Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

TÔI ĐI TÌM TỰ DO - NGUYỄN HỮU CHÍ - KỲ 96 ĐẾN HẾT

KỲ 96
Sáng hôm sau thức dậy, nghĩ lại những chuyện xảy ra tối hôm trước, tôi vẫn còn bàng hoàng, hoảng hốt. Tôi thực không ngờ mấy câu nói liều lĩnh của tôi vào giây phút cuối cùng lại có thể cứu sống cuộc đời tôi. Nếu tôi không nói những câu đó, không biết bây giờ, tính mạng tôi đã ra sao? Tôi cũng mong người công an Trung Cộng sẽ phiên dịch đầy đủ câu nói của tôi khi báo cáo lên thượng cấp. Như vậy, tôi hy vọng, số phận của tôi sẽ không đến nỗi bi đát. Nghĩ đến đó tôi lại băn khoăn tự hỏi, nếu người phiên dịch không tường thuật hết ý nghĩ câu nói cuả tôi thì sao? Và dù cho người công an làm nhiệm vụ thông ngôn có tường thuật hết ý nghĩa câu nói của tôi đi nữa, đã chắc gì thượng cấp Trung Cộng hiểu thấu quyết tâm “sẵn sàng chết, nhất định không chịu trở về VN” của tôi, khi họ không hề có mặt lúc câu chuyện xảy ra?

Sau một lúc suy nghĩ, tôi thấy tôi cần phải chủ động làm một cái gì cho rõ ràng, quyết liệt, để cho thượng cấp của công an Trung Cộng hiểu rõ lòng quyết tâm của tôi chứ tôi không thể âm thầm thụ động, trông chờ ở sự đồng cảm của họ. Nghĩ vậy, tôi liền quyết định viết một lá đơn xin tỵ nạn chính trị, gửi cho chính phủ Trung Cộng. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh ngôn ngữ bất đồng như vậy, lời nói của tôi chắc chắn không giá trị bằng những gì viết trên giấy trắng mực đen. Một khi tôi trình bầy quyết tâm của tôi trong thư, dù là bằng tiếng Việt, chắc chắn sẽ được giới chức cao hơn quan tâm. Và nếu quả thiệt, lời nói của tôi tối qua có thể lay động trái tim của những người người công an Trung Cộng, thì chắc chắn những gì tôi viết trên giấy cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đối với giới chức hữu trách Trung Cộng.
Nghĩ vậy tôi liền gõ cửa, xin với người lính gác một tờ giấy và cây viết. Vì người lính gác không biết nói tiếng Việt nên tôi phải ra dấu một hồi. Khi hiểu, người lính gác chạy đi, nhưng không phải là đi lấy giấy mà là gọi Trung, người công an thông ngôn đến.
Trung mở cửa hỏi tôi, giọng thân mật:
- Phàn cố (anh Phạm) cần bút giấy để làm gì?
Tôi lễ phép:
- Thưa cán bộ, tôi cần viết một cái đơn gửi cho Vòa Coóc Phóng sếnh sáng (Hoa Quốc Phong tiên sinh).
Trong mấy ngày bị giam giữ, tôi đã lõm bõm học được một ít tiếng Quảng, nên sử dụng ngay.
Trung ngạc nhiên không hiểu:
- Vòa Coóc Phóng là ai?
Tôi biết vì quá bất ngờ nên Trung không hiểu ý của tôi. Tôi nói rõ hơn:
- Hoa Quốc Phong Chủ tịch nước Trung Hoa đó, cán bộ.
Trung càng ngạc nhiên hơn:
- Phàn cố cũng biết Chủ tịch nước Hoa Quốc Phong của chúng tôi nữa sao?
Tôi nói rõ hơn:
- Thưa anh, tôi còn biết Hoa Quốc Phong là Chủ tịch Quốc Vụ Viện (chức vụ tương đương thủ tướng), và Chủ tịch Hội Đồng Quân Uỷ Trung Ương (chức đảng cao nhất trong quân đội Trung Cộng) nước Trung Hoa nữa đó.
Trung ngạc nhiên và thích thú:
- Ồ, Phàn cố giỏi quá nhỉ! Để tôi đi lấy giấy bút….
Khoảng mười phút sau, Trung bước vô nói giọng vui vẻ:
- Giấy bút đã có đầy đủ rồi. Mời Phàn cố ra bàn ngoài này ngồi viết cho thoải mái.
Tôi bước ra ngoài thấy trên chiếc bàn hỏi cung, ngoài giấy bút, còn có một ly nước, một bình trà và một đĩa kẹo sữa, loại vẫn thường thấy bán ở Hà Nội, Hải Phòng…
Trung rót trà mời tôi và nói:
- Phàn cố yên tâm, chúng tôi sẽ báo cáo nội vụ đêm qua lên thượng cấp, và bảo đảm Phàn cố sẽ không bị trả về Việt Nam đâu.
Tôi cảm ơn Trung, giọng xúc động thật sự:
- Nói thực với cán bộ, tôi thực sự là một nạn nhân của cộng sản Việt Nam. Nếu còn sống ở Việt Nam, sớm muộn gì tôi cũng sẽ bị cộng sản Việt bắt và giết. Vì vậy bây giờ may mắn tôi đã đến được đất nước Trung Hoa, tôi nhất định không khi nào trở lại Việt Nam. Dù chết tôi cũng không về. Nhờ anh nói dùm với thượng cấp của anh để họ hiểu lòng quyết tâm của tôi là như thế.
Trung gập đầu hứa sẽ tận tình giúp đỡ tôi. Sau đó Trung mời tôi hút thuốc, uống trà, ăn kẹo…, rồi để tôi một mình ngồi viết thư “gửi Chủ tịch Hoa Quốc Phong”.
Chuyện này xảy ra cách đây ngót 30 năm, nhưng tôi vẫn nhớ như in trong óc, vì ngay chiều hôm đó, tôi được chuyển về ở khách sạn Hồng Kỳ (tiếng Tàu gọi là Chiêu Đãi Trạm), được cấp giấy bút, nên tôi có viết nhật ký, ghi lại những sự kiện quan trọng này. Những cuốn nhật ký đó hiện tôi vẫn còn giữ, trong đó có cả những bài học tiếng Hoa đầu tiên của tôi.
Hôm đó, trong lá thư viết đề ngày 5, hay 6 tháng 10 năm 1979, tôi có ghi rõ trên đầu lá thư: “Kính gửi Ngài Hoa Quốc Phong”. Hàng chữ này tôi viết chữ in, thiệt lớn, gần hết bề ngang trang giấy. Ba dòng kế tiếp, tôi viết chữ hoa, nhỏ hơn, mỗi dòng là một chức vụ của Hoa Quốc Phong: Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chủ tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chủ tịch Hội Đồng Quân Ủy Quân Đội Nhân Dân Trung Hoa”. Dưới ba dòng này là dòng chữ hoa, viết lớn: “Đơn Xin Tỵ Nạn Chính Trị của Phạm Thái Lai”.
Phần kế tiếp, tôi ghi rõ tên họ (Phạm Thái Lai), ngày sanh, nơi sanh, nghề nghiệp, cùng hoàn cảnh tôi bị cộng sản Việt Nam bắt bỏ tù, phải vượt ngục, vượt biên sang Trung Quốc để xin tỵ nạn chính trị như thế nào. Ngoài ra, tôi cũng ghi rõ họ tên, địa chỉ của những người thân hiện ở ngoại quốc.
Sau đó, tôi viết: “Tôi tin tưởng, Trung Quốc là một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, nên Trung Quốc có trách nhiệm thi hành Hiến Chương của LHQ về vấn đề tỵ nạn. Vì vậy, tôi long trọng yêu cầu ngài Chủ tịch chấp thuận đơn xin tỵ nạn chính trị của tôi, cho phép tôi được tạm thời định cư ở Trung Quốc trong thời gian tôi chờ đợi được tái định cư với thân nhân ở ngoại quốc. Tôi long trọng bảo đảm, tất cả những gì tôi trình bầy trong thư này là hoàn toàn đúng sự thật. Nếu quý quốc điều tra, phát hiện bất cứ điều gì giả trá, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm, và nếu cần tôi chấp nhận bị tử hình vì những giả trá đó.”
Cuối cùng, tôi viết lại câu tôi đã nói trên cầu sông Ka Long: “Tôi cũng xin khẳng định, trước sau như một, tôi cương quyết không trở lại Việt Nam. Tôi đến với quý quốc để xin tỵ nạn vì tôi đinh ninh quý quốc là bạn. Nếu quý quốc có ý định trả tôi lại VN, thì xin cứ việc đem tôi bắn bỏ. Vì tôi biết, nếu cộng sản Việt Nam bắt được tôi, chúng cũng sẽ bắn tôi chết. Do đó tôi nghĩ, thà tôi bị bắn chết trong tay những người tôi coi là bạn còn hơn bị bắn chết trong tay những kẻ tôi coi là thù.”
Cuối thư tôi đề Đông Hưng, ngày… tháng… năm, Phạm Thái Lai rồi ký tên. Xong tôi trao lá thư cho người công an Trung Cộng đang ngồi trong phòng trực. Trở về phòng, ngồi chưa được 5 phút thì một người công an mở cửa dắt tôi đi ăn trưa. Khác hẳn những lần trước hai tay bị còng, lần này, tôi không bị còng, và người công an dắt tôi đi cũng không đeo súng AK mà chỉ mang súng ngắn…
Bước vào nhà hàng tôi cũng thấy không khí khác hẳn. Nhiều người Hoa thập thò nhìn tôi, nhưng thay vì những ánh mắt nghi kỵ, ác cảm của mấy hôm trước, bây giờ là những ánh mắt thân ái, những nụ cười thiện cảm. Một hạnh phúc bất ngờ đến với tôi là người bưng món ăn ra cho tôi hôm nay là bà Thìn. Bà nhìn tôi cười vui vẻ:
- Sao A Lồi hôm nay có khỏe không?
Tôi lúng túng chưa kịp đáp thì bà đã nói tiếp:
- Cậu gan cóc tía lắm!
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao bà nói vậy?
- Đừng gọi tôi là bà, gọi tôi là thím đi cho thân mật…
Tôi cảm động hỏi bà:
- Sao thím bảo cháu gan cóc tiá?
- Thì nghe mấy ông công an nói, cậu nói câu gì hay lắm đó… Thà bị chết trong tay pằng dẩu (bạn hữu) Trung Quốc còn hơn chết trong tay kẻ thù cộng sản Việt Nam. Có phải vậy không?
Tôi ngẩn người. Thiệt không ngờ câu nói của tôi tối hôm trước đã lan nhanh và gây ấn tượng mạnh mẽ đến nhiều người như vậy. Sau này, có nhiều người gặp tôi cũng đã nhắc lại câu nói đó. Mọi người đều coi câu nói của tôi như là một bằng cớ, chứng minh, trong cuộc xung độc giữa cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Cộng lúc đó, cộng sản Việt Nam là kẻ phi nghĩa, bị ngay chính người Việt Nam như tôi ruồng bỏ, chống đối.
Bữa cơm hôm đó cũng thịnh soạn hơn trước vì có thêm món đậu hũ nhồi thịt và cá chiên nấu ám. Sau đó còn có trái cây tráng miệng. Thời gian ăn trưa cũng rộng rãi hơn, phải tới hơn một tiếng đồng hồ.
Thấy cung cách đối xử của mọi người, tôi rất mừng và đinh ninh cuộc đời của tôi sẽ càng ngày càng sáng sủa. Biết vậy, nhưng tôi không thể ngờ, ngay chiều hôm đó, tôi đã được hưởng ngay những đãi ngộ đặc biệt của chính phủ Trung Cộng….
Trưa hôm đó, ăn cơm xong, tôi lại trở về phòng giam nằm ngủ trưa. Đầu tôi vẫn gối trên hòn gạch, nằm vẫn trên sàn nhà lạnh lẽo. Chỉ có điều cách cửa của phòng giam chỉ đóng lại mà không khoá. Đó là dấu hiệu tốt lành cho tôi rồi. Tôi nghĩ vậy và đi vào giấc ngủ…
Đang thiu thiu ngủ, bỗng nhiên có người đánh thức, tôi ngồi dậy, trong nỗi bàng hoàng, nhưng cũng nhìn thấy trước mặt mình có 5, 6 người Trung Cộng cao to, mặc áo đại cán 4 túi, may bằng loại vải nỉ “cao cấp”, đang đứng nói chuyện xì xồ với Trung thông ngôn. Nhìn bộ điệu khúm núm của Trung, tôi hiểu, mấy người Trung Cộng mới tới là cán bộ có cấp bậc cao hơn Trung nhiều.
Sau khi nghe một hồi, gật đầu vâng dạ lia lịa một hồi, Trung quay sang tôi nói:
- Sau khi nhận được đơn xin tỵ nạn của “đồng chí”, các đồng chí “đặc uỷ” thấy vì nhu cầu an ninh nên có lệnh yêu cầu “đồng chí” phải chuyển chỗ ở ngay bây giờ.
Tôi giật mình vì hai tiếng “đồng chí” Trung gọi tôi. Tôi chẳng ưa gì hai tiếng này, cho dù nó chỉ có nghĩa chỉ những người cùng chung chí hướng. Trước 1930, từ “đồng chí” được dùng rộng rãi để chỉ những Việt yêu nước đấu tranh chống thực dân Pháp, nhưng từ 1930 trở về sau, vì người cộng sản Việt Nam đã sử dụng nó quá nhiều, khiến hai chữ “đồng chí” bị cộng sản hóa, làm cho nhiều người thấy dị ứng với nó. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, khi nghe Trung gọi tôi là “đồng chí” tôi rất mừng, vì điều ấy chứng tỏ, giới chức hữu trách của Trung Cộng đã không còn coi tôi là gián điệp của cộng sản Việt Nam, ít nhất là bề ngoài. Tôi cũng biết rằng, bản thân Trung thông ngôn không phải là người có thẩm quyền được dùng hai chữ “đồng chí” khi gọi tôi, mà phải có sự chấp thuận của những cán bộ Trung Cộng cao cấp hiện diện. Khi nghe gọi “đồng chí”, tôi nhớ ngay buổi tối đầu tiên bước vô đồn công an, cán bộ Ngô cũng đã gọi tôi là “đồng chí” khi gọi cho tôi tô hủ tiếu…
Vì tôi chẳng có đồ đạc, quần áo gì, nên ngay sau khi nghe Trung nói vậy, tôi đứng dậy theo mấy người công an đi ra ngoài. Ra đến sân đồn công an, tôi thấy có hai chiếc comangca đậu sẵn. Một người công an chỉ cho tôi lên ngồi ở băng sau của chiếc xe đậu phía sau. Lần này, tôi không bị còng tay, cũng không bị bịt mắt. Mọi người trong xe nói chuyện ầm ĩ, thái độ vui vẻ. Trong số 5 người cán bộ, chỉ có một người lên chung xe với tôi, ngồi ở ghế trước, bên tay phải của tài xế. Còn lại, lên chiếc xe phía trước.
Xe chạy vòng vèo trong thị trấn Đông Hưng mà ấn tượng duy nhất trong đầu óc tôi là đường rất xóc vì đường phố Đông Hưng không trải nhựa mà lót bằng những phiến đá tảng to, đủ hình dạng khác nhau. Nhà cửa trong thị trấn Đông Hưng phần lớn đều làm bằng gỗ, hai tầng, liền san sát. Người Trung Quốc, đúng là “muôn người như một”, đàn bà, đàn ông đều ăn mặc giống nhau, áo quần cùng mầu xanh nước biển đậm, cũ kỹ, bạc mầu và ngắn cũn cỡn. Đàn ông, ai cũng cắt tóc cao; đàn bà con gái ai cũng kết tóc đuôi sam thành hai sợi vắt vẻo hai bên vai. Cả đàn ông, đàn bà đều mặc quần cộc trên mắt cá cả gang tay và đi vội vã như chạy.
Xe chạy khoảng 10 phút thì dừng lại. Tôi bước xuống xe và nhìn thấy trước mắt là một tòa nhà bê tông nhiều tầng, bề thế, giống như một chung cư. Ngay phía ngoài có một tấm biển bằng gỗ thật lớn màu vàng, trên có mấy chữ Tàu màu đỏ, thiệt to. Sau này tôi mới biết đó là chữ Hồng Kỳ Chiêu Đãi Trạm.
Bước qua hai chiếc cửa gỗ to lớn và nặng nề, tôi thấy ngay căn phòng đầu tiên ở bên tay trái có một chiếc bàn dài, trải khăn bàn màu trắng, chung quanh có hơn chục chiếc ghế, trong đó có nhiều chiếc đã có người ngồi. Tất cả đều có dáng vóc bệ vệ, mặt mũi đều hồng hào, quần áo đắt tiền. Cuối bàn là một người cũng mặc áo công an đại cán (4 túi), nhưng gương mặt quen quen, nhìn tôi mỉm cười. Trong nhất thời, tôi chưa nhận ra ông. Một người công an kéo chiếc ghế ở đầu bàn bên này, ra dấu cho tôi ngồi xuống… Tôi ngồi xuống trong sự rụt rè, bỡ ngỡ, nhưng trong lòng rất vui vì tất cả có những dấu hiệu cho tôi thấy tôi đang gặp may mắn. Nhưng may mắn đến mức nào và may mắn như thế nào thì tôi chưa đoán ra được…
KỲ 97
Tôi vừa ngồi xuống ghế, thì một người ngồi ở ghế giữa dẫy ghế bên tay phải của tôi đứng dậy. Ông này cao lớn, da dẻ hồng hào, dù tóc đã bạc. Khác hẳn những người khác đều mặc áo công an, màu xanh lá cây, ông mặc bộ quần áo đại cán bằng nỉ màu cứt ngựa. Cầm trên tay lá thư của tôi, ông gật đầu về phía người ngồi cuối bàn, đối diện với tôi. Khi người đó đứng dậy, tôi nhận ra ngay ông là cán bộ Ngô, người đã vui vẻ tiếp đón tôi và gọi tôi là “đồng chí” ngay khi tôi bước vào đồn công an Trung Cộng chiều tối hôm 1 tháng 10.
Ông tóc bạc nói tiếng Hoa vài câu rồi dừng lại để cán bộ Ngô dịch sang tiếng Việt cho tôi nghe. Đầu tiên, ông nói ngắn gọn về việc nhận đơn xin tỵ nạn chính trị của tôi, cùng hoàn cảnh tôi đã trải qua trên đường vượt biên. Riêng câu tôi viết, thà chết trong tay những người tôi coi là bạn còn hơn chết trong tay những người tôi coi là thù, ông đã đọc nguyên văn, và ngay khi ông đọc xong, mọi người vỗ tay vang dội làm tôi rất phấn khởi. Sau đó, ông tóc bạc nói:
- Thay mặt Hoa Chủ tịch và giới chức thẩm quyền địa phương hôm nay chúng tôi tạm thời chấp thuận đơn xin tỵ nạn chính trị của “đồng chí” Phạm. Chúng tôi nói tạm thời là vì chúng tôi còn phải tiếp tục điều tra xem “đồng chí” có phải là tỵ nạn chính trị thiệt không. Nếu không phải, “đồng chí” phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, và chúng tôi sẽ có biện pháp trừng trị thích đáng.
Nghe cán bộ Ngô dịch xong, tôi mừng quá, đứng dậy, định nói mấy lời, nhưng cán bộ tóc bạc, dơ tay ngăn tôi lại, và ra dấu bảo tôi ngồi xuống. Ông nói tiếp:
- Trong tư cách tỵ nạn chính trị, “đồng chí” được hưởng tiêu chuẩn “trung táo” tại chiêu đãi trạm Hồng Kỳ, có phòng ngủ riêng, có người nấu ăn riêng, quần áo có người giặt giũ. “Đồng chí” cũng được quyền tự do đi lại trong thành phố Đông Hưng. Nhưng vì đây là là cửa khẩu tiếp giáp với Việt Nam, có nhiều gián điệp của cộng sản Việt Nam trà trộn, nên vì an ninh của “đồng chí”, mỗi khi đi đâu, “đồng chí” phải có bổn phận báo cáo với đồng chí Ngô.
Sau đó, cán bộ Ngô hỏi tôi có thắc mắc hay muốn đề nghị gì không. Tôi đứng dậy nói mấy lời cảm ơn trong sự xúc động thực sự của mình. Vẫn biết, Trung Cộng cũng là cộng sản, là nguyên nhân gián tiếp hoặc trực tiếp của không biết bao nhiêu đau khổ cho dân tộc Việt Nam, nhưng lúc đó, tôi thấy biết ơn họ vô cùng. Tôi cũng cam đoan với họ những gì tôi khai báo là đúng sự thực, và đề nghị chính phủ Trung Cộng giúp đỡ cho tôi được đoàn tụ với gia đình ở Úc càng sớm càng tốt. Tôi phải nhấn mạnh điểm này để đánh tan trong đầu óc của họ những nghi ngờ cho rằng tôi là gián điệp của Việt Cộng được cài vô Trung Quốc hoạt động.
Sau khi tôi nói xong, mọi người đều đứng dậy bắt tay tôi và nói xì xồ tiếng Hoa với tôi. Còn tôi, tôi chỉ nói được có hai tiếng “tố chề” (cảm ơn). Tuy vậy, mọi người xem ra đều vui vẻ thực tình. Khi mọi người đi hết, cán bộ Ngô chỉ vào đống quần áo, giầy dép, bàn chải đánh răng…. trên bàn và cho tôi biết, tất cả là của chiêu đãi trạm phân phát cho tôi. Ôm đồm tất cả mọi thứ, tôi đi theo cán bộ Ngô và một nhân viên của chiêu đãi trạm leo lên lầu, vô một căn phòng có cửa sổ trông ngay xuống nhà bếp. Đồ đạc trong phòng rất đơn giản, chỉ có một chiếc giường đơn, một chiếc tủ đựng quần áo, một chiếc bàn nhỏ, trên có bình thuỷ, ấm trà và một chiếc tách. Trên giường trải chiếu và có một chiếc gối. Một bóng đèn điện lủng lẳng ngay giữa phòng, cách đầu tôi khoảng một thước. Tuy mang tiếng là phòng riêng, nhưng giữa các phòng chỉ có những tấm vách ngăn cao khoảng hai thước rưỡi, còn phía trên các phòng đều thông tuông, cùng trông thấy nóc nhà.
Cán bộ Ngô ân cần bảo tôi:
- “Đồng chí” được hưởng tiêu chuẩn “trung táo” là 1 đồng rưỡi (hay 2 đồng rưỡi, lâu ngày tôi không nhớ) một ngày. Tiêu chuẩn này dành riêng cho những Hoa kiều về nước có giấy chiếu khán nhập cảnh của tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội. Còn tất cả những Hoa kiều về nước khác chỉ được hưởng tiêu chuẩn “đại táo”. Họ không được ở khách sạn, phải ăn cơm tập trung. Như vậy đủ thấy đảng và nhà nước đã quan tâm đến “đồng chí” như thế nào. Bây giờ đồng chí cần gì thì nói với đồng chí X (tôi không nhớ tên). Những gì trong phạm trù quy định, đồng chí X sẽ giải quyết. Còn không, đồng chí X sẽ đề đạt lên tôi giải quyết.
Tôi vội vã hỏi:
- Thưa cán bộ, tôi cần ít giấy bút để viết thư cho gia đình ở ngoại quốc.
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Đồng chí X sẽ mang giấy bút ngay cho “đồng chí”. Cũng báo để đồng chí biết, với tiêu chuẩn “trung táo”, “đồng chí” được lãnh mỗi tháng 15 đồng tiêu vặt. Ngoài ra, đồng chí X cũng sẽ trao cho “đồng chí” một bản nội quy của chiêu đãi trạm… “Đồng chí” cố gắng thi hành thật tốt…
Sau khi cán bộ Ngô đi khỏi, cán bộ X mang giấy bút cho tôi. X cũng là người Việt gốc Hoa, nói tiếng Việt rất sõi nên vừa là thông ngôn, vừa là nhân viên an ninh có trách nhiệm bảo vệ (hay nói đúng hơn là theo dõi) tôi.
Chiều hôm đó, tôi cặm cụi viết hơn chục lá thư gửi cho những người thân ở Úc, Mỹ và Việt Nam. Riêng những thư gửi về Việt Nam, tôi phải gửi qua Úc, Mỹ, và nhờ người thân ở đó chuyển về. Khi đi gửi thư, tôi tế nhị trao cho cán bộ X, đinh ninh ông
này sẽ giữ lại để kiểm duyệt trước khi gửi. Không ngờ, X đưa tiền cho tôi và chỉ đường ra bưu điện để tôi tự gửi. Tôi không biết như vậy, bưu điện sẽ có biện pháp kiểm duyệt thư của tôi, hay quả thực, Trung Cộng đã cho phép tôi được tự do thư tín?
Chiều hôm đó, tôi được ăn bữa cơm “trung táo” đầu tiên trong cuộc đời. Ngày xưa khi đi bộ đội, tôi vẫn nghe đến mấy chữ “tiểu táo, trung táo, đại táo”, nhưng không bao giờ nghĩ là sẽ có ngày được ăn tiêu chuẩn “trung táo”, nhất là được ăn trên đất Trung Cộng.
Vì tôi chỉ có một mình, nên nhà bếp dọn cho tôi một mâm riêng. Bữa cơm “trung táo” khá thịnh soạn, có 5 món, đủ cả thịt cá, rau canh, và trái cây tráng miệng. Các món ăn làm rất ngon, lạ miệng nhưng vì thiếu nước mắm nên giảm ngon phân nửa. Thì ra, người Hoa quen chấm xì dầu, ít dùng nước mắm. Mấy ngày sau, quen biết với các chị nấu bếp, thấy các chị rất dễ dãi và hiền lành, tôi hỏi xin “mắm sủi” (nước mắm), các chị liền mua riêng cho tôi một chai nước mắm. Từ đó, biết tôi thích ăn nước mắm, bữa cơm nào các chị cũng cho một chén trong đó có chút nước mắm để chấm.
Thời gian này tôi cũng bắt đầu bập bẹ học tiếng Hoa. Vì học hành không trường lớp, nên có nhiều chuyện tức cười. Một trong những chuyện đến nay tôi vẫn còn nhớ là chuyện “chí nhục ngạo ngổ”. Khi ở chiêu đãi trạm, những từ ngữ tiếng Hoa đầu tiên tôi được các chị nấu bếp dậy là các món ăn, trong đó có chữ “chí nhục” là thịt heo. Còn chữ “ngạo” là cắn, “ngổ” là tôi, thì tôi đã biết lõm bõm từ trước. Một ngày nọ, đến chơi một gia đình người Hoa ở ngay cạnh bến xe Đông Hưng. Vì người Hoa ở đấy có thói quen nuôi heo thả rông trong nhà như nuôi chó, nên có một con heo chạy xồng xộc lại cắn tôi. Tôi giật mình vội la lên, “chí nhục ngạo ngổ!” khiến mọi người trong nhà cười ồ thích thú. Sau đó, mọi người mới giải thích cho tôi hiểu, nói “chí ngạo ngổ” là heo cắn tôi, còn nói “chí nhục ngạo ngổ” là sai vì làm sao “thịt heo” lại biết cắn người được.
Đông Hưng là một thị trấn nhỏ, nhưng vì nằm ngay bên bờ sông Ka Long là biên giới tự nhiên giữa hai nước Việt Hoa, nên buôn bán sầm uất, cửa hàng, cửa tiệm san sát. Mỗi tuần có hai phiên chợ, dân chúng từ khắp các vùng quê lân cận đổ về đông như kiến, chen chúc mua bán đủ các mặt hàng nông lâm thổ sản, trong đó có những thứ lạ lùng, chúng tôi chưa từng nghe thấy bao giờ.
Mức sống của người dân Trung Cộng tại Đông Hưng cũng nghèo túng, nhưng khá hơn người dân Miền Bắc Việt Nam rất nhiều. Nhìn chung, họ được ăn no, mặc ấm, nhưng rất hiếm các mặt hàng tiêu dùng, các sản phẩm kỹ nghệ. Cả thị trấn có một cửa hàng bách hóa tổng hợp tương đối lớn, nhưng hầu hết các mặt hàng chỉ để trưng làm mẫu chứ không bán. Ngoài ra, một tiệm sách và một rạp chiếu phim chỉ bán sách và chiếu phim tuyên truyền của Trung Cộng. Sau này, khi chuyển về Phòng Thành, tôi mới được xem một số phim của Ấn Độ và một phim của Mỹ có phụ đề tiếng Hoa.
Người Hoa ở vùng Đông Hưng, Phòng Thành rất thật thà, chất phác, tốt bụng và lạc hậu. Ngoại trừ những người dân sống ở ngay thị trấn Đông Hưng, Phòng Thành, còn dân chúng ở quê sống trong tăm tối, xa cách với mọi tiện nghi văn minh như điện nước, thậm chí có những người cả đời không hề biết chụp hình, ăn phở là gì.
Suốt thời gian ở chiêu đãi trạm Hồng Kỳ, cán bộ Ngô rất tận tình giúp đỡ tôi. Ông rất hiền lành và tốt bụng, thường xuyên chỉ bảo tôi mọi chuyện và bất cứ khi nào tôi cần cái gì, hỏi ông, ông đều cố gắng giải quyết. Vì vậy, tôi rất có cảm tình với ông, coi ông như một ân nhân. Mãi sau này, gặp ba của Liên, tôi mới biết, ông là đại tá tình báo của công an Trung Cộng, nói thông thạo 5 ngôn ngữ, kể cả tiếng Anh.
Hôm đó là ngày có chợ phiên. Tôi đang dạo phố ở Đông Hưng, tình cờ tôi gặp lại cô Liên cùng đi với ba má. Chắc qúy độc giả còn nhớ Liên là cô bé đã cho tôi đi nhờ xe đạp vô thị xã Móng Cái trước đây. Hôm đó, chia tay ở tiệm ăn, cả hai đều chúc tụng và hẹn hò sẽ gặp lại nhau ở Trung Quốc. Lúc ấy hẹn hò vậy cho vui, chứ đâu có ngờ, bây giờ chúng tôi gặp lại nhau thật.
Gặp tôi, Liên rất hồn nhiên, vui vẻ, hai má ửng hồng, mắt sáng long lanh, trông rất dễ thương. Bố Liên tên là Phùng, khoảng ngoài 50, thân hình cao to, hai bàn tay như hai chiếc quạt, gương mặt xương, dài như mặt ngựa, lại rỗ huê, nhưng có bộ râu quai nón trông rất oai hùng và cặp lông mày chổi xể hung tợn, bất cứ ai chỉ nhìn một lần là nhớ suốt đời. Sau này, ở Cabramatta tôi có gặp một ông người Hoa cũng có lông mày y hệt như vậy, khiến tôi ngạc nhiên, cứ nhìn ông chằm chằm… nhưng cho tôi miễn nói tên của ông ở đây.
Mẹ của Liên, tên là Hoa, thì nhỏ nhắn, óng ả, dịu dàng, với mái tóc dài buông xõa, khác hẳn những người phụ nữ Trung Hoa kết tóc đuôi sam. Khí hậu lúc đó khá lạnh, nên bà mặc áo bông dầy sụ, nhưng bà cao phải thước sáu hoặc hơn, nên trông vẫn thấy nét duyên dáng đài các. Tôi thấy người phụ nữ như bà thật hiếm có trong xã hội “phụ nữ ba đảm đang” phải làm việc như trâu ở Miền Bắc. Về sau tôi mới biết, bà là con gái út của ông Tổng Lâm, người giầu có nổi tiếng nhất nhì ở tỉnh Bắc Ninh thời Pháp.
Nghe Liên giới thiệu tôi là người Việt gốc Hoa nhưng không biết nói tiếng Hoa, tôi ngượng quá vội nói:
- Thú thiệt với anh, tôi là người Việt trăm phần trăm… Nhưng vì lúc đó ở Móng Cái…
Tôi đang lúng túng tìm cách nói thực hoàn cảnh của mình thì ông Phùng cười ha hả, đưa bàn tay khổng lồ của ông vỗ vỗ vai tôi, nói một cách hào sảng:
- Nhằm nhò gì ba chuyện lẻ tẻ đó… Chú mày khỏi thanh minh thanh nga. Thời buổi loạn ly, lang sói ở khắp mọi nơi, ai mà chả phải nói dối… Đi, đi… đi nhậu thịt chó với anh mày một bữa…
Rồi chẳng cần biết tôi có đồng ý hay không, miệng ông nói, tay ông đẩy tôi đi về phía trước… Thấy thái độ thân thiện, cởi mở của ông, tôi không nỡ chối từ, vội đi theo ông.
Tại Đông Hưng, thịt chó là món ăn được bầy bán rất phổ biến. Những quán bán thịt chó xuất hiện nhan nhản dọc theo các căn phố. Quán không hề có biển, có chữ gì, chỉ có một hai con chó da trắng hếu, treo lủng lẳng trước cửa là đủ thu hút khách. Nhất là vào những ngày có chợ phiên thì những quán bán thịt chó xuất hiện càng nhiều. Đi khoảng vài chục thước là có một quán bán ngay bên đường, mùi thịt nướng, mùi rựa mận thơm lừng không gian. Những quán bán bên vệ đường này chỉ có ba, bốn chiếc ghế đẩu nhỏ, cao hơn gang tay, nên phần đông thực khách đều đứng hoặc ngồi xổm chung quanh, ăn uống xì xụp, rất tự nhiên, bất kể người qua lại, bụi bặm, ruồi muỗi…
Đi qua nhiều quán thịt chó, ông Phùng đều lắc đầu tỏ ý chê, mà tôi không biết ông chê cái gì. Có điều, tôi ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều ở chợ quen biết ông, chào hỏi ông vồn vã. Có người gặp ông thì ôm hôn thắm thiết, có người ông bắt tay, có người ông vỗ vai bồm bộp, có người ông chỉ hừ hừ trong cổ họng, tay phẩy nhẹ rồi đi.
Đi hết khu phố chợ, quẹo vô con đường nhỏ dẫn đến bờ sông Ka Long, chúng tôi bước vô một tiệm ăn nhỏ, từ ngoài vào trong đều trần thiết bằng gỗ đen như mun. Chủ quán là một người Hoa mình ve xác hạc, nhưng cao lênh khênh, đầu đội một cái mũ nhỏ xíu dính sát da đầu, trông rất dị tướng. Thấy ông Phùng, ông không chào hỏi gì, chỉ quay lưng dắt hai người chúng tôi vô một chiếc phòng nhỏ, có cửa sổ trông xuống ngay sông Ka Long. Vì lúc trước, vợ ông Phùng và Liên đã đi chợ, nên bây giờ chỉ có ông Phùng và tôi ngồi nhậu…
KỲ 98
Trong phòng ăn nhỏ chỉ kê có một chiếc bàn, mấy chiếc ghế và một lò than hồng khá lớn đặt ngay giữa phòng. Nhờ có lò than, nên không khí trong phòng ấm cúng, mặc dù
gió sông lộng thổi và trời đã vào đông. Ngồi trong quán, nhìn ra mặt sông, thấy sương mù lãng đãng, và những chiếc thuyền đánh cá hiện ra khi tỏ khi mờ giữa biển sương mù, trông thật thơ mộng, thoát tục. Bên kia sông, thị trấn Móng Cái hiện ra trong vẻ tịch mịch, xa xăm, lạ lùng và hiền lành làm sao. Vậy mà đằng sau vẻ hiền lành vô hại đó, không biết bao nhiêu bi kịch đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết trong âm thầm, bao nhiêu gia đình đã phải ly tán… Ngay cả bản thân tôi cũng đã từng có những giờ phút kinh hoàng tưởng chết trong thị trấn đó. Bây giờ nghĩ lại, chuyện mới xảy ra ngày hôm qua hôm kia, mà sao tưởng chừng như trong mơ…
Có lẽ ông Phùng là khách quen thuộc của quán, nên chẳng thấy ông gọi đồ ăn gì, vậy mà một lát sau, đã thấy một cậu bé tuổi khoảng 15, 16, đầu húi cua, mày thanh mắt sáng, da trắng trẻo, bưng lên một mâm mấy món nhậu nóng hổi, khói bốc nghi ngút. Cậu bé lặng lẽ đặt các món ăn lên bàn, rồi cúi gập người chào ông Phùng, sau đó quay sang tôi, cậu cũng cúi gập người chào, rất lễ độ. Lão Phùng cười ha hả, rồi kéo cậu bé vào lòng thì thầm chuyện gì đó, tôi nghe lõm bõm nhưng không hiểu. Cậu bé bẽn lẽn lắc đầu, mặt đỏ ửng, liếc mắt nhìn tôi, trông thiệt đáng yêu…
Khi cậu bé đi khỏi, ông lão chủ quán xuất hiện tay ôm bình rượu quấn lá chuối, mấy chiếc ly đá và một gói rau thơm đủ loại. Lão lặng lẽ đặt các thứ lên bàn rồi cúi đầu chào ông Phùng nhưng miệng không thốt một lời, trước khi lão quay gót. Chờ lão đi khỏi, ông Phùng nói:
- Lão A Thoòng này bị câm từ khi mấy vợ con lão chết đuối?
Tôi ngạc nhiên:
- Chết đuối cả mấy vợ con?
Ông Phùng gật đầu:
- Cả vợ và 3 đứa con. Chết ngay trên dòng sông Ka Long này. Trước nhà của lão ở bên Móng Cái. Ngày xưa lão đi lính cho Pháp đóng đến quan hai, quan ba gì đó, nên từ sau năm 1954, lão bị nhà nước Việt Nam bắt đi tù trước sau tới mươi lần. Lần nào lâu thì một hai năm, ngắn thì vài tháng. Vì thế lão hận cộng sản Việt Nam lắm…
Chỉ tay vào bình rượu ngâm rắn, ông Phùng nói:
- Cái loại tam xà tửu này của A Thoòng nổi tiếng từ Trà Cổ đến Hải Phòng, vì uống nhiều uống ít đều không sao. Tam xà tửu của thiên hạ thì chỉ uống một chét hạt mít là đủ. Uống nhiều sẽ ngộ độc. Còn của A Thoòng thì uống đến say cũng chẳng bị hành hạ gì cả. Thế mới lạ…
Về khoản rượu tôi không rành, nên ngồi im nghe ông Phùng nói. Nhậu nhẹt lai rai được vài ly, ông Phùng hỏi chuyện tôi vượt biên như thế nào. Tôi kể lại đầu đuôi cho ông nghe. Nghe xong, ông hỏi:
- Chú mày có biết cán bộ Ngô là người thế nào không?
Tôi thưa không biết rõ. Ông Phùng gật đầu tiếp:
- Tay đó là một sĩ quan tình báo cao cấp của Trung Cộng, cấp bậc đại tá. Y có trách nhiệm tiếp xúc, thẩm tra, theo dõi, báo cáo tất cả những Hoa kiều về nước có hành tung khả nghi. Hoa kiều về nước đi “nông xường” (nông trường) hay được ở lại thành phố làm ăn là do y quyết định hết.
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng tôi thấy ông ta đối xử rất tốt với tôi.
Ông Phùng gật đầu:
- Chuyện đó anh biết, anh biết. Nhưng chú mày phải hiểu cư xử tốt của một viên đại tá tình báo Trung Cộng không thể nào xuất phát từ tình người thuần tuý. Hắn đối tốt với chú mày là để khai thác tin tức và sử dụng khi cần.
Tôi ngẫm nghĩ lời ông nói và thấy ông nói đúng. Tuy nhiên, tôi nghĩ mình thì có gì để cho họ khai thác hoặc sử dụng? Tôi chưa kịp nói ý nghĩ này của mình thì ông Phùng đã tiếp, như đi guốc trong bụng tôi:
- Chú mày tưởng chú mày chỉ là một người Việt vượt biên quèn nên không có gì để cho họ khai thác, sử dụng hay sao? Lầm, chú mày lầm. Trong tình thế căng thẳng giữa hai quốc gia hiện nay, nhà nước Trung Cộng rất cần những người Việt thuần tuý như chú mày.
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, Trung Cộng cần những người như tôi để làm gì?
- Để làm gì hả? Để đưa chú mày lên đài phát thanh phát biểu, phản tuyên truyền; hay cho chú mày vô lính, phát động một cuộc chiến tranh trừng phạt cộng sản Việt Nam. Chú mày phải biết, những người Việt gốc Hoa như tụi tao hay những người lính Trung Cộng mà có lên tiếng chửi nhà nước Việt Nam thì nghe đâu có đã bằng chính những người Việt 100% như chú mày chửi.
Tôi đồng ý:
- Ông nói như vậy cũng đúng. Nhưng còn chuyện chiến tranh, ông nghĩ Trung Cộng liệu có đánh cộng sản Việt Nam không?
Ông Phùng nốc cạn ly rượu, không biết đó là ly thứ mấy, rồi xuống giọng thì thầm:
- Chuyện đó tao bảo đảm với chú mày sẽ xảy ra. Thằng bé con tính đánh thằng khổng lồ thì cùng bất đắc dĩ mới phải đánh. Còn thẳng khổng lồ như thằng Trung Cộng mà đánh thằng tí hon Việt Cộng, thì đánh lúc nào chả được. Nhất là cả hai thằng đều du côn du kề, ít học và man rợ như nhau. Chú mày cứ tin tao nói đi, sớm muộn gì Trung Cộng cũng đánh Việt Cộng. Và khi đó, những người như chú mày là nhà nước Trung Cộng rất cần trong đoàn quân chinh phạt Việt Cộng…
Tôi ngao ngán lắc đầu:
- Thưa ông, tôi vượt biên tỵ nạn để tìm tự do chứ không phải để cõng rắn cắn gà nhà.
Ông Phùng gật đầu:
- Tao đồng ý với chú mày điều đó. Nhưng chú mày đến Trung Quốc rồi thì chú mày phải ở lại đây, chứ chú mày tính đi đâu?
- Tôi chỉ ở Trung Quốc tạm thời vài tháng, rồi tôi sẽ đoàn tụ với gia đình ở Úc, Mỹ…
Ông Phùng cười hô hố:
- Ha… ha… Chuyện đoàn tụ gia đình của chú mày còn khuya. Ngay cả người Trung Quốc có thân nhân ở ngoại quốc bảo lãnh mà còn phải dài cổ chờ 5, 10 năm, thì chú mày đủ hiểu những người như chú mày sẽ phải chờ đợi bao lâu.
Tôi ngạc nhiên không tin:
- Chờ đợi 5, 10 năm?
Ông Phùng gật đầu quả quyết:
- Đúng như vậy. Chú mày không tin sao? Chính gia đình ông bác của anh mày (ông vừa nói vừa vỗ vào ngực bành bạch) có bố mẹ ruột ở bên Anh mà lo bảo lãnh suốt cả 7 năm trời nay vẫn chưa xong…
- Ủa tôi tưởng ông là người Hoa sống ở Móng Cái?
- Anh nói với chú em anh sống ở Móng Cái hồi nào? Anh chỉ đi lại buôn bán ở bên đó thôi. Gia đình anh ở Hải Phòng. Nhưng anh buôn bán ở Đông Hưng, Phòng Thành, Móng Cái. Mẹ của con Liên mà chú em gặp đó là vợ thứ tư của anh đó. Bà là người Việt hoàn toàn. Còn ba mụ vợ khác của anh đều là người Hoa…
Thì ra là vậy. Hèn chi, tôi thấy vợ chồng của ông có vẻ gì là lạ. Hai người đã có con 15, 16 tuổi mà trông vẫn đầu mày cuối mắt, tình tứ nồng đượm tựa như mới cưới…
Ông Phùng nói tiếp:
- Chú mày đã đến Trung Quốc thì cứ yên tâm ở lại đây cỡ 10 năm là ít, rồi mới tính đến chuyện đi ra nước ngoài, đoàn tụ gia đình. Vì tiêu chuẩn đầu tiên để chú mày có thể đoàn tụ gia đình là chú mày phải là công dân của nước Trung Quốc. Không là công dân Trung Quốc thì lấy tư cách gì để Trung Quốc cấp giấy xuất cảnh cho chú mày?
Tôi lắc đầu:
- Ông nói vậy nghe có lý, nhưng tôi đến Trung Quốc là xin tỵ nạn chính trị chứ không phải xin định cư ở Trung Quốc.
Ông Phùng gật đầu:
- Rồi, chú mày xin tỵ nạn ở Trung Quốc, có đúng không nào? Vậy nếu Trung Quốc chấp nhận, thì Trung Quốc phải có bổn phận cho chú mày định cư ở Trung Quốc, nhập tịch Trung Quốc. Sau khi có quốc tịch Trung Quốc, chú mày mới liên lạc với thân nhân ở ngoại quốc để họ bảo lãnh đoàn tụ. Đó, mọi việc phải tiến hành trình tự theo đúng luật pháp như vậy…
Tôi ngạc nhiên, nhưng phải thú nhận những gì ông Phùng nói là có lý. Tôi hỏi:
- Ông làm gì ở Trung Quốc mà biết rõ như vậy?
Ông Phùng cười:
- Thì anh đã nói là anh đi buôn bán làm ăn mà. Chắc chú em thấy anh ăn mặc lam lũ nên nghĩ anh là dân vô học? Nói thực, anh mày là dân vô học thực, nhưng ông anh con ông bác của anh hiện làm ở sở ngoại kiều Phòng Thành…
- Làm ở sở ngoại kiều mà ông ta không lo được cho mình đoàn tụ với gia đình ở bên Anh?
Ông Phùng vỗ hai bàn tay đánh đốp một cái, nghe to như tiếng pháo, làm tôi giật mình. Ông nói:
- Thì chính hắn còn khó khăn như vậy, nói chi chú mày.
Tôi thắc mắc:
- Còn nếu Trung Quốc không chấp nhận cho tôi tỵ nạn chính trị thì sao?
- Nếu vậy thì Trung Quốc có quyền trục xuất chú mày, và chú mày phải rời Trung Quốc trong một thời hạn nhất định. Khi đó, nếu có quốc gia nào nhận cho chú mày nhập cảnh thì chú mày tới quốc gia đó. Còn không, thì chú mày sẽ bị giải giao cho Việt Cộng.
Tôi bần thần cả người. Nếu đúng như lời ông Phùng nói, tôi phải ở lại Trung Cộng cả chục năm nữa hay sao? Tôi hỏi tiếp:
- Tại sao những người tỵ nạn đến các quốc gia như Hồng Kông, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương… thì họ được gia đình bảo lãnh, đoàn tụ nhanh chóng là thế nào?
Ông Phùng cười ha hả:
- Chú mày phải hiểu, những nơi đó khác, còn Trung Quốc khác. Những nơi đó được LHQ công nhận là những đệ nhị quốc gia, có trách nhiệm tiếp nhận người tỵ nạn đến tự đệ nhất quốc gia là Việt Nam, để rồi chuyển tiếp những người tỵ nạn đó đến định cư tại các quốc gia đệ tam. Còn Trung Quốc thì không được hưởng tiêu chuẩn là đệ nhị quốc gia, mà phải là đệ tam quốc gia, có nghĩa là Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn mà phải định cư người tỵ nạn…
- Như vậy có nghĩa tôi không thể được định cư ở Úc, Mỹ như là những người tỵ nạn chính trị.
Ông Phùng lắc đầu:
- Không, không tài nào được, nếu chú em từ Trung Quốc đến Mỹ, Úc. Nếu chú em muốn định cư ở Mỹ, Úc như là những tỵ nạn chính trị, thì trước hết, chú mày phải đến những quốc gia đó hoặc đến các tòa đại sứ, lãnh sự của họ để xin tỵ nạn. Còn đây là lãnh thổ của Trung Quốc, và như chú mày đã nói đó, chú mày viết đơn cho ông Hoa Quốc Phong, xin được tỵ nạn chính trị tại Trung Quốc thì Trung Quốc lấy tư cách gì cho chú mày sang định cư ở Mỹ, Úc.
Tôi tuyệt vọng:
- Như vậy là không còn cách nào ngoái cách chờ 10 năm?
Ông Phùng trầm ngâm rồi gật đầu:
- 10 năm hoặc hơn.
Tôi thở dài không nói và chán nản chẳng buồn nhấc chén đũa. Ông Phùng nhìn tôi một lúc, rồi tiếp:
- Dĩ nhiên là còn một cách khác…
Tôi nhìn ông chờ đợi. Ông nhìn tôi và nói chậm rãi:
- Chú em phải trốn sang Hồng Kông.
Tôi thảng thốt:
- Trốn sang Hồng Kông?
Ông Phùng gật đầu:
- Trốn sang Hồng Kông, khai mình là người tỵ nạn đi từ Việt Nam. Khi đó, chính quyền Hồng Kông sẽ chấp nhận cho chú em vô trại tỵ nạn chờ đi định cư ở Mỹ, Úc, đoàn tụ với gia đình.
Tôi thấy có tia hy vọng, dù là rất mong manh:
- Mà làm cách nào để có thể trốn đi Hồng Kông?
Ông Phùng nghiêng bình tam xà tửu. Tửu lượng của ông thật khủng khiếp. Cả bình rượu gần hai lít, tôi chỉ uống có ba, bốn ly là cùng, còn ông uống liên tục, nay đã gần cạn. Ngửa cổ uống hết ly rượu một hơi, ông nói:
- Từ Việt Nam sang đến đây khó khăn là thế mà chú mày còn đi được, thì từ đây đi Hồng Kông đâu có khó khăn gì. Hoa kiều ở đây họ đi rần rần, bộ chú mày không biết chuyện đó sao?…
- Từ Việt Nam sang đây tuy khó khăn, nguy hiểm, nhưng tôi vẫn thoát được đến đây là nhờ cùng ngôn ngữ. Còn ở đây đi Hồng Kông đối với tôi khó khăn vô cùng, vì tôi không biết nói tiếng Hoa…
Ông Phùng gật đầu:
- Chú em nói điều đó có lý chứ không phải không. Nhưng bất đồng ngôn ngữ không phải là điều quan trọng cản trở chú em đi từ Bắc Hổi đến Hồng Kông. Vì nếu chú mày lên Bắc Hổi, chú mày sẽ thấy ở đó, người Hoa nói rặt tiếng Việt không à.
Nghe ông Phùng nói vậy, tôi mừng quá, vội năn nỉ:
- Ông biết vậy, xin chỉ dùm tôi, tôi sẽ đội ơn ông vô cùng.
Ông Phùng xua tay:
- Không có ơn nghĩa gì cả. Anh hùng thấy người hoạn nạn là giúp, chớ ơn nghĩa gì mà chú em kể lể làm cho nó giảm hào khí giang hồ đi… Cứ từ từ, anh sẽ nói đường đi nước bước cho chú mày. Còn nghe hay không là tuỳ chú mày…

KỲ 99
Khi ông Phùng dốc bình rượu rót vừa được một ly cuối cùng, thì ông chủ quán A Thoòng bước vô, lặng lẽ đặt trên bàn bình rượu thứ hai, giống hệt bình rượu trước. Tôi ngạc nhiên, vì không thấy ông gọi thêm rượu gì mà sao chủ quán biết mang rượu vô thật đúng lúc. Hiểu được sự ngạc nhiên của tôi, ông Phùng xua tay:
- Ngạc nhiên hả? Chuyện nhỏ mà. Chú em đừng có tròn mắt ra nhìn như vậy. Anh của chú vô đây nhậu thường xuyên nên lão biết thói quen của anh, vậy thôi.
Châm thêm chút rượu vào chiếc ly còn trên lưng của tôi, ông dục tôi cạn ly. Tôi uể oải nhắp một chút rồi lo lắng chờ đợi. Ông Phùng ngửa cổ cạn ly, khà một tiếng khoái trá, rồi tiếp:
- Chú em biết không, trước đây ta đi buôn từ Việt Nam, suốt một dẻo Hải Phòng, Tiên Yên, Móng Cái, qua đến Trung Quốc, từ Đông Hưng đến Phòng Thành, Bắc Hổi, Quảng Châu, Hồng Kông… ta đi nhẵn cả. Nhưng trong gần đó nơi, chú mày muốn đến Hồng Kông thì phải đến Bắc Hổi, vì chỉ có Bắc Hổi là nơi chú mày có thể đến được.
- Tại sao không đi thẳng Quảng Châu? Tôi nghe nói Quảng Châu ngay cạnh Hồng Kông…
Ông Phùng xua xua tay:
- Chú lặng im nghe ta nói. Về cái khoản đường xá ở Trung Quốc, chú em không biết tí ti gì. Còn ta thì cả một miền duyên hải từ đây lên Hồng Kông ta rất rành. Vì vậy, chú mày không biết thì hỏi, ta sẽ giảng giải cho mà nghe.
Tôi ngồi lặng im. Ông Phùng nhìn tôi một lúc rồi thong thả:
- Chú mày không thể đi Quảng Châu vì mấy lẽ. Cái thứ nhất là từ đây đi Quảng Châu cả mấy ngàn cây số, tiền bạc, xe cộ, ăn ngủ rất khó khăn, mà chú mày thì bất đồng về ngôn ngữ. Còn Bắc Hổi thì từ đây đi chỉ bằng phần mười đường. Cái thứ hai là ở Bắc Hổi có rất nhiều người Việt tỵ nạn tụ tập, trong đó hầu hết là người Việt gốc Hoa, và có cả người Việt thuần tuý nữa.
Tôi ngạc nhiên:
- Ông nói ở Bắc Hổi có cả người Việt?
Ông Phùng gật đầu:
- Người Việt trăm phần trăm. Họ là những người vượt biên đi từ Việt Nam đến Hồng Kông. Trên đường đi họ phải ghé vô Bắc Hổi tránh bão, hoặc mua thêm lương thực, xăng nhớt… trước khi đi chặng chót thẳng tới Hồng Kông.
Tôi hỏi tiếp:
- Ông nói họ đi từ Việt Nam là từ những tỉnh nào?
- Đủ hết, Đà Nẵng, Nha Trang, ra đến Hải Phòng, Móng Cái, rồi cả Hà Nội nữa. Chú em biết không, anh nghe nói hiện ở Hồng Kông có cả mấy chiếc tàu sắt chở cả mấy ngàn người ở Hà Nội, Sàigòn,… đang neo ở Hồng Kông, chờ chính phủ Hồng Kông cho phép vô trại tỵ nạn.
Tôi băn khoăn:
- Vậy chính phủ Trung Quốc chấp nhận cho thuyền bè tỵ nạn Việt Nam ghé Bắc Hổi hay sao?
Ông Phùng gật đầu và giải thích:
- Chú em phải hiểu Trung Quốc vì bất đắc dĩ mà nhận mấy trăm ngàn người Việt gốc Hoa chứ trong thâm tâm, Trung Quốc không muốn tiếp nhận họ. Trung Quốc coi họ là dân có đầu óc tư bản đế quốc, ăn trắng mặc trơn quen rồi, nên nếu để họ ở Trung Quốc, họ lười lao động, như vậy sẽ nuôi ong tay áo, rất bất lợi cho xã hội. Vì thế, chính phủ Trung Quốc ngấm ngầm khuyến khích Hoa kiều cũng như người Việt gốc Hoa sau khi về Trung Quốc, nên tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Và Bắc Hổi chính là cửa ngõ để người Hoa ở Trung Quốc có thể trà trộn trở thành người Việt tỵ nạn vượt biên sang Hồng Kông… Đó là lý do khiến Trung Quốc nhắm mắt làm ngơ cho thuyền bè người tỵ nạn Việt Nam ghé vô Bắc Hổi.
Nói đến đó, ông Phùng bỗng hạ giọng:
- Nói thiệt cho chú em biết, chính quyền Trung Cộng không những cho phép thuyền nhân Việt Nam ghé Bắc Hổi mà họ còn bí mật tiếp tế lương thực, xăng nhớ, và cho tàu, kéo thuyền của người tỵ nạn tới thẳng hải phận Hồng Kông nữa đó.
Sau buổi ăn nhậu và nghe ông Phùng nói chuyện, tôi thấy buồn vô hạn. Nhưng dù sao, lúc đó, tôi cũng còn bán tín bán nghi những điều ông ta nói. Sau này, khi nhận được những văn thư từ chối không cho nhập cảnh của chính phủ Úc, Mỹ, tôi mới thấy lời ông nói là chí lý. Tôi cũng rất ngạc nhiên không hiểu tại sao ông Phùng lại biết nhiều hiểu nhiều đến như vậy. Cho đến năm 2005, Liên ở Anh Quốc có tìm tôi qua internet và được một người Việt ở Sydney cho cô biết địa chỉ email của tôi. Khi liên lạc được với tôi, Liên cho biết, Liên có gia đình bà dì mở tiệm ăn ở ngay tiểu bang NSW, nên nhờ vậy tôi mới hiểu rõ hơn về ông Phùng và người vợ Việt Nam của ông. Nhưng đó là chuyện mấy chục năm sau này. Hôm đó, sau khi hàn huyên câu chuyện về thị trấn Bắc Hổi, ông Phùng có mời tôi ghé lại trung tâm tạm cư của người Hoa hồi hương ở ngay Đông Hưng để gặp ông và hai mẹ con Liên. Lâu ngày tôi không còn nhớ tên trung tâm tạm cư này, nhưng đại khái, thời gian đó ở Đông Hưng, để tiếp nhận hàng chục ngàn người Hoa từ Việt Nam về, cho họ ở tạm trước khi phân loại đưa về nông trường, hoặc đi thành phố,… chính quyền Trung Quốc đã lập nên mấy trung tâm tạm cư ở ngay ngoại ô thị trấn Đông Hưng.
Khi tôi đến trung tâm hồi cư của người Hoa nơi có gia đình ông Phùng ở tạm, tôi thấy cả một biển người đông như kiến tụ tập quanh một vùng hoang vu, có hai, ba ngọn đồi và rừng cây lá thấp. Dưới chân những ngọn đồi này là những dòng suối quanh co trông rất thơ mộng. Nhưng lúc ấy, dọc theo dòng suối, trên những triền đồi thoai thoải, không biết bao nhiêu là lều, lán, tăng, võng, đủ loại, đủ kiểu, to nhỏ khác nhau. Cảnh nấu nướng, giặt giũ quần áo, người đi ngược, kẻ đi xuôi, huyên náo ầm ĩ cả một vùng.
Tôi đang bơ vơ, bỡ ngỡ không biết làm sao tìm được lều của ông Phùng thì bỗng nghe có người hát nho nhỏ bài Hạ Trắng… Vừa ngạc nhiên vừa mừng, tôi đi lại phía căn lều có tiếng hát. Trời lúc đó đã mùa đông lạnh lẽo, thêm gió ở triền đồi thổi lồng lộng, khiến cái lạnh càng thêm tê tái… Nhìn vào lều, tôi thấy có có mấy người đang quây quần quanh đống lửa, than đỏ hồng. Chỉ nhìn thoáng qua cách ăn mặc tôi cũng nhận ra có hai người từ Miền Nam, một người tuổi khoảng 50, thấp và nhỏ con, nét mặt xương, mắt to và sáng, tóc muối tiêu; một người tuổi khoảng 15, vóc dáng thư sinh, nước da trắng trẻo gò má ửng hồng, môi đỏ tựa thoa son, trông như con gái. Còn lại mấy người đang nói chuyện um xùm, nhưng nghe giọng, tôi biết ngay họ người Hải Phòng. Lui vào phía trong, cách biệt hẳn đám đông ồn ào bên ngoài là một người đàn ông, tuổi trạc 50, vận có một chiếc áo phong phanh, thái độ bất cần đời, nhưng đầy vẻ hào hoa phong lưu, và có nét mặt hao hao giống cậu bé 15 tuổi… Nhìn ông, tôi cũng đoán ngay, ông là người Miền Nam và là người Việt. Thấy tôi, người đàn ông vẫn thản nhiên và say sưa hát nho nhỏ bài Hạ Trắng… Mắt ông nhìn ra ngoài, nhưng có vẻ như nhìn vào một vùng xa xăm nào đó, không hề hiện hữu trước mắt…
Quần áo tôi mặc lúc đó do Chiêu Đãi Trạm Hồng Kỳ cung cấp mới mấy ngày hôm trước, tất cả đều mới tinh và cũng có 4 túi, giống hệt như đồng phục của cán bộ Trung Cộng hay mặc, nên khi đi vô trại hồi hương của người Hoa, ai nhìn tôi cũng nghĩ tôi là cán bộ Trung Cộng. Mấy người đang ngồi sưởi ở phía ngoài thấy tôi đều đon đả chào hỏi bằng tiếng Hoa. Tôi lúng túng bập bẹ trả lời bằng mấy tiếng Quảng mới học… Sau đó, nhìn người đàn ông mà tôi nghĩ là người Miền Nam, tôi hỏi bằng tiếng Việt:
- Xin lỗi anh cho tôi hỏi, anh có phải là người Việt từ Miền Nam?
Anh đó gật đầu, nhìn tôi, ánh mắt không giấu vẻ tò mò và ngạc nhiên. Tôi vội tự giới thiệu:
- Thưa anh, tôi tên Lai, cũng người Việt ra đi từ Miền Nam…
Anh hỏi ngay:
- Anh là Phạm Thái Lai?
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, sao anh biết?
Anh đứng ngay dậy đưa tay bắt, miệng nói đon đả: “Tụi tôi vẫn nghe mấy ông cán bộ Tàu cộng nói về anh. Nghe nói anh được ở khách sạn, ăn uống tiêu chuẩn “trung táo” sướng lắm phải không? Tôi là Thu…”
Đưa tay chỉ về phía người đàn ông đang ngồi phía trong, anh Thu tiếp:
- Còn kia là Tiến, trước là trưởng ty kiến thiết Hậu Nghĩa. Còn cậu này là Đức, con của Tiến… Rồi mời anh vô đây làm ly trà cho ấm bụng rồi tha hồ trò chuyện…
Gặp được các anh, tôi mừng quá. Thú thiệt, sau bao nhiêu ngày tháng xa rời Miền Nam, trên đường vượt biên đi qua bao nhiêu thành phố, thị xã, gặp không biết bao nhiêu người Việt trên đất Bắc, trong đó có cả những thân quen ruột thịt của tôi, nhưng ngoại trừ những người thân yêu nhất tôi tin tưởng, còn lại lúc nào tôi cũng thủ cẳng, vì hiểu rằng, guồng máy tuyên truyền của chế độ cộng sản, sau mấy chục năm đã biến mỗi người dân lương thiện ở Miền Bắc thành những người công an. Vì vậy, đây là lần đầu tiên, sau thời gian hơn một năm trời xa Miền Nam, tôi được trò chuyện một cách thoải mái, phơi bầy tất cả những điều tâm huyết của mình.
Anh Tiến khi biết tôi là Lai, cũng tươi cười niềm nở trò chuyện. Qua câu chuyện tôi được biết anh là kiến trúc sư, trước ở đường Phạm Hồng Thái, Sàigòn. Còn anh Thu làm kế toán cho nha kiến thiết, có người chị ruột còn kẹt ở Hải Phòng sau 1954, nên đã rủ hai bố con anh Tiến ra Bắc thăm người chị. Rồi hoàn cảnh run rủi, cả ba người liền trà trộn với người Hoa vượt biên sang Trung Cộng chót lọt từ mấy tháng trước, mà chẳng mất một lạng vàng nào. Hai anh cũng cho biết, có ý tìm đến chiêu đãi trạm Hồng Kỳ để thăm tôi, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng nên chưa thể nhờ người đưa đi… Nhân dịp này, tôi cũng mách nước hai anh, viết đơn cho chính phủ Trung Cộng xin tỵ nạn chính trị để được đối xử thoải mái hơn. Tôi cũng trao đổi với các anh về những khó khăn trong việc đi định cư ở các quốc gia đệ tam như Mỹ, Úc… mà tôi đã nghe ông Phùng nói. Tuy nhiên, các anh tin tưởng, với vị thế của các anh trong quá khứ, cộng với tư cách tỵ nạn chính trị, và mối quen biết tại hải ngoại, các anh sẽ không gặp khó khăn trong việc xuất cảnh đến một cuộc gia đệ tam.
Trong những tuần lễ kế tiếp, của cuối năm 1978, mâu thuẫn giữa Trung Cộng và Việt Cộng ngày càng gia tăng, khiến tình hình biên giới Trung Việt tại Đông Hưng càng thêm căng thẳng. Xem ra, viễn ảnh một cuộc chiến tranh tại biên giới hai nước đang ngày càng cận kề…
Vào một buổi chiều gần Giáng Sinh, bỗng dưng cán bộ Ngô đến gặp tôi. Sau vài câu thăm hỏi xã giao, cán bộ Ngô cho biết:
- Hôm nay tôi đến để báo cho “đồng chí” biết, vì vấn đề an ninh tại Đông Hưng không bảo đảm, nên cấp trên quyết định cho đồng chí “sơ tán” về Phòng Thành, cách đây 50 cây số (lâu ngày tôi không nhớ chính xác, nên tạm coi là 50 cây số).
Vì trước đây ông Phùng đã nói cho tôi biết, Phòng Thành gần với Bắc Hổi, nên khi nghe cán bộ Ngô nói chuyển về Phòng Thành, tôi rất mừng. Giả vờ ngây ngô, tôi thăm dò:
- Thưa cán bộ, tôi thấy tình hình an ninh ở đây bảo đảm lắm. Có cho ăn kẹo, Việt Cộng cũng không dám gây hấn với Trung Cộng…
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Chuyện đó thì chắc chắn không xảy ra. Nhưng trung ương đang có kế hoạch “sơ tán” toàn bộ mạng lưới dân cư, kinh tế, hành chánh, dọc theo biên giới trong phạm vi sâu 20 cây số…
Nghe cán bộ Ngô nói vậy, tôi ngạc nhiên nghĩ, chẳng lẽ Trung Cộng phải lo sợ, đề phòng một cuộc tấn công từ phía Việt Cộng? Lúc đó tôi đâu có biết, Trung Cộng đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc tấn công Việt Nam để “dậy cho Việt Cộng một bài học”.
Sực nhớ lời của ông Phùng nói về Bắc Hổi, tôi ướm thử:
- Thưa cán bộ, tại sao không cho chúng tôi sơ tán thẳng lên Bắc Hổi?
Cán bộ Ngô ngạc nhiên:
- Sao “đồng chí” biết Bắc Hổi?
- Tôi nghe mấy người Hoa về nước họ rủ nhau lên Bắc Hổi để vượt biên sang Hồng Kông, nên hỏi cán bộ vậy thôi.
Cán bộ Ngô gật đầu, nói giọng nghiêm trang:
- Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa luôn luôn tôn trọng quyền tự do đi lại của mọi công dân. Ai muốn đi Bắc Hổi là quyền của của họ. Nhưng bất cứ ai vượt biên sang Hồng Kông là họ vi phạm luật pháp và họ sẽ bị trừng trị.
Tôi rụt rè:
- Như vậy chúng tôi có quyền đi Bắc Hổi được không?
Cán bộ Ngô gật đầu:
- “Đồng chí” có toàn quyền đi bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ Trung Hoa, không một ai ngăn cấm, miễn hồ đừng có những hành động phạm pháp.
Chủ Nhật tuần đó, anh Thu, hai bố con anh Tiến và tôi đi chơi phố lần cuối, và chúng tôi chứng kiến những đơn vị bộ đội đầu tiên của Trung Cộng đổ về thị trấn Đông Hương, trong khi dân chúng, công nhân viên chức tại thị trấn, đang huyên náo “sơ tán”.
Ngày hôm sau, tôi cùng “sơ tán” với cả chiêu đãi trạm Hồng Kỳ. Trên đường “sơ tán” bằng xe tiến về Phòng Thành, chúng tôi chứng kiến không biết cơ man nào là binh lính, xe tăng, đại pháo… của Trung Cộng đang rầm rộ tiến về phía Đông Hưng….
KỲ 100
NPhòng Thành là một thị trấn có diện tích rộng hơn Đông Hưng, nhưng không khí buôn bán không sầm uất, thịnh vượng bằng. Cả thị trấn có một rạp hát, một cửa hàng bách hóa tổng hợp trong đó hầu hết các mặt hàng đều có tấm biển nhỏ ghi hàng chữ “hàng mẫu không bán, miễn hỏi”, một bến xe, một tiệm sách, vài tiệm ăn. Thị trấn chỉ thực sự có sinh khí từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Ngoài ra, thị trấn rất hoang vu, lạnh lẽo, đường phố vắng ngắt, với vài bóng điện lu mờ tỏa ánh sáng vàng vọt. Riêng những buổi chợ phiên thì đông đúc, tấp nập và huyên náo vô cùng.
Ngay khi về Phòng Thành, tôi được chuyển về sống với hai cha con anh Hoàng Văn Tiến và anh Nguyễn Văn Thu, tại một khu nhà riêng biệt, ngay cạnh dòng suối rất thơ mộng chảy qua thị trấn. Tại đây, chúng tôi được cung cấp gạo, thực phẩm và tiền để tự lo liệu mọi chuyện nấu nướng, ăn uống.
Mấy ngày sau, một nhóm người khác cũng đến ở với chúng tôi. Nhóm này có hơn chục người. Trưởng gia là bà Nguyễn Thị Trà, ngoài 50 tuổi, một thương gia thành công trước 1975. Đi với bà có cô con gái tên Dung, ngoài 20 tuổi và con trai tên Tuấn (?) 19 tuổi, em gái của bà Trà là chị Giang, 36 tuổi, và con gái của chị mới có 9 tuổi. Tất cả những người này đều sống ở Sàigòn. Ngoài ra, còn có ông em của bà Trà ở Hải Phòng, lâu ngày tôi quên mất tên, cùng với hai con trai của ông là Bình 25 tuổi và Hải 23 tuổi….
Theo lời kể của bà Trà thì gia đình bà rời Sàigòn từ đầu tháng 1 năm 1979, đến Hải Phòng trú ngụ ở nhà người em một thời gian, rồi cả gia đình bà và gia đình người em trà trộn với người Hoa, vượt biên qua Đông Hưng xin tỵ nạn chính trị ngày 15/2, sau tôi đúng 4 tháng rưỡi.
Bà Trà trước sống ở Lê Văn Duyệt, Sàigòn, có một người con gái tên là Hạnh, lấy chồng Mỹ tên là Richard Calvarado thì phải. Không hiểu trước 1975, ông này làm gì, nhưng vào thời điểm 1979, bà Trà cho biết, con rể của bà đang là giám đốc kế hoạch cho cơ quan United Way tại San Antonio, Texas.
Khi cả gia đình bà lớn bé già trẻ 14 người đến sống chung với chúng tôi, ai ai cũng rất vui mừng, mọi chuyện vui buồn của quê hương đất nước, của mỗi cuộc đời sau năm 1975 đều được mọi người chia sẻ, tâm tình thoải mái. Đúng là tha phương ngộ đồng hương cũng hạnh phúc không kém gì cố tri. Phần bà Trà là người giầu có, thêm tiền bạc của con rể con gái từ Mỹ gửi sang, phần bà tiêu pha hào phóng, xứng đáng là bà chị cả của “đại gia đình tỵ nạn”, nên chúng tôi thường xuyên thưởng thức những bữa ăn thịnh soạn do bà khoản đãi.
Bà thường đi chợ cùng với một người thông ngôn, để chính tay bà chọn những con gà, vịt, cá, tôm… to nhất và ngon lành nhất. Mua về, em gái bà là chị Giang và Dung con gái bà, cùng vô bếp nấu nướng với sự “tả phù hữu bật” của hai người cháu là Bình và Hải. Còn chúng tôi, anh Tiến và anh Hải đều ngoài 50 tuổi, được bà Trà coi như em, nên được ngồi trò chuyện với “Chị”. Riêng tôi gọi bà là bác xưng cháu, nhưng được bà rất thương yêu, nhất định không cho tôi nhúng tay vào bất cứ công việc gì.
Khi được biết, bà Trà có người con rể Mỹ đang làm giám đốc một công ty Mỹ, ba anh em chúng tôi đều nghĩ bà sẽ có cơ hội đi Mỹ nhanh hơn. Vì vậy, hai bố con anh Tiến và anh Thu đã chấp thuận đứng tên chung trong đại gia đình của bà Trà khi nộp đơn xin đi Mỹ. Riêng tôi vẫn một mình một đơn xin đi Úc.
Thời gian này tôi đã liên lạc được với gia đình ở Úc. Vì vậy, một mặt gia đình lo làm giấy tờ bảo lãnh cho tôi, mặt khác, gia đình cũng đã gửi tiền, quà, quần áo lạnh cho cả 4 anh em chúng tôi. Vì Phòng Thành là một thị trấn nhỏ, dân chúng sống rất lạc hậu, nên mỗi khi 4 người chúng tôi diện những bộ đồ lạnh của Úc đi dạo phố là cả một đám đông con nít vây quanh và đi theo, gây nên nhiều chuyện cười chảy nước mắt.
Một kỷ niệm vui buồn lẫn lộn nhưng thật ý nghĩa và đáng nhớ nữa là chuyến viếng thăm người em gái của anh Thu. Anh Thu trước quê ở Hải Phòng. Năm 1954, anh di cư vào Nam, sau làm kế toán cho Nha Kiến Thiết. Cuối năm 1978, anh trở về Hải Phòng thăm thân nhân, họ hàng, mới được biết tin về người em gái bị bắt cóc rồi bị bán sang Trung Quốc từ năm 1945. Nay chị ta đã lấy chồng và sống ở một vùng thôn quê hẻo lánh, lâu ngày tôi quên mất tên, cách Phòng Thành khoảng bốn chục cây số. Vì vậy, anh Thu muốn tất cả chúng tôi cùng ghé thăm gia đình người em của anh vài ngày.
Sau thời gian bàn bạc, xin phép cán bộ Ngô, chúng tôi lên đường đi thăm cô em của anh Thu. Sau chặng đường đi xe đò từ Phòng Thành đến thị trấn Sàng Pú (?), chúng tôi phải đi bộ khoảng trên dưới 10 cây số từ Sàng Pú đến làng, vì đường này không có bất cứ phương tiện chuyên chở công cộng nào. Điều ngộ nghĩnh nữa là theo lời dặn của cô em, anh Thu đã mua 4, 5 cặp ngỗng làm quà cho gia đình. Vậy là 4 anh em chúng tôi, trong 4 bộ đồ lạ lẫm không giống ai, lùa cả chục con ngỗng đi trên con đường quanh co của vùng sơn cước dẫn tới nhà em của anh Thu.
Thôn xóm của em gái anh Thu ở là một thôn xóm cách biệt hẳn văn minh của đô thị, dù là đô thị của Trung Hoa. Cả thôn không có đèn điện, không có bất cứ dụng cụ gì liên quan tới điện và cơ giới. Nhà nhà đều làm bằng đất trộn rơm, đắp thành từng tảng lớn chung quanh nhà, trên mái thì lợp rơm hoặc cỏ tranh. Trong nhà đồ đạc hầu như không có gì. Không bàn ghế, giường tủ. Mọi người ngủ ngay trên nền đất ẩm thấp, được lót sơ sài bằng ổ rơm, hoặc chiếu. Bếp đều đắp bằng đất, và tất cả mọi chuyện nấu nướng đều bằng chiếc chảo gang to đen sì. Nấu cơm xong, rỡ ra rá hoặc ra chiếc mâm bằng gỗ, rồi cũng chiếc chảo gang đó tiếp tục đun nước, nấu đồ ăn. Đồ ăn thường là canh muối nấu với đủ các loại rau hái ở ngoài vườn. Vật dụng duy nhất trong nhà mang dấu vết của “văn minh” là tờ lịch có hình Hoa Quốc Phong và bức tranh Mao Trạch Đông đang đứng dơ tay giữa Thiên An Môn.
Vì thôn xóm lạc hậu như vậy, nên chuyến viếng thăm của chúng tôi quả là một sự kiện gây chấn động cả thôn xóm. Cả xóm lũ lượt đổ tới coi hình dáng “ngoại nhân” và những bộ quần áo lạ lẫm, mầu sắc sặc sỡ. Nhiều người, nhất là con nít, chỉ thích rụt rè đưa tay sờ mấy chiếc áo len rực rỡ hình ảnh và màu sắc của tụi tôi. Khi cô em của anh Thu giới thiệu người này sẽ đi Mỹ, người kia sẽ đi Úc,… mọi người đều trầm trồ ngưỡng mộ, xuýt xoa khao khát ước mơ. Lúc đó, trong con mắt của người dân Trung Hoa nói chung và dân làng ở đó nói riêng, các quốc gia tự do phương tây, nhất là nước Mỹ, Úc, giống như thiên đàng hạ giới, họ chỉ được nghe mà chưa được thấy.
Em của anh Thu tên là Đông, một cái tên nghe thật héo hắt u buồn, đầy lạnh lẽo sầu khổ, giống như một tiền định cho cuộc đời của chị. Theo lời kể của anh Thu, chúng tôi được biết, tuổi của chị lúc đó chưa tới 50, nhưng nhìn chị già hơn tuổi. Nét mặt của chị lúc nào cũng đầy vẻ đăm chiêu, chịu đựng, cam phận. Riêng cặp mắt cuả chị thì đẹp và buồn vô cùng. Cả cuộc đời của tôi, cho đến bây giờ khi viết những dòng chữ này, tôi đã từng thấy không biết bao nhiêu nỗi sầu đau ẩn hiện trên ánh mắt của không biết bao nhiêu người, nhưng tôi chưa hề thấy cặp mắt người phụ nữ nào sũng buồn như mắt của chị. Kể từ ngày gặp chị cho đến nay đã ngót 30 năm, vậy mà bất cứ lúc nào, kể cả lúc tôi đang vui mừng hạnh phúc cùng người thân, hay say sưa bù khú bên ly rượu cùng bạn hữu,… hễ tôi bất chợt nhớ đến ánh mắt sũng buồn của chị, là tôi lại thấy lòng mình nao nao buồn và không nén được tiếng thở dài…
Ngay buổi tối hôm đó, bên ánh lửa bập bùng, trong nước mắt và bằng giọng nghẹn ngào sụt sùi, chị ngồi kể lại cho chúng tôi nghe cuộc đời của chị, từ khi chị bị bắt vào năm chị mới 15, 16 tuổi, rồi bị bán sáng Trung Quốc làm vợ một người đàn ông Trung Hoa ở thôn quê vùng sơn cước này suốt hơn 30 năm. Hơn 30 năm đó, chị đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi khổ đau, chị đã khóc không biết bao nhiêu nước mắt, trong nỗi cô đơn của một người con gái phải ly biệt quê hương, nhớ thương cha mẹ, anh chị em,… và phải sống giữa những người hoàn toàn xa lạ, bất đồng về ngôn ngữ, phong tục, tập quán…
Suốt thời gian hơn 30 năm, chị được về thăm quê có một lần vào năm 1969. Nhưng lần đoàn tụ và hội ngộ đó cũng đầy đau khổ và nước mắt. Chị khóc khi thấy cha mẹ, anh chị em, quá túng thiếu, nghèo khổ. Chị ở Trung Quốc khổ vì đói cơm, vì nhớ nhung, nhưng cha mẹ anh chị em của chị ở Việt Nam thì ngay cả những thứ ăn độn như khoai, sắn, rau, củ chuối… cũng không có mà ăn. Thiệt xa thì đau lòng vì nhớ, đến khi gặp rồi thì thêm xót xa đau đớn vì thương. Vì vậy, khi chia tay về Trung Quốc, chị lại càng khóc thương, sầu khổ nhiều hơn mỗi khi nhớ đến người thân còn ở Việt Nam.
Cũng may, người chồng của chị rất thương yêu chị. Lớn hơn chị gần chục tuổi, nhưng ông có một thân hình cường tráng gân guốc, gương mặt quắc thước. Ông ngồi bên cạnh chị vững vàng như tảng đá tạc, im lìm hút thuốc bằng chiếc ống vố dài gần nửa thước. Suốt từ đầu đến cuối chuyện, ông chỉ lim dim cặp mắt mà nói rất ít, nhưng bàn tay ông xiết chặt bàn tay của vợ đã biểu lộ lòng yêu thương vợ tha thiết của ông.
Điều kỳ diệu là tuy xa quê nhà từ năm 15, 16 tuổi, nhưng chị Đông nói và viết tiếng Việt rất giỏi. Không những vậy, chị còn dậy cho các con nói và viết tiếng Việt thông thạo. Vì vậy, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy các cháu con của chị đem cho chúng tôi coi những tập vở trong đó chép toàn những bài ca dao và thơ của Nguyễn Bính. Chị Đông và các cháu không những thuộc lòng những câu ca dao và thơ của Nguyễn Bính mà con biết hát quan họ bài “Trống Cơm” và bài “Người ở đừng về”. Thì ra, sống xa tổ quốc suốt mấy chục năm trời, tấm lòng thương quê nhớ nước của người thiếu phụ chỉ còn biết bấu víu vào những câu hát dân ca, những câu ca dao và những vần thơ của Nguyễn Bính, để duy trì ngôn ngữ Việt giữa một vùng thâm sơn cùng cốc của một đất nước mênh mông, dân cư đông đúc, có cả tỷ người nói tiếng Hoa.
Nói ra thiệt xấu hổ, tất cả mấy anh em chúng tôi, sinh ra và lớn lên trên quê hương Việt Nam suốt cả đời người, vậy mà không một ai thuộc lời hay biết hát bất kỳ một bài hát quan họ nào cho trọn vẹn, ngoại trừ anh Thu nhớ bập bõm vài câu trong bài “Trống Cơm”. Còn ca dao và thơ Nguyễn Bính thì anh Tiến và tôi cũng nhớ được một ít, nhưng không thuộc lòng từ đầu đến cuối như chị Đông.
Chúng tôi cảm động nhất khi nghe mấy mẹ con hát quan họ bài “Người ở đừng về”. Nghe hát xúc động quá, chúng tôi lấy giấy bút ra chép rồi cũng nghêu ngao hát theo, vừa hát vừa rưng rưng lệ: “Người ơi người ở đừng về. Người về em vẫn khóc thầm. Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa”….
Sau mấy ngày thăm viếng, cuối cùng chúng tôi phải từ giã mọi người, vì cán bộ Ngô chỉ cho phép chúng tôi đi có một tuần lễ. Chị Đông và mấy người con, cháu năn nỉ xin đi theo chúng tôi lên phố để chụp một tấm hình lưu niệm.
Đoạn đường chỉ ngắn ngủi có 10 cây số, nhưng là một kỷ niệm tuyệt vời… Sáng sớm hôm đó, chúng tôi đi trên những con đường quanh co của miền sơn cước, ẩn hiện giữa cả một biển sương mù, vừa đi vừa thấy thấp thoáng núi cao, rừng rậm, sông sâu, khiến tôi có cảm giác như được đi trên những con đường thỉnh kinh của thầy trò Tam Tạng, Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Trong cảnh sơn thuỷ hữu tình đó, chúng tôi cùng nhau hát vang bài quan họ “Người ở đừng về”: “Người ơi người ở đừng về. Người về em vẫn trông theo. Trông nước nước nước chảy, trông bèo bèo trôi”…
Những câu hát đó mãi mãi ngân nga trong lòng chúng tôi. Quả thật, chân bước đi rồi nhưng lòng chúng tôi vẫn quay trở lại… với cảnh với người… Và bây giờ khi viết những dòng chữ này, lòng tôi vẫn bồi hồi khi nhớ lại những ngày tháng ấm cúng tuyệt vời, đầy tình nghĩa giữa những người xa quê hương, để rồi thấy thật thấm thía câu thơ, “Khi ta đến, đất là nơi ta ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”…
Thị trấn Sàng Pú (?) là một thị trấn nhỏ, nghèo, dân cư thưa thớt. Cả thị trấn chỉ có một tiệm hình duy nhất, với chiếc máy hình cổ lỗ sĩ. Nhưng con và cháu của chị Đông đều rất hồi hộp vì đây là lần đầu tiên họ được chụp hình. Sau khi chụp hình xong, chúng tôi mời chị Đông và mấy người con, cháu đi ăn ở tiệm ăn “tổng hợp”. Giống như hầu hết các tiệm ăn “tổng hợp” trong chế độ cộng sản, tiệm ăn ở Sàng Pú cũng nghèo nàn, bẩn thỉu và chỉ có hai món ăn là bánh bao và một loại phở. Nước uống chỉ có một loại nước chanh đường, không có đá. Chị Đông thì không có xa lạ gì những món ăn trong tiệm, nhưng với mấy người con, người cháu cuả chị, thì đây là lần đầu tiên họ được ăn phở.
Sau khi ăn uống xong, chúng tôi mua ít bánh bao, khăn mặt, xà bông thơm làm quà, rồi bịn rịn chia tay chị Đông vào buổi trưa hôm đó tại bến xe Sàng Pú. Ngồi trên xe, chúng tôi với tay qua cửa sổ bắt tay nhau lần cuối. Ai cũng sụt sùi rưng rưng lệ…. Khi xe vừa nổ máy, tôi thấy chị Đông và mấy người con, cháu đều ôm nhau khóc ngất. Chúng tôi cũng khóc… Xe chuyển bánh, ngoái nhìn lại phía sau, tôi thấy qua màn lệ, chị Đông và mấy người con, cháu, vừa ôm nhau khóc, vừa vẫy tay, vẫy tay… Rồi tất cả mờ dần, mờ dần, và khuất hẳn, để lại trong lòng mỗi người chúng tôi nỗi bâng khuâng, buồn bã khôn tả… Trĩu nặng niềm tâm sự của ly biệt, tất cả chúng tôi ngồi trên xe không ai nói với ai một lời, trên suốt chặng đường trở lại Phòng Thành.
KỲ 101
Cuộc sống của chúng tôi ở Phòng Thành thật êm đềm. Phong cảnh Phòng Thành thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình và người dân địa phương chất phác, tốt bụng, giầu lòng thương người. Tuy vốn liếng tiếng Hoa của tôi thật ít ỏi, nhưng nhờ học thuộc lòng một số câu, mồm miệng lại nhanh nhảu, nên được nhiều gia đình người Hoa thương, giúp đỡ rất tận tình. Tôi còn nhớ một câu Quan thoại tôi thuộc lòng thời gian đó, “Tráng lại ủa lỳ hối Trung Của, ủa xì xì hên chệt nỉ”, có nghĩa, “Tương lai tôi rời xa Trung Quốc nhưng tôi luôn luôn nhớ ông /bà /cô /bác /anh /chị…”. Mỗi khi tôi nói câu này, những người lớn tuổi hay đàn ông con trai thì vỗ tay tán thưởng cười nói vui vẻ; còn phụ nữ, nhất là các cô gái người Hoa thì đỏ mặt, ngượng ngùng, vì họ coi chữ “luôn luôn nhớ” hàm ý yêu đương trai gái.
Người dân Phòng Thành sinh sống bằng đủ thứ nghề, nhưng nghề tạo cho tôi nhiều thương tâm nhất là nghề “tả sẹc” (đập đá). Vì chảy qua Phòng Thành có một dòng sông lớn, vào mùa nước cạn, hai bờ sông tràn ngập các loại sỏi đủ cỡ to nhỏ. Người dân ra sông gánh sỏi đem về chất đống trước nhà, rồi vợ chồng, con cái, bất cứ ai, hễ có thì giờ là ra ngồi đập những viên đá sỏi vụn ra thành từng miếng nhỏ gọi là đá răm. Sau đó, những viên đá răm được đổ gọn thành từng thước khối, chờ người ở công xưởng lái xe đến đo mua, trả tiền, rồi chở đi.
Kỹ thuật đập đá ở Phòng Thành rất đơn giản và nguy hiểm. Nếu đá sỏi loại lớn, thì người đàn ông trong gia đình dùng những chiếc búa tạ đập ra thành những miếng nhỏ. Sau đó, ông bà già, phụ nữ, trẻ em trong gia đình, dùng những chiếc búa nhỏ đập cho những miếng đá đó thành đá răm, để dùng trong các công trình xây cất.
Thù lao cho nghề đập đá rất rẻ mạt. Nhưng hầu hết những người đập đá đều là người già, phụ nữ và trẻ em. Họ là những người không có một tay nghề căn bản nào để có thể kiếm ra tiền, cả ngày không biết làm gì, trong khi cuộc sống của gia đình thì quá thiếu thốn, nên bất cứ khi nảo rảnh rỗi, là họ phải đập đá để kiếm thêm tiền chi tiêu trong gia đình.
Những người dân đập đá đều không có găng tay, không có kiếng an toàn. Họ phải dùng những tấm vải rách đủ màu, đủ loại quấn kín chân tay, mặt mũi, chỉ để hở có hai con mắt. Vì vậy, có rất nhiều người bị tai nạn, đập búa vào các ngón tay, hay miểng đá văng vào mắt, vào mặt, vào tay chân… trong đó có những trường hợp trầm trọng bị mù.
Khi viết những dòng chữ này, tôi lại bùi ngùi nhớ đến Phòng Thành, hình ảnh của những con hẻm nhỏ chạy dài với những hàng cây, và trước mỗi căn nhà là những đống đá say ngủ, những người làm nghề “tả sẹc” âm thầm, cô đơn, thui thủi một mình, bất kể sáng tối, trưa chiều, mưa nắng, trong những bộ quần áo, giẻ rách nhiều hơn vải, và bộ mặt bịt kín, chỉ hở có hai con mắt. Tôi đã từng đến thăm những gia đình làm nghề “tả sẹc”, cảm khái chứng kiến những bà cụ, ông cụ, những em học sinh… chân tay, mặt mũi bị sẹo hoặc bị tàn tật chỉ vì đập đá.
Tuy chỉ mới sống ở Phòng Thành có vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã thấy rõ sự khủng hoảng trai thừa gái thiếu tại Trung Hoa, hậu quả cuả chính sách 1 con cho một gia đình được áp dụng rộng rãi tại Trung Hoa trong suốt nhiều thập niên. Thường cứ vào buổi chiều, đàn ông con trai độc thân tụ tập trước cửa nhà trò chuyện, hoặc lang thang đi dạo phố để được đắm đuối ngắm vuốt trong tuyệt vọng những cô gái Trung Hoa thắt bím, đi nhanh như chạy. Bề ngoài những người đàn ông con trai vui vẻ cười đùa, nhưng trong thâm tâm, hầu hết đều lo nghĩ đến chuyện tìm kiếm một người phụ nữ làm vợ. Vì sự chênh lệch tỷ lệ giữa nam và nữ quá cao, cộng tình trạng con gái ở Phòng Thành đổ xô ra thành thị làm việc, nên lấy vợ tại Phòng Thành thời đó vừa tốn kém vừa rất vất vả cho người con trai. Ngoài những khó khăn trong việc kiếm được vợ, họ còn gặp khó khăn trong tài chánh. Tôi đã nghe nhiều chuyện, tình duyên của họ nửa đường đứt gánh vì tiền bạc không có, nhiều ông bố cả đời chỉ lo chắt bóp dành dụm để có đủ tiền lo đám cưới cho con mà cũng không đủ, dẫn đến không biết bao nhiêu bi kịch trong gia đình, ngoài xã hội. Thường, sau mỗi cuộc tình dang dở như vậy, người con trai đều bỏ Phòng Thành đi Nam Ninh, Quảng Châu hay Thượng Hải… nói là đi “kiếm tiền”, “đổi đời”, nhưng hầu hết là đi để tìm quên lãng, và rồi vĩnh viễn không thấy trở lại.
Trong thời gian này, gia đình bà Trà và anh Tiến, anh Thu thường xuyên gửi thư cho tòa đại sứ Mỹ ở Bắc Kinh, cũng như gia đình ở Mỹ để một mặt xin nhập cảnh Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị, mặc khác xúc tiến hồ sơ bảo lãnh vô Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình.
Ngày 28 tháng 3 năm 1979, bà Trà nhận được thư của tòa đại sứ Mỹ chính thức từ chối đơn xin vô Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị. Thư của tòa đại sứ Mỹ xác nhận, chương trình đặc biệt cho người Việt được nhập cảnh Mỹ theo diện tỵ nạn chỉ dành cho người Việt đang sống tại các trại tỵ nạn ở các quốc gia vùng Đông Nam Á và Hồng Kông. Thư cũng khẳng định trách nhiệm của Trung Quốc là định cư người tỵ nạn Việt Nam, trong đó có 200 ngàn người Việt gốc Hoa bị cộng sản Việt Nam cưỡng bức hồi hương, chứ Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn đến các quốc gia đệ tam. Nói cách khác, Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ là quốc gia đệ tam, phải có bổn phận chia xẻ gánh nặng tỵ nạn với Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng thư của tòa đại sứ Mỹ cho biết, biện pháp duy nhất để gia đình bà Trà có thể nhập cảnh vô Mỹ là đoàn tụ gia đình. Và điều này tuỳ thuộc vào khả năng tài chánh, mối quan hệ của thân nhân bà Trà ở Hoa Kỳ, chiếu theo luật di trú của Mỹ.
Kèm theo thư là một xấp giấy tờ liên quan đến luật di trú, thủ tục xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ… Như vậy là con đường có thể rời Trung Quốc chớp nhoáng để đi Mỹ theo diện tỵ nạn của gia đình bá Trà đã bị bế tắc. Còn con đường đến Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình thì rất nhiêu khê, phải mất ít nhất là 2 năm, theo lời trình bầy của cán bộ Ngô.
Trường hợp của tôi cũng tương tự như vậy. Ngay từ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi đặt chân đến Trung Quốc được 2 tháng, gia đình tôi ở Úc đã nhờ Hội Tỵ Nạn Đông Dương gửi thư cho ông Michael MacKellar, tổng trưởng di trú, xin cứu xét cho nhập cảnh trên tiêu chuẩn tỵ nạn. Tuy nhiên đơn xin đã bị bác. Trong thư trả lời, bộ di trú Úc cũng khẳng định, thỏa thuận giữa Úc và Trung Hoa vào tháng 10 năm 1976 chỉ cho phép thường trú nhân hay công dân Trung Quốc được phép nhập cảnh Úc theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình. Và thời gian để đi Úc theo tiêu chuẩn này cũng mất ít nhất 2 năm.
Đến lúc đó tôi mới thấy những lời giải thích của ông Phùng, ba của Liên thật chính xác. Thời gian phải chờ đợi 2 năm trời để được đến Mỹ, Úc, đối với chúng tôi quá khủng khiếp. Vì vậy, chúng tôi bàn đến giải pháp “vượt biên” tới Hồng Kông qua ngả Bắc Hải, theo như sự gợi ý của ông Phùng. Vấn đề được đặt ra lúc đó là làm sao chúng tôi có thể đến được Bắc Hải khi ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có. Khó khăn nữa là lấy tiền đâu ra để chung cho chủ tàu? Số tiền cho một người đi từ Bắc Hải đến Hồng Kông lúc đó là 300 đến 500 đồng “nhân dân tệ” (tiền Trung Cộng). Đây là số tiền khá lớn, tương đương lương một năm của một công nhân viên chức Trung Cộng.
Ngoài ra, chúng tôi còn một khó khăn nữa là ai đi ai ở? Cá nhân tôi tuy mình đi một đường, nhưng lâu nay sống chung trong một mái gia đình nên cũng muốn cùng nhau chia sẻ hoạn nạn từ Phòng Thành đến Hồng Kông. Còn lại 14 người trong gia đình bà Trà, phần đông là đàn bà, con gái và con nít, không phải ai cũng chấp nhận phiêu lưu vượt biển sang Hồng Kông. Với những người này, thời gian chờ đợi 2 năm để được đi Mỹ an toàn bằng phi cơ vẫn là thượng sách. Riêng hai cha con anh Tiến và anh Thu vì đã vô chung một hộ với gia đình bà Trà nên cũng có tình gia đình, chẳng thể một sớm một chiều quyết định bỏ gia đình bà Trà lại để đi Hồng Kông.
Sau thời gian bàn bạc, chúng tôi tạm thời đi tới phương hướng, bà Trà, ông em của bà Trà cùng đàn bà và con nít khoảng chục người sẽ ở lại Trung Quốc chờ đợi giấy bảo lãnh chính thức vô Mỹ. Còn lại người con trai của bà Trà, hai người con trai của ông em bà Trà là Bình, Hải, và hai cha con anh Tiến, anh Thu, cùng với tôi sẽ tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Tiền bạc trả cho chủ tàu thì người nào đi, người đó lo. Tôi được mọi người cử đi Bắc Hải dò đường đi nước bước, tìm hiểu tình hình, và móc nối với chủ tàu. Trước khi đi, tôi viết vội lá thư gửi cho gia đình ở Úc, trình bầy hoàn cảnh khó khăn cùng quyết định của mình, và yêu cầu gia đình gửi gấp tiền sang để tôi trả tiền tàu, vượt biên sang Hồng Kông.
Thời gian đó, có rất nhiều người Hoa ở Chợ Lớn về ở Đông Hưng, Phòng Thành một thời gian, rồi bị đẩy về nông trường. Tất cả những người đó nhờ được sống trong chế độ Miền Nam tự do nên không một ai muốn ở lại Trung Cộng. Vì vậy, vượt biên sang Hồng Kông là con đường duy nhất họ chọn lựa để có thể tìm đến miền đất hứa. Những người bạn tôi quen ở Đông Hưng, Phòng Thành, như anh Vũ Quang Phong, Diệp Đức Tuấn, hai chị em Quan Trọng Hà, Quan Trọng Du, Liên, Ngọc… đều khuyên tôi vượt biên sang Hồng Kông. Nhưng khi đó, tôi còn tin tưởng vào con đường đi chính thức nên thờ ơ trước những lời khuyên của họ. Bây giờ khi con đường đi chính thức bị bế tắc, tôi cần tìm đến họ thì không biết họ ở đâu. Riêng ông Phùng lúc đó tôi cũng đã mất liên lạc nên tôi đành lên đường đi Bắc Hải một mình.
Trước khi đi, tôi lo ngại không biết có nên xin phép cán bộ Ngô không. Tôi có hỏi anh Tiến và anh Thu. Cả hai anh nói, nên xin phép, nhưng chỉ nói với cán bộ Ngô là đi Bắc Hải thăm bạn, chứ không nên nói đi tìm đường vượt biên.
Chiều hôm đó, tôi ghé chiêu đãi trạm, xin gặp cán bộ Ngô. Người tuỳ phái dắt tôi vô phòng khách chờ. Khoảng 5 phút sau cán bộ Ngô bước vô, đon đả chào hỏi. Tôi đi thẳng vào vấn đề:
- Thưa hôm nay tôi đến xin phép cán bộ cho tôi đi Bắc Hải thăm người bạn.
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa là nước tự do. “Đồng chí” có có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn…
Tôi rụt rè:
- Thưa cán bộ, như vậy tôi có cần giấy phép đi đường gì không?
Cán bộ Ngô cười lắc đầu:
- Tôi đã nói với “đồng chí” là “đồng chí” có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn thì tại sao lại cần phải có giấy phép?
Nghe vậy tôi thở dài như trút được gánh nặng. Sự thực, tôi cũng hiểu, trong chế độ cộng sản Trung Hoa, “mỗi người dân là một người công an”, nên việc kiểm soát người lạ chặt chẽ và khôn ngoan hơn Việt Cộng nhiều. Giữa cả biển người đông hàng tỷ, nhưng quả thật “muôn người như một”, từ quần áo, giầy dép, cách ăn nói, nếp suy nghĩ, sở thích, cá tính… của cả tỷ người Trung Hoa đều giống nhau theo những khuôn phép nhất định, khiến bất cứ người lạ nào đến Trung Quốc đều cảm thấy lạc lõng và bị nhận diện một cách dễ dàng. Vì vậy, đi giữa xã hội đó, có giấy phép hay không có giấy phép đều không thành vấn đề, vì tôi vẫn bị cả một mạng lưới “công an nhân dân” theo dõi, giám sát khắp mọi nơi, mọi lúc.
Tôi cảm ơn cán bộ Ngô, rồi tính đứng dậy ra về thì cán bộ Ngô dơ tay ngăn lại và nói:
- “Đồng chí” lên Bắc Hải cần phải cẩn thận, vì ở nơi đó có rất nhiều cán bộ Việt cộng trà trộn với thuyền nhân đi từ Việt Nam sang. Chúng tôi tôn trọng quyền tự do đi lại của “đồng chí” nhưng chúng tôi cũng có bổn phận bảo vệ an ninh cho “đồng chí” khi nào “đồng chí” còn trên lãnh thổ của nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa cán bộ, chuyện đó có thật sao?
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Nước Trung Hoa chúng tôi có 50 triệu Hoa kiều hiện sinh sống trên khắp bề mặt địa cầu, nên chúng tôi biết rất rõ tầm quan trọng của chính sách Hoa vận tại hải ngoại. Cộng sản Việt Nam cũng hiểu rõ điều này, nên việc họ cài cán bộ vào thuyền nhân Việt Nam là điều chắc chắn phải có. Vì vậy, khi “đồng chí” lên Bắc Hải, chúng tôi luôn luôn có người theo sát để bảo vệ, nhưng “đồng chí” cũng cần phải cẩn thận.
Nói xong, không cần tôi trả lời, cán bộ Ngô đứng dậy dơ tay bắt và nói tiếp:
- Tôi nghe nói, việc xuất ngoại sang Úc của các “đồng chí” đang gặp khó khăn, nếu chờ đoàn tụ gia đình thì phải mất vài năm. Vì vậy, khi nào các “đồng chí” muốn đi sang Hồng Kông để hợp thức hóa tư cách tỵ nạn, cứ cho tôi biết, tôi có thể giúp đỡ…
Nói đến đó, cán bộ Ngô dừng lại một chút rồi thân mật vỗ vai tôi nói tiếp, chậm rãi và nhấn mạnh:
- Dĩ nhiên là giúp đỡ… một cách không chính thức.
Tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Trong vài phút đồng hồ tôi không hiểu cán bộ Ngô nói vậy là có ý gì. Vì vậy, tôi im lặng, đi theo cán bộ Ngô ra cửa. Tại cửa, cán bộ Ngô bắt tay tôi một lần nữa rồi chúng tôi chia tay…
Trên đường từ chiêu đãi trạm về nhà, tôi băn khoăn không hiểu lời của cán bộ Ngô là một lời “cảnh cáo khéo” ý đồ vượt biên sang Hồng Kông của chúng tôi, hay thực sự ông muốn giúp đỡ chúng tôi… Tôi quyết định đem điều đó bàn bạc với anh Tiến và anh Thu xem thế nào.
KỲ 102
Cuộc sống của chúng tôi ở Phòng Thành thật êm đềm. Phong cảnh Phòng Thành thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình và người dân địa phương chất phác, tốt bụng, giầu lòng thương người. Tuy vốn liếng tiếng Hoa của tôi thật ít ỏi, nhưng nhờ học thuộc lòng một số câu, mồm miệng lại nhanh nhảu, nên được nhiều gia đình người Hoa thương, giúp đỡ rất tận tình. Tôi còn nhớ một câu Quan thoại tôi thuộc lòng thời gian đó, “Tráng lại ủa lỳ hối Trung Của, ủa xì xì hên chệt nỉ”, có nghĩa, “Tương lai tôi rời xa Trung Quốc nhưng tôi luôn luôn nhớ ông /bà /cô /bác /anh /chị…”. Mỗi khi tôi nói câu này, những người lớn tuổi hay đàn ông con trai thì vỗ tay tán thưởng cười nói vui vẻ; còn phụ nữ, nhất là các cô gái người Hoa thì đỏ mặt, ngượng ngùng, vì họ coi chữ “luôn luôn nhớ” hàm ý yêu đương trai gái.
Người dân Phòng Thành sinh sống bằng đủ thứ nghề, nhưng nghề tạo cho tôi nhiều thương tâm nhất là nghề “tả sẹc” (đập đá). Vì chảy qua Phòng Thành có một dòng sông lớn, vào mùa nước cạn, hai bờ sông tràn ngập các loại sỏi đủ cỡ to nhỏ. Người dân ra sông gánh sỏi đem về chất đống trước nhà, rồi vợ chồng, con cái, bất cứ ai, hễ có thì giờ là ra ngồi đập những viên đá sỏi vụn ra thành từng miếng nhỏ gọi là đá răm. Sau đó, những viên đá răm được đổ gọn thành từng thước khối, chờ người ở công xưởng lái xe đến đo mua, trả tiền, rồi chở đi.
Kỹ thuật đập đá ở Phòng Thành rất đơn giản và nguy hiểm. Nếu đá sỏi loại lớn, thì người đàn ông trong gia đình dùng những chiếc búa tạ đập ra thành những miếng nhỏ. Sau đó, ông bà già, phụ nữ, trẻ em trong gia đình, dùng những chiếc búa nhỏ đập cho những miếng đá đó thành đá răm, để dùng trong các công trình xây cất.
Thù lao cho nghề đập đá rất rẻ mạt. Nhưng hầu hết những người đập đá đều là người già, phụ nữ và trẻ em. Họ là những người không có một tay nghề căn bản nào để kiếm ra tiền, cả ngày không biết làm gì, trong khi cuộc sống của gia đình thì quá thiếu thốn, nên bất cứ khi nảo rảnh rỗi, là họ phải đập đá để kiếm thêm tiền chi tiêu trong gia đình.
Những người dân đập đá đều không có găng tay, không có kiếng an toàn. Họ phải dùng những tấm vải rách đủ màu, đủ loại quấn kín chân tay, mặt mũi, chỉ để hở có hai con mắt. Vì vậy, có rất nhiều người bị tai nạn, đập búa vào các ngón tay, hay miểng đá văng vào mắt, vào mặt, vào tay chân… trong đó có những trường hợp trầm trọng bị mù.
Khi viết những dòng chữ này, tôi lại bùi ngùi nhớ đến Phòng Thành, hình ảnh của những con hẻm nhỏ chạy dài với những hàng cây, và trước mỗi căn nhà là những đống đá say ngủ, những người làm nghề “tả sẹc” âm thầm, cô đơn, thui thủi một mình, bất kể sáng tối, trưa chiều, mưa nắng, trong những bộ quần áo, giẻ rách nhiều hơn vải, và bộ mặt bịt kín, chỉ hở có hai con mắt. Tôi đã từng đến thăm những gia đình làm nghề “tả sẹc”, cảm khái chứng kiến những bà cụ, ông cụ, những em học sinh… chân tay, mặt mũi bị sẹo hoặc bị tàn tật chỉ vì đập đá.
Tuy chỉ mới sống ở Phòng Thành có vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã thấy rõ sự khủng hoảng trai thừa gái thiếu tại Trung Hoa, hậu quả cuả chính sách 1 con cho một gia đình được áp dụng rộng rãi tại Trung Hoa trong suốt nhiều thập niên. Thường cứ vào buổi chiều, đàn ông con trai độc thân tụ tập trước cửa nhà trò chuyện, hoặc lang thang đi dạo phố để được đắm đuối ngắm vuốt trong tuyệt vọng những cô gái Trung Hoa thắt bím, đi nhanh như chạy. Bề ngoài những người đàn ông con trai vui vẻ cười đùa, nhưng trong thâm tâm, hầu hết đều lo nghĩ đến chuyện tìm kiếm một người phụ nữ làm vợ. Vì sự chênh lệch tỷ lệ giữa nam và nữ quá cao, cộng tình trạng con gái ở Phòng Thành đổ xô ra thành thị làm việc, nên lấy vợ tại Phòng Thành thời đó vừa tốn kém vừa rất vất vả cho người con trai. Ngoài những khó khăn trong việc kiếm được vợ, họ còn gặp khó khăn trong tài chánh. Tôi đã nghe nhiều chuyện, tình duyên của họ nửa đường đứt gánh vì tiền bạc không có, nhiều ông bố cả đời chỉ lo chắt bóp dành dụm để có đủ tiền lo đám cưới cho con mà cũng không đủ, dẫn đến không biết bao nhiêu bi kịch trong gia đình, ngoài xã hội. Thường, sau mỗi cuộc tình dang dở như vậy, người con trai đều bỏ Phòng Thành đi Nam Ninh, Quảng Châu hay Thượng Hải… nói là đi “kiếm tiền”, “đổi đời”, nhưng hầu hết là đi để tìm quên lãng, và rồi vĩnh viễn không thấy trở lại.
Trong thời gian này, gia đình bà Trà và anh Tiến, anh Thu thường xuyên gửi thư cho tòa đại sứ Mỹ ở Bắc Kinh, cũng như gia đình ở Mỹ để một mặt xin nhập cảnh Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị, mặc khác xúc tiến hồ sơ bảo lãnh vô Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình.
Ngày 28 tháng 3 năm 1979, bà Trà nhận được thư của tòa đại sứ Mỹ chính thức từ chối đơn xin vô Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị. Thư của tòa đại sứ Mỹ xác nhận, chương trình đặc biệt cho người Việt được nhập cảnh Mỹ theo diện tỵ nạn chỉ dành cho người Việt đang sống tại các trại tỵ nạn ở các quốc gia vùng Đông Nam Á và Hồng Kông. Thư cũng khẳng định trách nhiệm của Trung Quốc là định cư người tỵ nạn Việt Nam, trong đó có 200 ngàn người Việt gốc Hoa bị cộng sản Việt Nam cưỡng bức hồi hương, chứ Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn đến các quốc gia đệ tam. Nói cách khác, Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ là quốc gia đệ tam, phải có bổn phận chia xẻ gánh nặng tỵ nạn với Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng thư của tòa đại sứ Mỹ cho biết, biện pháp duy nhất để gia đình bà Trà có thể nhập cảnh vô Mỹ là đoàn tụ gia đình. Và điều này tuỳ thuộc vào khả năng tài chánh, mối quan hệ của thân nhân bà Trà ở Hoa Kỳ, chiếu theo luật di trú của Mỹ.
Kèm theo thư là một xấp giấy tờ liên quan đến luật di trú, thủ tục xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ… Như vậy là con đường có thể rời Trung Quốc chớp nhoáng để đi Mỹ theo diện tỵ nạn của gia đình bá Trà đã bị bế tắc. Còn con đường đến Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình thì rất nhiêu khê, phải mất ít nhất là 2 năm, theo lời trình bầy của cán bộ Ngô.
Trường hợp của tôi cũng tương tự như vậy. Ngay từ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi đặt chân đến Trung Quốc được 2 tháng, gia đình tôi ở Úc đã nhờ Hội Tỵ Nạn Đông Dương gửi thư cho ông Michael MacKellar, tổng trưởng di trú, xin cứu xét cho nhập cảnh trên tiêu chuẩn tỵ nạn. Tuy nhiên đơn xin đã bị bác. Trong thư trả lời, bộ di trú Úc cũng khẳng định, thỏa thuận giữa Úc và Trung Hoa vào tháng 10 năm 1976 chỉ cho phép thường trú nhân hay công dân Trung Quốc được phép nhập cảnh Úc theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình. Và thời gian để đi Úc theo tiêu chuẩn này cũng mất ít nhất 2 năm.
Đến lúc đó tôi mới thấy những lời giải thích của ông Phùng, ba của Liên thật chính xác. Thời gian phải chờ đợi 2 năm trời để được đến Mỹ, Úc, đối với chúng tôi quá khủng khiếp. Vì vậy, chúng tôi bàn đến giải pháp “vượt biên” tới Hồng Kông qua ngả Bắc Hải, theo như sự gợi ý của ông Phùng. Vấn đề được đặt ra lúc đó là làm sao chúng tôi có thể đến được Bắc Hải khi ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có. Khó khăn nữa là lấy tiền đâu ra để chung cho chủ tàu? Số tiền cho một người đi từ Bắc Hải đến Hồng Kông lúc đó là 300 đến 500 đồng “nhân dân tệ” (tiền Trung Cộng). Đây là số tiền khá lớn, tương đương lương một năm của một công nhân viên chức Trung Cộng.
Ngoài ra, chúng tôi còn một khó khăn nữa là ai đi ai ở? Cá nhân tôi tuy đi một đường, nhưng lâu nay sống chung trong một mái gia đình nên cũng muốn cùng nhau chia sẻ hoạn nạn từ Phòng Thành đến Hồng Kông. Còn lại 14 người trong gia đình bà Trà, phần đông là đàn bà, con gái và con nít, không phải ai cũng chấp nhận phiêu lưu vượt biển sang Hồng Kông. Với những người này, thời gian chờ đợi 2 năm để được đi Mỹ an toàn bằng phi cơ vẫn là thượng sách. Riêng hai cha con anh Tiến và anh Thu vì đã vô chung một hộ với gia đình bà Trà nên cũng có tình gia đình, chẳng thể một sớm một chiều quyết định bỏ gia đình bà Trà lại để đi Hồng Kông.
Sau thời gian bàn bạc, chúng tôi tạm thời đi tới phương hướng, bà Trà, ông em của bà Trà cùng đàn bà và con nít khoảng chục người sẽ ở lại Trung Quốc chờ đợi giấy bảo lãnh chính thức vô Mỹ. Còn lại người con trai của bà Trà, hai người con trai của ông em bà Trà là Bình, Hải, và hai cha con anh Tiến, anh Thu, cùng với tôi sẽ tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Tiền bạc trả cho chủ tàu thì người nào đi, người đó lo. Tôi được mọi người cử đi Bắc Hải dò đường đi nước bước, tìm hiểu tình hình, và móc nối với chủ tàu. Trước khi đi, tôi viết vội lá thư gửi cho gia đình ở Úc, trình bầy hoàn cảnh khó khăn cùng quyết định của mình, và yêu cầu gia đình gửi gấp tiền sang để tôi trả tiền tàu, vượt biên sang Hồng Kông.
Thời gian đó, có rất nhiều người Hoa ở Chợ Lớn về ở Đông Hưng, Phòng Thành một thời gian, rồi bị đẩy về nông trường. Tất cả những người đó nhờ được sống trong chế độ Miền Nam tự do nên không một ai muốn ở lại Trung Cộng. Vì vậy, vượt biên sang Hồng Kông là con đường duy nhất họ chọn lựa để có thể tìm đến miền đất hứa. Những người bạn tôi quen ở Đông Hưng, Phòng Thành, như anh Vũ Quang Phong, Diệp Đức Tuấn, hai chị em Quan Trọng Hà, Quan Trọng Du, Liên, Ngọc… đều khuyên tôi vượt biên sang Hồng Kông. Nhưng khi đó, tôi còn tin tưởng vào con đường đi chính thức nên thờ ơ trước những lời khuyên của họ. Bây giờ khi con đường đi chính thức bị bế tắc, tôi cần tìm đến họ thì không biết họ ở đâu. Riêng ông Phùng lúc đó tôi cũng đã mất liên lạc nên tôi đành lên đường đi Bắc Hải một mình.
Trước khi đi, tôi lo ngại không biết có nên xin phép cán bộ Ngô không. Tôi có hỏi anh Tiến và anh Thu. Cả hai anh nói, nên xin phép, nhưng chỉ nói với cán bộ Ngô là đi Bắc Hải thăm bạn, chứ không nên nói đi tìm đường vượt biên.
Chiều hôm đó, tôi ghé chiêu đãi trạm, xin gặp cán bộ Ngô. Người tuỳ phái dắt tôi vô phòng khách chờ. Khoảng 5 phút sau cán bộ Ngô bước vô, đon đả chào hỏi. Tôi đi thẳng vào vấn đề:
- Thưa hôm nay tôi đến xin phép cán bộ cho tôi đi Bắc Hải thăm người bạn.
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa là nước tự do. “Đồng chí” có có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn…
Tôi rụt rè:
- Thưa cán bộ, như vậy tôi có cần giấy phép đi đường gì không?
Cán bộ Ngô cười lắc đầu:
- Tôi đã nói với “đồng chí” là “đồng chí” có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn thì tại sao lại cần phải có giấy phép?
Nghe vậy tôi thở dài như trút được gánh nặng. Sự thực, tôi cũng hiểu, trong chế độ cộng sản Trung Hoa, “mỗi người dân là một người công an”, nên việc kiểm soát người lạ chặt chẽ và khôn ngoan hơn Việt Cộng nhiều. Giữa cả biển người đông hàng tỷ, nhưng quả thật “muôn người như một”, từ quần áo, giầy dép, cách ăn nói, nếp suy nghĩ, sở thích, cá tính… của cả tỷ người Trung Hoa đều giống nhau theo những khuôn phép nhất định, khiến bất cứ người lạ nào đến Trung Quốc đều cảm thấy lạc lõng và bị nhận diện một cách dễ dàng. Vì vậy, đi giữa xã hội đó, có giấy phép hay không có giấy phép đều không thành vấn đề, vì tôi vẫn bị cả một mạng lưới “công an nhân dân” theo dõi, giám sát khắp mọi nơi, mọi lúc.
Tôi cảm ơn cán bộ Ngô, rồi tính đứng dậy ra về thì cán bộ Ngô dơ tay ngăn lại và nói:
- “Đồng chí” lên Bắc Hải cần phải cẩn thận, vì ở nơi đó có rất nhiều cán bộ Việt cộng trà trộn với thuyền nhân đi từ Việt Nam sang. Chúng tôi tôn trọng quyền tự do đi lại của “đồng chí” nhưng chúng tôi cũng có bổn phận bảo vệ an ninh cho “đồng chí” khi nào “đồng chí” còn trên lãnh thổ của nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa cán bộ, chuyện đó có thật sao?
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Nước Trung Hoa chúng tôi có 50 triệu Hoa kiều hiện sinh sống trên khắp bề mặt địa cầu, nên chúng tôi biết rất rõ tầm quan trọng của chính sách Hoa vận tại hải ngoại. Cộng sản Việt Nam cũng hiểu rõ điều này, nên việc họ cài cán bộ vào thuyền nhân Việt Nam là điều chắc chắn phải có. Vì vậy, khi “đồng chí” lên Bắc Hải, chúng tôi luôn luôn có người theo sát để bảo vệ, nhưng “đồng chí” cũng cần phải cẩn thận.
Nói xong, không cần tôi trả lời, cán bộ Ngô đứng dậy dơ tay bắt và nói tiếp:
- Tôi nghe nói, việc xuất ngoại sang Úc của các “đồng chí” đang gặp khó khăn, nếu chờ đoàn tụ gia đình thì phải mất vài năm. Vì vậy, khi nào các “đồng chí” muốn đi sang Hồng Kông để hợp thức hóa tư cách tỵ nạn, cứ cho tôi biết, tôi có thể giúp đỡ…
Nói đến đó, cán bộ Ngô dừng lại một chút rồi thân mật vỗ vai tôi nói tiếp, chậm rãi và nhấn mạnh:
- Dĩ nhiên là giúp đỡ… một cách không chính thức.
Tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Trong vài phút đồng hồ tôi không hiểu cán bộ Ngô nói vậy là có ý gì. Vì vậy, tôi im lặng, đi theo cán bộ Ngô ra cửa. Tại cửa, cán bộ Ngô bắt tay tôi một lần nữa rồi chúng tôi chia tay…
Trên đường từ chiêu đãi trạm về nhà, tôi băn khoăn không hiểu lời của cán bộ Ngô là một lời “cảnh cáo khéo” ý đồ vượt biên sang Hồng Kông của chúng tôi, hay thực sự ông muốn giúp đỡ chúng tôi… Tôi quyết định đem điều đó bàn bạc với anh Tiến và anh Thu xem thế nào.
KỲ 103
Ngay khi bước vô lán, tôi gặp anh Tiến và anh Thu. Anh Tiến bao giờ cũng nói năng chậm rãi, nhỏ nhẹ, từ ngữ cân nhắc. Anh Thu thì vui vẻ hoạt bát, tính tình nhanh nhảu, hay pha trò, tuy tuổi của anh hơn tuổi anh Tiến. Sau khi nghe tôi kể lại những lời nhắn gửi muốn giúp đỡ của cán bộ Ngô, cả hai anh đều vui vẻ đón nhận và coi đó là cơ hội để có thể thoát khỏi những năm tháng dài chờ đợi trên đất Trung Quốc. Hai anh cũng đồng ý, tôi nên đi Bắc Hải xem tình thế ra sao rồi sẽ cùng nhau bàn bạc kỹ hơn về ý định của cán bộ Ngô.
Ngày hôm sau, tôi đến Bắc Hải bằng xe đò. Đúng như ông Phùng nói, Bắc Hải lúc đó có rất nhiều thuyền bè đến từ Việt Nam, chở đầy người Việt tỵ nạn, trong đó hầu hết đến từ Miền Bắc. Trời lúc đó mới vào hè, nhưng khí hậu rất oi bức, mặc dù Bắc Hải là một thị trấn cảng nằm sát cạnh biển. Ngay khi đến Bắc Hải, tôi đã thấy cả một vùng đất khoảng một cây số vuông, dưới bến thì kín mít thuyền bè các loại, còn trên bờ thì san sát lều trại to nhỏ của người tỵ nạn.
Đang đi phất phơ trên bến, bỗng có người vỗ vai tôi thật mạnh cùng với tiếng la thiệt to:
- A Phàn!
Tôi giật mình quay lại…. và vui mừng nhận ra đó là ông Phùng. Cùng đi với ông có bà Hoa, cô bé Liên và hai người đàn bà nữa, trông lớn tuổi hơn bà Hoa. Hôm nay trời
nắng đẹp, nên hai mẹ con bà Hoa ăn vận rất giản dị. Bà Hoa mặc chiếc áo lụa màu hoa cà, tóc búi cao, dáng người thanh thoát, tươi trẻ. Liên cũng mặc áo lụa cùng màu, cổ quàng hờ chiếc khăn xoa màu kem trông rất nhã. Hai người đàn bà đi cùng tuy mặc đồ màu đen, nhưng vóc dáng cũng cao ráo. Trông bộ điệu e lệ và tuổi tác của hai người, tôi đoán, họ đều là vợ của ông Phùng.
Thấy tôi, ông Phùng quay lại nói tiếng Hoa với bà Hoa. Bà ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe, rồi quay qua tôi gật đầu chào nhẹ và cùng với Liên và hai bà đi thẳng vô bờ.
Ông Phùng quay qua vỗ vai tôi, nói giọng thân mật có chút kẻ cả:
- Đi, chú mày đi đánh chén với anh mày một bữa.
Tôi phì cười nghĩ bụng, hễ gặp ông này ở đâu là rủ ăn nhậu. Phần không đói, phần có công việc phải làm nên tôi vội vàng từ chối:
- Nói thực với ông, tôi lên đây có chút chuyện, rồi phải trở về Phòng Thành ngay chiều nay…
Ông Phùng cười ha hả:
- Chuyện gì cũng không quan trọng bằng chuyện chú mày định đi Hồng Kông, có phải không nào? Mà muốn đi Hồng Kông thì phải đánh chén trước đã…
Tôi ngạc nhiên:
- Ai nói với ông tôi định đi Hồng Kông?
Ông Phùng vừa kéo tay tôi đi vừa nói:
- Cần gì phải nghe ai nói. Những người như chú mày mà xuất hiện ở Bắc Hổi thì chỉ có tìm đường đi Hồng Kông thôi. Bây giờ kiếm cái gì đánh chén rồi anh sẽ bầy cách cho chú mày đi Hồng Kông ngon lành, chẳng tốn kém tiền bạc gì.
Nghe ông Phùng nói vậy, tôi bán tín bán nghi. Nghĩ lại những gì ông nói với tôi trước đây trong quán nhậu, sau đều trúng hết, nên tôi tin tưởng ngoan ngoãn đi theo ông.
Đi được mấy chục thước, ông kéo tôi chui vô một cái lán che bằng mấy tấm vải dù, buộc chung với hai ba tấm ni lông. Trong lán mùi thịt nước, mùi nước mắm tỏi chanh thơm lừng, cùng với tiếng hò hét huyên náo ầm ĩ của cả chục người đang nhậu nhoẹt. Vừa thò đầu chui vô, bỗng dưng mọi tiếng ồn ào trong lán im bặt. Rồi tôi chỉ nghe thấy có giọng hô thật lớn và đon đả: “Phùng tài gia, Phùng tài gia, mời vô, mời vô”.
Vì vừa ở ngoài trời nắng bước vô lán nên mắt tôi hoa lên, không nhìn thấy gì. Chút sau, quen dần ánh sáng trong lán, tôi mới nhận ra khoảng chục thanh niên ngồi dọc theo hai bên lán. Người nào người nấy tay chén tay đũa. Thì ra họ đang ăn dở, nhưng thấy ông Phùng vô nên lui ra ngoái để nhường chỗ cho ông. Tất cả đều im lặng, tỏ vẻ cung kính đối với ông Phùng. Còn lại, ngồi cạnh chiếc mâm đồng thật lớn ở giữa lán là hai người đàn ông lớn tuổi đều cởi trần. Trong mâm có hai đĩa thịt nướng thật lớn, tôi đoán một đĩa thịt heo, một địa thịt bò. Ngoài ra là đủ loại rau sống, chuối xanh nguyên quả, khế chua nguyên trái… chất đống trong một chiếc xoong nhôm thật to. Hơn chục chai bia của Trung Quốc để trong chiếc thau nhựa, đổ đầy nước. Một đống vỏ chai để ngổn ngang chung quanh.
Ông Phùng khoan thai ngồi xuống bên mâm, rồi ra dấu cho tôi ngồi theo. Ông chỉ hai người đàn ông giới thiệu một ông là bang trưởng của bang hội nào đó ở Hải Phòng thì phải; và một ông là quản tài của một tiệm buôn lớn lắm ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Hai ông trông đặc sệt người Hoa, nhưng nói tiếng Việt rất trôi chảy.
Chỉ tay vào tôi, ông Phùng chỉ nói vắn tắt, “Chú em ở Hải Phòng”, rồi thản nhiên cầm đũa chén. Cả hai vị bang trưởng và quản tài đều tỏ vẻ kính trọng đặc biệt ông Phùng, nên khi nghe giới thiệu tôi, cả hai vị đều quay sang tôi chắp tay nói “hân hạnh, hân hạnh”, làm tôi ngượng chín cả người, lúng túng không biết trả lời sao.
Trong bữa tiệc, hai vị bang trưởng và quản tài đều tận tâm thù tiếp, còn ông Phùng thì ăn uống tự nhiên như là ông chủ trong gia đình. Riêng tôi thì rụt rè, bỡ ngỡ vì không khí trong lán quá xa lạ.
Ăn uống trò chuyện xã giao một hồi, ông Phùng hỏi giọng oang oang:
- Vụ tàu của lão Bình đến đâu rồi?
Ông bang trưởng quay nhìn lão quản tài rồi hỏi, giọng lễ phép:
- Thưa lão Bình nào?
Ông Phùng gõ đũa vào chiếc xoong nhôm đựng rau kêu keng keng:
- Lão Bình tàu Thiên Vận chớ còn Bình nào?
Ông bang trưởng vỡ lẽ:
- À, lão đó thì chắc bị tù mọt gông rồi. Cả lão và mấy thằng phụ tá đều bị tụi Hồng Kông truy tố ra tòa tội buôn lậu người.
Ông Phùng quay sang tôi hỏi:
- Chú mày biết tàu Thiên Vận không?
Tôi chưa kịp trả lời “không biết” thì ông đã tiếp luôn:
- Nó là chiếc tàu sắt khổng lồ do tụi cộng sản tổ chức cho 3000 người Việt gốc Hoa đi chính thức, có hoa tiêu, ca nô của cộng sản hộ tống ra tận hải phận quốc tế. Mỗi người phải trả cả 20, 30 lượng vàng thì chú mày đủ biết tụi cộng sản Việt Nam nó vơ vét nhiều đến thế nào. Tàu này cập bến Hồng Kông nhưng bị chính phủ Hồng Kông treo giò, không cho ai vô…
Ông quản tài đỡ lời:
- Mà không phải chỉ có tàu Thiên Vận đâu thưa Phùng đại gia. Nội trong mấy tháng qua, có cả chục tàu sắt khổng lồ chở người cập bến Hồng Kông như tàu Huê Phong, Hải Hồng…
Ông bang trưởng gật gù:
- Tụi cộng sản Việt Nam nó bất nhân vậy đó. Còn chính phủ Trung Quốc cũng cho hoa tiêu, ca nô kéo tàu tỵ nạn đến Hồng Kông nhưng không lấy một xu nào. – Quay về phía tôi, ông tiếp – Như vậy “nỉ” thấy có đúng Trung Quốc nhân đạo hơn cộng sản Việt Nam không nào…
Tôi gật đầu đồng ý. Thời gian đó, những tên tàu như Thiên Vận, Huê Phong, Hải Hồng đối với tôi còn rất xa lạ. Sau này đặt chân đến Hồng Kông, nghe người tỵ nạn kể, tôi mới biết được cả một âm mưu buôn lậu người do cộng sản VN cấu kết với các băng đảng tội phạm quốc tế, trong đó có cả những người gốc Hoa ở Hồng Kông, Singapore, Nam Dương…, đã biến những chiếc thương thuyền bằng sắt thành những tầu chở người tỵ nạn khổng lồ, mang lại cho cộng sản hàng trăm ngàn lượng vàng.
Sợ tôi không hiểu rõ, ông Phùng quay qua giải thích:
- Chú em cũng biết đó, những thuyền nhân người Việt ở đây hầu hết là người Hoa ra đi từ Miền Bắc. Ngoài ra ở đây cũng có cả những thuyền của người Việt đi từ Đà Nẵng, Nha Trang, Hà Nội, Hải Phòng, Móng Cái, và nhất là vùng Trà Cổ. Một khi những thuyền đó ghé Bắc Hải, chính phủ Trung Quốc sẵn sàng giúp đỡ, mà không hề phân biệt thuyền đó đi từ đâu, chở người Hoa hay người Việt.
Tôi hỏi:
- Thưa ông, chính phủ Trung Quốc giúp đỡ như thế nào?
Ông Phùng giơ tay bấm từng đốt, miệng nói:
- Giúp lương thực, thực phẩm, nước uống, nhiên liệu, thuốc men… là một. Sửa chữa tàu bè, bảo đảm an toàn trên biển là hai. Những ai ốm đau sẽ được đưa vô bệnh viện chữa trị là ba. Cho ca nô kéo thuyền đến tận hải phận Hồng Kông là bốn…
Quay sang phía bang trưởng và quản tài, ông Phùng chỉ tay về phía tôi và nói:
- Chú em tôi đây muốn đi Hồng Kông, liệu hai ông giúp đỡ được hay không?
Ông bang trưởng hỏi:
- Chú em không phải là người Hoa?
Tôi chưa kịp lên tiếng, ông Phùng đã trả lời:
- Không, chú ấy là người Việt hoàn toàn. Và không có tiền bạc gì cả.
Ông bang trưởng có một thoáng ngần ngại. Ông quản tài nhanh nhẩu:
- Thưa ông, chuyện đó đâu có khó. Mấy chiếc thuyền đi từ Trà Cổ cũng rặt người Việt không à. Mình xuống đó nói với họ một tiếng là họ nhận lời ngay thôi. Có một người đi thì dễ quá mà, tiền bạc khỏi lo.
Tôi rụt rè thưa:
- Thú thực với các ông, chúng tôi có tất cả 7 người…
Ông Phùng ngạc nhiên, trợn mắt nhìn tôi:
- 7 người? Anh nhớ là gặp chú mày ở Đông Hưng, đi chỉ có một mình mà?
Tôi gật đầu:
- Dạ thưa ông khi đó thì chỉ có một mình. Nhưng về Phòng Thành thì tôi gặp một số người cùng cảnh ngộ, và nói thực với ông, hôm nay tôi đi Bắc Hải là tìm đường cho tất cả 7 anh em cùng vượt biên sang Hồng Kông.
Ông Phùng buông đũa thở dài nhìn bang trưởng và quản tài. Cả hai người này cũng lắc đầu. Tôi coi bộ mấy người không giúp được cả 7 người chúng tôi nên chán nản, muốn cáo lui. Biết ý, ông Phùng vỗ vai tôi và nói:
- Nếu đi cả 7 người thì quả thật anh không thể giúp chú mày được. Nhưng anh có một cách…
Tôi hy vọng:
- Thưa ông cách gì? Xin ông cứ nói, chúng tôi sẽ làm theo lời ông, và nếu thành công đến được Hồng Kông thì chúng tôi đội ơn ông vô cùng.
Ông Phùng xua tay:
- Ơn huệ gì. Giang hồ tứ hải, gặp nhau lúc khó khăn, anh có thể giúp chú mày hôm nay thì mai sau, thiên hạ giúp anh cũng vậy thôi. Bây giờ theo anh nghĩ, chú mày cứ về nói với tất cả mọi người cùng đến gặp cán bộ Ngô nói rõ là muốn đi Hồng Kông. Chắc chắn khi đó, cán bộ Ngô sẽ có biện pháp giúp…
Nghe ông nói vậy tôi ngạc nhiên vì ý kiến của ông Phùng lúc đó sao mà giống hệt lời hứa hẹn của cán bộ Ngô ngày hôm trước. Tôi chưa kịp hỏi tới, ông Phùng đã giải thích:
- Chú em phải hiểu, đảng và nhà nước Trung Cộng không muốn những người như chú em ở lại đây. Với chính sách mỗi gia đình chỉ được một con, mà dân ở đây cũng đã đông đến độ khủng khiếp, thì chính phủ đâu có muốn nhận thêm bất cứ ai. Cái thứ hai là những người từng sống trong các quốc gia tự do của tây phương như chú mày, ít nhiều cũng bị tiêm nhiễm tư tưởng tự do dân chủ của đế quốc. Những người như vậy nếu sống ở Trung Quốc sẽ là mầm mống tạo nên sự bất ổn cho xã hội ở đây. Vì vậy, họ phải tìm cách tống khứ những người đó ra khỏi Trung Quốc. Công khai họ không thể xua đuổi những Hoa kiều và những người tỵ nạn như chú mày. Nhưng âm thầm, họ sẽ bí mật giúp đỡ tất cả những Hoa kiều và những người tỵ nạn rời khỏi Trung Quốc. Chú mày cứ tin anh đi, bảo đảm là cán bộ Ngô sẽ giúp rất ngon lành…
Ông bang trưởng nói thêm:
- Nói để “nỉ” hiểu, ở đây lâu lâu, công an Trung Quốc lại dắt người xuống gửi gắm các chủ thuyền. Nay năm ba người, mai mươi người. Chuyện đó thường lắm. Tất cả các chủ thuyền đây đều sợ chính quyền Trung Cộng một phép, và đều mong công an đến gửi người vì thuyền nào được công an gửi người thì thuyền đó sẽ được ca nô, tàu kéo của nhà nước kéo đi Hồng Kông sớm.
Tôi hỏi:
- Nếu chúng tôi chấp thuận đi có trả tiền thì bao nhiêu tiền một đầu người?
Ông bang trưởng nói ngay:
- Tuỳ thuyền to nhỏ, tuỳ người lớn bé. Nhưng đại khái cao nhất là 500, thấp nhất là 300 nhân dân tệ (tiền của Trung Cộng, 1 nhân dân tệ xấp xỉ 1 đô la Úc lúc đó). Nếu “nỉ” có tiền, cứ đến đây gặp tôi, tôi sẽ giúp được dễ dàng.
Nghe những lời khuyên của ông Phùng tôi thấy hợp lý. Nhất là hôm trước, chính tai tôi đã nghe cán bộ Ngô hứa hẹn sẽ giúp đỡ không chính thức nếu chúng tôi có ý đi Hồng Kông. Như vậy tại sao tôi không về bàn bạc với anh Tiến và anh Thu để nói chuyện thẳng với cán bộ Ngô? Nghĩ vậy, tôi yên tâm, chào ông Phùng và hai người bạn của ông, lên đường trở về Phòng Thành với tất cả hy vọng và niềm vui…
Lúc đó tôi đâu có thể ngờ được, sau cuộc chiến tranh biên giới xua quân tiến chiếm 6 tỉnh phía bắc của Việt Nam vào tháng 2 năm 1979, cơ quan tình báo của Trung Cộng đã móc nối được Hoàng Văn Hoan và đang có âm mưu thành lập một “chính phủ Việt Nam lưu vong”. Với âm mưu này, cán bộ Ngô vừa nhận được lệnh lôi kéo những người Việt gốc Hoa, và đặc biệt là những người Việt hiện đang tỵ nạn trên lãnh thổ Trung Quốc, tham gia vào “chính phủ VN lưu vong”. Tôi cũng không thể ngờ được, trong số những người Việt ở Phòng Thành lúc đó, cán bộ Ngô vừa được lệnh cố gắng lôi kéo anh Hoàng Văn Tiến, kiến trúc sư, trưởng ty kiến thiết Hậu Nghĩa tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong” của Hoàng Văn Hoan….
KỲ 104
Chiều hôm đó tôi về đến Phòng Thành. Vừa bước vô nhà, anh Thu và anh Tiến đã vội kéo tôi ra ngoài bờ suối. Anh Thu hỏi tôi:
- Sao tình hình Bắc Hải thế nào? Có thuận lợi không?
Tôi vắn tắt thuật lại cho hai anh nghe những điều mắt thấy tai nghe ở Bắc Hải và những gợi ý của ông Phùng, nhưng giấu không cho hai anh biết, ông Phùng có lòng tốt muốn giúp tôi đi Hồng Kông mà không mất tiền. Thuật xong, tôi kết luận:
- Em thấy trong hoàn cảnh của mình bây giờ, muốn đi Hồng Kông dễ dàng, chỉ có cách làm theo lời của ông Phùng, đến nói thật với cán bộ Ngô để họ giúp đỡ là tốt nhất.
Anh Thu đáp ngay:
- Thì từ lúc cậu đi đến giờ, tôi cũng đã bàn với Tiến như vậy. Nếu cán bộ Ngô đã nói với cậu hôm qua như vậy thì mình đâu có ngại ngần gì nữa mà không nhờ họ giúp.
Anh Tiến chậm rãi hỏi anh Thu:
- Nhưng ông nghĩ sao về cuộc hẹn vào sáng mai?
Tôi ngạc nhiên:
- Hẹn ai vào sáng ngày mai?
Anh Thu trả lời ngay:
- Với cán bộ Ngô.
Tôi hỏi tới:
- Có chuyện gì vậy?
Anh Thu lắc đầu:
- Cũng không biết chuyện gì. Chỉ thấy cán bộ Ngô trực tiếp xuống lán mời mình họp vào 10 giờ sáng mai tại chiêu đãi trạm.
Tôi thắc mắc:
- Mời mình là mời cả lán gần hai chục người hay chỉ có mấy anh em mình?
- Chỉ có Tiến, tôi và cậu. – Anh Thu trả lời – Tôi có hỏi rõ là có mời mấy đứa Hải Phòng không thì cán bộ Ngô nói không.
Tôi băn khoăn vì từ khi chuyển về Phòng Thành, tất cả mấy anh em chúng tôi và 14 người của gia đình bà Trà, cộng với anh Chữ (đi lính cho Pháp, kẹt lại Miền Bắc sau năm 1954), đều được chính quyền Trung Quốc đối xử bình đẳng, không hề có bất cứ sự phân biệt nào. Hơn nữa, trong thời gian mấy tháng qua, mọi sinh hoạt của chúng tôi đều phẳng lặng, chỉ ăn ngủ và dạo phố, rất ít khi làm việc với cán bộ Ngô, đây là lần đầu tiên có cuộc hẹn hò tại chiêu đãi trạm.
Tôi hỏi anh Tiến:
- Anh nghĩ sao, họ hẹn mình có chuyện gì vậy?
Anh Tiến chậm rãi, vừa nói vừa suy nghĩ:
- Tôi cũng nghĩ nát óc, mà chưa đoán được chuyện gì.
Anh Thu dè dặt:
- Hay là họ chủ động đuổi khéo mình đi Hồng Kông?
Tôi hưởng ứng:
- Em cũng nghĩ vậy. Để mình ở đây chờ vài năm, lo chỗ ăn chỗ ở mà chẳng được tích sự gì thì họ đâu có muốn nuôi báo cô.
Anh Tiến lắc đầu:
- Tôi nghĩ chuyện đi Hồng Kông là chuyện nhỏ đối với họ. Nếu hôm qua, cán bộ Ngô đã nói với cậu là sẽ không chính thức giúp chúng ta đi Hồng Kông thì cán bộ Ngô không thể nào mời chúng ta ngày mai chính thức đến chiêu đãi trạm họp để bàn về chuyện đó.
Tôi thấy anh nói vậy có lý, nên im lặng. Anh Thu có vẻ lo lắng:
- Không bàn về chuyện đó thì chuyện gì?
Anh Tiến im lặng không nói. Tôi cũng lo lắng hỏi:
- Hay họ định gửi mình về nông trường?
Anh Tiến cười nhẹ:
- Cậu không nghe ông Phùng nói à? Những người như chúng mình ở Trung Quốc thêm ngày nào chỉ có hại cho chính phủ Trung Cộng. Như vậy dại gì họ cho mình về nông trường. Hơn nữa mình là người tỵ nạn chính trị, lại có thân nhân ở ngoại quốc, họ đâu được quyền cho mình về nông trường khơi khơi như vậy được.
Anh Thu không đồng ý:
- Bộ ông không đọc thư của tòa đại sứ Mỹ, Úc gửi tụi mình hay sao? Họ đã nói là chính phủ và nhân dân Trung Quốc có bổn phận định cư người Việt tỵ nạn đó thôi. Như vậy họ đưa về mình về nông trường thì đâu có gì sai trái.
Anh Tiến gật đầu:
- Tôi đồng ý với anh điều đó. Nhưng nếu họ có ý gửi mình về nông trường thì tại sao họ chỉ muốn gặp có 3 anh em mình? Tại sao họ không gặp chị em bà Trà và mấy đứa con của họ.
Lời giải thích của anh Tiến cũng hợp lý. Anh Thu cũng nhận ra điều đó nên anh lặng im không nói. Anh Tiến thong thả kết luận:
- Chuyện gì thì chuyện, cứ chờ ngày mai sẽ biết. Nhưng tôi dám chắc không có chuyện họ đưa chúng ta về nông trường đâu.
Tối hôm đó, chúng tôi thao thức không ngủ được. Ai cũng bồn chồn nghĩ đến buổi hẹn ngày mai không biết lành dữ như thế nào.
* * *
Sáng hôm sau, mới chín giờ kém, ba anh em chúng tôi đã lên đường đi bộ đến chiêu đãi trạm. Đó là đoạn đường ngắn khoảng 3 cây số, nên chưa tới 10 giờ, chúng tôi đã có mặt ở chỗ hẹn. Một nhân viên tóc hoa râm, ăn vận chững chạc, dắt chúng tôi vô phòng khách, nói chúng tôi ngồi chờ.
Đúng 10 giờ, cán bộ Ngô mở cửa mời chúng tôi theo ông. Anh Thu, anh Tiến và tôi, lần lượt đi theo ông đi dọc một hành lang dài, rồi bước vô một căn phòng rộng, bài trí đơn giản nhưng nghiêm trang. Ngay trước mặt là một bức hình Mao Trạch Đông thật lớn kín cả bức tường, khoác áo đại cán, tay cầm cuốn trước tác màu đỏ hướng về phía mặt trời đang mọc, tỏa sáng rực cả chân trời. Tường phía bên phải là treo quốc kỳ, quốc huy Trung Hoa và hai bức ảnh thật lớn, chân dung của Mao Trạch Đông và Hoa Quốc Phong. Giữa phòng là một chiếc bàn bằng gỗ dầy chạy dài, chung quanh có mấy chiếc ghế có nệm. Ngoại trừ 3 chiếc ghế ở giữa bàn và chiếc ghế đối diện là chưa có người ngồi, còn lại mỗi ghế đều có một cán bộ Trung Cộng mặc áo đại cán ngồi nghiêm chỉnh.
Cán bộ Ngô hướng dẫn chúng tôi ngồi vô ba chiếc ghế trống, sau đó ông đi về chiếc ghế trống đối diện chúng tôi rồi lặng lẽ và trịnh trọng ngồi xuống. Ở góc phòng phía bên tay phải có một người lính đứng nghiêm, thân hình cứng đơ như khúc gỗ. Không khí trong phòng nặng nề khiến tôi cũng bồn chồn lo lắng và bất an.
Gần một phút im lặng trôi qua, người ngồi ở ghế chủ tọa, ngay dưới hai bức chân dung Hoa Quốc Phong và Mao Trạch Đông, mới cất tiếng nói, giọng ề à, chậm rãi. Ông tương đối lớn tuổi, tóc đã hoa râm, khi nói ông đeo kính và trông vào tờ giấy trước mặt. Ông nói khá dài, khoảng hai mươi phút và chốc chốc ông dừng lại cho cán bộ Ngô thông ngôn cho chúng tôi nghe. Cả hai khi nói đều ngồi.
Đại khái ông nói về tình hữu nghĩ giữa hai dân tộc Việt Trung, sự giúp đỡ của Trung Cộng đối với Việt Cộng suốt từ thời chống Pháp đến cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam”. Rồi ông nói đến việc Việt Cộng đã cấu kết với Nga Xa phản bội Trung Cộng, thực hiện tham vọng bá quyền khu vực bằng cách tấn công Căm Bốt. Vì vậy, để dậy cho Việt Cộng một bài học, Trung Cộng đã mở màn tấn công Việt Cộng vào trung tuần tháng 2 và kết thúc vào trung tuần tháng 3 vừa qua. Ông cũng cho biết, trong thời gian một tháng, Trung Cộng đã mở mặt trận toàn diện các tỉnh vùng biên giới Việt Trung như Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh… tiêu diệt được hàng chục ngàn binh lính VC, “giải phóng” (?) được 4 thị xã và cầm tù hàng ngàn tù binh VC…
Sau một hồi cà kê nói về những chiến thắng vẻ vang của Trung Cộng, thái độ ngoan cố của Việt Cộng, ông đề cập đến trách nhiệm lật đổ chế độ cộng sản của người Việt yêu nước trong đó có chúng tôi. Ông nói:
- Thưa các “đồng chí” Việt Nam yêu nước. Trong tinh thần và trách nhiệm quốc tế của giai cấp vô sản, chính phủ và 800 triệu nhân dân Trung Quốc vĩ đại sẵn sàng hậu thuẫn người Việt Nam thực hiện mục tiêu cao cả, lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam để mang lại hạnh phúc, cơm no áo ấm cho nhân dân Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh “dậy cho Việt Cộng một bài học” vừa qua, nhân dân Trung Quốc đã hy sinh xương máu để thực hiện mục tiêu cao cả đó. Trong tương lai, nhân dân Trung Quốc sẵn sàng tiếp tục hy sinh để “giải phóng” nhân dân Việt Nam khỏi sự kìm kẹp của bá quyền Việt Cộng. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tại Việt Nam phải do chính người Việt Nam thực hiện. Vì vậy, tôi kêu gọi lòng yêu nước của các “đồng chí” Việt Nam ngồi đây, hãy cùng chung vai sát cánh với chúng tôi thực hiện bằng được cuộc cách mạng lật đổ cộng sản Việt Nam trong tương lai…
Nói đến đó ông nhường lời cho một cán bộ khác ngồi bên tay phải của ông. Sau khi nghe cán bộ Ngô thông ngôn lời của ông, tuy chưa rõ ràng, nhưng qua lời kêu gọi “chung vai sát cánh lật đổ Việt Cộng” chúng tôi đã linh cảm, ông muốn chúng tôi tham gia vào đội quân của Trung Cộng xâm lăng Việt Nam…
Người cán bộ thứ hai trẻ hơn ông cả chục tuổi, có giọng nói hùng hồn, khi nói ông đứng thẳng, tay chém chém vào không khí với dáng điệu quả quyết. Qua lời phiên ngôn của cán bộ Ngô, chúng tôi biết ông họ Lưu, là uỷ viên trưởng uỷ ban liên lạc Việt Trung cho “chính phủ Việt Nam lưu vong” tại Trung Cộng. Ông nói, hiện một “chính phủ VN lưu vong” đang được thành lập với sự hậu thuẫn tối đa về tiền bạc, nhân sự, phương tiện, vũ khí… của chính phủ và nhân dân Trung Cộng. Để có thể thu hút được sự hậu thuẫn của nhân dân Việt Nam cũng như của quốc tế, “chính phủ VN lưu vong” phải có đầy đủ các thành phần đại diện cho người Việt, nhất là những người Việt yêu nước gốc “chế độ cũ”…
Nhìn thẳng về phía chúng tôi, cán bộ Lưu hùng hồn:
- Các “đồng chí” là con dân nước Việt, lại là những người Việt trí thức yêu nước, các “đồng chí” không thể quay lưng lại với tổ quốc và nhân dân khi lịch sử lên tiếng kêu gọi. Bây giờ chính là giờ phút trọng đại của lịch sử, nên tôi kêu gọi các “đồng chí” hãy xứng đáng là những “Lôi Phong” của Việt Nam bằng cách tham gia “chính phủ VN lưu vong”. Tôi tin với sự hậu thuẫn vô cùng to lớn và vô điều kiện của chính phủ và 800 triệu nhân dân Trung Hoa, các “đồng chí” sẽ lập được những chiến công hiển hách lẫy lừng lịch sử. Chúng tôi đang chờ đợi ở sự hưởng ứng của các “đồng chí”…
Nghe cán bộ Ngô thông ngôn xong những lời nói hùng hồn của cán bộ Lưu, cả ba chúng tôi bàng hoàng ngây cả người. Nhất là lời kêu gọi chúng tôi thành những “Lôi Phong” của Việt Nam đã làm tôi kinh hoàng đến tê dại cả người. Sống trong chế độ cộng sản, tôi không lạ gì nhân vật Lôi Phong. Đó là một biểu tượng anh hùng cuồng tín trong chế độ cộng sản Trung Cộng, đã hy sinh cho đảng và Mao Chủ Tịch một cách ngu ngốc đến giọt máu cuối cùng. Anh Thu và anh Tiến tuy không biết Lôi Phong là ai, nhưng đại khái, hai anh cũng hiểu được cán bộ Lưu kêu gọi hai anh ở lại Trung Cộng tham gia “chính phủ VN lưu vong” để đánh Việt Cộng.
Cán bộ Ngô thông ngôn xong, mọi người im lặng nhìn về phía chúng tôi. Chúng tôi cũng ngồi im bất động vì không biết trả lời sao. Mọi chuyện xảy ra quá đột ngột, vượt xa sự tưởng tượng của chúng tôi. Một phút im lặng trôi qua, cán bộ Ngô cất tiếng, giọng hòa hoãn và niềm nở:
- Các “đồng chí” cứ vui vẻ thoải mái cân nhắc lời đề nghị của đồng chí Lưu. Đó chỉ là những gợi ý, những lời kêu gọi, chứ không hề có ý bắt buộc. Dĩ nhiên là tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi người, các “đồng chí” có thể cống hiến cho cuộc cách mạng nhân dân lật đổ chế độ bá quyền Việt Cộng ở những cương vị khác nhau, mức độ và cách thức khác nhau…
Sau một lúc im lặng tiếp theo, anh Tiến dơ một ngón tay xin có ý kiến. Cán bộ Ngô sáng mắt nói ngay, giọng rất lịch sự:
- Xin mời “đồng chí” Tiến.
Anh Tiến đứng dậy, nói giọng chậm rãi:
- Chúng tôi rất cảm ơn chính phủ và nhân dân Trung Hoa đã chấp thuận cho chúng tôi hưởng quy chế tỵ nạn chính trị và đã tận tình giúp đỡ chúng tôi trong thời gian qua. Hôm nay qua lời của cán bộ Vương và cán bộ Lưu, chúng tôi cũng xin thưa là chúng tôi luôn luôn ước mơ một ngày không xa, chế độ cộng sản tại Việt Nam sẽ sụp đổ. Nhưng ngồi im nguyền rủa cho nó sụp đổ thì không bằng ra tay góp phần làm cho nó sụp đổ nhanh hơn. Người xưa đã nói, thà đốt một ngọn nến nhỏ còn hơn nguyền rủa bóng tối, có phải vậy không thưa quý vị? Vì vậy, chúng tôi rất hoan nghênh việc chính phủ và nhân dân Trung Hoa đã, đang và sẽ còn tiếp tục hậu thuẫn nhân dân Việt Nam thực hiện sứ mạng lật đổ chế độ “bá quyền” cộng sản Việt Nam…
Anh Tiến nói đến đâu, cán bộ Ngô mỉm cười, gật gù lia lịa đến đó. Mấy cán bộ người Hoa khác tuy không biết tiếng Việt, nhưng thấy thái độ của cán bộ Ngô như vậy, họ cũng gật gù tỏ dấu hoan nghênh. Khi anh Tiến nói đến hai chữ “bá quyền”, cán bộ Ngô khoái quá, dơ tay nhịp nhịp, bảo anh Tiến tạm ngưng để ông ta thông ngôn.
Quay qua mấy cán bộ người Hoa, cán bộ Ngô hùng hồn thông ngôn sang tiếng Hoa. Nghe xong, mấy cán bộ người Hoa vỗ tay hoan hô, xì xồ nói cười ầm ĩ. Tôi và anh Thu nhìn nhau lo lắng, vì không biết anh Tiến sẽ nói tiếp những gì…
Chờ cho mọi người im lặng, anh Tiến nói tiếp:
- Là những người Việt Nam yêu nước, chúng tôi rất đau đớn khi cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định Ba Lê xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi cũng mong có ngày giải phóng quê hương, đất nước chúng tôi thoát khỏi ách đô hộ của cộng sản Việt Nam. Nhưng qua lời của cán bộ Lưu, chúng tôi muốn hỏi cho rõ,
nếu chúng tôi gia nhập “chính phủ VN lưu vong” là gia nhập như thế nào? Liệu chúng có phải cầm súng chiến đấu hay không? Cảm ơn quý vị.
Nói xong, anh Tiến thong thả ngồi xuống. Nghe anh Tiến hỏi, tôi liếc mắt nhìn anh Thu, thấy vẻ mặt của anh vẫn thản nhiên, nên tôi cũng im lặng giữ vẻ mặt thản nhiên. Cán bộ Ngô gật gù nhìn anh Thu và tôi như có ý hỏi chúng tôi có ý kiến gì không. Thấy cả hai im lặng, ông đứng lên quay về phía cán bộ Vương và cán bộ Lưu nói líu lô bằng tiếng Hoa. Hai bên nói qua nói lại bằng tiếng Hoa một lúc, rồi cán bộ Lưu đứng lên nói, cán bộ Ngô thông ngôn:
- Cảm ơn “đồng chí” Tiến đã hỏi một câu rất quan yếu. Như cán bộ Ngô đã nói lúc nẫy, khi tham gia vào “chính phủ Việt Nam lưu vong”, các đồng chí sẽ đóng góp theo đúng khả năng, kiến thức và cương vị của mình, và sẽ được đãi ngộ xứng đáng. Riêng “đồng chí” Tiến, với kiến thức của một công trình sư (kiến trúc sư), và chức vụ lãnh đạo trưởng ty kiến thiến của một tỉnh, tôi tin chắc là “đồng chí” sẽ đóng một vai trò trọng yếu bậc nhất trong “chính phủ VN lưu vong”. Nhất là hiện nay, theo tôi biết “chính phủ VN lưu vong” chưa có một gương mặt quan trọng nào của “chế độ cũ”, và chúng tôi hiện rất cần một nhân vật quan trọng như vậy trong “chính phủ VN lưu vong”. Vì vậy nếu “đồng chí” tham gia thì sẽ là một khích lệ to lớn cho chúng tôi. Nói vậy có nghĩa là khi tham gia “chính phủ VN lưu vong”, không bao giờ có chuyện các “đồng chí” phải cầm súng chiến đấu, mà chỉ đóng vai trò lãnh đạo, cố vấn, hoặc những công việc điều hành của trung ương. Câu trả lời của tôi như vậy không biết có thỏa mãn “đồng chí” Tiến không nhỉ?
Anh Tiến gật đầu nhẹ và nói nhỏ hai tiếng “Cảm ơn”, không nói gì thêm. Cán bộ Ngô hỏi anh Thu và tôi có ý kiến gì không. Chúng tôi đều lắc đầu nói nhỏ, “xin được suy nghĩ thêm”.
Sau đó, một số cán bộ hỏi chúng tôi về tình hình sinh hoạt, ăn uống, nguyện vọng, cùng vài câu thăm hỏi, chúc mừng xã giao… trước khi giải tán. Chúng tôi được cán bộ Vương, cán bộ Lưu và cán bộ Ngô tiễn ra tận cửa, và được xe riêng của chiêu đãi trạm chở về tận cửa lán.
KỲ 105
Buổi gặp gỡ sáng hôm đó chỉ kéo dài có khoảng hơn một tiếng đồng hồ, nhưng chúng tôi rất hoang mang. Khi ra về, ngồi trên xe của chiêu đãi trạm, chúng tôi giữ ý không bàn tán gì, vì sợ tài xế có thể nghe và hiểu tiếng Việt. Về tới lán, ba anh em chúng tôi liền kéo nhau ra bờ suối bàn bạc.
Anh Thu sôi nổi lên tiếng đầu tiên:
- Không biết hai cậu nghĩ thế nào, còn tôi thì không bao giờ tin được mấy anh cộng sản. Cộng sản nào cũng vậy thôi. Trung Cộng, Việt Cộng thì cũng một lũ điếm đàng giống nhau. Đừng có dại dột nghe theo mấy anh Tàu Cộng dụ dỗ… rồi công đâu chửa thấy, thấy mang tội.
Tôi nhìn anh Tiến. Thấy anh trầm ngâm không nói, tôi dụt dè đồng ý với anh Thu:
- Em cũng nghĩ như vậy… Em thì em chẳng lạ gì tụi Trung Cộng. Chúng hiểm độc chẳng thua gì Việt Cộng. Tốt nhất là mình không nên tham gia chính phủ nào do Trung Cộng nặn lên.
Anh Tiến vẫn trầm ngâm, xoa cằm không nói gì. Anh Thu nhìn anh Tiến hỏi, giọng thúc dục: “Còn cậu nghĩ sao? Muốn tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong” phải không?”
Anh Tiến chậm rãi: “Tôi đồng ý với với ông và Lai, Trung Cộng và Việt Cộng đều là cộng sản, nên cả hai cùng điếm đàng như nhau. Nhưng trong đấu tranh mình phải sáng suốt nhìn nhận kẻ thù nào là chính, kẻ thù nào là phụ, kẻ thù cần phải tiêu diệt, kẻ thù nào mình có thể lợi dụng. Trong hoàn cảnh hiện nay, kẻ thù duy nhất mình cần phải tiêu diệt là Việt Cộng. Và nếu có thể lợi dụng được Trung Cộng để tiêu diệt Việt Cộng thì tại sao chúng ta không làm?”
Anh Thu chận ngay: “Làm sao cậu có thể lợi dụng được Trung Cộng?”
Anh Tiến gật đầu: “Lợi dụng được chớ sao không. Trung Cộng nó đang cần mình để lập “chính phủ Việt Nam lưu vong”, tạo chính nghĩa cho cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam của chúng mà. Tại sao mình không tương kế tựu kế.”
Anh Thu lắc đầu:
- Tôi e rằng nó lợi dụng anh chứ anh không bao giờ có thể lợi dụng được nó.
- Tại sao ông lại nói như vậy?
- Cái trò chính trị xưa nay khi đã ngồi chung với nhau để mưu cầu một cái gì thì phải biết mình vì cái gì và thực lực mình có cái gì. Nhìn bề ngoài thì cái mục tiêu của Trung Cộng và của mình cùng giống nhau là lật đổ cộng sản Việt Nam. Nhưng động cơ thực sự bên trong thì mình khác với Trung Cộng. Trung Cộng nó muốn lật đổ Việt Cộng để lập một chính phủ chư hầu, gọi dạ bảo vâng. Còn mình lật đổ Việt Cộng là để lập nên một chính phủ độc lập mang lại tự do dân chủ cho dân. Mục tiêu khác biệt như vậy, thì tôi hỏi cậu chứ, liệu Trung Cộng nó có chịu hy sinh mục tiêu của nó để mình thực hiện mục tiêu của mình không?
Nói đến đó anh Thu im lặng chờ anh Tiến lên tiếng. Một phút im lặng trôi qua, anh Tiến nói:
- Ông nói hết ý của ông đi rồi tôi nói.
Anh Thu gật đầu tiếp:
- Bây giờ tôi nói về thực lực, cậu có cái gì? Chẳng có gì hết! Lại đang ăn nhờ ở đậu Trung Cộng, đúng vậy không nào? Như vậy thì cậu ăn nói với chúng như thế nào? Làm chính trị cũng giống như đi buôn. Người ta bỏ 100% vốn, còn cậu chẳng có gì, chỉ có một thân một mình. Vậy thì quyền ăn nói, quyết định thuộc về ai?
Anh Tiến gật gù:
- Những điều ông nói không phải là không đúng. Nhưng trong chính trị xưa nay có nghệ thuật mượn gió bẻ măng, tá lực đả lực. Nói rộng ra là mượn sức của người khác để dùng cho mục tiêu của mình. Trong lịch sử của Tàu cũng như Việt, thiếu gì những bậc đại trí, khi khởi nghĩa trong tay không một tấc sắt nhưng biết dùng mưu trí mà rồi trong tay có trăm vạn hùng binh, thâu đoạt được cả thiên hạ.
Anh Thu phì cười:
- Vẫn biết trong lịch sử có không thiếu những nhân vật tài ba, nước lã mà quậy nên hồ, tay không dựng nổi cơ đồ như vậy. Nhưng cậu có đủ tài ba như thế không mới là điều đáng nói.
Anh Tiến thản nhiên:
- Đủ hay không chờ thời gian trả lời. Vả lại, cậu không nghe các cụ vẫn nói đó thôi. “Thời lai đồ điếu thành công dị Sự khứ anh hùng ẩm hận đa”. Gặp thời tiểu nhân cũng thành công. Không gặp thời anh hùng cũng phải ôm hận. Cờ đến tay ai người ấy phất mà. Phất rồi không thành công cũng thành nhân.
Thấy cuộc tranh luận có mòi căng thẳng, tôi im lặng lo lắng nhìn hai anh. Anh Thu cười khẩy:
- Hiện tại ba thằng mình đứng đây, ai mà chẳng thành nhân. Chỉ sợ nghe tụi Trung Cộng dụ khỉ đi theo tụi nói, nhân không thành, thành tội nhân mới khổ.
Anh Tiến vẫn thản nhiên:
- Vẫn biết Trung Cộng và Việt Cộng hai thằng đều là cộng sản và điếm thối như nhau. Nhưng như vậy không có nghĩa là mình không lợi dụng được thằng Trung Cộng. Bằng cớ là chúng ta đã lợi dụng mâu thuẫn giữa hai thằng cộng sản, đến được đây xin tỵ nạn. Bộ ông không thấy được điều đó sao?
Nghe anh Tiến nói có lý, tôi gật gù tán thành. Anh Thu vẫn lắc đầu, giọng có vẻ thương hại:
- Cái mà cậu lợi dụng mâu thuẫn giữa hai nước để xin tỵ nạn ở đây chỉ là chuyện nhỏ, Trung Cộng nó chẳng cần quan tâm nên nó cho. Còn cái cậu tính lợi dụng nó trong tương lai là chuyện trọng đại vô cùng. Cậu cứ nghĩ coi, nó tốn kém vũ khí đạn dược, xương máu cả triệu quân, mới lật đổ được cộng sản Việt Nam, khi đó sức mấy nó chịu để cho cậu lợi dụng.
- Ai lợi dụng được ai, tùy thuộc vào tài trí chứ không tùy thuộc vào sức mạnh.
- Tài trí mấy đi nữa cũng không qua khỏi lực và thế. Cậu thấy đó, thời Tam Quốc, tài trí ai bằng Khổng Minh, vậy mà cuối cùng 5 lần ra Kỳ Sơn hỏng cả 5. Cuối cùng chết năm 54 tuổi mà vẫn không trung hưng được nhà Hán. Còn nói về lực và thế. Loài vật có con nào khỏe bằng con hổ. Vậy mà vứt con hổ xuống nước thì thua cả một con cá.
Anh Tiến mỉm cười:
- Mình là người chứ đâu có phải là hổ đâu mà ông ví von kì cục như vậy.
Anh Thu thở dài:
- Đâu có gì là kỳ cục. Tôi giả dụ như “chính phủ Việt Nam lưu vong” được sự hậu thuẫn của cả triệu quân Trung Cộng, tiến vô VN lật đổ được chế độ Việt Cộng, liệu các cậu có đủ can đảm và khả năng đuổi cả triệu quân Trung Cộng ra khỏi nước hay không?
Anh Tiến mỉm cười tự tin:
- Mình có hơn 70 triệu dân, đoàn kết trên dưới một lòng, tại sao không đuổi nổi 1 triệu quân Trung Cộng? Nói thực với anh, đánh Việt Cộng thì khó vì dù sao nó cũng là người Việt máu đỏ da vàng. Chớ đánh ngoại xâm như mấy thằng Tầu thì dân tộc mình có truyền thống cả ngàn năm nay rồi… Thêm nữa, điều ông vừa nói có khác gì tôi nói lúc nẫy đâu. Cái quan trọng là thời thế. Gặp thời thế, tiểu nhân cũng thành công. Không gặp thời thế thì tài cán như Khổng Minh cũng gặp hận. Như vậy vấn đề quan trọng là mình có gặp thời thế hay không thôi. Mà muốn biết có gặp hay không thì mình phải xông xáo, đón bắt, chứ đâu có thể ngồi há miệng chờ sung được…
Buổi thảo luận kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, nhưng kết cục không ngã ngũ. Xem ra, anh Thu và tôi không chịu tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong”. Còn anh Tiến thì không nói thẳng ra, nhưng có lẽ anh chịu ở lại Trung Quốc để tham gia. Riêng đứa con trai của anh Tiến, lúc đó khoảng 16 tuổi, thì anh muốn gửi nó sang Hồng Kông cùng với chúng tôi. Có điều, tôi và anh Thu không biết, nếu chúng tôi từ chối không chịu tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong”, liệu chính phủ Trung Cộng có chịu giúp đỡ cho chúng tôi đi Hồng Kông hay không.
* * *
Chiều hôm đó, chúng tôi vừa ăn cơm xong, thì cán bộ Ngô đến chơi. Lúc ấy khoảng 3 giờ chiều. Sau vài câu thăm hỏi xã giao, cán bộ Ngô mời ba anh em chúng tôi ra phòng khách ở lán giữa nói chuyện. Ngồi chưa nóng chỗ, cán bộ Ngô đã nói ngay:
- Tôi thay mặt cho cán bộ Vương đến báo để các “đồng chí” biết, dụng ý của buổi họp sáng nay là kêu gọi sự đóng góp tự nguyện của các “đồng chí” vào cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ cộng sản Việt Nam bá quyền. Tôi xin nhấn mạnh hai chữ “tự nguyện” để các “đồng chí” hiểu, đảng và nhà nước Trung Hoa không bao giờ ép buộc một ai.
Anh Thu hỏi:
- Thưa cán bộ Ngô. Như lời của cán bộ Lưu nói sáng nay thì Trung Quốc đã dậy cho cộng sản Việt Nam một bài học đích đáng từ hai tháng trước. Như vậy thì quý vị còn lập “chính phủ Việt Nam lưu vong” để làm gì?
Cán bộ Ngô im lặng một lát rồi chậm rãi nói:
- Điều này đáng lẽ tôi không thể tiết lộ vì bảo mật một phần, một phần tôi cũng không biết tường tận. Nhưng theo những gì tôi được biết thì trận đánh vừa qua chỉ là bài học mở đầu để thăm dò và rút kinh nghiệm xem Nga Xô có mở mặt trận ở phía bắc Trung Quốc để cứu đồng minh của họ là Việt Cộng ở phía nam hay không. Và như đồng chí Lưu đã báo cáo trong nội bộ, vì Nga Xô không dám can thiệp, nên Trung Quốc có thể sẽ dậy cho Việt Cộng bài học thứ hai. Khi đó, “chính phủ Việt Nam lưu vong” sẽ đóng một vai trò quan trọng cho tương lai của Việt Nam.
Anh Tiến thắc mắc:
- Tôi là một kiến trúc sư, từng là trưởng ty kiến thiết thời VNCH. Nếu tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong”, tôi sẽ giữ phần hành gì?
Cán bộ Ngô trả lời ngay:
- Trong giai đoạn hiện nay, “chính phủ Việt Nam lưu vong” cần thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc để có uy tín tại VN cũng như trên chính trường quốc tế, nên “đồng chí” có thể giữ một chức vụ lãnh đạo quan trọng trong “chính phủ”. Tương lai, khi chế độ cộng sản tại Việt Nam bị sụp đổ, “đồng chí” sẽ được giao cho một chức vụ phù hợp với chuyên môn của một kiến trúc sư….
Anh Thu hỏi:
- Tôi có một băn khoăn xin được mạnh dạn hỏi thẳng cán bộ Ngô. Nếu câu hỏi có làm cán bộ phật ý, mong cán bộ bỏ qua cho tôi.
Cán bộ Ngô niềm nở:
- Yên tâm, yên tâm. Tứ hải giai huynh đệ. Chúng ta bốn bể đều là anh em. “Đồng chí” có suy nghĩ gì cứ mạnh dạn nói. Lời nói thẳng bao giờ cũng xuất phát từ trong tâm của những người chính trực.
- Cảm ơn cán bộ. Thưa, cán bộ là người Hoa chắc biết hán gian Ngô Tam Quế?
Anh Thu vừa nói đến đó, tôi thấy cán bộ Ngô nhíu cặp lông mày rậm và xếch, mắt của ông đột nhiên long lên, mặt ông bỗng đanh lại. Nhưng tất cả chỉ thoáng qua, sau đó, mặt ông trở lại hòa hoãn. Ông gật đầu, giọng nói có vẻ thích thú:
- Giỏi, giỏi, “đồng chí” cũng chịu khó học lịch sử Trung Hoa nên biết cả hán gian Ngô Tam Quế?
Anh Thu nhếch mép cười:
- Thưa tôi không học lịch sử Trung Hoa, nhưng tôi biết nhân vật Ngô Tam Quế qua truyện chưởng của Kim Dung.
Cán bộ Ngô vội dơ ngón tay cái:
- Cắm Dùng sếnh sáng (Kim Dung Tiên Sinh)… số dách! Tôi rất thích đọc những truyện võ hiệp kỳ tình của ông. “Đồng chí” gọi những tác phẩm của Kim Dung là “truyện chưởng”?
Anh Thu gật đầu. Cán bộ Ngô vội rút trong túi cuốn sổ tay và cây viết, rồi hỏi tiếp: “Chưởng “ch” hay “tr” nhỉ?”
- “ch” – Anh Thu trả lời.
Cán bộ Ngô hí hoáy ghi vô trong sổ. Ghi xong, ông ngẩng đầu nói:
-”Đồng chí” nói tiếp đi.
- Thưa cán bộ, theo như truyển chưởng của Kim Dung thì Ngô Tam Quê là tướng nhà Minh được lệnh trấn giữ Sơn Hải Quan. Vậy mà chỉ vì một người đàn bà đẹp là Trần Viên Viên, Ngô Tam Quế mở cửa ải, cho quân Thanh tràn vô, tính mượn tay quân Thanh đánh bại Lý Tự Thành, giành lại người đẹp. Ngờ đâu quân Thanh tương kế tựu kế, chiếm luôn cả Trung Hoa, lập nên nhà Thanh gần 400 năm. Như vậy cán bộ có nghĩ lịch sử sẽ tái diễn, “chính phủ Việt Nam lưu vong” sẽ là một tập hợp của những Ngô Tam Quế Việt Nam hay không?
Cán bộ Ngô vỗ hai bàn tay và cười ngất. Nhưng nghe giọng cười của ông, tôi thấy có vẻ gượng gạo, có lẽ ông cười để che giấu phần nào sự lúng túng thì đúng hơn.
- Hay, hay. Câu hỏi của “đồng chí” rất hay. Nhưng tôi bảo đảm với “đồng chí” lịch sử hôm nay không thể tái diễn lịch sử hôm qua vì mấy điểm khác biệt quan trọng. Khác biệt thứ nhất, “chính phủ Việt Nam lưu vong” hôm nay không phải là tập hợp những phường tiểu nhân bá đạo, gian hùng, chỉ biết mê đàn bà đẹp mà coi rẻ giang sơn như Ngô Tam Quế ngày xưa. Trái lại, đó là những người Việt yêu nước chân chính như Hoàng Văn Hoa, hay như các “đồng chí” ngồi đây chẳng hạn. Khác biệt thứ hai, quân đội nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa hôm nay không thể nào là quân Thanh xâm lăng. Việt Nam và Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông, hai dân tộc đều yêu hòa bình, nhưng có cả một lịch sử đau thương trải qua mấy ngàn năm vì những đau thương đó là do các triều đại phong kiến Trung Hoa gây ra, chứ không phải do nhân dân Trung Hoa gây ra. Các “đồng chí” phải biết phân biệt giai cấp phong kiến Trung Hoa độc ác với nhân dân Trung Hoa hiếu hoà. Giai cấp phong kiến Trung Hoa không những có tội xâm lăng Việt Nam làm cho nhân dân quý quốc đau khổ, mà còn có tội cả với nhân dân Trung Hoa và là tội đồ của lịch sử. Nhưng kể từ khi đảng cộng sản Trung Hoa làm cuộc cách mạng phản đế phản phong thắng lợi, chính phủ và nhân dân Trung Hoa luôn luôn duy trì tình hữu nghị tốt đẹp với các nước láng giềng. Chắc các “đồng chí” đã biết, trong cuộc chiến tranh ái quốc bảo vệ nước cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, một triệu chí nguyện quân Trung Quốc đã hy sinh khi thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả. Sau khi đẩy lui quân bù nhìn Lý Thừa Vãn và đế quốc Mỹ xuống bờ nam sông Áp Lục, toàn bộ chí nguyện quân Trung Quốc đều rút khỏi Triều Tiên, trả lại quyền độc lập cho chính phủ và nhân dân Triều Tiên… Với Việt Nam chắc chắn cũng như vậy. Sau khi lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam, tôi bảo đảm quân đội Trung Quốc sẽ triệt thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tôi nói như vậy không hiểu “đồng chí” Thu đã thông suốt chưa nhỉ?
Anh Thu gật đầu không nói. Nhìn vẻ mặt của anh, tôi biết anh chưa “thông suốt” nhưng không tiện hỏi thêm. Cán bộ Ngô quay sang hỏi tôi:
- “Đồng chí” Phạm Thái Lai có ý kiến gì không? Tôi tin là đồng chí với khả năng của một “xướng ngôn viên”, khi tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong”, “đồng chí” sẽ đóng góp được rất nhiều việc phù hợp với chuyên môn của “đồng chí”…
Tôi nhìn hai anh, do dự trong một thoáng, rồi hít một hơi thở thật sâu:
- Thưa tôi nhớ là hôm kia, cán bộ có nói với tôi là nếu chúng tôi muốn đi sang Hồng Kông thì cán bộ sẽ giúp?…
Cán bộ Ngô hơi nhăn mặt. Chắc ông không thể ngờ và cũng không muốn tôi nhắc lại lời nói đó vào lúc này. Một thoáng yên lặng trôi qua khiến tôi cũng thấy lo lắng. Cán bộ Ngô trả lời giọng không có vẻ gì là hào hứng:
- Đúng tôi có nói như vậy. Chúng tôi sẽ giúp… giúp một cách không chính thức.
Anh Thu hỏi ngay: “Thưa câu nói đó của cán bộ đến giờ có thay đổi gì không?”
Cán bộ Ngô hơi ngần ngừ: “Nếu như… các “đồng chí” không có thiện chí tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong”, thì… như tôi đã nói, chính phủ và nhân dân Trung Hoa không thể ép buộc. Trong trường hợp đó, các “đồng chí” muốn đi Hồng Kông, chúng tôi sẽ giúp. Nhưng được hay không còn tuỳ thuộc vào chủ thuyền…”
Anh Thu hỏi tới luôn:
- Nếu chúng tôi muốn đi Hồng Kông thì bao lâu cán bộ có thể giúp chúng tôi được?
Cán bộ Ngô ngẫm nghĩ một chút rồi trả lời: “Từ một đến hai tuần.”
Nghe vậy, tôi mừng quá. “Từ một đến hai tuần”. Nếu vậy, tại sao mình không bắt đầu xin cán bộ Ngô ngay từ bây giờ?
Trong lúc tôi đang bối rối không biết nói sao thì cán bộ Ngô đứng dậy, nét mặt hơi thất vọng: “Thôi bây giờ, tôi phải đi. Những “đồng chí” nào muốn đi Hồng Kông cứ ghi tên xuống rồi báo cho tôi biết. Tôi sẽ lo liệu, đưa thẳng lên Bắc Hải, ngay tuần tới hoặc chậm nhất là tuần sau…
KỲ 106
Sau khi cán bộ Ngô ra về, chúng tôi kéo nhau ra bờ suối bàn bạc chuyện đi ở. Tôi và anh Thu đều đồng ý, nhân cơ hội này phải đi Hồng Kông bằng mọi giá. Riêng anh Tiến thì vẫn khư khư giữ quyết định ở lại Trung Quốc để “đóng góp một cái gì đó” cho quê hương đất nước khi có được “cơ hội ngàn năm một thuở”. Anh Tiến cũng ngỏ ý gửi chúng tôi người con trai tên H., 16 tuổi cho chúng tôi chăm nom trên đường tới Hồng Kông, để anh rảnh tay lo chuyện đại sự. Chuyện trò một hồi, cuối cùng anh Thu bảo tôi đi về trước báo tin cho gia đình bà Trà biết để lập danh sách những người đi người ở, rồi chờ anh cùng đi gặp cán bộ Ngô. Còn hai anh ở lại trò chuyện… Tôi đoán, khi ấy anh Thu tìm cách thuyết phục anh Tiến bỏ ý định ở lại Trung Quốc.
Được tôi báo tin chính phủ Trung Quốc giúp cho mọi người đi Hồng Kông, gia đình bà Trà rất mừng. Mọi người vui vẻ bàn tán, và trong thời gian ngắn tất cả đều đồng ý, chỉ có phụ nữ và con nít ở lại Trung Quốc chờ xuất cảnh chính thức, còn tất cả đều ghi tên đi Hồng Kông. Tôi ghi đầy đủ tên tuổi từng người trên một tờ giấy, rồi nôn nóng chờ anh Thu.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, hai anh trở lại. Anh Thu mặt đỏ bừng, còn anh Tiến thì vẫn giữ được vẻ thản nhiên ung dung cố hữu. Tôi đoán ngay, anh Thu không thành công. Quả nhiên, khi cầm danh sách tôi đã viết trong đó không có tên anh Tiến, anh Thu gật đầu không nói gì. Gấp tờ giấy làm tư, bỏ túi, anh Thu kéo tôi đi theo anh.
Trên đường đi, anh Thu buồn lắm, nên không nói gì. Qua những gì hai anh tâm sự trong những ngày tháng trước đó, tôi được biết hai anh quen thân nhau suốt mấy chục năm qua. Hoàn cảnh gia đình của hai anh cùng có những nỗi éo le riêng tư, nên cả hai anh đều đùm bọc, thương yêu nhau. Chỉ nguyên việc cả hai anh cùng vượt biên từ Sàigòn qua ngả Hải Phòng, Móng Cái, sang Trung Quốc, cũng đủ thấy tình thâm giao giữa hai anh sâu đậm như thế nào. Không ngờ, sau mấy chục năm ngọt bùi chia sẻ, khi đến Trung Quốc, chỉ vì khác biệt về quan niệm đấu tranh, hai anh đành phải chia tay, mỗi người một đường.
Đến chiêu đãi trạm khoảng 3 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi được đưa ngay vào phòng khách chờ cán bộ Ngô. Không đầy 5 phút sau, cán bộ Ngô tươi cười bước vô. Nét mặt của ông lúc này không còn vẻ thất vọng, buồn bực như trước. Trái lại, ông vui vẻ niềm nở bắt tay anh Thu và tôi, rồi lịch sự mời hai chúng tôi ngồi. Vừa ngồi xuống, cán bộ Ngô nói ngay:
- Sao, các anh đã có danh sách những người muốn đi Hồng Kông rồi phải không?
Anh Thu rút tờ giấy từ túi áo, mở ra, vuốt lại cho ngay ngắn rồi đưa cho cán bộ Ngô:
- Thưa cán bộ, trong danh sách này chúng tôi có tất cả 9 người muốn đi. Xin cán bộ cố gắng giúp đỡ, chúng tôi sẽ vĩnh viễn không quên ơn nghĩa của cán bộ.
Cán bộ Ngô không nói gì, chỉ im lặng nhìn thoáng qua tờ giấy, rồi ông gật gù nói nhỏ như nói với chính ông:
- Như vậy là “đồng chí” Tiến chấp nhận ở lại Trung Quốc? Tốt, đó là một quyết định sáng suốt của người chí sĩ yêu nước biết nắm lấy thời cơ…
Tôi để ý thấy cách xưng hô của cán bộ Ngô khác hẳn lúc trước. Trong khi ông vẫn gọi anh Tiến là “đồng chí” thì trái lại, với chúng tôi ông gọi là “các anh”.
Cán bộ Ngô thong thả gấp tờ giấy làm tư, trao lại cho anh Thu và nói:
- Như tôi đã trình bầy với các anh, việc giúp cho các anh đi Hồng Kông là việc không chính thức của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi không thể giữ bất cứ giấy tờ gì liên quan đến việc này. Các anh về tổ chức một cuộc họp vào 1 giờ trưa ngày mai tại lán có đầy đủ cả 9 người trong danh sách này, sẽ có người thay mặt chúng tôi xuống “đả thông” tư tưởng cho cách anh lần chót rồi ngày mốt, các anh sẽ đi Bắc Hải với người đó. Các anh rõ chưa?
Chúng tôi ngạc nhiên, không thể ngờ mọi việc lại dễ dàng và trôi chảy nhanh chóng như vậy. Chúng tôi còn đang lúng túng, chưa kịp trả lời sao thì cán bộ Ngô đã đứng dậy nói:
- Tất cả chỉ có vậy. Bây giờ các anh có thể về.
****
Trưa hôm sau, tại phòng khách của lán, chúng tôi tất cả 9 người ngồi chờ người đại diện cán bộ Ngô tới “đả thông” tư tưởng. Hai chị em bà Trà cùng mấy người con và cháu gái đồng ý ở lại Trung Quốc chờ giấy xuất cảnh chính thức thì ngồi trong phòng ngủ phía bên phải của lán. Riêng anh Tiến thì có xe riêng chở lên chiêu đãi trạm họp với cán bộ cao cấp từ trung ương xuống. Tôi cũng chỉ biết phong phanh có như vậy, chứ không biết rõ cán bộ đó là ai, cao cấp như thế nào, và họ họp với anh Tiến về vấn đề gì.
Đúng 1 giờ trưa, một người Hoa ăn mặc lè phè bước vô phòng họp. Thấy ông, chúng tôi đều ngạc nhiên vì không ngờ đó là người đại diện cán bộ Ngô. Thay vì bộ đồ đồng phục của công an hoặc quân phục của quân đội Trung Quốc, như mọi cán bộ thường làm việc với chúng tôi, người đàn ông này mặc một bộ đồ dân sự nhàu nát, áo để ngoài quần, chân đi đôi dép nhựa, đầu đội chiếc mũ công nhân cũ, bạc màu. Ngoại trừ nước da trắng xanh, cặp mắt sáng và lông mày đen rậm chổi sể, còn ngoại hình và cách ăn mặc lè phè của ông trông giống hệt mấy người nông dân vùng thôn quê thường mang rau, trái, gia súc… lên chợ Phòng Thành bán mỗi khi có phiên chợ.
Ông gật đầu chào nhẹ tất cả chúng tôi, rồi ngồi xuống chiếc ghế duy nhất ở đầu bàn. Không tự giới thiệu, cũng không hỏi han ai một câu, ông “đả thông tư tưởng” chúng tôi ngay bằng tiếng Việt rất sõi và giọng Hà Nội đặc sệt:
- Tất cả các anh muốn được chúng tôi giúp đỡ gửi gắm cho các chủ tầu đi Hồng Kông thì các anh phải nhớ kỹ những điểm quan trọng tôi sắp nói đây. Thứ nhất, các anh phải nhớ các anh là những người Việt vì bị cộng sản Việt Nam đàn áp nên phải trốn khỏi Việt Nam để đến Hồng Kông xin tỵ nạn, chứ không phải đến từ Trung Quốc. Trên đường đi, chẳng may gặp bão nên các anh phải ghé vô Trung Hoa tạm trú. Thứ hai là trong thời gian tạm trú ở Trung Hoa, các anh đã được chính phủ và nhân dân Trung Hoa đối xử tử tế, nhân đạo, được cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men đầy đủ. Vì vậy, trong tương lai khi đến bất cứ quốc gia nào, gặp bất cứ cơ quan truyền thông nào phỏng vấn hay bất cứ ai hỏi, các anh cũng phải nói sự thật về lòng nhân đạo và tử tế của chính phủ và nhân dân Trung Hoa. Thứ ba, khi xuống tàu thuyền ở Bắc Hải chuẩn bị đi Hồng Kông, các anh không được mang theo bất cứ giấy tờ hay thư từ gì của Trung Quốc, cũng như bất cứ sản phẩm gì của Trung Quốc. Mọi tiền bạc, đồ ăn thức uống, thuốc lá, hình ảnh, có dấu vết của Trung Quốc đều phải để lại cho người thân của các anh hoặc phải bị thiêu huỷ. Các anh cũng chỉ được mặc quần áo và mang theo đồ đạc của các anh từ Việt Nam. Những quần áo, đồ đạc mua được tại Trung Quốc, phải để lại hoặc bị thiêu huỷ. Các anh nhớ rõ ba điểm này và phải thi hành thật nghiêm chỉnh. Nếu chính quyền Hồng Kông phát hiện bất cứ thứ gì có liên quan đến Trung Quốc, họ sẽ tước bỏ tư cách tỵ nạn của các anh và đuổi các anh về Trung Quốc. Các anh nghe rõ chưa. Bây giờ các anh có hỏi gì không?
Anh Thu dơ tay nói:
- Thưa, những điều cán bộ nói chúng tôi đã nghe rõ và sẽ làm đầy đủ. Bây giờ cán bộ có thể cho chúng tôi biết, khi nào thì chúng tôi có thể lên đường đi Bắc Hải?
Người đàn ông trả lời ngay:
- Các anh chuẩn bị xong trong ngày hôm nay, sáng mai chúng ta sẽ lên đường. Điểm quan trọng nữa các anh phải nhớ là không được gọi tôi là cán bộ. Từ nay trở đi các anh chỉ gọi tôi là Bình và từ nay trở đi tôi sẽ đi cùng với các anh lên Bắc Hải, lo liệu mọi chuyện cho các anh.
Hải, cháu gọi bà Trà bằng bác, dơ tay hỏi:
- Thưa anh Bình, chúng tôi có phải mang tiền và đồ ăn theo không ạ?
Bình gật đầu:
- Các anh có quyền mang tiền, thức ăn của các anh theo. Tại Bắc Hải, các anh có thể tiêu pha mua sắm thoải mái. Nhưng một khi tàu rời Bắc Hải, trực chỉ Hồng Kông, tất cả tiền của Trung Quốc phải được trao lại. Thức ăn cũng vậy.
Hải hỏi tiếp:
- Vậy khi lên tàu, chúng tôi ăn uống bằng gì?
Bình xua tay:
- Chuyện đó các anh khỏi lo. Một khi chúng tôi đã gửi gắm các anh cho chủ tàu thì chủ tàu ăn gì, các anh ăn cái đó. Các anh không phải đóng góp gì cho chủ tàu cả. Chúng tôi lo tất cả mọi chuyện.
Tôi rụt rè hỏi:
- Thưa anh Bình, chúng tôi có phải đóng tiền gì cho chủ tàu không?
Bình lắc đầu:
- Các anh không phải đóng tiền bạc gì cả. Mọi chuyện chúng tôi đã thu xếp với chủ tàu, các anh chỉ việc xuống tàu rồi đi, có vậy thôi.
Hải thắc mắc:
- Chúng tôi có được ở chung trong một chiếc tàu không?
Bình gật đầu:
- Chúng tôi sẽ cố gắng thu xếp cho các anh được đi chung tàu. Nhưng điều đó không bảo đảm. Cho dù không được thì cũng không sao. Đến Hồng Kông rồi các anh cũng gặp lại nhau thôi.
Khi cán bộ Bình nói không phải trả tiền cho chủ tàu, tôi rất mừng, vì như vậy, tôi nghĩ tôi sẽ không phải dùng đến số tiền $500 “nhân dân tệ” của ông bà Trần cho, mặc dù trong lòng tôi mãi mãi nhớ đến ân tình sâu nặng mà ông bà Trần đã giúp đỡ trong những ngày tháng tôi ở Trung Quốc.
Tôi quen ông bà Trần ngay sau khi đặt chân đến Phòng Thành. Bà Trần lúc đó bán ở cửa hàng “bách hóa tổng hợp” duy nhất của thị trấn Phòng Thành và cũng là người duy nhất biết nói tiếng Việt, nhưng theo lời của bà, không một ai ở Phòng Thành biết điều đó, ngoại trừ chồng của bà.
Tôi còn nhớ khi đó, trong một chuyến đi dạo cho biết phố xá Phòng Thành, chúng tôi có ghé thăm cửa hàng “bách hóa tổng hợp” và tình cờ được trò chuyện với bà. Sau đó, bà mời chúng tôi ghé nhà chơi, trò chuyện thân mật và đối xử với chúng tôi rất tốt. Trong những lần ghé thăm gia đình, ông bà có ân cần hỏi chuyện nên tôi cũng kể cho ông bà nghe về những khốn khổ mà tôi đã trải qua trên đường vượt biên tới Trung Quốc. Vì vậy, ông bà Trần rất thương yêu tôi, coi tôi như con. Khi hay tin chúng tôi phải chờ đợi nhiều năm mới có thể đoàn tụ với gia đình ở ngoại quốc, ông bà Trần đã mách nước cho tôi “vượt biên” bằng cách lên Bắc Hải trả tiền cho chủ tàu để đến Hồng Kông. Ông bà Trần đã đưa cho tôi số tiền $500 đồng Trung Quốc và còn cho tôi địa chỉ của một người em họ ở Bắc Hải để họ có thể hướng dẫn tôi đường đi nước bước khi tới Bắc Hải. Nhưng ngay khi mới chân ướt chân ráo đặt chân tới Bắc Hải, tôi đã được gặp ông Phùng và được ông Phùng chỉ dẫn tỉ mỉ nên không kịp gặp người em họ của bà Trần.
Tôi biết, $500 đồng là số tiền lớn ở Trung Quốc thời bấy giờ. Số tiền đó tương đương gần 2 năm lương của một công nhân viên chức, và là tất cả vốn liếng dành dụm của ông bà Trần. Vì vậy, tôi rất cảm động khi thấy ông bà Trần đưa cho tôi số tiền đó, nhưng tôi một mực từ chối. Sau đó, ông bà Trần bảo, nếu tôi ngại ngùng không muốn nhận sự giúp đỡ của ông bà, thì hãy coi ông bà như là nghĩa phụ nghĩa mẫu, để có thể thoải mái nhận sự giúp đỡ của ông bà. Còn nếu như tôi thấy ông bà không xứng đáng là nghĩa phụ, nghĩa mẫu thì hãy coi đó là số tiền ông bà cho tôi vay, sau này ra đến nước ngoài, có điều kiện thì gửi trả cho ông bà.
Cuối cùng, trước tình nghĩa sâu đậm và tấm lòng tốt của ông bà, tôi đã cầm số tiền đó khi đi Bắc Hải. Lúc ấy tôi đã thầm hứa, cố gắng không tiêu dùng đến số tiền đó bằng mọi giá. Nay nghe tin chính miệng cán bộ Bình nói không phải trả tiền cho chủ tàu, tôi mừng quá. Như vậy là tôi có thể an tâm trao trả số tiền $500 đồng cho ông bà Trần và ông bà Trần cũng không phải lo lắng gì khi nhận lại số tiền đó.
Sự thực, tôi không phải là người sợ nhận ân tình sâu nặng của những người đã thực lòng thương yêu tôi. Nhìn lại cuộc đời của tôi trong suốt mấy chục năm, tôi thấy kể từ khi tôi biết nghĩ, mỗi khi tôi gặp khốn khó, bi thương, luôn luôn có những người chân tình hết lòng giúp đỡ. Nếu vì sợ sợi dây ân nghĩa trói buộc, hay coi sự giúp đỡ là món nợ khó trả, để tôi từ chối mọi sự giúp đỡ thì làm sao tôi có thể sống sót đến ngày nay? Vì vậy, trong thâm tâm, tôi luôn luôn nghĩ, nếu tôi gặp khó khăn, mà có người thực lòng giúp, tôi sẵn sàng nhận và sẽ mãi mãi ghi tâm khắc cốt những tấm lòng đó, những con người đó, để sau này, khi có điều kiện, tôi sẽ đền đáp ơn nghĩa cho chính những người đó, hoặc cho những người khác gặp hoàn cảnh không may mắn mà tôi gặp trên đường đời.
Ngay tối hôm đó, tôi đến gặp ông bà Trần để gửi lại số tiền, và cho biết, ngày mai, chúng tôi sẽ đi Bắc Hải. Hay tin sắp chia tay, ông bà Trần rất buồn. Ông bà đã chuẩn bị sẵn cho tôi đầy đủ quần áo, đồ ăn thức uống, thuốc bổ, thuốc chống say sóng, thuốc chống muỗi… và cả hơn chục cây nhân sâm, loại dùng riêng cho quân đội. Nhưng vì không được phép mang bất cứ thứ gì có dấu ấn của Trung Quốc, nên tôi chỉ có thể nhận gói thuốc say sóng và gói nhân sâm của ông bà Trần. Từ đó đến nay đã ngót 30 năm trôi qua, và trong 30 năm đó cuộc đời tôi đã trải qua không biết bao nhiêu thay đổi, mấy lần dọn nhà,… nhưng tôi vẫn giữ những cây nhân sâm ngay trong ngăn kéo làm việc bên tay phải. Mỗi lần mở ngăn kéo, thấy mấy cây nhân sâm, hình ảnh của ông bà Trần lại hiện về, và lòng tôi lại bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm của ngày xưa…
Tôi còn nhớ, sau khi đến trại tỵ nạn Hồng Kông, được ra ngoài đi làm, tôi có ghé thăm gia đình người em gái của ông bà Trần ở ngay Cửu Long, và nhận được lá thư ông bà Trần gửi. Trong thư có đoạn: “Từ ngày con đến chơi, nói những chuyện tri tâm, nhà tràn đầy sức sống, ai cũng có hạnh phúc và nụ cười. Hôm nay, con đi rồi, về đến nhà, thấy trống vắng vô cùng, ba má buồn vô hạn, mọi việc không muốn làm, cơm không muốn ăn, đã đau lòng lại càng thêm đau lòng… Thú thực, từ trong đáy lòng, ba má chẳng muốn con đi khỏi Phòng Thành, nhưng vì nghĩ đến tương lai và tiền đồ của con, nên ba má tận tình một lòng giúp đỡ con… Con ơi! Qua sông vượt biển, nhớ uống thuốc để khỏi say sóng, đói phải ăn no, lạnh phải mặc ấm, nên chú ý đến thân thể… Đến nơi an toàn, chị em được gặp nhau, khi đó con mới có một hạnh phúc thực sự, và ba má mới thấy lòng thanh thản, được hạnh phúc cùng với con…”
Hôm nay ngồi kể lại những kỷ niệm xưa, được chép lại những dòng chữ này, tôi bồi hồi xúc động, nước mắt rưng rưng… để rồi thấy chính mình gục đầu thổn thức nhớ tới hình ảnh ông bà Trần, những nhân dáng cũ, những ân tình trùng điệp… tôi đã được ân thưởng trong cuộc đời của tôi…
KỲ 107
Ngay sáng hôm sau, tất cả 9 anh em chúng tôi ra bến xe Phòng Thành. Tại đó, cán bộ Bình đã chờ sẵn với hình dáng bề ngoài của ông giống hệt hôm qua, vẫn bộ dân sự nhàu nát, áo để ngoài quần, chân đi đôi dép nhựa, đầu đội chiếc mũ công nhân bạc màu… Bình nhìn qua chúng tôi, đếm đủ 9 người, rồi quay lại nói nhỏ với tài xế… Từ xa, tôi không biết hai người nói gì, chỉ thấy tài xế khúm núm, gật đầu lia lịa. Quay lại nhìn chúng tôi, Bình vẫy tay ra hiệu cho chúng đi theo, rồi Bình leo lên xe. Viên tài xế nói xì xồ tiếng Hoa với hành khách, mọi người liền dạt sang hai bên nhường lối cho chúng tôi. Chín anh em chúng tôi lần lượt leo lên xe, rồi im lặng ngồi vô các ghế được cán bộ Bình chỉ.
Ra bến xe tiễn chúng tôi có bà Trà, em gái và con gái út của bà; anh Tiến, gia đình ông bà Trần và một số bạn bè người Hoa mà chúng tôi quen biết trong thời gian ở Đông Hưng và Phòng Thành. Những bạn bè người Hoa là những người chất phác, thật thà và tốt bụng, đã tận tình giúp đỡ những người Việt tỵ nạn chúng tôi bằng tất cả tấm lòng. Tuy thời gian ở lại Đông Hưng, Phòng Thành không bao lâu, nhưng chính những con người với tấm lòng nhân ái đó đã khiến chúng tôi bịn rịn, kẻ ở người đi, nước mắt rưng rưng… Trong tình cảnh đó, tôi chợt nhớ tới câu thơ, “Khi ta đến đất là nơi ta ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”…
Suốt chặng đường từ Phòng Thành đến Bắc Hải, chúng tôi đều im lặng vì mỗi người đều theo đuổi nỗi niềm riêng, tâm tư của ai cũng nặng trĩu về những kỷ niệm, những ân tình giăng mắc trong suốt mấy tháng qua tại Phòng Thành.
Trưa hôm đó, chúng tôi đến Bắc Hải. Cán bộ Bình dẫn chúng tôi vô một cửa hàng ăn cho chúng tôi ăn trưa. Cửa hàng rất đông khách. Các bàn ăn đều kín đặc người là người. Nhiều thực khách phải đứng ăn ở cả ngoài hàng hiên, thậm chí ngay cả sân trước, dưới mấy lùm cây cũng có có thực khách túm năm tụm ba xì xụp ăn uống. Đông khách như vậy nhưng cả nhà hàng chỉ có mấy món ăn chính là cháo trắng, mì nước, bánh bao hấp, bánh ngô luộc trông giống như bánh đúc ở Việt Nam nhưng nhỏ hơn. Còn nước uống chỉ có nước trà, nước chanh đường và nước si-rô.
Tất cả 9 anh em chúng tôi chỉ ăn uống qua loa, vì trong lòng ai cũng bồn chồn, phần vì nhớ ân nhân bạn bè, người thân ở Phòng Thành, phần vì lo không biết chuyến đi Hồng Kông sẽ lành dữ ra sao. Riêng cán bộ Bình thì ăn rất khoẻ. Sau khi húp hết hai tô cháo với một chén củ cải muối, một ly nước chanh, ông còn ăn thêm 3 chiếc bánh bao, và mua thêm 5 chiếc mang theo.
¨Ăn uống xong, chúng tôi theo ông đi bộ khoảng 3 cây số từ bến xe Bắc Hải đến “bến cảng”, theo lối gọi của ông Bình. Sự thực, theo lời của người dân Bắc Hải kể, trước kia, khu vực này chỉ là một chợ cá nổi cho các thuyền bè đánh cá ghé lại vào mỗi buổi chiều để bán các hải sản họ đánh được trong ngày theo giá sỉ cho “hợp tác xã hải sản” thu mua. Nhưng kể từ khi có làn sóng người tỵ nạn Việt Nam vượt biển bằng thuyền thường xuyên ghé lại, khu vực này đã trở thành một khu thị tứ “trên bến dưới thuyền”, lúc nào cũng có cả mấy trăm chiếc thuyền buông neo, và trên bờ lều trại san sát đủ màu đủ kiểu, cùng người qua lại như mắc cửi.
Phần đông dân chúng ghé lại “cảng” Bắc Hải là người Việt gốc Hoa đi từ Sàigòn. Họ đã bị buộc phải ra khỏi Việt Nam bằng đường bộ qua ngả biên giới ở Móng Cái, Lạng Sơn. Sau khi đến Trung Hoa, họ được chính quyền gián tiếp giúp đỡ, hướng dẫn cho họ vượt biên để cho chính quyền rảnh nợ, khỏi phải định cư thành phần có đầu óc “tư bản đế quốc”. Số còn lại ở “cảng” Bắc Hải là người Hoa đi từ các tỉnh, thành phố ở Miền Bắc, trong đó Hà Nội, Hải Phòng là chính. Còn người Việt thuần túy như chúng tôi rất hiếm.
Ngay khi bước chân đến “cảng” Bắc Hải, Bình đã tỏ ra là dân thổ công. Không những tỏ ra thông thuộc đường đi nước bước, khi thì quẹo trái, lúc rẽ phải một cách dễ dàng, Bình còn quen biết rất nhiều người ở Bắc Hải. Qua đó, tôi đoán, ông Bình phải là người thường xuyên đi Bắc Hải “gửi gấm” những người thuộc thành phần Trung Quốc không muốn giữ.
Đi dọc theo bến Bắc Hải tới ba phần tư, ông Bình quay lại khoát tay ra hiệu cho chúng tôi đứng lại chờ ông trên bờ. Sau đó, ông rẽ tay phải bước lên một tấm ván có chiều ngang khoảng 50 phân, nối liền từ bờ lên thành một chiếc thuyền khá lớn, xem ra có vẻ bề thế nhất nhì trong số những thuyền đang thả neo tại Bắc Hải. Trên khoang thuyền lúc đó, có khoảng hai chục người đang ngồi thành 3 nhóm ăn uống ầm ĩ. Một nhóm chỉ có 4 người đàn ông, tuổi khoảng 40 đổ lên. Hai nhóm kia là đàn bà, con nít và thanh niên tuổi khoảng 30 đổi lại.
Ông Bình còn đang nhún nhảy đi trên tấm ván, đã thấy bốn người đàn ông cùng đứng dậy bước ra thành thuyền đón tiếp. Sau màn bắt tay, ôm vai vỗ vỗ rất thân mật, ông Bình nói gì đó với một người đàn ông cởi trần, râu dài, thân hình quắc thước, rồi ông quay về phía chúng tôi đưa tay chỉ trỏ… Người đàn ông cười lớn, tiếng cười của ông vang xa, chúng tôi ở trên bờ cũng nghe thấy tiếng cười của ông rõ mồn một. Rồi ông bắt tay, vỗ vai ông Bình, và gật đầu. Ông Bình quay lại vẫy tay, ra hiệu cho chúng tôi lên thuyền.
Sang đến thuyền, ông Bình bảo chúng tôi ngồi một vòng quanh mâm cơm đang ăn dở của ông già. Mâm cơm cũ được dọn đi, rồi một bộ tách trà được dọn ra. Ba người đàn ông cùng ngồi ăn với ông già cũng đi sang mâm cơm khác. Còn lại ngồi uống trà chỉ có ông già, ông Bình, anh Thu và tôi. Mấy người còn lại trong nhóm chúng tôi đều tuổi chưa đầy 20 nên ngồi ở vòng ngoài, sát thành thuyền.
Chỉ tay về ông già, ông Bình giới thiệu:
- Đây là ông Huỳnh, chủ thuyền. Tôi đã thưa chuyện với ông và ông đã nhận lời cho các anh đi nhờ sang Hồng Kông. Tiền bạc các anh không phải trả. Mọi chuyện ăn uống, ngủ nghê, ông sẽ lo liệu chu đáo cho các anh. Lát nữa các anh sẽ tự giới thiệu tên tuổi cuả từng người với ông và làm quen với mọi người trên thuyền. Nhất nhất mọi chuyện các anh phải nghe lời ông. Các anh rõ chưa?
Chúng tôi rụt rè chưa kịp trả lời thì ông Huỳnh đã cười nói vui vẻ:
- Thoải mái, thoải mái. Năm châu bốn bể đều là anh em. – Rồi ông dục chúng tôi – Uống trà, uống trà. Trà hảo hạng, trà hảo hạng.
Thoạt nghe tôi đã có ấn tượng ông Huỳnh là người phóng khoáng, có khẩu khí của một nam nhi trượng phu. Chỉ lạ có điều, bất cứ nói câu gì, ông cũng nói hai lần.
Tuần trà đầu uống vừa cạn thì cán bộ Bình đứng dậy cáo lui. Chúng tôi vội đứng dậy ngỏ lời cám ơn, nhưng ông ta phẩy tay tỏ ý không cần những ngôn ngữ cử chỉ khách sáo đó. Ông chỉ bắt tay ông Huỳnh, rồi hai người vỗ vai thân mật trước khi chia tay.
Bình đi khỏi, ông Huỳnh quay sang mời tất cả chúng tôi ngồi quây quần quanh ông rồi ông hỏi chuyện từng người, thái độ rất ân cần. Ông ngạc nhiên khi biết, ba anh em chúng tôi vượt biên bằng đường bộ từ Miền Nam ra Hải Phòng rồi đi Móng Cái, qua Đông Hưng.
Ông cởi trần, chỉ mặc chiếc quần quấn thành nút ở thắt lưng, bên ngoài là chiếc thắt lưng bằng da to bản, bóng nhẫy. Nước da của ông mầu đồng, bắp thịt ở vai, tay, ngực đều cuồn cuộn và chiếc cổ của ông thiệt bự. Hàm râu của ông bạc như cước, dài đến ngực, nhưng phong dáng của ông nhanh nhẹn, mắt của ông tinh anh, nên chúng tôi đoán ông chỉ ngoài 50 là cùng. Sau này chúng tôi mới biết là mình đoán sai. Khi ông gọi các con của ông ra giới thiệu, người con trai trưởng của ông cũng đã 45 tuổi. Còn ông đã 66. Ông nói ông tổ của ông ngày xưa từng là tướng dưới thời nhà Lê và dòng họ nội nhà ông đã đóng góp rất nhiều công sức xây dựng chùa Nam Thọ tại Trà Cổ. Ông tỏ ra rất tự hào về quá khứ vàng son của dòng họ nhà ông.
Biết chúng tôi là “người bên kia vĩ tuyến 17″, theo ngôn ngữ của ông, ông rất khoan khoái. Ông nói với anh Thu, giọng kính nể:
- Thầy là “người bên kia vĩ tuyến 17″ bao giờ cũng ăn học đàng hoàng, văn minh tiến bộ có dư, nên thầy thấy rồi, hễ người cộng sản họ đi đến đâu là tang thương cho quêhương đất nước mình đến đó. Thầy thấy mấy thằng con của tôi không? Chỉ được thằng đầu tiên là còn khá, vì nó cũng được sống ngót hai chục năm dưới ánh sáng khai hóa của người Pháp nên còn có đức độ phần nào. Nó là con của người vợ cả đấy. Còn mấy thằng sau là con của bà vợ hai, vợ ba. Mấy thằng này thì bết bát quá. Chúng sinh ra và lớn lên dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” nên chỉ học làm thằng láu tôm láu cá, sống toàn bất nhân bất nghĩa thôi.
Trước đó, ông Huỳnh đã gọi mấy người con ra giới thiệu với chúng tôi, trông người nào cũng lễ phép với khách, mặc dù họ không kém tuổi anh Thu là bao. Vì vậy anh Thu vội đỡ lời:
- Thưa ông, tôi thấy các anh ấy cũng khá đấy chứ. Sống với cộng sản mà tư cách được như vậy là quý hoá lắm.
Ông Huỳnh cười nhếch mép:
- Tư cách gì chúng nó. Chỉ bề ngoài đó thôi thầy. Thầy ở gần nó rồi thì thầy sẽ thấy. Bảo đảm thầy có cái gì mất cái nấy.
Thái độ của ông Huỳnh như vậy cũng lạ. Chúng tôi dù sao cũng là người dưng nước lã, lại mới gặp lần đầu mà ông đã đem chuyện trong nhà ra nói hết khiến chúng tôi cũng ngượng, nên ai cũng giữ kẽ, chỉ ầm ừ cho qua chuyện.
Thuyền của ông Huỳnh có tất cả gần 40 người. Ngoại trừ thân mẫu của ông Huỳnh đã hơn 80 tuổi, còn tất cả đều là gia đình, họ hàng con cháu của ông Huỳnh. Vì vậy, ông Huỳnh đi lại trên thuyền, hò hét giống hệt như một vị chủ soái oai nghiêm, mọi người nghe theo ông răm rắp. Mỗi khi có món gì ngồi ăn nhậu, ông chỉ cho anh Thu và tôi ngồi cùng mâm với ông. Còn tất cả ngồi ở mâm đàn bà con gái…
Sống với ông Huỳnh được hai ngày, thì bỗng dưng cán bộ Bình xuống thuyền nói chuyện riêng với ông Huỳnh khoảng mươi phút rồi bảo chúng tôi chào ông Huỳnh để đi sang một thuyền khác. Chúng tôi cũng không hiểu lý do tại sao lại có sự thay đổi vào phút chót như vậy. Nhưng thân phận của kẻ ăn nhờ ở đậu, đi thuyền ké, nên cán bộ Bình bảo sao, chúng tôi phải nghe vậy.
Ngay sau đó, chúng tôi chào ông Huỳnh, rồi lặng lẽ mang đồ đạc theo cán bộ Bình tới một chiếc thuyền to hơn thuyền của ông Huỳnh. Ông bà chủ của chiếc thuyền này người Móng Cái, tên của ông là Đường, bà vợ là Lan. Cả hai vợ chồng chỉ mới ngoài 40, lúc nào cũng vui vẻ, tươi tắn và tốt bụng. Trong xã hội Miền Bắc, kiếm được một cặp vợ chồng chủ thuyền tốt bụng như ông bà Đường thật là hiếm có. Cả chiếc thuyền của ông bà có gần 70 người, nhưng ai cũng quý trọng ông bà Đường. Qua chuyện trò với những người đi chung thuyền chúng tôi mới biết được, ông bà Đường vốn là người Hoa, làm nghề đánh cá. Khi bị cộng sản Việt Nam o ép, làm khó dễ để ông bà phải bỏ nhà bỏ cửa tiệm về Trung Hoa, ông bà đã chấp thuận cho những người Hoa khác đi chung thuyền, còn tiền bạc tuỳ hỉ, ai có bao nhiêu cho bấy nhiêu, ai không có thì ông bà cho đi không.
Phần đông người đi chung thuyền với ông bà Đường là người Hoa. Chỉ có vài gia đình là người Việt thuần tuý, trong đó có vợ chồng anh Thịnh và chị Loan. Hai vợ chồng anh có một đứa con gái còn nhỏ, nên dọc đường đi cũng như khi tới Hồng Kông, chúng tôi chứng kiến trong đau lòng và bất lực khi thấy cháu bé khóc suốt vì đói, khát và ốm đau.
Chung sống dưới thuyền của ông bà Đường được hai ngày thì thuyền của chúng tôi chứng kiến đoàn thuyền thứ nhất được lệnh nhổ neo trực chỉ Hồng Kông. Tất cả khoảng hơn chục chiếc thuyền to nhỏ khác nhau được xếp hàng chữ nhất, cái nọ nối đuôi cái kia bằng một sợi dây cáp. Dẫn đầu đoàn thuyền là một chiếc ca nô của Trung Cộng. Sau đó là chiếc xà lan kéo theo cả đoàn thuyền hơn chục chiếc. Cả chiếc ca nô và chiếc xà lan đều không có cờ quạt hay phù hiệu gì chứng tỏ họ là của Trung Cộng.
Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều và trời rất đẹp, trong xanh không một gợn mây, mặt biển phẳng lì tới tận chân trời xa…
Theo lời của anh Thịnh, đoàn thuyền sẽ đi trong khoảng 12 tiếng sẽ đến gần hải phận Hồng Kông. Khi đó, chiếc ca nô và xà lan sẽ quay đầu trở lại, sợi dây cáp nối liền các thuyền sẽ bị chặt đứt, và hơn chục chiếc thuyền sẽ mạnh chiếc nào chiếc nấy chạy thẳng vô Hồng Kông. Khoảng mấy tiếng đồng hồ sau, tàu tuần duyên của Hồng Kông khi phát hiện những chiếc thuyền đó, sẽ chặn lại, khám xét, tịch thu vũ khí, đạn dược… rồi ra lệnh cho họ được tiếp tục chạy vô hải phận Hồng Kông, thả neo tại khu vực dành cho những thuyền nhân xâm nhập lãnh hải Hồng Kông bất hợp pháp, và chờ đợi LHQ cứu xét tư cách tỵ nạn.
KỲ 108
Hai ngày sau, chúng tôi lại chứng kiến một đoàn thuyền thứ hai khoảng hơn chục chiếc ra khơi trực chỉ Hồng Kông, với đội hình giống như đoàn thuyền tôi thấy hôm trước. Liên tiếp như vậy cho đến ngày thứ 7, sau khi chứng kiến mấy đoàn thuyền lần lượt ra đi, chúng tôi rất sốt ruột, không biết tới khi nào mới đến lượt thuyền của mình được ra khơi. Tôi liền rủ anh Huy và anh Thịnh chồng của cô Loan, đi gặp chủ thuyền hỏi xem sao.
Thời tiết lúc đó nóng bức, nên ông bà chủ thuyền ngồi trong một chiếc lán ở trên bờ. Thấy chúng tôi bước vô, ông bà rất niềm nở mời ngồi. Sau mấy câu chào hỏi, anh Thịnh hỏi ngay:
- Ông Đường à, thuyền bè của thiên hạ rời bến rần rần mà sao thuyền của mình chưa thấy động tĩnh gì là thế nào?
Ông Đường cười:
- Chú là người thứ mười mấy hỏi tôi câu này rồi đó. Tôi cũng đang bồn chồn chẳng hiểu tại sao nữa.
Anh Thịnh tiếp lời:
- Thuyền của mình đến trước thuyền của mấy người kia tới nửa tháng, cả tháng. Rồi thuyền của mình lại được cán bộ Bình gửi gắm “hàng hóa” thì đáng lẽ mình phải được ra khởi rồi mới đúng chứ…
Ông Đường gật đầu:
- Thì tôi cũng nghĩ như chú vậy đó. Hôm trước thấy ông cán bộ Bình mang gửi gắm mấy bác Miền Nam này là tụi tôi mừng lắm. Vì cán bộ đã có hàng gửi riêng thuyền mình là bao giờ thuyền mình cũng được ưu tiên… Vậy mà chờ đến giờ đã hơn tuần lễ rồi, chả thấy động tĩnh gì.
Anh Thu hỏi:
- Ông có biết vì sao mấy thuyền kia đến Bắc Hải sau mình, nay lại được đi trước mình không?
Ông Đường lắc đầu:
- Thưa bác, chúng tôi là phận ăn nhờ ở đậu thì làm mà biết được.
Từ khi chúng tôi xuống thuyền, không hiểu sao ông bà Đường luôn luôn gọi chúng tôi là “bác”, mặc dù tuổi của ông lớn hơn cả tuổi anh Thu.
Anh Thu thăm dò:
- Hay là thuyền của họ cũng được cán bộ gửi “hàng hóa” mà mình không biết?
Ông Đường cười:
- Bác yên tâm đi. Ở cái bến Bắc Hải này chẳng có cái chuyện gì xảy ra mà chúng tôi không biết…
Anh Thịnh quay sang chúng tôi giải thích:
- Các anh phải biết, ở đây mỗi khi cán bộ Bình xuống bến là chúng tôi biết ngay. Ông ta đến thuyền nào, gửi gắm những ai, mấy người… là chúng tôi có người theo dõi báo cáo lại cho biết liền. “Tai mắt nhân dân” mà anh.
Anh Thu gật gù ra vẻ hiểu biết:
- Vậy mà tôi không nghĩ ra… Thiệt đúng là “Mỗi người dân là một người công an”….
Nghe anh Thu nói vậy, mọi người cùng cất tiếng cười vui vẻ. Anh Thu hỏi tiếp:
- Nếu chờ đợi họ lâu như vậy, sao thuyền mình không xé lẻ đi thẳng Hồng Kông một mình?
Ông Đường trợn mắt ngạc nhiên:
- Bác nói sao? Xé lẻ để đi cả tháng trời mới tới, bác có dám xé lẻ không?
Anh Thịnh đỡ lời:
- Xé lẻ mà đi là không được rồi. Mình ở đây nhờ vả người ta, được người ta giúp là mình phải nhận. Có điều ông bà chủ cũng thử nhắc nhở cán bộ Bình coi. Tôi sợ nhiều khi thuyền bè đông đúc quá, rồi họ quên phéng mình thì bỏ mẹ cả nút với nhau…
Ông Đường lắc đầu:
- Quên thì chẳng thể nào quên được đâu. Trước sau gì thì mình cũng đi thôi…
Anh Thu thở dài:
- Thì vẫn biết, trước sau gì thì ai cũng đi. Nhưng những ai đi trước đến được Hồng Kông sớm thì còn dễ dàng được đi định cư ở các nước khác. Còn những ai đến sau thì… “trâu chậm uống nước đục”… Đời là như vậy mà.
Ông Đường nhìn anh Thu nhũn nhặn:
- Dạ bác là người học nhiều hiểu rộng bác nói vậy rất đúng. Nhưng chúng tôi là những người lao động chân lấm tay bùn, học hành ít ỏi nên trên họ bảo sao thì biết vậy. Họ bảo mình chờ thì mình chỉ biết chờ thôi. Chả dám thắc mắc hỏi han gì. Nếu được thì trăm sự nhờ bác giúp đỡ… vì dù sao bác cũng là người Miền Nam…
Anh Thu ngạc nhiên không hiểu:
- Ủa, tôi thì giúp đỡ được cái gì?
Anh Thịnh biết ý, liền đỡ lời, nói với anh Thu:
- Ý ông Đường muốn nhờ anh hỏi cán bộ Bình tại sao thuyền của mình chưa được ra khơi. – Quay sang phía ông Đường, anh Thu tiếp – Tôi nói vậy có đúng không ông?
Ông Đường gật đầu:
- Vâng, cảm phiền bác Miền Nam giúp cho một tiếng. Một tiếng nói của bác Miền Nam bằng người Miền Bắc chúng tôi nói cả ngày…
Anh Thu ngần ngừ:
- Nhưng tôi đâu có biết cán bộ Bình ở đâu mà nói?
Ông Đường cười vui vẻ, nét mặt sáng rỡ:
- Như vậy là bác nhận lời rồi phải không? Bác cứ yên tâm, tôi sẽ cho người dắt bác tới chỗ cán bộ Bình ở…
Anh Thu nhìn tôi có ý hỏi. Tôi gật đầu:
- Em nghĩ hai anh em mình cùng đi. Họ đã gửi gắm mình xuống thuyền của ông chủ đây, bây giờ mình đến gặp cán bộ Bình trước là cảm ơn, sau là nhắc khéo họ…
Anh Thu quay về phía ông Đường:
- Ông đã có lòng tin tưởng mà nói vậy thì chúng tôi sẽ đi gặp cán bộ Bình hỏi xem sao.
Ngay chiều hôm đó, tôi và anh Thu đi theo một cậu bé tuổi khoảng 14, 15, đến gặp cán bộ Bình. Tưởng nhà của cán bộ Bình ở đâu xa, hoá ra ở ngay trong khu nhà tập thể công nhân cách lều trại dành cho thuyền nhân tại Bắc Hải có không đầy 2 cây số. Chúng tôi đi bộ đến nơi, được cậu bé chỉ cho thấy nhà cán bộ Bình rồi cậu biến mất. Thấy cửa đóng, tôi và anh Thu nhìn nhau ngần ngại. Anh Thu hất cằm ra vẻ thúc dục, tôi mới mạnh dạn gõ cửa…
Gõ xong, chờ một lúc không thấy động tĩnh gì, đang tính gõ cửa lần nữa thì nghe có tiếng chân người đi đến gần. Cửa mở, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy một thiếu phụ xuất hiện, ăn vận như người Việt, tóc búi cao phía sau ót. Nhìn bộ điệu của chúng tôi, thiếu phụ đoán ra chúng tôi là ai nên hỏi ngay bằng tiếng Việt, giọng Nghệ An đặc:
- Các ông muốn kiếm anh Bình?
Chúng tôi chưa kịp trả lời thì người thiếu phụ đã mở rộng cánh cửa gỗ, đon đả:
- Mời các ông vô…
Chúng tôi lặng lẽ bước theo người thiếu phụ. Lúc này tôi mới để ý thấy trong nhà có một con chó mực rất to, nhưng không hiểu sao, nó không sủa, cũng không hề tỏ vẻ thân thiện như những con chó khác. Thấy người lạ bước vô, nó chỉ uể oải nhất cái đầu lên khoảng một gang tay, rồi lại gục xuống hai chân nằm lim dim ngủ. Tôi đoán có lẽ nó bị ốm hay quá già nua…
Người thiếu phụ chỉ chiếc ghế gỗ chạy dài một bên bàn:
- Mời các ông ngồi, chồng tôi ra ngay bây giờ.
Miệng nói, tay vội thu dọn mấy chiếc chén đũa dơ trên bàn. Mặc dù bên ngoài trời nóng, ánh sáng còn gay gắt, nhưng trong nhà thiếu ánh sáng, không khí ẩm thấp và có mùi tanh tanh, có lẽ đồ ăn thức uống từ đống chén đũa dơ không rửa.
Người thiếu phụ rót nước từ chiếc bình thuỷ có hai chữ “Giải phóng” ra hai chiếc chén dơ bẩn, cắu ghét rồi mời chúng tôi uống nước. Chúng tôi cảm ơn nhưng ngần ngại không dám uống. Mời xong, người thiếu phụ đi vô trong nhà. Chúng tôi ngồi im không nói. Không khí nặng nề, ngột ngạt… Khoảng dăm phút sau, có tiếng hắng giọng, tiếng khạc nhổ đằng sau nhà, rồi tiếng chân bước nặng nề tiến về phía chúng tôi đang ngồi…
Quay ra cửa sau, thấy cán bộ Bình đi vô, chúng tôi vội đứng dậy. Bình lạnh lùng gật đầu chào chúng tôi rồi ngồi xuống khúc gỗ phía bên kia bàn. Anh Thu cất tiếng định nói, nhưng Bình dơ tay ra hiệu im lặng. Y rút gói thuốc trong túi áo, lấy một điếu, bật lửa hút, rồi thản nhiên nhét gói thuốc vô túi áo. Sau khi kéo một hơi thuốc thật dài, ém khói thuốc thật lâu, y ngửa cổ thở ra một làn khói mỏng rồi nói chậm rãi từng chữ:
- Các anh đi về chuẩn bị chiều mai thuyền các anh rời bến.
Anh Thu và tôi nhìn nhau không nói, nhưng cả hai cùng không giấu được sự ngạc nhiên. Thật ra, chúng tôi cũng biết, thấy chúng tôi đến gặp, Bình phải đoán ra ngay lý do vì điều đó chẳng có gì khó đoán. Nhưng khi nghe Bình nói, chúng tôi vẫn vừa ngạc nhiên vừa mừng. Anh Thu nói giọng có vẻ xúc động:
- Chúng tôi đến để cảm ơn cán bộ đã giúp đỡ….
Cán bộ Bình xua tay:
- Chẳng có ai ơn nghĩa gì với ai cả. Tôi chỉ làm nhiệm vụ cấp trên giao thôi…
Anh Thu nói ngay:
- Chúng tôi cũng muốn cảm ơn cấp trên…
Cán bộ Bình đứng dậy, ra vẻ đuổi khéo chúng tôi:
- Các anh muốn cảm ơn thượng cấp chúng tôi thì tốt nhất là các anh nên rời Trung Quốc sớm chừng nào hay chừng đó…
Thấy chúng tôi có vẻ ngần ngừ, bỗng nhiên cán bộ Bình cúi đầu, nói nhỏ:
- Hẹn gặp các anh ở Hồng Kông… Con vợ tôi nó cũng người Việt như các anh…
Nghe cán bộ Bình nói vậy, chúng tôi rất ngạc nhiên. Anh Thu định nói gì đó, nhưng cán bộ Bình đã ngẩng đầu nói lớn, giọng có vẻ sẵng:
- Lệnh trên là vậy. Các anh đi đi…
Chia tay cán bộ Bình, chúng tôi vội vã trở lại “cảng” Bắc Hải báo tin mừng “chiều mai sẽ ra khơi” cho mọi người biết. Tuy vậy, mọi người vẫn bán tín bán nghi. Ngay chúng tôi chính tai nghe cán bộ Bình nói, nhưng cũng không dám quả quyết trăm phần trăm ngày hôm sau thuyền sẽ rời bến.
Mãi đến trưa hôm sau, ông Đường chủ thuyền mới nhận được lệnh gọi lên phòng “quản lý cảng Bắc Hải”. Ông đi rồi, cả thuyền chúng tôi ai cũng phập phồng chờ đợi. Mọi người đều hy vọng những gì chúng tôi thông báo sẽ là sự thật. Quả nhiên, khoảng một tiếng đồng hồ sau, ông Đường trở lại hớn hở báo tin, tất cả mọi người chuẩn bị, đúng 5 giờ chiều, thuyền rời bến!
Sự thực, việc chuẩn bị cũng không có gì. Tất cả đồ đạc, lương thực, thực phẩm của chúng tôi đều có sẵn ở dưới thuyền. Điều duy nhất chúng tôi phải làm là tìm kiếm trong tất cả đồ dùng tư trang của mình những thứ gì có mang dấu vết của Trung Quốc. Từ giấy tờ, tiền bạc, tem thư, quần áo, kỷ vật, đến đồ ăn thức uống, hình ảnh… bất cứ thứ gì mua, hay được cho, tặng tại Trung Quốc đều phải gom lại nộp cho nhà chức trách, hoặc tự mình thiêu huỷ. Ngoài ra, ông Đường cũng đọc một tờ “huấn lệnh” có cả chục điều bắt chúng tôi phải thi hành.
Ông Đường cũng cho biết là đến 3 giờ chiều sẽ có cán bộ Trung Cộng xuống thuyền kiểm soát và thu hồi tất cả những thứ có mang dấu ấn của Trung Quốc. Ai vi phạm những điều ghi trong “huấn lệnh” sẽ bị chính quyền Trung Cộng lưu giữ vĩnh viễn.
Đồ đạc của tôi không có gì, tiền bạc cũng chẳng có. Chỉ có một số thư từ và cuốn nhật ký, trong đó có những trang lưu niệm bằng tiếng Hoa của ân nhân và bằng hữu ở Đông Hưng, Phòng Thành, tôi vô cùng trân trọng muốn bảo vệ bằng mọi giá. Vì vậy, ngay từ mấy ngày trước, tôi đã đóng gói tất cả những thứ đó và gửi bảm đảm sang Úc qua đường bưu điện.
Khoảng 4 giờ chiều hôm đó, hai người Trung Quốc mặc đồ công nhân, lên thuyền đóng cọc và buộc dây cáp. Sau đó, thuyền được lệnh nhổ neo, chạy tới khu tập trung cùng với khoảng hơn một chục chiếc thuyền khác. Tại đây, công nhân Trung Cộng lại lên thuyền nối dây cáp của thuyền với dây cáp chính. Sau khoảng một tiếng đồng hồ, hơn chục chiếc thuyền đã được nối liền với sợi cáp chính phía sau chiếc xà lan, và đoàn thuyền bắt đầu chuyến hải hành thẳng hướng tới Hồng Kông, do một chiếc ca nô dẫn đầu.
Nhìn đoàn thuyền ngon lành rẽ sóng giữa một vùng trời nước mênh mông, mặt biển phẳng lì như gương, phản chiếu ánh hoàng hôn vàng rực cả đất trời, tôi vô cùng cảm khái khi nghĩ tới những nguy hiểm, những may mắn đã trải qua; những hạnh phúc, hy vọng đang chờ đợi tôi ở phía trước; những khổ đau, đói khát, cùng cực phẫn uất, mà mấy chục triệu người Việt, trong đó có thân nhân bằng hữu của tôi, đang phải gánh chịu tại quê nhà. Lúc đó, tôi đâu có biết được, những khổ đau của những người Việt vượt biển vượt biên đang diễn ra qua muôn ngàn bi kịch trên biển đông, trong rừng rậm, núi cao… và ngay dưới mỗi mái nhà ở ngay trên quê hương Việt Nam. Lúc đó, vào giữa năm 1979, tôi cũng không thể ngờ được, tất cả những thảm kịch tôi đã chứng kiến trên quê hương Việt Nam, chỉ là bắt đầu của cả một đại bi kịch, vì trong suốt gần 30 năm sau đó, dưới sự kìm kẹp đàn áp của những người cộng sản vô thần, những thảm kịch diễn ra đối với dân tộc tôi ngày càng kinh hoàng, ghê rợn hơn, khủng khiếp hơn…
KỲ 109
Tối hôm đó, đoàn thuyền của chúng tôi được xà lan của Trung Cộng kéo thẳng một mạch từ Bắc Hải đến hải phận Hồng Kông khoảng hơn 10 tiếng đồng hồ. Suốt chuyến đi, chúng tôi không hề gặp một trở ngại nào, ngoại trừ một số người bị say sóng nhẹ.
Riêng tôi, chiều hôm đó, sau khi chiêm ngưỡng hoàng hôn trên biển cả trong tâm trạng của một người sắp thực sự được tự do, cho đến khi màn đêm buông phủ, tôi quay vô coi mấy người đánh cờ tướng so tài cao thấp, rồi mấy anh em ngồi uống trà, tán gẫu đến khoảng nửa đêm thì tôi quay ra ngủ.
Không nhớ ngủ được bao lâu thì tôi bị thức giấc vì tiếng loa the thé:
- Trật tự, trật tự. Yêu cầu bà con trật tự. Trật tự.
Tôi vội vã ngồi dậy thì thấy ở giữa thuyền có một người đàn ông đội chiếc mũ giống mũ công an Trung Cộng, nhưng không có sao, một tay cầm túi vải khá to, tay kia cầm chiếc loa bằng sắt tây đang hò hét:
- Yêu cầu mọi người ai ngồi đâu, ngồi yên đó. Không đi lại lộn xộn cho chúng tôi làm việc.
Y nói tiếng Việt xong, liền nói tiếng Hoa, cả tiếng Quảng lẫn tiếng Phổ thông. Xem ra lối ăn nói và cách làm việc của y rất thành thạo.
Anh Thịnh ngồi bên cạnh tôi thì thầm:
- Y đi thu tiền của Trung Cộng đấy. Ai có tiền Trung Cộng thì lấy hết ra trao cho y… Bao giờ sắp đến hải phận Hồng Kông cũng có trò thu tiền này…
Tôi ngạc nhiên hỏi anh:
- Mình sắp đến hải phận Hồng Kông rồi sao?
Anh Thịnh gật đầu:
- Chừng khoảng hơn tiếng nữa.
Lúc đó, tôi mới giật mình nhận ra, cả đoàn thuyền đã chạy chậm hẳn lại. Chiếc ca nô dẫn đầu đoàn thuyền, bây giờ chạy song song với thuyền chúng tôi với tốc độ rất chậm. Đèn pha trên chiếc ca nô quét ngang quét dọc sang thuyền chúng tôi và các thuyền khác.
Tiếng người đàn ông đội mũ lại vang lên:
- Mọi người chú ý, chú ý! Tất cả những ai có tiền bạc, giấy tờ, hình ảnh gì của Trung Quốc, hãy tự nguyện trao cho chúng tôi ngay bây giờ. Tôi xin nhắc lại, đây là lần cuối cùng. Bất cứ ai giấu diếm tiền bạc hay giấy tờ gì của Trung Quốc, đều bị cảnh sát Hồng Kông phát hiện và khi đó cả thuyền sẽ bị đuổi về. Khi đó, chính phủ và nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa chúng tôi cũng sẽ không tiếp nhận quý vị mà trả quý vị về cho cộng sản Việt Nam…
Y vừa nói thao thao bất tuyệt bằng cả ba thứ tiếng vừa cầm chiếc túi vải chậm rãi đi đến từng bàn tay đang chĩa ra để hứng những đồng tiền, giấy tờ, hình ảnh đủ loại…
Phần đứng trước viễn ảnh sớm muộn gì cũng được đặt chân lên Hồng Kông, phần đinh ninh một người sơ sót sẽ làm cả thuyền liên luỵ, nên mọi người trên thuyền đều tận tình đốc thúc nhau trút hầu bao, lấy tất cả tiền bạc giấy tờ hình ảnh của Trung Quốc bỏ vô chiếc túi vải…. Sau khoảng mươi phút đồng hồ, việc thu nhặt tiền bạc Trung Quốc trên thuyền chấm dứt, cũng là lúc, đoàn thuyền gần như dừng hẳn. Người đàn ông liền hô lớn bằng tiếng Hoa rồi khoát tay ra hiệu cho một thanh niên lực lưỡng đang đứng ở mũi thuyền. Lập tức, người thanh niên cúi xuống tháo sợi dây cáp nối giữa các thuyền. Sau đó, người đàn ông dơ cao chiếc đèn pin hướng về phía chiếc ca nô bấm ám hiệu. Chiếc ca nô liền quay mũi tiến về phía chiếc thuyền của chúng tôi. Khi đến gần, chiếc ca nô liền chuyển hướng, nhẹ nhàng chạy sát thành chiếc thuyền với tốc độ thật chậm, để người đàn ông và anh thanh niên từ trên thuyền nhảy sang ca nô… Sau đó chiếc ca nô tăng tốc chạy tiếp đến chiếc thuyền kế tiếp…
Ngay khi chiếc ca nô đi khỏi, ông Đường liền hô to một tiếng. Người thợ máy liền cho nổ máy, cả thân thuyền rung lên dữ dội và con thuyền bắt đầu lao về phía trước, tiếp tục cuộc hành trình trực chỉ Hồng Kông.
Không khí trên thuyền lúc này rất phấn khởi, mọi người đều cười nói vui vẻ, khiến tôi có cảm tưởng như đi trẩy hội đúng hơn là vượt biển đi tỵ nạn. Vì chỉ còn có hơn một tiếng đồng hồ nữa là tới hải phận Hồng Kông nên hầu hết mọi người đều không ngủ, chuyện trò nở như pháo ran. Mấy anh em chúng tôi đều tươi cười, chỉ có Hùng con của anh Tiến thì buồn rười rượi. Thấy Hùng buồn bã như vậy, chúng tôi cũng chạnh lòng nghĩ đến anh Tiến. Anh Thu vỗ vai Hùng an ủi:
- Cháu cứ yên trí đi. Ba cháu sớm muộn gì cũng sẽ gặp cháu ở Mỹ.
Hùng mỉm cười gượng gạo, mặt buồn như mếu, thẫn thờ không nói. Tôi ngạc nhiên hỏi anh Thu:
- Anh Tiến chịu ở lại Trung Quốc để “trường kỳ kháng chiến” chống cộng sản Việt Nam cho đến thắng lợi cuối cùng, làm sao mà anh bảo anh ta có thể đi Mỹ được?
Anh Thu cười:
- “Trường kỳ kháng chiến” cái gì. Cậu cứ tin tôi đi, cái “chính phủ Việt Nam lâm thời” đó chỉ sống sót ba bảy hai mốt ngày thôi. Hai thằng cộng sản cùng điếm thối với nhau thì chúng có thù nhau mấy chăng nữa cũng chỉ là tạm thời. Cậu phải hiểu, về mưu trí thủ đoạn, thì thằng Tàu không tài nào qua mặt được thằng cộng sản Việt Nam. Nhưng về sức mạnh thì muôn năm thằng Việt cộng không bằng phần mười thằng Trung cộng. Đã vậy, hai thằng lại chung biên giới với nhau cả ngàn cây số, thì sớm muộn gì thằng cộng sản Việt Nam cũng là vệ tinh của thằng cộng sản Trung Quốc. Rồi cậu coi, lão Tiến trước sau gì cũng lại khăn gói vượt biển sang Hồng Kông tỵ nạn cho coi.
Lời nói của anh Thu lúc đó thật có lý. Nhưng khi ấy tôi lại tin tưởng anh Tiến sẽ làm được một cái gì trong “chính phủ Việt Nam lâm thời”, chứ không khi nào anh Tiến lại cuốn gói đi tỵ nạn tiếp ở Hồng Kông như lời anh Thu nói. Vì vậy, tôi không đồng ý:
- Em thì em nghĩ anh Tiến giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, có kiến thức, có tham vọng chính trị, suy nghĩ chuyện gì cũng chín chắn, có trước có sau. Em nhớ anh ấy vẫn thường nói, đời thường cũng như chính trường, giống hệt như chơi cờ tướng… người cơ trí phải biết nghĩ trước hàng chục nước, để khi thắng thì biết tận lực khai thác thế thắng mạnh như chẻ tre, ồ ạt như nước lũ chảy về chỗ trũng; mà khi thua thì cũng có thể lui về thế thủ vững như núi.
Anh Thu cười:
- Cậu hiểu Tiến làm sao bằng tôi được. Tiến là người nói giỏi, gặp chuyện vừa vừa hạng trung thì hoàn thành xuất sắc. Nhưng đụng chuyện lớn sẽ gẫy liền à. Cậu có biết Mã Tốc bị Khổng Minh chém đầu vì thua ở Nhai Đình không? Tiến cũng giống Mã Tốc ở chỗ đó…
Chuyện Mã Tốc bị chém đầu, ai đọc truyện Tam Quốc cũng đều biết. Nhưng so sánh anh Tiến với Mã Tốc thì tôi thấy không đúng. Tuy vậy, tôi lặng im không nói gì. Lúc đó tôi đâu có ngờ, mấy năm sau, quả nhiên “chính phủ Việt Nam lâm thời” do Trung Cộng nặn lên tan như bọt xà phòng, và anh Tiến đã vượt biển sang Hồng Kông xin tỵ nạn, sau đó, đoàn tụ với con của anh tại Mỹ.
5 năm trước, khi đọc một bài viết có bút hiệu Phạm Thái Lai của Sàigòn Times trên Việt Báo Online, anh Tiến đã gọi điện thoại cho tòa soạn Sàigòn Times. Khi đó anh em vui mừng nhận ra nhau, hàn huyên đủ thứ chuyện, và khi ấy tôi mới biết, anh Thu đã qua đời trước đó không lâu…
Sau khi chuyện trò về anh Tiến được một lúc, tôi thấy người hơi mệt, liền ngả mình nghỉ ngơi một chút. Giữa lúc đang thiu thiu ngủ, bỗng tôi nghe có tiếng la:
- Hồng Kông, Hồng Kông, bà con ơi. Hồng kông kia rồi….
Tôi giật mình ngồi dậy, dụi mắt, giữa tiếng xôn xao la hét, huýt sáo ầm ĩ của mọi người trong thuyền. Nhưng chỉ vài tích tắc sau, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người trong thuyền đều im lặng cùng nhìn về một hướng. Tôi đứng dậy bước ra mạn thuyền nhìn theo và trong lòng vui mừng khôn tả khi thấy cả thành phố Hồng Kông vô cùng tráng lệ, với những tòa nhà chọc trời rực rỡ ánh đèn muôn hồng nghìn tía đã hiện ra ở chân trời. Trời lúc đó hãy còn tối đen, mặt biển lại yên tĩnh phẳng lặng như gương, nên thành phố Hồng Kông tráng lệ soi mình trên mặt biển trông thật diễm tuyệt, không bút giấy nào tả xiết.
Giống như tất cả mọi người, tôi im lặng say sưa ngắm thành phố Hồng Kông, biểu tượng của tự do và thịnh vượng đang ngày càng lớn dần. Sau những phút im lặng chiêm ngưỡng, mọi người lại ồn ào bàn tán sôi nổi. Tuy lúc đó, không một ai biết tương lai của mình sẽ ra sao, nhưng ai cũng vui mừng tin tưởng, cuộc đời của mình sẽ đổi thay, trở nên tốt đẹp hơn. Riêng tôi, một người tù vượt ngục, đang bị cộng sản truy lùng, phải sống ngoài vòng pháp luật, thì nay đứng trước hình ảnh tráng lệ của thành phố Hồng Kông, tôi đã xúc động đến rơi lệ…
Khoảng nửa giờ trôi qua, trời bắt đầu hửng sáng và thành phố Hồng Kông cũng hiện ra càng ngày càng rõ. Chiếc thuyền của chúng tôi cũng vẫn tiếp tục rẽ sóng băng băng tiến về phía Hồng Kông. Ngó ra chung quanh, tôi cũng thấy hai chiếc thuyền xa xa. Còn những chiếc thuyền khác thì quá xa, chỉ thấy những hình thù nhỏ xíu trên biển…
Thuyền của chúng tôi chạy tiếp được khoảng 15 phút thì bỗng nhiên mọi người la hét, xôn xao mà tôi không hiểu vì lý do gì. Còn đang ngạc nhiên thì ông Đường ào ào từ phía phòng lái ở phía sau chạy ra phía trước hối hả báo tin:
- Tàu tuần cảnh Hồng Kông!
Tôi giật mình nhìn ra, thì thấy không xa, một chiếc tàu sắt đang phăng phăng rẽ sóng lao tới. Trên tàu có quốc kỳ của Anh, của Hồng Kông và mấy loại cờ nữa không biết là cờ gì, cùng bay phấp phới. Không đầy mấy phút sau, tầu tuần cảnh Anh đã tiến đến gần thuyền của chúng tôi. Tiếng loa vọng lên rõ mồn một bằng tiếng Anh và tiếng Hoa:
- Chú ý! Chú ý! Đây là lực lượng tuần duyên Hồng Kông. Thuyền của quý vị đang xâm phạm trái phép hải phận Hồng Kông. Chúng tôi ra lệnh thuyền của quý vị đứng lại. Nếu trái lệnh, chúng tôi bắt buộc phải có hành động động đối phó ngay lập tức. Chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi ra lệnh thuyền của quý vị đứng lại…
Ông Đường chủ thuyền vội vã bảo tài công tắt máy. Lập tức tiếng máy im bặt, chiếc thuyền khựng lại, nhưng vẫn trôi từ từ về phía trước theo quán tính. Tất cả mọi người trên thuyền cũng đều im lặng, gương mặt ai cũng có vẻ căng thẳng chờ đợi…
Chiếc tàu tuần cảnh cũng giảm tốc độ khi đến gần thuyền chúng tôi. Trên boong tầu tôi thấy có 4 người lính mặc đồ rằn ri, súng ống nai nịt gọn gàng, trông rất oai nghiêm. Tuy nhiên, nhìn sắc diện của họ tôi ngạc nhiên khi thấy họ không phải là người Hoa. Sau này tôi mới biết, đó là lực lượng lính đánh thuê người Hồi Quốc được chính phủ Anh thuê mướn làm nhiệm vụ bảo vệ ăn ninh trật tự cho Hồng Kông.
Một người cầm chiếc loa điện loại xách tay, hướng loa về phía thuyền chúng tôi nói:
- Chú ý! Chú ý! Đây là lực lượng tuần duyên Hồng Kông. Xin quý vị cho biết, thuyền của quý vị có phải là thuyền tỵ nạn đi từ Việt Nam?
Nghe hỏi vậy, chúng tôi rất ngạc nhiên. Nhiều người trên thuyền chúng tôi lập tức reo hò, vỗ tay ầm ĩ, thay cho câu trả lời. Thì ra, trong thời gian mấy năm qua, thuyền tỵ nạn Việt Nam đã lũ lượt đổ vào Hồng Kông, nên tất cả các lực lượng tuần cảnh Hồng Kông đều quá quen thuộc mỗi khi gặp những chiếc thuyền như thuyền của chúng tôi.
Người cầm loa lại nói:
- Chú ý! Chú ý! Đây là lực lượng tuần duyên Hồng Kông. Chúng tôi yêu cầu mọi người trên thuyền im lặng, và cử ra một người trả lời các câu hỏi của chúng tôi.
Trong chớp mắt, ông Đường chủ thuyền đã chỉ định một thanh niên lực lưỡng thay mặt mọi người. Người cầm loa nói tiếp:
- Chú ý! Chú ý! Đây là lực lượng tuần duyên Hồng Kông. Chúng tôi hỏi, quý vị trả lời. Nếu đúng, quý vị dơ tay phải. Nếu không đúng, quý vị dơ tay trái. Quý vị đã rõ chưa? Nếu rõ, dơ tay phải…
Người thanh niên nhanh chóng dơ tay phải.
- Thuyền của quý vị chở người tỵ nạn ra đi từ Việt Nam, có đúng vậy không?
Người thanh niên dơ tay phải.
- Trên thuyền của quý vị có bất cứ loại vũ khí nào không? Nếu có, dơ tay phải, nếu không dơ tay trái.
Người thanh niên dơ tay trái.
- Trên thuyền của qúy vị có ai ốm đau, cần cấp cứu không? Nếu có dơ tay phải, nếu không dơ tay trái?
Người thanh niên vội dơ tay trái…
Cuộc đối đáp cứ như vậy diễn ra trong 10 phút đồng hồ. Sau đó, người cầm loa ra lệnh cho thuyền chúng tôi phải thu hồi tất cả mọi loại dao, kéo, bất kể dài ngắn, to nhỏ. Kế đến, người cầm loa dõng dạc tuyên bố:
- Chú ý! Chú ý! Đây là lực lượng tuần duyên Hồng Kông. Thuyền của qúy vị là thuyền chở người tự nhận mình là tỵ nạn đi từ Việt Nam. Nhưng hiện tại, trong thời gian chờ đợi cứu xét tư cách tỵ nạn của quý vị, quý vị sẽ bị đối xử như là những người xâm nhập hải phận Hồng Kông bất hợp pháp. Bây giờ, quý vị cho thuyền đi theo tàu của chúng tôi đến nơi tập trung những thuyền xâm nhập trái phép hải phận Hồng Kông….
Sau đó, tàu tuần cảnh Hồng Kông chạy trước, thuyền của chúng tôi chạy theo sau, cùng tiến vô hải cảng Hồng Kông….
KỲ 110
Thành phố Hồng Kông hiện ra ngày càng lớn và rõ, với tất cả vẻ sầm uất nhộn nhịp, khiến tất cả mọi người trên thuyền đều háo hức, nôn nao, xôn xao ầm ĩ, không bút nào tả xiết. Chúng tôi vui mừng và ngạc nhiên khi thấy tàu bè ra vô hải cảng Hồng Kông liên tục. Trên bầu trời thì phi cơ đủ loại của các hãng hàng không cất cánh và hạ cánh liên tục.
Khi chúng tôi thấy xe cộ chạy qua lại như mắc cửi trên đường phố Hồng Kông thì cũng là lúc thuyền của chúng tôi được hướng dẫn chạy vô một khu có đông đúc thuyền bè đủ loại của người tỵ nạn Việt Nam. Tôi ước lượng ở đó phải có khoảng 200 tới 300 chiếc thuyền. Xa xa trên mặt biển, về phía bên tay phải là một chiếc tàu sắt khổng lồ nằm nghiêng hẳn về một bên. Sau này tôi mới biết đó là tàu Thiên Vận (Skyluck), chuyên chở mấy ngàn người Việt tỵ nạn. Khi tàu cập bến Hồng Kông vào đầu tháng 2 năm 1979 thì bị từ chối, nên những người trên tàu đã đục tàu cho nước vô. Kết quả, chính quyền Hồng Kông bắt buộc phải để cho mọi người lên bờ, và cứu xét tư cách tỵ nạn. Nghe đâu tầu này đã rời Việt Nam vào ngày 24 tháng 1 năm 1979, trên đường đi tàu đã chuyển vàng sang tàu United Faith ngoài hải phận quốc tế trước khi nhập cảng Hồng Kông. Ngoài tàu Thiên Vận, chúng tôi còn thấy nhiều tàu sắt khác chở người tỵ nạn cũng nằm lác đác trên mặt biển, hoặc trên bãi cát. Riêng một chiếc tàu sắt loại trung bình thì vẫn buông neo ở biển, trên thuyền vẫn có đông đảo khoảng vài trăm người Việt. Phần đông những người này trông có vẻ trí thức, ăn mặc sang trọng, sống cách biệt với những người tỵ nạn ra đi từ các làng chài lưới ở Miền Bắc. Sau này tôi mới biết đó là chiếc tàu sắt chở người vượt biên đi từ Hà Nội, Hải Phòng.
Sau khi thuyền của chúng tôi thả neo xong, một chiếc ca nô chở một toán khoảng 10 cảnh sát Hồng Kông sắc phục chỉnh tề, súng ống gọn gàng, lên thuyền chúng tôi khám xét. Nhìn cảnh sát Hồng Kông chúng tôi phải công nhận họ ăn mặc rất đẹp, làm việc rất chuyên cần, cẩn thận và lịch sự nhưng rất kiên quyết. Sau một hồi lục lọi, kiểm tra tỷ mỉ, cuối cùng, cảnh sát Hồng Kông chỉ thu được có vài con dao nhỏ mũi nhọn, một chiếc giáo bằng tre đầu vót nhọn, và gần chục quả đấm sắt. Những quả đấm sắt này là loại vũ khí tự vệ được thanh niên Miền Bắc, nhất là ở Hải Phòng, Hà Nội hay sử dụng.
Khám xét xong, toán cảnh sát Hồng Kông yêu cầu thuyền chúng tôi cử ra ba người lên trên bờ làm việc. Lập tức ông Đường chủ thuyền cùng với anh Thu, người biết tiếng Anh, Pháp, có trình độ nhất trên thuyền, và anh Thịnh, một người rất tháo vát và biết chút ít tiếng Anh, đi theo toán cảnh sát xuống ca nô.
Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, ba người trở lại thuyền, và một cuộc họp quy tụ tất cả mọi người trên thuyền được tổ chức để nghe anh Thu trình bầy bằng tiếng Việt và ông Đường dịch lại bằng tiếng Hoa. Mọi người ai cũng hí hửng và nôn nóng chờ đợi…
Mở đầu, anh Thu nói:
- Thưa quý ông bà, anh chị em. Ba anh em chúng tôi đại diện mọi người trên thuyền lên gặp chính quyền Hồng Kông thì họ cho biết, giống như tất cả những thuyền chở người tỵ nạn Việt Nam nhập cảnh Hồng Kông, thuyền của chúng ta cũng bị họ coi là nhập cảnh trái phép. Vì vậy, chúng ta có thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ Hồng Kông, nếu chúng ta không được Liên Hiệp Quốc công nhận tư cách tỵ nạn…
Nghe đến đó, mọi người xôn xao hò hét, bàn tán. Không ai nghe ai cả. Mấy lần anh Thu dơ tay cho mọi người im lặng nhưng không được. Thấy vậy, anh Thịnh nhảy lên chiếc thùng gỗ nhỏ, vỗ tay thiệt lớn, rồi quát lên bằng tiếng Hoa, mọi người mới im lặng dần. Chờ thật yên lặng, anh Thu nói tiếp:
- Tôi yêu cầu mọi người trật tự lắng nghe tôi nói xong. Sau đó ai có ý kiến gì thì dơ tay…
Một hai người dơ tay muốn nói, anh Thu xua tay:
- Chờ tôi nói xong đã, quý vị hãy dơ tay. Như tôi đã nói, Liên Hiệp Quốc sẽ cứu xét tư cách tỵ nạn của chúng ta. Nếu được, chúng ta sẽ được lên bờ vô trại tỵ nạn ở, chờ các quốc gia khác phỏng vấn rồi đón nhận. Còn những ai không được Liên Hiệp Quốc công nhận là người tỵ nạn thì họ phải bị tống vô trại giam chờ trục xuất. Tuy nhiên, xin mọi người đừng lo, vì đó chỉ là thủ tục hành chánh… Cho đến nay, hầu hết những ai đi tỵ nạn bằng thuyền khi cập bến Hồng Kông đều được Liên Hiệp Quốc công nhận ngay tư cách tỵ nạn.
Mọi người ồ lên vỗ tay hoan hô rầm trời. Tiếng la ó, hò hét ầm ĩ… Chờ một lúc lâu, mọi người yên lặng trở lại, anh Thu mới nói về những đòi hỏi của chính quyền Hồng Kông và Liên Hiệp Quốc về trật tự, an ninh, kỷ luật…. Sau đó, anh cho biết, việc đầu tiên chúng tôi phải làm là kê khai họ tên, ngày tháng năm sanh, nơi sinh, quê quán, họ tên thân nhân và địa chỉ của thân nhân hiện đang ở ngoại quốc, cùng lý do vượt biên tỵ nạn… Chúng tôi cũng phải bầu ra một nhóm “hỏa thực” chuyên lo đi lấy cơm nước, thực phẩm (đường, sữa, mì gói, cá hộp…) và hoa quả của nhà thầu rồi đem về thuyền chia đều cho mọi người.
Ngay trưa hôm đó, chúng tôi được ăn bữa cơm đầu tiên do “đầu bếp Hồng Kông” nấu. Cơm trắng, ăn thoải mái. Thức ăn thì ba món đàng hoàng, toàn với thịt gà. Món mặn là thịt gà kho, rồi giá xào với lòng gà, và canh bí nấu với xương gà. Ăn xong có tráng miệng bằng trái cây, nho cam táo. Đang sống thiếu thốn ở Việt Nam và Trung Quốc, nay được ăn như vậy, chúng tôi đều vui mừng nghĩ mình thật là đế vương. Lúc đó, chúng tôi đâu có ngờ, trong suốt thời gian sau đó, chúng tôi cứ phải ăn hoài ba món đó. Chúng tôi ăn nhiều đến độ phát khiếp mỗi khi ngửi thấy mùi thịt gà là rùng mình, nghẹn họng, nuốt cái gì cũng không vô. Nhiều người phải xin muối để ăn với cơm chứ ăn thịt gà thì nuốt cơm không vô. Lý do khiến chúng tôi phải ăn thịt gà, nhất là lòng gà, vì những thứ này là đồ phế thải không phải trả tiền, nhà thầu lấy từ các xưởng làm thịt gà khổng lồ trên đất Hồng Kông.
Chiều hôm đó, ăn cơm xong, chúng tôi ghi tên tuổi của mình trên những tờ giấy đã in sẵn, kẻ thành từng cột. Như tôi đã kể cùng các bạn, trong thời gian vượt ngục và vượt biên, tôi phải dùng nhiều giấy tờ giả với tên giả khác nhau. Khi sang đến Trung Quốc, một nước theo chế độ cộng sản, cộng với những lo ngại có gián điệp của cộng sản Việt Nam trà trộn, nên tôi đã chọn tên Phạm Thái Lai. Nay được đặt chân lên Hồng Kông, tôi thấy cần phải khai tên thật của mình, vì mấy lẽ. Lẽ đầu tiên là ở Hồng Kông, vùng đất của tự do, tôi không còn lo sợ như ở Trung Quốc. Điều thứ hai là một khi khai tên thật, hồ sơ bảo lãnh của tôi cùng giấy tờ căn cước trước 1975 ở Miền Nam cũng như Miền Bắc sẽ hoàn toàn ăn khớp. Thêm vào đó, tôi nghĩ, đây là cơ hội cuối cùng cho tôi được lấy lại tên thật một cách dễ dàng, thoải mái. Tương lai, sau khi đến được quốc gia đệ tam, nếu tôi muốn lấy lại tên thật sẽ khó khăn, phức tạp hơn. Nhưng tôi không ngờ, việc tôi khai tên thật lại tạo khó khăn cho tôi ngay giờ phút đầu tiên ở Hồng Kông.
Khi tôi bước đến cạnh chiếc bàn nhỏ nơi anh Thu đang ghi chép tên của mọi người để khai tên Nguyễn Hữu Chí, mọi người đều ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, nhất là ông Đường, anh Thu và anh Thịnh. Anh Thu đang ghi tên, vội bỏ kính xuống nhìn tôi, hỏi giọng ngạc nhiên:
- Cậu tên là Phạm Thái Lai sao bây giờ khai Nguyễn Hữu Chí?
Tôi bình tĩnh phân bua ngắn gọn:
- Em tên thật là Nguyễn Hữu Chí. Đi vượt biên dùng giấy tờ giả nên phải ghi tên giả là Phạm Thái Lai.
Anh Thu lắc đầu:
- Sao suốt thời gian gặp tôi ở Trung Cộng, cậu không nói? Bộ cậu không tin tụi tôi sao?
Tôi chậm rãi nói:
- Không phải em không tin các anh. Nhưng ở đó em đâu có tin Trung Cộng. Hơn nữa, khi đó người Việt đầy rẫy, lỡ có tụi gián điệp Việt cộng trà trộn thì sao.
- Cậu nói vậy thì tôi tin. Nhưng cậu từ Trung Quốc đi với tên Phạm Thái Lai, bây giờ lại khai là Nguyễn Hữu Chí thì đâu có được. – Quay qua ông Đường, anh Thu hỏi – Tôi nói vậy có phải không ông chủ thuyền?
Ông Đường không nhìn tôi, nhưng gật đầu:
- Dạ bác Miền Nam nói như vậy rất đúng…
Anh Thịnh cũng ngọt ngào đỡ lời:
- A Lồi nên ghi tên Phạm Thái Lai đi cho xuôi chèo mát mái cho cả thuyền. Khai tên khác là cả thuyền bị lôi thôi. Lỡ ra là họ trục xuất tất cả về Việt Nam thì khổ…
Tôi cương quyết nói:
- Tôi thì tôi nghĩ khi mình rời khỏi Trung Quốc, chẳng có một giấy tờ nào ghi tên tôi là Phạm Thái Lai. Trong người tôi bây giờ cũng chẳng có giấy tờ gì chứng tỏ tôi là Phạm Thái Lai. Như vậy bây giờ tôi muốn khai tên gì chả được…
Ông Đường lắc đầu:
- Nỉ nói vậy là không đúng đâu lớ. Tuy mình không có giấy tờ gì nhưng trong thuyền này ai cũng biết nỉ là Phạm Thái Lai. Bây giờ nỉ khai là Nguyễn Hữu Chí, lỡ có người trong thuyền họ méc với chính quyền thì có phải rắc rối cho nỉ không nào.
Thấy mọi người đều phản đối như vậy, tôi càng cương quyết hơn:
- Tên thật của tôi là Nguyễn Hữu Chí. Tôi dùng tên giả để vượt biên. Bây giờ tôi muốn khai lại tên thật, tại sao quý vị lại phản đối? Tôi khai tên gì, tôi sẽ chịu trách nhiệm với tên đó. Ai không đồng ý với tôi, cứ việc báo cho chính quyền họ biết.
Anh Thu nhẹ nhàng:
- Vẫn biết là cậu khai tên gì thì cậu phải chịu trách nhiệm. Nhưng nếu cậu không cân nhắc kỹ lưỡng, việc cậu làm sẽ ảnh hưởng đến cả thuyền.
Anh Thịnh cũng nói thêm vô:
- Thôi thì bây giờ a Lồi cứ khai tên Phạm Thái Lai đi, để cả thuyền được chấp nhận tư cách tỵ nạn đã. Sau đó, a Lồi muốn khai lại tên cũng đâu có khó.
Tôi lắc đầu:
- Tôi không thể nào khai tên giả được. Tên giả chỉ dùng trong chế độ cộng sản. Còn ở đây, tự do dân chủ, tại sao tôi phải tiếp tục dùng tên giả. Vả lại, quý vị đã nghe anh Thu nói rồi đó, ngay dưới bản kê khai tên tuổi này cũng đã ghi rõ dòng chữ Hoa, Anh, là ai man khai sẽ bị tước bỏ tư cách tỵ nạn. Như vậy tại sao quý vị lại cứ buộc tôi phải khai gian là thế nào.
Ông Đường và anh Thu nhìn nhau hỏi ý. Cuối cùng anh Thu đeo kính nói, giọng lạnh lùng:
- Rồi, nếu cậu đã muốn vậy thì tôi ghi xuống đây là Nguyễn Hữu Chí…
Tôi nói gọn:
- Cảm ơn anh.
Ông Đường xen vô:
- Nếu a Lồi đã nhất quyết như vậy thì bác Miền Nam cứ ghi tên gì mà anh ấy muốn. Nhưng chúng tôi bắt buộc phải có bổn phận trình với nhà chức trách đầu đuôi nội vụ.
Tôi suy nghĩ một thoáng rồi nói:
- Tôi không phản đối điều đó. Ông cứ việc báo cáo, làm tròn bổn phận của ông, rồi tôi sẽ lên gặp họ trình bầy đầu đuôi. Tôi có đủ bằng chứng và giấy tờ để chứng minh với họ tên thật của tôi.
Anh Thịnh ngạc nhiên:
- Giấy tờ của anh đâu?
- Giấy tờ của tôi hiện ở Úc. Tôi đã gửi cho thân nhân của tôi từ khi tôi còn ở Việt Nam, trước khi tôi vượt biên…
Ngay chiều hôm đó, phái đoàn đại diện thuyền chúng tôi gồm anh Thu, ông Đường và anh Thịnh lại lên bờ nộp danh sách các thuyền nhân. Tôi đoán là phái đoàn ba vị đã báo cáo tình trạng tên thật tên giả của tôi. Quả nhiên, khoảng hai tiếng đồng hồ sau, một chiếc ca nô ghé thuyền tôi và tôi được lệnh theo họ lên bờ. Tới bờ, một người cảnh sát sắc phục nói tiếng Việt rất sõi, dắt tôi vô một căn phòng trong dẫy nhà tiền chế chạy dài. Trong phòng chỉ có hai người. Một ông người Hồng Kông mặc đồ cảnh sát, tướng tá bệ vệ, tuổi ngoài 50, ngồi sau chiếc bàn rộng bằng gỗ đen như mun. Đằng sau là hình Nữ Hoàng phóng to, choán cả bức tường. Ngồi bên tay phải của ông là một phụ nữ xinh đẹp, gương mặt tươi sáng, phúc hậu, tuổi khoảng trên dưới 25, mặc y phục người Hoa, nói tiếng Việt rất sõi làm thông ngôn.
Người đàn ông lịch sự mời tôi ngồi, rồi mời tôi uống nước. Sau đó, người phụ nữ lên tiếng, giọng Miền Nam ngọt ngào, lịch sự:
- Trước hết tôi xin giới thiệu với anh Chí, đây là Trần tiên sinh, trưởng phòng giám cảnh, đặc trách việc kiểm soát các thuyền nhân khi nhập cảnh Hồng Kông. Còn tôi tên là Hoa, đảm trách việc thông ngôn ở đây. Hôm nay Trần tiên sinh mời anh lên đây để được nghe anh giải thích lý do vì sao anh lại đổi tên từ Phạm Thái Lai thành Nguyễn Hữu Chí.
Chỉ tay vào chiếc máy ghi âm, cô Hoa tiếp lời:
- Để bảo đảm những lời giải thích của anh và việc dịch thuật của tôi được chính xác, chúng tôi phải ghi âm toàn bộ buổi nói chuyện hôm nay.
Một cách ngắn gọn, tôi trình bầy tên thật của tôi là gì, vì sao tôi mang tên Phạm Thái Lai, và những nguyên nhân nào khiến tôi quyết định lấy tên thật trở lại. Trong khi tôi nói, cô Hoa vừa ghi âm, vừa ghi chép. Sau khi tôi giải thích xong, cô quay sang phía Trần tiên sinh, rồi vừa nhìn vào trang giấy, vừa nói lại bằng tiếng Hoa. Trần tiên sinh nghe xong, liền nói lại bằng tiếng Hoa khoảng 5 phút đồng hồ. Cô Hoa cặm cụi ghi chép, xong quay sang hỏi tôi:
- Tên Nguyễn Hữu Chí là tên cha mẹ anh đặt từ khi nào?
Tôi đáp:
- Từ khi mới đẻ. Đó cũng là tên trong giấy khai sanh của tôi.
Cô Hoa hỏi tiếp:
- Anh có giấy khai sanh đó không?
Tôi gật đầu:
- Giấy khai sanh thì tôi không có. Nhưng tôi có bản tuyên thệ xin giấy thế vì khai sanh và giấy thế vì khai sanh do phường Phú Nhuận, tỉnh Gia Định cấp vào năm 1972. Giấy đó hiện không có ở đây, nhưng tôi có thể yêu cầu người nhà gửi tới đây trong vòng hai tuần lễ.
Câu chuyện đến đây trở nên phức tạp, và tôi phải dài dòng kể lại lý do vì sao tôi phải làm giấy tuyên thệ để xin giấy thế vì khai sanh ở trong Nam thay vì ở ngoài Bắc. Rồi tôi phải giải thích tôi mang tên Phạm Thái Lai từ khi nào. Ngoài tên Phạm Thái Lai, tôi còn dùng những tên giả nào khác. Thân nhân của tôi ở ngoại quốc là những ai, ở đâu, làm gì, họ có biết tên thật của tôi hay không…
 KỲ 111
Sau buổi làm việc về tên thật tên giả, tôi cũng vô cùng lo lắng không biết mình có gặp trở ngại gì không. Về thuyền, ngồi nghe anh Thu, anh Thịnh và một số người phàn nàn, bàn ra tán vào, tôi càng thêm hối hận, nghĩ bụng, biết vậy, tôi cứ khai tên Phạm Thái Lai thì lại đỡ rắc rối. Nhưng rồi mọi lo ngại của tôi cũng trôi qua, sau khi tôi nhận được giấy tờ của gia đình gửi qua. Và đó là lần duy nhất ban an ninh trại tỵ nạn Hồng Kông thẩm vấn tôi về tên thật tên giả.
Trong những ngày sống trên thuyền chờ đợi được lên bờ, chúng tôi nhìn quang cảnh thành phố Hồng Kông, ai cũng ham. Nhất là nhìn cảnh Hồng Kông về đêm, rực rỡ muôn hồng nghìn tía trong muôn vạn ánh đèn màu, chúng tôi ai cũng khao khát được đặt chân lên đường phố Hồng Kông, được hút một điếu thuốc thơm, được ăn một tô phở,… trong một tiệm ăn nào đó. Sau mấy đêm khao khát, bàn hươu tán vượn, một đêm nọ, Hải, Cường và Tuấn là những người bơi giỏi, rủ tôi cùng bơi vào Hồng Kông. Cả ba đều là người Việt gốc Hoa, nói tiếng Quảng rất giỏi, Hải lại có mấy ngàn đồng tiền Hồng Kông, nên chuyến “đột kích” của chúng tôi trót lọt.
Khoảng cách từ thuyền đến bờ chỉ độ nửa cây số, nên chúng tôi bì bõm bơi độ khoảng nửa tiếng là tới bờ. Lên bờ, cả ba đều ướt như chuột, quần áo lôi thôi lếch thếch, trông chẳng giống ai. Vậy mà khi chúng tôi ghé vô một quán nhỏ bên đường, trong quá có mấy thực khách, những chẳng một ai thèm để ý. Đúng là xã hội tự do, chẳng ai phải theo dõi ai hay dè chừng ai. Sau khi ăn uống no say, Hải mua mấy cây thuốc lá, bọc kín trong chiếc túi plastic để mang về thuyền, bán lại bằng tiền đô hoặc đổi bằng vàng. Sau này, khi lên trại tỵ nạn, tôi càng khâm phục khả năng buôn bán tháo vát của Hải. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở bất môi trường nào, kể cả tù tội, Hải đều có tiền, có hàng cho bất cứ ai cần, để rồi qua đó, Hải luôn luôn kiếm được những món tiền lời kếch xù.
Chúng tôi ở trên thuyền được khoảng 3 tuần lễ thì được lên bờ, lần lượt lên xe về trại tỵ nạn Kai Tak North. Trại tỵ nạn này nằm ngay cạnh phi trường Kai Tak nên chúng tôi thường xuyên nhìn thấy phi cơ lên xuống tấp nập, xe cộ ra vào phi trường như mắc cửi. Chỉ nhìn số lượng phi cơ lên xuống, ai cũng thấy nền kinh tế vô cùng trù phú của Hồng Kông. Anh Thịnh, người Hải Phòng có cái thú, mỗi buổi sáng, ngồi hút thuốc lào rồi đếm phi cơ lên xuống. Lâu lâu, anh lại vỗ đùi reo lên, “Mẹ tụi tư bản giỏi thiệt. Phi cơ ở Hồng Kông còn nhiều hơn xe hơi ở Hà Nội!”
Trại tỵ nạn Kai Tak North có hàng chục dẫy nhà tiền chế, trong mỗi nhà có hai dẫy giường 3 tầng bằng sắt chạy dài có thể chứa được cả một, hai trăm người. Mặt giường bằng gỗ ép, mỏng nhưng rất cứng và rộng rãi, có thể nằm 2 người thoải mái. Cơm nước có nhà thầu lo. Chúng tôi cứ mười người một nhóm, phân công nhau đi lấy cơm, thức ăn về chia nhau ăn. Cơm thì thoải mái, nhưng thức ăn thì ăn đi ăn lại toàn lòng gà xào rá, nên ai cũng ngán. Đối với những người có tiền thì mua thức ăn, nấu nướng thoải mái vì, mỗi nhà tiền chế đều có khu nấu nướng ở ngay bên hông. Ngoài ra, hàng quán mọc lên như nấm dọc theo các dẫy nhà, bán đủ các loại quà bánh, món ăn, với đủ hương vị, Việt Hoa, Bắc Trung Nam…
Thời gian đầu, chúng tôi sống như những người tù bị giam lỏng. Toàn trại Kai Tak North được rào kín bằng dây kẽm gai. Tuy nhiên, cảnh sát Hồng Kông canh phòng lơ là, nên chúng tôi vẫn ra ngoài đi chơi, ăn uống, xem phim, hoặc mua bán đồ ăn, thức uống đem vô.
Khoảng hơn tháng sau, chúng tôi được quyền đi làm kiếm thêm tiền, trong khi Liên Hiệp Quốc vẫn nuôi ăn ở với số tiền tài trợ y như cũ. Tôi đoán, thời gian đó, nhu cầu cần thợ của các hãng xưởng ở Hồng Kông lên rất cao, nên Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ và chính quyền Hồng Kông đã chấp thuận cho chúng tôi đi làm.
Tôi nhớ, mỗi buổi sáng, ai muốn đi làm, cứ ra cổng trại đứng, xe của các hãng xưởng đổ đến, đón người đi làm, chở tới tận hãng, đến chiều lại chở về tận cổng trại. Có những hãng xưởng trả tiền công ngay trong ngày, làm ngày nào lãnh tiền ngày đó. Hôm nay làm hãng này, không thích, mai chọn hãng khác, tha hồ. Có những hãng xưởng trả lương tuần, làm tuần nào trả lương tuần đó, không giữ lại một ngày nào. Tuần này làm hãng này, tuần sau nghe bạn bè rủ rê lại đi hãng khác làm. Ở Hồng Kông còn có một cái thú nữa là gọi điện thoại local thoải mái, không phải trả tiền, mà điện thoại thì có khắp mọi nơi.
Khi được phép đi làm, tôi rất mừng. Vì hoàn cảnh của tôi đã vượt ngục vượt biên, lại không có tiền bạc gì, nên trên suốt chặng đường đào tẩu luôn luôn được sự giúp đỡ của thân nhân, bạn bè và cả những người không hề quen biết. Tất cả những người đó đều nghèo túng, cực khổ, nên khi được những người đó bất chấp nguy hiểm, giúp đỡ, tôi vô cùng cảm động, lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm, một khi ra nước ngoài, có điều kiện đi làm là sẽ làm ngày làm đêm để kiếm tiền gửi về, đền đáp phần nào những ân sâu nghĩa nặng mà tôi đã may mắn được hưởng.
Công việc đầu tiên của tôi là vác những bao xi măng 50 kí lô từ dưới đất lên những cao ốc. Chủ nhân cứ tính bao trả tiền. Vác được bao nào lên, chủ trả tiền ngay bao đó. Vác 50 kí lô leo lên một tầng lầu tôi đã thấy bở hơi tai, chân tay lẩy bẩy, chỉ muốn té. Vậy mà ngày đầu tiên tôi phải vác lên đến tận tầng 12! Vác lên đến tầng 4, tôi đứng thở dốc, chỉ muốn xỉu, nhưng nghĩ đến những người thân yêu, những ân nhân đang khốn khổ ở quê nhà, tôi cắn răng leo tiếp. Ngày đầu tiên, cả 8 tiếng đồng hồ, tôi vác được có 3 bao. Ngày thứ hai, thê thảm hơn, chân tay, xương cốt đau nhức, tôi vác được có 2 bao. Sang ngày thứ ba cũng vậy. Đến ngày thứ năm, khá hơn, tôi vác được 3 bao như ngày đầu. Ngày tiếp theo tôi vác được 4 bao. Từ đó, tôi tự đặt kỷ lục, mỗi ngày phải vác tăng hơn ngày trước một bao. Đến ngày thứ 15, tôi vác ngon lành, 12 bao! Nhanh hơn cả công nhân Hồng Kông tới 4 bao.
Giữa lúc đang tính cố gắng đến cuối tháng sẽ vác nhiều gấp đôi người khác, thì Cường rủ tôi đi làm cho một hãng chuyên lắp ráp Radio Cassette Players cho xe hơi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn biết ơn sự giúp đỡ của Cường, vì nếu khi đó không có Cường, chắc tôi vẫn tiếp tục làm nghề vác xi măng suốt mấy tháng ở Hồng Kông và xương sống tôi sẽ gẫy giống như Huấn “lé” và Hải “mập”.
Cường người Đà Lạt, cao ráo, có bề ngoài nho nhã, thư sinh, nhưng cởi áo ra thì bắp thịt chỗ nào cũng cuồn cuộn, trông hệt như kiến càng. Cường chơi thể thao thường xuyên, nhất là nhảy dây, chơi xà, hít đất bằng một tay ngon lành,… nên Cường rất nhanh nhẹn và can đảm. Chính mắt tôi đã thấy có lần Cường đang ngồi đánh cờ với tôi ở trên trên chiếc giường trên cùng, bỗng nhiên cả người Cường như một thỏi cao su, bật lên cao, tay bám vào xà ngang bằng thép, rồi bay sang chiếc giường cách đó hơn chục thước, can một vụ ẩu đả giữa mấy tay du đãng.
Cường nói tiếng Hoa, Anh, Pháp giỏi, nên quen với Trần “sếnh sáng” và được làm ở ban trật tự, chuyên tuyển người khỏe mạnh đi làm ở các hãng xưởng ở Hồng Kông. Nhờ có Cường giới thiệu, tôi được vô làm hãng lắp ráp Radio Cassette Players. Làm ở đây lương cao, lãnh lương tuần và công việc làm dây chuyền thoải mái, nhưng đòi hỏi phải nhanh tay, lẹ mắt.
Phòng làm việc của tôi có khoảng 20 người, phần đông là phụ nữ. Chúng tôi ngồi quây quần quanh một chiếc bàn dài 15 thước, người nào làm phần việc của người đó. Đầu tiên, lấy sản phẩm được người bên trái làm xong đã đặt sẵn ở trên bàn, rồi lắp những bộ phận mà chủ đòi hỏi. Làm xong, đặt sản phẩm của mình sang bên phải để người bên phải lắp tiếp những bộ phận khác, rồi mình lấy tiếp sản phẩm khác ở bên tay trái… Cứ như vậy cho đến hết ngày.
Phần mới được làm quen với đời sống kỹ nghệ, phần sung sướng khỏi phải mang vác nặng leo cầu thang, phần nghĩ đến người thân hạnh phúc khi nhận được sự giúp đỡ, nên tôi làm việc rất tích cực và rất chịu khó. Lúc đầu, mỗi khi lắp các con ốc vào chiếc Radio Cassette Players, nếu không khéo, ốc xiết quá đà, tay tôi sẽ bị chảy máu. Còn nếu ốc xiết không chặt, phải tháo ra xiết lại cho đủ vòng. Làm chậm, số máy bên tay trái của mình sẽ ùn lên thành đống trong khi người bên phải không có máy làm phải ngồi chờ. Khi đó, đã lúng túng lại càng thêm lúng túng. Nhưng sau mấy ngày chịu khó ở lại tình nguyện làm thêm giờ cho quen việc mà không lấy tiền công, tôi quen việc nên làm nhanh dần. Cho đến khi phải nghỉ hãng để lên đường đi Úc, tôi đã làm nhanh đến độ kiêm luôn việc của cả người bên trái lẫn người bên phải, nên chủ hãng rất thích. Nhờ chịu khó làm việc như vậy, nên khi chia tay, ban giám đốc hãng đã trao cho tôi một giấy giới thiệu rất tốt, giúp tôi khi tới Úc kiếm được việc làm rất nhanh chóng.
* * *
Sau thời gian khoảng 6 tháng ở Hồng Kông, làm việc kiếm tiền và mua được gần chục thùng đồ gửi về Việt Nam, tôi được gia đình bà chị ở Úc bảo lãnh và được lên đường sang Úc vào đúng mùa Giáng Sinh năm 1979…. Như vậy là sau 8 năm trời, kể từ khi rời động Ông Đô, phía tây thị xã Quảng Trị, bắt đầu chuyến đi “Tìm Tự Do”, cuối cùng tôi đã thực sự đặt chân đến nước Úc tự do. Trên chặng đường đi tìm tự do đó, tôi cũng đã thực sự được tự do gần 4 năm ở trên đất Miền Nam, trước khi bị mất tự do sau ngày 30-4-75. Bốn năm đó tuy ngắn ngủi, nhưng đã giúp tôi thấy được xã hội Miền Nam tự do, dân chủ như thế nào, cuộc sống của người dân Miền Nam hạnh phúc ra sao. Vẫn biết, người dân Miền Nam được sinh ra và lớn lên trong xã hội Miền Nam vẫn ngày đêm than vãn, không hề thỏa mãn với tự do dân chủ của Miền Nam, để rồi trong đó có những người vì ngây thơ, đứng núi này trông núi nọ, chạy theo bánh vẽ tự do dân chủ do cộng sản nặn ra, đã vô bưng theo cộng sản, hoặc nằm vùng cho cộng sản; nhưng bản thân tôi nhờ sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản, nên tôi hiểu, tự do dân chủ của Miền Nam quả thật là thiên đường cho những người như tôi.
Trải qua những năm tháng sống ở Miền Nam, điều tôi thấy thiêng liêng và cao quý chính là tấm lòng đôn hậu, chất phác, nhân ái chan hoà của người dân Miền Nam, dù là người Miền Trung, Miền Nam hay Miền Bắc. Thể chế chính trị và văn hóa xã hội của Miền Nam thời trước 1975 đã để lại cho người dân Miền Nam những giá trị nhân bản vô cùng cao quý, khiến người Miền Nam biết yêu thương đùm bọc nhau, nhường cơm xẻ áo cho nhau, sẵn sàng cứu giúp những người khốn khó, cô quả, những kẻ hoạn nạn.
Cũng trong những tháng năm sống ở Miền Nam, và sau này sống ở Úc, càng sống tôi càng thấy xót xa thương cảm cho những người thân yêu của tôi, những bằng hữu của tôi, những ân nhân của tôi… phải sống lay lắt, tàn lụi trong đói khổ, đau đớn thiếu thốn trăm bề trên đất Miền Bắc. Nhưng thê thảm hơn cả những đau đớn đói khổ thiếu thốn về vật chất, người dân Miền Bắc sống trong chế độ cộng sản, còn phải chịu đựng những cực hình về tinh thần, những dầy vò về tình cảm, những chà đạp về nhân phẩm, khiến tình bằng hữu, nghĩa gia đình bị thui chột, và tất cả những gì được coi là đạo đức, luân lý, lễ giáo, đức tin… trong xã hội Miền Bắc, đều chỉ có thể tồn tại một cách thoi thóp, leo lét, trong sự che giấu và sợ hãi, hoặc chỉ có thể tồn tại trong lương tâm của những tù nhân chìm ngập trong vòng lao lý của cộng sản.
Tôi và bà xã. Tình cờ gặp nhau ở trại tỵ nạn Hồng Kông và cùng chung chuyến bay sang Úc. Ảnh chụp năm 2010.
Tôi và bà xã. Tình cờ gặp nhau ở trại tỵ nạn Hồng Kông và cùng chung chuyến bay sang Úc. Ảnh chụp năm 2010.

Em gái anh Dzoãn Bình và tôi chụp tại Bankstown, Sydney, Australia năm 2010.
Em gái anh Dzoãn Bình và tôi chụp tại Bankstown, Sydney, Australia năm 2010.
Nguyễn Hữu Chí: mộ Thầy
Nguyễn Hữu Chí: gia đình bà Nghĩa
Con trai và con dâu trong ngày cưới. Hiện đã có 2 cháu trai và gái.
Con trai và con dâu trong ngày cưới. Hiện đã có 2 cháu trai và gái.
HẾT PHẦN I
(Đón đọc tiếp : PHẦN II – Vì Tự Do Tôi Tranh Đấu!)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét