PHẦN V - Chương XXV
CHUYỆN LÀM VĂN HOÁ (1954-75)
NHỜ ĐÂU TÔI VIẾT ĐƯỢC NHIỀU?
NHỜ ĐÂU TÔI VIẾT ĐƯỢC NHIỀU?
TÔI GẶP HOÀN CẢNH THUẬN TIỆN VÀ ĐƯỢC THỜI CUỘC THÚC ĐẨY
Năm 1953, thi sĩ Đông Hồ bảo tôi lên Sài
Gòn sẽ không viết được nhiều như ở Long Xuyên và chẳng bao lâu sẽ cạn hứng. Lúc
đó tôi không tin rằng sẽ cạn hứng nhưng cũng chỉ mong viết được vài ba chục
cuốn nữa thì thôi; không ngờ luôn hai chục năm tôi còn viết mạnh hơn hồi ở Long
Xuyên, chẳng những viết sách mà còn viết báo, khiến cho một bạn văn phải ngạc
nhiên tại sao tôi ốm yếu, bệnh tật liên miên: loét bao tử, trĩ, viêm khí quản,
mất ngủ, lao phổi mà viết được nhiều hơn cả Trương Vĩnh Ký nữa, vị học giả mà
ai cũng biết trứ tác phong phú nhất trong một thế kỉ nay. Có người bảo tôi là
cái “máy viết”, thậm chí một thanh niên ở Trung Việt còn ngờ tôi đã mướn người
viết, tôi chỉ coi lại và kí tên!
Tôi không “mướn người viết”, cũng chẳng
mướn người giúp tôi trong công việc xuất bản, bán sách, sửa ấn cảo; chẳng nhờ
vợ con giúp tôi trả lời thư từ độc giả, giữ sổ sách, sắp đặt tủ sách; mà lại
còn sửa giùm bảo thảo cho vài người thân, đọc rồi đề tựa cho khoảng vài chục
tác phẩm của các bạn văn nữa.
Sở dĩ được vậy một phần là vì tôi biết tổ
chức công việc và tiết kiệm thì giờ, làm việc mau; một phần nữa là nhờ tôi được
nhiều thuận tiện hơn đa số các nhà văn khác. Gánh gia đình tôi rất nhẹ; tôi chỉ
có một đứa con, năm 1957 qua Pháp học và mỗi tháng tôi chỉ phải gởi cho nó một
số tiền; hai người vợ của tôi đều dạy học và trông nom việc nhà được; tôi không
phải bận bịu gì về gia đình cả. Họ đều biết chiều chồng, dạy con cháu, thương
người; các cháu – con cô em út tôi – rất quí mến hai bác gái chúng.
Tôi được trời phú cho tính giản dị, rất ít
nhu cầu, mà cũng không có một đam mê gì ngoài sách vở.
Tôi lại may có một số độc giả “trung thành”
khá đông, cho nên tác phẩm nào của tôi cũng không sợ ế, có một số cuốn khó đọc,
“kén độc giả” như Đại cương triết học Trung Quốc,Cổ văn Trung
Quốc, Một niềm tin… thì bù lại có rất nhiều cuốn bán rất
chạy; mà những cuốn kén độc giả đó, các nhà xuất bản ngại không muốn mua thì
tôi có đủ vốn để xuất bản lấy (luôn thu lại đủ vốn in trong vài năm), hoặc để
hùn với một nhà xuất bản nào đó như Cảo Thơm: họ bỏ công, tôi góp một phần vốn
và rốt cuộc không ai lỗ mà còn được lợi ít nhiều về mặt này hay mặt khác. Có một
số độc giả tin mình, cuốn nào in ra cũng tiêu thụ được, đó là điều kiện quan
trọng nhất để viết được nhiều.
Sau cùng, thời cuộc nước nhà bắt buộc tôi
phải viết, không nghỉ được. Đầu năm 1971, thi sĩ Bàng Bá Lân có lần hỏi tôi đã
tính nghỉ viết chưa, tôi đáp trong một bức thư:
“Mấy năm nay, tôi thấy sức suy, cứ mùa mưa
thì cứ ba ngày đau mất một ngày, mùa lạnh cũng không chịu nổi. Anh dư biết nghề
viết văn mệt hơn nghề công, tư chức nhiều lắm, óc thì không lúc nào nghỉ được,
công việc cứ ám ảnh mình hoài, tới khi hoàn thành tác phẩm mới thôi. Mà chưa
xong tác phẩm này đã chuẩn bị cho tác phẩm khác rồi.
“Viết đều đều trên hai chục năm rồi, tôi
muốn nghỉ lắm chứ, nhưng còn chiến tranh thì không thể nghỉ được… Có gì đâu mà
anh ngạc nhiên? Còn chiến tranh thì làm sao vui được? Chẳng những việc nước
không yên mà việc nhà của chúng ta cũng không yên, không thể quyết định một
chút gì trong tương lai cả, ngay đến đời sống của mình cũng không có gì bảo
đảm. Sở dĩ tôi phải cặm cụi viết một phần lớn là để tạm quên những ưu tư đó đi.[1]
Khi quân Nhật đánh Lạng Sơn, nước mình bắt
đầu chịu cái hoạ chiến tranh, con tôi mới được hai tuổi; nay con đầu lòng của
nó đã năm tuổi; ba chục năm rồi, hơn một thế hệ rồi mà chiến tranh vẫn còn, mỗi
ngày mỗi thêm ác liệt. Năm nào đêm giao thừa tôi cũng hi vọng qua năm sau tình
hình sẽ sáng sủa hơn, mà năm nào tôi cũng thất vọng. Chỉ khi nào hoà bình vãn
hồi rồi, tôi mới có thể nghỉ được. Mà bao giờ mới vãn hồi?”.
Ai cũng biết câu: “Tái ông thất mã, an tri
phi phúc?” của Trung Hoa và câu “À quelque chose malheur est bon”[2] của
Pháp. Chiến tranh Việt-Pháp, Việt-Mĩ là cái hoạ lớn cho dân tộc ta, là một nỗi
lo buồn, đau khổ cho mọi người, nhưng tôi lại nhờ nó mà viết được nhiều. Vì nếu
không có nó thì mỗi năm tôi cũng đi thăm các thắng cảnh trong nước một hai
tháng, tiếp xúc với nhiều bạn văn, về quê ở Phương Khê sống lại một thời gian
tuổi thiếu niên, và chắc tôi sẽ viết ít hơn, chứ tội tình gì mà giam mình trong
phòng viết liên tiếp hơn hai chục năm như vậy?
Trong thư cho Bàng Bá Lân, tôi bảo khi hoà
bình vãn hồi, tôi mới có thể nghỉ viết được. Bốn năm sau, hoà bình được vãn hồi,
và tôi nghỉ viết gần một năm; nhưng rồi biết bao nhiêu điều khiến tôi phải suy
nghĩ, lại phải viết nữa cho qua ngày, cho quên những chuyện xảy ra ở chung
quanh. Hôm nay tôi lại tự hỏi như năm 1971: bao giờ mới thôi viết đây?
LÀM VIỆC ĐỀU ĐỀU, BỀN BỈ CÓ HƯỚNG RÕ RỆT TẬP TRUNG NĂNG
LỰC
Tự biết có nhiều thuận tiện như trên, tôi
tận dụng những thuận tiện đó. Độc giả còn tin mình, thì mình viết được bao
nhiêu cứ viết, càng nhiều càng tốt, miễn là cuốn nào cũng phải có ích không cho
giới này, tuổi này thì cho giới khác, tuổi khác.
Nhà văn Pháp Jules Renard bảo: “Bậc thiên
tài là những người cặm cụi làm việc 18 giờ một ngày”. Ý ông muốn nói: “Cứ cặm
cụi làm việc thật nhiều thì sẽ thành thiên tài”. Lời của ông cũng giống như lời
một nhà kinh doanh Mĩ: “Muốn thành công thì cần 5% hứng và 95% toát mồ hôi” (5%
d’inspiration et 95% de transpiration). Rất ít người có thể làm việc 18 giờ một
ngày năm này qua năm khác được. Chỉ cần làm việc đều đều mỗi ngày tám giờ thôi
cũng đủ, nhưng phải liên tiếp trong vài ba chục năm.
Điều quan trọng là phải có một hướng rõ
rệt, một mục đích để nhắm và phải tập trung tất cả năng lực, thì giờ vào công
trình của mình. Trong thế chiến thứ nhì, xăng, dầu lửa, đá lửa đều thiếu, bác
Ba tôi ở Tân Thạnh nhồi bông gòn vào một ống tre, đưa ra chỗ có nắng, lấy một
kính hiển vi (loupe) tập trung ánh sáng vào một điểm trên bông gòn, chỉ trong
mười giây, bông cháy, bốc khói lên, châm thuốc hút được, lại có thể mồi lửa vào
một mảnh giấy.
Biết tập trung năng lực và thời giờ của
mình thì kết quả có thể gấp hai gấp ba; vì vậy trong hai mươi hai năm liên
tiếp; từ khi mở nhà xuất bản[3],
tôi bỏ hết các hoạt động khác để chuyên tâm viết.
Nhiều trường Đại học mời tôi dạy Ngữ Pháp
Việt Nam, Triết học hoặc Văn học Trung Quốc, tôi đều từ chối. Một lần, thi sĩ
Đông Hồ lúc đó đương dạy Đại học Văn khoa Sài Gòn, sáng sớm từ Quỳnh Lâm thư
thất trong Gia Định ra chơi tôi ở đường Kì Đồng, bảo tôi:
- Tôi nghe nói người ta mời bác dạy Văn
khoa. Tôi vội vã ra để cản bác. Đừng nhận lời. Mất thì giờ lắm. Tôi có thể dạy
được, bác thì không nên. Thì giờ của bác quí hơn thì giờ của tôi nhiều.
Tôi đáp:
- Bác thật là tri kỉ của tôi. Vâng. Người
ta có mời nhưng tôi đã từ chối rồi.
Thấy mấy lần mời mà tôi đều từ chối hết, có
người cho tôi là làm cao. Không phải vậy. Tôi thấy dùng thì giờ vào việc viết
có lợi cho thanh niên hơn là dùng vào việc dạy học.
Một vị phó viện trưởng một Đại học tư nọ ở
gần nhà tôi hai lần nhờ người lại nhờ tôi dạy, bảo nếu tôi nhận lời thì đích
thân ông ta sẽ lại tiếp xúc với tôi, tôi cũng từ chối; ông ta phật ý phê bình
tôi ra sao đó, người ta kể lại cho tôi nghe, tôi gật đầu, mỉm cười.
Chính phủ Ngô Đình Diệm và chính phủ Nguyễn
Văn Thiệu ba lần mời tôi làm giám khảo trong một cuộc thi văn chương toàn quốc,
tôi từ chối hết. Một lần tôi hơi ân hận khi người đến mời tôi, một học giả lớn
tuổi hơn tôi, khá có tiếng tăm, rầu rầu nét mặt, bảo tôi: “Ông không nhận lời
cho là một điều buồn cho uỷ ban tổ chức giải thưởng, mà cũng là một điều buồn
cho chính tôi nữa”.
Tôi đành làm mất lòng anh bạn đó để giữ
vững nguyên tắc của tôi: không phí thì giờ vào các công việc khác. Làm giám
khảo giải thưởng văn chương ít nhất phải đi hội họp bốn năm lần; phải đọc vài
chục bản thảo, cũng mất một tháng, thời giờ để tôi viết được ba bốn chương
sách.
Chính phủ Thiệu còn mời tôi vào Uỷ ban dịch
thuật, Uỷ ban điển chế văn tự của Bộ Văn Hoá, sau lại mời tôi vào Hội đồng Giáo
dục toàn quốc, vài bạn thúc tôi nhận lời, tôi cũng từ chối: hội đồng đó chỉ có
tính cách tư vấn, không có quyền hành gì cả, mà đề nghị cải tổ giáo dục của
tôi, tôi đã cho đăng trên tạp chí Bách Khoa từ 1962[4],
tôi có gì đâu để nói thêm. Có họp bàn mấy tháng đi nữa thì cũng cũng chỉ phí
thì giờ, không đi tới đâu vì không thể thực hiện được một cải cách nào quan
trọng trong hoàn cảnh chiến tranh đương khốc liệt.
Cũng vì không muốn mất thì giờ và muốn được
độc lập, tôi không vào một hội nhà văn nào cả, cũng không dự các cuộc hội họp,
diễn thuyết của các cơ quan Văn hoá. Nhiều người ghét tôi về điều đó, trách tôi
sống cách biệt hẳn với anh em, sống ra ngoài xã hội, cho tôi là khinh người.
Những bạn văn nào chỉ tiếp xúc với tôi vài lần cũng nhận thấy điều đó sai.
Ngay toà soạn báo Bách Khoa cách
nhà tôi không tới một cây số mà cả tháng tôi mới ghé một lần, lần nào cũng vui
vẻ trò chuyện với anh em. Bạn nào có việc gì nhờ tôi, tôi giúp được thì sẵn
lòng tận tâm giúp. Một số bạn ở xa gởi tác phẩm đầu tiên, nhờ tôi cho ý kiến và
nếu có thể được thì đề tựa cho. Tôi thấy đáng giúp thì giúp và tôi đã giúp được
nhiều người. Còn những nhà gởi tác phẩm tặng tôi thì bao giờ tôi cũng đọc hết,
thành thực đưa ý kiến, rán kiếm một vài chỗ để khen, vì tôi cho đó là một cách
nhã nhặn đáp lại lòng kính hay mến của người gởi.
Không, tôi không khinh người. Tôi chỉ quí
thì giờ và sức khoẻ của tôi, thế thôi. Và một vài nhà văn cũng nhận rằng tôi có
lý mà không dự các cuộc hội họp có tính cách văn hóa vì những buổi đó chỉ để
gặp mặt nhau chẳng giải quyết được gì, mất thì giờ lắm.
Tôi lại bị bệnh loét bao tử, ăn phải kiêng
cữ, phải đúng giờ ăn cũng như ngủ, và ăn xong phải ngả lưng nghỉ ngơi một giờ,
nên càng ngại các buổi tiệc tùng. Các bạn văn đều hiểu như vậy và miễn thứ cho
cả. Nhưng khi có một buổi tiệc long trọng như bạn bè làm lễ thành hôn cho con
thì tôi cũng nhận lời tới dự, và các bạn thường có nhã ý cho xe hơi lại đón rồi
đưa về nhà. Tôi nhớ trong hai chục năm ở Sài Gòn, chỉ dự độ bốn năm tiệc cưới như
vậy.
Riêng với thi sĩ Đông Hồ thì khác. Mỗi năm
hai ông bà có lệ vào khoảng Tết Táo quân, mời độ bảy tám bạn văn họp cuối năm ở
Yiễm Yiễm thư trang hoặc Quỳnh Lâm thư thất. Những buổi họp đó có tính cách rất
thân mật, thanh nhã đã được nhà văn Ngu Í khéo tả trong tậpSống và Viết (Ngèi
Xanh[5],
1966), nên năm nào tôi cũng cùng với Giản Chi, Đông Xuyên, Hư Chu tới dự và chủ
nhân lần nào cũng tế nhị, cho làm món xôi vò rất ngon vì biết tôi đau bao tử,
kiêng cơm tẻ. Họp từ chín giờ sáng tới hai giờ chiều, tôi thấy mệt nhưng vui.
Được các bạn văn hiểu và mến như vậy, tôi
cho là một vinh dự lớn hơn được giải thưởng văn chương toàn quốc của chính
quyền mà tôi đã từ chối hai lần. Về việc từ chối này, ai trách tôi ra sao tôi
cũng nhận, không dám cải. Nguyên tắc của tôi là không nhận một vinh dự gì do
một chính quyền tôi không trọng ban cho[6].
Suốt đời tôi cầm viết, tôi chỉ mong giữ được lòng quí mến của một số bạn văn và
lòng tin cậy của độc giả bốn phương. Và tôi được may mắn toại nguyện về điểm đó[7].
HI SINH VIỆC XUẤT BẢN, ĐỂ CÓ THÌ GIỜ VIẾT
Vào khoảng 1961, khi đã mua được ngôi nhà
và khoảnh vườn nhỏ ở đường Kì Đồng, tôi hạn chế cả công việc xuất bản để hết
thì giờ vào việc trứ tác, thành thử có nhiều cuốn độc giả đòi hỏi mà tôi không
in lại. Mấy năm sau nhà xuất bản Khai Trí, rồi nhà xuất bản Thanh Tân thấy vậy,
xin tôi để cho họ tái bản. Tôi bằng lòng liền, để cho nhà Khai Trí trên mười
cuốn, nhà Thanh Tân trên hai chục cuốn, vài nhà khác mỗi nhà vài cuốn.
Ngay một số tác phẩm mới viết xong, tôi
cũng không muốn tự xuất bản nữa và bán bản quyền cho các nhà Lá Bối, Cảo Thơm,
Tao Đàn, Ca Dao, Trí Đăng… Năm 1974 nhà Lá Bối in trên chục tác phẩm của tôi,
nhà Cảo Thơm cũng vào khoảng đó, còn các nhà khác mỗi nhà được bốn, năm cuốn.
Có hồi trên thị trường có tới năm chục tác phẩm của tôi bày bán khiến ông Vương
Hồng Sển vào tiệm sách nào “cũng chỉ có sách của anh”; lúc đó có mười hay mười
một nhà xuất bản sách của tôi.
Tôi sẽ nói qua về các nhà xuất bản đó trong
một chương sau, ở đây tôi chỉ xin kể lại lời tôi nói với anh bạn Trần Thúc
Linh, vào khoảng 1969-1970:
“- Tôi tri túc theo đạo Nho, cho sống như
vầy là quá đủ rồi (ông ấy gật đầu) không cần hơn, chứ nếu muốn thì tôi có thể
tăng lợi tức gấp ba một cách rất lương thiện và dễ dàng.
Ông Linh ngạc nhiên, hỏi:
- Bằng cách nào?
Tôi đáp:
- Hiện tôi có trên năm mươi tác phẩm bán
trên thị trường mà trong số đó chỉ có mươi cuốn là do tôi xuất bản, còn thì để
cho các nhà xuất bản khác cả. Nếu tôi lấy về, tự xuất bản lấy (tôi có đủ vốn)
thì mỗi ngày chỉ tốn thêm một hai giờ, là số lợi tức của tôi tăng lên gấp ba
được”.
Như trong cuốn Tương lai ở trong
tay ta, tôi đã nói, đời tôi chỉ muốn làm một thư sinh, không muốn làm một
nhà kinh doanh hay chính khách:
“Tôi không có cao vọng lãnh một trách nhiệm
gì lớn lao mà cái đời một thư sinh sống trong một gia đình êm ấm, bên cạnh sách
và hoa cũng có cái thú, có lẽ còn thú hơn là được hoan hô nhiệt liệt trong
những đám đông hàng vạn người”.
Gần đây tôi được đọc câu này của Cô Hồng
Minh, một học giả Trung Hoa đồng thời với Lương Khải Siêu: “Cứ làm một học giả,
thân mình được rảnh mà có khi lại hữu dụng hơn”. Lương Khải Siêu hồi trẻ hăng
hái làm chính trị, rồi về già làm một giáo sư, một học giả; Lâm Ngữ Đường hồi
trẻ cũng muốn làm chính trị, nhưng chỉ nửa năm là chán, tự nhận “Không phải là
hạng ăn thịt – thực nhục giả - nên không làm chính trị được” và từ đó bỏ luôn
chính trị mà chuyên làm một học giả. Tôi không biết đời các nhà đó với đời của
Quách Mạc Nhược, đời nhà nào sướng hơn và hữu dụng hơn.
Nhiều bạn cho tôi là sống một cuộc đời khắc
khổ, quanh năm chúi đầu vào sách vở. Có lẽ khắc khổ thật, nhưng cho tới bây giờ
tôi vẫn không thấy có cách nào khác để tiêu cho hết 24 giờ một ngày. Những lần
về Long Xuyên, ra vườn nhổ cỏ, thay đất, bón phân cho mấy gốc cây, mươi chậu
kiểng, tôi cũng thấy thích, nhưng vườn của chúng tôi hẹp quá, chỉ độ năm trăm
thước vuông, đủ công việc cho tôi làm mỗi ngày độ một giờ; rồi thì vẫn phải đọc
sách, mà sách cũng không thể có nhiều đọc suốt ngày, quanh năm, lại phải viết.
Viết đối với tôi thành môn tiêu khiển rẻ tiền nhất. Nhưng tôi đôi khi ân hận
rằng vì tôi chúi đầu vào sách, vợ con tôi nhiều lúc cũng thấy chán.
*
CHƯƠNG XXVI
GIỜ LÀM VIỆC MỖI NGÀY
Tôi làm việc đều đều mỗi ngày, có giờ nhất
định như một công chức, chỉ khác công chức là không có ngày nghỉ nhất định,
không có chủ nhật, không có cả ngày lễ, ngày tết. Buồn thì ngày Nguyên đán âm
lịch tôi cũng viết. Lúc nào tôi muốn nghỉ hoặc cần phải nghỉ thì nghỉ, thường
thường, mỗi khi viết xong một cuốn vài trăm trang tôi nghỉ độ nửa tháng, và cứ vài
tháng tôi lại về Long Xuyên nửa tháng, nói là để tĩnh dưỡng nhưng chỉ là để đổi
không khí vì vẫn mang theo tài liệu để viết tiếp.
Mệt nhất là công việc khảo cứu về văn học,
triết học Trung Hoa, còn việc dịch các tiểu thuyết hay của phương Tây như Chiến
tranh và Hoà bình của Léon Tolstoi, Kiếp người của
Somerset Maugham thì không mệt mấy, tôi thấy thú, coi như một việc để tiêu
khiển. Hồi dịch cuốn Kiếp người tôi đem bản tiếng Anh về Long
Xuyên để hẳn ở dưới đó, mỗi lần về tôi lấy ra dịch ba bốn chục trang.
Tôi tự đặt cho tôi một kỉ luật, trừ khi đau
ốm, còn thì ngày nào cũng dậy từ sáu giờ hay sáu giờ rưỡi, điểm tâm lúc bảy
giờ, rồi nằm đọc sách, chín giờ là lại ngồi vào bàn viết để viết luôn tới mười
hai giờ, giờ bữa trưa.
Ăn cơm trưa xong, tôi nằm nghỉ khoảng một
giờ, nhắm mắt lại, chợp được độ nửa giờ là nhiều; một giờ rưỡi thức dậy nằm ở
giường đọc sách đến ba giờ.
Chiều lại viết từ ba giờ đến năm giờ rưỡi,
sáu giờ, tắm xong ăn bữa tối lúc bảy giờ. Cả buổi tối tới mười giờ, tôi chỉ nằm
đọc sách, báo. Hồi chưa lên Sài Gòn, tôi còn dạy học ở Long Xuyên, tôi có thể
viết cả buổi tối; nhưng sau khi bị loét bao tử và lao phổi, tôi mất ngủ, thường
phải uống thuốc an thần thứ nhẹ, nên buổi tối tôi không viết, cũng không đọc
những sách cần suy nghĩ nhiều, không tiếp khách mà cũng không đi xem hát, cho
rằng không gì quí bằng giấc ngủ. Tôi ngủ mỗi đêm được độ bảy giờ, thẳng một
giấc. Bây giờ (1980), mỗi đêm chỉ ngủ được năm giờ và phải thức giấc một lần.
Như vậy mỗi ngày tôi viết nhiều nhất khoảng
năm sáu giờ, đọc sách báo, cũng năm sáu giờ, rốt cuộc chỉ làm việc được mười
giờ, nhưng còn phải trừ mỗi ngày độ một giờ vào công việc xuất bản (sửa ấn cảo,
giao thiệp với nhà in, nhà sách, viết thư cho bạn và độc giả…). Mỗi năm viết cả
sách lẫn báo, trung bình được ngàn trang trở lại, mỗi ngày trung bình ba trang.
Nhiều bạn hỏi tôi làm sao có thể viết trong
khoảng ba chục năm được 120 nhan đề (100 xuất bản, 20 còn là
bản thảo). Tôi đáp: “120 nhan đề đó được khoảng 30.000 trang; chia ba chục năm,
mỗi năm chỉ khoảng 900 trang, mỗi ngày trung bình chỉ được 3 trang mà!”.
Tôi rán ngày nào cũng viết được ít nhất là
một trang, nếu không thì tôi có cảm giác như ở không.
Tuy nói là mỗi ngày làm việc vào khoảng 10
giờ, nhưng sự thực thì trí óc không lúc nào thảnh thơi. Gần như tuần nào cũng
phải làm việc cả 7 ngày, mỗi ngày 12 giờ; vì khi đã có một đề tài để viết – mà
tôi bao giờ cũng có vài ba đề tài trong đầu – thì cái tiềm thức luôn luôn làm
việc, cả trong bữa ăn, giấc ngủ, cả trong lúc đi chơi, tiếp khách hay đọc sách
báo để tiêu khiển. Những lúc đó tôi đâu có ý kiếm tài liệu để viết, nhưng gặp
một câu, một lời hay thấy một việc gì, một cảnh nào có liên quan xa gần đến đề
tài thì tự nhiên tiềm thức của tôi hoạt động mà tôi không hay và bắt tôi suy
nghĩ tới, ghi lấy, biết bao đêm thức giấc, sực nảy ra một ý gì, tôi phải vén
mùng, sờ soạng mặt tủ nhỏ ở đầu giường lấy cây bút chì – và một cuốn sách đương
đọc; rồi – không bật đèn, sợ làm mất giấc ngủ của vợ con – viết nguệch ngoạc ít
chữ bất kì trang nào, thường là trang đầu hay trang cuối, có khi là trang bìa,
để ghi lại ý đó kẻo quên mất; sau cùng gấp trang đó lại để đánh dấu, sáng dậy
sẽ chép lại.
KIẾM TÀI LIỆU – ĐỌC SÁCH BÁO
Làm nhà biên khảo thì việc đầu tiên là phải
kiếm tài liệu. Viết về nhiều môn như tôi thì cần phải đọc nhiều sách, báo. Tôi
vốn có óc tò mò, cho nên loại sách nào tôi cũng muốn đọc cho biết, chỉ trừ loại
“chưởng” của Kim Dung. Một bạn trẻ tặng tôi bộ Cô gái đồ long, mong
rằng tôi sẽ nhờ bộ đó mà thần kinh dịu xuống, bớt đau bao tử; tôi rán đọc năm,
sáu chục trang, rồi phải bỏ, không thể thích nổi.
Tôi rất ngại đến thư viện để đọc sách, kiếm
tài liệu, vả lại thư viện rất ít tài liệu mới; cho nên hầu hết các sách tôi
dùng để biên khảo, tôi đều phải mua ở ngoại quốc.
Tôi gởi một số tiền dự trữ (provision) độ
200 quan mới cho nhà Rayonnement du livre français ở Paris. Họ gởi đều đều cho
tôi tập Livres du mois, thư mục gần đầy đủ các sách Pháp xuất bản
mỗi tháng, sắp thành từng loại: ngôn ngữ học, sử học, xã hội học, chính trị,
kinh tế, tiểu thuyết, thơ, kịch v.v…, thấy cuốn nào muốn đọc, tôi bảo họ gởi
cho; họ sẵn sàng kiếm cả những sách cũ và những sách ngoại quốc cho tôi nữa.
Mỗi năm họ gởi cho tôi khoảng năm sáu chục cuốn.
Ngoài ra tôi mượn sách, nhất là báo định kì
của Pháp: Esprit, Express, Paris Mach, Historia, Science et Vie… của
vài bạn văn, nhất là của toà soạn tạp chí Bách Khoa.
Sách Trung Hoa thì tôi hỏi thẳng một tiệm
sách ở Hương Cảng hoặc nhờ ông Tạ Trọng Hiệp kiếm giùm.
Lựa sách ngoại quốc theo cách dò trong thư
mục, chỉ thấy tên sách, tên tác giả, chứ không biết nội dung thì có một số dùng
không được; cho nên tôi phải nhờ nhà Rayonnement du livre français giới thiệu
cho.
Riêng sách về cổ học Trung Hoa, tôi yêu cầu
tiệm sách Hương Cảng tìm cho những bản tốt nhất, chú giải kĩ nhất của một học
giả có tiếng và do một nhà xuất bản có tiếng in ra, dùng những bản đó dù giá
tiền đắt gấp hai, gấp ba vẫn có lợi hơn là dùng những bản tầm thường, không tin
được, chỉ làm mất thì giờ của mình.
Khi đã có một chủ đích, định tìm hiểu hoặc
viết về vấn đề nào tôi bắt đầu gom hết các tài liệu (sách, báo) mà tôi có thể
kiếm được về vấn đề đó, có khi liên tiếp trong nhiều năm. Như về Kinh
dịch, tôi gom từ năm 1960 đến 1975, được khoảng 15 – 16 cuốn của Trung Hoa,
Việt, Pháp, Anh, Đức (dịch ra tiếng Pháp). Mỗi cuốn, khi mới tới, tôi đọc qua
một lượt, xem giá trị ra sao, giúp tôi được gì, đánh dấu những chương quan
trọng, rồi để riêng vào một chỗ; năm 1978 – 1979, khi định viết, tôi mới đọc kĩ
lại một lượt, so sánh các thuyết, các bản dịch… để định cái hướng nghiên cứu,
cách làm việc.
Một cuốn mỏng, gồm toàn những “chuyện sống”
(histoires vécues, tức những chuyện thực xảy ra) ghi một tình cảm đẹp, gợi một
ý cao thượng, mà tôi đã để ra non hai chục năm để gom góp lần lần trong các
sách, báo Pháp. Trong việc đó không tốn thì giờ gì cả; thấy truyện nào đáng
lựa, tôi đánh dấu, rồi sắp vào một chỗ riêng, khi đã được vài ba chục truyện,
thành một cuốn dày vài trăm trang, tôi đem ra dịch một hai tháng là xong.
Trước năm 1963, tôi không bao giờ có ý viết
về kinh tế, và cho môn kinh tế học dạy trong các trường luật là không sát thực
tế, chỉ gây thêm hoang mang cho tôi thôi; nhất là những thuyết về tiền tệ, giá
cả, về thặng dư giá trị không làm cho tôi tin được.
Chẳng hạn, người ta bảo rằng thặng dư giá
trị của một sản phẩm do sức lao động của thợ thuyền cả, phải chia hết cho họ,
tư sản không có công gì trong đó, mà ngay những người quản lí xí nghiệp cũng
không có công vì họ không sản xuất; nếu không chia hết cho thợ thuyền thì là
bóc lột họ.
Nhưng cùng một xí nghiệp mà người này quản
lí thì lỗ, người khác quản lí lại lời thì giải thích ra sao? Ai tạo nên thặng
dư giá trị?
Lại như trường hợp sáu nhân viên điều khiển
một nhà máy lọc dầu tối tân, vốn cả trăm triệu đô la. Thặng dư giá trị rất lớn
thì số thặng dư đó phải chia hết cho sáu nhân viên đó ư? Chỉ họ mới có công ư?
Hay còn là công của các nhà khoa học đã tìm ra cách lọc dầu, các kĩ thuật gia
đã cải thiện phương pháp lọc dầu, các kĩ sư đã chế tạo ra máy lọc dầu, tổ chức
công việc trong xưởng, của người bỏ vốn ra mua máy móc, của nhân viên coi về
quảng cáo, thương mãi, tìm thị trường v.v…
Rồi một hôm (năm 1962-63) ngẫu nhiên tôi
đọc một cuốn rất mỏng (trong loại Que sais-je?) của Jean Fourastié, cuốn La
civilisation de 1975[8],
tôi bắt đầu để ý tới ông, tìm thêm những tác phẩm khác của ông để đọc, càng đọc
càng ham, tới những cuốn Le grande espoir du 20è siècle, Machinisme
et bien être, Pourqoi nous travaillons, thì những thành kiến
trước kia về môn kinh tế tiêu tan hết. Từ đó gặp cuốn nào của Fourastié tôi
cũng mua, rồi lại tìm đọc thêm mươi cuốn của mấy nhà khác về kinh tế, xã hội,
nhất là về vấn đề kém phát triển trên thế giới, do đó tôi nảy ra ý viết
cuốn Một niềm tin, Thế giới trong tương lai, Việt
Nam trong hiện tại. Cuốn đó do ngẫu nhiên mà viết, chứ hoàn toàn không có
trong chương trình hoạt động của tôi.
Sự ngẫu nhiên đóng một vai trò quan trọng
trong sự nghiệp một nhà văn, tôi sẽ trở lại điểm đó trong một chương sau.
Có lần một độc giả trẻ tuổi hỏi tôi nghĩ sao
về lời Erskine Caldwell trả lời một nhà báo như sau: “Có những người đọc, có
những người viết, có những người vừa đọc vừa viết. Tôi chỉ viết cho những người
khác đọc thôi, chứ không đọc sách của ai cả”.
Tôi đáp:
- Tiểu thuyết gia của Mĩ đó là một anh chàng
ngông. Ông ta có một bút pháp khá độc đáo, nhưng tôi biết những người có tài
hơn ông nhiều, viết nhiều gấp mấy ông mà đọc sách rất nhiều, như Tolstoi,
Proust, Anatole France.
Viết văn thì phải theo dõi văn trào và thời
sự trong nước, trên thế giới; cho nên dù bận việc tôi cũng rán đọc một số nhật
báo, tạp chí và những tác phẩm Việt quan trọng xuất bản trong năm, để kịp thời
góp ý kiến với đồng bào về những việc xảy ra, và để cuối năm tổng kết tình hình
xuất bản. Những báo, tạp chí, sách đó, một số do tôi mua, một số do bạn văn
tặng, một số mượn của toà soạn Bách Khoa.
Vì vậy mà thi sĩ Quách Tấn bảo nội việc tôi
đọc sách cũng đã khó có người bì kịp, chứ đừng nói đến chuyện đọc rồi còn viết.
Nhưng tôi tự xét, so với một số nhà văn
Pháp thì số sách tôi đọc kém họ xa. Họ có những tủ sách năm ngàn, mười ngàn
cuốn, tủ sách của tôi chưa được ba ngàn cuốn. Ngay ở Sài Gòn cũng có vài học
giả có một tủ sách phong phú hơn tôi nhiều.
Đọc sách thì bao giờ tôi cũng có một cây
bút chì và một cục gôm bên cạnh. Trong nhà có hai chỗ tôi thường nằm để đọc
sách, tại hai chỗ đó bao giờ tôi cũng để sẵn hai vật đó. Hễ thấy có đoạn nào
đáng đọc lại, có ý gì đáng ghi thì tôi làm dấu bằng bút chì ngay ở ngoài liền;
rồi ghi số trang, tóm tắt đại ý ở trang đầu bỏ trắng của sách[9].
Sau khi đọc và ghi tất cả tài liệu kiếm
được về một vấn đề, tôi bỏ ra một thời gian để suy nghĩ về vấn đề đó – thời
gian này có thể là một tuần hay nửa tháng – rồi mới lập một bố cục sơ sài cho
tác phẩm định viết. Tôi chia làm mấy phần, mấy chương, tạm đặt nhan đề cho mỗi
phần, mỗi chương. Tôi nói tạm vì sau khi viết xong cả tác
phẩm, tôi mới đặt lại nhan đề cho sát với nội dung.
Rồi tôi bắt đầu từ chương I. Tôi ghi lại
vắn tắt trên những tờ giấy rời tất cả những ý và tài liệu tôi định đặt vào
chương đó. Thường phải vài trang giấy lớn mới ghi được đủ.
Ghi đủ rồi, tôi đánh dấu ý nào, tài liệu
nào cho vào đoạn đầu, đoạn hai, đoạn ba v.v… Đó là công việc chia thành đoạn.
Trong mỗi đoạn, tôi sắp lại ý nào trước, ý
nào sau; tôi rất coi trọng công việc này vì tôi muốn các ý nối tiếp nhau một
cách tự nhiên.
Công việc lập bố cục cho từng chương đó,
luôn luôn tôi phải làm hai hay ba lần.
Hồi mới viết, từ khoảng 1955 trở về trước,
tôi lập bố cục cho từng chương, lập xong chỉ theo bố cục mà viết, rất ít khi
phải sửa đổi, thêm bớt. Về sau tôi thấy không cần phải chặt chẽ quá như vậy:
chỉ có một bố cục đại khái thôi, rồi trong khi viết, có thể ý nọ gợi ý kia, nảy
ra ý mới, hoặc thấy nên đảo một vài ý trong bố cục, nhất là có thể bỏ một ý nào
đó đi, thêm vào một ý khác; tóm lại là có thể xáo trộn bố cục ít nhiều, như vậy
có lợi là ý đột ngột hơn, văn tươi tắn hơn, viết thú hơn, chứ không có hại gì
cả; và tôi giữ lối viết đó cho tới ngày nay.
VIẾT
Khi đã bắt đầu viết, tôi không thể nhởn nha
được, ít nhất phải viết cho hết chương, chứ không bao giờ bỏ dở để làm một công
việc khác. Nếu có công việc khác gấp thì tôi cũng phải diễn tất cả các ý trong
chương, dù là vội vàng, rồi sau sẽ sửa lại.
Thường thường một cuốn độ hai trăm trang mà
dễ viết – loại Học làm người chẳng hạn – thì tôi viết một hai
tháng là xong; rồi tôi nghỉ một tuần hay nửa tháng trước khi bắt tay qua cuốn
sau. Thời gian nghỉ đó là thời gian tôi tha hồ đọc sách báo vừa để tiêu khiển,
vừa để kiếm tài liệu.
Gặp những cuốn khó viết, loại văn học,
triết học Trung Quốc, phải chín mười tháng, một năm mới xong, tôi chia làm từng
chặng, từng đợt hai ba tháng một.
Văn Chiến Quốc sách rất
cổ, rất khó hiểu mà tôi lại không kiếm ra được một bản chú giải nào vừa ý, nên
phải so sánh ba bốn bản, dùng cả bản bạch thoại, lại phải tra hai bộ từ điển
Trung Hoa, có khi mất cả một ngày mới dịch được một trang. Trong khi dịch bộ
đó, tôi đau bao tử liên miên, phải vừa xoa bụng vừa viết, đau quá thì nằm nghỉ
một chút rồi ngồi lên viết tiếp.[10] Bộ
đó tôi phải dựa vào ba chặng, nghỉ nửa tháng.
Cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại cũng
tốn sức tôi rất nhiều, năm 1953, tôi đã viết bộĐại cương văn học sử Trung
Quốc để tìm hiểu tự học; in bộ đó rồi, tôi tự hẹn sẽ tìm hiểu kĩ hơn
về Văn học hiện đại của Trung Quốc để bổ túc, và từ khoảng 1960, tôi nhờ vài
người bạn thân kiếm cho một số sách báo ngoại quốc viết về văn học Trung Quốc
từ cuối Thanh đến nay, nhưng chỉ có mỗi một ông bạn, ông Tạ Trọng Hiệp ở Paris
kiếm cho được cuốnHistory of Modern Chinese fiction của C.T Hsia.
Rốt cuộc trong năm sáu năm, tôi chỉ thu thập được sáu, bảy cuốn, một số của
cộng sản, một số của Mĩ và Pháp, tuyệt nhiên không có cuốn nào của vùng Quốc
gia Đài Loan cả. Thành thử tài liệu về thơ và kịch hiện đại, tôi gần như không
có gì, nên không thể giới thiệu hai loại đó cũng tương đối kĩ như giới thiệu
loại tiểu thuyết được. Khuyết điểm đó rất nặng; nhưng tôi cũng miễn cưỡng soạn
cho xong. Miễn cưỡng chứ không phải cẩu thả; trái lại là khác, mỗi chương, nhất
là trong cuốn II, tôi tốn nhiều công, viết xong thấy rất mệt, có cảm giác như
leo một ngọn núi. Và trước sau tôi cũng phải nghỉ hai ba lần sau mỗi chặng
đường. Độc giả làm sao biết được nỗi khó khăn đó của tôi.
Viết xong cuốn nào tôi sửa lại liền. Khi
sắp in, có thể là năm sáu tháng sau hoặc mười năm sau tôi mới sửa lại một lần
nữa.
Nhiều nhà văn phải đợi có hứng rồi mới viết
được. Họ gợi hứng bằng nhiều cách: uống cà phê, trà đậm, hút thuốc hết điếu này
đến điếu khác; có người nghe một bản nhạc hoặc đọc vài trang trong một cuốn mà
họ thích, rồi mới bắt đầu viết. André Maurois có hồi đọc Tolstoi, Tourguéniev
để lấy hứng.
Tôi thì dù không có hứng cũng cứ đúng giờ
ngồi vào bàn viết, viết bừa vài trang, nửa trang rồi hứng tự nhiên tới.
Khi đã mải mê viết thì tôi không để ý tới
những tiếng động ở chung quanh, quên hết mọi sự; tuy nhiên tôi vẫn thích làm
việc ở một chỗ tĩnh mịch, và luôn một hơi hai ba giờ liền mà không bị quấy rầy.
BÚT PHÁP CỦA TÔI: TỰ NHIÊN THÀNH THỰC
Có một số rất ít nhà văn tự tạo cho mình
một bút pháp (style) đặc biệt không giống một nhà văn nào khác, ở Pháp ta có
thể kể La Bruyère (thế kỷ XVII), văn cô động, linh động, dùng những câu rất
ngắn, gần như châm ngôn; Marcel Proust trái lại, dùng những câu rất dài xen
nhiều mệnh đề phụ để phân tích tỉ mỉ tâm lí con người, mô tả mọi nét đặc biệt
của một cảnh vật. Ở nước ta, khoảng năm 1930, có Hoàng Tích Chu, tạo một lối
văn viết báo gồm những câu cụt ngủn, trái với lối viết nặng nề của Phạm Quỳnh.
Gần đây có Hư Chu và Mai Thảo.
Hư Chu chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Hoa,
thường dùng chữ cổ, những câu ngắn, có những vế nhỏ đối nhau, và rất chú trọng
đến nhạc, đọc lên ta thấy cứ một vế, hoặc một câu bổng thì lại tới một vế, một
câu trầm, giọng văn cứ đều đều lên xuống. Ví dụ: “Nguỵ lại nghèo lắm. Cơm
không đủ hai bữa, áo chỉ độc một manh. Nhà cửa thì vách đất giường
tre; cả gia sản duy chỉ có một bụng chữ thánh hiền là
đặng giá. Người vợ Nguỵ vì không chịu được nỗi cơ hàn đã
phải bỏ chồng mà đi mất. Những là chê chồng chẳng đẹp tốt bằngngười,
huống chi còn lấy sự hỏng thi của Nguỵ làm điều xấu hổ. Nhưng chàng
cũng khôngbuồn. Đêm ngày vẫn khổ công học tập, sinh nhai về
nghề vẽ tranh, viết trướng kiếm ăn”. (Nam Hải
truyền kỳ, tr. 161).
Mai Thảo đặc biệt hơn, bỏ cả ngữ pháp để có
một lối viết mà người ta cho là “làm duyên, làm dáng”:
“Chỉ một câu hò mái đẩy ai oán đã dư thừa
làm hứng cho Phạm Duy nhạc và Lưu Trọng Lưthơ” (Căn
nhà vùng nước mặn, tr. 127).
Nhạc và thơ ở
đây dùng làm động từ.
“Yêu chùa Hương /cách một con suối, /ngăn
một triền núi/ cao một mênh mông, / thấp mộtthăm
thẳm/”. (Căn nhà vùng nước mặn, tr. 141).
Hai tiếng một sau dùng rất
cầu kì, không có nghĩa gì cả, chỉ để thành hai vế, mỗi vế 4 tiếng như hai vế
trên.
Một số nhà văn khác chịu ảnh hưởng rất đậm
của một bực thầy, và theo đúng bút pháp của thầy, như nữ sĩ Mộng Tuyết với thi
sĩ Đông Hồ; nữ sĩ Nguyễn Thị Vịnh với tiểu thuyết gia Nhất Linh. Hạng này nhiều
hơn hạng trên.
Nhiều nhất là hạng thứ ba: có một bút pháp
tự nhiên. Tôi thuộc vào hạng này. Tôi nhận thấy trong số các bạn văn của tôi
người nào to lớn bệ vệ thì văn cũng nặng nề; người nào nhanh nhẹn, nóng nảy thì
văn cũng nhẹ nhàng, sắc bén; người nào hóm hỉnh thì văn tươi, người nào kiểu
cách thì văn bóng bảy mà đa xảo… Tóm lại, cá tính ra sao thì bút pháp như vậy.[11]Cá
tính nào cũng có điểm dễ thương, không bao giờ hoàn toàn xấu thì bút pháp cũng
có thể có ưu điểm, miễn là thành thực.
Trong bài Bút pháp và cá tính (Giữ
thơm quê mẹ - số 7, năm 1965, sau in vô cuốn Mấy vấn đề xây
dựng văn hóa –Tao Đàn – 1967), tôi đã viết: “Chính cá tính quyết
định bút pháp. Mà cá tính thì do bẩm sinh và tuỳ thể chất một phần
lớn, một phần nữa thì chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, của sự tôi luyện. Cho nên
tôi có thể nói rằng bút pháp của ta đã định trước từ khi ta chưa tập viết, chưa
biết viết: nó là vóc người, là dáng đi, là nhịp điệu của hơi thở, là sự tuần
hoàn trong huyết quản, là sự tác động của các hạch nội tiết. Tất nhiên càng
sống thì tư tưởng có thể càng tiến, kỹ thuật có thể càng già, nhân sinh quan có
thể thay đổi, nhưng giọng văn, lối viết thì không thay đổi mấy, vẫn nhận ra
được. Thơ của Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương chẳng hạn, ngày nay vẫn giữ được những
nét riêng của mỗi nhà thơ từ thời trước; mà những nét riêng trong thơ ấy chính
là những nét riêng trong tính tình, thể chất của mỗi nhà…[12].
Đứng về phương diện khoa học, không có cá
tính nào là xấu, mà đứng về phương diện nghệ thuật cũng không có bút pháp nào
là bản nhiên dở. Uỷ mị có cái đẹp của nó, hùng hồn có cái hay của nó; đẽo gọt
là một nghệ thuật mà tự nhiên cũng là một nghệ thuật; (…) tất cả vấn đề là diễn
được đúng những cái mà chúng ta muốn diễn và gây được trong lòng độc giả những
cảm xúc như chính ta cảm xúc.
Hiểu được như vậy rồi thì (…) ta sẽ can đảm
nhận cá tính của ta, dùng bút pháp nó đã lựa, định cho ta, (…) đừng
ngại sẽ không bằng nhà này hay nhà khác (…), cần thiết là phải dám là ta, phải
thành thực với ta đã. Có thành thực mới cảm được người. Có thành thực mới đáng
cầm cây viết (…)”.
Thành thực có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất: không cảm xúc thì đừng viết.
Những bài văn mà tôi đắc ý và được bạn văn cùng độc giả thích, hầu hết là những
bài tôi rất thành thật với tôi, nghĩ sao viết vậy, cảm xúc ra sao thì viết ra
như vậy, như những hồi kí, tạp bút: Làm con nên nhớ, Cháu bà nội, tội
bà ngoại, Con đường hoà bình, Hoa đào năm trước (Lá Bối in trong
loại Bông hồng cài áo),Cụ Phan và lòng dân (Trình bày –
1967), Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh. (Bách Khoa –
số 254, ngày 1.8.67)…
Nghĩa thứ nhì là khi viết, phải quên hết
danh sĩ cổ kim, quên hết mọi kĩ thuật làm văn, mà chỉ theo cá tính của mình
thôi. Phải như anh em họ Viên trong phái Công An đời Minh, “để cho miệng và tay
tự nhiên”, hơn nữa phải như Hoàng Sơn Cốc đời Bắc Tống, “để cho chương cú ngẫu
nhiên thành như đường do sâu đục trong khúc cây” thì văn mới thực là cảm mạnh
và thú vị; đôi khi còn nên, như Jules Renard đã khuyên, cứ phóng bút mà viết,
đừng trao giồi, để cho văn được uyển chuyển, mềm mại. Văn của Tô Đông Pha được
người đời khen là “hành vân lưu thuỷ”, chính là do ông phóng bút mà viết.
Viết như vậy thì là một việc tự nhiên như
thở, nhẹ nhàng, dễ dàng; tuỳ cảm xúc mà văn lúc thì bình tĩnh, lúc thì bồng
bột, lúc vui, lúc buồn, lúc phẫn nộ, lúc mỉa mai…; lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến
lúc thoái; giọng thay đổi có khi đột ngột, lôi cuốn được độc giả.
Viết được đoạn đầu rồi thì cứ cho ngọn bút
theo cái đà tư tưởng, cảm xúc của ta mà phần trước lôi kéo phần sau cho tới khi
diễn hết những điều ta muốn nói rồi thì ngừng, đừng thêm gì cả.
Tôi như mọi người, hồi trẻ hơi mắc tật khoa
trương khi tập viết – những bài tuỳ bút, tiểu luận theo lối cổ văn Trung Quốc
-; những bài đó hầu hết tôi chỉ giữ làm kỉ niệm chứ không cho in.
Lần lần tuổi càng lớn, tôi càng trọng sự
bình dị hơn, khi sửa bài văn thường bôi bỏ nhiều hơn là thêm vô. Nhất là những
hư từ ở cuối câu, những tĩnh từ (adjectif) đặt sau một danh từ, nếu không thật
cần thiết thì gạt bỏ, không hề tiếc. Nhưng tôi không theo Renan được, ông bỏ ra
một năm để sửa bộ Vie de Jésus cho văn hết bóng bảy mà thật
giản phác. Có thể vì cá tính của tôi khác ông, mà cũng có thể vì những đề tài
tôi viết không có tính cách cổ kính như tác phẩm bất hủ đó của ông.
Tôi trọng sự bình dị mà cũng trọng cá tính
của tôi nữa. Có lần viết xong một tác phẩm, tôi đưa cho một anh bạn thân coi
lại giùm để góp ý kiến về nội dung và hình thức. Anh bạn đó đối với tôi rất
chân thành mà viết văn rất kĩ: uống cà phê đặc và hút thuốc để thức đến một hai
giờ khuya đẽo gọt vài câu văn là cái thú thường ngày của anh. Lần đó anh bôi cả
đoạn văn kí sự của tôi rồi chịu khó viết lại giùm: đảo lên đảo xuống, tỉa bớt
cho cô lại, thêm bớt cho có nhạc hơn. Tôi khen anh sửa khéo, nhưng tới khi in,
tôi vẫn giữ đoạn văn của tôi vì tôi nghĩ nó tự nhiên hơn, diễn đúng ý của tôi,
cảm xúc của tôi hơn, nhất là vì nó có giọng của tôi, mang cá tính của tôi. Nó
là tôi.
Lâm Ngữ Đường trong cuốn The
importance of living[13] có
những nhận xét sâu sắc về đức bình dị trong văn. Ông viết:
“… Sự bình dị là điều khó đạt được nhất (…)
trong văn chương (…). Muốn được bình dị thì trước hết phải tiêu hoá nổi tư
tưởng và óc cũng phải già giặn: khi chúng ta về già, tư tưởng của chúng ta sáng
sủa hơn; ta bỏ ra một bên những phương diện không quan trọng mà có lẽ sai lầm
của vấn đề đó nữa, ý tưởng ta hình thành một cách rõ ràng hơn và những chuỗi tư
tưởng lần lần tự hiện lên thành những lời văn gọn gàng, giản dị (…). Ta không
thấy phải gắng sức nữa mà sự thực hoá ra sáng sủa và do đó hoá ra bình dị. Sự
tự nhiên của tư tưởng và bút pháp đó mà các thi sĩ và các phê bình gia Trung
Hoa rất tôn trọng, được coi là một sự già giặn tiệm tiến. Khi chúng ta nói đến
sự già giặn tiệm tiến trong văn xuôi của Tô Đông Pha là chúng ta muốn bảo rằng
họ Tô đã lần lần tiến lại sự tự nhiên, tiến gần tới một bút pháp thoát li được
cái thói phù hoa, thói dởm, cái thói khoe tài, thói dàn cảnh của tuổi trẻ”.
Theo tôi văn bình dị khó nhất ở điểm phải
có ý cao, tình đẹp nếu không thì hoá ra nhạt nhẽo, vô vị.
Phải từng trải cho nhiều, đau khổ cho lắm
như Tư Mã Thiên, Hàn Dũ, Dostoievski – “cùng nhi hậu công” -; phải coi được
nhiều kì quan của vũ trụ như Lí Bạch, Jack London; phải học thật rộng như Tô
Thức, Vương Dương Minh, Tagore; phải suy nghĩ cho thật chín như Thích Ca ở dưới
gốc Bồ Đề, như Ki Tô ở trong núi; lại phải được trời phú bẩm cho một tâm hồn
thanh cao, một trí óc sáng suốt; tóm lại phải vào hạng siêu nhân lại tốn công
tu luyện – Jack London thiếu công đó – mới đạt được cái nghệ thuật siêu đẳng là
bình dị, tự nhiên, biết thế nào là không thừa, không thiếu, không non nớt mà
cũng không phóng đại.
Khó như vậy nên từ xưa tới nay những nhà
văn bình dị mà bất hủ mới rất hiếm: Lí Bạch được độ mươi bài thơ và bài cổ văn,
Đỗ Phủ ít hơn. Tô Đông Pha được mươi bài cổ văn, dăm bài thơ, Nguyễn Du được
vài chục câu trong Kiều, chục câu trong Văn tế thập loại
chúng sinh, dăm bài thơ chữ Hán… còn những nhà khác chỉ được vài ba bài.
Những nhà lưu danh nhất trong lịch sử nhân loại lại chính là những nhà có những
tư tưởng cao siêu nhất, tình cảm cao thượng nhất như Thích Ca, Khổng tử, Lão
tử, Ki Tô, mà những nhà đó không hề làm văn bao giờ.
Platon không sánh được mấy nhà kể trên,
nhưng nhờ được chứng kiến cái chết của thầy học là Socrate – một triết gia tâm
hồn rất cao thượng – mà cũng lưu lại được một trang bất hủ tôi đã dẫn trong
bộ Hương sắc trong vườn văn, chương XIII.
Đọc trang đó, chúng ta thấy Platon không
sắp đặt gì cả, việc xảy tới đâu chép tới đấy; lập đi lập lại những tiếng và, rồi, người,
có vẻ lôi thôi nữa; và chúng ta nghĩ bụng: “Ai mà viết chẳng được như vậy”.
Phải, chúng ta đều viết được như vậy miễn là được chứng kiến cái chết cao cả và
cảm động của Socrate. Cái “đẹp” ở đây là cái đẹp tự nhiên, không cần tô điểm,
mà làm cho tâm hồn ta cao thượng. Khi một hành vi, một thái độ đã tột bực cao
đẹp thì càng tô chuốt càng hỏng, nên Platon không dùng một hình ảnh nào cả.
Phải có điều kiện như vậy thì văn bình dị và tự nhiên mới khỏi vô vị.
KHÔNG QUÊN ĐỘC GIẢ - YÊU ĐỀ TÀI
Tôi viết nhiều loại sách cho nhiều hạng độc
giả; từ người già tới thanh niên và cả trẻ em nữa; cho nên khi viết tôi phải
nghĩ đến hạng độc giả của mỗi loại sách, viết sao cho họ hiểu được, nếu cần thì
phải chú thích.
Cũng là viết về Văn học Trung Quốc, mà
bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc thuộc loại phổ thông, cho
nên trình bày như một sách giáo khoa khác hẳn bộ Chiến Quốc sách và Sử
kíthuộc loại biên khảo viết cho những độc giả đã hiểu biết ít nhiều về
Trung Hoa.
Soạn sách tôi chỉ nhắm mục đích: tự học và
giúp người khác tự học. Tôi nghĩ đến cái lợi của độc giả trước hết, chẳng hề tự
cho mình có “sứ mạng” gì cả, mà cũng không hề mong được nổi tiếng, chỉ cần được
một số độc giả trung thành với tôi thôi.
Có thích vấn đề nào thì tôi mới viết: Thấy
vui trong khi viết, bấy nhiêu đủ cho tôi rồi.
Khi viết tiểu sử danh nhân, tôi lựa những
người có tâm hồn đẹp, có công với nhân loại, tôi gom góp càng nhiều tài liệu về
họ càng tốt (tôi bỏ nhiều năm kiếm tài liệu về Helen Keller[14])
tìm hiểu những đau khổ, gắng sức, thành bại của họ rồi rung động, say mê kể lại
cuộc đời của họ để làm gương cho đời; tóm lại tôi thực tâm yêu quí những vị mà
tôi viết, nhờ vậy loại Gương danh nhân của tôi (gồm khoảng
chục cuốn) được độc giả hoan nghênh, khen là hấp dẫn, cảm động hơn những cuốn
người khác viết. Phải chính mình thích cái gì mình viết thì độc giả mới
thích nó được: Đó là qui tắc mà cũng là bí quyết của tôi.
Tôi biết có những đề tài viết ra bán rất
chạy, nhưng tôi nhất định không viết, vì tôi không thích (chẳng hạn đời của
hạng người chinh phục thế giới như Thành Cát Tư Hản) hoặc vì tôi thấy có hại
cho độc giả (chẳng hạn tư tưởng của nhóm Hiện sinh ở Âu mà tôi cho là không hợp
với dân tộc mình, xã hội mình lúc này).
Trái lại có những đề tài tôi biết là rất ít
người đọc, nhưng thấy có lợi cho kiến thức của độc giả thì tôi cũng viết, như
cuốn Một niềm tin, chỉ in 2.000 bản mà bán sáu bảy năm vẫn còn.
Tôi không cầu danh hay lợi; có một số bạn
hiểu mình, một số độc giả mến mình, lúc nào cũng có dư một số tiền là đủ rồi,
không cần giàu. Và bao giờ tôi cũng cho rằng cái vinh dự nhất của người cầm bút
là được độc giả tin cậy, chứ không phải nhận chức này hay chức khác, hoặc những
tờ ban khen có dấu son đỏ choét của chính quyền.
CHÁNH TẢ - DÙNG CHỮ
Tôi rất chú trọng đến chánh tả và sự dùng
chữ cho đúng. Chỗ ngồi viết, sau lưng tôi kê một cái tủ mà hai ngăn chứa toàn
tự điển non hai chục bộ, lớn nhỏ: Việt, Pháp, Anh, Hán tự điển, văn liệu, điển
tích, đồng âm, đồng nghĩa…; tôi chỉ cần quay lại, với tay là lấy được liền.
Cuốn tôi hay dùng hơn cả là cuốn Việt
ngữ chánh tả của Lê Ngọc Trụ (Thanh Tân - 1960), nhất là cuốn Việt
ngữ chính tả đối chiếu tự vị giản yếu của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn
Văn Tòng (Thế giới – 1950). Trước khi có cuốn sau tôi cũng làm một cuốn sổ tay
chép những tiếng tôi chưa thuộc chánh tả, sắp theo ba mục: tiếng bắt đầu bằng
CH, TR; tiếng bắt đầu bằng D, GI, R; và tiếng bắt đầu bằng S, X.
Kiếm mua được cuốn của Phạm Trọng Kiên và
Nguyễn Văn Tòng rồi, tôi bỏ sổ tay của tôi mà dùng cuốn đó. Chỉ dày 100 trang
khỗ 11 x 15 phân, giá có 12 đ, mà nó giúp tôi được rất nhiều, cơ hồ không ngày
nào mà tôi không tra nó; chỉ khi nào tra mà không thấy (chẳng hạn tiếng “nước
ròng”, “lúa sạ”, “xối nước”, “dẽ đất”) tôi mới phải dùng cuốn của Lê Ngọc Trụ.
Nhưng cuốn đó thiếu nhiều, lại soạn riêng
cho người Bắc nên có lần tôi đề nghị với một nhà xuất bản in một cuốn cũng giản
yếu và đối chiếu như vậy nhưng khá đầy đủ, soạn chung cho người Bắc và Nam:
người Bắc thường viết sai phụ âm đầu, người Nam hay lầm các vần và hai dấu hỏi,
ngã. Những công việc nho nhỏ, tầm thường như vậy mà lại hữu ích vô cùng, tiết
kiệm cho người dùng được nhiều thì giờ.
Hồi mới xuất bản được vài cuốn, mỗi lần
sách phát hành rồi, đọc lại còn thấy sót lỗi của thợ sắp chữ hoặc lỗi của chính
tôi, tôi bực mình lắm. Nhưng chỉ vài ba năm sau tôi đâm chai ra, cho rằng nhận
lỗi là phải còn ân hận, thắc mắc về lỗi của mình thì chỉ hại cho tâm hồn mình,
công việc của mình thôi, và tôi tự an ủi bằng câu này của người Hồi giáo: “Chỉ
có Allah – Thượng Đế - mới hoàn toàn”.
Tôi nhớ một nhà xuất bản phương Tây quyết
tâm in cuốn Thánh Kinh (Bible) không có một lỗi nào. Cứ sắp
chữ xong một số trang, họ vỗ một bản dán ở trước cửa, yêu cầu tất cả nhân viên
đọc, hễ thấy lỗi thì chỉ cho để sửa lại, rồi mới in. Vậy mà khi in xong, đóng
bìa rồi, một người mới tìm ra được một lỗi nặng ở ngay đầu sách: chữ Bible đã
sắp chữ lầm raBilbe.
Một người Ả Rập dệt xong một tấm thảm, soát
lại từng đường dệt một, không thấy một lỗi nào, cho như vậy là xúc phạm Allah
vì chỉ có Allah mới hoàn toàn, liền tháo một mối dệt, sửa lại cho thành một lỗi
nhỏ.
Hai chuyện đó có thể chỉ là những giai
thoại không có thực, nhưng cả hai đều có ý nghĩa, và khuyên ta cứ làm hết sức
mình, đừng cầu toàn ở mình và trách bị ở người. Tôi còn nghĩ rằng Thượng Đế
cũng không hoàn toàn nữa: cái thế giới mà Thượng Đế tạo ra này có biết bao điều
khó hiểu, vô lí, mâu thuẫn, đâu phải là hoàn toàn.
Khi học được cái khôn của người Ả Rập rồi,
tôi bình thản hơn, khi thấy lỗi nào trong tác phẩm đã in của tôi thì tôi sửa
ngay trên một bản chính để tôi dùng riêng rồi quên nó đi.
Ngày nay, nếu có thì giờ đọc lại trăm tác
phẩm của tôi thì thế nào trong mỗi cuốn cũng thấy được ít nhất là vài ba lỗi
nặng, không kể những lỗi sai chánh tả hay in lầm. Nhưng tôi sẽ không phí thì
giờ sửa chữa, vì có sửa ba bốn lần nữa thì hết được lỗi nặng mà vẫn còn những
chỗ không vừa ý, lại ngứa tay muốn sửa nữa. Để thì giờ làm công việc khác, lợi
hơn nhiều.
*
Số trang tôi dịch cũng ngang với số trang
tôi viết, và những sách dịch của tôi có thể chia đại khái làm hai loại: loại Học
làm người, loại Văn học, Triết học.
Xét chung về loại Học làm người và
phổ thông kiến thức, giáo dục v.v… thấy đề tài nào nhiều người (ngoại quốc và
Việt) viết rồi thì tôi kiếm càng nhiều càng tốt những sách người ta đã viết,
đọc cho biết, so sánh, châm chước ý mỗi nhà, thêm những nhận xét của tôi, rồi
viết lại một cuốn cho thanh niên của mình.
Thí dụ cuốn Luyện lý trí. Tôi
đọc trên mười cuốn Pháp, Việt về vấn đề đó, nhưng tôi không theo một tác giả
nào cả vì không thấy một cuốn nào vừa ý; và tôi đã viết lại, nhấn mạnh vào điểm
phải có tinh thần phán đoán, đừng vội tin những điều thiên hạ tin, lại phải
nghi ngờ cả lời dạy của cổ nhân nữa. Có thể nói rằng tôi đã thành công: tác
phẩm của tôi tuy mượn tài liệu trong nhiều tác phẩm mà không giống một tác phẩm
nào. Nó hợp với xã hội Việt Nam hơn, có ích cho thanh niên mình hơn; nó thực là
của tôi. Ngay khi mới xuất bản, một nhân viên trong một cơ quan nào đó, du học
ở Mĩ đã mấy năm, đọc nó, thích và lại làm quen với tôi.
Có trường hợp tôi không cần phải khảo cứu,
cứ rút những kinh nghiệm trong đời sống của tôi để viết, như cuốn Tương
lai trong tay ta mà độc giả rất hoan nghênh vì lời khuyên thiết thực,
giọng chân thành và cảm động. Nó cũng hoàn toàn là của tôi, trình bày nhân sinh
quan của tôi.
Có thể kể vào loại này những cuốn Kim
chỉ nam của học sinh, Tự học một nhu cầu của thời đại v.v…
trong đó tôi đưa những kinh nghiệm riêng của tôi, chứ không như một số tác giả
chỉ thu thập những ý kiến của phương Tây rồi viết lại.
Một độc giả, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã nhận
thấy điểm đó, viết trong bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách
Khoa số 426 – 20.4.75): “Tôi biết có những tác giả còn “sản xuất” mạnh
hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là
những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông Nguyễn Hiến Lê thì không. Ở
ông là con người. Tác phẩm của ông là con người của ông. Ông “dạy” cho thanh
niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực; ông viết về tổ chức
thì chính nếp sống của ông là một sự tổ chức; ông viết về tự học thì chính ông
đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người
đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều ứng dụng được”[15].
Và cũng nhờ vậy mà loại “Học làm người” của
tôi được độc giả tin cậy nhất.
Sau cùng, có những tác phẩm đặc biệt của
một danh sĩ như André Maurois (Thư ngỏ tuổi đôi mươi, Thư gởi
người đàn bà không quen biết), B. Russel (Chinh phục hạnh phúc), Lâm
Ngữ Đường (Sống đẹp), Sống hai mươi bốn giờ một ngày của
A.Bennett; hay một tác giả không phải là danh sĩ, nhưng chứa nhiều ý rất mới
như cuốn Xây dựng hạnh phúc của L.A. Huxley, vợ nhà văn Aldous
Huxley; hoặc viết rất hấp dẫn, đào sâu một vấn đề như Đắc nhân tâm, Quảng
gánh lo của Dale Carnegie… thì tôi phải dịch, vì tự xét viết không thế
nào bằng tác giả được.
Dịch loại này, trừ các tác phẩm của danh
sĩ, tôi thường dịch thoát, có thể cắt bớt, có thể sửa đổi vài chỗ cho hợp với
người mình.
DỊCH TRIẾT HỌC, VĂN HỌC
Loại triết học, văn học thì luôn luôn tôi
dịch sát (đức tín), và phải xuôi (đức thuận), sáng sủa, nếu cần thì chú thích.
Tôi dịch nhiều nhất là sách triết Trung
Hoa, công việc tương đối dễ, không phải tạo danh từ mới để diễn những ý niệm
mới như dịch sách triết phương Tây. Cần nhất là hiểu kĩ ý trong sách và muốn
vậy phải có những bản chú thích tốt.
Dịch sách văn học khó hơn dịch sách triết
học vì chẳng những dịch sát ý mà còn phải giữ cả thể văn, có khi cả phép hành
văn của tác giả nữa. Tôi rất ngại việc dịch thơ Trung Hoa, nhất là thơ luật,
phải dịch ra thơ luật mà tôi không làm thơ bao giờ. Trong bộ Đại cương
Văn học sử Trung Quốc, chỉ có một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là những
bài dễ, còn hầu hết đều do một ông bác tôi dịch cho và kí tên là Vô
danh. Nhưng thơ cổ phong loại “từ” (một thể thơ), và loại thơ mới của Trung
Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật.
Trái lại, cổ văn Trung Quốc thì tôi tự dịch
lấy hết, diễn được đúng ý và cả thể (biền ngẫu, phú) của nguyên tác, nhiều độc
giả cho là thành công.
Dịch tiểu thuyết phương Tây, tôi nghĩ rằng
muốn thành công thì phải lựa một tác phẩm hay, mà bút pháp tác giả không trái
với bút pháp của tôi, bình dị, tự nhiên như Léon Tolstoi, Somerset Maugham…, có
vậy thì dịch mới thú, mà rồi độc giả đọc mới thấy thích.
Tôi sợ nhất là việc dịch Marcel Proust: có
lần tôi chỉ dịch một trang của ông mất cả một buổi, sửa đi sửa lại mấy lần vẫn
không vừa ý. Tôi chắc bất kì người Việt nào dịch văn hào đó cũng thấy khó nhọc
như tôi.
Dịch tiểu thuyết Âu Mĩ khó hơn dịch tiểu
thuyết Trung Hoa. Mỗi ngôn ngữ có một lối phô diễn tư tưởng, không thể áp dụng
bừa bải lối của người vào ngôn ngữ của mình được.
Giữa Việt ngữ và Hoa ngữ, sự cách biệt
không là bao vì cả hai đều thuộc loại ngôn ngữ cách thể (langue isolante – hồi
xưa gọi là đơn âm) và hai dân tộc đồng văn với nhau; nhưng giữa Việt ngữ và
Pháp ngữ hoặc Anh ngữ có một bức tường, không phải chỉ phủ nhận bức tường đó là
làm cho nó biến đi được.
Không những vậy, tâm hồn của người Âu cũng
khác mình, lối suy nghĩ nhìn đời của họ cũng vậy; họ lại có những dụng ngữ, ý
niệm mà chúng ta không có (chẳng hạn những tiếng gentlement, honnêtre homme,
bourgeois, chúng ta không thể dịch cho thật đúng được); ngược lại chúng ta cũng
có những dụng ngữ, ý niệm mà họ không có (như tiếng quân tử, sĩ phu, âm
dương…).
Vì vậy, dịch sách Pháp, Anh chúng ta thường
phải dịch thoát, đảo lên đảo xuống, thay đổi tổ chức của câu, có khi ta bắt
buộc phải tìm hiểu ý của tác giả rồi quên nguyên tác đi, diễn lại ra sao cho
hợp với tinh thần tiếng Việt, để những đồng bào không biết ngoại ngữ hiểu được
như ta, hiểu mà không thấy bỡ ngỡ, chướng tai; dịch các sách triết, khoa học
như vậy thì không có hại, dịch văn thơ mà phải theo lối đó thì cái hay trong
nguyên tác mười phần mất đến sáu bảy, như trường hợp dịch Chateaubriant, A.
France, hai nhà này là những nghệ sĩ, văn du dương như thơ.
Cách xưng hô, nói năng của họ khác mình,
Pháp có những tiếng je, vous, il, mình phải
khéo chuyển ra tiếng Việt cho hợp với mỗi hạng người. Vợ chồng họ thường gọi
nhau chéri(e) cả trước mặt người lạ; chúng ta không thể dịch sát nghĩa ra
là anh yêu dấu hoặc em cưngđược, chỉ có thể dịch
ra là “mình” hoặc “em” được thôi, trừ khi hai
vợ chồng ở trong phòng riêng tỏ vẻ âu yếm với nhau.
Rồi những câu tục ngữ của họ nữa, dịch sát
thì cũng được, nhưng như vậy thì không khéo mà phải chú thích, phải rán tìm một
tục ngữ Việt tương đương để chuyển.
Chẳng hạn trong bộ Chiến tranh và
Hoà bình, Léon Tolstoi cho một nhân vật trong truyện bảo một thiếu nữ: “Sao
em không ở nhà mà quay xa”; một bản tiếng Pháp chuyển ra thành: “Sao em không
yên ổn trồng rau, chúng đánh đau thì chịu”; tôi tìm được câu tục ngữ tương
đương mà gọn: “trêu có, cò mổ mắt”. Nhưng mười lần, may lắm là tìm ta được hai
ba lần như vậy. Ông Vi Huyền Đắc không dịch câu: “Nous nous connaissions depuis
l’âge des chausesettes” là “Chúng tôi biết nhau từ khi còn đi vớ ngắn” (vì trẻ
em Việt rất ít khi đi vớ), cũng không dịch là “chúng tôi biết nhau từ khi còn
để chỏm” (vì trẻ em Pháp không để chỏm); mà dịch là “chúng tôi biết nhau từ khi
hỉ mũi chưa sạch”, cũng đã là khéo chuyển lắm, độc giả chỉ thấy xuôi tai thôi
chứ ít ai nhận được công phu của người dịch.
Có khi mình có những điển như Tây Thi, Từ
Hải, Tú Bà, Sở Khanh, diễn đúng điển của họ, mà không thể dùng được vì không
thể cho một người Anh hay một người Pháp bảo: “Hắn là một tên Sở Khanh”, nghe
chướng lắm; đành cứ phải để là Don Juan rồi chú thích ở cuối trang.
DỊCH MỘT TIỂU THUYẾT DÀI
Tôi rút ra được kinh nghiệm này khi dịch
những tiểu thuyết dài 700- 800 trang trở lên của Anh, Pháp, Nga.
Muốn cho bản dịch được nhất trí, và đỡ mất
thì giờ, nên chép lên một tờ giấy riêng tên những đồ dùng của họ mà mình không
có, như cái samovar, cái traîneau… tìm một lối dịch,
rồi ghi ngay ở bên cạnh, chẳng hạn: ấm lò, xe trượt tuyết… để sau gặp lại kiếm
được ngay, khỏi phải dịch lại.
Những tiếng có nhiều nghĩa, như tiếng animé,
tuỳ chỗ phải dịch là có hồn, có sinh lực, náo nhiệt, khởi sắc, hung hăng, hoạt
động, hoạt bát, nhiệt tâm, linh động, hồng hào, hăng hái, kịch liệt… cũng nên
ghi tất cả những nghĩa đó trên một tờ giấy riêng để sau dễ lựa nghĩa nào hợp
với đoạn văn phải dịch.
Nhất là phải lập một bảng ghi tên các nhân
vật chính và phụ trong truyện với địa vị xã hội, nghề nghiệp, tuổi tác, tình
bạn bè hoặc họ hàng giữa những nhân vật này với nhân vật khác; định cho nó một
cách xưng hô với nhau hồi trẻ ra sao, về già ra sao… để khỏi mắc lỗi mâu thuẫn
trong cách xưng hô. Vì không lập bảng ngay từ đầu bộ Chiến tranh và Hoà
bình mà tôi đã tốn rất nhiều thì giờ, có khi dịch cả ngàn trang rồi
phải lật lại những trang trước để tìm xem nhân vật này gọi một nhân vật khác là
gì: anh hay cậu, chị hay cô, bác hay chú…[16] Văn
dịch của chúng ta ngày nay so với vài ba chục năm về trước đã tiến bộ, bớt lai
căng, nhưng vẫn còn một số dịch giả cả ở Nam lẫn ở Bắc làm việc cẩu thả, dịch
đúng từng chữ, không chịu tìm cách chuyển qua tiếng Việt, thành thử lời đã
sượng, ý lại rất tối.
Năm 1968 trong tạp chí Bách Khoa số
281[17],
tôi đã nêu vấn đề đó đưa ra nhiều thí dụ. Muốn mau trừ cái tệ đó tôi nghĩ các
nhà xuất bản và nhà báo phải từ chối tất cả các bản dịch có giọng lai căng,
không xuôi tai, chỉ có cách đó mới bắt người dịch phải tìm ra những cách phô
diễn mới mà thích hợp với Việt ngữ. Công việc này rất có lợi cho Việt ngữ, phải
tốn sức trong một thời gian dài, có thể vài ba chục năm.
Đã hơn mười năm rồi, một buổi tối mùa Xuân
tôi được nghe một dàn nhạc từ Mĩ qua hoà tấu ở Sở Thú cho giới trí thức, văn
nhân, học giả Sài Gòn thưởng thức. Họ bắt đầu bằng bảnQuốc thiều Việt Nam[18].
Tôi thấy rất du dương, từ bỗng xuống trầm rất dịu dàng; như có tiếng gió thổi
nhẹ trong cành lá trên đầu chúng tôi vậy - thính giả ngồi giữa trời. Dĩ nhiên
họ tấu rất đúng Quốc thiều của ta nhưng nó không làm cho máu ta sôi lên như
biết bao nhiêu lần trước tôi đã nghe các nhạc công của mình tấu.
Tôi có băng cổ nhạc Nam Bình,
lâu lâu tôi cho chạy để nghe bài Vọng cố hương và bài Lan
và Điệp. Cũng là bản vọng cổ, cũng do ba nhạc công hoà (Bảy Bá, Năm Cơ, Văn
Vĩ), chỉ khác bài Vọng cố hương là dùng đàn tranh, đàn
guitare, đàn kìm; còn bài Lan và Điệp dùng đàn tranh, đàn
guitare và đàn sến[19],
vậy mà bài Lan và Điệp ai oán, lâm li hơn bài Vọng cố
hương nhiều.
Tôi lại nhớ năm 1935, khi còn làm Sở Thuỷ
lợi, đi đo mực nước miền Tây, có một người giúp việc cho tôi tên Tám quê ở làng
Tân Thạnh, quận Chợ Mới, chơi đàn kìm rất hay, đặc biệt nhất là bài Vọng cổ,
anh có một lối nhấn rất lạ, không giống ai, khiến bản Vọng cổ dưới ngón tay anh
có giọng lâm li mà vẫn hùng, tôi nghe thích hơn bản Văn Thiên Tường.
Vậy nhạc trưởng và cả nhạc công nữa, nếu có
tài thì đều có công sáng tác khi trình diễn một bản nhạc. Cũng là bản nhạc đó,
những nốt nhạc đó, mà không một nghệ sĩ nào trình diễn giống nghệ sĩ nào, tài
đã khác nhau mà cảm xúc, lối diễn cũng khác nhau, vẫn có cái gì riêng – của mỗi
người, dễ dàng nhận ra được.
Tôi không biết gì về nhạc, hiểu như vậy
không biết có đúng không, và tôi nghĩ rằng văn thơ cũng như nhạc, dịch một bài
văn một bài thơ, cũng như diễn một bản nhạc, cũng là làm công việc sáng tạo mặc
dù dịch rất sát không thêm bớt. Dịch giả - nếu có tài – cũng là một nghệ sĩ, và
mỗi bản dịch cũng là một nghệ phẩm. Không bản dịch nào đúng hẳn với nguyên tác;
bản dịch nào cũng mang ít nhiều cá tính, tài năng của người dịch, tinh thần của
ngôn ngữ người dịch, cũng để lộ tâm tư của người dịch, cái không khí thời đại
của người dịch.
Muốn thấy rõ điều đó, chúng ta chỉ cần so
sánh nguyên tác bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị với bản dịch của
Phan Huy Vịnh[20] (nhà
xuất bản Nam Việt – 1952).
Mới câu đầu; chúng ta đã thấy hai bản có
cái gì khác nhau, mặc dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản:
“Tầm dương giang đầu dạ tống khách”
Không buồn, không vắng vẻ, mông lung bằng:
Bến tầm dương canh khuya đưa khách.
Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ dạ, dịch
ra là canh khuya, Dạ (đêm) không gợi ý bằngcanh
khuya.
Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng
Việt là ở chỗ đó.
Bốn năm trước, một bạn văn ở Trung Việt cho
tôi hay một độc giả của tôi nói với ông: “Đọc bản dịch Guerre et Paix của
Pháp tôi thấy hùng, mà đọc bản dịch của ông Lê[21] tôi
thấy buồn và đẹp”.
Tôi chưa hề nhận thấy như vậy, mà tôi cũng
không có cơ hội xin độc giả chỉ cho tôi một vài đoạn trong bản của tôi và bản
tiếng Pháp ông ấy đã đọc để tôi so sánh. Nếu lời ông ấy đúng thì thật là ngoài
ý muốn của tôi - vì khi dịch tôi không bao giờ mong dịch đẹp hơn, buồn hơn bản
tiếng Pháp cả. Nhưng điều đó có thể hiểu được: tiếng Việt có thể không hùng
bằng tiếng Pháp, mà du dương hơn tiếng Pháp nhờ những âm bằng trắc, bổng trầm.
Một độc giả khác cũng ở Trung bảo đọc bản
tiếng Pháp cuốn Il est un pont sur la Drina của nhà Plon, chỉ
được vài chục trang chán quá phải bỏ; mà đọc bản dịch Chiếc cầu trên
sông Drina (Trí Đăng – 1972) thì say mê từ đầu tới cuối.
Điều này rất dễ hiểu: người Việt dù thông
thạo tiếng Pháp, đọc tiếng Việt vẫn thích hơn đọc tiếng Pháp nếu hai bản có giá
trị ngang nhau vì chúng ta dễ cảm được những tế nhị, những âm hưởng, tiết điệu
trong tiếng Việt hơn của tiếng Pháp.
Mà đọc sách Trung Hoa thì cũng vậy, mặc dù
ngôn ngữ, văn thơ Hoa, Việt có nhiều điểm giống nhau. Vì thế mà các nhà Nho của
ta thích bản Tì Bà Hành của Phan Huy Vịnh hơn, thuộc bản đó
hơn nguyên bản của Bạch Cư Dị.
Đọc câu thứ hai của bài đó:
“Phong diệp địch hoa, thu sắt sắt”
và câu dịch:
Quạnh hơi thu, lau lách
dìu hiu
thì câu của họ Phan làm tôi rung động hơn
nhiều, nhờ những chữ: lau lách dìu hiu, cả chữquạnh,
chữ hơi nữa vì ta thấy lau lách buồn
hơn địch hoa; hơi thu, đìu hiu gợi cảm hơnthu
sắt sắt.
Nhưng một người Trung Hoa đọc câu của Bạch
chắc cũng thích hơn câu của Phan vì phong diệp (lá
phong), sắt sắt (tiếng gió vi vút) gợi cho họ một cảnh thu thê
thảm hơn. Mà cảnh thu ở Trung Hoa thê thảm hơn ở Việt Nam thật.
Mỗi tác phẩm bất hủ của một dân tộc nào nếu
khéo dịch cũng thành một tác phẩm bất hủ của một dân tộc khác, thành một bảo
vật trong kho tàng chung của nhân loại. Bản Tì Bà Hànhcủa Bạch Cư
Dị và bản dịch của Phan Huy Vịnh thật là hai kiệt tác diễn được cả tâm sự của
Bạch lẫn của Phan làm rung động tâm hồn hai dân tộc Hoa và Việt. Chúng ta phải
khuyến khích việc dịch, luyện văn dịch, và rán dịch nhiều văn thơ của ngoại
quốc để làm giàu văn hóa của mình. Nười Pháp khen Baudelaire dịch Histoires
extraordinaires (Truyện Quái đản) của Edgar Poe là rất sát và rất hay,
quí nó không kém những tập truyện ngắn nổi tiếng nhất của họ.
Trong một số tác phẩm, tôi đã bàn về nhiều
vấn đề trong chương nầy:
- Vấn đề nguyên tác – (Nghề viết văn -
Phần II, chương III).
- Bút pháp và cá tính – (Vài vấn đề xây
dựng văn hóa – tr.8).
- Văn chương và dân tộc tính – (nt –
tr.16).
- Tìm ý – (Nghề viết văn – Phần
II, chương IV).
- Viết – (Nghề viết văn – Phần
II, chương V).
- Bí quyết luyện văn – (Luyện văn III,
tr.148).
- Dịch là một cách luyện văn – (Luyện
văn III, tr.149).
- Dịch văn ngoại quốc (Bách Khoa số
281 năm 1968).
- Sự thuần khiết trong ngôn ngữ (Bách
Khoa số 282 năm 1968).
[1] Trong ĐVVCT còn có đoạn này: “Năm Mậu Thân, tôi dịch Chiến
tranh và Hoà bìnhcủa L. Tolstoi, nhờ vậy mà khỏi nghĩ đến những trận đánh
đẫm máu ở khắp nước, những trận pháo kích ác liệt vào Sài Gòn”. (Goldfish).
[6] Tôi không vơ đủa cả nắm mà khinh hết thảy các “ông lớn”
trong chính quyền, và có vài ông là bạn thân của tôi. Nhưng ông nào tự cho chức
bộ trưởng của mình là lớn lắm, sai nhân viên tới mời tôi lại bộ hoặc lại “tư
dinh” nói chuyện riêng thì tôi hỏi sứ giả: “Ông ấy lấy tư cách gì mà mời tôi
như vậy? Tôi không thuộc quyền của ông ấy. Nếu ông ấy mến tôi là nhà văn thì
sao lại mời tôi lại thăm ông ấy?”. Có lần tôi không thèm trả lời thư riêng của
một Bộ trưởng vì ông ta không kí tên mà để viên bí thư kí thay!
[7] Trong ĐVVCT còn có đoạn sau: “Viết mấy hàng này tôi bùi
ngùi điểm lại những bạn văn đó thì già nửa đã không còn ở trên đất Việt mà
những bạn còn lại cũng không ai được vui. Thật là “vạn sự tan như mây khói”.”.
(Goldfish).
[8] Nhan đề trong lần xuất bản năm 1964; nhan đề trong lần
xuất bản trước là La civilisation de 1960. (http://openlibrary.org/b/OL20006528M/civilisation-de-1975).
(Goldfish).
[9] Theo ông Lê Ngô Châu thì “thường thường sách nào ai tặng,
ông Lê đều đọc qua và có ghi bút chì nhận xét của ông ở trang đầu hay trang
cuối. Chỉ có cuốn Phật học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần là
không thấy có bút tích của ông, có thể là ông không đọc”. (theo Châu Hải
Kỳ, Nguyễn Hiến Lê Cuộc Đời & Tác Phẩm, Nxb Văn học, năm
2007, tr. 427-428). (Goldfish).
[10] Trong ĐVVCT còn có đoạn này: “Năm đó nhà tôi qua Pháp, tôi
phải dạy thay mấy tháng, nên tôi làm việc quá sức”. (Goldfish).
[12] Tập du kí Đế Thiên Đế Thích, tôi viết từ 1943;
năm 1968. hai mươi lăm năm sau mới xuất bản, nhà văn Võ Phiến đọc rồi, bảo văn
tôi trong hai mươi lăm năm đó không có gì thay đổi.
[13] Bản Việt dịch của cụ NHL có nhan đề là Một quan
niệm về Sống đẹp, thường được gọi tắt là Sống đẹp.
(Goldfish).
[15] Đoạn trích dẫn này có đôi chỗ khác biệt với bài của Đỗ
Hồng Ngọc in lại trong cuốnNguyễn Hiến Lê – Con người & Tác
phẩm (Nxb Trẻ, 2003, tr. 61). (Goldfish).
[16] Trong ĐVVCT còn có câu này: “Dịch xong mỗi chương cũng nên
tóm tắt truyện trong chương để sau tra lại cho dễ”. (Goldfish).
[18] Tức bài Tiếng gọi thanh niên, còn có tên
là Thanh niên hành khúc của Lưu Hữu Phước sáng tác từ hồi còn
là sinh viên Y Khoa với tên ban đầu là La
Marche des Étudiants(Sinh viên hành khúc). (Goldfish)
[20] Trong bài Lại thêm một tư liệu về người dịch “Tỳ
bà hành” của Bạch Cư Dị đăng trên báo Văn nghệ Trẻ số
ra ngày 18.3.2007, tác giả Thế Anh chỉ ra rằng người dịch là Phan Huy Thực chứ
không phải là Phan Huy Vịnh. (Goldfish).
Chương XXVII
HAI CHỤC NĂM LÀM VIỆC TÍCH CỰC
Cuối
năm 1954,
khi thành lập nhà xuất bản ở 50 Huỳnh Tịnh Của, tôi đã có được khoảng mười lăm tác phẩm và mươi bài trên các báo Việt Thanh, Giáo
dục phổ thông, Mới (của nhà P. Văn Tươi), không kể những bài trên tờ Tân
Việt Nam (1945). Những tác phẩm đó thuộc các loại:
Tổ chức công việc.
Giáo dục, Học làm người.
Văn học.
Ngữ pháp - Luyện văn.
Lịch sử (Lịch sử thế giới).
Du kí.
Non hai phần ba số đó đã ra mắt độc giả,
còn thì hai ba năm sau mới in.
Từ 1955, liên tiếp hai chục năm:
Tôi mở rộng, một mặt đào sâu các đề tài đã
viết, như về:
- Tổ chức công việc, tôi
viết thêm những cuốn Tổ chức công việc làm ăn, Lợi mỗi ngày
được một giờ…
- Giáo dục và Học làm người,
tôi viết thêm trên ba chục cuốn:
Thời mới dạy con theo lối mới, Tìm
hiểu con của chúng ta, Thế giới bí mật của trẻ em…
Rèn nghị lực, Luyện lý trí, Tương lai ở
trong tay ta, Nghệ thuật nói trước công chúng, Cách xử thế của người nay, Xây
dựng hạnh phúc, Chinh phục hạnh phúc, Giúp chồng thành công, Giữ tình yêu của
chồng, Con đường lập thân…
Trong loại này có thể kể hơn một chục cuốn
Tiểu sử danh nhân: Gương danh nhân, Giương hi sinh, Gương kiên nhẫn,
Gương chiến đấu, Ý chí sắt đá, Những cuộc đời ngoại hạng, Einstein, Bertrand
Russell, Đời nghệ sĩ (chưa xuất bản)…
Khi dịch cuốn Huấn luyện tình cảm của
P.F. Thomas (năm 1941) tôi để ý đến đoạn này ở chương XXI:
“Đời các vĩ nhân cho ta một lí tưởng, một
kiểu mẫu để bắt chước (…) Nhờ có gương của họ mà ta trở nên khá, có can đảm,
kiên nhẫn, để đi tới mục đích mà không sa ngã, điều đó Auguste Comte hiểu rõ
lắm, cho nên ông khuyên ta nên in tên các danh nhân của nhân loại lên trên lịch
để cho chúng ta mỗi ngày có dịp trầm tư về các vị ấy, hàng ngày bái vĩ nhân như
Emerson còn là một thứ thuốc nó tẩy sạch cái bệnh tự tôn ở mắt ta đi[2] và
cho ta thấy được người khác và những công nghiệp của họ.
“(…) Vì vậy không có gì bổ ích bằng những
truyện kí dạy ở trường. Biết chọn những truyện đó và lựa lúc đọc cho học sinh
nghe thì những truyện đó là những bài học dễ hiểu, vui vẻ, cụ thể, dạy cho chúng
can đảm, có đức hạnh. Những truyện kí về các danh nhân đó, khéo viết thành sách
còn có ích cho thiếu niên nữa. Người nào biết làm cho thiếu niên bỏ những sách
nhạt nhẽo, nhảm nhí mà hướng cả về những truyện có ích ấy, thật là giúp được
một việc lớn nhất trong nước. Công của tất cả các nhà đạo đức hợp lại cũng
không lớn bằng công răn dạy quần chúng ấy”.
Đoạn trên đó kích thích tôi mạnh và ngay từ
hồi đó đã có ý theo lời khuyên bảo của Thomas. Nhưng mãi đến năm 1959, nhờ thu
thập được một số khá nhiều tiểu sử danh nhân, tôi mới lựa chọn mà viết được
cuốn đầu nhan đề là Gương danh nhân. Rồi từ đó cứ một hai năm tôi
lại viết thêm một cuốn với tất cả sự chân thành, nhiệt tâm của tôi. Tôi lựa
toàn là những nhà tài đức cao, như tôi đã nói ở trên. Những người có danh tiếng
lớn, có tên trong lịch sử nhân loại mà đức kém thì tôi cũng loại bỏ. Vì vậy
trong số trên bảy chục danh nhân tôi viết tiểu sử, không có Thành Cát Tư Hản,
César, Napoléon… mà có bà La Fayette. Đọc tiểu sử bà này và tiểu sử bà Curie[3] tôi
viết, một nhà văn ở Trung Việt bảo đã xúc động đến rơm rớm nước mắt. Và độc giả
nào cũng nhận Tiểu sử danh nhân của tôi có tác động lớn.
- Văn học Trung Quốc tôi
viết thêm bộ Văn học Trung Quốc hiện đại, Tô Đông Pha, Nhân sinh quan
và thơ văn Trung Hoa, Cổ văn Trung Quốc, Chiến Quốc sách, Sử kí của Tư Mã Thiên…
- Luyện văn, tôi viết
thêm bộ Hương sắc trong vườn văn, Tôi tập viết tiếng Việt (chưa
xuất bản)[4].
- Ngữ pháp, tôi viết
chung với Trương Văn Chình thêm cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam.
- Lịch sử, thêm Đông
kinh nghĩa thục, Bài học Israël, Bán đảo Ả Rập và dịch năm cuốn trong
bộ Lịch sử văn minh của Will Durant.
Mặt khác, tôi bước vào vài khu vực mới:
- Triết học Trung Quốc:
Mới đầu chỉ là một cuốn mỏng: Nho giáo, một triết lí chính trị; sau
nhờ duyên văn tự và cũng nhờ Hiệp định Genève tôi được gặp ông Giản Chi Nguyễn
Hữu Văn; lại nhờ ông bạn ở Pháp, ông Tạ Trọng Hiệp tìm kiếm cho tài liệu ngoại
quốc, tôi tiến sâu vào khu vực đó, tới đầu năm 1975 đã xuất bản được bộ Đại
cương triết học Trung Quốc 2 cuốn (chung với Giản Chi), Nhà
giáo họ Khổng, Liệt Tử và Dương Tử, Mạnh Tửvà tới nay (1980) tôi có thêm
được bảy tám bộ nữa về các triết gia thời Tiên Tần: Tuân Tử, Hàn Phi (cả
hai viết chung với Giản Chi), Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Luận
Ngữ, Kinh Dịch (tất cả đều chưa xuất bản)[5].
- Tôi xông cả vào khu Chính trị,
kinh tế: Một niềm tin, Xung đột trong đời sống quốc tế...
- Thấy tiểu thuyết hay,
tôi cũng dịch, một phần do ý muốn của tôi, một phần do lời yêu cầu của vài nhà
xuất bản: Lá Bối, Ca Dao, Trí Đăng, như bộ: Chiến tranh và Hoà bình,
Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu…[6]
- Ngoài ra từ 1957, tôi còn viết đều đều
mỗi tháng một hay hai bài báo cho các tạp chí định kỳ Bách Khoa (nhiều
nhất), Mai, Tin Văn… và mỗi năm trung bình viết một bài Tựa cho
một tác phẩm của một bạn văn.
Tính sổ lại trong hai chục năm hoạt động,
tôi đã cho ra được:
- Khoảng chín chục nhan đề,
cộng với những nhan đề đã xuất bản trước 1955, được chẳn một trăm, với bốn nhan
đề chỉ là một tập mỏng vài chục trang (loại Bông hồng cài áo của
nhà Lá Bối) nhưng cũng có 7-8 nhan đề gồm 2, 3, 4 cuốn, từ 400 đến hơn hai ngàn
trang, đa số từ 200-300 trang.
- Viết được trên mười tác phẩm chưa
xuất bản, mỗi cuốn từ hai đến năm trăm trang, có nhiều cuốn về triết học
Trung Hoa thời Tiên Tần.[7]
- Viết khoảng 250 bài báo mà
một nửa in thành sách, một nửa không.
- Và viết giúp bạn trên 20 bài Tựa,
đa số cho loại biên khảo, một số ít cho loại thơ và tuỳ bút.
*
BÁO TÔI HỢP TÁC
Hiệp định Genève kí năm 1954 thì năm 1955
thi sĩ Bàng Bá Lân mà tôi biết danh từ lâu, di cư vào Sài Gòn kiếm được một căn
nhà trong ngõ hẻm gần khu tôi ở, lại làm quen với tôi. Ông sở dĩ biết tôi vì ở
Bắc đã đọc cuốn Luyện văn, trong đó tôi trích dẫn vài câu thơ của
ông.
Ông làm chủ nhiệm tờ Bông lúa,
do chính phủ tài trợ, mỗi tháng ra một số dày dăm bảy chục trang, khổ nhỏ. Bài
vở hầu hết là của ông, ông nhờ vài bạn văn tiếp tay. Nhân có một số tiểu luận
và kịch bản đã dịch sẵn từ tiếng Anh và tiếng Pháp, tôi vị tình đưa ông đăng,
hoàn toàn là giúp ông. Năm 1956, tờ đó đình bản, số cuối đăng trọn bản dịch
kịch Công ty Lạc sinh của tôi. Tờ đó bán rất ít, gần như không
ai biết.
BÁCH KHOA
Năm 1957, tạp chí Bách Khoa ra
được hai số thì nhà văn Nguyễn Hữu Ngư (Ngu Í) dắt bà Phạm Ngọc Thảo lại giới
thiệu với tôi để nhờ tôi viết giúp tờ Bách Khoa mà chồng bà có
chân trong toà soạn, hoặc ít ra cũng là cộng tác viên.
Tôi không hề quen ông bà Thảo, chỉ do
Nguyễn Hữu Ngư mà biết bà là em ruột giáo sư Phạm Thiều hồi đó đã tập kết ra
Bắc, còn ông là một nhân viên khá quan trọng trong kháng chiến miền Nam. Tôi
cũng không biết người sáng lập tờ Bách Khoa là ai, toà soạn
gồm những ai, chỉ thấy bà Thảo nhã nhăn, có học thức, mà tạp chí đó bài vở cũng
đứng đắn, nên tôi góp với họ bài Quan niệm sáng tác của Edgar Poe,
bài The Raven mà tôi đã viết từ trước, chưa có dịp dùng tới.
Bài đó được đăng ngay trong số 4 (Tạp chí
ra mỗi tháng 2 kỳ). Tiếp theo, tôi cũng gởi cho họ ba bài nữa cũng về văn học,
bài Tiếng Việt ngày nay, Vấn đề dịch văn, Phép
dịch thơ, cũng được toà soạn cho đăng ngay trên các số 5, 6, 7, 8. Từ đó,
lâu lâu tôi gởi thêm một bài về Nho giáo, về danh nhân hay về văn học…, toàn là
do bà Thảo hay ông Ngư làm trung gian, chứ tôi vẫn chưa lại toà soạn. Hợp tác
với báo nào tôi vẫn giữ tư cách một độc giả góp bài chứ không dự gì vào đường
lối, công việc của toà soạn. Tôi không nhớ mấy tháng sau, có dịp đi qua số 160
đường Phan Đình Phùng[8] mới
ghé toà soạn Bách Khoa cách nhà tôi khoảng một cây số gặp ông
Hoàng Minh Tuynh và vài anh em nữa. Tôi cũng không nhớ bao lâu sau tôi mới gặp
ông Phạm Ngọc Thảo[9],
một người thấp nhỏ, rất hoạt động, hoạt bát, có tư tưởng tiến bộ, viết một số
bài về quân sự, ý kiến xác đáng, tỏ ra có kinh nghiệm và biết suy nghĩ. Hai ông
Tuynh và Thảo có vẻ quí tôi cả. Từ đó tôi hợp tác đều đều cho tới khi đình bản,
tháng 5 năm 1975.
Trong lịch sử báo chí của nước nhà, tờ Bách
Khoa có một địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không
ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam
Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong,
trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm.
Mới đầu chỉ là một nhóm công chức cao cấp
nghiên cứu về kinh tế, tài chính, quân sự do Huỳnh Văn Lang thành lập. Họ xin
được nhãn báo (manchette) của tờ Bách Khoa bình dânđã chết từ số 2,
cắt hai chữ “bình dân” đi; rồi hùn nhau để tục bản.
Họ đa số là những người đã tham gia kháng
chiến chống Pháp trở về, không hoạt động cho kháng chiến nữa, mặc dầu là công
chức nhưng không ưa Pháp.
Năm đầu, đăng nhiều bài về kinh tế và một
số bài về công giáo, nên có tính chất nặng nề, nhưng báo sống nổi: nhờ chủ
nhiệm Huỳnh Văn Lang làm giám đốc Viện Hối đoái, tờ báo thu được nhiều quảng
cáo.
Đến năm 1959, một phần nhờ ông Lê Ngộ Châu,
có hồi theo kháng chiến rồi về Hà Nội dạy ở một trường trung học tư, được Huỳnh
Văn Lang giao cho nhiệm vụ tựa như thư kí toà soạn, mà tờ báo khởi sắc, có một
đường lối rõ rệt, đường lối thứ ba, không theo Cộng mà cũng không theo Mĩ, và
tập hợp được một số cây bút có kinh nghiệm làm nồng cốt như Võ Phiến, Vũ Hạnh,
Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc.
Khi báo có uy tín rồi (từ 1960 trở đi) ông
Châu tập hợp thêm một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả
về biên khảo, lẫn sáng tác, và chính nhờ hợp tác với Bách Khoamà
những cây viết đó nổi tiếng như: Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu
Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo, Đoàn Thêm (hai người sau là nhân viên cao cấp
trong chính quyền Ngô Đình Diệm)…, nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị
Hoàng, Trùng Dương, Thuỵ Vũ, Tuý Hồng…
Ngu Í chuyên về phỏng vấn, từng trải, có
nhiều nhiệt tâm, văn có duyên.
Võ Phiến còn kí tên là Tràng Thiên, Thu
Thuỷ, viết tiểu thuyết nhưng thành công nhất về tạp bút (tuỳ bút), ý sâu sắc và
lời dí dỏm. Ông khéo phân tích tâm lí nhân vật, tả cảnh vật tài tình, linh
động.
Phan Văn Tạo, bút hiệu Vũ Bảo, viết về thời
sự và hồi ký.
Phạm Việt Châu chuyên về chính trị quốc tế
và nhận định thời cuộc.
Có tinh thần đồng đội giữa những cây viết
chính. Trong mười năm đầu, họ thường họp nhau ở toà soạn – 160 Phan Đình Phùng
– hội ý trước về các đề tài, góp ý về nội dung các bài phê bình, đả kích. Tôi
không khi nào dự cả, nhưng thỉnh thoảng ông Châu cũng nhờ tôi cho ý kiến về một
bài gởi đăng mà đề tài tôi biết rõ hơn ông, như Văn học, Triết học Trung Quốc.
Tư tưởng của những cây viết chính có khi
trái ngược nhau. Vũ Hạnh thiên Cộng, sau theo Cộng; Võ Phiến chống Cộng; Đoàn
Thêm và Phan Văn Tạo không ưa Cộng cũng không đả, “không thích Mĩ” nhưng cũng
không nói ra; tôi, có lẽ cả Ngu Í và Lê Ngộ Châu nữa, có cảm tình với kháng
chiến, nhưng khác hai ông ấy. Càng về sau, từ 1965 trở đi Mĩ đổ nửa triệu quân
vào miền Nam tôi càng đả mạnh Mĩ và chính quyền Thiệu bù nhìn của Mĩ.
Mặc dầu vậy, các anh em trong toà soạn vẫn
giữ tình hoà hảo với nhau. Xu hướng trái ngược với nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến
mà họ vẫn trọng tư tưởng của nhau (ít nhất là trong mười năm đầu) và gặp nhau
tránh nói về chính trị. Đó là điều tôi quí nhất.
Nhờ anh em ai cũng có tinh thần đó nên buổi
họp nào ở toà soạn cũng đông và vui, như Phan Du đã tả trong bài Văn
đàn tình thoại (BK số 361,
tr. 62): “Bất luận là trẻ già, là cũ mới, là duy vật duy tâm, là Phật giáo hay
Công giáo, khuynh hướng chính trị, văn chương như thế nào, đều được đón nhận
với sự cảm thông, và được chung đụng trong cái thể hoà đồng, cởi mở”.
Tờ báo có chủ trương đăng tất cả các sáng
kiến cá nhân dù đúng hay sai, miễn là thành thực, có tinh thần xây dựng về bất
cứ vấn đề gì: từ chính trị, quân sự, tới kinh tế xã hội, văn học, khoa học… mà
“không giới hạn ở lập trường chính trị nào, phe nhóm nào”. Dĩ nhiên, bị kiểm
duyệt cắt – nhất là trong bảy tám năm cuối – nên không một cây viết nào có thể
trình bày hết ý mình được, mặc dầu vậy Bách Khoa vẫn được độc
giả cho là “dám nói”. Sau ngày giải phóng 1975, nhiều học giả Bắc nhận là một
tờ báo “nghiêm chỉnh”, tuy chống đối cả Cộng sản lẫn Tư bản, nhưng có lập
trường đứng đắn, lí luận vững, ngôn ngữ đàng hoàng; và hiện nay các số báo Bách
Khoa cũ càng ngày càng có giá trị: một bộ cũ rách, từ đầu đến cuối,
thiếu độ mười số, bán được gần 5.000đ (năm 1983), (đủ bộ mà tốt: 10.000đ)[10].
Bách Khoa thịnh nhất trong
những năm 1959-1963 bán được từ 4.500 đến 5.000 số, độc giả dài hạn được trên
1.000 mà khoảng 100 ở ngoại quốc, tờ Văn bán chạy hơn, còn các
tờ định kì khác thì trung bình được 3.000 số.
Sau cuộc đảo chính 1963, chủ nhiệm Huỳnh
Văn Lang bị bắt giam, rồi tờ báo bị đe doạ đóng cửa, phải đổi giấy phép – Lê
Ngộ Châu làm chủ nhiệm thay Huỳnh Văn Lang – đổi tên làBách Khoa Thời đại;
từ đó suy giảm về tài chánh (vì mất nhiều quảng cáo) nhưng nói chung nhóm biên
tập vẫn như cũ.
Từ vụ Tết Mậu Thân (1968), tờ báo mất một
số lớn độc giả miền Trung – mà độc giả đó là phân nửa độc giả BK – giá giấy và
công in lại cao, nên lỗ. Ông Lê Ngô Châu rán giảm mọi chi phí – cả toà soạn chỉ
có ông và hai người giúp việc mà duy trì tờ báo tới đầu 1975. Một ông bạn tôi –
nhà văn tập kết về - phải ngạc nhiên về sự làm việc của toà soạn, vì theo ông
thì ở Bắc, một tờ định kì như vậy phải dùng ba chục nhân viên là ít.
Từ trước tới sau, Bách Khoa giữ
được trọn tình cảm của hạng độc giả đứng tuổi; còn giới trẻ thì chê là khô
khan, nặng về biên khảo mà nhẹ về sáng tác (thơ, tiểu thuyết). Lẽ đó dễ hiểu.
Tuy nhiên phải nhận rằng Bách Khoa không
có ảnh hưởng lớn như Nam Phong, Phong Hoá, Ngày Nay trong dân
chúng.
Nam Phong ra đời ở buổi giao
thời, văn hóa cũ bắt đầu chuyển mạnh qua văn hóa mới của phương Tây, số người
viết ít mà số người đọc cũng ít, bao nhiêu cây viết có giá trị đều dồn vào tờ
đó cả, không một tờ nào khác có nhiều bài đáng đọc và nhiều độc giả như Nam
Phong, có thể cạnh tranh nổi với nó; nó lại được trợ cấp nên đứng vững
được, những tờ báo khác có ra cũng chỉ được ít số là chết. Có thể nói Nam
Phong một mình một chợ, do đó có ảnh hưởng, uy tín lớn.
Bách Khoa sinh sau bốn chục
năm, vào thời mà số người viết đông, số độc giả cũng đông, gồm nhiều khuynh
hướng, nên bị nhiều báo định kì (có lẽ đến non chục) chia bớt độc giả vàBách
Khoa chỉ nhắm vào số độc giả đứng tuổi, số này bao giờ cũng ít, ảnh
hưởng do đó kém.
Lại thêm Bách Khoa không
có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẻ cải cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bày như
tờ Phong Hoá, Ngày Nay, trước sau vẫn giữ lập trường ôn
hoà, đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mĩ, như vậy làm sao gây nổi một
phong trào mà ảnh hưởng lớn tới quốc dân được như nhóm Tự Lực?
Thời đó có một nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư
vào lập nhóm Sáng Tạo muốn làm một cuộc cải cách, nhưng họ
không đủ kiến thức, tài năng, chỉ hô hào chống Cộng - điểm này không có gì mới
cả - mà cũng không sâu sắc, vì họ ít đọc sách báo ngoại quốc; và đả đảo lối
viết của nhóm Tự lực trước kia, mà người cầm đầu Sáng
Tạo – Mai Thảo – lại có bút pháp cầu kì, “làm duyên làm dáng”, không
hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng gây được tiếng
vang nào cả.
Tôi
với Võ Phiến là hai người cộng tác với Bách Khoa đều
nhất, lâu nhất. Từ đầu tới cuốiBách Khoa ra được 426 số thì 242 số
có bài của tôi, bài cuối đăng trên số 424.
Sự hợp tác với các báo định kì rất có lợi
cho tôi. Mới đầu tôi gởi đăng bài hay chương của tôi đã viết rồi mà chưa xuất
bản, về văn học, triết học, gương danh nhân; đó là một cách tự giới thiệu trước
với độc giả.
Sau hoặc tự ý tôi, hoặc do toà soạn nhờ
viết, do độc giả gợi ý, tôi mở rộng tầm hoạt động, viết về những vấn đề không
có trong chương trình trứ tác của tôi; nhờ sự thúc đẩy, khuyến khích đó tôi
phải đọc nhiều hơn, viết nhiều hơn, chú ý tới thời cuộc, tình hình trong nước
và thế giới hơn. Tôi không tự giam trong “Tháp ngà”; mặc dầu một tuần hay nửa
tháng mới ra khỏi nhà, cả năm không đi dự một cuộc họp nào cả, nhưng tôi luôn luôn
theo dõi tất cả những biến chuyển trong nước và trên thế giới và kịp thời góp ý
kiến với quốc dân.
- Trên tờ Bách Khoa, tôi lâu
lâu làm công việc điểm sách, tức công việc giới thiệu và phê bình.
Không khi nào tôi điểm những sách dở, vì không thích đã kích ai cả; chỉ lựa
những tác phẩm đứng đắn – phần nhiều trong loại khảo cứu – có vài chữ đáng khen
để giới thiệu; khi chê thì tôi giữ công tâm và một giọng nghiêm trang.
Tôi đã điểm một số sách có giá trị như Việt
ngữ chánh tả của Lê Ngọc Trụ (năm 1960), Le parler Vietnamien của
Lê Văn Lý (1959), Đường thi trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ
Bằng Đoàn (1959), Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn
(1962), Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức; vài cuốn Địa phương
chí như Nước non Bình Định, Xứ Trầm Hươngcủa Quách Tấn…
một hai tiểu thuyết và truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, Đỗ Tiến Đức…
- Cuối năm, tôi thường viết bài tổng kết về
tình hình xuất bản trong năm, có khi đăng trênBách Khoa, có khi đăng
trên tờ Tin sách.
Năm 1961, tôi viết một loạt bài đăng trên
bốn số Bách Khoa liên tiếp để so sánh hai ngành xuất bản Pháp
và Việt Nam, vạch rõ những nhược điểm chung của hai ngành đó. Tôi nhận thấy
rằng hễ theo một chế độ (hoặc tư bản hoặc cộng sản) thì dù cách xa nhau, không
chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhau, sự sáng tác, sự xuất bản, sự phát hành… cũng
có những nét giống nhau.
- Tôi góp ý kiến về việc xây dựng văn hóa,
trên Bách Khoa: Thống nhất nhan đề các văn thơ cổ (1962), Nhà
cầm quyền và dư luận (1966), Vấn đề kiểm duyệt (1969), Vấn
đề dịch văn, dịch thơ, Phong trào về nguồn (1972).
- Tôi rất chú ý tới chính sách giáo dục
trong nước, viết nhiều bài đả kích Bộ Giáo dục. Bài nào lí luận cũng vững vàng,
đưa ra những chứng cứ minh bạch và một vài đề nghị xây dựng; giọng tuy nghiêm
nhưng bình tĩnh, được độc giả trong giáo giới, nhất là phụ huynh học sinh khen
là ý kiến xác đáng, có nhiệt tâm. Tôi nghe nói nhiều nhân viên trong Bộ Giáo
dục bảo nhau: “Đừng động tới ông Lê, ông ấy sẽ đập cho mà không sao cãi được”.
Họ hiểu lầm tôi: tôi chỉ trích một chính sách, chứ không chỉ trích cá nhân.
Có hai loạt bài quan trọng nhất:
Cải tổ nền Giáo dục Việt Nam (đăng
liên tiếp trên năm số Bách Khoa năm 1962) mà sau ngày giải
phóng, một số nhà giáo ở Hà Nội khen là đề nghị hợp lí.
Nguy cơ xuất não (đăng trên ba số Bách
Khoa năm 1972) bàn về biện pháp để khuyến khích các sinh viên du học
ngoại quốc về giúp nước, khỏi thiệt cho quốc gia một số nhân tài.
Loạt bài này cũng được độc giả hoan nghênh,
nhưng chính quyền lúc ấy không cho đó là vấn đề quan trọng, không muốn mà cũng
không có khả năng thu dụng hạng thanh niên đó.
Ngoài hai loạt bài trên tôi còn viết cả
chục bài khác như Góp ý với Bộ Giáo dục (1964),Chính sách
bỏ thi (1966), Một nền giáo dục phục vụ (1967), Một
cách mạng trong giáo dục Pháp (1966), Cái chết của giáo sư
Trần Vinh Anh (1967), Lại sắp đến mùa thi(1964), Cần
nâng cao tri thức của đại chúng…
Nhất là loạt bài đăng trên Bách
Khoa (1961), Tin Văn (1966) đả kích kịch liệt Bộ Giáo
dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ ở Đại học.
Những bài đó viết vào hồi tựu trường liên tiếp trong mấy năm làm cho một số
giáo sư Đại học ghét tôi nhưng không thể trả lời tôi được, vì lí luận của tôi
vững; trái lại sinh viên rất thích và một số doạ sẽ gom các bài đó lại chung
với các bài của các nhà khác cùng chủ trương in thành một tập riêng để phổ
biến. Sau này (trong số Bách Khoa 426 ngày 20.4.75) bác sĩ Đỗ
Hồng Ngọc nhắc lại vụ đó, viết: “Còn nhớ bọn sinh viên chúng tôi vận động
chuyển ngữ Việt tại trường Y Khoa, ông (Nguyễn Hiến Lê) đã hỗ trợ bằng những
bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái giọng nghiêm túc, hiền lành,
bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẩn nộ, đầy kích động; giá có ai
giật giấy bút của ông đi, tôi chắc ông sẽ lấy dao “viết lên đá” như ai đó đã
nói”[11].
Đúng vậy, trong đời viết văn, chưa bao giờ ngọn bút của tôi sắc bén như vậy.
Từ 1963 tôi viết nhiều bài đả đảo chính
sách của bọn thực dân cả Đông lẫn Tây ở bán đảo Ả Rập, và đề cao tinh thần đấu
tranh của các nước Hồi giáo trên bán đảo đó. Sau tôi dùng các bài đó cho vào
hai cuốn Bài học Isrël xuất bản năm 1968 và Bán đảo Ả
Rập xuất bản năm 1969.
Từ năm 1973, tôi quan tâm tới những nguy cơ
chung của nhân loại, viết những bài Nhân số và nạn đó (1973), Năm
2000 (1974), Minamata: nước biển nhiễm độc (1974) và
loạt bàiBáo cáo số 1 và số 2 của nhóm La Mã, đăng trên bốn
số Bách Khoa liên tiếp 421-24 năm 1975; không kể một số bài
nữa không đăng báo mà tôi gom lại trong cuốn Những vấn đề của thời đại (Mặt
Đất -1974).
Sau cùng phải kể thêm một số bài thuộc loại
hồi kí và tuỳ bút đăng trên Bách Khoa, và trên số Kỉ niệm Nhất Chi
Mai của Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1971), sau được nhà Lá Bối xuất bản
trong loại Bông hồng cài áo. Cũng do viết báo mà tôi mới nảy ra ý
viết những tiểu phẩm.
Vì tôi công tác đều đều với Bách
Khoa, từ đầu đến cuối, lại viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người
cho tôi là cây viết cốt cán của tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng
trong toà soạn nên có bài muốn gởi đăng thì gởi cho tôi nhờ tôi giới thiệu với
ông chủ nhiệm Lê Ngộ Châu. Tôi đọc rất kỉ bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với
ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự quyết định đăng hay không ở cả ông Châu.
Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều
báo cho tác giả biết. Ông nhận rằng ông đã bỏ lầm một số bài rất khá. Tôi mến
ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ
vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người
cộng tác: ai gặp nạn gì thì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ.
MAI
Đầu
năm 1960,
ông Hoàng Minh Tuynh cho ra một bán nguyệt san khác, lấy tên là Mai mà
ông làm chủ nhiệm. Tờ này chắc do một nhóm công giáo bỏ vốn – ông Tuynh theo
công giáo – chủ trương đại khái cũng giống tờ Bách Khoa, nhưng
thiên về công giáo.
Cây viết, một nửa là của Bách Khoa,
một nửa là của công giáo. Báo chỉ bán được ngàn số trở lại, ra được hai năm
rưỡi, 41 số, thì đình bản.
Ông Tuynh nhờ tôi viết giúp, thành thử
trong những năm 1960-62, tôi viết cho cả hai tờ và trong 41 số Mai thì
24 số có bài của tôi.
Đa số bài của tôi bàn về giáo dục, đưa ý
kiến:
- Về vấn đề cải tổ chế độ tư thục (thời đó
hầu hết các tư thục thành những nơi buôn chữ, chủ trương chỉ lo làm giàu, giáo
sư chỉ lo “câu” học sinh, dạy 40 giờ một tuần hoặc hơn, học sinh hư hỏng, không
có chút kỉ luật gì cả).
- Về tình trạng các kì thi Trung học đệ
nhất cấp (đăng trên 5 số - 1961).
- Về vấn đề chuyển ngữ ở Đại học.
- Về vấn đề thanh niên hư hỏng (2 số năm
1961; 2 số năm 1962).
Ngoài ra còn ít bài, về giáo dục sinh lí,
giáo dục thiếu nhi thông minh, về hôn nhân, về phụ nữ, và 1 bài điểm sách: Nàng
ái cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết và Sài Gòn năm xưacủa
Vương Hồng Sển.
TIN VĂN
Năm 1965, ông Nguyễn Ngọc Lương, một nhân
viên của Bộ Thông Tin cho ra tờ tuần báoTin Văn, trước sau được ba bốn
chục số trong hai năm rưỡi.
Hồi đó tôi không biết ông Lương là cán bộ
Cộng sản nằm vùng; ông nhờ tôi viết giúp, tôi đọc mấy tờ đầu thấy tờ báo đứng
đắn, có chủ trương tiến bộ, thiên tả nhưng vừa phải, kín đáo, nên tôi nhận lời.
Trên tờ này, tôi viết ít (chỉ khoảng mười
số có bài của tôi), nhưng bài nào cũng viết kĩ, và hầu hết bàn về vấn đề văn
hóa, văn chương.
Những bài Văn chương và dân tộc
tính, Tiếp thu văn hóa Tây phương, Phát huy văn hóa truyền thống… sau được
gom với bài Bút pháp và cá tính (mà tôi đã nói ở chương trên)
để cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (Tao Đàn – 1967).
Hai bài Bút pháp và cá tính, Văn
chương và dân tộc tính được nhà văn Trần Thiện Đạo (ở Pháp) khen là
tiếng nói của lương thức, của một học giả có thẩm quyền (Tân Văn số
7 tháng 11-1968, và số 8 tháng 12-68).
Nhưng bài độc giả thích nhất, cho là có
giọng bút chiến sắc bén là Đả phá dễ hay xây dựng dễ đăng ngày
15.9.66. Trong bài đó nhân một câu của Tổng giám đốc vô tuyến truyền hình mà
kịch liệt đả kích chính sách văn hóa của chính phủ, đã không xây dựng mà chỉ
phá hoại.
Tôi khen chính quyền thời đó cho đăng trọn
bài, không bỏ một chữ. Họ còn tương đối biết trọng tự do ngôn luận, mà có thái
độ nhã nhăn với những nhà văn đứng đắn, dám nói thẳng và nói đúng.
Bài đó có tiếng vang ngang với bài Bọn
cầm bút chúng ta làm được những gì lúc này đăng trên Bách Khoa ngày
1.12.67. Giọng bài này khác hẳn: “vừa buồn vừa tủi rằng tất cả những cái tôi
viết ra đều là bá láp hết, chẳng có một tác dụng gì cả, rằng tôi gần như vô
dụng” trong khi toàn dân đau khổ vì nạn chiến tranh và vì chính quyền bất lực,
thối nát. Lời tự trách đó làm động lòng nhiều nhà văn có tâm huyết và tôi nghe
nói có vài ba người muốn trả lời tôi, nhưng sau chỉ có mỗi ông Đoàn Thêm là lên
tiếng trong số Bách Khoa ngày 1.1.68, trách thái độ của tôi là
vô lí, mình cầm bút chứ có phải là chính trị gia đâu, cứ làm hết nhiệm vụ của
mình thì thôi, mà những điều mình viết sao lại không có tác dụng ít nhiều trong
tâm hồn độc giả.
Trong bài đó, tôi cũng tỏ rõ thái độ của
tôi đối với chính quyền: “Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là được
độc lập và cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho quốc dân.
Muốn giữ được độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài chính quyền, đứng ở
cương vị đối lập với chính quyền. Đối lập không nhất định là chỉ trích, lại càng
không có nghĩa đả đảo. Đối lập là một cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và
nghiêm chỉnh nhất. Ta không lệ thuộc vào chính quyền thì mới dám nói thẳng với
chính quyền và chính quyền mới chú ý lời nói của ta. Alain và Maurois đều từ
chối những chức trọng quyền cao để được là người tự do, được làm một công dân
“giám thị các ông lớn”.
CÁC BÁO KHÁC
Ngoài ba tờ báo kể trên, tôi còn gởi ít bài
về văn học, điển sách cho tạp chí Văn và Tân Văn (ông
Trần Phong Giao làm chủ bút), và vài ba tạp chí khác, vì họ khẩn khoản xin bài.
Đặc biệt nhất là tờ báo cho thanh niên Phù
Đổng Thiên Vương. Chủ nhiệm là kịch sĩ Kim Cương cùng với
chồng, do Vũ Hạnh dắt lại yêu cầu tôi cộng tác. Tôi đáp không có thì giờ vì
chương trình làm việc của tôi còn nhiều. Họ nói mãi, nễ lời tôi hứa chỉ viết
giúp cho một bài duy nhất đăng trong số đầu thôi và ít bữa sau tôi giao cho họ
bài Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ, đăng trong số 30.1.75. Báo chưa ra
hay vừa mới ra thì Vũ Hạnh bị bắt giam trở lại; vì lẽ đó ba tháng sau chưa ra
được rồi Sài Gòn giải phóng và báo đình bản luôn[12].
Về sau tôi mới biết Kim Cương là một cán bộ
nằm vùng như Vũ Hạnh. Vậy là tôi vô tình hợp tác với hai tờ báo cộng sản ở
thành: tờ Tin Văn và tờ Phù Đổng Thiên Vương. Đã
nhận lời viết cho báo nào thì luôn luôn tôi viết kỉ và giao bài trước ngày hạn,
không để họ phải nhắc.
Trước sau tôi chỉ bỏ độ một phần mười thì
giờ viết của tôi vào các bài báo, nhưng đã để hết tâm tư vào công việc đó, coi
trọng nó cũng như việc biên khảo, dịch thuật, nên được nhiều cảm tình của độc
giả và bạn văn. Danh và uy tín của tôi nhờ vậy tăng lên và trong những năm
1965-1974 có vài tờ báo lại phỏng vấn tôi như tờ Khởi hành, tờ Thời
Tập; và một số nhà văn tư tưởng và chủ trương hoàn toàn khác tôi cũng làm
quen với tôi, tặng tôi tác phẩm, không kể nhiều nhà giáo quí tôi, nhiều sinh
viên trọng tôi như thầy học.
Tôi đã lựa một số bài báo tôi đắc ý nhất
cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa(1967), cuốn Mười
câu chuyện văn chương (Trí Đăng -1975) và hai tập chưa in: Mười
tám chuyện thời sự và Để tôi đọc lại.
VĂN HỌC MIỀN NAM TỪ 1954 ĐẾN 1975
Một
phần lớn cũng nhờ viết báo mà tôi được đọc nhiều sách báo Việt – phần
lớn mượn của toà soạn Bách Khoa – và biết được ít nhiều tình
hình văn học miền Nam.
Dưới đây tôi chỉ ghi sơ vài nét, vì không
có đủ tài liệu, và nếu có thì cũng không có đủ sức khoẻ, thì giờ để đọc hết rồi
phân tích kĩ được.
TRÀO LƯU
Trong thời kháng Pháp, văn học ở thành
(vùng bị chiếm) từ Bắc tới Nam không có gì cả. Hầu hết các nhà văn có tên tuổi
thời Tiền chiến ở Bắc đều theo kháng chiến. Tôi không biết họ sáng tác được
những gì, có lẽ chỉ có được một số bút kí và ít bài thơ hô hào diệt địch, nhiệt
tâm tuy nhiều nhưng nghệ thuật kém thời tiền chiến.
Ở miền Nam trong thời kháng Pháp, Lý Văm
Sâm viết được vài tiểu thuyết rồi cũng ra bưng. Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc,
Tam Ích, Thiên Giang cũng viết ít bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành
vài tập mỏng; Triều Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm. Hồ Hữu Tường năm 1945
còn ở Hà Nội cho ra được một tập mỏng về Văn hóa Việt Nam. Khi vào Nam ông cho
ra tờ Phương Đông chủ trương trung lập và một vài cuốn trào
phúng Trung Cộng, Nga.
Một số nhà văn có tâm huyết muốn nâng cao
tinh thần dân chúng, chép lại các cuộc vận động chống Pháp thời trước như Nam
bộ kháng chiến, Đề Thám, Bãi Sậy, Phan Bội Châu, Phan Đình Phúng, Phan Chu
Trinh… Hầu hết các báo hằng ngày đều có cảm tình với Cách mạng.
Vào khoảng 1950, nhà P. Văn Tươi cho ra
loại sách “Học làm người” mục đích là luyện tinh thần mới, tin ở sự tiến bộ của
thanh niên để chuẩn bị việc kiến thiết quốc gia sau khi chiến tranh chấm dứt.
Loại sách đó trước thế chiến cũng đã có người viết như Hoàng Đạo, Lê Văn Siêu…
Sau Hiệp định Genève, một số nhà văn ở Bắc
di cư vào Nam, ra báo, mở nhà xuất bản, được chính quyền trợ cấp hoặc giúp
phương tiện, nhờ vậy văn nghệ miền Nam khởi sắc. Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo,
Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền… có một số tác phẩm khá.
Hồi đó ai cũng ham biết văn minh Mĩ, người
ta đua nhau học tiếng Mĩ và vài nhà xuất bản được Mĩ trợ cấp, dịch vội vàng
sách sách văn học, chính trị Mĩ, nhất là tiểu thuyết Mĩ. Không dịch phẩm nào có
giá trị, và chỉ được ít năm, phong trào đó chìm lần.
Vào khoảng 1960, dân chúng bắt đầu ghét
chính sách Ngô Đình Diệm, ghét lây cả Mĩ, nên những tác phẩm chống cộng và
tuyên truyền cho văn hóa Mĩ bị tẩy chay; không ai bảo ai mà những sách báo của
các cơ quan văn hóa Mĩ, Diệm, dù in rất đẹp, bán rất rẻ cũng không ai mua.
Người ta trở lại thích sách báo Pháp và báo
chí đua nhau giới thiệu phong trào hiện sinh cùng phong trào tiểu thuyết mới
cũng gọi là phản tiểu thuyết (anti-roman) của Pháp.
Những tác phẩm của Sarte, Camus, Kafka được
thanh niên hoan nghênh, nhưng hình như không có tiểu thuyết nào của Alain Robbe
Grillet, Michel Butor được dịch cả, loại tiểu thuyết này mới thì mới thật,
nhưng không hấp dẫn vì không có truyện. Vả lại chính phong trào tiểu thuyết mới
cũng chỉ ồn ào được ít năm, khi nó qua nước mình thì ở Pháp không còn ai nhắc
tới. Các tiểu thuyết gia của mình nói tới họ thì nhiều, thích họ thì chắc không
và tuyệt nhiên không có nhà nào theo kĩ thuật của họ.
Sau năm sáu năm hăng say tìm hiểu cái mới
của phương Tây, chúng ta thấy văn minh của họ lợi cho ta thì ít mà hại thì
nhiều: thanh niên thành thị truỵ lạc vì loại phim cao bồi, nhạc jazz và tạp chí Playboy,
mất lí tưởng, chỉ nghĩ tới hưởng lạc, mà non sông thì bị tàn phá vì bị tranh
chấp giữa bọn thực dân Đông, Tây; dân tình thì lầm than điêu đứng; chỉ có bọn
làm giàu trên xương máu đồng bào là sống phè phỡn, rất chướng mắt. Do đó lần
lần nổi lên phong trào về nguồn, ôn lại triết lí, nhân sinh quan của cổ nhân,
một nhân sinh quan bao dung, nhân ái, chứ không phải thứ nhân sinh quan “cạnh
tranh, chém nhau để sinh tồn” của phương Tây.
Loại sách khảo cổ bồng bột phát triển. Hầu
hết là những bản dịch sách Hán của tiền nhân:Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú, Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn, Việt sử
tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Hoàng Lê nhất thống chí, Công
dư tiệp kí, Đại Nam nhất thống chí (trên chục cuốn) v.v…
Loại sách đó khó bán, nên cơ quan văn hóa
chính phủđảm nhiệm, tư nhân chỉ có vài ba nhà khảo về Nhà Nguyễn trong Nam, Tây
Sơn, Ca trù đời Lê, Nguyễn… Một số khá đông nhà văn gần như cùng một lúc soạn
các địa phương chí từ Bến Hải tới Bạc Liêu: Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Biên
Hoà, Vĩnh Long, Châu Đốc, Cao Lãnh, Cần Thơ, Bạc Liêu… (coiMột hiện tượng
mới trong Mấy vấn đề xây dựng văn hóa của tôi)
Một số học giả, văn nhân, nghệ sĩ hô hào
chống chiến tranh, không theo Mĩ, không theo Nga, không nhờ cậy ai, tìm lối
sống riêng của mình, sống thiếu thốn cũng được miễn là hoà thuận, đoàn kết với
nhau, tương đối bình đẳng, không ai giàu quá, không ai nghèo quá.
Từ 1965 đến 1975, hễ gặp cơ hội là tôi nêu
chủ trương đó ra, như trong cuốn Một niềm tin(1965), trong bài tựa
cuốn Bài học Israël, trong bài báo Vài suy tư về phong trào
về nguồn(Bách Khoa -1972), và trong đoạn kết loạt bài Báo
cáo số1 và số 2 của nhóm La Mã(Bách Khoa – 1975).
Nhưng cho tới bây giờ dân tộc nhược tiểu vẫn mắc vào sự tranh chấp của hai
khối, thoát được khối này lại nhập vào khối khác. Nhân loại sẽ còn chịu rất
nhiều xáo trộn, chưa biết bao giờ mới ổn định được, và những dân tộc nhược tiểu
chưa thể sống theo ý mình được!
KHÔNG CÓ NHÓM NÀO NỔI BẬT
Trong
hai chục năm sau Hiệp định Genève, văn học miền Nam phát triển khá
mạnh. Về lượng chúng ta bỏ các thời trước, về phẩm không phải là kém, nhưng có
điểm đặc biệt này là không có một nhóm nào có đủ uy tín, gây ảnh hưởng khá lớn
trong dân chúng như nhómNam Phong những năm hai mươi (1920-29) và
nhóm Tự lực những năm ba mươi (1932-1939).
Tại thiếu người có tài vượt hẳn số đông
chăng? Hay tại tình hình xã hội không có gì kích thích hạng người có tài? Từ
năm 1921 đến đầu thế chiến thứ nhì, xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nông
nghiệp qua chế độ tư bản, và văn nghệ làm chất xúc tác cho những chuyển biến
đó; còn từ Thế chiến tới 1975, xã hội miền Nam chỉ lẩn quẩn trong chế độ tư
bản, chưa tới giai đoạn kĩ thuật phát triển mạnh, vì thế mà văn nghệ không thay
đổi được mạnh chăng? Tại miền Bắc, tuy biến chuyển mạnh nhưng cũng không có
nhóm nào đủ uy tín để lãnh đạo. Mà ở Nga, Trung Quốc thì cũng vậy, vì ở các xã
hội đó, một cá nhân hay một nhóm không sao vượt hẳn lên được.
Trong bài Kỉ nguyên tiêu thụ và
nghề viết văn (Bách Khoa đầu năm 1973), tôi viết:
“Một anh bạn tôi viết tiểu thuyết, mới đây
phàn nàn rằng thời này tiểu thuyết gia nào may mắn lắm cũng chỉ nổi danh được
trong dăm năm rồi thì chìm, không ai được như Nhất Linh hoặc Khái Hưng giữ
tiếng tăm và địa vị được tới khi chết, mà kĩ thuật của họ đâu phải kém Nhất
Linh và Khái Hưng.
Tôi đáp:
- Anh nhận xét đúng lắm. Nhưng thời nay
tiểu thuyết để độc giả tiêu thụ, nghĩa là để bán, chứ đâu phải để cầu danh, lưu
danh. Ở Pháp từ năm 1893, anh em Gouncourt cũng đã phàn nàn: “Này nay phải sản
xuất một kiệt tác mỗi năm thì người ta mới khỏi quên mình”.
Theo Soljenitsyne trong cuốn Khu
ung thư, ở Nga cũng có hiện tượng như vậy. Số nhà văn ngày nay đông quá, có
người vừa mở xong một con đường tưởng là mới, đã có người mở con đường khác rồi.
Văn đàn đông nghẹt không sao đủ chỗ đứng cho mọi người. Cho nên người nào mới
chen chân được một chỗ đứng thì người sau lại lấn mất. Có phải như vậy mà ngày
nay khắp thế giới không thể có được một nhà văn hay một nhóm làm lãnh đạo được?
Mà nước ta cũng ở trong tình trạng đó.
VỀ TIỂU THUYẾT
Mấy năm đầu sau Hiệp định Genève, có một
nhóm nhà văn trẻ, nhóm Sáng Tạo do Mai Thảo khởi xướng, muốn
phát động một phong trào mới thay thế phong trào Tự lực Văn đoàn,
nhưng chỉ được một số ít hưởng ứng, rồi sau ít năm, chìm luôn; vì họ lớn tiếng
hô hào chứ không có ý gì mới. Trong nhóm đó chỉ có Mai Thảo là rán tự tạo ra
một bút pháp riêng, như trên tôi đã nói, nhưng bị nhiều người chê là cầu kì;
Doãn Quốc Sĩ viết tự nhiên hơn, có tâm tư nhiệt huyết; Thanh Tâm Tuyền viết
được một vài tập mỏng diễn tả tâm trạng của thanh niên; Nguyễn Mạnh Côn có vài
cuốn chống cộng, về sau khá nổi tiếng về tiểu thuyết kì dị xây dựng trên thuyết
tương đối của Einstein.
Nổi tiếng nhất là Võ Phiến, một cây bút độc
lập ai cũng nhận là có tài phân tích tâm lí, “chẻ sợi tóc là tư”, và tài tả
cảnh vật. Những tạp bút của ông được nhiều người thích hơn, Đông Hồ khen là
nhất miền Nam. Về loại đó, ông sâu sắc như Nguyễn Tuân mà tự nhiên hơn, dí dỏm
hơn, đề tài phong phú hơn, đa dạng hơn, nhưng ông cũng có cái tật hay gợi đến
vấn đề sinh lí.
Vũ Hạnh, ngược lại đề cao kháng chiến, có
vài truyện linh động, mạnh mẽ.
Truyện Dương Nghiễm Mậu có màu đen tối,
cũng sâu sắc; Lê Tất Điều vui mà hời hợt.
Nhật Tiến chuyên viết về những trẻ cô độc,
những kẻ nghèo khổ, có bút pháp của nhóm Tự lực, viết dễ dàng và
nhiều, mở nhà xuất bản Huyền Trân, cùng với vợ ra tờ Thiếu nhi. Có
lí tưởng, thương người nghèo khổ, giọng cảm động.
Khoảng 1970, xuất hiện vài tiểu thuyết gia
trẻ có tương lai: Hoàng Ngọc Tuấn, Kinh Dương Vương, Nguyễn Mộng Giác (có tài
xây dựng truyện, kể chuyện hấp dẫn).
Hầu hết những nhà kể trên đều tả xã hội
thành thị và đời sống, tâm trạng thanh niên ở thành hoặc ở ngày mặt trận.
Tả về đời sống nông thôn có Sơn Nam và Lê
Xuyên. Sơn Nam không nổi tiếng về tiểu thuyết mà về kí sự. Tiểu thuyết Lê Xuyên
dùng nhiều đối thoại và ngôn ngữ của nông dân tới nhàm, lại có tính cách khiêu
dâm mà không có tình thương nông dân, không có giá trị gì cả.
Những tiểu thuyết gia lớp trước như Bình
Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du vẫn giữ được phong độ. Võ Hồng sáng tác
khá mạnh, tâm hồn và bút pháp khả ái.
Điểm đáng kể nhất là phái nữ xuất hiện
nhiều cây bút có tài hơn hẳn phái nữ thời tiền chiến, như Tuý Hồng tả khéo,
nhiều hình ảnh mới, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng có giọng trí thức, Thuỵ Vũ,
Nhã Ca (làm cả thơ), Minh Quân (chuyên về truyện trẻ em).
- Về thơ, các nhà lớp cũ như
Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Đông Hồ, Đông Xuyên vẫn sáng tác đều
đều, vẫn còn độc giả. Lớp trẻ xuất hiện khá đông, mỗi năm trung bình, cả miền
Nam có được trên mười thi phẩm ra mắt độc giả. Đa số các nhà đó chỉ nổi tiếng
một thời như Nguyên Sa, Bùi Giáng, Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang, Quách Thoại,
Tường Linh, Huy Lực, Tạ Tị, Tuệ Mai… Họ cảm xúc mạnh, có nhiều hình ảnh mới
nhưng sáng tác không đều, không nhiều, hồn thơ mau cạn.
- Về biên khảo, có nhiều công
trình đáng kể hơn thời trước, sâu sắc hơn: chính tả có Lê Ngọc Trụ; ngữ pháp có
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê; văn hoá Trung Hoa có Giản Chi, Nguyễn Hiến
Lê, Nguyễn Kim Định[13],
Nguyễn Duy Cần; sử miền Nam có Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa), Phan
Khoang (viết về nhà Nguyễn trong Nam), Nguyễn Phương (về Tây Sơn), Đông Hồ;
điển lễ và ca trù Việt Nam có Đỗ Bằng Đoàn; phong tục Việt Nam có Nhất Thanh,
Toan Ánh lượng nhiều và phẩm kém...[14]
- Mỗi tôn giáo có được vài cây bút nổi
tiếng: Nhất Hạnh trong Phật giáo, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn
Trung trong công giáo đều lưu tâm đến các vấn đề xã hội, có tinh thần tranh
đấu, có bút pháp sáng sủa, cảm động. Viết nhiều nhất là Nhất Hạnh: sáu bảy tác
phẩm, trong số đó có một tập thơ hô hào hoà bình. Ông muốn cải cách Phật giáo
cho hợp thời đại, nhưng Phật giáo lo đối phó với Diệm, rồi với Thiệu, củng cố
ảnh hưởng và địa vị nên chỉ có một số tín đồ trí thức chú ý tới chủ trương của
ông; nhưng ông được thanh niên quí mến. Bị chính quyền nghi kị, ông phải qua Âu
Mĩ vận động cho hoà bình, hiện còn ở bên đó.
Ông sáng lập nhà xuất bản Lá Bối, giao cho
thầy Từ Mẫn (Võ Thắng Tiết) điều khiển. Có thời chính quyền không cho in những
tác phẩm mang tên ông, ông phải kí tên khác.
Trường Thanh niên phụng sự xã hội cũng là
một sáng kiến của ông.
TÔI CÓ CHUYÊN KHÔNG?
Năm 1954, mới lên Sài Gòn, tôi định viết độ
mươi năm, khoảng vài ba chục cuốn nữa, không ngờ viết luôn cho tới 1975, rồi
tới bây giờ, và số tác phẩm viết được đã gấp ba số đự định.
Từ khi mới cầm bút, tôi vẫn thích viết Du
kí, vẫn mong đi dọc đường Quốc lộ số 1, ghi chép những cảnh đẹp, tục lạ, cổ
tích từ Nam ra Bắc, mà vì chiến tranh, tôi mới tới được Qui Nhơn rồi phải bỏ
dở.
Hồi còn ở Đại học, tôi đã thích đời Nguyễn
Công Trứ, định chép tiểu sử của ông, mộng đó cũng không thực hiện được vì thiếu
tài liệu và vì sống ở Nam, không có dịp tới những nơi có di tích của ông.
Trái lại, có nhiều môn, nhiều đề tài tôi
không tính viết mà lại viết, viết nhiều nữa.
Như trên tôi đã nói, do ngẫu nhiên mà tôi
hợp tác với tờ Bách Khoa rồi viết về thời sự, về kinh tế, về
các vấn đề thời đại, và khi đã bắt đầu viết rồi thì thấy thích.
Sau khi cho ra hai cuốn Để hiểu văn
phạm, và Nho giáo một triết lý chính trị, tôi định bụng không
bao giờ xông vào hai khu vực ít hứng thú và mệt óc đó nữa. Vậy mà do thời cuộc
đưa đẩy, tôi làm quen được với hai ông Trương Văn Chình và Giản Chi Nguyễn Hữu
Văn, từ Bắc di cư vô, rồi viết chung với hai ông, nhờ vậy đóng góp được ít
nhiều về hai môn đó. Vì viết nhiều đề tài, nên có người trách tôi là không
chuyên.
Nếu hiểu chuyên là suốt đời chỉ khảo về một
môn, như Lê Ngọc Trụ về chính tả, Trương Văn Chình về ngữ pháp thì quả là tôi
không chuyên, mà tôi cũng không thích chuyên như vậy.
Tôi có một mục đích rõ rệt là phục vụ trong
việc mở mang kiến thức thanh niên, tôi có óc tò mò, sách nào hay tôi cũng muốn
đọc, môn nào cũng muốn biết, và hễ thấy đề tài nào lí thú, có ích thì tìm hiểu
rồi truyền điều tôi hiểu cho độc giả. Đó là sự nhất trí trong tất cả
các trứ tác của tôi, từ sách dạy cách học cho học sinh tới các công trình
khảo cứu về văn học, triết học. Sự ngẫu nhiên đưa tôi tới hướng nào, khiến tôi
bước vào môn nào thì tôi theo hướng đó, viết về môn đó.
Nhưng có điều này ít độc giả nhận thấy.
Trong mỗi môn chính, mới đầu tôi viết một hai tác phẩm dễ hoặc khái quát, rồi ít
lâu sau tôi trở lại, mở rộng thêm, đào sâu hơn. Như vậy chính là do khuynh
hướng tự học của tôi: biết cái cốt yếu đã rồi sau đi vào chi tiết. Và đó cũng
là một sự nhất trí trong cách tôi làm việc.
Thí dụ như:
- Môn Tổ chức công việc, tôi
viết về qui tắc chung trong cuốn Tổ chức công việc theo khoa học,
rồi một năm sau hoặc dăm bảy năm sau tôi áp dụng vào việc trong đời, đi vào chi
tiết hơn trong các cuốn: Kim chỉ nam của học sinh, Tổ chức gia đình, Tổ
chức công việc làm ăn. Như vậy là vấn đề đã được nới rộng.
- Về Luyện văn, cuốn II và III
khó hơn cuốn I, bộ Hương sắc trong vườn văn lại sâu sắc hơn bộ Luyện
văn.
- Về Văn học Trung Quốc, sự mở
rộng lần lần từng đợt còn rõ rệt hơn nữa.
Mới đầu là bộ Đại cương Văn học sử
Trung Quốc từ thượng cổ tới cách mạnh Tân Hợi, vào khoảng 1925.
Sau tôi đào sâu văn học cổ Trung Quốc. Đề
tài đó mênh mông, một đời người không thể làm hết được. Riêng về thơ Đường đã
có nhiều người giới thiệu: Đường thi, Thi văn bình chúcủa Ngô Tất
Tố, Đường thi của Trần Trọng Kim, Đường thi trích dịch của
Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (in ronéo) và nhiều tập mỏng khác của dăm nhà
khác nữa. Chưa ai viết về Tống thi cả.
Thơ không phải là sở trường của tôi mà cổ
văn Trung Quốc chỉ được Nam Phong giới thiệu độ mươi bài, cho nên
tôi nghiên cứu về cổ văn. Năm 1966, cho xuất bản bộ Cổ văn Trung Quốc,
cuốn đầu tiên trong loại đó ở nước nhà; tiếp theo tôi soạn chung với ông Giản
Chi hai bộ Chiến Quốc sách và Sử kí của Tư Mã Thiên.
Sau cùng tôi viết về Văn học Trung Quốc hiện đại, mà trong bộ Đại
cương văn học sử Trung Quốc tôi chỉ phát qua trong chương cuối.
Nên kể thêm Tô Đông Pha, một
cuốn thuộc loại tiểu sử danh nhân nhưng cũng cho độc giả biết được ít nhiều về
thi từ và cổ văn đời Tống, vì trong cuốn đó, ngoài Tô Đông Pha tôi giới thiệu
cả cha và em của Tô (Tô Tuân, Tô Triệt), Âu Dương Tu, Vương An Thạch…
Nếu kể cả bản dịch Nhân sinh quan
và thơ văn Trung Hoa nguyên văn của Lâm Ngữ Đường, thì về văn học
Trung Quốc tôi đã góp được khoảng 3.500 trang, bảy nhan đề.
- Về Triết học Trung Quốc cũng
vậy, mỗi ngày tôi đào sâu thêm. Mới đầu là Nho giáo một triết lí chính
trị, một cuốn tổng quát về tư tưởng chính trị của Khổng, Mạnh; rồi tới Đại
cương triết học Trung Quốc, một bộ cũng tổng quát về triết học Trung Hoa từ
thượng cổ tới cuối Thanh.
Sau tôi chuyên về triết học thời Tiên Tần,
khảo cứu đời sống và tư tưởng từng triết gia một. Đầu năm 1975, tôi đã cho ra
được Nhà giáo họ Khổng, Mạnh Tử, Liệt Tử và Dương Tử, đã viết xong
mà chưa in Trang Tử, khởi sự viết chung với Giản Chi về Tuân
Tử và Hàn Phithì miền Nam được giải phóng.
Từ năm 1976 tới nay, tôi đã viết xong Lão
Tử, Mặc học, Khổng Tử[15], Luận
ngữ, Kinh Dịch[16],
như đã nói.
Nếu chỉ kể các tác phẩm đã in thì tới đầu
1975, về triết học Trung Hoa tôi đã góp được khoảng 2.100 trang; nếu kể thêm
những tập tôi đã viết xong mà chưa in nữa thì tới nay, tổng cộng được 2.100 đã
in với 2.900 trang chưa in, là 5.000 trang.
Vậy Cổ học Trung Hoa tôi đã góp được về văn
học 3.500 trang, về triết học khoảng 5.000 trang. Nếu chỉ kể những tác phẩm đã
in thì cũng được 5.600 trang: 3.500 văn, 2.100 triết. Rõ ràng là tôi chuyên về
môn đó. Nhà văn Võ Phiến, trong bài Nhân đọc bản thảo cuốn Nguyễn Hiến
Lê của Châu Hải Kỳ[17] (Bách
Khoa số 426 ngày 20.4.75) bảo: “Từ trước tới nay chưa có học giả nào,
cựu học và tân học, mà có công giới thiệu Cổ học Trung Hoa bằng ông Nguyễn Hiến
Lê”.
Tóm lại, hồi mới cầm bút, tôi chỉ có mục
đích viết về trí, đức dục thanh niên; sau lần lần, vì sở thích, tôi hướng về cổ
học Trung Hoa, mỗi ngày một đào sâu hơn. Tôi cho đó là sự diễn tiến tự nhiên
trong việc tự học.
Trong trên ba chục năm trứ tác (kể tới năm
nay), tính ra tôi đã bỏ hơn mười năm (khoảng 1/3 thời giờ) vào hai chục tác
phẩm Cổ học (7 văn học, 13 triết học).
Số hai chục tác phẩm, khoảng 8.500 trang
sách đó không phải là ít, nhưng chỉ vì mới ra mắt độc giả được hai phần ba,
nhất là vì loại đó kén độc giả, in ít, phổ biến hẹp, chìm trong số trên tám
chục tác phẩm đủ loại cho thanh niên phổ biến rộng trong mọi giới, cho nên mới
có độc giả trách tôi là không chuyên[18].
Nếu tôi chỉ chuyên về Cổ học Trung Hoa thôi
thì chỉ nội số tác phẩm của tôi đã xuất bản trong loại đó cũng đủ để cho mọi
người cho tôi là chuyên rồi; nhưng thiếu phần tôi viết cho thanh niên thì ảnh
hưởng của tôi trong xã hội không được bao, mà chưa chắc tôi đã in được những
tác phẩm về cổ học: Nhà nào chịu chuyên xuất bản loại đó? Mà tôi muốn tự in lấy
thì tiền đâu? Bộ Đại cương triết học Trung Quốc[19] chẳng
hạn tôi phải hùn vốn với nhà Cảo Thơm; còn bộ Văn học Trung Quốc hiện
đại, tôi phải xuất vốn in lấy 2.000 bộ mà năm năm sau, ngày Sài Gòn được giải phóng, chỉ mới bán
được trên ngàn bộ vừa đủ vốn.
[2] Đoạn: “hàng ngày bái vĩ nhân như Emerson
còn là một thứ thuốc nó tẩy sạch cái bệnh tự tôn ở mắt ta đi…”, trong Để
tôi đọc lại in là: “Lòng sùng bài vĩ nhân (như Emerson nói) còn là
“một thứ thuốc nó tẩy sạch các bệnh tự tôn trong mắt ta đi...”
[3] Tiểu sử ông bà La Fayette in trong cuốn Ý
chí sắt đá (Thanh Tân - 1971); tiểu sử ông bà Curie in trong cuốn Gương
hi sinh (NHL – 1962).
[4] Năm 1990 in chung với Nguyễn Q. Thắng có
tựa là Chúng tôi tập viết tiếng Việt (Nxb Long An – 1990. BT).
[7] Đây tôi chỉ kể những cuốn viết tới ngày
giải phóng. Từ 1975 đến 1980 tôi còn viết thêm được nhiều cuốn nữa.
[9] Về tiểu sử Phạm Ngọc Thảo, xem tiểu sử
trong Từ điển danh nhân lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992.
(BT).
[10] Trong ĐVVCT in là : “và hiện nay các số
báo Bách Khoa cũ càng ngày càng có giá: một bộ cũ, rách, từ đầu đến cuối, thiếu
độ mười số, bán được 800đ (400.000đ cũ)”. (Goldfish)
[12] ĐVVCT ghi: “…ba tháng sau chưa ra được số
nhì; rồi
Sài Gòn giải phóng, và báo đình bản
luôn”. (Goldfish).
[18] Trái lại, đa số độc giả cho rằng tôi
chuyên về loại sách Học làm người. Năm 1979, vào một tiệm hớt tóc ở đường
Trương Tấn Bửu cũ, thì cả bốn người trong tiệm (hai người thợ và hai người
khách mà một là cán bộ ở Bắc mới vô) đều hỏi tôi còn viết loại sách Học làm
người nữa không. Ngay bây giờ - 1982 – cũng vậy, vào cơ quan nào hễ có người
biết tôi thì cũng hỏi câu đó.
[19] Đại cương triết học Trung Quốc,
1500 trang khổ 14.5 x 20.5 cm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992 (BT).
TÔI TỰ NHẬN ĐỊNH
TÁC PHẨM CỦA TÔI
Đã có nhiều bạn văn
hỏi tôi thích tác phẩm nào của tôi nhất. Tôi đáp:
- Tuỳ từng loại, mà cũng tuỳ tuổi nữa, sự
nhận định về già khác với thời trung niên. Xét chung thì tôi thích cuốn nào
trong đó tôi gởi gấm được nhiều tâm tình, có được vài ý nghĩ tôi cho là tương
đối mới ở nước mình, hoặc có được ít đoạn tôi đắc ý về bút pháp.
Trong chương này tôi hãy ghi qua sở thích
của độc giả rồi đưa nhận định của tôi về một số tác phẩm đã xuất bản; những tập
chưa xuất bản, tôi sẽ để lại một chương sau:
SỞ THÍCH CỦA ĐỘC GIẢ
Khoảng mười năm trước, một nhà văn đã giới
thiệu tôi với độc giả một tờ báo định kì rằng ít nhất đã có hai thế hệ đọc sách
của tôi. Tới nay thì có thể nói là đã có ba thế hệ rồi: thế hệ những người trạc
tuổi tôi, thế hệ con những người đó, những học trò của tôi, và thế hệ con học
trò cũ của tôi hiện nay đã lên đại học.
Vì tôi viết cho mọi lớp tuổi từ bé (cuốn Bí
mật dầu lửa) tới già, lại viết cho cả giới bình dân (như thợ thuyền)
lẫn với trí thức tân học và cựu học. Cho nên không thể kể được một cuốn nào mà
mọi giới đều thích.
Xét chung thì giới bình dân và thanh niên
chỉ thích những cuốn trong loại Học làm người; giới trí thức mới
đọc loại biên khảo và chỉ một số ít giáo sư mới đọc những cuốn như Khảo
luận về ngữ pháp Việt Nam, Một niềm tin, Đại cương
triết học Trung Quốc.
Một số khá đông, bắt đầu đọc tôi từ hồi ở
trung học rồi thành độc giả trung thành, hai chục năm sau vẫn còn tìm tác phẩm
của tôi để đọc; nhưng tôi chắc trong nước chỉ có độ bốn năm người có đủ 100
cuốn tôi đã xuất bản; và trong bốn năm người đó may lắm được vài người đọc qua
loa, hết những cuốn đó.
Những cuốn bán chạy nhất thuộc loại Học
làm người, như Đắc nhân tâm, Quảng gánh lo, Sống 24 giời một ngày…,
và loại chỉ cho học sinh, thanh niên cách tự học như Kim chỉ nam của
học sinh, Tự học một nhu cầu của thời đại, Muốn giỏi
toán hình học, đại số…[1]
Những cuốn ế nhất là Khảo luận ngữ
pháp Việt Nam, Để hiểu văn phạm, Một niềm tin,Văn
học Trung Quốc hiện đại.
LOẠI HỌC LÀM NGƯỜI
Dưới đây tôi xét về loại Học làm
người trước hết.
Đã có lần tôi nói với thi sĩ Bàng Bá Lân:
“Những cuốn trong loại đó (của tôi) chẳng qua cũng chỉ để cho thanh niên đọc”.
Lời đó làm cho một độc giả của tôi, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc “rất bực mình”. Trong
bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách Khoa số 436,
đã dẫn), ông viết:
“Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai
chối cãi giá trị của những Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng
Tháp Mười, Đại cương triết học Trung Quốc, Ngữ pháp Việt Nam… và những Chiến
tranh và hoà bình, Sử kí Tư Mã Thiên, Chiến Quốc sách… Những tác phẩm
đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp
một phần đáng kể cho nền văn hoá miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan
trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ ông
viết nhằm mục đích giáo dục thanh thiếu niên, hướng dẫn họ trong sự tự huấn
luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của hoc sinh, Tự học để thành công,
Tương lại trong tay ta, Rèn nghị lực…, và nhất là bộ Gương danh
nhân của ông. Mà họ là ai? Là những thanh niên thất chí bán hàng xén
như tôi thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh chín NS, là một giáo viên tiểu
học, một y tá hương thôn, một thơ kí nghèo trong một công tư sở nào đó… Họ là
những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì hoàn cảnh mà
lở dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây giờ, một xã hội có
vốn liếng hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn sách đó, trước mắt họ mở
ra những cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và dù họ có không
“thành công” nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao, ít ra là về mặt tinh
thần”[2].
Cuối cùng ông Đỗ Hồng Ngọc còn bảo ngay
André Maurois tám chục tuổi còn viết tập Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi kia
mà.
Tôi cũng nhận rằng nhờ những cuốn loại Học
làm người mà tôi được nhiều người biết danh, nhiều thanh niên kính
mến, và tôi được coi là “một nhà giáo dục quần chúng”, như một nhà văn đã nói.
Một độc giả cho tôi hay một gia đình ông quen, từ cha tới con trai, con gái lớn
nhỏ - nhỏ nhất học lớp năm[3] tức
lớp trên lớp mẫu giáo – đều mua sách của tôi; người cha được xong còn trích
nhiều câu viết lên giấy dùng làm châm ngôn lồng dưới kiếng trên bàn học của
con. Ông ta thích nhất “tấm lòng thiết tha của tôi đối với truyền thống dân tộc
cùng với thái độ giản dị khoan hoà, mẫu mực của tôi”. Ông bảo tôi đã dung hoà
được tinh thần đạo học phương Đông với những kiến thức và khoa học thực nghiệm
của phương Tây, điều đó rất hiếm.
Những cuốn đó đều viết với một giọng thành
thực, thân mật, với nhiệt tâm giúp đỡ thanh niên bằng những kinh nghiệm sống
của bản thân tôi. Ngày nay, ngồi buồn thỉnh thoảng còn đọc lại vài trang trong
những cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Thế hệ ngày mai, Luyện
lý trí (mà tôi đã giới thiệu ở chương XXVI), nhất là cuốn Tương
lai trong tay ta mà vẫn thấy có nhiều chương hấp dẫn, như: Ai
cũng có thể bất hủ (ch.IV), Nghỉ ngơi và tiêu tiền(ch.V), Để
giữ gìn hạnh phúc trong hôn nhân (ch.IX), Lời khuyên riêng các
bạn gái(ch.X), Dự bị cho tuổi già (ch.XI). Suốt đời tôi,
tôi đã theo đúng những qui tắc tôi nêu trong cuốn đó về cách làm việc và tiêu
tiền. Tôi đã làm rồi mới nói.
Ông Giản Chi bảo, khi đọc xong cuốn đó ông
bỗng hiểu hai câu thơ này của một thi sĩ đời Thanh:
Nhân sự tự sinh kim nhật ý
Hàn hoa chỉ tác khứ niên hương.
Chính ông dịch:
Ý mới rút từ kinh nghiệm cũ
Mai già lưu lại chút hương xưa
Cuốn đó có thể coi là một tập gồm nhiều cảo
luận đắc ý của tôi. Ba độc giả không quen biết nhau đều thích cuốn đó vì các
cuốn khác ở nước mình viết về tổ chức đời sống đều phỏng theo sách Pháp, Anh,
duy cuốn của tôi có tính cách Việt Nam. Một số người già cho rằng tôi là nhà
văn Việt Nam độc nhất dung hoà được hai nền văn minh Đông, Tây một cách tốt
đẹp.
Tôi cũng vừa lòng về một loạt trên chục
cuốn loại Gương danh nhân mà độc giả nào cũng khen và ở trên
tôi cũng nhắc tới. Trong loại đó tôi đã thực hiện được một cách giáo hoá thanh
niên tôi ấp ủ từ hồi mới cầm bút.
Mới đầu tôi viết những tiểu sử ngắn độ vài
chục trang (trong cuốn Gương danh nhân), rồi lần lần tôi viết dài
hơn, bốn năm chục trang (như trong Cuộc đời ngoại hạng), sau cùng
dài trên dưới hai trăm trang và tôi phải để riêng một cuốn cho mỗi nhà
(Einstein, Tô Đông Pha…).
Trong số trên mười tác phẩm đó tôi thích
nhất Tô Đông Pha, Cuộc đời ngoại hạng, Ý chí
sắt đá.
Những nhân vật kì dị thì phải kể Huyền
Trang, Gandhi, Lincoln, ba tâm hồn cao cả vào bậc nhất cổ kim; H. Keller kiên
nhẫn lạ lùng: đui, điếc từ bé mà học hết đại học, viết trên mười cuốn sách, lại
diễn thuyết khắp Đông, Tây nữa; E. Lawrence một chính khách mạo hiểm, giữ chữ
tín, đi tìm sự tuyệt đối, khi thất bại thì tìm đủ cách để tự huỷ hoại.
Nhưng làm cho tôi và nhiều độc giả cảm động
nhất là đời của hai người đàn bà: bà La Fayette suốt đời hy sinh cho chồng; và
bà Curie tận tuỵ với chồng và khoa học, sống đơn giản như người thời cổ, tuyệt
nhiên không nghĩ đến danh lợi, đến bản thân. Cuộc hôn nhân của ông bà Curie
thành công nhất mà tôi được biết, thành công cho ông bà và cả cho nhân loại.
Xét chung thì các nhà khoa học suốt đời cặm
cụi nghiên cứu như Fabre, “thi sĩ của côn trùng”, sướng nhất, rồi tới những
nghệ sĩ bỏ hết tiền của, tâm trí để tìm cái đẹp như Disney. Khổ nhất thường là
những nhà văn như Balzac, Maugham, Dostoiesvki, Tolstoi… Nhưng chua xót nhất là
bác sĩ Semmelweiss: ông hoá điên rồi tự tử, không ai tin thuyết của ông (bệnh
sản hậu do vi trùng gây ra) mà cứ để cho phụ nữ châu Âu chết như rạ.
Vậy tôi đã không phí thì giờ để viết loại Học
làm người, và ông Đỗ Hồng Ngọc đã quá mến tôi mới rất bực mình khi tôi xếp
những cuốn đó vào hàng thứ yếu.
Tuy nhiên, André Maurois đã viết nhiều cuốn
giáo dục thanh niên, bán rất chạy như Un Art de vivre, Lettres à
l’inconnue (bản dịch của tôi: Thư gởi người đàn bà không quen biết),Cours
de bonheur conjural, Lettre ouverte à un jeune homme sur la conduite de la vie(bản
dịch của tôi: Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi), Dialogues sur la commandement,
được người Pháp coi là nhà văn luân lý (Écrivain moraliste) của thời đại, một
“honnête homme” (chính nhân quân tử) của phương Tây; mà về già, khi ôn lại cuộc
đời viết văn của ông trong cuốn Portrait d’un ami qui s’appelait moi,
ông không hề nhắc tới những cuốn kể trên, không coi trọng công việc hướng dẫn,
khuyên nhủ thanh niên đó, mà lại thích nhất những cuốn Disraëli (kể
tình thương yêu, quí mến lẫn nhau của ông bà Disraëli, một chính trị gia đại
tài của Anh dưới triều đại nữ hoàng Victoria), truyện Climats (một
tiểu thuyết tâm lý), những tiểu sử Lélia (George Sand), Olympio (Victor
Hugo)[4],
Proust, Alain…; những cuốn sử Anh, Hoa Kỳ, Pháp; còn các nhà phê bình Pháp thì
hầu hết đều cũng nhận rằng những bộ tiểu sử Lélia, Olympio, Balzac, Alexandre
Dumas của ông là phần chính trong sự nghiệp của ông, viết rất công phu, đọc rất
thú, và ghi lại nhiều nét của xã hội Pháp thế kỷ XIX, gần như bộ Comédie
humaine của Balzac, lại có một số ít nhà phê bình thích những truyện
ngắn không tưởng, mỉa đời của ông như Au pays des Articoles, hoặc
quái dị như Le peseur d’âme, La machine à lire les pensées.
Vậy thì việc nhận định văn học bao giờ cũng
tuỳ sở thích của mỗi người, có khi của mỗi thời nữa.
LOẠI VĂN HỌC
Điều
chắc chắn là tôi có xu hướng về văn học, thích những
cuốn viết về nghệ thuật (tư tưởng mới mẻ, thâm thuý mà viết kém thì tôi cũng
không ưa), và thích giới thiệu những cái đẹp trong văn thơ với thanh niên.
Cái đẹp trong văn thơ cổ kim, Đông Tây
thiên hình vạn trạng, không ai có thì giờ thưởng thức hết được. Mỗi người chỉ
biết được vài khu vực thôi. Tôi may mắn biết được hai nền văn học rực rỡ mà
khác nhau là văn học Trung Hoa và Pháp và trong loại sách về văn học, tôi rán
truyền những cảm xúc thích thú của tôi cho độc giả.
HƯƠNG SẮC TRONG VƯỜN VĂN
Trong chương XVIII tôi đã nói về bộ Luyện
văn (3 cuốn) và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc rồi.
Tác phẩm thứ ba mà tôi thích hơn bộ Luyện
văn là bộ Hương sắc trong vườn văn (mới đầu in làm
hai cuốn).
Tôi nảy ra ý viết bộ đó nhờ năm 1947 hay
1948, đọc cuốn Cours de technique littérairecủa một trường hàm thụ
(tôi quên mất tên) ở Paris. Cuốn đó dạy kĩ thuật viết báo, tiểu thuyết, kịch,
phê bình văn học, viết thư, cả viết quảng cáo nữa.
Những thuật đó không có gì mới mẻ, đại khái
tôi cũng biết qua rồi, mà tôi cũng không có ý trứ tác những ngành kể trên;
nhưng soạn giả khéo dẫn nhiều thí dụ lí thú, và năm 1958 tôi dùng một số thí dụ
đó với nhiều thí dụ khác trong văn học Trung Quốc và Việt Nam để viếtHương
sắc trong vườn văn.
Công việc không có gì khó. Cần nhất là có
nhiều văn thơ để trích dẫn, muốn vậy phải đọc thật nhiều. Không phải đọc trong
sáu tháng hay một năm khi đã nảy ra ý định viết rồi, mà phải đọc từ năm mười
năm trước, thì mới được nhiều tài liệu. Và như Sainte Beuve nói, “khi đã lượm
được đầy tay rồi thì công việc giản dị lắm”, chỉ cần một bố cục khéo để “đóng
khung” thôi. Khi thu thập tài liệu tôi đã thấy vui, mà khi viết tôi cũng thấy
thích. Và chắc chắn độc giả đọc sách tôi cũng thấy vui như tôi. Một ông giám
học trường trung học ở miền Trung khen Hương sắc trong vườn văn là
tác phẩm phê bình văn học sâu sắc ở nước nhà. Gần đây một ông bạn cho tôi hay
một thanh niên tốt nghiệp đại học Văn khoa ở Huế khi “vượt biên” chỉ mang theo
mỗi cuốn đó.
Ngày nay đọc lại, tôi vẫn thích các chương Văn
ba lan, Tế nhị và hàm súc, Tình trong văn, lí trong văn, Đuổi bắt ảo ảnh (tiếp),
nhất là hai chương cuối: Kĩ thuật chân chính, và Cảm thông
với cái đẹp.
Cuối đoạn kết (gồm một trang) của toàn bộ,
tôi viết mấy hàng này: “Trong nghệ thuật cũng như ở ngoài đời, phân tích tỉ mỉ
quá không có lợi gì cho người và cho mình. Những kẻ sung sướng nhất là những kẻ
lí luận ít mà cảm xúc nhiều. Bạn cứ hỏi trái tim bạn, hạnh phúc ở đó, mà cái
đẹp cũng ở đó”.
Bộ đó in hai lần, trước sau được 5.000 bản.
Trong số năm ngàn độc giả đó, tôi mong có được dăm trăm người biết dùng văn thơ
để bồi luyện cảm xúc mà tìm được hạnh phúc. Tôi cho đó là cái lợi nhất khi ta
đọc những tác phẩm bất hủ của nhân loại.
CỔ VĂN TRUNG QUỐC
Tôi đã nhận được cái lợi đó từ khi lõm bõm
đọc bộ Cổ văn quan chỉ vào khoảng năm 1940.
Hồi đó, thấy bài nào thích thì tôi dịch ra
để cho hiểu rõ hơn và sau muốn đọc lại thì đỡ tốn công vì có sẵn bản dịch rồi;
tóm lại, như tôi đã nói, dịch chỉ để tự học.
Hai mươi năm sau, vốn chữ Hán của tôi đã
khá hơn, tôi đọc lại Cổ văn quan chỉ và Cổ văn bình
chú, trong số hơn 300 bài, lựa lấy 100 bài tôi thích nhất rồi lấy bản dịch
cũ, mà dịch lại thành một bộ 900 trang 21 x 27 viết tay, in ra khổ lớn, chữ nhỏ
thành 480 trang. Bộ này do nhà Tao Đàn xuất bản cuối năm 1966, in 1.000 bản mà
năm 1975 vẫn chưa bán hết. Vì bài nào cũng in chữ Hán, nên nhà xuất bản và tôi
đều rất tốn công.
Dịch mất chín tháng, sửa ấn cảo ít nhất
cũng mất ba tháng nữa (mỗi ngày độ một giờ), mệt cũng bằng viết và in bộ Đại
cương văn học sử Trung Quốc. Ông Tao Đàn, một nhà xuất bản biết nhận định
giá trị của tác phẩm, hiểu biết về văn chương, và tôi đã hy sinh khá nhiều cho
bộ đó, đã được đền đáp: một số giáo sư, cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn coi bộ
đó là một trong những tác phẩm chính của tôi, và sau ngày giải phóng, một số
học giả miền Bắc “đánh giá nó rất cao”. Đào Duy Anh khen nó là “Tác phẩm trội
nhất từ trước tới nay trong loại của nó”.
Bộ đó tôi dịch kĩ cho nên khá mệt. Phải
thuận, sát và giữ đúng thể văn trong nguyên bản. Phải chú thích nhiều.
Các nhà cựu học trong nhóm Nam
Phong đã dịch được mươi bài Cổ văn Trung Quốc nhưng không nhà nào chỉ
cho ta biết cái hay ở đâu. Bộ Cổ văn bình chú có in thêm ít
lời “Bình” sơ sài của cổ nhân. Tôi nghĩ cần phải phân tích cái hay thì thanh
niên tân học mới hiểu được, cho nên việc đó tôi làm khá công phu. Đọc các bài Bá
Di liệt truyện của Tư Mã Thiên, Lan Đình tập tự của
Vương Hi Chi, Xuân dạ yến đào lí viên tự của Lí Bạch, A
Phòng cung phúcủa Đỗ Mục, Tuý ông đình kí của Âu Dương Tu, Hỉ
vũ đình kí của Tô Thức, Kí Âu Dương Tu xá nhân thư của
Tăng Củng… độc giả sẽ thấy tôi đã đem tinh thần mới để xét nghệ thuật của cổ
nhân, việc đó chưa ai làm, và những độc giả nào lớn tuổi, biết chữ Hán, đọc kĩ
sách của tôi đều nhận đó là một cống hiến đáng kể trong văn học nước nhà.
Tôi mừng rằng đã làm cho một số cựu sinh
viên Văn khoa đại học Sài Gòn hiểu được và thích cổ văn Trung Quốc. Trong bài
tựa, tôi đã nói đọc nó, có lợi nhiều về luyện văn: “Nghị luận thì chặt chẽ mà
đột ngột, tự sự thì giản lược mà linh hoạt, miêu tả tài hoa mà gợi hình, lời
văn thì hàm súc và cảm động”.
Còn cái lợi về tinh thần thì “mỗi khi muốn
có cái cảm giác nhẹ nhàng như người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió
trên ngọn đồi thì chúng ta cứ phải lật bộ Cổ văn ra chứ không
tìm được trong các tác phẩm hiện đại nào cả”. Vì tâm hồn của cổ nhân thanh tao
mà khoáng đạt hơn chúng ta nhiều.
Đọc những bài Nhạc Dương lâu kí, Thương
Lương đình kí[5]… ta muốn quên tất cả mọi vật, thế sự, cảm
xúc triền miên; những bài Tuý ông đình kí, Hỉ vũ đình kí khiến
ta muốn nhảy múa với tác giả, vui cái vui thanh cao của tác giả; hai bài Xích
Bích phú tiền và hậu làm cho ta lây cái tinh thần của Lão Trang, lâng
lâng như muốn “mọc cánh”. Và mới tháng trước, tôi đã mượn câu “Tích nhật chi sở
vô, kim nhật hữu chi, bất vi quá; tích nhật chi sở hữu, kim nhật vô chi, bất vi
bất túc” của Lưu Cơ trong bài Tư Mã Quí chủ bốc luận để an ủi
gia đình một bạn mấy năm nay sa sút, phải bán lần đồ đạc mà sống, như hàng ức,
hàng triệu gia đình khác.
Tôi viết cuốn đó khi buồn về quân Mĩ đổ vào
miền Nam năm 1965, nên gởi tâm sự trong lời Hàn Dũ “bất bình tắc minh” mà tôi
in ở trang đầu, và trong phần trên bài tựa chép đời một ông Nghè cuối Lê chán
thời cuộc tìm một nơi hẻo lánh để dạy học gần làng tôi.
CHIẾN QUỐC SÁCH – SỬ KÍ
Hai
bộ Chiến Quốc sách và Sử
kí của Tư Mã Thiên của chúng tôi được hết thấy các độc giả nhận là có
giá trị.
Bộ trên được các nhà Nho trong Nam
Phong trích dịch vài chục bài, bộ dưới được Nhượng Tống dịch dăm
chương. Vì hạn chế của thời đại, các vị ấy chỉ mới giới thiệu qua loa được
thôi.
Ông Giản Chi và tôi tính làm kĩ hơn, phân
công nhau: tôi giới thiệu bộ Chiến Quốc sách và trích dịch,
chú thích hết các bài hay; ông Giản Chi tuyển dịch độ một phần tư bộ Sử
Kí và chú thích rất kĩ, tôi giới thiệu tác giả cùng tác phẩm. Người
này làm xong, đưa người kia coi lại.
Chúng tôi sưu tập tất cả các sách Hoa và
Anh, Pháp viết về hai tác phẩm đó, để giúp độc giả hiểu rõ:
Thời đại.
Nguồn gốc.
Nội dung.
Giá trị về sử liệu.
Giá trị về phương diện văn học (điều mà các
nhà khác không chú trọng tới mấy) của tác phẩm.
Riêng về Chiến Quốc sách, chúng
tôi còn dùng tài liệu trong tác phẩm để vẽ lại xã hội Trung Hoa thời Chiến
Quốc.
Về bộ Sử kí, chúng tôi nhấn
mạnh vào cuộc đời oan khổ của Tư Mã Thiên nó ảnh hưởng tới tư tưởng và phương
pháp viết sử của ông ra sao.
Bộ Chiến Quốc sách có phụ
lục: niên biểu thời Chiến Quốc, Nhân danh, Địa danh. Bộ Sử kícó hai
bản đồ: Trung Hoa thời Chiến Quốc và Trung Hoa thời Hán.
Mặc dù cũng bị thời đại hạn chế, chúng tôi
không thể dịch trọn hai tác phẩm bất hủ đó được, nhưng đọc hai bản dịch của
chúng tôi – 700 và 800 trang – độc giả cũng có một số tri thức tạm đủ và rõ rệt
rồi, và chúng tôi mong rằng vài ba chục năm nữa sẽ có người dịch trọn bộSử
kí.
TÔ ĐÔNG PHA
Tôi đặt Tô Đông Pha vào
loại Văn học, nhưng cũng có thể đặt vào loại Gương danh nhân cùng với mấy cuốn Einstein, Bertrand
Russell, Henry David Thoreau (một lương tâm nổi loạn) được – (Mấy
cuốn đó giống nhau ở điểm mỗi cuốn viết riêng về một nhà). Tôi thích họ Tô nhất
vì tấm lòng của Tô gần với tôi hơn cả.
Tôi rất phục tài của Tô, yêu tinh thần bình
dân của Tô, mong học được đức khoan hoà, phóng khoáng của Tô. Tôi ước ao được
sống cuộc đời nghệ sĩ của ông ở Hàng Châu, ở Lâm Cao, được thả thuyền trên Tây
Hồ mà ngắm đủ thập cảnh, uống rượu ngâm thơ với bạn trên dòng Xích Bích.
Mới mấy hôm trước đây, vì thời tiết thay
đổi, vừa bật đèn lên ăn cơm thì mối bay ra cả đám, tôi phải tắt đèn, ra ngồi ăn
cơm thầm ngoài sân (ở Long Xuyên), rồi về khuya cóc kêu inh ỏi bên phòng, tôi
phải trở dậy, kiếm viên thuốc ngủ và nhớ lại hồi ông bị đày ở đảo Hải Nam, sống
cực khổ mà vui vẻ, trào phúng được. Về mọi phương diện, ông đều đáng làm thầy
tôi.
Tôi thường đọc lại những đoạn ông ở Hàng
Châu, Lâm Cao, Hải Nam đó, và đoạn ông ngồi thuyền qua hẽm Vu Giáp, trên sông
Dương Tử để lên Kinh.
Yêu ông, tôi cũng yêu mấy nhân vật kỳ dị
thời ông nữa: một học giả bỏ ra 25 năm, viết một bộ sử vĩ đại (Tư Mã Quang),
một triết gia sống khắc khổ (Trình Di), một đạo sĩ đi mấy ngàn cây số để thăm
ông, yêu cả Vương An Thạch nữa, tại sao không? Nhà cách mạng đó ngây thơ, có
thể khùng khùng, nhưng đâu có bỉ ổi! Còn nàng Triêu Vân nữa mà bạn của Tô gọi
là Phật bà Quan Âm!
Tóm lại tôi yêu cả xã hội Trung Hoa thời
ông: Nó chia rẽ, bất công, suy về kinh tế, võ bị, nhưng về văn học, triết học,
mĩ thuật lại rất tiến. Hễ văn minh thì không hùng cường, hễ hùng cường thì
không văn minh. Hy Lạp thời Périclès văn minh rực rỡ mà bị Macédoine chiếm.
Năm 1974 tôi đã sửa lại Tô Đông Pha,
thêm vài đoạn (một đoạn về cảnh Tây Hồ), nhà Cảo Thơm chưa kịp tái bản thì Sài
Gòn được giải phóng, phải đóng cửa. Vài bạn kháng chiến rất thích cuốn đó”[6].
VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ĐẠI
Ở trên tôi nói không được vừa ý về bộ Văn
học Trung Quốc hiện đại[7] vì
thiếu nhiều tài liệu, cần phải bổ túc. Tuy nhiên, cho tới ngày nay muốn biết về
văn học hiện đại của Trung Hoa, ngoài bộ đó ra, chúng ta không còn cuốn nào
khác bằng tiếng Việt. Tôi vẫn thỉnh thoảng tra lại nó, và thấy đoạn kết không
có gì phải thay đổi. Trong đoạn ấy tôi đã vạch rõ hai nền văn hóa Hoa, Việt từ
cuối thế kỉ trước đến nay tiến song song nhau, có những nét rất giống nhau (cả
ở miền Quốc gia lẫn miền Cộng sản) y như anh em sinh đôi… như vậy chỉ vì hai
nước đồng văn với nhau, gặp những hoàn cảnh như nhau.
Trong đoạn cuối, tôi đã đặt vấn đề tự do và
chỉ huy trong văn nghệ:
“Tự do nhưng tự do tới mức nào, chỉ huy
nhưng chỉ huy ra sao, làm sao để cho kẻ này đừng lạm dụng tự do, kẻ kia đừng
lạm dụng quyền hành, vấn đề quan trọng đó vẫn chưa có một giải pháp hoàn toàn,
mà có lẽ không bao giờ có được một giải pháp vẹn toàn[8] nếu
bản thân những người làm văn nghệ và cả những người hưởng thụ văn nghệ chưa có
một nền đạo đức, một sự giác ngộ và một trình độ giám thức tối thiểu nào đó”.[9]
KHẢO LUẬN VỀ NGỮ PHÁP VIỆT NAM
Tôi
đã nhiều lần tuyên bố trong đám đông rằng tôi không phải
là nhà ngôn ngữ học. Trong một chương trên tôi đã nói ông Trương Văn Chình sau
khi đọc cuốn Để tìm hiểu văn phạmmà tôi cao hứng viết trong khi dạy
học ở Long Xuyên, rủ tôi hợp tác soạn một cuốn ngữ pháp mới thay thế cuốn của
Trần Trọng Kim quá lệ thuộc vào các sách ngữ pháp cổ điển của Pháp. Tôi thấy ý
đó hay hay, nhận lời, bỏ ra hai ba năm gì đó đọc ba bốn chục cuốn ngữ pháp, văn
pháp Việt, Hoa, Anh, Pháp để cùng ông tìm một phương pháp thích hợp với Việt
ngữ. Nhưng khi viết thì ông đảm đương hết, tôi chỉ coi bản thảo và góp ý với
ông thôi.
Càng đi sâu vào môn đó tôi càng thấy nó như
một khu rừng, và khi chúng tôi tạm tìm được một lối để thoát ra, thì riêng tôi,
tôi thấy nhẹ mình quá, nghĩ bụng: “thế là hết nợ”. Ngay khi cuốn Khảo
luận về ngữ pháp Việt Nam mới in xong, tôi tuyên bố trong một bài
phỏng vấn của Bách Khoa năm 1963 – tôi không nhớ tháng nào –
rằng tôi thích văn học hơn môn ngữ học, sẽ trở về văn học. Từ đó tới nay tôi
không viết về ngữ pháp nữa, cũng từ chối dạy ngữ pháp cho một vài trường đại
học. Ông Trương Văn Chình trái lại, mỗi ngày một đào sâu thêm nhiều về ngữ
pháp, sau đó viết cuốn Structure de la langue vietnamienne, được
Trung tâm Đại học sinh ngữ Đông phương (Centre universitaire des langues
orientales vivantes) xuất bản năm 1970, và hiện nay ông có thêm một bộ Ngữ
pháp Việt Nam gồm năm ngàn trang đánh máy, Viện Khoa học Xã hội Hà Nội
chưa in cho ông được, ông đòi lại bản thảo, không biết họ có trả không![10]
Bộ Khảo luận ngữ pháp Việt Nam được
vài giáo sư Việt cho là đánh dấu một khúc quẹo đáng ghi trong việc nghiên cứu
tiếng Việt. Học giả E. Gaspardone giới thiệu nó trên tạp chíSinologie (ở
Thuỵ Sĩ năm 1965) với nhiều cảm tình; hai giáo sư Pháp, một ở Paris, ông
Maurice Durand, một ở Việt Nam, cô Piat khen nó trên Nội san trường
Viễn Đông Bác cổ(B.E.F.E.O – Durand) năm 1966, và trên Tạp chí
Nghiên cứu Đông Dương (Bulletin des Etudes Indochinoises – Piat) tôi
không nhớ năm nào, chỉ biết sau bài của Durand![11]
Nó mới mẻ thật. Chúng tôi nhấn vào tính
cách “cách thể” (isolante) và không có “từ pháp” (morphologie) của Việt ngữ, mà
bỏ hẳn lối chia ra làm trên chục từ loại như các sách ngữ pháp cũ, dùng một
cách phân loại “mềm mại hơn, mơ hồ hơn” (lời của Gaspardone), phân biệt ba loại
thôi: thể từ (tức danh từ cũ), trạng từ (gồm
động từ, tĩnh từ, trạng từ cũ) và trợ từ.
Sự phân loại đó hơi giống lối của Trung Hoa
thời xưa: thực từ, hư từ, bán hư bán thực từ.
Qui kết là chúng tôi chú trọng đến từ vụ
(fonction des mots) hơn người trước, chú trọng đến vị trí của mỗi tiếng trong
câu, và tới sự cấu tạo của câu. Vì vậy mà một số người cho phương pháp của
chúng tôi là phương pháp cơ cấu.
Sau giáo sư Trần Ngọc Ninh đào sâu thêm,
phân tích kĩ hơn, viết bộ Cơ cấu Việt ngữ mới in ba cuốn đầu,
mỗi cuốn độ hai trăm trang, rồi phải ngưng vì miền Nam đã thay đổi chế độ. Nghe
nói hiện nay ông ở Mĩ.
Trong khi soạn bộ Khảo luận đó,
tôi thấy có vài chỗ miễn cưỡng, bàn với ông Trương Văn Chình nhưng chúng tôi
không sao giải quyết hơn được. Cách phân loại các từ của chúng tôi tuy tránh
được nhiều mâu thuẫn mà cách cũ mắc phải, tuy có “mềm mại” hơn, nhưng chính vì
vậy mà “mơ hồ” hơn, như ông Gaspardone nói.
Tôi lại thấy có nhiều phương pháp phân tích
một ngôn ngữ: phương pháp duy lí (logique), phương pháp tâm lí (psychologique),
rồi phương pháp cơ cấu (structural), cơ cấu ngầm (générative), cả phương pháp
hoàn toàn hình thức (formelle) nữa, nghĩa là chỉ dựa vào vị trí của các từ đối
với nhau mà bỏ hẳn ý nghĩa đi. Phương pháp nào cũng có điểm hay, cũng có chỗ
đúng, mà chẳng phương pháp nào hoàn toàn cả, mà vài ba nhà “ngôn ngữ học” ở
nước mình thường đố kị nhau, ai cũng cho chỉ mình mới đúng, nên tôi chán ngán, quyết
tâm bỏ môn đó.
Tôi nghĩ môn ngữ pháp có ích đó, nhưng lí
thuyết quá, không thiết thực bằng chỉ cách cho thanh niên viết tiếng Việt ra
sao cho sáng sủa, và trong mấy năm sau tôi lượm trên các sách báo Sài Gòn những
câu tối tăm, viết không xuôi, tìm ra nguyên nhân tại đâu, rồi đề nghị cách sửa,
và nếu có thể được thì rút ra một vài qui tắc. Cuốn đó viết xong, nhan đề là Tôi
tập viết tiếng Việt[12] nhưng
vì chưa xuất bản, nên tôi để lại một chương sau sẽ xét tới.
CÁC TÁC PHẨM VỀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
Khi
bộ Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam còn
đương thảo, tôi đã bắt đầu viết chung với ông Giản Chi bộ Đại cương
triết học Trung Quốc. Do tôi đề nghị và phân công: ông Giản Chi
lãnh phần Vũ trụ luận (II) và Tri thức luận (III), tôi vốn thích cái gì cụ thể,
thực tiễn, lãnh phần Nhân sinh luận (IV), Chính trị luận (IV). Vì công việc của
tôi dễ hơn của ông Giản Chi, nên tôi lãnh thêm phần I: Vài nét sơ lược về sự
phát triển của triết học Trung Hoa, và phần VI: Tiểu sử các triết gia; hai phần
sau này điều ngắn. Toàn bộ gồm hai cuốn: Thượng trên 800 trang và Hạ gần 900
trang. In cả chữ Hán, để riêng ở cuối mỗi cuốn.
Công việc này rất mệt. Tôi thú thực nếu
không có ông Giản Chi thì tôi không dám mạo hiểm vào. Chúng tôi tra cứu tất cả
các sách Trung triết bằng Hoa ngữ, Việt ngữ và Pháp ngữ mà chúng tôi kiếm được,
nhất là bộ Trung Quốc triết học đại cương của Vũ Đồng mà ông
bạn Tạ Trọng Hiệp ở Paris kiếm cho được.
Sự hợp tác với ông Giản Chi rất thú vị,
chúng tôi làm việc đều siêng năng, cẩn thận, biết dung hoà ý kiến với nhau, học
thêm được của nhau.
Chúng tôi theo Vũ Đồng, trình bày triết học
Trung Hoa theo chiều ngang chứ không theo chiều dọc, nghĩa là chia thành từng
vấn đề chứ không từng thời đại, từng môn phái. Cách trình bày đó rất mới mẻ ở
nước ta (mà cũng ít thấy ở Trung Hoa). Nhưng ở đầu bộ chúng tôi cũng thêm một
phần tóm tắt lịch sử triết học Trung Hoa, phần này dài trên 100 trang (có thể
in riêng vào loại sách phổ thông như loại Que sais je? ở
Pháp), và ở cuối bộ lại thêm một phần nữa về tiểu sử mỗi triết gia, như vậy sửa
được cái khuyết điểm của lối trình bày theo chiều ngang, mà giữ được cái ưu
điểm là dễ tra cứu khi muốn tìm hiểu về một vấn đề nào.
Bộ sách dày quá, việc in lại khó khăn vì có
nhiều trang chữ Hán, vốn phải bỏ ra nhiều mà thu lại rất chậm, vì vậy mà hai
năm sau khi viết xong mới cho ra được cuốn Thượng, rồi hơn một năm sau nữa mới
cho ra nốt cuốn Hạ, nhờ sự hợp tác tận tình, không vị lợi của ông Hồ Hải, giám
đốc nhà xuất bản Cảo Thơm, một bạn trẻ của chúng tôi.
May thay sách được giới trí thức hoan
nghênh, chính phủ tặng chúng tôi giải nhất Văn chương toàn quốc, ngành biên
khảo 100.000đ, chúng tôi nhờ tặng lại một cơ quan Văn hóa.[13] Trong
hai năm bán lai rai cũng hết ngàn bộ (chúng tôi chỉ in bấy nhiêu thôi), chia
nhau được ít lời. Thật hú vía. Bộ đó sau tái bản được một lần, chúng tôi mừng
cho ông Hồ Hải. Ông là một nhà xuất bản yêu nghệ thuật in, có sáng kiến, thích
những tác phẩm có giá trị, có đặc tài trình bày tác phẩm, nên sách của nhà Cảo
Thơm nổi tiếng. Năm 1978 ông đi qua Mĩ và thỉnh thoảng vẫn viết thư hỏi thăm
chúng tôi. Cái lợi quan trọng của tôi là được học trong hai năm, rồi nhân đà đó
tiến sâu thêm về Trung triết cho tới bây giờ mà viết được trên mươi cuốn nữa,
ba cuốn xuất bản trước ngày giải phóng tôi sẽ giới thiệu dưới đây, còn những
cuốn khác để lại một chương sau.
- Liệt tử và Dương tử:
Bộ Liệt tử chữ Hán không
có tính cách nhất trí, nội dung rất tạp, chép cả về Dương tử, Khổng Tử, Lão tử,
Quan Doãn, Quản Trọng, Án tử… lại thêm có nhiều bài mâu thuẩn nhau, nhiều bài
trùng với các tác phẩm khác, rõ ràng cuốn đó của người đời sau viết mà chỉ một
số là môn đệ của Liệt tử thôi.
Tôi đọc kĩ, loại bỏ những bài nguỵ tác, chỉ
lựa những bài diễn những tư tưởng có ít nhiều hệ thống, có thể tạm tin
là tư tưởng của Liệt tử, và chắc chắn của Dương tử rồi chia làm hai phần: Liệt
tử và Dương tử.
Riêng phần Liệt tử tôi chia thành 6 chương
có nội dung nhất trí, việc mà trước chưa ai làm. Nhờ đó mà bản của tôi không
luộm thuộm như bản chữ Hán, sáng sủa hơn, có ý nghĩa hơn. Cuốn đó có nhiều
truyện (huyền thoại, cố sự, ngụ ngôn) lí thú, nên đọc.
- Nhà giáo họ Khổng:
Tập này mỏng, không đầy 100 trang, tôi viết
trong nữa tháng, một cách dễ dàng và say mê. Tôi dùng toàn những bài trong Luận
ngữ để vẽ chân dung Nhà giáo (chứ không phải triết
gia) họ Khổng: tính tình và tư cách ông ra sao, cách ông dạy học ra sao, tình
thầy trò ông ra sao, công ông về giáo dục ra sao.
Một bạn văn, ông Nguyễn Văn Hầu, tác giả
các cuốn Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu, Thoại Ngọc Hầu khen
rằng chương V: Tình thầy trò, “rất cảm động, gây lại được cái không
khí của trường học Nho ngày xưa”.
Viết xong tập đó tôi hiểu Khổng Tử hơn, quí
ông hơn. Ông vừa nghiêm, vừa khoan, đa cảm mà thương người, thành thực mà tự
nhiên, bình dân, lại có nghệ sĩ tính, có tinh thần hài hước nữa. Không có một
ông thánh nào khác gần với chúng ta như ông.
Cuốn đó được hoan nghênh, sau tôi nảy ra
viết một cuốn nữa về Triết gia họ Khổng.
- Mạnh Tử:
Cuốn này dày hơn: 160 trang[14],
cũng do Cảo Thơm xuất bản như cuốn trên.
Tôi cố làm nổi bậc sự khác biệt giữa thời
đại xã hội của Khổng và thời đại xã hội của Mạnh, giữa tính tình của hai vị.
Khổng có lúc muốn chiều đời được việc, Mạnh thì hiên ngang quá, khẳng khái quá,
giữ vững nguyên tắc, không chịu thoả hiệp.
Ông Thu Thuỷ (Võ Phiến) trên tờ Chính
luận (số 9.3.75), phê bình cuốn Mạnh Tử như sau:
“Về thời đại, về tính tình, về tư cách Mạnh
Tử, cách ông (Nguyễn Hiến Lê) trình bày thật sống động lí thú.
Về tư tưởng của Mạnh Tử, trình bày cũng
thật là rõ ràng dứt khoát (…). Trong lối viết gãy gọn, thẳng thắn của ông
Nguyễn có lúc đột ngột, gần như thân mật. Trước đây nửa thế kỉ, ông Trần Trọng
Kim không thể có cái giọng ấy.
Cái dứt khoát của ông Nguyễn khiến người ta
nghĩ tới Mạnh tử, mà cái thân mật khiến nghĩ tới cụ
Khổng…”[15].
VỀ SỬ
Đông Kinh nghĩa thục:
Hồi tản cư về ở Tân Thạnh (1946-1947), tôi
được bác ba tôi, hiệu là Phương Sơn, giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục cũng là
rễ cụ Lương Văn Can, kể cho nghe hoạt động của trường.
Hồi cư về Sài Gòn, tôi tìm đọc trên hai
chục cuốn về các nhà cách mạng thời đó, cả cuốnĐông Kinh nghĩa thục của
Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh – 1938), vừa để kiếm thêm tài liệu, vừa soát lại những
lời bác tôi kể, rồi viết cuốn Đông Kinh nghĩa thục, xuất bản năm
1956.
Tôi dùng một bài song thất lục bát của một
thi sĩ khuyết danh trong tập Nam Thiên phong vận ca để dựng bố
cục cho tác phẩm, cứ đầu mỗi chương tôi lại dẫn một hai câu theo đúng thứ tự
trong bài.
Đông Kinh nghĩa thục ghi
được không khí thời đó (1907), chép được tinh thần của các nhà cách mạng vừa
hăng hái vừa “ngây thơ”, nhất là tình đoàn kết, bình đẳng trong anh em, lại có
nhiều giai thoại, nhiều tình tiết lí thú, cho nên sách bán khá chạy.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Bạc Liêu trong
một bức thư đề ngày 21.1.69 viết: “Tôi đã đọc cả mấy bài tựa của Đông
Kinh nghĩa thục và của Bài học Israël, càng thêm mến cái
tâm chí của anh, và càng thêm mộ cách nói thân thương mà khéo léo của anh. Từ
câu nói “Bất bình tắc minh” của Hàn Dũ mà anh nêu làm đề từ đặt ở đầu bộ Cổ
văn Trung Quốc đến “càng đọc lịch sử thế giới… làm quân tốt thí trên
bàn cờ Quốc tế” (Tựa Bài học Israël), qua “mỗi lần ôn lại lịch sử…
vào bực nhất nhì Đông Nam Á” (Tựa Đông Kinh nghĩa thục), người nào
lấy công tâm mà đọc anh nghĩa là đừng có một định kiến nào, tất sẽ nhận rằng
bên trong cái dáng văn nhược thư sinh của người có tên là Hiến Lê, bao giờ cũng
âm ỉ cháy một tráng chí bền chặt mà nếu chỉ nhìn thoáng qua chắc ít ai ngờ
đến”.
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nam, trong
một bức thư không đề ngày, bảo “… nếu anh không viết quyển đó (Đông Kinh
nghĩa thục) thì sự thực về phong trào đó thế nào, thật đã ai biết cho
tường (tôi chưa được đọc quyển Đào Trinh Nhất). Tôi tin là trong văn nghiệp của
anh, quyển sách mỏng ấy sẽ được nhắc tới nhiều như Sonate à Kreutzer (…)
trong sự nghiệp đồ sộ của Tolstoi”.
Có thể do đọc Đông Kinh nghĩa thục mà
Nguyễn Văn Xuân về sau viết cuốn Phong trào Duy Tân (Lá Bối
xuất bản).
BÁC BA TÔI MẤT
In xong cuốn đó – cũng như cuốn Bảy
ngày trong Đồng Tháp Mười và bộ Đại cương văn học sử Trung
Quốc – tôi gởi về Long Xuyên[16] tặng
ngay bác ba tôi một bản để người đọc lại những hồi kí cùng bài thơ Cảm
khái của người ở cuối sách:
Tuổi xanh kết bạn xoay trời đất
Năm chục năm nay thỏa ước
mong
Độc lập xa gần cờ phấp
phới
Anh hồn cố hữu khoái hay
không?
Bài thơ đó người làm đầu mùa đông năm Ất
Mùi (1955) khi Việt Nam không còn bóng mộtquân Pháp nào cả, ít
tháng trước khi Đông Kinh nghĩa thục đưa cho nhà in sắp chữ.
Ít năm sau người yếu lần, nghỉ không ra toa
nữa, qua ở với con trai thứ ba, anh Nguyễn Xuân Tu, tại chợ Thủ, chỉ cách làng
Tân Thạnh có con sông Tiền Giang.
Mùa Hè năm 1959 tôi về Chợ Thủ thăm người
một lần: Óc vẫn sáng suốt, nhưng chậm chạp hơn, suốt ngày ở trong nhà. Da có
nhiều chỗ ngứa, bôi thuốc gì cũng không hết. Thận suy rồi, không lọc được chất
độc trong máu nữa. Đầu tháng giêng 1960 - ngày 11 tháng chạp năm Kỉ Hợi[17],
tôi ở Sài Gòn tôi được điện tín người qui tiên, vội vàng về liền, tới nơi thì
đã nhập quan rồi. Mấy tháng khi gần mất, chân người phù lên. Người sinh năm
Nhâm Ngọ, năm đó 78 tuổi. Mộ người ở làng Tân Thạnh, sau nền nhà cũ. Nhà đã dỡ,
mà từ năm 1975, nền nhà cũng về một đứa cháu xa ở Bắc vô giúp việc cho người từ
hai mươi mấy năm trước.
Chí lớn không thành, sống đời một ẩn sĩ ở
một nơi hẻo lánh, tuyệt nhiên không màng danh lợi, chỉ thích hoa và sách. Hai
vài tứ tuyệt dưới đây ghi được tâm sự và tính tình thanh cao của người:
-----------MỘT NGÀY
Quanh quẩn ra vô hết một ngày,
Một ngày là mấy kể chi đây.
Tiếc cho ba vạn ngày đăng đẳng,
Mà cũng ra vô cũng thế này.
-----------TỰ TRÀO
Lên cao muốn chở núi xanh về,
Muốn rủ trăng kia xuống nhậu thi.
Sách muốn mới hoài hoa chớ rụng,
Trần gian có một khách tham si.
Rất ham đọc sách, bất kì loại nào, mỗi năm
chỉ làm vài bài thơ mà cũng không muốn lưu lại. Hai người con thông minh của
người mất sớm, người trông mong vào tôi mà người coi như con, và tôi mừng rằng
đã đã đáp được công của người một phần nào[18].
Sách in rồi, tôi vẫn tiếp tục kiếm thêm tài
liệu, đọc ở đâu hoặc được bạn bè (Nguyễn Hữu Ngư…) cho biết thêm điều gì tôi
điều ghi lại, cho vào một hồ sơ riêng, để khi tái bản sẽ sửa chữa. Nhờ vậy lần
in thứ nhì năm 1968, sách dày thêm được khoảng ba chục trang, lần thứ ba (1974)
thêm được hai chục trang nữa, tất cả là 200 trang. Hai lần sau tôi đều giao cho
nhà Lá Bối trông nom. Từ năm 1974 đến nay, tôi lại kiếm thêm được ít tài liệu
nữa mà tôi sẽ chép trong phần phụ lục; nhưng chắc sẽ không có lần thứ tư.
Độc giả ai cũng cho cuốn đó là một trong
những cuốn có giá trị của tôi; chính tôi cũng thích nó một phần vì nó ghi
lại được hoạt động của các bác, cha, chú tôi.
BÀI HỌC ISRAËL – BÁN ĐẢO Ả RẬP
Hai cuốn nữa tôi cũng đắc ý là: Bài
học Israël và Bán đảo Ả Rập.
Tài liệu về hai cuốn đó, tôi thu thập trong
năm sáu năm được khá nhiều. Hồi đó, may mắn, một người cháu tôi Tô Lệ Hằng, đi
du lịch ở Israël, gởi về cho tôi một số tài liệu mà người khác không có được,
nhờ vậy phần III cuốn Bài học Israël, về tổ chức
Quốc gia và sự phát triển kinh tế của Israël, nhất là về các nông trường
Kibboutx, Mochav Ovedim, Mochav Chitoufi, tôi viết rất đầy đủ, nhiều độc giả
chú ý tới.
Dân tộc Israël có thể làm gương cho ta về
đức đoàn kết, anh dũng, kiên nhẫn, và về tài tổ chức. Nhưng họ thành công rồi
thì hoá ra kiêu căng, có óc thực dân, tôi không ưa.
Tôi thích cuốn Bán đảo Ả Rập hơn.
Các dân tộc Ả Rập đau khổ chiến đấu, bị liệt cường chia rẽ, thao túng, cứ ngoi
lên được một chút thì lại bị dìm xuống; tình cảnh, thân phận của dân tộc I Rak
trước cách mạng 1958 thật giống dân tộc mình thời đó. Những chương chúng tôi
viết về lịch sử kiến quốc của Ả Rập Seoudite, về cuộc cách mạng của Ai Cập, của
I Rak là những chương tôi thích nhất. Có những nhân vật y như trong Đông
Chu liệt quốc. Đời một dân tộc cũng như đời của một cá nhân, trong thời đau
khổ chiến đấu mới có nhiều trang sử hay.
Một độc giả, ông Nguyễn Quí Toàn, trên tờ Diễn
Đàn số 17 (1969), khen cuốn đó: “Nguyễn Hiến Lê có cốt cách một học
giả thận trọng, lại có lối trình bày sáng, giản di của một nhà văn (…) Văn (của
ông) đầy hình ảnh, cụ thể và lôi cuốn như tiểu thuyết”.
Tôi cũng nhận thấy cuốn đó viết hay hơn
cuốn Israël. Cả hai cuốn tôi đều viết rất mau và hứng thú.
Khảo về sử hiện đại của bán đảo Ả Rập (trên
đó có Israël) tôi càng thấy rõ cái hại của thực dân. Trong bài tựa cuốn Israël tôi
viết: “Thực dân nào, bất kì Đông hay Tây cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ
trước hết: còn có lợi cho họ thì họ giúp, bất lợi thì họ bỏ, đàn áp… Đi theo
thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại (…) không sớm thì muộn, thế nào cũng
khốn đốn, điêu tàn với họ (…) chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn
cờ quốc tế”.
Có phải vì bài tựa đó không mà Bài
học Israël, năm 1973 bị Nha Thông tin Văn hoá làm khó dễ, dìm trong
mấy tháng trời khi xin phép tái bản, rồi năm 1975 bị một số cán bộ rỉ tai các
sạp sách là không nên bán, mặc dù nó không có tên trong danh sách các tác phẩm
bị cấm lưu hành.
Vào khoảng 1969, tôi mua được trọn bộ Lịch
sử Văn minh (32 cuốn) của Will Durant, dịch ra tiếng Pháp, do nhà
Rencontre ở Lausanne (Thuỵ Sĩ) xuất bản. Bộ đó rất hay, ông bà Durant để ra ba
chục năm, tham khảo mấy ngàn cuốn sách, đi du lịch gần khắp thế giới, để viết
nó.
Năm 1970 tôi dịch cuốn Văn minh
Ấn Độ (550 trang), Lá Bối in. Để viết bài tựa 16 trang cho cuốn
đó, tôi đã gởi thư qua Thuỵ Sĩ nhờ nhà Rencontre kiếm cho tôi những tài liệu về
đời sống và sự nghiệp của Will Durant. Độc giả hoan nghênh, một vị viết thư yêu
cầu tôi dịch trọn bộ.
Tôi đáp cũng muốn vậy lắm, nhưng trong nước
phải có ít nhất là ba ngàn độc giả như ông ta thì nhà Lá Bối mới dám tiếp tục.
Sau tôi chỉ dịch thêm bốn cuốn nữa: Văn
minh Ả Rập, Bài học của lịch sử, Nguồn gốc văn
minh và Văn minh Trung Hoa[19].
Cuốn sau chưa kịp in thì thay đổi chế độ.
Những cuốn đó đều có ích, nhất là Bài
học của lịch sử.
KINH TẾ
Về kinh tế tôi chỉ có một cuốn: Một
niềm tin ở trên đã giới thiệu rồi. Sách viết gọn, sáng sủa và đầy đủ,
để phổ biến những luật phát triển kinh tế và những vấn đề cùng đường lối phát
triển kinh tế tại các nước lạc hậu mà người ta gọi là thế giới thứ ba. Một
người điểm sách khen là “tác giả viết với tấm lòng yêu nước nồng nàn”.
Một vài suy luận của Fourastié trong cuốn
đó đã hoá sai. Như (tr.65) ông tiên đoán khoảngvài thế kỉ nữa, số dân
hoạt động tại các nước tiên tiến sẽ như sau: 10% về hoạt động sơ đẳng, 10% về
hoạt động nhị đẳng[20],
80% về tam đẳng. Hiện nay tại Mĩ, hoạt động sơ đẳng chỉ chiếm 5% số dân hoạt
động; và nhờ sự phát triển của kĩ thuật điện tử, có thể chỉđầu thế kĩ tới hoạt
động nhị đẳng chỉ còn 10% số dân hoạt động.
TIỂU PHẨM
Tiểu
phẩm là những bài văn ngắn từ mươi trang trở xuống viết
về bất kì vấn đề gì (tự sự, nghị luận, phê bình…) và có tính cách độc lập nghĩa
là không trích từ một tác phẩm dài ra.
Trong loại tiểu phẩm tôi có thể kể nhiều
bài mà tôi đã gom lại trong hai cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, Mười
câu chuyện văn chương đã xuất bản, và trong hai tập Để tôi đọc
lại, Mười tám câu chuyện thời sự chưa in thành sách.
Dưới đây tôi giới thiệu một số bài tôi đắc
ý vì có tính cách nghệ thuật ít nhiều, lí luận xác đáng, và nhất là
ghi được tâm tư, những nỗi vui buồn, phẩn uất của tôi. Nói như Hàn Dũ thì đây
là những “Bất bình tắc minh” của tôi, “bất bình” hiểu theo nghĩa rộng là không
có sự quân bình (bất đắc kì bình), là xúc động mạnh.
* Trên các báo định kì tôi đã gởi đăng một
số bài có tính cách bút chiến, như những bài về tư thục, về
chuyển ngữ ở đại học (đã giới thiệu ở trên) hoặc những bài:
- Vấn đề kiểm duyệt (Bách
Khoa – 1969)
- Nhà cầm quyền và dư luận (Bách
Khoa – 1966), bài này bị kiểm duyệt bỏ nhiều quá, mất gần hết ý nghĩa.
- Vấn đề thông cảm lẫn nhau giữa
chính quyền và nhân dân (1961), bị kiểm duyệt bỏ trọn.
- Thân phận người dân các nước chậm
tiến (1966), Bách Khoa không đăng vì sợ bị trù.
Những bài trên tôi gom lại trong tập: Mười
tám câu chuyện thời sự.
Hai bài tôi đắc ý nhất, giá trị ngang với
cổ văn Trung Quốc là:
- Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần
Vinh Anh.
Ông Anh là một giám khảo trong kì thi Tú
tài I ở Nha Trang năm 1967, bị một bọn thí sinh ghét vì ông nghiêm chỉnh giữ kỉ
luật trường thi mà đâm ông túi bụi ở trước một quán ăn, và ông đã tắt thở. Hay
tin tôi xúc động mạnh, viết một hơi trong bài trên. Mạt sát cả Bộ Giáo dục, lẫn
cha mẹ học sinh, giọng phẩn uất bừng bừng trên ngọn bút. Ông Giản Chi đọc xong
khen: “ngắn mà hay”.
- Cụ Phan và lòng dân
Năm 1967, ông Lê Văn Hảo, giáo sư đại học
Văn khoa Huế vào Sài Gòn nhờ tôi viết cho một bài cho số kỉ niệm 100 năm năm
sinh Phan Bội Châu và tôi gởi ông bài Cụ Phan với lòng dân. Bài đó
rất được bạn văn thích, cả Nam lẫn Bắc. Tôi kể lại lòng ngưỡng mộ của dân làng
tôi hồi năm 1925 đối với cụ Phan và đả bọn thực dân Pháp đã bị cái lợi ám nhãn
không nhận ra tinh thần ái quốc của dân tộc chúng ta, để đến nỗi non 30 năm sau
phải chịu cái nhục ở Điện Biên Phủ.
Câu cuối bài: “Nhưng nào phải chỉ có Pháp
mới ngốc”, tiên đoán rằng Mĩ cũng sẽ bị nhục như Pháp.
Nên kể thêm hai bài:
- Đả phá dễ hay xây dựng dễ,
tôi đã giới thiệu ở chương XXVII.
- Con đường hoà bình, mới đầu
đăng trên một số kỉ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo thống nhất, sau nhà Lá
Bối in thành một tập mỏng trong loại Bông hồng cài áo.
Tôi hô hào gột bỏ hết những nhiễm độc của
Tây phương, gột bỏ tinh thần kì thị, phe đảng, gột bỏ những ý thức hệ ngoại
lai, mà trở về tinh thần bao dung, bất đồng nhi hoà của tổ tiên, có vậy mới
đoàn kết quốc dân, thống nhất quốc gia được. Con đường hoà bình ở đó.
Sau năm 1975, một luật sư bị một bạn đồng
nghiệp tố cáo và suýt mang hoạ vì đọc tập đó.
* Loại tuỳ bút, phải kể
trước hết hai bài rất ngắn viết trước 1945 và sau trích dẫn trongHương sắc
trong vườn văn:
- Hương và sắc, giọng nửa biền
nửa tản, lời bóng bẫy có chỗ du dương, đại ý là trọng hương hơn sắc. Đó chính
là bản tính của tôi: bất kì ở đâu, vườn dù hẹp tôi cũng trồng những cây cao có
hương thơm như hoàng lan, ngọc lan chứ không trồng các loài chỉ có sắc mà không
hương, lại mất công săn sóc.[21]
- Con vịt, có chút triết lí
hoài nghi như Anatole France; giọng bài này - nhiều đối thoại – chịu nhiều ảnh
hưởng của Tây phương, khác hẳn bài trên chịu ảnh hưởng Trung Hoa.
- Nhưng tôi thích Hoa đào năm trước hơn
cả. Bài này cũng ngắn, in trong loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối, nửa là
hồi kí, nửa là nghị luận, giọng tự nhiên, cảm động, lời đẹp, ai đọc rồi cũng
thấy mang mang nhớ nhung một cái gì đã mất. Đoạn kết buồn man mác: “Nay bóng
chiều đã xế, tôi nghiệm rằng những cảnh đẹp nhất mà ta được thấy luôn luôn chỉ
thoáng hiện rồi biến mất. Không sao gặp lại được lần lần thứ hai (…) Vì phải có
sự giao hội kì diệu mà hữu tình của biết bao cái ngẫu nhiên, từ người và vật
tới mây nước, ánh sáng, hương thơm, tâm trạng… cùng nhau tấu lên một hoà khúc
thì mới gây cho ta được một cảm giác hoàn toàn thoả mãn về tinh thần, một cảm
giác phơi phới, nửa hư nửa thực, đột ngột mà bâng khuâng. Ta thấy lòng ta nở
ra, ngũ quan mẫn tuệ, tinh thần thanh thoát như chơi vơi. Một đời người hưởng
được vài ba phút mà dư hưởng bất tuyệt đó, tôi tưởng đã là phước lớn. Nó quí ở
chỗ không bao giờ tái hiện và rất ngắn ngủi. Đừng kiếm nó lại, vô ích, mà đừng
mong cho nó kéo dài…
Cái tuyệt mĩ bao giờ cũng phù du mà lại thọ
nhất”.
- Có thể kể thêm vài bài trong Hương
sắc trong vườn văn như Cái thần trong văn… và trong Mười
câu chuyện văn chương như Kĩ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn…
* Hồi kí về người
thân như cha mẹ tôi, con tôi trong Làm con nên nhớ; về bà ngoại
tôi, mẹ tôi trong Cháu bà nội tội bà ngoại (hai bài trên đều
do nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo); về thầy học
trong Thầy học tôi: cụ Dương Quảng Hàm (Bách Khoa –
1966); về bạn như Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Đất Hà
Tiên với họ Mạc và họ Lâm đăng trên Bách Khoa nhân
ngày giỗ đầu 1979, và giỗ cuối 1971 của Đồng Hồ, bài trên ghi công của Đông Hồ
với Việt ngữ, bài sau ghi công của Đông Hồ với đất Hà Tiên, quê hương của ông.
Ai cũng nhận hai bài đó hơn tất cả các bài từ trước tới nay viết về ông, và tóm
tắt đủ sự nghiệp rất đặc biệt của ông.
Sau Đông Hồ, tôi còn phải khóc Hư Chu trong
bài Hư Chu (Bách Khoa năm 1973). Đời ông ngắn, sự
nghiệp của ông cũng ngắn, nhưng ông rất nghệ sĩ, cũng nổi danh sớm mà được
nhiều bạn mến vì tính hồn nhiên, vui vẻ.
Cảm động nhất, ngày nay mỗi lần đọc lại tôi
đều rơm rớm nước mắt là những bài viết về người thân của tôi. Bài Làm
con nên nhớ là một lời sám hối làm cho Đông Hồ rơi lệ khi đọc rồi,
đương đêm viết ngay cho tôi một bức thư dài, sau tôi sắp chung với bài của tôi,
đưa cho nhà Lá Bối in.
Bài Cháu bà nội tội bà ngoại kể
lại tình thương của bà ngoại tôi, công của bà và của mẹ tôi, mà tôi chưa đền
đáp được chút nào. Tôi cũng sụt sùi khi viết bài đó như bài trên và một bạn
văn, ông Châu Hải Kì ở Nha Trang cũng sụt sùi đọc nó như Đông Hồ đọc bài trên.
* Tôi đã viết bốn năm chục bài
tựa cho các tác phẩm của tôi và hai chục bài cho tác phẩm của
người khác.
Ai cũng nhận rằng tôi viết hay cho nên vài
bạn văn nhờ đề tựa cho hai ba cuốn. Hai đã là quá nhiều rồi, mà phải là hai
cuốn trong hai loại khác nhau thì tôi mới nhận lời. Và tôi cũng chỉ nhận cho
bạn văn thôi. Ông Châu Hải Kì có lần khuyên tôi nên lựa những bài tựa vừa ý hơn
hết, cho vào một tuyển như một nhà văn nào đó của Pháp. Tôi không làm việc đó
khiến ông bực mình, nhưng sau sau 1975, tôi cũng lựa ít bài cho vô tập: Để
tôi đọc lại (không xuất bản)[22].
Tựa tôi viết cho tôi mà
tôi lấy làm đắc ý:
- Cổ văn Trung Quốc: Có
giọng cổ văn, hợp với nội dung tác phẩm: mạnh, giản, bóng bẩy mà minh bạch, cảm
thán thành thực, nửa trên ghi lại một hồi kí thời thiếu niên, nửa dưới tả tâm
sự và tài của cổ nhân.
- Thế hệ ngày mai: phần
trên cảm động chép tình của cha mẹ đối với con trong hai buổi học đầu tiên của
tôi và của con tôi.
- Đại cương văn học sử Trung Quốc: Đoạn
kết từ “Trăng mới ló dạng” tới cuối lời đẹp và có giọng cảm thán.
- Tương lai ở trong tay ta: Tôi
ví đời người với một cuộc thám hiểm, ai cũng phải tự
tìm lấy con đường của mình, như Magellan đi vòng quanh thế giới.
- Quảng gánh lo đi: Đoạn
đầu giọng cũng cảm thán vì đời người là một bể thảm, đúng như Đoàn Như Khuê
nói, dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng đáng thương như ai hết.
- Bán đảo Ả Rập: Tôi tóm
tắt được bi kịch của bán đảo đó trong câu đầu: nó bị Dầu lửa chi
phối mạnh hơn Hồi giáo. Lời lưu loát mà giọng rất mỉa mai, phẫn uất.
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười: Tình
thương của các bà già miền Nam. Đoạn mở đầu đột ngột và lí thú.[23]
Tựa viết cho các bạn:
- Úc viên thi thoại của
Đông Hồ.
Mở đầu tôi giảng tại sao thi thoại khó
viết: phải vừa là nhà thơ vừa là nhà văn, có danh, có uy tín, lịch lãm nhiều,
đọc sách nhiều.
Đoạn giữa tôi nhắc lại những hồi ức Đông
Hồ, chứng tỏ ông có đủ những điều kiện trên.
Vì bài tựa đó bà quả phụ Đông Hồ, nữ sĩ
Mộng Tuyết, nhờ tôi viết khi xuất bản tác phẩm của chồng, nên cuối bài tôi ghi
lại việc đó: “Chẳng qua nữ sĩ Mộng Tuyết nghĩ rằng sinh thời thi sĩ coi tôi vào
hàng tâm giao nên bây giờ cho tôi được kí tên dưới tên thi sĩ đấy. Tấm lòng đó
thật cảm động. Xin ghi ơn nữ sĩ”.
Thi sĩ Quách Tấn khen bài đó tôi không làm
văn mà lời rất cảm động.
- Đất nước quê hương của
Võ Phiến.
Bút pháp bài này cũng giống bút pháp bài
tựa Úc viên thi thoại. Mở đầu tôi cũng xét về thể tuỳ bút: nó rất
tự do, gặp gì chép nấy, nghĩ sao nói vậy, tưởng là dễ viết mà thực ra rất khó;
phải có giọng thân mật, hấp dẫn như một câu chuyện thanh nhã giữa những người
bạn đồng điệu lúc ngồi bên giàn hoa hay một ấm trà, lời phải tự nhiên, có
duyên, nội dung phải thay đổi, có ý vị.
Đoạn giữa tôi cũng chứng tỏ Võ Phiến có đủ
điều kiện đó. Nhưng đoạn kết thì khác, tôi bảo nhờ thượng cấp của ông – ông là
nhân viên Nha Thông tin – muốn trừng phạt ông mà ông có dịp đi đây đi đó khắp
trong nước, viết được tập Đất nước quê hương. “Vậy trong cái rủi
vẫn thường có cái may. Và khi một nhà văn biết lợi dụng nghịch cảnh thì chẳng
những có ích cho mình mà còn có ích cho độc giả, cho văn hóa nữa”.
Đông Hồ thường khen với tôi rằng Võ Phiến
viết tuỳ bút hay nhất trong Nam. Tôi rất vui được họ Võ nhờ viết bài tựa đó.
- Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của
Nguyễn Văn Hầu.
Bố cục bài này tự nhiên mà lạ. Mới đầu tôi
nói về miền Tây Nam Việt, rồi thu lại, nói về miền Hồng Ngự - Cao Lãnh (tôi gọi
là miền Hồng Cao); sau thu lại nữa, nói riêng về Cao Lãnh, quê hương của Nguyễn
Quang Diêu; lại thu nữa, nói về đời Nguyễn Quang Diêu và ông Nguyễn Văn Hầu tác
giả cuốn sách; đây là tâm điểm của bài tựa. Từ tâm điểm tôi toả ngược ra nói về
các nhà cách mạng ở miền khác; rồi nói tới các học giả các miền khác có tân học
và cựu học như Nguyễn Văn Hầu, và tự hỏi tại sao Viện Khảo cổ không biết nhờ họ
giúp sức cho mau kết quả. Rồi tôi lại toả rộng ra nữa, nói về tất cả các công
việc văn hoá khác: Khảo cứu địa lí, soạn Tự điển v.v…; sao chính quyền không nhờ
toàn dân giúp sức mà cứ ôm lấy hết về mình. Và cuối cùng tôi kết: “… khi toàn
dân thấy có thể giúp chính quyền trong mọi phạm vi, có trách nhiệm hợp tác với
chính quyền trong mọi hoạt động, thì lúc đó mới có sự đoàn kết thực sự và công
việc xây dựng quốc gia mới tiến triển mau được”.
Như vậy là từ tâm điểm toả ngược ra lần
lần, cuối cùng bao cả vòng khởi thuỷ. Văn ba lan, tiến lui như
những đợt sóng.
Bài Tựa đó, ông Đông Hồ khen là: “còn hay
hơn cả cuốn sách”. Mấy năm sau đọc lại, tôi mới nhận ra rằng bút pháp bài đó
giống hệt bút pháp của Tăng Củng trong bài Kí Âu Dương Xá nhân thư mà
khi viết tuyệt nhiên tôi không nghĩ tới. Cổ văn thâm nhập vào tôi mà tôi không
hay.
- Bài được các bạn văn khen hay nhất là bài
Tựa tập Qê hương của Nguyễn Hữu Ngư. Tôi tả kĩ dáng người, y
phục, cử chỉ, ngôn ngữ của tác giả, vạch tình của ông đối với nước, với nhà,
bạn bè; ghi lại những lúc ông bị thất vọng mà muốn hoá điên, đi lang thang khắp
nơi bị cảnh sát nhốt, đánh đập… khiến tôi nhớ tới Từ Vân Trường đời Minh bên
Trung Quốc mà Viên Hoàng Đạo cho là “vô chi vi bất kì” cho nên “vô chi vi bất
kì”, vì khác người nên gặp cảnh gian truân, trắc trở. Nguyễn Hữu Ngư quả là một
kì nhân ở nước ta, mà tập Qê hươngcũng là một kì thư: nội dung thật
loạn, đủ các thể, đủ thứ tài liệu, không thể đặt nó vào loại nào được cả.
Tôi nhớ hôm ông lại tôi lấy bài Tựa rồi
không ra về mà ngồi bệt ngay xuống dưới mái hiên để đọc. Tôi ở trên lầu nhìn
xuống, đợi ông đọc xong, hỏi: “sao, anh có vừa ý không?”. Ông cười, đáp: “Ngoài
ước vọng nữa”.
Ông mất năm 1978, sau khi ở Dưỡng trí viện
Biên Hoà về nhà được độ một tháng. Bạn bè ai cũng thương tiếc.
Ngoài ra nên kể bài Tựa:
- Cuốn Trần Quí Cáp của
Lam Giang do con cháu nhà cách mạng họ Trần nhờ viết; và cuốnThi văn Hán
Việt của Đông Xuyên mà đoạn cuối giọng
rất thân mật.
* Du kí: Tôi chỉ có hai
tập: Đế Thiên Đế Thích, và Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười mà
tôi đã giới thiệu trong một chương trên.
* Sách dịch:
- Sống đẹp: Tôi xin nói trước
hết về tập Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, thuộc loại cảo luận,
rồi sẽ xét các tiểu thuyết sau. Cuốn nào tôi dịch cũng kĩ, nhưng thích nhiều
hay ít dĩ nhiên là tuỳ nội dung từng cuốn, tài của tác giả.
Lâm Ngữ Đường viết cuốn Sống đẹp bằng
tiếng Anh, nhan đề là The Importance of livingtừ 1937. Khoảng 1957
tôi được đọc bản dịch ra tiếng Pháp L’Importance de vivre của
nhà Corrêa, thấy tác phẩm rất hay mà bản dịch kém. Mấy năm sau tôi thấy ở nhà
xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình như của Vũ Bằng[24] cũng
tấm thường mà lại cắt bỏ nhiều quá, chỉ còn độ một phần ba, như vậy ý nghĩa của
tác phẩm không còn gì cả. Từ đó tôi có ý dịch lại, muốn vậy phải có nguyên bản
tiếng Anh và phải tra được những nhân danh, địa danh bằng chữ Hán.
Năm 1964 tôi viết thư hỏi thẳng tác giả ở
Mĩ. Ông hồi âm liền từ Thuỵ Sĩ, nơi ông đang du lịch, vui vẻ cho phép tôi dịch,
và cho biết nguyên bản tiếng Anh không còn, nhưng có bản Hoa dịch nhan đề là Sinh
hoạt đích nghệ thuật. May sao ông Giản Chi có bản này (do Việt Duệ dịch –
nhà Thế giới Văn hoá xuất bản – 1940) và cho tôi mượn. Bản đó đầy đủ, chép hết
những cổ văn, cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều khi
chép thêm bản dịch những bài đó của Lâm nữa. Thế là tôi có được hai bản của Hoa
và Pháp. Tôi so sánh rồi khởi công dịch liền, cuối năm 1964 xong. Trong khi
dịch, luôn ba hay bốn tháng, tôi thấy vui gần như hồi trước dịch cuốn Quẳng
gánh lo đi, vì nhân sinh quan nhà tản của Lâm – mà chính là của Trung Hoa –
vì tinh thần nghệ sĩ và hài hước của ông, vì giọng tự nhiên, thân mật, đôi khi
như cười cợt, đùa bỡn nữa, không khác một cuộc đàm thoại chung quanh một bình
rượu hay một ấm trà giữa những người bạn đồng điệu.
Nhờ có những văn thơ bằng chữ Hán, khỏi phải
dịch theo bản tiếng Anh hay Pháp, nên tôi biết chắc rằng bản dịch của tôi sẽ
được hoan nghênh, độc giả sẽ thích hơn là đọc nguyên tác của Lâm. Cuốn Sống
đẹp bán chạy. Nhà Tao Đàn in hai ba lần mỗi lần ít nhất 3.000 bản, lần
đầu vào tháng 3 năm 1965.
Nhiều độc giả khen là dịch khéo, trong số
đó có Đông Hồ. Một độc giả tôi chưa hề quen, bác sĩ Trần Văn Bảng (học trường
Bưởi trước tôi vài năm) thích quá, làm một bài thơ nhan đề là Sống đẹp gởi
tặng tôi. Bài gồm 5 đoạn, tôi chép lại đây đoạn giữa:
---
Đây tư tưởng chín tầng mây siêu việt
Sang sảng nghe tiếng nói của thánh hiền
Ngọc chuốt, châu gieo, lời vàng, ý thép
Khiến tâm linh hoan lạc cõi vô biên
---
Từ đó chúng tôi thành bạn thân. Ông hồn
nhiên, vui tính, hình như sống hơi lôi thôi, thích làm thơ, đánh mạc chược,
chắc đã lựa lầm nghề y sĩ.
Năm 1977, trước khi qua Pháp đoàn tụ với
con, ông lại thăm tôi, xin một bản Sống đẹp để mang theo. Ít
bữa sau ông trở lại, đưa hai tay lên trời, bảo: “Họ không cho mang theo mà còn
tịch thu nữa”. Vài tác phẩm của Lâm viết bằng tiếng Anh được dịch ra 14 thứ
tiếng, và có hồi ông làm Trưởng ban Văn nghệ cơ quan Văn hoá Liên hiệp quốc.
Mấy năm nay ông Bảng vẫn liên lạc với tôi
bằng thư, vẫn vui sống, thỉnh thoảng làm một bài thơ “tếu”, tôi tặng ông biệt
danh Tú Sụn (vì đã có Tú Xương và Tú Mỡ rồi).
- Chiến tranh và Hoà bình
Trong tạp chí Tân Văn năm 1969, không nhớ
tháng nào, đăng bài Tôi dịch Chiến tranh và Hoà bình kể lại do
đâu tôi dịch bộ đó và dịch khó nhọc mà vui ra sao.
Trong một chương trên tôi đã kể lối dịch bộ
đó; trong phần giới thiệu [Chiến tranh và Hoà bình] tôi cũng đã phân
tích nghệ thuật của Tolstoi, đây chỉ xin ghi lại cái duyên văn tự khiến tôi hợp
tác với nhà Lá Bối.
Tôi thích Chiến tranh và Hoà bình hồi
ở trung học, và khoảng 1961-62 tôi đã muốn dịch, đề nghị với hai nhà xuất bản
lớn ở Sài Gòn, hễ khi nào thấy có thể in được thì cho tôi hay, tôi sẽ khởi công
liền.
Tới tháng 9 năm 1966, lời đề nghị đó vẫn
chưa được hai nhà đó xét; họ bận quá, có lẽ họ không nhớ tới. Trong bài Đả
phá dễ hay xây dựng dễ đăng trên Tin Văn ngày
15.9.66, tôi nhắc lại đề nghị.
Bài đăng được khoảng một tháng thì một hôm
một vị mà tôi chưa hề gặp mặt lại thăm tôi, tự giới thiệu là Giám đốc nhà xuất
bản Lá Bối, tặng tôi ít cuốn sách và nhân đọc bài của tôi đăng trên Tin
Văn mà nhờ tôi dịch cho Chiến tranh và Hoà bình.
Tôi nhận lời, hứa trong hai năm sẽ xong.
Nửa tháng sau một nhà xuất bản khác cũng lại nhờ dịch. Về sau hai nhà xuất bản
nữa tỏ ý tiếc rằng không hay trước. Quả đã tới lúc độc giả đòi hỏi loại sách
đó.
Ông Giám đốc nhà Lá Bối đó là Đại đức Từ
Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết. Sau thầy cho tôi hay là hồi tôi còn ở Huỳnh
Tịnh Của, trước năm 1960, đã có lần đem lại tặng tôi cuốnDuy thức luận của
Thạc Đức, tức Thượng toạ Nhất Hạnh sau này, là một cây bút Phật giáo nổi tiếng,
tôi quí và mến. Thầy Từ Mẫn lúc đó còn là một tu sĩ, sinh viên Phật học, bạn
của Thạc Đức. Tôi nhớ lại việc đó, hỏi thầy:
- Đọc xong Duy thức luận, tôi
thấy sáng sủa, hay, có viết thư lên Đà Lạt cảm ơn, khen và khuyến khích tác giả
viết về lịch sử Phật giáo từ khởi thuỷ đến nay, mà sao không thấy hồi âm?
Tôi lại hỏi:
- Đã biết tôi từ mươi năm trước mà sao bây
giờ mới lại kiếm tôi?
Từ đó, chúng tôi thân với nhau. Thầy trẻ
hơn tôi, vui vẻ, thành thực, làm việc cẩn thận, có tư cách, trọng chữ tín, học
lực khá, kín đáo nhưng thân mật. Cả Giản Chi với tôi đều khen là đứng đắn nhất
trong giới xuất bản.
Tôi khởi công dịch Chiến tranh và
Hoà bình liền, dịch rất kĩ, giới thiệu tác giả và tác phẩm cũng kĩ,
non một năm rưỡi thì xong. Xoay được đủ vốn, nhà Lá Bối cho in ngay, đầu năm
1969 ra được cuốn đầu khoảng 750 trang, rồi ba tháng sau ra nốt ba cuốn nữa, do
hai nhà in sắp chữ. In 3.000 (hay 5.000 ?) bản, vốn khá nặng (mấy triệu đồng
thời đó), nhờ báo chí giới thiệu và khen, nhờ Lá Bối có sẵn một
số độc giả đông, nhờ quảng cáo trên màn ảnh Sài Gòn, nên sách bán chạy, ba năm
sau tái bản, nhưng vừa in xong đủ bộ gởi tạm trong kho trường Thanh niên phụng
sự xã hội thì quân đội Giải phóng vào[25].
Tôi nhớ lại trong năm sáu tháng sắp chữ bộ Chiến
tranh và Hoà bình, ngày nào thầy Từ Mẫn cũng lại tôi hai lần, đưa bản vỗ để
thầy và tôi cùng nhau sửa, trước khi giao cho nhà in. Mỗi ngày thầy lái xe
Honda đi đi về về không biết mấy lần từ nhà xuất bản đến nhà in, nhà tôi, tính
ra tới 50 cây số.
Trong số các nhà xuất bản, hợp tác với thầy
tôi thấy thích nhất, và chỉ trong 4-5 năm, thầy in cho tôi được khoảng chục tác
phẩm, mà hai cuốn quan trọng nữa là Chiến Quốc sách, Sử kícủa
Tư Mã Thiên, cả hai đều bán chạy, tái bản trong một hai năm. Giản Chi và tôi
thành những nhà văn có nhiều tác phẩm nhất trong tủ sách Lá Bối. Như có duyên
tiền kiếp với nhau.
Gần cuối năm 1979, thầy Từ Mẫn vượt biên
“chui”, tới Thái Lan gởi thư về thăm Giản Chi và tôi, cũng như ông Hồ Hải, nhà
Cảo Thơm, tháng 7.1980 thầy đã qua Mĩ.
- Kiếp người
Chiến tranh và Hoà bình rất
dài và có nhiều chương lí thuyết về lịch sử đọc chán lắm, nhưng tôi giữ trọn,
không bỏ một hàng vì tôi nghĩ tác phẩm đó lớn quá, nước mình nên có một bản
dịch đầy đủ, rồi sau muốn phổ biến thì sẽ cắt bớt.
Kiếp người (Of
human bodage) của Somerset Maugham chỉ bằng một phần tư Chiến tranh và Hoà
bình mà tôi lại cắt đi non một nửa – cắt những đoạn tả phong tục và
đời sống bên Anh cuối thế kỉ trước – để tác phẩm bớt rườm rà mà thêm hấp dẫn,
vì nghệ thuật của Maugham kém Tolstoi. Chính Maugham cũng nhận Tolstoi là bực
thầy.
Tuy nhiên tôi cũng rất thích Kiếp
người và vẫn thường say mê đọc lại. Ông Giản Chi cũng vậy. Không có
một tác phẩm nào tả được nhiều nỗi đau như thế; đau khổ của một đứa bé mồ côi
cả cha lẫn mẹ, phải ở nhờ ông bà bác, xa chị vú thân yêu; đau khổ của một kẻ
tàn tật, hồi đi học thì bị bạn giễu, lớn lên bị thiên hạ khinh; rồi cảnh khổ ở
nội trú, nỗi thất vọng, chua chát khi mất lòng tin Chúa, nỗi chán chường khi
phải học một nghề mình không ưa, sau khi phải tranh đấu với ông bác để được
phép học được nghề mình thích thì lại thất vọng nhận ra rằng mình không có
khiếu về nghề đó; đau khổ, tủi nhục nhất là yêu một con điếm mà nó không yêu
lại, bị nó phản với bạn thân của mình, vậy mà vẫn không quên nó được; rồi cảnh
đầu cơ nhẳn túi phải lang thang ở ngoài đường, uống nước máy, ngủ công viên,
nhịn đói ba bốn ngày, phải bỏ học, nhận một chân chỉ dẫn khách hàng trong một
tiệm buôn; sau cùng chỉ nuôi mỗi cái mộng đi du lịch thế giới mà đành phải bỏ,
chịu sống cuộc đời vô vọng của một y sĩ trong một vùng quê nghèo.
Đó là nỗi khổ của Philip, nhân vật chính.
Các nhân vật phụ - trừ gia đình Athelny, nghèo mà hoà thuận, thương người, cứu
mạng Philip – cũng mỗi người mang một cây thánh giá: bà bác Philip cô độc,
không có con, yêu cháu như con mà nó bỏ bà đi qua Paris học vẽ; một giáo sư Ý
qua Đức dạy tư, đói quá, không giảng được bài; một thiếu nữ, học vẽ mấy năm
không tiến bộ, khi hết tiền tự tử; một thiếu nữ khác, cô Norah, yêu Philip, săn
sóc từng ly từng tí cho chàng mà chàng không sao yêu lại được; một bác sĩ già,
bác sĩ South, giận con gái và chàng rể, mà phải sống cô độc. Lạ lùng nhất là
truyện đó Maugham viết hồi bốn mươi tuổi, về già cảnh của ông y như cảnh của
bác sĩ South, cũng chỉ có mỗi cô con gái, cũng bất hoà với con rể mà sống một
thân một mình.
Bao nhiêu nỗi khổ của con người trước Thế
chiến thứ nhất, đã được Maugham tả hết, không sót. Truyện có tính cách hợp nhân
tình kì lạ, đến nỗi tôi tưởng đổi tên người và tên đất đi, thì có thể thành một
tiểu thuyết Việt Nam thời 1920-30. Nhiều nhân vật điển hình như Philip,
Mildred, Altheny, Norah, bác sĩ South… Văn rất giản dị, giọng chua chát, có khi
dí dỏm, cảnh vật chỉ tả bằng vài nét đơn sơ mà gợi cảm. Bút pháp tự nhiên, điêu
luyện tới mức không còn vết điêu luyện.
Tác giả không thuyết lí, không dạy đời, mà
gợi cho tôi lòng tha thứ kẻ khác, rán yêu đời, hy vọng ở tương lai, tìm hạnh
phúc trong một tình thương chân thành và một đời sống giản dị. Triết lí đó rất
Á đông. Lần đầu đọc xong tác phẩm, gấp sách lại rồi mà hai ba ngày sau tôi còn
thấy một dư âm ở trong lòng, nửa vui nửa buồn, triền miên, bồi hồi. Một bà láng
giềng đọc xong chạy qua bảo: “Hay quá”.
Cuốn đó tôi dịch xong từ 1961, đưa cho nhà
Khai Trí, họ không nhận, tôi cất đi, đợi cơ hội khác. Năm 1962, ông Paulus
Hiếu, tôi quen từ hồi ở Long Xuyên, lúc này đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu, làm
bộ trưởng Công dân vụ. Ông từ trước vẫn thích văn chương, đã giúp đỡ vài nhà
thơ như Vũ Hoàng Chương, Hư Chu, và đã bỏ vốn xuất bản cho tôi cuốn Tổ
chức công việc theo khoa học. Ông mời một số nhà văn có tên tuổi lại bộ,
yêu cầu họ dịch cho một số tác phẩm có giá trị cho thanh niên đọc. Tôi không
tới dự buổi họp, nhưng vì tình cũ, tôi hứa giúp; nhân có bản thảo Kiếp
người, tôi đưa ông, ông cho in liền, cuối 1962 hay đầu 1963 phát hành, giá
rẽ mà không ai mua, gần như chỉ để phát không.
Đầu năm 1967, bốn năm sau, tôi tưởng sách
đã bán hết, đưa nhà Lá Bối tái bản, thì sách bán rất chạy. Thầy Từ Mẫn nói với
tôi:
- Ngày phát hành tôi ngại quá. Các nhà sách
bảo tôi cuốn đó ế, bản in của Tủ sách Thanh niên Cộng hoà vẫn còn. Nhưng ít
tuần sau, tôi thấy sách bán chạy. (Thì ra cái gì của chính quyền thời đó in,
dân chúng đều không đọc, của mình in thì đọc. Bản của chính quyền bày ở vỉa hè,
giá son có 50đ mà không ai mua, người ta tìm mua bản của nhà Lá Bối (giá 200
hay 250đ).
Năm 1974, Kiếp người được
nhà Lửa Thiêng in lại một lần nữa. Lần đó có sửa
chữa vài chỗ[26].
Năm 1971, ông Giám đốc nhà xuất bản Trí
Đăng, một giáo sư trung học còn trẻ nhờ tôi dịch cho một tiểu thuyết. Tôi đề
nghị cuốn Il est un point sur la Drina của nhà văn Nam Tư Ivo
Andritch. Cuốn này cũng hay. Kỷ thuật mới mẻ. Lịch sử trên 300 năm
của Nam Tư được kể thành 24 truyện trong 24 chương, chuyện nào cũng liên quan
đến một chiếc cầu đá xây cất từ thế kỉ XVI trên sông Drina. Truyện rất hấp dẫn,
phân tích tâm lí rất sâu sắc, nhiều nhân vật điển hình, giọng văn khi thì hùng,
khi thì hài hước, lắm chỗ nên thơ, triết lý nhẹ nhàng.
Ông Trí Đăng sau năm 1975, qua Mĩ, trước
khi đi có lại chào tôi, tới Mỹ có gởi lời thăm tôi, hiện nay ông làm cho nhà in
Việt ở Los Angeles.
- Trước đó, năm 1969, ông Hoài Khanh, thi
sĩ kiêm Giám đốc nhà xuất bản Ca Dao, ít vốn nhưng nhiều nhiệt tình, có lí
tưởng, muốn lập một tủ sách “Phi châu và Da đen”, nhờ thầy Từ Mẫn
giới thiệu với tôi để yêu cầu tôi dịch cho cuốn Cry, my beloved country của
Alan Paton, đưa cho tôi bản Pháp dịch của nhà Albin Michel: Pleure, ô
pays bien aimé. Tôi đọc thấy cảm động, tác giả có lòng thương dân da đen và
có hồn thơ nên tôi nhận lời.
Tôi dịch rất kĩ, nhan đề là Khóc
lên đi, ôi quê hương yêu dấu, rán theo sát cái giọng chất phác của các nhân
vật da đen, lại kiếm tài liệu để viết bài Tựa dài 25 trang giới thiệu tác giả
và tác phẩm, vạch chính sách vô nhân đạo của thực dân da trắng ở Nam Phi.
Sách bán chạy, được một số độc giả khen là
dịch khéo.
- Sau tôi còn dịch cho nhà Ca Dao cuốn Things
fall apart (Quê hương tan rã) của một tác giả da đen: Chinua
Achebe.
Ông Hoài Khanh tặng tôi một gốc ngọc lan để
thay gốc Nguyễn Hữu Ngư cho tôi mười năm trước, vì trốc rễ trong cơn giông mà
chết.
Sau ngày giải phóng ông lại thăm tôi một
hai lần, mấy năm nay không có tin tức.
*
Nay ôn lại những năm từ 1961 đến 1974, mua
được căn nhà ở đường Kì Đồng rồi, tôi rút công việc xuất bản tới mức tối thiểu,
để toàn lực vào việc viết văn. Được vài tờ báo và vài ba nhà xuất bản yêu cầu
hợp tác, nhờ vậy mà tôi viết được khá nhiều, trong nhiều lãnh vực, khiến có
người phải ngạc nhiên rằng về vấn đề gì tôi cũng bàn được với một tinh thần
nghiêm túc, bằng một bút pháp giản dị, sáng sủa. Năm 1975, trên một bài báo, Võ
Phiến khen tôi: “Ông Nguyễn có cái tài của một nhà giáo là trình bày ý kiến
thật rành mạch, khiến những vấn đề rắc rối, tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị,
minh bạch”.
Có thể nói những năm đó tôi sống đầy đủ
nhất, được cảm tình của nhiều độc giả nhất, được thêm nhiều bạn văn nhất, uy
tín lên nhất.
Những bạn văn đó đều giúp tôi được nhiều,
đều lưu lại nhiều kỉ niệm đẹp cho tôi. Tôi nhớ hồi tôi đau nặng, nấc cục luôn
một tuần, ông Trí Đăng tự ý tìm thuốc cho tôi uống, và coi vợ chồng tôi như
người thân trong nhà.
Hôm nay trời u ám, nhìn chung quanh, mười
bạn chỉ còn vài ba, những người khác ở chân trời gốc bể cả. Tôi bùi ngùi nhớ
lại câu thơ của Tú Xương:
[1] Muốn giỏi
toán hình học, đại số tức ba cuốn: Muốn giỏi toán hình học phẳng, Muốn
giỏi toán hình học không gian, Muốn giỏi toán đại số. (Goldfish).
[2] Đoạn trích này
có vài khác biệt nhỏ, so với bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc đăng lại trong cuốn Nguyễn
Hiến Lê – Con người và tác phẩm, Nxb Trẻ, năm 2003. (Goldfish).
[4] Ở đây, ông
Nguyễn Hiến Lê goi tắt cho gọn, thực ra các nhan đề do chính André Maurois đặt
lại dài hơn. Tiểu sử về George Sand là Lélia ou la
vie de George Sand, về Victor Hugo là Olympio ou la vie de Victor Hugo, về
Balzac là Prométhée ou la vie de Balzac. Riêng về Marcel Proust thì Maurois lấy
luôn nhan đề tác phẩm chính của Proust. Tiểu sử về Marcel Proust có nhan đề là
À la recherche de Marcel Proust. (BT). [Nhan đề tác phẩm chính của Proust là: À
la recherche du temps perdu. (Goldfish)].
“Trong Phụ lục, tôi thêm ba chương chê cuộc Cách
mạng Văn hoá 1965-66 của Mao. Năm 1976 trong một cuộc toạ đàm ở Sài Gòn giữa
ông Hà Huy Giáp, Thứ trưởng bộ Văn Hoá, ông Hà Xuân Trường, thứ trưởng Giáo dục
ở Hà Nội vào, với khoảng mười nhà văn “nằm vùng”, hoặc “tiến bộ” ở Sài Gòn, tôi
hỏi ông Giáp:
Trong cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại tôi có
chỉ trích cuộc Cách mạng Văn hoá năm 1966 của Trung Hoa, như vậy có hợp với
đường lối của chính phủ không?
Ông do dự một chút rồi đáp:
- Tôi không biết cuộc cách mạng đó ra sao, nhưng mỗi nước có một
đường lối văn hóa riêng.
Lúc đó tôi mừng lắm. Chính phủ Việt Nam sáng suốt hơn
Trung Hoa, mặc dù trước đã phạm lỗi “Trăm hoa đua nở” như họ. Nhưng chỉ hai năm
sau, có lệnh ở Hà Nội bắt miền Nam phải huỷ hết những sách báo xuất bản trước
ngày 30-4-75, chỉ được giữ lại những sách về ngôn ngữ, nghề nghiệp, khoa học tự
nhiên, tôi thấy Hà Nội cũng không hơn gì Bắc Kinh. Tin đó làm cho dư luận Sài
Gòn rất xôn xao, chính quyền phải tuyên bố tạn hoãn để xét lại rồi êm luôn”.
(Sđd, tr. 224-225). (Goldfish).
[10] Viết thêm năm
1984: giữa năm 1982, ông Chình qua Pháp với con, mang theo bản tiếng Pháp của
bộ đó. Đầu năm 1983 ông mất, nghe nói bộ đó sẽ được in ở Pháp.
[11] Maurice Durant:
Nhân viên trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội trước năm 1954, ông, cha Pháp, mẹ
Việt. Sau về Pháp dạy tại Collège de France. M.Piat: Thạc sĩ văn phạm, những
năm 1963-1973 giáo sư tại Đại học Văn khoa Huế và Sài Gòn. (BT).
[12] Năm 1990 Nxb
Long An in với nhan đề Chúng tôi tập viết tiếng Việt.
(BT). [Do ông Nguyễn Q. Thắng “góp thêm” vài bài mà “Tôi” trở thành “Chúng tôi”
(!). (Goldfish).
[13] Trong ĐVVCT có
thêm câu này: Ông Đông Hồ tặng chúng tôi bài thơ chữ Hán: Bách luyện
thiên kim một tháng trước khi mất. (Goldfish).
[15] Trong câu tôi
cắt bỏ này đại ý tác giả bảo sự ví von đó không có ý gì bất kính với hai đấng
vĩ nhân cả.
[17] Trong ĐVVCT in
là: “Đầu tháng giêng 1960 (12 tháng chạp năm Kỷ Hợi) người quy
tiên…”. (Goldfish).
[18] Trong ĐVVCT có
đoạn này: “Sự nghiệp viết văn của tôi phần lớn nhờ người khuyến khích và giúp
sức trong những buổi ban đầu; và tôi mừng rằng xuất bản được ba cuốn kể trên: Đông
Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương văn học sử Trung Quốc;
trước khi người mất, tôi đã làm người hài lòng. Tình bác cháu chúng tôi cũng ít
thấy trong các gia đình”. (Goldfish).
[21] Trong ĐVVCT còn
có câu sau: “Chính vì đọc bài ấy mà các bạn Đông Hồ, Ngu
Í mua hai loại cây ấy cho tôi khi tôi có nhà mới ở Kỳ Đồng”. (Goldfish).
[22] Ông Châu Hải Kì
đề nghị cụ Nguyễn Hiến Lê tuyển các bài tựa viết cho mình và viết cho bạn văn,
nhưng cụ chỉ lựa trong số các bài tựa viết cho bạn văn mà thôi. (Goldfish).
[25] Trong ĐVVCT in
là: “…thì quân đội Giải phóng vào khám xét trường, tịch thu
hết. Thầy Từ Mẫn bị bắt giam để điều tra, hơn một tháng sau mới được thả”.
(Goldfish).
“Hôm nay trời u ám, nhìn chung quanh mười bạn chỉ còn vài ba,
những người khác hoặc đã thất lộc, hoặc ở chân trời góc bể cả. Tôi bùi ngùi nhớ
lại câu thơ của Tú Xương:
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa xa có nhớ ta không?”
(Goldfish).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét