Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

HOÀNG HOA THÁM: HÙM THIÊNG YÊN THẾ


Trong trên dưới 80 năm thực dân Pháp đô hộ nước ta đã bùng lên rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân oanh liệt chống lại giặc ngoại xâm. Trong số này không thể không nhắc tới cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài tới gần 30 năm dưới sự lãnh đạo tài tình và quả cảm của Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám.

Khi cuộc khởi nghĩa này bị coi là thất bại vào đầu năm 1913, nhà chí sĩ Phan Bội Châu trong bài viết về Hoàng Hoa Thám đã buông những lời cảm khái: “Than ôi! Tội ác của kẻ thù ngút trời, thế lực của kẻ thù gấp hàng trăm lần, thế mà ông Hoàng một mình đã chống chọi được với chúng gần ba chục năm trời. Ông đã tập hợp và rèn luyện những con người tầm thường thành một đội ngũ mạnh mẽ và ông đường đường là một vị tướng quân tiếng tăm lừng lẫy. Ông thực xứng đáng là chân quốc nhân, xứng đáng là chân tướng quân!”.

Cho tới hôm nay vẫn đang tiếp tục tồn tại những giả thuyết khác nhau về cái chết của Hoàng Hoa Thám tháng 2/1913… Không ít nhà nghiên cứu tin rằng, có thể kẻ thù đã không thể sát hại được ông ở thời điểm đó…

Tinh anh hào khí
Nói một cách công bằng, đã không có nhiều tư liệu cụ thể xác thực về gia tộc của Hoàng Hoa Thám. Tựu trung tiểu sử của ông đã được xây dựng chủ yếu nhờ những câu chuyện truyền miệng mang đậm màu dã sử mà thành. Theo đó, thủ lĩnh của khởi nghĩa Yên Thế tên thật là Trương Văn Thám, sinh ra vào khoảng năm 1858.
Quê gốc của ông ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, rồi di chuyển lên xứ Đoài và sau cùng định cư ở Yên Thế, Bắc Giang. Cha ông là Trương Văn Thận, sớm qua đời trước khi ông được sinh ra.  Mẹ ông vì gia cảnh khó khăn phải nương tựa vào gia đình nhà họ Hoàng và vì thế, ông đã được đổi sang họ của cha nuôi. Khi Hoàng Hoa Thám lên sáu tuổi thì mẹ ông cũng mất.

Những người bạn cách mạng của Đề Thám.
Cha nuôi của ông sau đó cũng từ trần. Và thế là cậu bé Thám lớn lên trong những sự bần cùng, thậm chí không còn được học chữ. Tuy nhiên, ngay từ thuở ấu thơ, tính cách đặc biệt của một thủ lĩnh đã sớm bộc lộ ở đứa trẻ nhà nghèo nhưng sức vóc và trí tuệ hơn người này.

Trong tác phẩm Chân Tướng quân, nhà chí sĩ Phan Bội Châu trên cơ sở những tìm hiểu thực tế của mình, đã kể về thời thơ ấu của “quan lớn” (chữ mà người dân Yên Thế quen dùng để nói về Đề Thám) như sau: “Hồi còn nhỏ, tính nết hết sức đặc biệt, người khỏe mạnh béo tốt, sức mạnh như hổ, khi chơi đùa đánh nhau với trẻ chăn trâu thì có thể đánh nổi vài chục đứa. Hễ gây chuyện đánh nhau thì bọn trẻ phải chịu thua, không dám chống lại, vì chúng rất sợ. Nhưng quan lớn ngài rất ôn hòa, được anh em yêu mến, anh em trẻ chăn trâu cần gì, ngài cũng cung ứng cho. Ngài rất can đảm, tài trí, có thể bắt gà của người ta giữa ban ngày mà không ai biết… Bắt được bao nhiêu gà đều đem về cho các bạn chăn trâu, rồi tụ họp nấu nướng cùng ăn với nhau rất vui vẻ… Anh em trẻ chăn trâu thấy vậy là càng cảm phục, đi đứng chơi bời họ đều theo sự chỉ huy của Quan lớn. Trong đám người tầm thường bỗng nhiên có một cảnh tượng của ông vua mục đồng thì cũng là việc rất là kỳ lạ…”.

Các giai thoại đương thời cũng truyền lại rằng, cả cha mẹ đẻ lẫn cha nuôi của Hoàng Hoa Thám đều là những người trọng nghĩa khí và rất nồng nàn tinh thần yêu nước. Bởi vậy nên không có gì lạ khi mới 15-16 tuổi, Hoàng Hoa Thám đã “vứt bỏ roi trâu cởi áo tơi” (chữ dùng của Phan Bội Châu) gia nhập phong trào chống Pháp làm người lính chân đất.

Và cũng theo câu chuyện mà Phan Bội Châu đã kể, người anh hùng nông dân đã rất mau lẹ chứng minh được những tài năng vượt trội của mình: “Khi gặp địch thì xông lên chém được nhiều giặc. Chưa đầy nửa năm đã được thăng lên chức Đầu mục. Một năm sau được thăng lên chức Bang tá, có thể tự chỉ huy một cánh quân; gặp giặc giao chiến một mình có thể đảm đương được một mặt phòng ngự…”.

Trong bối cảnh thế giặc lúc đó mạnh như chẻ tre, còn bên ta thì các phong trào khởi nghĩa đều nhỏ lẻ và yếu ớt  nên rất dễ bị đàn áp. Vì thế, Hoàng Hoa Thám đã phải liên tục nay đây mai đó tìm nơi dụng võ. Khi quân Pháp chiếm thành Bắc Ninh tháng 3/1884, Hoàng Hoa Thám đã gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh.

Một năm sau đó, ông lại tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh, tức Hoàng Đình Kinh ở Lạng Giang. Khi Cai Kinh chết, Hoàng Hoa Thám lại tới nhập dưới cờ của nghĩa quân do Đề Nắm (Lương Văn Nắm) chỉ huy. Và chính trong lực lượng này, ông đã trở thành một vị tướng xuất sắc, rất được ba quân khâm phục.

Vì thế, khi Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại tháng 4/1882, Hoàng Hoa Thám đã mặc nhiên được suy tôn làm thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế, tập hợp lực lượng không chỉ từ dư binh của Đề Nắm để lại mà còn cả những toán quân khởi nghĩa khác trong vùng.

Có thể nói rằng, dưới sự chỉ huy của Đề Thám, nghĩa quân Yên Thế trong nhiều năm đã thực sự vươn lên thành một lực lượng kháng chiến uy lực, gây nên những tổn thất nặng nề cho thực dân Pháp và tay sai. Yên Thế đã trở thành một cái gai khó nhổ đối với kẻ xâm lăng, mặc dầu chúng đã đô hộ được hầu hết nước ta. Kẻ thù đã phải tập trung rất nhiều tinh binh và sử dụng vô số những mưu ma chước quỷ nhằm dập tắt ngọn lửa yêu nước của nghĩa quân. Bản thân Đề Thám cũng trở thành đối tượng tiễu trừ hàng đầu của thực dân Pháp.

Ái quốc bất vong
Trong bối cảnh cực kỳ bất lợi của thời vận lịch sử, nghĩa quân Yên Thế đã dần dà bị lâm vào thế kẹt. Đã không chỉ một lần Đề Thám gần như chuẩn bị sa chân vào những cái bẫy tinh vi mà kẻ thù đã giăng mắc. Có lúc tưởng như vận mệnh của ông cũng đã bị kết liễu bởi những trò phản bội từ chính những kẻ từng là thân cận nhất.
Thế nhưng, trong nhiều năm liền, “hùm thiêng Yên Thế” bằng những chiến thuật khôn khéo và quả cảm đã vượt qua được mọi nguy nan. Chỉ tới thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, lực lượng của Đề Thám mới trở nên ngày càng suy yếu. Đầu năm 1909, vào đúng ngày mùng 8 Tết Kỷ Dậu (29/1) viên thống sứ Bắc Kỳ đã huy động 15.000 quân chính quy và lính khố xanh cùng 400 lính dõng do Đại tá Bataille và viên đại thần khét tiếng Lê Hoan chỉ huy tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế.

Thế giặc hơn hẳn buộc Đề Thám phải vừa phản công, vừa rút lui. Phan Bội Châu đã mô tả: “Chỉ vì việc chiến tranh phát triển, thì nông nghiệp bỏ bê, lương thực bị cạn, đạn dược hết dần, các kiện tướng ở dưới trướng lần lượt bị tử trận. Thế của tướng quân ngày càng bị cô lập. Thủ hạ chỉ còn lại vài trăm người, thì dù sức có bạt được núi, khí thế có ngất trời mà thời vận không lợi, thì ngựa ô cũng đành phải chùn bước. Đã đến lúc tướng quân không thể không vào ẩn non sâu như thế của một con hổ nghỉ ngơi…”.

Tới cuối năm 1909, sau khi lực lượng nghĩa quân gần như bị tan rã hoàn toàn, Đề Thám phải đi ẩn náu trong những khu vực hiểm trở của núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc.

Từ năm 1909, Hoàng Hoa Thám đã phải vất vả mai danh ẩn tích để tránh khỏi sự truy sát của kẻ thù. Tuy nhiên, vòng vây của giặc ngày một thít chặt. Cho tới nay vẫn chưa có những kết luận thống nhất về những ngày cuối cùng của “Hùm thiêng Yên Thế” vì tồn tại nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của người anh hùng.

Theo một số nguồn tư liệu, vào đầu năm 1913, khi Hoàng Hoa Thám di chuyển tới vùng Hồ Lẩy trong khu rừng Tổ Cú, kẻ thù đã sắp đặt cho ba kẻ tay sai đến trá hàng để tiếp cận rồi bất ngờ hạ sát ông cùng hai chiến binh thân tín nhất vào sáng mồng 5 Tết năm Quý Sửu, tức ngày 10/2/1913. Sau đó, chúng cắt thủ cấp của ông mang ra bêu tại chợ Nhã Nam để thị uy dân chúng. Sau đó, chúng cho đốt đầu Đề Thám thành tro và đổ cả xuống ao mất dấu tích.

Tuy nhiên, nhiều người đã không tin rằng “Hùm thiêng Yên Thế” lại dễ dàng để cho kẻ thù hạ sát như thế. Và họ cũng không tin rằng, thủ cấp được bêu ra ở chợ Nhã Nam năm đó thực sự là thủ cấp Hoàng Hoa Thám. Theo Lý Đào, một cận vệ cũ của Đề Thám, một người từng nhiều lần cắt tóc cho ông, trên đầu “Hùm thiêng Yên Thế” vốn có một đường gồ chạy từ trán lên tới đỉnh, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm.

Thế nhưng, trên cái thủ cấp mà thực dân Pháp đã cắm ở chợ Nhã Nam lại không có đường gồ và cằm cũng không có râu. Một số người dân làng Lèo cho rằng, thủ cấp bị bêu đó chính là của sư ông trụ trì ở chùa Lèo. Sư ông này bình sinh có dung mạo khá giống với Đề Thám và  từ hôm cái thủ cấp trên bị bêu ra thì cũng không thấy ông sư xuất hiện ở đâu nữa.

Cho tới gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn cho rằng, có thể Hoàng Hoa Thám đã thoát được khỏi âm mưu ám sát ông cuối tháng 2/1913 và đã đổi tên họ để sống ẩn dật trong dân gian

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét