tháng khi còn ở tuổi ấu thơ, đầu óc của tôi lúc nào cũng đày ắp những mộng mơ, những trò chơi tinh nghịch, và thành phố Hà Nội là cả một quyến rũ vô cùng đối với tôi. Nhưng chẳng hiểu sao, trải qua mấy chục năm trời, mỗi khi nghĩ đến Hà Nội, hình ảnh khắc sâu vào tâm trí của tôi vẫn là hình ảnh ba tôi và ông thông gia ngồi trên cái sập gụ, cùng ghé sát tai vào chiếc radio để trên chiếc tủ chè khảm xà cừ. Cả hai cùng chăm chú lắng nghe những chương trình phát thanh tiếng được tiếng mất từ chiếc radio, rồi cùng xầm xì bàn tán với một vẻ mặt vô cùng hệ trọng. Sau này, lớn lên một chút, tôi mới biết là cả hai cụ đều nóng lòng trông đợi từ chiếc radio tin tức “Bắc tiến” để đảo lộn cuộc đời…
Cuộc đời của ông thông gia với thầy tôi là cả một bi kịch điển hình cho những người Việt có lòng yêu nước, nhưng ngây thơ về cộng sản. Ông người làng Đồng Văn, gia đình danh giá. Sau ông lên Hà Nội học hành và tài giỏi có tiếng. Trong suốt thời gian 9 năm kháng chiến chống Pháp, vì lòng yêu nước và ảo tưởng về những người Việt Minh, ông đã dùng tài ba và sự quen biết của ông với người Pháp, buôn bán thuốc tây và xăng nhớt cho Việt Minh. Qua những câu chuyện giữa ba tôi với ông Đồ Tường, ông Lang An, tôi biết được, trong những năm đầu thập niên 1950, ai đáp xe lửa từ Phủ Lý đi Hà Nội, qua ga Đồng Văn, sẽ thấy những cách đồng chạy dài dọc theo đường xe lửa, chất đầy những phuy xăng, loang loáng phản chiếu ánh sáng mặt trời. Đó là những phuy xăng của ông thông gia, chờ đợi chuyên chở vô các mật khu kháng chiến của Việt Minh. Chính nhờ có công với Việt Minh như vậy, ông thông gia được Việt Minh cấp cho cả xấp giấy “Tổ quốc ghi công”. Ôm xấp giấy đó trong lòng, ông đinh ninh tin tưởng, khi “cách mạng thành công”, Việt Minh trở về tiếp quản thủ đô Hà Nội, ông sẽ được VC đãi ngộ như là một đệ nhất ân nhân… của chế độ CS.
Vì đinh ninh như vậy, nên năm 1954, ông nhất định ở lại Hà Nội, và bắt luôn mấy người con cũng phải ở lại với ông. Gia đình ba tôi có 2 người chị, lấy 2 người con trai của ông. Đến năm 1954, một người con trai của ông nhất quyết vô Nam cùng với vợ con. Gia đình người này sau sống ở Sàigòn. Khi tôi vô Nam gặp lại và sống với người chị và ông anh rể đó. Còn lại một bà chị nữa thì phải ở lại cùng với chồng ở Phố Huế, Hà Nội. Ông thông gia còn có một người con trai út, đang học Y khoa thì năm 1954 ập đến cùng với tất cả những đau thương, bi kịch và mọi ảo tưởng, hy vọng của gia đình bị sụp đổ. Nhà cửa của thông gia lần lượt bị tịch thu, của cải phải xung công để “giúp đỡ cách mạng vì buổi ban đầu cách mạng còn rất nghèo, đất nước còn gặp nhiều khó khăn”. Thậm chí ngay cả tòa nhà hai tầng ở Phố Huế là nơi gia đình ông thông gia cư ngụ mấy chục năm trời, VC cũng cho người đến ở chung và theo dõi. Ngay cả chiếc xe hơi cuối cùng của ông, VC cũng không chịu cấp phát bông xăng, nên xe phải nằm ụ một đống cho đến khi không còn hy vọng gì ở sự trả ơn của người VC, ông thông gia mới chịu “hiến không cho cách mạng”. Mặc dù của chìm trong nhà vẫn còn, VC khu phố bắt ông phải đi làm, chứ không được phép “ngồi không ăn bám”. Cuối cùng, ông đành phải cuốc bộ ngày 4 lần đi làm cho một hãng làm mũ, cách đó khoảng 2 khu phố, để nhận những đồng lương chết đói.
Quá phẫn uất trước cuộc đồi đời và hoàn toàn thất vọng, bế tắc trước cuộc sống không có tương lai, người con trai út của ông thông gia là anh Q. đã lên đường vượt tuyến vô Nam, qua dòng sông Bến Hải. Năm đó là năm 1956 hay 1957 gì đó. Khi tôi ghé chơi căn nhà Phố Huế, những đứa cháu gái của tôi còn chỉ cho tôi những tấm hình anh Q. khắc trên sân thượng, và được nghe kể về những huyền thoại ngang ngược tung hoành của anh tại Hà Nội. Sau này, vô Nam, tôi lại được gặp anh, được chứng kiến cuộc sống ngang tàng, lúc thịnh lúc suy của anh. Nghe đâu lúc gặp thời, anh được trọng dụng, vì anh là một trong những người hồi chánh đầu tiên tại Miền Nam. Anh có xe hơi riêng, và nghe nói có lúc, anh nắm quyền điều động một trung đội lính nghĩa quân có trách nhiệm bảo vệ Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè.
Tôi phải dài dòng một chút về những kỷ niệm xưa, để qúy độc giả hiểu rõ hơn những cảm xúc, những rung động khi tôi được gặp gỡ lần đầu tiên những người lính VNCH, những người lính mà ba tôi và ông thông gia, cùng không biết bao nhiêu triệu người Việt trên đất Bắc đã ngày đêm mông đợi họ sẽ ào ạt đổ quân lên đất Bắc trong một cuộc Bắc tiến giống như hai thế kỷ trước, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, giải phóng quê hương khỏi họa ngoại xâm nhà Thanh.
Nửa đêm hôm đó, ngồi trong đồn lính cảnh sát dã chiến, ngay cạnh thị xã Quảng Trị, tôi bâng khuâng nhìn những người lính, nhìn cảnh xe cộ, súng ống… Giữa lúc tôi đang còn sống trong mộng như vậy thì đột nhiên, từ phía thị xã Quảng Trị có hai chiếc xe Jeep phóng thẳng vô đồn. Trên hai chiếc xe, tôi thấy có nhiều người lính, hoặc sĩ quan, nhưng tôi không rõ cấp bậc. Tôi chỉ nhớ có một người lính ăn mặc rất đẹp, quần áo ủi hồ cứng bóng, điệu bộ rất tài tử, và khẩu súng anh ta đeo ở hông cũng đặc biệt, để lộ ra chiếc báng súng bằng ngà. Cho đến nay, tôi cũng không biết rõ cấp bậc anh ta là gì. Nhưng tối hôm đó, anh có vẻ xếp sóng vì tôi thấy anh liên tục ra lệnh… Sau đó, tôi được lệnh lên xe theo anh về gặp xếp của ảnh.
Vừa mới lên xe ngồi, tôi đang bâng khuâng thì người lính già xuất hiện, thò tay nắm lấy tay tôi. Bàn tay ông xương sẩu, ram rám, gân guốc, chai sạn. Ông bóp lấy bàn tay tôi, như một sự gửi gắm, nhắn nhủ… Tôi rất xúc động. Chỉ mới có không đầy nửa tiếng đồng hồ, mà tình cảm của tôi đối với ổng thật sâu đậm… Sau đó, ổng vỗ vai người sĩ quan tài tử ngồi phía trước tôi và phía bên phải người tài xế, rồi ổng nói đại khái:
- Mày nhớ là chú em này về chiêu hồi đó nghe. Đãi ngộ xứng đáng, và nhớ là không được còng tay còng chân gì đó…
Tối hôm đó, sau khi gặp tướng Giai, tôi được đưa về một căn phòng có khóa. Tại đây, tôi được trao cho một bộ đồ lính VNCH. Vì bộ đồ bộ đội tôi mặc lúc đó rách bươm, nhất là hai ống quần dính bê bết máu. Máu đã khô, làm vải quần dính chặt vào da, cởi ra đau đớn vô cùng. Một người lính VNCH phải dắt tôi xuống bếp, lấy nước sôi pha với nước lạnh cho ấm, rồi đắp lên hai ống quần cho mềm. Sau đó, anh lính lấy kéo cắt ống quần thành từng mảng nhỏ, rồi gỡ dần thật nhẹ nhàng. Vậy mà tôi vẫn phải chịu đựng đau đớn gần một tiếng đồng hồ mới gỡ hết tất cả những miếng vải của chiếc quần bộ đội khỏi đôi chân của tôi…
Tối hôm đó, món ăn đầu tiên tôi được thưởng thức trên vùng đất tự do là gói đậu phộng da cá, do chính người lính đẹp trai đưa. Sau đó, tôi được ăn cơm xấy, đồ hộp, được đưa đi tắm rửa rồi lên giường ngủ một giấc đầy ác mộng. Trong giấc ngủ, tôi nằm mơ thấy tôi bị hàng chục tên VC đuổi bắn. Tôi bị trúng đạn vào cổ, máu chảy tung tóe, nhưng tôi vẫn chạy. Tôi chạy nhanh lắm, và càng chạy nhanh thì vết thương ở cổ của tôi càng xé to ra, gió lùa vào càng mạnh, khiến máu càng phun ra có vòi, và tôi nghe thấy cả tiếng gió hú từ vết thương thành tiếng u… u… Đến đó tôi giật mình tỉnh dậy, toát mồ hôi, kinh sợ hồi lâu… để rồi vui mừng nhận ra là mình đang nằm mơ… ở giữa vùng trời tự do!
Trong suốt những năm sau này, cơn ác mộng đó thỉnh thoảng vẫn đến với tôi. Lúc đầu thì thường xuyên, tháng độ vài lần. Sau thưa dần rồi mất hẳn… Nhưng điều kỳ lạ là khi VC vô Nam năm 1975, thì bỗng dưng cơn ác mộng đó lại xuất hiện. Vì phải sống trong những cơn ác mộng như vậy, nên tôi luôn luôn đinh ninh thế nào cũng có ngày tôi bị VC bắn chết ý hệt trong mơ. Cho đến khi tôi phải bơi qua sông Calong, vượt biên sang Trung Cộng vào ngày 1 tháng 10 năm 1978 (tôi nhớ ngày đó vì đó là ngày Quốc khánh của Trung Cộng), tôi vẫn còn tiếp tục sống với cơn ác mộng y hệt như cơn ác mộng tôi trải qua ngay trong đêm đầu tiên đặt chân đến vùng đất của tự do. Rồi khi đặt chân đến Úc, phải vô bệnh viện Randwick để điều trị vết bầm trong phổi (vì tôi bị hơn chục vệ binh quản giáo VC đánh hội đồng tại quân lao Gò Vấp vào năm 1976), tôi vẫn còn gặp và phải trải qua những cơn ác mộng như vậy, và có những đêm khuya, tại bệnh viện Randwick tôi đã vừa chạy vừa la hét ầm ĩ…
Khi tôi về đến Quảng Trị là lúc VC bắt đầu pháo kích vô thị xã. Vì vậy, tôi chỉ sống ở Quảng Trị có vài ngày, sau đó được đưa về Đà Nẵng. Tại đây, tôi được gặp một vài anh bạn bộ đội hồi chánh khác, trong đó có hai anh nguyên là tù binh nhưng được đổi sang dạng hồi chánh. Lúc đó, chúng tôi có khoảng 5 hay 6 người. Được cấp tiền riêng để đi chợ mua đồ ăn rồi về nấu nướng ăn uống với nhau. Điều tôi thấy lạ lùng nhất là hầu như không có một người lính VNCH nào tỏ ra nghi ngờ theo dõi chúng tôi. Đồng ý, trong lòng của tôi, khi về chiêu hồi là thực lòng. Nhưng tôi biết, không phải người hồi chánh nào cũng thực lòng. Sống trong chế độ CS hai chục năm trời, tôi hiểu, người CS có trăm phương ngàn kế để trà trộn, thâm nhập, phá hoại. Nhưng trong những ngày tháng đó, chúng tôi hoàn toàn được sống tự do, được đi chợ mua sắm, mà không hề có một người lính nào theo dõi, giám sát.
Một hôm, tôi và anh Nhị, cùng mấy hồi chánh viên khác được lên xe đi ra phố mua sắm. Đó là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một khu chợ búa sầm uất của Miền Nam tự do. Hàng hóa tràn ngập, đồ ăn thức uống không thiếu thứ gì. Nhưng điều làm tôi xúc động nhất, thấy cuộc đời đi tìm tự do của mình có ý nghĩa nhất là một quầy sách có đủ những loại sách mà tôi có nằm mơ cũng không thể thấy. Trong suốt cuộc đời 20 năm của tôi ở Miền Bắc, tôi luôn luôn khao khát được đọc. Đọc bất cứ thứ gì, miễn sao nó có chữ. Nhất là những cuốn sách bị cấm thì nó luôn luôn có một ma lực lôi cuốn vô cùng. Nói đúng ra, tất cả những sách cũ, xuất bản trước năm 1954, đều là sách cấm. Mượn được những cuốn sách loại này là cả một ơn huệ vô cùng to tát đối với tôi.
KỲ 10
…Cũng vì lòng ham mê đọc sách cấm, nên ngay từ khi mới trên dưới 10 tuổi, tôi đã thường xuyên bị ông anh đánh đòn chỉ vì tội, lấy trộm sách của ông đọc lén. Trong căn nhà của tôi ở vào những năm đầu thập niên 1960, là một căn nhà tranh, nghèo nàn, nền đất lồi lõm giống như ngoài sân, vách cũng làm bằng bùn trộn với rơm. Trong căn nhà nghèo khổ đó, có những vật dụng quý phái tương phản một cách lạ lùng. Chúng là dấu tích của thuở vàng son của gia đình tôi ngày xưa để lại. Đó là một chiếc lọ lục bình bị bể miệng, cao gấp rưỡi tôi. Là chiếc điếu ống khảm bạc, có chiếc cần cong vút bằng đồng. Là hai chiếc thùng bằng sắt tây to bằng hai người ôm, cao gần bằng tôi, có dòng chữ vừa tiếng Việt vừa tiếng Hoa, “Thuốc Lào Vinh Ký”. Vinh Ký là tiệm thuốc lào của nhà tôi ngày xưa ở Hà Nội. Ngoài ra, còn mấy tấm câu đối chữ nho, và một bức hoành phi thật to, có 3 chữ nho, “Thừa Thiên Ưu”. Qua những câu chuyện của thầy tôi với những người bạn của ông cụ khi họ tới thăm, mà tôi có dịp say sưa ngồi hóng chuyện, và say sưa hít khói thuốc lào, tôi biết được, bức hoành phi đó do một người tặng thầy tôi khi ông cụ ăn khao, với ý nghĩa, mọi sự giàu sang phú quý vinh hiển mà thầy tôi có được là nhơ ân nghĩa của trời…
Những vật dụng mang dấu tích vàng son đó đã được đào lên từ chiếc hầm ở làng Đầm, sau khi thầy tôi được xuống địa chủ. Khi đào hầm mới biết, phần lớn những của cải thầy tôi chôn xuống khi phải “tiêu thổ kháng chiến” đã bị ai đó đào lên lấy gần hết. Trong số những vật dụng dấu tích vàng son của ngày xưa ấy, tôi mê đắm nhất là những bó sách cũ, mà ông anh tôi cất ở trên trần nhà. Những cuốn sách cũ được buộc dây cẩn thận, chừng khoảng 50 cuốn mỗi bó. Những bó đó được xếp lên trên hai chiếc cột bắc ngang trần nhà. Hai chiếc cột đó to bằng cổ chân, sơn son thếp vàng, và có con rồng cuốn ở một mặt cột. Theo lời của ông anh tôi, thì đó là hai chiếc cột khiêng võng ngày xưa. Nhưng những cột đó cột võng như thế nào, khiêng võng ra sao, thì tôi cũng không biết.
Vì mê sách cấm, nên tôi cứ rình những khi anh tôi đi vắng, là tôi vội vàng bắc ghế, leo lên, rồi rút từng cuốn sách ra đọc say sưa. Vì còn quá bé, tôi không thể nào đủ sức lôi xuống cả bó từ trên trần nhà. Tôi cũng không thể nào đủ khôn khéo để có thể nhét những cuốn sách đã đọc xong vào trong bó cho ngay ngắn như cũ. Kết quả là sau một thời gian rút sách ra đọc, bó sách sẽ xộc sệch, để rồi một ngày kia, cả bó sách rớt xuống, văng vãi khắp mọi nơi. Sau đó, là một trận đòn nhớ đời, mà số roi đòn, tôi phải tình nguyện tự nhận qua một cuộc “tự kiểm thảo” trước mặt anh tôi.
Tôi có thể nói, ở cả Miền Nam, và kể cả Miền Bắc, tất cả những học sinh ở tuổi tôi lúc đó, không ai phải chịu những khổ sở, những nỗi cực hình qua những cuộc “tự kiểm thảo” như tôi. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao, ông anh tôi, sinh ra và lớn lên trong thời Pháp thuộc, được học chương trình Pháp, lại cũng là con của thầy tôi, mà ông lại có thể học hỏi và áp dụng được cái lối giáo dục rất phi nhân của người cộng sản, đó là trò “tự kiểm”.
Thông thường, mỗi tuần, tôi và những đứa con của anh tôi, cũng sàn sàn tuổi tôi, phải trải qua màn “tự kiểm” một lần, vào một buổi chiều cuối tuần. Mỗi khi nghe anh tôi hét lên “tự kiệm” là chúng tôi sợ xanh cả mặt. Tất cả 4, 5 đứa chúng tôi phải đứng một hàng ngang trước mặt anh tôi, theo thứ tự, từ đứa lớn nhất đến bé nhất. Tất cả đều phải khoanh tay trước ngực, nét mặt đứa nào cũng đầy lo sợ vì những tội trạng đã phạm trong tuần. Trên bàn là một chiếc roi mây, một đầu được cuộn lại thành vòng tròn cho dễ cầm, dễ quất. Ngồi chễm chệ trên ghế trước mặt chúng tôi là ông anh tôi, với nét mặt nghiêm trọng như một vị chánh án. Không khí trong căn nhà tranh vách đất lúc đó im phăng phắc. Chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển của mình và của người bên cạnh.
Sau vài phút đồng hồ ngắm nghĩa sự sợ hãi của chúng tôi, anh tôi bắt đầu mở màn bằng một bài luân lý giáo khoa thư, được cập nhật hóa bằng những lý luận cách mạng của người cộng sản, những trích thời thượng lời của lãnh tụ cộng sản, kể cả “5 điều Bác Hồ dậy”, và những thí dụ “người tốt việc tốt” trên báo, trong truyện hay trong phim ảnh tuyên truyền, mà anh tôi đã coi đã xem.
Tiếp theo là màn tự phê rồi phê của từng “bị cáo”. Tự phê là chính bản thân “bị cáo” phải cố gắng nhớ lại tất cả những tội lỗi mình đã phạm trong tuần rồi thành thật khai báo. Còn phê là sau đó, những “bị cáo” còn lại phải vắt óc nghĩ xem, “bị cáo” kia khai báo còn thiếu sót chỗ nào, thì thành khẩn bổ sung. Vì trò phê và tự phê đặt nền tảng trên sự thành thật khai báo của mỗi người, cộng với sự thưởng phạt của anh tôi, nên tất cả “bị cáo” đều say sưa bới móc tội lỗi của nhau, tố khổ nhau. Phạt là phạt thêm roi đòn. Còn thưởng thì chẳng được cái gì mà chỉ được bớt roi đòn mà thôi.
Mỗi “bị cáo”, sau khi thành khẩn khai hết tội lỗi của mình, và lắng nghe những lời tố cáo bổ sung của những “bị cáo” đồng cảnh ngộ xong, là đến màn tự mình nhận hình phạt thích ứng cho mình. Trẻ con cũng như người lớn, xưa nay chẳng có ai thích nhận hình phạt nặng nề bao giờ. Chúng tôi cũng vậy. Nhưng nếu chúng tôi nhận hình phạt nhẹ quá là lập tức sẽ bị ghép vào tội thiếu thành khẩn. Ai bị kết tội này, sẽ nhận thêm hai roi đòn bổ túc. Vì vậy, chúng tôi phải nhận hình phạt sao cho hợp với tội trạng. Có vậy, còn hy vọng được anh tôi giảm khinh. Sau khi mình tự nhận hình phạt xong, sẽ đến màn anh tôi hỏi các “bị cáo”, hình phạt “bị cáo” tự nhận có xứng đáng không. Nếu không, thì phải tăng lên mấy roi..v..v..
Sau khi số roi được ngã ngũ, sẽ đến màn anh tôi thực thi hình phạt. Anh tôi thường đánh chúng tôi bằng roi mây và đánh vào bàn tay, chứ không mấy khi đánh vào mông. Mỗi người khi chịu hình phạt, phải ngửa một bàn tay trước mặt, bàn tay kia cầm lấy cổ tay, và giữ nguyên cho đến khi bàn tay đó ăn đủ số lượng roi đòn. Chịu roi mây đánh vào lòng bàn tay là cả một cực hình đau đớn, nên theo bản năng, người chịu cực hình hay tự động rụt tay lại. Nhưng chúng tôi không bao giờ dám rụt tay, và ngay cả bản năng này cũng mất, vì mỗi lần rụt tay, để anh tôi đánh hụt, lập tức roi đó sẽ được đánh bù gấp đôi. Thôi thì thà nghiến răng chịu đau một roi, còn hơn chịu gấp đôi.
Trong những ngày tháng ở tuổi ấu thơ ấy, tôi luôn luôn sống trong nỗi phập phồng lo sợ chờ đợi đến những buổi “tự kiểm”. Tôi sợ đến nỗi, đã nhiều lần, muốn bỏ nhà ra đi mà rồi vẫn không đi được.
Trong số những tội lỗi phải ăn đòn, bao giờ tội lấy trộm sách cấm cũng ăn đòn đau nhất và nhiều roi nhất. Anh tôi sợ, những cuốn sách cấm đó lọt vô tay tôi, rồi sẽ có ngày lọt ra ngoài, ảnh hưởng đến con đường phấn đấu vô đảng của anh tôi, và tai hại đến cho gia đình, nhất là trong gia đình đó, thầy tôi đã là một địa chủ thời cải cách ruộng đất. Hơn nữa, anh tôi cũng sợ, đọc những cuốn sách cấm đó tâm hồn tôi sẽ bị “hư hỏng”. Nhưng dù bị cấm đoán, bị đòn đau liên tục mỗi tuần, tôi vẫn không bao giờ chừa được tội lấy trộm sách. Đó là cả một nỗi đam mê, giống như chờ được ăn trái cấm. Vì mỗi khi lấy được một cuốn sách, cho dù chưa kịp đọc, niềm vui trong tôi đã lớn lao vô cùng, và lúc nào trong tâm hồn tôi, niềm sung sướng sẽ được đọc cuốn sách đó cũng dạt dào, ngự trị, khiến tôi cả ngày thẫn thờ như thằng mất trí…
KỲ 11
Bình thường, một đứa bé đang ở tuổi đi học, đọc truyện đã là điều khó khăn vô cùng, vì cha mẹ luôn cấm đoán. Huống hồ tôi lại đọc sách cấm, thì sự khó khăn nguy hiểm phải gấp bội. Biết tôi mê coi truyện, nên ba tôi có thói quen, đột xuất ghé lại bàn nơi tôi đang ngồi học, và hỏi tôi đang học gì, đang đọc sách gì, cho ba tôi coi. Vì vậy, để có thể ngồi đọc thoải mái những cuốn sách cấm đầy quyến rũ, như Bồng Lai Hiệp Khách, Phong Kiếm Xuân Thu, Giao Truỳ Hiệp Nữ, Trống Mái, Hồn Bướm Mơ Tiên, Gánh Hàng Hoa, Cơm Thầy Cơm Cô…. tôi phải lột bìa vài cuốn giáo khoa, kích thước to nhỏ khác nhau, rồi dán lại thành những loại bìa sách “cơ động”, bọc ra bên ngoài cuốn truyện mà tôi đang đọc. Nhờ vậy, mỗi khi ba tôi ghé lại hỏi “con đang đọc sách gì”, là tôi nhanh chóng gập ngay cuốn sách truyện đang đọc lại để cho ba tôi thấy đó là bìa của một cuốn sách giáo khoa. Mưu kế của tôi tuyệt hảo và tôi đã sử dụng mưu kế đó suốt những năm dài từ khi tôi học cấp hai… Cho đến một ngày nọ, vui chuyện, tôi tiết lộ mưu kế của tôi cho một người bạn học. Tưởng là truyền nghệ cho bạn, không ngờ, người bạn này liền bí mật kể lại cho ba tôi nghe. Tôi vẫn đinh ninh tưởng ba tôi không biết, tiếp tục dùng mưu gian, cho đến khi tôi bị ba tôi bắt quả tang….
Chiều hôm đó, tôi bị một trận đòn đau lắm, đau vô cùng, chưa bao giờ tôi bị đòn đau như vậy. Tôi bị đánh hồi chiều. Đau đến nỗi tôi đi không được. Tối đến, ba tôi bắt tôi cởi quần áo rồi lấy dầu tây trong chiếc đèn huê kỳ, xoa bóp cho tôi. Vừa xoa bóp, ba tôi vừa khóc… Nhìn những giọt nước mắt của ba tôi đêm hôm đó, tôi xúc động, thương ba tôi vô cùng. Tôi cúi mặt xuống giường, úp mặt vào hai bàn tay, và tôi lặng lẽ khóc trong niềm ân hận… trong khi ba tôi vẫn xoa bóp cho tôi. Chính những giọt nước mắt của buổi tối hôm đó, đã gột rửa tâm hồn tôi, và biến tôi thành một người sống hiếu thảo và có trách nhiệm.
Tôi kể lại lòng đam mê đọc sách của tôi lúc tôi còn bé, để các bạn thấy được khi tôi đứng trước một quầy sách ở phố chợ Đà Nẵng, có đủ các loại sách “cấm”, tôi đã trải qua những giây phút hạnh phúc vô biên như thế nào… Sau này được đặt chân đến nhà sách Khai Trí, được đọc những cuốn truyện chưởng, tôi mới thấy tất cả những giây phút hạnh phúc vô biên khi đứng trước quầy sách ở Đà Nẵng, thiệt chẳng thấm vào đâu. Hay nói đúng hơn, kể từ khi được đặt chân lên vùng đất tự do của Miền Nam, tôi giống như một người leo núi, mỗi ngày trôi qua là một ngày nhìn thấy bầu trời hạnh phúc của mình rộng hơn, cao hơn, mênh mông hơn, với những hương hoa, màu sắc mới lạ hơn. Nhìn lại những ngày tháng từ khi sống tủi nhục, cực khổ trong chế độ cộng sản cho đến khi được hít thở bầu không khí tự do của Miền Nam, tôi thấy cuộc đời tôi giống như một mũi tên rời khỏi cung, bay băng băng trong đêm tối, bay cả trong lúc hoàng hôn, bay cả khi bình minh. Tôi thấy mình giống như một cậu bé mới lớn, choáng ngợp trước cả một thế giới đồ chơi đầy mới lạ, trong khi thời gian của đời tôi thì có hạn…
Sau khi ở Đà Nẵng được mấy tuần, vì chiến trận lan rộng, nên tôi được chuyển về Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương ở bến Bạch Đằng. Tại đây có một bác có gương mặt phúc hậu, thường xuyên làm việc với tôi. Ngay buổi làm việc đầu tiên, bác hỏi tôi thích gì nhất trên đời. Tôi trả lời, thích đọc sách. Bác mỉm cười, mở chiếc tủ nhỏ ngay cạnh ghế, lấy ra một cuốn sách đưa cho tôi. Tôi nhìn bìa thấy bốn chữ Cô Gái Đồ Long, nét chữ tung hoành, cùng với bức tranh vẽ một trang nam tử đang giao đấu ác liệt một nữ nhân. Phía dưới bốn chữ Cô Gái Đồ Long có dòng chữ nhỏ hơn, “Võ hiệp kỳ tình, tiểu thuyết Trung Hoa”…
Ngay chiều hôm đó, tôi đọc say sưa, đọc một hơi cho tới chiều tối. Đến giờ ăn tối, tôi chỉ ăn qua loa, rồi say sưa đọc tiếp. Giống như một đứa bé thích ăn kem, sợ hết phải ăn dè, tôi vừa đọc ngốn ngấu, lại vừa sợ hết. Tôi đọc cho đến khoảng 4 giờ sáng thì hết cuốn một. Tôi không thể ngờ, trên đời này lại có người viết truyện lôi cuốn đến như thế. Khi đọc cuốn Cô Gái Đồ Long, niềm sung sướng đến với tôi mênh mông và lớn lao vô cùng. Tuy thức gần như trắng đêm đọc truyện, nhưng tôi không tài nào ngủ được. Hai mắt tôi mở chong, đầu óc tôi minh mẫn lạ thường, khí huyết trong người rạo rực… Tôi chỉ mong trời mau sáng, gặp lại bác già để bác cho mượn cuốn 2.
Trong phòng tôi ở lúc đó, có mấy người cũng hồi chánh, nhưng họ là người Miền Nam. Thấy tôi say sưa đọc truyện, một anh cho tôi biết, Cô Gái Đồ Long trọn bộ có 6 hay 7 cuốn gì đó. Nghe vậy tôi mừng quá. Người bạn còn bảo, ông Kim Dung viết truyện kiếm hiệp có tới cả chục bộ như bộ Cô Gái Đồ Long. Nghe anh nói, tôi càng mừng hơn. Anh bạn đó còn bĩu môi, nói ra vẻ hiểu biết:
- Cô Gái Đồ Long này thì cũng hay, nhưng đã ăn nhằm gì so với bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ…
Nghe anh nói tôi thấy sướng quá. Thấy anh thật tuyệt vời. Nhìn gương mặt rạng rỡ của tôi, anh thích thú khoe:
- Truyện kiếm hiệp này nhà tôi có cả mấy tủ.
Tôi ngạc nhiên nhớ lại:
- Sau lúc nãy anh nói anh chúa ghét truyện kiếm hiệp?
Anh ta gật đầu:
- Đúng, tôi ghét truyện kiếm hiệp chớ sao. Nhưng thằng em tôi thì nó mê. Được đồng nào ăn quà là nó để dành mua sách. Cả chục năm như vậy, quen rồi. Bây giờ nó đã có vợ, có con, mà vẫn mê kiếm hiệp hơn mê vợ.
Rồi anh còn bảo ông Kim Dung viết truyện kiếm hiệp không hay bằng ông Ngọa Long. Dịch giả Hàn Giang Nhạn dịch không hay bằng Thương Lan, Từ Khánh Phụng… Nghe anh nói, tôi như một con chim ngây thơ, chỉ biết vâng vâng dạ dạ, mà trong lòng chỉ nghĩ cách làm quen với thằng em của anh để đọc sách cọp…
Ngay buổi sáng hôm đó, bác già mang đến cho tôi trọn bộ Cô Gái Đồ Long từ cuốn 2 đến cuốn 7. Trong những ngày kế tiếp, tôi nằm dài ra ngốn sách một cách say sưa, bất kể ngày hay đêm, sáng hay chiều, vừa ăn cơm xong, hay lúc chưa ăn cơm, tôi không cần biết. Trong đầu óc tôi lúc đó chỉ nghĩ một chuyện duy nhất là Cô Gái Đồ Long. Tất cả những nhân vật trong truyện nhảy múa trong óc tôi, rồi hiện lên như những con người bằng xương bằng thịt. Trương Thuý Sơn, Hân Tố Tố, Tạ Tốn, Vô Kỵ, Triệu Minh, Tứ Hộ Pháp Vương trong Minh Giáo…. tất cả đều lần lượt ngự trị trong tim, trong óc tôi, dìu dắt tôi đi vào một thế giới hoang lạ, đầy phong ba bão táp, khiến trí tưởng tượng của tôi phát triển đến vô cùng…. Thậm chí ngay thời gian đó, có một nhân viên làm việc ở Phủ Đặc Ủy Tình Báo, biết tôi ở Phủ Lý, làng Bích Trì, đã trò chuyện với một số người đồng hương của tôi ở Sàigòn, và tình nguyện chở tôi đi gặp họ để họ tìm mấy bà chị cho tôi. Nhưng vì mê đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung, nên tôi kiếm cách từ chối. Tôi không muốn thì giờ của tôi dành vào bất cứ chuyện gì khác, ngoài việc đọc sách.
Trong những ngày tháng đó, tôi đâu có ngờ được, sau 1975, khi tôi bị cộng sản bắt, đem vô trại cải tạo, chính vốn liếng truyện kiếm hiệp Kim Dung, đã giúp tôi sống sung sướng, sống trong sự trọng vọng của những người bạn tù.
Nhớ hồi đó, sau khi bị cộng sản bắt, tôi phải sống mấy tháng ở Trung Tâm Thẩm Vấn Hỗn Hợp Việt Mỹ, rồi Quân Lao Gò Vấp, trước khi bị chuyển xuống Kàtum lao động. Khi bước chân vào chiếc lán giữa vùng rừng núi Kàtum lạnh lẽo, tôi thấy khoảng hai chục anh tù cải tạo đang xúm quanh một anh chàng râu quai nón. Anh này đang thao thao bất tuyệt kể truyện chưởng Cô Gái Đồ Long. Cả đám đông ai ai cũng há miệng ra nghe một cách say sưa. Mấy chục người chen chúc bu quanh anh, mà tôi không nghe một tiếng động. Tất cả im phăng phắc, ngoài trừ giọng kể the thé của anh chàng quai nón…
Chỉ nghe thoáng qua, tôi biết kiến thức về truyện chưởng của anh thuộc loại ăn đong. Kể truyện Cô Gái Đồ Long mà quên cả tên, biệt hiệu của Tứ Hộ Pháp Vương trong Minh Giáo thì kể hay sao được. Tôi lúc đó đang mệt vì sau chặng đường dài chuyển trại từ Sàigòn tới Tây Ninh. Vì vậy, tôi chẳng màng đến chuyện anh bạn đang múa rìu qua mắt thợ…. Nhưng nghe một hồi nữa, tôi thấy bực bội vì anh dám xuyên tác truyện
chưởng Kim Dung. Thì ra những tên người, những thế võ nào anh không nhớ là anh tự cho mình cái quyền cương ẩu, bịa láo. Như vậy là không được. Như vậy là xúc phạm đến Kim Dung, xúc phạm đến tôi, một đệ tử âm thầm của Kim Dung… Tôi thấy mình có bổn phận phải lên tiếng bảo vệ thanh danh của Kim Dung. Tôi phải cho anh chàng kia một bài học. Nghĩ vậy, tôi vùng dậy, đi thẳng tới chỗ đám đông đang nghe truyện…
KỲ 12
Khi tôi bước lại, đám đông vẫn chăm chú lắng nghe những lời anh ta nói, không một ai để ý đến tôi. Tôi kiếm một chỗ ngồi xuống, cách anh khá xa. Anh đưa mắt nhìn tôi, nét mặt dửng dưng, coi tôi như một anh chàng tân tòng, khoái nghe chuyện kiếm hiệp, thế thôi! Anh có gương mặt khả ái, nước da trắng như da con gái, môi đỏ, răng trắng, với hàm râu quai nón, tuy cạo nhẵn nhụi, nhưng vẫn để lại một lớp mờ mờ xanh. Dưới chân anh là đôi guốc mộc. Bộ dáng của anh là bộ dáng của một tay thợ mộc. Nghe giọng nói của anh tôi biết anh là người Hà Nội. Trước mặt anh là hai chiếc điếu cầy, một vốc thuốc lào cỡ vài “bi”, một bình nước trà tự chế, một chiếc đĩa đựng mấy chiếc kẹo, và hai chiếc ly nhỏ xíu. Thời điểm đó cả nước đều đói, trong tù lại càng đói khổ hơn. Vì vậy, chỉ nhìn thoáng qua những thứ “xa xỉ” trước mặt anh, tôi hiểu ngay, tất cả đều dành cho anh, anh được hưởng sự ưu đãi của tất cả mọi người, chỉ vì anh biết kể chuyện kiếm hiệp của Kim Dung, cho dù, anh nhớ truyện không bằng một phần trăm so với tôi. Nhưng tại sao lại hai chiếc ly, và hai chiếc điếu cầy? Ngoài anh ra, còn ai trong đám đông mấy chục người đang ngồi nghe truyện được hưởng cái ân huệ hút thuốc lào, nhai kẹo và uống nước trà?…
Sau mấy phút bồn chồn, do dự, không biết mình có nên lên tiếng hay không, cuối cùng tôi đánh bạo:
- Ông bạn tha lỗi, tôi nghe ông kể truyện chưởng của Kim Dung, nhưng ông kể sai nhiều quá…
Tôi vừa nói đến đó, lập tức đám đông bạn tù cùng quay ra nhìn tôi, rồi la hét, mắng tôi ầm ĩ. Người nào nhẹ nhàng lịch sự thì cũng một tiếng quát, “Im đi mày! Biết gì mà nói.” Người nào tức giận thì hét lên, “Cút cha mày ra chỗ khác. Ông đập bỏ mẹ mày bây giờ”. Riêng anh bạn đang kể chuyện thì lại tỏ ra bình tĩnh, dù nét mặt của anh đầy vẻ ngạc nhiên. Anh thong thả hỏi tôi:
- Tôi kể sai chỗ nào?
Tôi chưa kịp lên tiếng, thì đám đông đã nhao nhao: “Kệ cha nó, đại ca cứ kể đi. Tụi em nghe đang hay…” Một người khác, mặc chiếc áo bằng bao tải gạo, quát: “Thằng này là thằng nào, bỗng dưng phá đám vậy? Cút cha mày ra chỗ khác đi!”
Một người ngồi đối diện với người kể chuyện có tấm lưng và chiếc đầu trọc to lớn lạ lùng. Y cởi trần, chỉ mặc một chiếc quần lót nhỏ xíu, nên tôi thấy rõ, cả người y chỗ nào cũng xâm trổ. Trên lưng y là một thanh mã tấu to chình ình, chạy dài từ phía phải bên trên, xuống phía trái bên dưới. Chuôi mã tấu có một chùm tua bay phất phới. Lưỡi mã tấu có một đường máu đỏ chạy dài, vài giọt máu đỏ nhỏ xuống từ mũi, trông thật linh động. Y không hề quay hẳn lại, nhưng với nét mặt nghiêng của y, tôi biết tiếng rít qua hai hàm răng nghiến chặt, được cất lên từ trong cổ họng của y:
- Ê, Dũng Cụt, tống cổ thằng này ra khỏi lán…
Một tiếng dạ thật lớn, rồi một người cao to, có bộ vó dềnh dàng, mái tóc để dài bồng bềnh như nhân vật Ruồi Trâu trong phim tôi coi ở ngoài Bắc, bước về phía tôi. Nhìn y, tôi không hiểu y “cụt” ở chỗ nào? Tôi hoảng hốt, đang tính đứng dậy “tự giác” bước ra ngoài, thì tiếng anh chàng kể chuyện cất lên, vẫn rất nhẹ nhàng:
- Minh Tồ, mày để tao hỏi nó đã…
Nghe vậy, Dũng Cụt dừng bước, nhìn Minh Tồ như chờ lệnh. Minh Tồ không nói gì, chỉ gật đầu. Đám đông ngồi im phăng phắc. Trông bộ vó kềnh càng của Dũng Cụt, và thái độ ngoan ngoãn của y đối với Minh Tồ, tôi biết, Minh Tồ giống như một loại “vua tù” trong lán tù cải tạo. Sau này, tôi mới biết, Minh Tồ gốc Hải Phòng, cũng đi bộ đội, thuộc tiểu đoàn đặc công tinh nhuệ, trực thuộc sư đoàn. Trong trận đánh vô Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng, anh bị trọng thương, nên khi rút quân, anh bị đơn vị bỏ lại, rồi rơi vào tay một đơn vị lính Mỹ. Tức giận trước sự phản bội của đồng đội VC, và thấy lính Mỹ đối xử rất tử tế, tận tình chữa trị những vết thương chí mạng trên người anh, nên anh xin hồi chánh. Sau đó, anh tình nguyện đi lực lượng Delta Force cho Mỹ, và trở thành một tay anh chị khét tiếng với biệt danh Minh Mã Tấu. Năm 1968, Minh Mã Tấu khét tiếng với vụ cướp xe tiền từ Đà Nẵng vô Huế…
Anh chàng kể chuyện quay sang tôi, nhắc lại câu hỏi lúc trước:
- Tôi hỏi anh, tôi kể sai chỗ nào?
Liếc mắt nhìn Dũng Cụt và Minh Tồ, tôi nghĩ ngay, nếu tôi nói dài dòng, vòng vo, tôi sẽ bị Dũng Cụt xách cổ liệng ra ngoài lán ngay lập tức. Vì vậy, tôi phải nói sao thật ngắn gọn, về những tình tiết thật lôi cuốn, hấp dẫn trong truyện của Kim Dung để chinh phục Minh Tồ trong vòng một phút đồng hồ. Hít một hơi thở, thu hết can đảm, tôi ba hoa xích đế, vừa dựa vào truyện của Kim Dung, vừa thêm thắt theo trí tưởng tượng của mình:
- Anh vừa kể đến Tứ Hộ Pháp Vương của Minh Giáo, nhưng anh kể tên của họ sai hết, biệt hiệu của họ cũng sai… Anh phải biết, Trong Minh Giáo, cao nhất có Giáo chủ, kế đến là Tả Hữu Sứ, rồi đến Tứ Hội Pháp Vương, gồm có bốn vị. Đệ nhất vương là Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà. Bà này ngoại hình ẻo lả, nhan sắc xinh đẹp, lại có thuật trụ nhan, nên trăm tuổi có lẻ, mà trông vẫn như mệnh phụ mới ngoài 30 tuổi. Bà chuyên dùng ám khí là bông hoa mai bằng thép. Mỗi khi giao đấu, bà thường ngậm bông hoa thép trong miệng rồi vận nội lực thổi ra đằng miệng, bảo đảm trong vòng trăm thước, bách phát bách trúng, không một cao thủ nào thoát chết. Vì thế, bà có biệt hiệu Kim Hoa. Bà lại có tài bơi lội, nín thở giao đấu dưới nước cả ngày không thèm lên bờ, nên được phong tặng là Tía Sam Long Vương. Đó là đệ nhất vương. Đệ nhị vương là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Tay này vốn gốc người Tây vực, cao lớn gấp rưỡi người thường, vai tròn như vai hổ, lưng dài như lưng vượn, đầu to như đầu sư tử, mắt xanh biếc, tóc lại vàng hoe nên y mới có biệt hiệu Kim Mao, nghĩa là lông vàng. Còn Sư Vương nghĩa là vua sư tử, còn Tạ Tốn là tên của y. Đệ tam vương là Bạch Mi Ưng Vương Hân Thiên Chính. Tay này cũng có thân hình cao to khác thường, lại có cặp lông mày dài, bạc như cước, phủ kín cả hai bên mắt, trong khi tóc của y vẫn đen như mun, lại thêm nội ngoại công của y đều đạt đến mức tam hoa tụ đỉnh, lư hoả thuần thanh, mỗi khi xuất thủ giết ai, thì nhanh như một con chim ưng, vai không hề động, mắt không hề chớp, nên có biệt danh Bạch Mi Ưng Vương. Đệ tứ vương là Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu. Tay này võ công thần sầu qủy khốc, khinh công đệ nhất trần gian, ngay cả Giáo Chủ Minh Giáo cũng phải nghiêng mình bái phục. Nhờ khinh công cao siêu, nên khi y đến cũng như khi y đi, chẳng thấy hình bóng, ngoại trừ chỉ nghe thấy một tràng cười của y. Vậy nên y mới có biệt danh Vi Nhất Tiếu. Tuy võ công tuyệt luân, nhưng y vẫn chưa thỏa mãn, nên tìm kiếm được một bí kiếp võ công thượng thừa, y ngày đêm tập luyện, muốn một sớm một chiều thành công, chẳng may, tàu hỏa nhập ma, kinh kỳ huyết mạch chạy loạn xạ ngầu. Với người khác, như vậy, không chết cũng tàn tật. Với y, nhờ nội lực cao siêu, tài trí hơn người, nên y kịp chế ngự lửa ma trong huyệt đan điền. Có điều lâu lâu, chân hỏa bốc lên, tựa như hỏa diệm sơn trong tim trong gan, chỉ có máu tươi của người mới có thể dập tắc. Những khi như vậy, y phải kiếm người hút máu thì mới hết bệnh. Vậy nên người đời tặng y biệt danh Thanh Dực Bức Vương có nghĩ là Ông Vua Dơi Xanh, chuyên hút máu người….
Đọc đến đây, tôi kính mong quý độc giả tha lỗi cho tôi tội ba hoa khoác lác. Nhưng lúc đó, trong hoàn cảnh tù đầy, phần thì tuổi tôi còn trẻ, nên rất háo thắng. Cái gì tôi biết mà không nói ra được thì cứ ấm ức tựa như bò đá. Sau này từng trải, được học hỏi nhiều, biết ngoài bầu trời này còn bầu trời khác, nên khiêm cung, ít nói đi rất nhiều, trăm phần chỉ còn một, hai mà thôi.
Trở lại câu chuyện, lúc đó, tôi mạnh dạn ba hoa, tiếng Hán xen lẫn tiếng Việt, chọn toàn chỗ đắc ý nhất để kể, lại còn thêm thắt, chắp vá, đem râu ông nọ cắm cằm bà kia, là vì tôi thấy cả đám đông tù nhân mấy chục mạng, đều say sưa nghe anh chàng kia kể truyện chưởng, trong khi tôi biết chắc, kiến thức về truyện chưởng của Kim Dung, tôi mười phần, anh chưa được một.
Nhìm đám đông im phăng phắc nghe tôi ba hoa, miệng ai cũng há hốc, mắt ai cũng sáng long lanh, ngay cả Minh Tồ cũng xoay hẳn người lại nghe tôi nói, tôi biết tôi đã chinh phục được họ. Nhưng chiến thắng này chưa thể là 100%, vì tôi mới kể có một đoạn quá ngắn. Tôi muốn kể với họ ít nhất 10, 15 phút nữa về truyện Cô Gái Đồ Long. Khi đó, tôi mới khảm sâu vào trong tâm trí của họ tất cả những cái hay tuyệt vời, hay rụng rời của Kim Dung. Vì vậy, tôi phải tung ra một câu hỏi, và câu hỏi này không chỉ dành cho anh chàng kể chuyện non nớt kia, mà dành cho tất cả mọi người. Tôi muốn khuấy động lòng tò mò của họ, dựa trên những tình tiết tuyệt vời tôi vừa kể, để rồi chính họ sẽ không tài nào trả lời được. Người trả lời được câu hỏi của tôi, chỉ có mình tôi mà thôi!
- Bây giờ, tôi xin hỏi tất cả mọi người một câu hỏi. Tại sao trong Tứ Hộ Pháp Vương, Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà lại được đứng đầu? Tại sao một người con gái liễu yếu đào tơ, lại có thể qua mặt được ba vị Pháp Vương kia, trong khi cả ba đều là anh hùng, chọc trời khuấy nước một phương, võ công đã khủng khiếp, mưu trí lại tuyệt vời, thêm vào đó lại dầy công hãn mã gầy dựng lên Minh Giáo?
Đúng như tôi đoán, tất cả mọi người, kể cả anh chàng kể truyện chưởng, đều im lặng nhìn tôi như bị tôi thôi miên. Sau một thoáng im lặng, tất cả mọi người đều ầm ĩ, đòi tôi trả lời. Nhìn nét mặt, ánh mắt, của mọi người và của Minh Tồ, tôi hiểu ngay, đối với họ, anh chàng kể truyện chưởng kia đã bị gạt ra ngoài rìa. Với họ bây giờ, tôi mới là thần tượng, là người họ ngưỡng mộ, say đắm…
Minh Tồ cất tiếng, giọng vẫn kẻ cả, nhưng không giấu giếm tình thân mật:
- Ê, ông bạn hỏi vậy là ông biết tỏng, chỉ có ông mới trả lời nổi…
Đám đông ồ lên tán thành lời tuyên bố của Minh Tồ. Dũng Cụt lúc này cũng đã ngồi xuống ngay bên cạnh tôi từ lúc nào. Hai tay của y thu lại để trong lòng, trông ngoan ngoãn như một người học trò ngồi trong lớp học. Anh chàng kể truyện, lặng lẽ đẩy chiếc điếu cầy cùng gói thuốc lào đến trước mặt tôi, rồi nói giọng chân thành:
- Ông anh làm một “bi” thuốc lào cho tỉnh táo, rồi kể cho tụi tôi nghe… Ông anh tha cho tôi cái tội “múa rìu qua mắt thợ”… Chẳng qua là không có…
Nói đến đó, anh chàng ngừng lời, nhìn tôi lúng túng. Tôi hiểu, anh muốn nói câu “không có chó bắt mèo ăn c…”, nhưng nghĩ nói vậy là xúc phạm một “thần tượng” mà anh thực tâm kính phục. Trông anh, tôi biết anh phải ngoài 40. Còn tôi lúc đó, mới có ngoài 25 tuổi. Tiếng “ông anh” của người Hà Nội khi nói với một người kém tuổi mình, là biểu lộ một sự nể trọng đặc biệt.
Minh Tồ lúc đó cũng vội vã vê thuốc lào bỏ vô nõ, rồi bật quẹt, châm đóm đưa cho tôi với thái độ rất chân thành. Tôi khoan khoái đón chiếc điếu cầy, kéo một hơi thật đã, rồi lim dim hai mắt, nhìn mọi người qua làn khói thuốc đang bao phủ như sương như khói. Tất cả mọi người đều ngước mắt nhìn tôi chờ đợi trong im lặng và thành khẩn.
Tôi thoáng nghĩ đến nhà văn Kim Dung trong nỗi niềm bâng khuâng, không biết ông là ai, ở đâu, liệu ông có biết, những truyện ông đã viết, có thể giúp một thằng tù oắt con, làm đảo lộn tôn ti trật tự trong một nhà tù ở tận nơi đèo heo hút gió của núi rừng Kàtum???
KỲ 13
Trong lòng tôi lúc đó, tôi thầm cảm ơn nhà văn Kim Dung vô cùng. Đúng ra thì không phải chỉ có lúc đó, mà ngay từ những giờ phút đầu tiên, khi tôi chúi mũi đọc truyện Cô Gái Đồ Long trong Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương, tôi đã bị nhà văn Kim Dung chinh phục hoàn toàn, từ thể xác đến tâm hồn. Và chỉ nguyên những trang truyện của Kim Dung lúc đó thôi, đã khiến tôi yêu thương vô cùng cuộc sống của Miền Nam Tự Do. Tôi thấy tất cả những khốn khổ của cuộc đời tôi, những nguy hiểm tôi đã trải qua trên con đường về với Tự Do, quả thật không hề uổng phí. Trong những năm tháng sau này được sống ở Miền Nam Tự Do, tuy ngắn ngủi có hơn 3 năm trời, nhưng tôi thấy mình chìm ngập trong hạnh phúc. Tôi nhớ ngày đó, tôi được Đại Uý Hiệu bên Đài VOA (bên Cư Xá Thành Tín, đường Hồng Thập Tự) làm giúp cho cái thẻ, được vô hồ bơi Lido ở Hạnh Thông Tây. Mỗi ngày hai lần, tôi vừa đạp xe đến hồ bơi, vừa say sưa đọc những bài thơ tình của Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư… Những bài thơ tình của những nhà thơ trên mảnh đất Miền Nam Tự Do mới trác tuyệt, lóng lánh một cách cao quý làm sao… Nhiều lúc, đọc những vần thơ trác tuyệt đó, tôi thấy tôi sướng như muốn điên lên được, tôi muốn hét lên cho tất mọi người biết, tôi đang được hạnh phúc, đang được sống với những vần thơ tuyệt đẹp, được trải lòng mình dưới ánh sáng lung linh lóng lánh của thơ… Tôi nhớ ngày đó, yêu thơ của Nguyên Sa quá, tôi đã tìm đủ mọi cách hỏi thăm, tìm kiếm, và khi biết được ông tên thật là Trần Bích Lan, tôi đã lần đến Hội Nhà Văn VN, rình rập và rồi được thấy nhà thơ Nguyên Sa một lần. Khi thấy ông, tôi ngạc nhiên hoàn toàn. Ông khác hẳn những gì tôi đã thêu dệt trong trí tưởng tưởng của mình. Ông thi sĩ thần tượng của tôi trông mập mạp, giống như một ông ba Tàu. Gương mặt của ông béo tốt, hạnh phúc, không có chút đường nét khắc khổ phong trần nào của một thi sĩ. Từ đó, tôi thầm nhủ với lòng, tôi sẽ mãi mãi chọn cho mình cuộc sống “bên kia dốc Cầu Mơ”, giống như nhan đề một cuốn truyện của nhà văn tài hoa Duyên Anh. Tôi sẽ không cho phép sự tò mò chiến thắng lòng quyết tâm của tôi. Tôi hiểu rằng, trong đời sống, có những lúc, nhưng nơi, những chuyện, những người,… thà được sống mãi mãi trong tưởng tượng, để được hạnh phúc viên miễn, còn hơn vì tò mò, đi tìm đến một sự thật….
Khi viết những dòng chữ này, tôi không hề có ý nói nhà thơ Nguyên Sa là một người đàn ông xấu trai. Tôi chỉ muốn nói, hình ảnh của ông khác hẳn hình ảnh tôi đã thêu dệt, đã tưởng tượng. Và cũng chính vì mang trong mình tâm trạng của một gã thích “sống ở bên kia dốc cầu mơ” để hạnh phúc với những gì mình thêu dệt, nên sau này, khi có cơ hội được gặp nhiều nhà văn, nhà thơ tôi ngưỡng mộ như Du Tử Lê, Mai Thảo, Hoàng Hải Thủy, tôi vẫn cố gắng né tránh, mặc dù trong lòng, lúc nào tôi cũng háo hức, mong đợi…
Hết nghĩ đến ông Kim Dung, tôi lại nghĩ đến thầy tôi, lúc nào cũng cấm không cho tôi đọc truyện, vì sợ tôi đọc truyện cấm thì nguy hiểm đến cả nhà, mà đọc truyện của “nhà nước” thì bị tuyên truyền, đầu độc, trở thành thằng nghịch tử chống lại cha mẹ, rồi sau này thành nạn nhân cộng sản, mãi mãi sống trong ân hận. Tôi biết, những lo ngại của thầy tôi không phải không có lý. Ngày xưa còn bé, tôi đã say sưa ngốn những cuốn truyện như Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy; tôi đã đọc thuộc lòng những bài thơ của Xuân Diệu, Tố Hữu; tôi đã từng giật giải thi đọc bài thơ dài cả trăm câu “30 năm đời ta có đảng” của Tố Hữu; tôi đã từng say sưa thao thao bất tuyệt như một con vẹt nói về cái hay, cái đẹp, cái trong sáng của thơ Tố Hữu… Sau này, khi đã thoát khỏi bờ mê bến lú, nhìn lại những ngày tháng đó, tôi luôn luôn thở dài, vừa ngao ngán, xấu hổ, vừa thương hại cho chính mình.
Trở lại buổi chiều hôm đó, tại trại cải tạo Kà Tum, sau điếu thuốc lào say bủn rủn chân tay, tôi khoan khoái chiêm ngưỡng những cặp mắt nôn nóng chờ đợi của những người bạn tù. Tôi hắng giọng một cách điệu nghệ, uống một ngụm nước trà, kéo dài giây phút hạnh phúc, khi thấy nhất cử nhất động của mình đều được mấy chục cặp mắt nhìn theo… Khi không thể để mọi người chờ đợi lâu được nữa, tôi cất tiếng:
- Trong Tứ Hộ Pháp Vương Minh Giáo, cả ba vị hộ pháp kia đều là đàn ông, đều là những tôn sư võ học, danh tiếng lẫy lừng suốt mấy chục năm, được cả hắc bạch hai đạo nghiêng mình kính nể. Đứng về vị thế trong võ lâm, các vị hộ pháp đều có thể ngang hàng với bất cứ chưởng môn nhân nào của các đại môn phái. Thậm chí, ngay cả chưởng môn nhân của phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, khi nghe đến tên tuổi của các vị hộ pháp, cũng phải giật mình kiêng nể mấy thành. Tuy nhiên, Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà được đứng đầu Tứ Hộ Pháp Vương vì bà đã có công đả bại Hàn Thiên Diệp, cứu sống Giáo Chủ Minh Giáo, trong một trận thách đấu vô cùng hi hữu, nguy hiểm, mà Giáo Chủ Minh Giáo đã cầm chắc cái chết…
Sau đó, trong thời gian gần hai tiếng đồng hồ, tôi thong thả kể cho các bạn tù nghe, mối huyết hải thâm thù giữa Hàn Thiên Diệp với Giáo Chủ Minh Giáo như thế nào, cuộc thách đấu trả thù cho cha dưới hàn băng đầm của Hàn Thiên Diệp ra sao, chuyện Giáo Chủ Minh Giáo tuy võ công thần sầu qủy khốc, nhưng vì không biết bơi, và vì đã hứa với thân phụ của Hàn Thiên Diệp, không mời bất cứ cao thủ nào thay thế mình trong cuộc thách đấu, nên Giáo Chủ Minh Giáo đành tính chuyện nhận lời thua cuộc, ra làm sao… Giữa giây phút thập tử nhất sinh đó, Đại Ỷ Ty, tức Tía Sam Long Vương đã xuất hiện, giao đấu và đả bại Hàn Thiên Diệp, cứu sống Giáo Chủ, để rồi sau đó, tình yêu giữa Đại Ỷ Ty và Hàn Thiên Diệp, đã nảy nở ra làm sao…
Vì trong truyện chưởng của Kim Dung, các tình tiết luôn giăng mắc, chồng chéo, cuộc đời của các nhân vật luôn tiềm ẩn mối quan hệ nhân quả, nên bất cứ ai đã đọc, đã nghe, đều thích thú theo dõi, không tài nào dứt bỏ được. Nhờ đọc tất cả những pho truyện chưởng của Kim Dung, nên từ buổi chiều hôm đó trở đi, mỗi tối, tôi lần lượt kể từng đoạn truyện chưởng cho bạn tù nghe. Đánh đổi lại, các bạn tù đã dành cho tôi một sự ưu đãi đặc biệt. Ngoài chuyện quà cáp, thuốc lào, thuốc lá, trà bánh được cung phục riêng cho tôi vào mỗi tối khi kể chuyện, tôi còn được hưởng đặc ân khỏi phải lao động làm phần việc của mình. Vì yêu thích truyện chưởng Kim Dung, mấy người bạn tù trong đội thợ xẻ, thợ mộc đã xin với quản giáo cho tôi về đội mộc bằng được. Sau đó, tất cả mọi người trong đội mộc tình nguyện thay phiên nhau cưa mỗi người mỗi ngày một mạch gỗ, để tôi khỏi phải động chân động tay, làm phần việc của mình. Mỗi tối, đúng giờ, anh em bạn tù kéo đến lán tôi rầm rập, để lắng nghe tôi kể truyện chưởng trong khoảng 2 tiếng đồng hồ.
Trong số những người say mê nghe truyện chưởng, có anh chàng Minh Tồ là một nhân vật đặc biệt, tôi muốn dành vài đoạn để nói về anh. Như trong số báo trước, tôi đã nói, anh có biệt danh là Minh Mã Tấu, vì sau lưng anh là hình chiếc mã tấu to như mã tấu thật, được xâm một cách rất nghệ thuật nên trông linh động vô cùng. Trên tấm ngực to như cánh phản của anh là một bàn thờ với đầy đủ lư hương, nhang khói, đèn cầy, trái cây,… và dòng chữ, tôi nhớ không rõ, nhưng đại khái: Mẹ ơi, con sẽ về! Trên hai cánh tay của anh là hai vết thẹo hình dung kỳ dị chạy dài từ khuỷu tay đến gần cổ tay. Sau này, trở thành bạn thân, anh có kể cho tôi biết, anh là người rất khoái xâm trổ. Vì vậy cả thân hình anh, chỗ nào cũng có hình dáng xâm trổ, không thứ này thì thứ khác. Khi chiêu hồi về với VNCH, anh có đi lính Delta Force cho Mỹ. Vì hận cộng sản, nên trên hai cánh tay, anh đã cho xâm trổ hàng chữ “Sát Cộng” cùng với hình con dao găm, với máu VC đang chảy ròng ròng. Tôi có hỏi anh làm sao xâm trổ được máu VC, thì anh cười hềnh hệch bảo, nó cũng giống máu mọi người, chỉ khác là cho thêm hình ngôi sao 5 cánh, và búa liềm là ai cũng hiểu, đó là máu Việt cộng.
Sau tháng 4 năm 1975, anh tìm đường trở về Hải Phòng, tính gặp lại cha mẹ và người thân, nói lời vĩnh biệt trước khi vượt biển vượt biên. Không may, anh bị cộng sản phục kích bắt sống. Đến khi vô tù, cộng sản phát hiện ra dòng chữ “Sát Cộng” trên hai cánh tay anh, chúng đã đánh hội đồng anh một trận khủng khiếp. Nhờ có võ nghệ gia truyền, nên anh gồng mình chịu đòn và thoát chết. Sau trận đòn, viên giám độc trại giam quẳng cho anh một hộp lưỡi lam và ra lệnh cho anh, trong thời gian đúng 24 giờ đồng hồ, anh phải nạo bỏ hai dòng chữ “Sát Cộng”. Bằng không, chúng sẽ đem anh bắn bỏ. Ngay đêm hôm đó, một mình anh, ngồi đốt ngọn đèn dầu, hơ lưỡi lam để sát trùng, rồi chậm rãi và lạnh lùng, anh lạng từng miếng da có dòng chữ “Sát Cộng”.
Hình ảnh một người tù thản nhiên không một tiếng rên la, không một tiếng xuýt xoa, lạnh lùng dùng lưỡi lam lạng từng miếng da, dưới ngọn đèn bập bùng, trong khi máu chảy chan hòa, đã khiến nhiều người, tù nhân lẫn quản giáo, vệ binh, nhìn anh bằng cặp mặt vừa kính phục, vừa kiêng nể, e dè.
Anh Minh Tồ là người không biết chữ. Đó là chuyện thật lạ lùng, nhưng là sự thật. Chính bản thân tôi đã từng ngồi viết thư hộ anh. Trước khi gặp tôi, anh Cẩn, cũng là hồi chánh viên, thường viết thư hộ anh. Tuy có biệt danh Minh Mã Tấu trong giới giang hồ, nhưng trong tù, anh em vẫn gọi anh là Minh Tồ, có lẽ phần anh to con, tính tình đôn hậu đến độ ngốc nghếch, phần anh không biết chữ. Nhưng điều đặc biệt hơn cả ở anh Minh Tồ là sức khỏe tuyệt luân, giống như Hạng Võ, và võ nghệ siêu quần của anh.
KỲ 14
Chủ Nhật tuần này là ngày Mother’s Day, một ngày lễ vô cùng ý nghĩa, tạo cơ hội và điều kiện cho tất cả những người con có dịp nghĩ tới Mẹ, để rồi có một nghĩa cử nào đó, biểu lộ tình yêu thương, lòng biết ơn của mình dành cho Mẹ. Và khi nhận được những nghĩa cử thương yêu của con mình, người Mẹ cũng sẽ có dịp bồi hồi xúc động nhớ tới những kỷ niệm êm đềm với Mẹ của mình trong những năm tháng khi mình còn ở tuổi ấu thơ, hoa niên… Khi đó, trong những đường nét kỷ niệm êm đẹp lung linh với mỗi người Mẹ, ai ai cũng đều thấy mình như bé lại, trẻ lại, để rồi trong niềm hạnh phúc đậm đà của tuổi thơ hồn nhiên, ta mới thấy thấm thía, “Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương”…
Trong niềm hạnh phúc đón mừng ngày Mother’s Day, hôm nay, tôi xin được tâm sự với các bạn về người Mẹ muôn ngàn đau khổ của tôi…
Ngay khi đặt chân đến Sàigòn, được về sống chung với người chị ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận, tôi đã may mắn và hạnh phúc biết được, ở Miền Nam tự do có ngày Lễ Vu Lan, là ngày tưởng nhớ tới Mẹ. Rồi trong một dịp tình cờ, khi ghé tiệm sách Khai Trí, tôi được đọc cuốn sách Bông Hồng Cài Áo của thầy Thích Nhất Hạnh. Khi đó, tôi bồi hồi xúc động biết rằng, có một phong tục đáng yêu và ý nghĩa, nếu một người con còn có Mẹ, sẽ được cài một bông cẩm chướng màu hồng trên áo; còn ai đã mất Mẹ thì cài bông hoa màu trắng…
Ngày đó, đọc những trang sách đó, tôi thấy cuộc sống của người dân Miền Nam sao có những hạnh phúc giản dị, tỉ mỉ từng li từng tí, mà vô cùng ý nghĩa. Thì ra người dân Miền Nam được sống hạnh phúc, sung sướng và ý nghĩa, ngay từ những đường nét rất nhỏ nhoi, mềm mại, nhẹ nhàng, trong từng giây từng phút trôi qua của cuộc đời…. Từ một bông hoa cài trên áo, một tà áo dài trên đường phố, một trận mưa tháng sáu bong bóng vỡ đầy tay, những câu thơ tình đẹp hơn cả tình yêu, những trang sách tuổi hoa dắt tuổi thơ vào mộng mơ, những cuốn truyện kiếm hiệp khiến người đọc bồi hồi, say sưa trong niềm hạnh phúc…. Có thể nói, mỗi giây, mỗi phút trôi qua, người Miền Nam nào cũng sống trong hạnh phúc, nhưng có thể mỗi người không nhận ra được những hạnh phúc thiêng liêng mà họ đang có… Và chính trong những ngày tháng êm đềm, hạnh phúc đó, tôi mới thấy thương xót vô cùng cho những người dân, những trẻ thơ ở Miền Bắc, trong đó có cha mẹ, cô bác, anh chị em, bạn bè của tôi…
Trong thời gian gần 4 năm sống ở Miền Nam, tôi có thói quen hay vô tiệm sách Khai Trí coi “cọp” sách. Hôm đó, khi đọc cuốn Bông Hồng Cài Áo, tôi vô cùng xúc động nhớ đến Mẹ của tôi…
Như tôi đã kể với các bạn, thầy của tôi có ba người vợ. Mẹ của tôi là người vợ thứ ba. Nhưng vì những ngang trái của cuộc đời, những éo le của hoàn cảnh vợ cả, vợ lẽ, mà tôi không thể thưa với các bạn ở đây, Mẹ của tôi đã phải xa tôi ngay từ khi tôi mới lọt lòng. Tôi lớn lên bằng sữa của những dì, những thím, những cô, những bác,… trải dài từ Đồng Văn đến Phủ Lý, từ Đọi Đệp đến làng Đầm, cùng với những khói lửa của cuộc chiến tranh, những khốn khổ của quê hương đất nước trong những năm tháng tiêu thổ kháng chiến…
Trong những năm tháng đầu tiên của thời thơ ấu, tôi cứ đinh ninh, Mẹ của anh tôi là Mẹ của tôi. Khi khôn lớn một chút, tôi chỉ ngạc nhiên và tủi thân, không hiểu sao Mẹ của tôi lại không yêu thương tôi bằng yêu thương anh của tôi. Cho đến một ngày nọ, trong khi đang chạy nhảy ngoài đường, bỗng nhiên có một người đàn bà đến nắm tay tôi rồi hỏi:
- Cháu có phải tên là Chí, con của ông xếp Văn không?
Nghe hỏi, tôi vừa ngạc nhiên, vừa giật mình, vì hai tiếng “xếp Văn”, cả thầy tôi lẫn anh tôi đều cấm tôi không bao giờ được dùng. Anh tôi bảo đó là “tiếng của chế độ cũ”, nói ra sẽ bị nhà nước bắt bỏ tù. Nghe người đàn bà hỏi vậy, tôi vội giật tay lại, rồi bỏ chạy về nhà. Về đến nhà, tôi hổn hển kể lại cho Mẹ của anh tôi nghe. Nghe qua, Mẹ của anh tôi hiểu ngay, liền dặn tôi nói những câu tôi phải nói… mà sau này tôi mới biết là những câu rất thương tâm…
Lúc đó tôi mới lên chín, lên mười. Tôi đâu có hiểu được những oan trái của cuộc đời, những khốn khổ của hoàn cảnh, và những éo le của tình cảm, khiến cho chính những người thân yêu làm khổ nhau còn hơn cả kẻ thù của nhau. Chỉ biết rằng, chiều hôm đó, Mẹ của tôi đã bước vô căn nhà của ông anh tôi, với lòng mong mỏi chỉ để được gọi tôi một tiếng “Con”, và được tôi gọi một tiếng “Mẹ”, để được ôm hôn tôi một lần,…. trước khi giã từ, nhưng tất cả, Mẹ tôi đều không toại nguyện. Thậm chí, ngay cả tờ giấy 5 đồng bạc, Mẹ cố trao cho tôi, tôi cũng cương quyết trả lại, kèm theo là những lời nói cay độc mà người lớn đã dậy cho tôi….
Tôi nhớ buổi chiều hôm đó, anh cùng cha khác mẹ của tôi, chị dâu của tôi, và cả Mẹ của anh tôi, đều cư xử thật lạnh nhạt, nếu không nói là hắt hủi đối với Mẹ của tôi. Còn tôi, bé bỏng chửa biết gì, nên vẫn ngồi trên lòng Mẹ của anh tôi, trong khi Mẹ của tôi ngồi bất động ở vỉa hè, đắm đuối nhìn tôi trong xa xôi cách trở… và lặng lẽ khóc…
Chiều hôm đó, khi hoàng hôn sắp tắt, sau mấy tiếng đồng hồ ngồi bất động ở vỉa hè, không một ly nước, một miếng cơm, Mẹ của tôi lặng lẽ ra về. Bóng một người đàn bà, với chiếc nón cầm tay, ra đi trong hoàng hôn và nước mắt, đã làm tôi thấy thương xót vô cùng, nhưng tôi sợ anh, sợ Mẹ của anh tôi, nên tôi lặng im nhìn theo bóng của Mẹ khuất sau hàng rào dâm bụt…
Tôi biết, con đường mà Mẹ tôi ra về sẽ đi qua một cái đập chắn ngang giòng sông Châu. Chẳng hiểu nhờ linh cảm thúc dục, hay tình Mẫu Tử thiêng liêng có một động lực, một sức mạnh kỳ bí, bỗng dưng tôi lẻn ra khỏi nhà, men theo con đường nhỏ trong thôn, chạy vội ra bờ sông. Đứng ở bờ sông, nhìn về phía tay trái là chiếc đập cách chỗ tôi đứng khoảng 300 thước, tôi lặng lẽ chờ đợi bóng dáng của người đàn bà đã nhận tôi là Con xuất hiện!…
Tôi không nhớ là bao lâu, nhưng phải nói là lâu lắm, tôi mới trông thấy bóng dáng Mẹ của tôi đi ngang chiếc đập. Lúc đó, hoàng hôn sắp tắt, nhưng mặt trời phía tây vẫn còn chiếu lấp lánh trên mặt sông, hắt lên ráng chiều trên đập, nên tôi vẫn thấy rõ bóng Mẹ của tôi đi vội vàng, cô đơn, trong khi gió sông lộng thổi… Tuy xa, nhưng tôi vẫn còn thấy rõ chiếc ruột tượng màu vàng của Mẹ bay lất phất… Chẳng hiểu sao trong giây phút đó, tôi linh cảm, chính người đàn bà đang đi trên đập, đang dần dần cách xa tôi, là Mẹ ruột đã đẻ ra tôi… Một chút gì như hụt hẫng, như chới với, như réo gọi trong lòng, khiến tôi muốn la lên hai tiếng: “Mẹ Ơi!”… Nhưng rồi hình ảnh nghiêm khắc của hai Mẹ con người anh cùng cha khác Mẹ bỗng hiện ra, khiến tôi im lặng, nhìn bóng Mẹ khuất dần sau mấy hàng quán ở bên kia sông… Tôi đứng đó, bất động, nhìn mặt sông sóng vỗ, gió thổi… bóng đêm dần bao trùm vạn vật, để rồi thấy miệng mặn mặn…. Thì ra tôi đã khóc từ lúc nào không biết…
Sau này lớn khôn, tôi mới biết rõ, chiều hôm đó, tôi đã “vĩnh biệt” người Mẹ ruột thịt của tôi trong suốt 7 năm trời sau đó. Trong suốt thời gian 10 năm trước đó và cả 7 năm sau đó, không một ai nói rõ cho tôi biết, Mẹ của tôi là ai. Hôm nay, khi viết những dòng chữ này, tôi không hề oán trách một ai. Tôi chỉ thấy thương xót cho Mẹ của tôi, và tủi cho thân phận éo le của chính mình. Trong nỗi niềm đau xót và cô đơn của mình, tôi viết những dòng này, với lòng ấp ủ nỗi quan hoài, chỉ muốn các bạn hãy hiểu, trong cuộc đời của chúng ta, rất nhiều khi, những nỗi niềm khổ đau, xót xa, uất ức, hận thù lại đến từ chính những người thân thương nhất của mình. Và xin các bạn hãy hiểu, chỉ vì chủ nghĩa cộng sản, mà trong cuộc sống muôn vàn cơ cực mấy chục năm ở Miền Bắc trước đây, và ở cả hai miền đất nước trong suốt 31 năm qua, đã có hàng triệu nỗi khổ đau, xót xa, buồn thương, uất ức, còn thê thảm gấp ngàn lần nỗi khổ đau tôi phải gánh chịu…
Tôi hiểu, phần lớn những người con có Mẹ khi ở gần, không thấy được hết niềm hạnh phúc họ đang có. Riêng tôi, trong suốt nửa thế kỷ qua, ngay cả sau khi tôi đã gặp lại Mẹ khi tôi 17 tuổi, tôi vẫn mãi mãi đi tìm niềm hạnh phúc được ôm lấy Mẹ mà hôn, được sà vào lòng Mẹ mà nhõng nhẽo… nhưng tất cả vĩnh viễn ngoài tầm tay với….
Trong những năm sóng gió của cuộc đời, đất nước nghiêng ngửa dưới gót sắt của chủ nghĩa cộng sản, cả hai Mẹ con tôi đã nhiều lần ngồi khóc âm thầm, vì lần nào hai mẹ con được đoàn tụ, lần đó cũng chứa mầm ly biệt; trong mỗi hạnh phúc ngắn ngủi luôn luôn báo hiệu gông cùm xiềng xích, thậm chí tử biệt sinh ly, sẽ đến với tôi. Sau 1975, trong những lần vượt ngục, trốn chạy cộng sản, tôi vội vàng tìm đến với Mẹ, nghỉ lại một vài ngày để rồi ra đi tìm đường vượt biên, và khi vượt biên bất thành, tôi lại trở lại tá túc một vài đêm trong sự yêu thương xót xa đầy nước mắt của Mẹ… Thời gian đó, có những đêm đang ngủ, chợt giật mình thức giấc, tôi thấy Mẹ ngồi đó, im lìm bất động nơi cuối giường, khóc âm thầm, thương xót cho đứa con mà Mẹ đã không được nuôi, và bây giờ Mẹ cũng không đủ sức che chở, trong khi nguy hiểm đang bủa vây tứ phương tám hướng…
Ai sinh ra làm người phụ nữ, người đó đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi và phải hy sinh rất nhiều. Khi người phụ nữ được làm vợ, làm mẹ, những hy sinh, những thiệt thòi lại càng nhiều không kể xiết. Và trong muôn ngàn nỗi khổ đau, hy sinh mà những người vợ, người mẹ trên trái đất phải gánh chịu, người Vợ Việt Nam, người Mẹ Việt Nam, luôn luôn chịu đựng những khổ đau, hy sinh nhiều gấp bội, vì lịch sử Việt Nam có nhiều nỗi oan trái, bi phẫn hơn; văn hóa Việt Nam có nhiều quan niệm khiến người phụ nữ Việt Nam thiệt thòi hơn, khổ đau hơn…
KỲ 15
Hôm nay, khi viết những dòng chữ này gửi tới các bạn, tôi đã bước vào tuổi 55. Và kể từ khi đứng ở bờ sông Châu của buổi tối hôm đó, muốn cất tiếng gọi hai tiếng “Mẹ ơi!” mà không dám gọi, cho đến nay đã 45 năm trôi qua. Trong suốt 45 năm đó, càng ngày tôi càng nhận thấy rõ ràng một điều, chính cuộc đời đau khổ đầy oan trái của Mẹ, và hoàn cảnh éo le của tôi, đã khiến tấm lòng của tôi luôn luôn nhạy cảm, dễ dàng rung động, xót xa, đau đớn với nỗi đau, nỗi thiếu thốn của tất cả những người chung quanh, cho dù họ là những người dưng nước lã. Tôi thương xót một người đàn bà ở làng tôi, vì chửa hoang nên bị cả làng hắt hủi; tôi khóc thương cho một người mẹ già, lưng còng, bán có mấy cây mía ở chợ, cũng bị cán bộ thuế nông nghiệp tịch thu; tôi nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm, khi nhìn thấy những trẻ em đói khát đứng chầu trực cơm thừa canh cặn, dọc theo đường tôi hành quân vô Nam… Đất nước tôi tươi đẹp, nhưng sao tôi thấy dân tộc tôi khốn khổ, thiếu thốn trăm vạn điều…
Tối hôm đó, trở về nhà, trong đầu óc tôi đầy ắp hình ảnh Mẹ. Tôi không tâm sự được với ai, nhưng lòng tôi thổn thức vô cùng. Tôi muốn hỏi Thày tôi thật nhiều nhưng không dám. Trong những năm tháng của tuổi ấu thơ, tôi không thể ngờ được, Mẹ của tôi vẫn âm thầm, để ý theo dõi cuộc sống của tôi. Mẹ của tôi hiểu rằng, rồi sẽ đến một ngày, tôi sẽ đủ khôn lớn để hiểu được tình yêu thiêng liêng của Mẹ dành cho tôi lớn lao đến mức nào. Mẹ của tôi biết rằng, với thời gian và sự khôn lớn, tôi sẽ hiểu được những éo le, khổ đau mà mẹ tôi phải gánh chịu. Tôi sẽ yêu thương, tìm đến với Mẹ trong tấm lòng đau đớn của một người con…
Quả nhiên, bảy năm sau, khi tôi đi học trọ cách nhà tôi gần chục cây số, Mẹ đã tìm đến tận nơi tôi học, và hai mẹ con chúng tôi đã đoàn tụ. Ngay sau đó, tôi đã theo Mẹ tôi đi Đọi, Đệp là quê của Mẹ, rồi tôi theo Mẹ tôi lên Hà Nội, nơi Mẹ tôi đang ở, để Mẹ tôi dẫn đi nhận họ hàng bên nội, bên ngoại.
Những năm đó, Miền Bắc đang sống trong cảnh thiếu thốn cùng cực, vì tất cả lương thực, thực phẩm đều bị nhà nước thu mua, để đánh đổi vũ khí, đưa vô Miền Nam. Chế độ cộng sản đã rất xảo quyệt, ngụy tạo “hình ảnh người bộ đội hy sinh xương máu chống Mỹ cứu nước” ở Miền Nam, để bắt người dân ở Miền Bắc phải đổ mồ hôi, nước mắt, phải “thắt lưng buộc bụng” để dành lương thực, thực phẩm cho “Miền Nam thắng Mỹ”. Tất cả những cảnh bom đạn của máy bay Mỹ thả xuống các làng mạc, thành phố, đều được nhà nước chụp hình, thổi phồng và tuyên truyền, nhằm khích động lòng căm thù của mọi tầng lớp trong xã hội Miền Bắc.
Nhớ lại những ngày tháng thiếu thốn, đói khát ấy, tôi thấy thật rùng mình kinh hoàng, vì đói khát triền miên cùng với không biết bao nhiêu bi kịch hiện ra ở khắp mọi làng quê, thôn xóm, thành phố, thị trấn của Miền Bắc. Đảng và nhà nước kiểm soát tất cả sự sống của người dân, qua chế độ tem phiếu. Mỗi tháng, mỗi người lớn, được 13 kí lô lương thực, trẻ em được 7, 8 kí. Dù người lớn hay trẻ em, trong tiêu chuẩn lương thực luôn luôn phải có phần ăn độn chiếm tới một nửa là khoai, sắn, hoặc bột mì. Đó là trên lý thuyết. Trên thực tế, tuỳ theo tình hình của cửa hàng lương thực, tỷ lệ độn khoai, sắn, hoặc bột mì sẽ tăng lên. Dù là gạo, khoai, sắn, hay bột mì, tất cả đều chung một điểm là chất lượng rất tồi tệ. Mối mọt, sâu bọ, sỏi đá, hoặc độ ẩm, được trộn lẫn để tăng trọng lượng. Vì vậy, tiêu chuẩn là 13 kí lô một tháng, nhưng thực tế, người dân nhận được ít ỏi hơn thế rất nhiều. Vì có quá nhiều mối mọt, sâu bọ, nên mỗi khi đi mua lương thực về là phải đem phơi nắng, để mối mọt, sâu bọ bò đi. Đó là với những con mối mọt, sâu bọ còn sống. Với những con đã chết, thì khi vo gạo, rửa khoai, rửa sắn, mới có thể vớt chúng ra được. Còn bột mì thì thật khủng khiếp vì quá nhiều sâu bọ. Đem bột mì trộn với nước lạnh, rồi nắm lại thành từng cục, bỏ vào nước đun sôi. Vớt ra từng cục vừa hôi khủng khiếp lại vừa cứng như đá. Vậy mà vẫn phải ăn, phải nuốt. Chính vì phải ăn những miếng bột mì luộc như vậy trong suốt những năm tháng dài, nên sau này, mỗi khi nghĩ tới bột mì là tôi thấy ghê. Sau này, vô đến Miền Nam, và ngay cả khi sang đến Úc, tôi vẫn sợ không dám ăn bánh bao, vì chỉ nghĩ đến nó là thứ bánh làm bằng bột mì là tôi đủ sợ, cho dù đó là thứ bột mì hảo hạng, có bột chua làm cho nó thật xốp, thật mềm và bên trong lại có nhân trứng, thịt, mộc nhĩ, thật ngon lành.
Để có được 13 kí lô lương thực đó trong nhà cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tôi nhớ, trong những năm tháng khốn khổ thời đó, mỗi tháng 2 lần, tôi phải dậy từ tinh mơ mờ đất, mang một cái thúng, hay một cái bao bằng vải, đi bộ từ 5 đến 10 cây số để đến cửa hàng lương thực của huyện nhà, hay huyện bên, xếp hàng, chờ mua. Cho đến bây giờ, đã 40 năm có lẻ trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cái sân gồ ghề ở cửa hàng lương thực huyện. Ở đó, vào những buổi sáng sớm, trời còn mờ sương, không khí lạnh buốt, hàng trăm con người xếp hàng rồng rắn, ngủ vạ ngủ vật, chờ đến giờ mở cửa. Hầu hết những người đến đó đều thuộc loại đói kinh niên, và luôn phong phanh trong những manh quần áo vá chằng và đụp. Mua được mấy chục kí lô lương thực bao giờ cũng hết một ngày trời, vừa đi vừa về, vừa chờ đợi. Khốn khổ như vậy, nhưng nếu mua được, dù cho có độn 70%, 80% với khoai lang, khoai mì, hay bột mì, thì vẫn còn là may mắn. Vì nhiều khi, xếp hàng gần đến lượt mình, thì cửa hàng tuyên bố hết lương thực. Khi đó, đành phải tiu nghỉu ôm thúng không, túi không, cùng chiếc bụng lép kẹp, đi bộ về nhà, để rồi một hai ngày sau, bi kịch xếp hàng mua lương thực đó lại tiếp diễn.
Nhưng nếu đó là bi kịch đối với tôi trong những ngày tháng đó, thì tôi cũng mong các bạn hãy hiểu rằng, ở Miền Bắc thời đó, bi kịch ấy vẫn là điều vô cùng may mắn mà hàng triệu thanh thiếu niên Miền Bắc khác mơ ước mà không được. Tôi biết rất rõ, nhiều bạn bè của tôi lúc đó, chỉ biết ăn rau, ăn khoai, trong suốt nhiều tháng, thậm chí cả năm, chỉ trông thấy hạt cơm có một, hai lần, trong dịp tết nhất hay ngày giỗ. Tôi nói là được trông thấy hạt cơm, mà không nói là được ăn cơm, vì quả thực có những người tuy trông thấy hạt cơm, nhưng chẳng bao giờ được ăn cơm.
Sống trong cuộc sống khốn khổ và thiếu thốn, thường những người làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, bao giờ cũng là những người phải chịu đựng thiếu thốn, đói khát nhiều hơn cả. Và cũng trong cuộc sống thiếu thốn, tình nghĩa yêu thương giữa những người ruột thịt được dịp chứng minh, khiến mọi người biết nhường cơm, xẻ áo cho nhau. Nhưng cũng chính trong hoàn cảnh thiếu thốn đó, chế độ cộng sản đã cố tình nhào nặn một cách tinh vi, khiến bản năng sinh tồn thú vật trong con người bị đánh thức, được dịp tung hoành, nên con người với con người trở nên tàn nhẫn, độc ác, sẵn sàng tranh giành từng miếng cơm, manh áo, rồi lòng ghen ghét, sự đố kỵ, được dịp bùng cháy, thiêu đốt lương tâm con người cả ban ngày lẫn ban đêm.
Trong thời gian hành quân vô Miền Nam, các đơn vị bộ đội đều được cấp phát đầy đủ gạo, đồ hộp của Tàu, của Nga. Tuy không dư giả, nhưng sung túc gấp trăm lần so với đời sống của dân chúng vào lúc đó. Nhất là tại những vùng thôn quê từ Ninh Bình, Thanh Hóa, trở vô đến Quảng Bình, là những nơi thiếu thốn cùng cực, khổ sở gấp bội so với những thiếu thốn cùng cực ở Miền Bắc quê tôi. Tại những tỉnh ở miền Trung Việt Nam, bất cứ nơi đâu, khi dừng quân, nấu nướng, dùng bữa, chúng tôi đều chứng kiến cảnh hàng trăm trẻ em, hầu hết đều trần truồng, đứng chầu trực để xin các đồ ăn thừa của bộ đội. Tôi không biết các đơn vị bộ đội khác đối xử với những trẻ em xin ăn đó như thế nào, nhưng đơn vị của tôi thời đó đã có nghiêm lệnh, đồ ăn thừa phải đem chôn, tuyệt nhiên không được cho bất cứ ai. Trước mệnh lệnh dã man đó, hầu hết chúng tôi đều không tuân hành. Chúng tôi tìm đủ mọi cách, bí mật chia xẻ những đồ ăn chúng tôi có cho cha mẹ của các em.
Cả Miền Bắc lúc đó sống trong đói khát, thiếu thốn. Qua đường lối tuyên truyền đầy thâm độc của chế độ cộng sản, tất cả mọi người đều đinh ninh nguyên nhân của mọi sự thiếu thốn là do “Mỹ Nguỵ” ở Miền Nam gây nên. Tất cả những thanh thiếu niên sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, đều có ảo tưởng, tin một cách thật thà, Mỹ đã xâm lăng Miền Nam, nhân dân Miền Nam đang sống đọa đầy dưới gót sắt của Mỹ, nên đau khổ, thiếu thốn gấp trăm ngàn lần nhân dân Miền Bắc.
Thêm vào đó, những bài thơ của Tố Hữu, Chế Lan viên, Huy Cận, Tế Hanh, Anh Xuân; những truyện ngắn, tiểu thuyết của Anh Đức, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Quang Sáng; rồi phim ảnh tuyên truyền của cộng sản Việt Nam, cộng sản Nga, cộng sản Tàu… đã nhịp nhàng có trước có sau, theo thời gian đầu độc mọi người dân Miền Bắc, khiến cho tầng lớp thanh niên khi lên đường xâm lăng Miền Nam đều tin tưởng, họ đang thực hiện một lý tưởng, theo đuổi một hoài bão, “giải phóng Miền Nam khỏi sự xâm lăng của đế quốc Mỹ”…
May mắn cho tôi, nhờ được gia đình giáo dục, nhờ những món quà được các anh chị ở Miền Nam gửi cho, qua ngả Pháp, và những tấm ảnh chụp cảnh gia đình từ thời Pháp thuộc, đã giúp tôi sớm hiểu được cái chế độ tôi đang sống ở Miền Bắc là chế độ độc tài; và Miền Nam, nơi tôi đang được lệnh xâm lăng, chính là vùng đất của tự do, vùng đất có thân nhân ruột thịt của tôi đang sống hạnh phúc, trong đó có anh Quảng, một thần tượng của tôi khi còn bé, và là một trong những người đầu tiên vượt tuyến vô Nam…
KỲ 16
Kể từ khi viết hồi ký, tôi có được cái may mắn, nhận được những cú điện thoại, những email khuyến khích của quý độc giả. Trong số đó, có những vị trước kia ở cùng một tổng, một làng với tôi ở ngoài Bắc. Có vị cùng tắm chung trên dòng sông Châu, và cũng có vị từng đặt chân lên núi Đọi, núi Đệp quê hương của Mẹ tôi… Rồi Chủ nhật vừa qua, có một vị gọi điện thoại hỏi tôi về những kỷ niệm của tuổi học trò ở Miền Bắc dưới chế độ cộng sản. Trước đây hai tháng, cũng có một vị thân hữu trong cộng đồng, hỏi tôi câu hỏi tương tự. Vì vậy, hôm nay, tôi xin kể lại những kỷ niệm tuổi học trò của tôi.
Tôi là một người rất hiếu học, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, nên chỉ được học hết lớp 8 thì tôi phải nghỉ học để kiếm sống. Nhưng trong thời gian 8 năm trên ghế nhà trường, tôi cũng có nhiều kỷ niệm vui buồn, đến bây giờ vẫn còn nhớ như in trong óc.
Trong những năm tiểu học, tôi là một đứa trẻ rất tinh nghịch, nên tôi bị thầy giáo đánh đòn như cơm bữa. Lớp tôi học nằm cạnh một vườn khoai mì, mà ngoài Bắc gọi là cây sắn. Dùng cây sắn làm roi thì hay bị gẫy, nên mỗi khi tôi nghịch ngợm, đáng bị đánh đòn, là thầy giáo sai học trò ra vườn sắn bẻ cả chục cây đem vào lớp. Như đã kể trong những số báo trước, tôi là người đa cảm, rất dễ xúc động, nhưng lại rất lì đòn, vì tôi mê được làm anh hùng ngay từ khi còn bé. Mà muốn làm anh hùng, thì điều đầu tiên phải biết gồng mình chịu đòn. Vì tâm tâm niệm niệm như thế, nên mỗi lần bị thầy giáo đánh đòn, tôi đều nghiến răng chịu đau, nhất định không kêu la xin xỏ.
Ngồi học trong lớp, tôi ít khi để ý đến lời thầy giảng, mà chỉ hay coi trộm truyện. Vì hay đọc truyện, nên tôi đọc bài rất lưu loát. Mỗi khi có phái đoàn giáo viên của huyện, của tỉnh về thăm trường (hay còn gọi là thăm quan), là cô giáo, thầy giáo lôi tôi lên đọc bài trước lớp. Tôi coi đó là một vinh dự và thích thú lắm.
Khi tôi bắt đầu lên học cấp 2, tức là từ lớp 5 đến lớp 7, thì máy bay Mỹ bắt đầu oanh tạc Miền Bắc. Đó là thời gian vất vả nhất của tuổi học trò. Vì trường cấp 2 ở ngay phố huyện, nên lệnh của trên phòng giáo dục huyện bắt trường tôi phải đi “sơ tán” (giống như di tản), nghĩa là chúng tôi phải bỏ trường lớp, đi xuống vùng thôn quê cách đó khoảng 4, 5 cây số, dựng lên trường lớp bằng mái tranh, vách đất. Cực khổ nhất là phải đào giao thông hào chi chít từ trong lớp học ra đến bên ngoài.
Có thể nói cả Miền Bắc từ năm 1965 trở đi, đâu đâu cũng thấy giao thông hào và hầm hố tránh bom. Giao thông hào đào từ trong mỗi lớp học, tỏa mạng ra các hầm trú ẩn. Chung quanh lớp cũng phải đắp các ụ đất cao một thước tám, ngang khoảng thước hai. Những ụ đất này chạy quanh lớp học, chỉ chừa có vài lối ra vô là cửa ngõ của các giao thông hào. Giao thông hào thì sâu khoảng thước rưỡi, ngang khoảng thước hai. Ngoài ra mỗi lớp học phải làm 5 hầm tránh bom, mỗi hầm chứa khoảng 10 đến 12 học sinh. Để làm những hầm tránh bom, phụ huynh và học sinh phải làm chung, vì rất tốn kém và vất vả. Đầu tiên là đào một hố sâu khoảng một thước, chiều ngang 3 thước, chiều dài 5 thước. Sau đó đóng cọc tre hai bên san sát dính liền, mỗi cọc cao khoảng 2 thước rưỡi, một đầu vót nhọn cắm sâu vào đất khoảng nửa thước, đầu kia có ngàm, để hai chân cọc đóng xoãi hai bên, còn hai đầu cọc thì khớp lại với nhau giống như mái nhà. Tiếp theo là buộc lạt tre, đặt phên tre, rồi đổ đất bùn trộn với rơm, dầy từ một thước đến thước rưỡi. Cuối cùng là phủ những lớp cỏ ngụy trang lên trên.
Dọc theo các con đường làng, các đường mòn tới lớp học, rồi chung quanh lớp, đều có các hố cá nhân. Những hố này đều sâu từ thước rưỡi đến hai thước, đường kính thước rưỡi. Ở thành phố, thị xã, thủ đô Hà Nội, mỗi hố cá nhân thường được đổ bằng xin măng, có nắp đậy. Còn ở thôn quê thì hố thường bằng đất, không có nắp.
Ngoài hệ thống hầm hố ra, mỗi học sinh thời đó đều phải có mũ rộng vành bện bằng rơm. Những cọng rơm được ngâm nước cho mềm, rồi kết lại với nhau giống như kết tóc đuôi sam. Sau đó, từng chuỗi rơm to bằng ngón tay cái được quấn và khâu thành hình chiếc mũ. Các thày cô giáo vẫn thường dậy chúng tôi, đội mũ rơm thì giúp cho đầu của mình khỏi bị bom bi, hay miểng bom. Như vậy mũ rơm để bảo vệ đầu. Còn bảo vệ thân thể thì có một chiếc khiên bằng rơm (lâu ngày, tôi quên mất tên gọi của nó nên tạm gọi là khiên rơm). Chiếc khiên này cũng được bện bằng rơm, nhưng thay vì khổ nhỏ như ngón tay cái, thì rơm bện cho chiếc khiên phải to và tròn cỡ cổ chân. Sau khi bện xong, thì quấn từng vòng thật chặt thành một chiếc khiên rơm hình bầu dục, rồi thêm hai chiếc dây, hay hai quai bằg rơm ở hai bên để đeo lên vai. Khi đeo xong, chúng tôi sẽ có được một chiếc khiên che kín phía lưng. Nhìn chung, vào thời đó, những chiếc mũ rơm, khiên rơm là như vậy, nhưng mỗi địa phương, hình dáng, cách thức của mũ rơm, khiên rơm có khác. Thậm chí có nơi, không có rơm, thì người dân dùng bẹ ngô, hay cây cỏ…
Học sinh chúng tôi thời đó cũng được dậy rằng, nếu nghe tiếng kẻng hay còi báo động, kịp nhảy xuống hố cá nhân tránh bom, thì nhớ đậy nắp hầm bằng chiếc khiên rơm. Như vậy, chỉ trừ khi trái bom rơi trúng miệng hầm, còn không thì mạng sống của chúng sẽ rất an toàn. (!!!) Tôi còn nhớ ngày đó, có mấy ông cán bộ huyện đội hay xuống trường học của chúng tôi, bắt cả trường phải thực tập màn báo động máy bay Mỹ oanh tạc. Có hôm mùa đông lạnh lẽo, trời mưa tầm tã cả tuần lễ, giao thông hào, hầm hố đều ngập nước, nhưng cán bộ huyện đội tới ra lệnh báo động, chúng tôi vẫn phải chạy nháo nhào dưới mưa để chui vào những hầm hố đầy nước… khiến đứa nào cũng run cầm cập, quần áo ướt như chuột. Ngoài chuyện nước, bùn, đôi khi còn có cả chuột, cóc nhái, rắn rết,… sống cũng có mà chết cũng có, trong các hầm hố, giao thông hào. Những thứ này quả là cả một ác mộng đối với học trò, nhất là với nữ sinh.
Về công dụng của chiếc mũ rơm, khiên rơm, tôi nhớ có lần, cán bộ huyện đội lên lớp giải thích, mỗi miểng bom hay viên bom bi bắn ra trong không khí, chúng sẽ xoay tít theo chiều kim đồng hồ. Một khi gặp rơm, chúng sẽ cuốn sợi rơm theo chiều quay, nên mỗi sợi rơm sẽ có công dụng như chiếc phanh (thắng), làm giảm tốc độ và rồi chặn đứng viên bom bi hay miểng bom lại. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ thoát chết. (!!!)
Vào lúc đó, chúng tôi chẳng biết, những chiếc nón rơm, khiên rơm đó có hữu hiệu trong việc tránh bom bi hay miểng bom như lời cán bộ huyện đội nói không, nhưng chúng tôi ai ai đi học cũng không thể nào quên được hai thứ “bùa hộ mạng” cồng kềnh và nặng nề đó.
Để minh họa phần nào hình ảnh người học sinh Miền Bắc trong những chiếc khiên rơm, mũ rơm, tôi xin gửi tới các bạn tấm hình dưới đây. Tôi cũng xin thưa, khi cho bà xã coi tấm hình này, tôi đã giải thích đứt lưỡi, bằng tất cả ngôn ngữ tôi có, cộng với sự thật thà đến ngây ngô, ngờ nghệch của tôi, nhưng vợ tôi vẫn nhất định không tin, những học sinh trong hình mặc những tấm khiên rơm đó là để chống bom bi. Vợ tôi bảo, các em học sinh đeo chiếc khiên rơm đó là để cho khỏi lạnh, chứ không phải để chống bom bi. Vì vậy, nếu quý độc giả nhìn hình, mà không tin những gì tôi viết trong bài này, điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Chỉ mong, nếu quý vị có cơ hội, xin hãy hỏi chuyện những người Việt từng sống ở Miền Bắc trong giai đoạn 1964-1972, thì có thể phần nào tin những điều tôi đã viết… Như vậy, quý vị sẽ thấy thương xót cho tuổi trẻ Việt Nam ở Miền Bắc trong những năm tháng cách đây ngót 40 năm. Và cũng xin quý vị hãy hiểu rằng, tất cả những khổ ải đó chỉ bằng phần ngàn, phần vạn, so với những khổ ải không có trong hình, do cộng sản gây ra cho quê hương, dân tộc VN, trong suốt 60 năm qua…
KỲ 17
Tuần qua, có một số vị độc giả cho biết, rất thích thú và ngạc nhiên khi thấy tấm hình những học sinh Việt Nam đeo khiên rơm, đội mũ rơm trên đường đến trường. Với đông đảo người dân Miền Nam, đó là hình ảnh lạ lùng, hiếm thấy, và cũng không có mấy người tưởng tượng ra nổi. Sự thực, trong những năm tháng đó, ở khắp các trường học trên lãnh thổ Miền Bắc, đâu đâu cũng thấy cảnh “muôn người như một” đội mũ rơm, đeo khiên rơm khi đi học. Tất cả học sinh Miền Bắc thời đó đều nghèo khổ, túng thiếu, quần áo vá chằng vá đụp, cùng những gương mặt xanh xao đói khát kinh niên, cộng với guồng máy tuyên truyền được chế độ cộng sản tận dụng tối đa để nhào nặn con người, đã làm tê liệt hết mọi đường nét ngây thơ, hồn nhiên của tuổi trẻ.
Dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” thời đó (cũng như từ xưa tới nay), ngoài những bài học thường xuyên thuần túy về đường lối chính sách của đảng, tất cả các môn học khác đều được chính trị hóa tối đa, kể cả những môn thuần túy khoa học tự nhiên như toán, lý, hóa. Trong văn chương cận và hiện đại, học sinh chúng tôi chỉ học văn thơ của những nhà văn, nhà thơ cách mạng, trong đó văn thơ của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Chế Lan Viên luôn luôn chiếm hàng đầu. Chương trình học, từ cấp 1, cấp 2, cấp 3 đến đại học, đều ở dạng “chính trị đồng tâm”, có nghĩa, từ khi còn nhỏ cho đến khi lớn lên, chúng tôi cùng học văn thơ cách mạng, nhưng nhỏ ở lớp dưới thì học ít, lớn ở lớp trên thì học nhiều. Học sinh cấp 1 học một vài bài thơ, bài văn trích của các lãnh tụ cộng sản. Lên cấp 2 học lại, nhưng sâu hơn, rộng hơn. Lên cấp 3 lại tiếp tục học. Đối với các nhà văn nhà thơ thuộc các trào lưu tư tưởng khác thì cộng sản không cho học, hoặc nếu có học cũng nặng về phê phán, chỉ trích những tư tưởng mà cộng sản coi là lệch lạc, sai trái. Thậm chí, đối với ngay cả những nhà văn nhà thơ cổ điển, hay những nhân vật lịch sử sống cả ngàn năm trước, cũng đều bị cộng sản nhào nặn để đánh giá, phê phán, dưới lăng kính chủ nghĩa cộng sản. Xin đơn cử một thí dụ, khi phân tích về Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, những người trí thức cộng sản đã tìm đủ mọi cách để gán ghép cho Nguyễn Du những đặc điểm có tính giai cấp của một người cộng sản. Đối với thơ văn thời Pháp, cộng sản chỉ khai thác những tác phẩm được cộng sản coi là có “giá trị hiện thực phê phán”, nghĩa là mô tả những tội ác, những xấu xa, hủ bại của chế độ “phong kiến thực dân”; hoặc kể lại những cảnh khốn khổ, những bi kịch của người dân nghèo. Với các môn khoa học tự nhiên, cộng sản cũng có chính sách nhằm tuyên truyền và đầu độc tuổi trẻ Việt Nam. Tất cả các nhà khoa học có công đối với nhân loại, đều được đánh giá dưới lăng kính giai cấp, chủng tộc và đảng tính. Nghĩa là ưu tiên vinh danh những khoa học gia nào là đảng viên cộng sản, hoặc là người Nga, Ba Lan, Hung Gia Lợi… là những nước cộng sản; hoặc xuất thân từ thành phần lao động, giai cấp công nhân nghèo khổ.
Bên cạnh nội dung giáo dục thuần túy tuyên truyền, cộng sản còn có cả một mạng lưới đoàn thể ngoại vi dầy đặc nhằm kiểm soát và hướng dẫn tư tưởng thế hệ trẻ, là tổ chức thiếu nhi và đoàn thanh niên. Cả hai tổ chức này đều đặt nền tảng tư tưởng cho giới trẻ, khiến cho một học sinh, ngay từ khi mới cắp sách đến trường, đã lọt vô cạm bẫy của cộng sản. Và trên con đường phát triển trí tuệ, tài năng và tay nghề, bất cứ học sinh nào, nếu đã không được kết nạp vào thiếu nhi, thì sẽ không bao giờ được kết nạp vào đoàn thanh niên. Và nếu đã không được kết vào đoàn thanh niên, thì người học sinh đó có học giỏi, có chịu khó, có tinh thần tiến thủ đến đâu đi nữa, người đó cũng khó có thể tiến thân. Sống trong xã hội cộng sản, hai chữ “đạo đức” phải được hiểu là “đạo đức cách mạng”. “Tài và đức” là thước đo giá trị của mỗi người đã trở thành “hồng và chuyên” trong chế độ cộng sản. Và khái niệm “hồng”, tức là “đạo đức cách mạng”, hoàn toàn xa cách, thậm chí trái ngược, với khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” của truyền thống dân tộc Việt Nam.
Một người học sinh dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” được dậy rằng, muốn có “đạo đức cách mạng”, họ phải sẵn sàng vì quyền lợi của đảng, chấp nhận “phi nhân, bất nghĩa, vô lễ, bất trí, bất tín”. Chế độ cộng sản luôn luôn dậy người học sinh, “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chỉ là những sản phẩm xa xỉ của chế độ phong kiến và tư bản.
Song song với trường học và các đoàn thể ngoại vi, cộng sản còn có cả một mạng lưới kìm kẹp và nhuộm hồng trí tuệ của tuổi trẻ qua hàng trăm hội đoàn, đoàn thể khác. Thậm chí, ngay cả gia đình, nền tảng đáng tin cậy cuối cùng của tuổi trẻ trên căn bản cùng huyết thúc, cũng bị cộng sản phá vỡ. Kết quả, ngay cả những câu hỏi ngây thơ, những thắc mắc chân tình của tuổi trẻ đối với cha mẹ hay anh chị trong nhà, cũng rất ít khi có được câu trả lời đúng đắn, nếu không nói là cha mẹ, anh chỉ đã chủ động trả lời gian dối, chủ động tuyên truyền lừa bịp. Bằng sự kìm kẹp tư tưởng, bằng chế độ tem phiếu, bằng mạng lưới công an chìm nổi và các hội đoàn, đoàn thể, cộng sản VN đã thực sự gieo rắc sự sợ hãi, gian dối, bao che tội lỗi, và đồng lõa với tội ác trên khắp quê hương Miền Bắc. Vì vậy, nếu ở Miền Nam, có ai than thở băn khoăn cho thế hệ trẻ khi viết “bò non gặm cỏ cháy”, thì ở Miền Bắc, tôi phải nói, “bò non gặm cỏ độc”.
Một ai đó đã nói, con người là sản phẩm của tuyên truyền. Câu này rất đúng vì có thể nói hầu hết mọi người sinh ra và lớn lên trong xã hội cộng sản, họ đều dễ dàng trở thành những cán bộ tuyên truyền cộng sản. Điều này khiến họ vừa là nạn nhân của chế độ cộng sản, lại vừa là thủ phạm gây ra những nạn nhân khác sống chung quanh họ. Vì bản chất của chế độ cộng sản là phi nhân, gian trá và lừa lọc, nên không sớm thì muộn, đến một lúc nào đó, hầu hết những nạn nhân của chế độ cộng sản đều tỉnh ngộ, thức tỉnh. Nhưng ngay cả khi họ thức tỉnh, sự tê liệt về ý chí, cùng những tội lỗi mà họ đã phạm, và nỗi xấu hổ trước sự nông cạn về trí tuệ khiến họ mắc lừa cộng sản, đã khiến họ tiếp tục sa lầy trong vũng bùn cộng sản…
Một trong những kỷ niệm ám ảnh mãnh liệt nhất và có sức tàn phá khủng khiếp nhất đối với thế hệ trẻ Miền Bắc chúng tôi là cái chết của Hồ Chí Minh. Để có thể hiểu được mức độ tàn phá của cái gọi là “thần tượng” Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ Miền Bắc như thế nào, xin các bạn hãy nhìn vào thực tế, tại hải ngoại hiện nay, trong cộng đồng của chúng ta, vẫn có những người Việt khoa bảng lớn tuổi, điên cuồng bênh vực Hồ Chí Minh là người Việt yêu nước. Họ vẫn nằng nặc không tin Hồ Chí Minh đã có nhiều vợ và có con; HCM là chánh phạm tạo nên những thảm kịch thời cải cách ruộng đất; HCM đã tạo ra những cuộc thủ tiêu rùng rợn các đảng phái quốc gia thời 9 năm kháng chiến. Có thấy được sự cuồng tín bênh Hồ Chí Minh bằng mọi giá của tầng lớp khoa bảng thân cộng sản tại hải ngoại, qúy vị mới thông cảm cho những học sinh nghèo khổ, lớn lên sau rặng tre làng, bị nhào nặn dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” đã ngây thơ tin tưởng vào “thần tượng” Hồ Chí Minh như thế nào…
Tôi còn nhớ ngày Hồ Chí Minh chết là ngày 3 tháng 9 năm 1969. Trong suốt những ngày, những tuần lễ sau đó, đi đến đâu, tôi cũng thấy những lễ truy điệu, những buổi đọc “di chúc” của Hồ Chí Minh. Rồi những bài hát, những bài thơ, những bài văn “thương tiếc Hồ Chí Minh” xuất hiện nhan nhản ở khắp mọi nơi, qua mọi hình thức. Tại các nhà thờ, chùa chiền, hãng xưởng nhà máy, các hợp tác xã, các trường học, đều thấy những gương mặt u ám, buồn bã, và cả những “giọt nước mắt thương tiếc”. Trong số đó, tôi biết hầu hết những người lớn tuổi biết rõ cộng sản là gì, thì đều phải đóng kịch để sống còn với chế độ. Sau này tôi được nghe kể, lúc đó, nhiều cô, nhiều bà có kinh nghiệm muốn “khóc thương Bác” thật mùi mẫn, thì chỉ cần nghĩ đến những người thân thương khi qua đời, là khóc ngon lành.
Nhưng đó là đối với người lớn. Với tuổi trẻ Việt Nam, ngây thơ lớn lên giữa cả rừng cạm bẫy và gian dối, lại bị guồng máy tuyên truyền của cộng sản nhào nặn, nên ngày đó, nhiều học sinh nhất là nữ sinh đã khóc “thương Bác” rất mùi mẫn. Thêm vào đó, nước mắt bao giờ cũng hay lây, nên cảnh các nữ sinh sụt sịt khóc trong những buổi truy điệu Hồ Chí Minh là cảnh tôi thường thấy.
Và một người khi còn trẻ, đã tin, đã yêu thương, tôn thờ một thần tượng, để rồi một ngày kia, nhận ra mình bị lừa, nhận ra thần tượng đó là thủ phạm của không biết bao nhiêu tội ác, thì khi đó, chính mình vừa thất vọng, vừa căm hận, vừa xấu hổ. Đời người chỉ sống có một lần, và chỉ một lần có tuổi thanh xuân. Vĩnh viễn không bao giờ mình được đi lại những năm tháng tuyệt vời đó. Vậy mà chính những năm tháng tuyệt vời đó, mình lại ấp ủ tôn thờ một tên đồ tể, thử hỏi còn nỗi đau đớn nào lớn hơn, quằn quại thê thảm hơn?… Nhất là khi nhiều người khi nhận biết được điều đau đớn đó là lúc tuổi của họ đã xế chiều, tội lỗi của họ đã ngập đầu, và hai tay của họ đã chót nhúng chàm độc….
KỲ 18
Một trong những nghệ thuật tuyên truyền quỷ mỵ và thâm hiểm nhất của chế độ cộng sản, là thêu dệt, nguỵ tạo những bằng chứng, để tạo ra ảo tưởng một tầng lớp một giai cấp hy sinh cho tầng lớp giai cấp khác trong xã hội. Kết quả, qua đường lối tuyên truyền này, những người cộng sản đã tạo nên một mối quan hệ thi đua hy sinh để sống xứng đáng với sự hy sinh của người khác dành cho mình.
Bằng cớ cụ thể nhất, để cho bộ đội khi ra trận, chiến đấu thật điên cuồng, cộng sản đã nhồi nhét vào đầu họ những truyện, ở hậu phương Miền Bắc có những cô gái, quyết hy sinh mạng sống, dưới mưa bom bão đạn của máy bay Mỹ, để bảo đảm cho lương thực, vũ khí được chở ra tiền tuyến. Ngược lại, đối với những người dân, những đơn vị thanh niên xung phong ở Miền Bắc, cộng sản sẽ đầu độc họ bằng sự hy sinh vô bờ bến của người bộ đội tại Miền Nam. Những lời trăn trối, những lá thư tuyệt mệnh của bộ đội, được các văn nô, thi nô, thêu dệt theo đơn đặt hàng của cộng sản cũng có, mà sự thực của những bộ đội có bộ óc cuồng tín cũng có, đã là những liều “mật độc” thấm vào lục phủ ngũ tạng của thế hệ trẻ Miền Bắc, khiến họ dễ dàng trở thành những con thiêu thân, lao vào “hào quang” do CS nặn lên. Trong mối hy sinh hỗ tương giữa tiền tuyến với hậu phương, giữa công nhân với nông dân, giữa nữ giới với nam giới, giữa người già với người trẻ, giữa huyện A với huyện B, giữa tỉnh C với tỉnh D, vân vân và vân vân… CS đã quỷ quyệt vắt kiệt tất cả của cải, công sức, mồ hôi, nước mắt và cả máu của dân Miền Bắc.
Một trong những “thần tượng” được cộng sản thêu dệt để bòn rút mồ hôi, trí tuệ của người dân, nhất là của thế hệ trẻ một cách hiệu quả nhất, là “thần tượng Hồ Chí Minh”. Để tạo cho mọi người dân hết lòng tin tưởng và thương yêu Hồ Chí Minh, chế độ cộng sản đã thêu dệt những câu chuyện đại loại như Hồ Chí Minh nhịn uống sữa mỗi buổi sáng để lấy sữa tặng cho trẻ thơ; nhịn mặc để lấy vải tặng các bà cụ già; thức đêm canh gác để cho bộ đội ngủ ngon… Sau này, chính Tố Hữu trong một bài thơ (tôi không nhớ tên) đã có câu, “sữa để em thơ, lụa tặng già” chính là để ca ngợi Hồ Chí Minh.
Vì sống trong một xã hội, “muôn người như một”, cả nước chỉ nghe một chương trình phát thanh, đọc một tờ báo, hát chung một bài hát tuyên truyền, mặc cùng một loại vải, ăn cùng một loại cơm độn; và nếu còn ở tuổi đi học, khi tới trường, tất cả các trường học trên lãnh thổ Miền Bắc cùng một ngày, một giờ đều cùng giảng một bài luận văn, đọc cùng một bài thơ, với nội dung luận điệu y hệt như tờ báo, như đài phát thanh,… nên tuổi trẻ VN ở Miền Bắc dễ dàng chìm đắm trong tình cảm “kính yêu” Hồ Chí Minh, mà không hề biết chân tướng đầy qủy mỵ cùng những thủ đoạn tàn độc của ông ta.
Truyện xưa, Tăng Sâm một người nổi tiếng là hiền hậu, sống với mẹ từ bé đến lớn, vậy mà chỉ 3 lần nghe 3 người khác nhau nói “Tăng Sâm giết người”, khiến người mẹ phải hoảng hốt bỏ trốn, thì đủ hiểu, sức mạnh của tuyên truyền ghê gớm đến thế nào. Người cộng sản VN hiểu rõ được sức mạnh đó, nên chúng đã dùng tuyên truyền để nhào nặn con người. Hậu quả, tôi có thể nói, sống trong xã hội cộng sản thời đó, dân chúng cả Miền Bắc sống trong dối trá. Trẻ ngây thơ thì sống trong ảo tưởng, lớn lên có chút hiểu biết, thì băn khoăn thắc mắc, nhưng không biết hỏi ai; và có hỏi cũng không bao giờ nghe được câu trả lời chân thành. Thậm chí có người, chỉ vì thật lòng hỏi, mà rồi mang họa, phải chịu tù tội suốt cả cuộc đời. Lịch sử tù tội trong xã hội CS, có không thiếu gì người, chỉ vì một câu nói đùa trong lớp học, chỗ chợ búa, hay ở nơi hàng quán, mà ôm hận vài năm đến vài chục năm tù.
Bên cạnh lớp người ảo tưởng cuồng tín, ở Miền Bắc dưới chế độ cộng sản, còn có một lớp người khác “mũ ni che tai”. Lớp người này hiểu biết, biết rõ về cộng sản, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, công ăn việc làm, nên họ chấp nhận “nín thở vĩnh viễn”. Vì sống trong một xã hội, hầu hết những người chung quanh đều “nín thở vĩnh viễn” giống nhau, nên họ đánh mất luôn cả nhân tính, cùng những cảm xúc bình thường con người phải có, như ăn năn, xấu hổ, tự ái, sĩ diện, tư cách, lòng tự hào… Chính guồng máy tuyên truyền của chế độ cộng sản đã tạo nên những người cộng sản máy như vậy nên trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam với không biết bao nhiêu thảm kịch kinh hoàng, trong đó không biết bao nhiêu người cộng sản đã chủ động và trực tiếp nhúng tay vào máu của những người dân vô tội, trong đó có trẻ em, phụ nữ, ông bà già,… nhưng tuyệt nhiên, cho đến nay, 30 năm sau khi cuộc chiến kết thúc, chúng ta không hề thấy bất cứ người cộng sản nào tỏ ra ăn năn, hối hận, hay bị khủng hoảng tâm thần. Và đây chính là điều đau xót thê lương và tàn nhẫn nhất đối với người dân Miền Bắc. Guồng mấy tuyên truyền của chế độ cộng sản trong suốt 20 năm chiến tranh, đã tạo cho những con người Việt Nam ở Miền Bắc trở thành người vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc. Hầu hết, họ chỉ biết có “đảng và bác”. Vì không có tôn giáo, lại được CS trao cho ảo tưởng “chống Mỹ giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước”, nên người lính Miền Bắc dễ dàng trở nên cuồng tín, không có những giây phút do dự khi bóp cò súng bắn giết những người dân vô tội. Vì vô tôn giáo, nên người lính cộng sản không hề tin vào vào thế giới tâm linh, vào thuyết nhân quả, vào đời sống kiếp sau, vào sự thưởng phạt ở bên kia thế giới. Hậu quả, người lính cộng sản sẽ thảnh thơi bước vào cuộc chém giết như bước vào cuộc chơi, với niềm tin “nòng súng, mũi chông là điều nhân đạo nhất” mà Chế Lan Viên đã nhồi nhét cho họ. Như vậy, thử hỏi làm sao người lính CS có thể ăn năn, hay bị khủng hoảng tinh thần cho được?
Trong khi ở những quốc gia tự do, dân chủ tây phương, trong đó Hoa Kỳ, có những người lính ăn năn, hối hận với những tội ác mà họ đã gây ra; có những người lính khi chứng kiến đồng đội bắn giết thường dân, đã dũng cảm dùng thân xác của mình ngăn chặn, sẵn sàng chấp nhận hy sinh; thì trái lại trong guồng máy chiến tranh của cộng sản, tuyệt nhiên không bao giờ tìm thấy sự ăn năn trong tâm hồn người lính cộng sản. Bản chất của chế độ cộng sản, với cả một guồng máy độc tài chuyên chế, sẵn sàng nghiền nát mọi tình cảm thiêng liêng của con người, đã khiến cho bất cứ ai trong chế độ CS, còn chút nhân tính, cũng không có cơ hội ngóc đầu sống thực với chút nhân tính của mình.
Chế độ cộng sản là cả một đại thảm họa cho nhân loại. Cộng sản Việt Nam, với bản chất tàn nhẫn của cộng sản quốc tế, cộng với sự ngu dốt, đã đẩy dân tộc Việt Nam vào vực thẳm của sự nghèo đói và băng hoại về nhân phẩm, văn hóa. Trong khi sự nghèo đói của một xã hội có thể giải quyết nhanh chóng trong thời gian vài chục năm, thì trái lại, một dân tộc bị băng hoại về nhân phẩm, về văn hóa, về tôn giáo, về lương tâm… dân tộc đó chỉ hồi sinh, phát triển sau thời gian cả trăm năm. Và đó là bi kịch thê thảm nhất, cay đắng nhất, dân tộc Việt Nam hiện đang đối diện.
KỲ 19
Là một thanh niên Việt Nam sinh ra và lớn lên trong xã hội Miền Bắc, tôi thấy rất rõ, số phận của mình cũng như tất cả mọi người, luôn luôn bị nhào nặn trong guồng máy tuyên truyền của đảng cộng sản và nhà nước. Thậm chí ngay cả những nhà văn, nhà thơ, nổi tiếng một thời trước 1945, được coi là thần tượng như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm… cũng đều trở thành những cán bộ văn hóa, dùng khả năng văn thơ của mình để tuyên truyền đầu độc lòng căm thù giai cấp cho thế hệ trẻ. Lấy thí dụ như thi sĩ Nguyễn Bính, một nhà thơ đã có hàng chục ngàn câu thơ tiền chiến ngọt ngào như nước giếng khơi, mượt mà như nhung lụa thời tiền chiến, vậy mà ngay sau khi hai miền đất nước bị chia cắt, ông cũng đã làm những vần thơ gieo rắc sự thù hận cho thế hệ trẻ Miền Bắc, qua những bài thơ, kể lể những “tội ác của VNCH”.
Tôi còn nhớ vào khoảng giữa thập niên 1960, ở ngoài Miền Bắc chúng tôi được nghe câu chuyện, một nhà điêu khác nổi tiếng ở Miền Nam là Diệp Minh Châu, vì quá “yêu thương và ngưỡng mộ” Hồ Chí Minh, nên đã lấy máu của ông vẽ nên bức tranh Hồ Chí Minh với 3 em thiếu nhi Bắc, Trung, Nam, để thể hiện lòng yêu qúy của ông dành cho Hồ Chí Minh. Nhờ việc làm đó, Diệp Minh Châu được đưa ra Miền Bắc sống. Rồi đến ngày 3 tháng 9 năm 1969, khi nghe tin Hồ Chí Minh chết, Minh Châu đã vừa khóc, vừa thức trắng mấy đêm liền để tạc tượng Hồ Chí Minh, đến nỗi ông chảy cả máu mắt…
Tôi không biết câu chuyện trên hư thực đến mức độ nào, nhưng những bức hình Diệp Minh Châu đầu hói, đang tạc bức tượng Hồ Chí Minh có cái đầu lớn gấp chục lần cái đầu của ông, đã in sâu vào trong tâm trí của thế hệ trẻ chúng tôi. Và ngay cả hiện nay, theo tôi biết, những câu chuyện tuyên truyền Diệp Minh Châu lấy máu của mình để vẽ Hồ Chí Minh vẫn được người cộng sản thêu dệt và tuyên truyền tại Việt Nam. Hiện nay, Đài Truyền Hình của CSVN, các trung tâm đố vui để học ở các trường học tại VN vẫn có câu hỏi đại loại như, bức tranh vẽ “Bác Hồ và 3 cháu thiếu nhi” được vẽ bằng máu của họa sĩ nào. Câu trả lời là Diệp Minh Châu. Tuổi trẻ VN phải gặm cỏ độc như vậy, thử hỏi làm sao không cuồng tín, bênh vực Hồ Chí Minh bằng mọi giá?
Đầu thập niên 1960, Bộ Chính Trị của CS Miền Bắc bắt đầu thông qua quyết định mở cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam. Chỉ trong thời gian ngắn không đầy mấy năm trời, hình ảnh những đoàn bộ đội lên đường đi B, những câu chuyện thương phế binh từ chiến trường B trở về, đã trở thành những ám ảnh, những câu chuyện quen thuộc trong đời sống của người dân Miền Bắc. Để có thể huy động tận cùng nguồn nhân lực, vật lực, tài lực cho cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, chế độ cộng sản Miền Bắc đã dùng guồng máy tuyên truyền, ngụy tạo và dựng nên hào quang người bộ đội với sứ mạng “xẻ dọc Trường Sơn đi chống Mỹ cứu nước”, “giải phóng Miền Nam”, “thống nhất đất nước”…. Toàn bộ mạng lưới phim ảnh, báo chí, truyền thanh, thơ văn, âm nhạc, sân khấu…. được lệnh cộng sản, tìm cảm hứng, tạo cảm hứng chung quanh hình ảnh người bộ đội xâm lăng Miền Nam. Kết quả, người thanh niên Miền Bắc bị thiên la địa võng bủa vây, và con đường “thi hành nghĩa vụ quân sự”, “tình nguyện nhập ngũ” là con đường duy nhất để một người có thể tồn tại, để gia đình khỏi bị phỉ nhổ, người thân khỏi xa lánh, dè bỉu.
Dưới chế độ cộng sản, mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, trở thành những sợi dây ràng buộc chặt chẽ, buộc mọi người phải đi theo con đường duy nhất: Cống hiến tài năng, trí tuệ và cả thân xác cho đảng và nhà nước. Câu khẩu hiệu, “trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” luôn luôn như lưỡi hái tử thần lửng lơ trên đầu tất cả mọi người dân Miền Bắc, bắt họ phải cống hiến thật nhiều, và chấp nhận mọi thiệt thòi, thiếu thốn. Một người thanh niên Miền Bắc, khi bị gọi đi bộ đội, thường không có sự chọn lựa nào ngoài việc ngoan ngoãn thi hành. Nếu không, người thanh niên đó phải đối diện với hàng loạt khó khăn sinh tử. Trước nhất là bị cắt hộ tịch, cắt mọi thứ tem phiếu, trong đó có lương thực. Công ăn việc làm của người thanh niên đó cũng bị đình chỉ. Nghĩa là ngay sau khi không chịu thi hành cái gọi là “nghĩa vụ quân sự”, anh trở thành một kẻ ăn bám 100% theo đúng nghĩa đen của từ này. Không một ai, không một nhà máy, hãng xưởng nào dám thuê mướn một người trốn “nghĩa vụ quân sự”.
Khó khăn thứ hai, cho dù có chấp nhận cuộc sống ăn bám, anh cũng khó kiếm được thứ mà ăn. Lý do là ngay trong gia đình của anh, ngay cả những người thân của anh, cũng không chấp nhận việc anh trốn “nghĩa vụ quân sự”. Vì ngoài việc phải chia xẻ khẩu phần ăn ít ỏi cho anh, họ còn gặp không biết cơ man nào là khó khăn trong đời sống riêng tư, trong công ăn việc làm, trong cơ hội thăng tiến nghề nghiệp, tiến thân trong nấc thang chính trị, chuyên môn. Tất cả chỉ vì trong nhà có một người thân “trốn nghĩa vụ quân sự”.
Xã hội Miền Bắc dưới sự tuyên truyền của cộng sản trong suốt thời gian hàng chục năm đã tạo nên những “giá trị tinh thần” vô cùng độc hại và nguy hiểm để buộc mọi người phải tuân phục theo lệnh của đảng và nhà nước. Bất cứ gia đình nào trên lãnh thổ Miền Bắc cũng đều chung một hình thức trang trí “muôn nhà như một”, chính giữa nhà ở vị trí trang trọng nhất, thường là ngay trên bàn thờ, là hình Hồ Chí Minh, và hình những lãnh tụ cộng sản khác, như Lê Nin, Mao Trạch Đông, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…. Ngoài ra, hai miếng giấy được lồng kiếng, có giá trị tuyệt đối là “Gia Đình Vẻ Vang” dành cho gia đình nào có người đi bộ đội; và “Tổ Quốc Ghi Công” dành cho gia đình nào có người đi bộ đội đã chết khi làm nhiệm vụ.
Chính hai miếng giấy này hiện diện trong các gia đình đã tạo nên những niềm “tự hào đầy ảo tưởng”, hoặc ghen tức vô cùng nguy hiểm trong mối quan hệ xã hội ở làng xóm, thôn quê lẫn cả thị thành trên đất Bắc. Gia đình ông A, bà B cũng có con trai, đến tuổi đi lính, mà chưa có được mảnh giấy “Gia Đình Vẻ Vang”, là cảm thấy thua thiệt đủ điều, và bị nhiều người chê trách. Từ việc chia nắm thóc, nắm gạo, miếng thịt, lít nước mắm trong ngày tết, đến chuyện bình bầu để mua cái phích nước (bình thuỷ), cái chậu men Trung Quốc, hay cái lốp xe đạp…. tất cả đều tuỳ thuộc vào gia đình có mảnh giấy Gia Đình Vẻ Vang, hoặc Tổ Quốc Ghi Công hay không.
Bên cạnh những người bị CS tuyên truyền, nhồi sọ, coi những mảnh giấy đó có một giá trị tinh thần tuyệt đối, cũng có những gia đình đủ khôn ngoan, coi những mảnh giấy đó là cạm bẫy. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản, khi những nhu cầu căn bản nhất của con người phải tuỳ thuộc vào tem phiếu, và những mảnh giấy do cộng sản cung cấp, lập tức bản năng thấp kém của con người bị đánh thức, và sự ghen tỵ nảy sinh. Khi đó, con người dễ dàng đối xử với nhau cạn tàu ráo máng. Nhất là bên cạnh đó, người cộng sản cùng chủ nghĩa duy vật biện chứng, sẽ được tận dụng để xúc xiểm, gây phân hóa, mâu thuẫn giữa hai bên. Và trong mối quan hệ hỗ tương, “miếng bấc ném đi, miếng chì trả lại”, “con ông trốn nghĩa vũ quân sự, trong khi con tôi hy sinh xương máu, giải phóng Miền Nam”, sẽ là những liều thuốc kích thích, khiến cho con người dễ dàng rơi vào những cơn ác mộng, buông tuồng cho cái ác, cái xấu tung hoành.
Bên cạnh áp lực của gia đình, người thanh niên Miền Bắc còn phải đối diện với áp lực của bạn hữu, kể cả người yêu, nếu có. Ở tuổi trên dưới 20 tuổi, thanh nam lẫn thanh nữ Miền Bắc đều ngây thơ tin tưởng vào đảng và nhà nước. Vì vậy, hầu hết đều tin tưởng vào sự nghiệp “chống Mỹ cứu nước”, “giải phóng Miền Nam”. Từ những trang thư, bài thơ gửi cho nhau, đến những kỷ vật nho nhỏ như chiếc khăn tay, một cuốn sách, chiếc gương, chiếc lược,…. đều không ít thì nhiều gói ghém niềm tin vào đảng và nhà nước. Tuổi trẻ luôn luôn hướng thượng, thích được cống hiến, được hy sinh, thích sống cuộc đời có ý nghĩa. Vì vậy, những cô gái Miền Bắc khi có người yêu, họ không thể nào chấp nhận được người yêu của họ là một gã “trốn nghĩa vụ quân sự”. Năm chữ “trốn nghĩa vụ quân sự” là cả một đại ác mộng, đầy xấu hổ, vì nó đồng nghĩa với hèn nhát, ích kỷ, sợ chết, phản bội tổ quốc….
Bằng áp lực xã hội, áp lực gia đình, áp lực bằng hữu, cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc đẩy hàng triệu thanh niên Miền Bắc vào con đường xâm lăng Miền Nam. Trong khi đó, thế hệ cha anh của họ, các thày cô giáo của họ, các nhà văn, nhà thơ ở Miền Bắc, cùng hàng triệu người Việt Nam khác, hiểu biết rõ ràng bản chất của chế độ cộng sản,… nhưng tất cả đều thản nhiên tránh né, ngoảnh mặt quay lưng, thậm chí đồng loã, tiếp tay với chế độ cộng sản, thực hiện một canh bạc bịp khổng lồ nhất lịch sử VN, mà hậu quả là máu xương của tuổi trẻ Miền Bắc lẫn cả máu xương của hàng triệu người vô tội ở Miền Nam bị phung phí trong suốt mấy chục năm trời. Trong khi các quốc gia khác, cũng sống trong hoàn cảnh bị chia cắt và sống dưới chế độ cộng sản như Đông Đức, Trung Cộng, Bắc Hàn, nhưng đủ khôn ngoan để không theo đuổi cuộc chiến xâm lăng Tây Đức, Đài Loan, Nam Hàn, nên không phí phạm mấy triệu sinh linh, để rồi đất nước của họ có được cơ hội hồi sinh, thăng hoa, gấp vạn lần so với Việt Nam. Đó là bài học đắt giá, dân tộc VN phải gánh chịu trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai….
KỲ 20
Sống trong chế độ cộng sản, người dân luôn luôn bị cộng sản cho ăn bánh vẽ, bị cộng sản nhồi nhét những ảo tưởng, do guồng máy tuyên truyền của đảng và nhà nước thêu dệt. Những chiếc bánh vẽ và những ảo tưởng đó đến từ mọi phía, mọi nơi, mọi lúc. Người lớn dù biết là bánh vẽ, nhưng vẫn phải tươi tỉnh ăn, và khen ngon. Vì nhất cử, nhất động của mỗi người, luôn luôn có người khác theo dõi, và sẵn sàng báo cáo mọi biểu hiện mà họ cho là lệch hướng, mất lập trường, mất quan điểm. Từ những chuyện thật bình thường, như bạn tỏ ý chê một món hàng do các nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa anh em” [các nước cộng sản] sản xuất, hay bạn khen một sản phẩm của thế giới tư bản, hoặc tỏ ra thích một món đồ cũ của Pháp, hay của thời phong kiến ngày xưa, vân vân, bạn đều có thể dễ dàng bị ghép vào tội phản động, và bị tống vô trại cải tạo mà không hề biết án tù bao nhiêu năm.
Thông thường, những người sống trong chế độ cộng sản, lương tâm đạo đức đều bị thui chột. Thêm vào đó, sự đói khổ, thiếu thốn khiến con người thấy mình gần với bản năng của con vật, nên chính trong thâm tâm, mỗi người đều cảm thấy mình không còn có lòng tự trọng, không còn có nhân phẩm để mà tự hào. Làm sao con người có thể có lòng tự trọng, khi lúc nào họ cũng phải nghĩ đến những biện pháp mờ ám, ăn cắp, ăn trộm, lừa gạt lẫn nhau, kèn cựa lẫn nhau, đạp lên nhau để “tiến bộ thăng quan tiến chức”, mà rốt cuộc chỉ để nhằm thỏa mãn những nhu cầu tầm thường của bản năng con người? Hậu quả, con người sống trong chế độ cộng sản luôn luôn cảm thấy run sợ trước cường quyền, nhút nhát trước bạo lực. Ra đường nghe một hồi còi là giật mình, đêm ngủ nghe tiếng gõ cửa là hoảng hốt. Bản thân tôi, bị nỗi sợ hãi khủng khiếp đó ám ảnh trong suốt nhiều năm, nhất là những năm vượt ngục, vượt biên sau 1975, nên khi mới tới Úc, nhiều khi đi đường, bỗng tôi giật bắn mình chỉ vì nghe hồi còi của trẻ bán báo. Trong những ngày tháng mới đặt chân lên thị trấn Đông Hưng, Trung Cộng, phía bên kia Móng Cái, tối nào ngủ, tôi cũng mê sảng thấy tôi bị cộng sản đuổi bắt, bị súng cộng sản bắn trúng, đạn xuyên qua cổ họng, máu chảy tung tóe, trong khi tôi vừa chạy, vừa la, vừa nghe thấy gió thổi vô những lỗ đạn ở cổ kêu hu… hu….
Bên cạnh việc đầy đọa con người đến gần với bản năng thú vật, cộng sản còn khôn ngoan và thủ đoạn cấy vào đầu óc những người ngây thơ, nhẹ dạ, cả tin những ảo tưởng, để biến họ thành những “anh hùng vì dân vì nước”, thành “những chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ”, mà thực chất chỉ là tay sai cho chế độ cộng sản. Những ai đã bị tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản, dần dần người đó sẽ bị chủ nghĩa duy vật, và duy vật biển chứng pháp của cộng sản bủa vây, khiến họ mê muội, chìm đắm chạy theo ảo tưởng, mà không nhìn thấy những sai lầm, những tội ác của cộng sản. Họ sẽ trở thành những người điên cuồng chạy tội cho cộng sản một cách vô cùng tinh vi. Bất cứ lúc nào, chứng kiến những tội lỗi của cán bộ cộng sản, lập tức trong tâm trí họ, tiếng nói duy vật biện chứng sẽ cất lên, nhắc nhở họ, “thấy vết mây đen, chớ quên mặt trời hồng; thấy rác ven đường, chớ quên nước biếc dòng sông; thấy cây mục, đừng quên cả rừng xanh tốt”. Với duy vật biện chứng, những người bị cộng sản tiêm nhiễm lúc nào cũng tự hào, họ là những người sáng suốt, biết nhìn rõ bản chất qua hiện tượng, thấy cả triệu đảng viên cộng sản sai đi nữa, nhưng họ vẫn khăng khăng tin tưởng đảng cộng sản không bao giờ sai, đảng cộng sản là bách chiến bách thắng, là vô địch…
Bằng lối lý luận “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, cộng sản đã đào tạo cả một đội ngũ cán bộ cuồng tín, sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của đảng, làm bất cứ chuyện gì, mà không cần suy nghĩ, cân nhắc chuyện đúng sai. Tôi nhớ, thời gian trước khi đi B (vô Miền Nam), trong một buổi học tập chính trị, viên chính uỷ tiểu đoàn, hay trung đoàn (tôi không nhớ tên), có hỏi chúng tôi một câu: “Nếu các đồng chí đứng trước một giả thuyết, giết một đứa bé để cứu cả thế giới khỏi hiểm họa chiến tranh, thì các đồng chí có đủ can đảm dám vì hòa bình của toàn nhân loại, chấp nhận giết đứa bé đó không?” Sau khi nghe chúng tôi, người trả lời “có”, kẻ trả lời “không”, viên chính uỷ hỏi lại: “Để cứu cả thế giới, các đồng chí có đủ can đảm hy sinh danh dự và tình cảm tiểu tư sản của mình để giết đứa bé đó hay không?” Lần này, số người trả lời “có” đông hơn. Cuối cùng, viên chính ủy lại hỏi tiếp: “Nếu phải giết một đứa bé để cứu đảng, cứu Bác Hồ, các đồng chí có đủ can đảm làm chuyện đó hay không?” Lần này, không một ai dám trả lời “không”.
Kể lại câu chuyện này, tôi chỉ muốn thưa với các bạn, chủ nghĩa cộng sản nguy hiểm không phải chỉ ở chỗ mang đến cho gia đình, dân tộc, đất nước,… sự nghèo đói và lạc hậu; mà nguy hiểm hơn, thê thảm hơn, chủ nghĩa cộng sản còn mang đến cho mọi người sự băng hoại lương tâm, tư cách, nhân phẩm, huỷ diệt đến tận cùng cái “nhân chi sơ tính bổn thiện” của con người, đồng thời phá vỡ tất cả mọi ràng buộc về nhân nghĩa lễ trí tín, tình cảm gia đình, niềm tin tôn giáo… của con người.
Viết đến đây, tôi lại nhớ tới vụ thảm sát Mỹ Lai. Điều tôi nhớ tới không phải là tội ác do trung uý Mỹ William Calley gây ra, mà là nhớ tới hành động dũng cảm của người phi công trực thăng Mỹ tên là Hugh Thompson, tuổi chỉ mới 24, cấp bậc chỉ hạ sĩ hay trung sĩ, những đã dám liều mạng ngăn chặn không cho trung uý Mỹ William Calley tiếp tục cuộc thảm sát. Tôi cũng còn nhớ tới ký giả Seymour Hersh, nhiếp ảnh gia Ron Haeberle, tạp chí Life, Time, Newsweek, và nhiều báo chí khác ở Mỹ, ở Pháp đã có công trong việc đưa vụ thảm sát Mỹ Lai ra ánh sáng. Tôi nhớ đến cả những phiên tòa xét xử William Calley; và những người lính Mỹ ăn năn, trở lại Mỹ Lai trong những năm gần đây để xây trường học, hàn gắn những bị kịch mà họ đã gây ra cách đây hơn 30 năm. Có nhớ lại tất cả những điều đó, tôi mới thấy được, con người có được sinh ra và lớn lên ở những quốc gia tự do, họ mới có được cái cơ hội làm theo tiếng gọi của lương tri. Chiến tranh bao giờ cũng là điều tàn nhẫn. Và con người, một khi phải lao vào một cuộc chiến, luôn luôn có cả ngàn yếu tố xô đẩy họ rơi xuống vực thẳm của tội ác trở thành tội phạm chiến tranh. Khi đó, tiếng nói của lương tri sẽ là chiếc thắng luân lý ngăn chặn họ khỏi rớt xuống vực thẳm của tội ác. Và ngay cả khi tội ác có diễn ra, tiếng nói lương tri của những người lính khác như Hugh Thompson, sẽ giúp họ ngăn chặn, giảm thiểu mức độ khốc liệt của tội ác; đồng thời mang đến sự trừng phạt cần thiết của công lý; đánh thức sự ăn năn hối hận trong tâm hồn của những người đã lỡ gây tội ác.
Trái lại, đối với những người lính cộng sản, hầu hết đều được cộng sản đào tạo theo chiều hướng huỷ diệt lương tri, tàn phá nhân phẩm, nên tiếng gọi lương tâm đối với họ luôn luôn là điều hiếm hoi. Tôi lấy thí dụ vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế do người cộng sản Việt Nam gây ra. Nếu so sánh nguyên nhân dẫn đến cuộc thảm sát, mức độ của cuộc thảm sát, ai cũng phải đồng ý, vụ thảm sát tại Huế gớm ghiếc, tàn nhẫn và ghê rợn gấp cả ngàn lần so với vụ thảm sát Mỹ Lai. Vậy mà tuyệt nhiên, trong những vụ thảm sát giết 5, 7 ngàn người tại Huế, chúng ta không tìm thấy bất cứ người bộ đội nào có hành động ngăn cản tội ác như Hugh Thompson; không có bất cứ nhà văn hay nhiếp ảnh gia cộng sản nào trung thành với công lý, như Seymour Hersh, Ron Haeberle; và cũng tuyệt nhiên không có một tờ báo, tạp chí cộng sản nào đóng vai trò phanh phui tội ác, kêu gọi sự trừng phạt nghiêm minh của công lý như tạp chí Life, Time, Newsweek… Và cho đến bây giờ, ngót 40 năm đã trôi qua sau vụ thảm sát Huế Mậu Thân, chúng ta cũng tuyệt nhiên không hề nghe thấy bất cứ người bộ đội nào, nhà văn, nhà báo cộng sản nào, mở miệng nói những lời ăn năn, hối hận đối với tội mà họ đã gây ra.
Những vụ thảm sát tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân là một thực tế không ai chối cãi. Mức độ rùng rợn của vụ thảm sát cho chúng ta thấy, ít nhất phải vài ngàn bộ đội cộng sản đã nhúng tay vào máu của những người dân Huế vô tội. Trong số đó, còn sống cho đến hôm nay cũng phải trên dưới cả ngàn người. Vậy mà họ vẫn sống thản nhiên với tội ác họ đã gây ra, ở một nơi nào đó, ngay trên quê hương Việt Nam, thậm chí có khi những bộ đội thủ phạm tội ác đó vẫn đang đi trên những đường phố Huế, nơi họ đã gây tội ác. Lương tâm của ở đâu? Tại sao họ có thể lạnh tanh máu cá, chấp nhận sống im lặng với tội ác mà chính họ là thủ phạm? Và có hỏi như vậy, tôi mới thấy tất cả sự bi thảm, đau đớn và bất hạnh của dân tộc Việt Nam khi bị cộng sản nhuộm đỏ.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ai cũng biết, cộng sản Việt Nam chẳng phải chỉ gây ra vụ thảm sát Huế hồi Tết Mậu Thân, mà chúng còn gây ra hàng chục ngàn vụ thảm sát rùng rợn khác trên khắp quê hương Việt Nam. Hàng chục ngàn cộng sản thủ phạm nhúng tay vào máu những người dân vô tội, hiện vẫn đang sống thanh thản ung dung trên quê hương VN. Nhiều tên trong số đó hiện đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy chính phủ từ trung ương đến địa phương. Nhưng tuyệt nhiên, không một ai lên tiếng thú nhận tội ác chúng đã làm; cũng không một ai lên tiếng tố cáo những tội ác mà đồng đội đã làm; và cũng không có một cơ quan hữu trách nào có ý định phanh phui ra ánh sáng những tội ác người cộng sản đã phạm.
Hiển nhiên, nếu ai đã hiểu rõ người cộng sản, thì không bao giờ kỳ vọng vào lòng ăn năn, sự xám hối của người cộng sản. Trong thời cải cách ruộng đất, người cộng sản đã giết cả mấy trăm ngàn người vô tội, vậy mà khi tuyên bố sai lầm, Hồ Chí Minh chỉ nói ngắn gọn có hai chữ “xin lỗi”, vậy là xong.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, bị cộng sản nhồi nhét tuyên truyền, nhưng may mắn, nhờ có thân phụ dậy bảo, nên tôi đã sớm thoát khỏi những bờ mê, bến lú, của chủ nghĩa cộng sản. Tôi căm giận chủ nghĩa cộng sản vì nó đã tàn phá quê hương, đất nước tôi, làm băng hoại dân tộc Việt Nam tôi trong suốt 60 năm qua. Vì vậy, khi nào chủ nghĩa cộng sản còn hiện diện trên quê hương Việt Nam, tôi sẽ còn tiếp tục đi theo con đường chống lại chủ nghĩa cộng sản. Tôi biết, với cuộc đời ngắn ngủi còn lại của tôi, chưa chắc gì tôi đã đi hết con đường chánh đạo để nhìn thấy chủ nghĩa cộng sản sụp đổ trên quê hương của tôi. Nhưng tôi biết chắc một điều, ngày nào tôi còn đi trên con đường chống chủ nghĩa cộng sản, ngày đó tôi còn thấy hạnh phúc và tự hào, đã đi đúng con đường chánh đạo; vì cùng đồng hành với tôi hôm qua, hôm nay và trong mai hậu, có tất cả những người Việt yêu nước trên thế giới, có cả vong linh của tất cả những người Việt yêu nước đã nằm xuống, trong đó có vong linh của cả thân phụ của tôi…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét