Trong trên dưới 80
năm thực dân Pháp đô hộ nước ta đã bùng lên rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân
oanh liệt chống lại giặc ngoại xâm. Trong số này không thể không nhắc tới cuộc
khởi nghĩa Yên Thế kéo dài tới gần 30 năm dưới sự lãnh đạo tài tình và quả cảm
của Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám.
Khi cuộc khởi nghĩa
này bị coi là thất bại vào đầu năm 1913, nhà chí sĩ Phan Bội Châu trong bài
viết về Hoàng Hoa Thám đã buông những lời cảm khái: “Than ôi! Tội ác của kẻ thù
ngút trời, thế lực của kẻ thù gấp hàng trăm lần, thế mà ông Hoàng một mình đã
chống chọi được với chúng gần ba chục năm trời. Ông đã tập hợp và rèn luyện
những con người tầm thường thành một đội ngũ mạnh mẽ và ông đường đường là một
vị tướng quân tiếng tăm lừng lẫy. Ông thực xứng đáng là chân quốc nhân, xứng
đáng là chân tướng quân!”.
Cho tới hôm nay vẫn
đang tiếp tục tồn tại những giả thuyết khác nhau về cái chết của Hoàng Hoa Thám
tháng 2/1913… Không ít nhà nghiên cứu tin rằng, có thể kẻ thù đã không thể sát
hại được ông ở thời điểm đó…
Tinh anh hào khí
Nói một cách công
bằng, đã không có nhiều tư liệu cụ thể xác thực về gia tộc của Hoàng Hoa Thám.
Tựu trung tiểu sử của ông đã được xây dựng chủ yếu nhờ những câu chuyện truyền
miệng mang đậm màu dã sử mà thành. Theo đó, thủ lĩnh của khởi nghĩa Yên Thế tên
thật là Trương Văn Thám, sinh ra vào khoảng năm 1858.
Quê gốc của ông ở xã
Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, rồi di chuyển lên xứ Đoài và sau cùng
định cư ở Yên Thế, Bắc Giang. Cha ông là Trương Văn Thận, sớm qua đời trước khi
ông được sinh ra. Mẹ ông vì gia cảnh khó khăn phải nương tựa vào gia đình
nhà họ Hoàng và vì thế, ông đã được đổi sang họ của cha nuôi. Khi Hoàng Hoa
Thám lên sáu tuổi thì mẹ ông cũng mất.
Những người bạn cách mạng của Đề Thám.
|
Cha nuôi của ông sau
đó cũng từ trần. Và thế là cậu bé Thám lớn lên trong những sự bần cùng, thậm
chí không còn được học chữ. Tuy nhiên, ngay từ thuở ấu thơ, tính cách đặc biệt
của một thủ lĩnh đã sớm bộc lộ ở đứa trẻ nhà nghèo nhưng sức vóc và trí tuệ hơn
người này.
Trong tác phẩm Chân
Tướng quân, nhà chí sĩ Phan Bội Châu trên cơ sở những tìm hiểu thực tế của
mình, đã kể về thời thơ ấu của “quan lớn” (chữ mà người dân Yên Thế quen dùng
để nói về Đề Thám) như sau: “Hồi còn nhỏ, tính nết hết sức đặc biệt, người khỏe
mạnh béo tốt, sức mạnh như hổ, khi chơi đùa đánh nhau với trẻ chăn trâu thì có
thể đánh nổi vài chục đứa. Hễ gây chuyện đánh nhau thì bọn trẻ phải chịu thua,
không dám chống lại, vì chúng rất sợ. Nhưng quan lớn ngài rất ôn hòa, được anh
em yêu mến, anh em trẻ chăn trâu cần gì, ngài cũng cung ứng cho. Ngài rất can
đảm, tài trí, có thể bắt gà của người ta giữa ban ngày mà không ai biết… Bắt
được bao nhiêu gà đều đem về cho các bạn chăn trâu, rồi tụ họp nấu nướng cùng
ăn với nhau rất vui vẻ… Anh em trẻ chăn trâu thấy vậy là càng cảm phục, đi đứng
chơi bời họ đều theo sự chỉ huy của Quan lớn. Trong đám người tầm thường bỗng
nhiên có một cảnh tượng của ông vua mục đồng thì cũng là việc rất là kỳ lạ…”.
Các giai thoại đương
thời cũng truyền lại rằng, cả cha mẹ đẻ lẫn cha nuôi của Hoàng Hoa Thám đều là
những người trọng nghĩa khí và rất nồng nàn tinh thần yêu nước. Bởi vậy nên
không có gì lạ khi mới 15-16 tuổi, Hoàng Hoa Thám đã “vứt bỏ roi trâu cởi áo
tơi” (chữ dùng của Phan Bội Châu) gia nhập phong trào chống Pháp làm người lính
chân đất.
Và cũng theo câu
chuyện mà Phan Bội Châu đã kể, người anh hùng nông dân đã rất mau lẹ chứng minh
được những tài năng vượt trội của mình: “Khi gặp địch thì xông lên chém được
nhiều giặc. Chưa đầy nửa năm đã được thăng lên chức Đầu mục. Một năm sau được
thăng lên chức Bang tá, có thể tự chỉ huy một cánh quân; gặp giặc giao chiến
một mình có thể đảm đương được một mặt phòng ngự…”.
Trong bối cảnh thế
giặc lúc đó mạnh như chẻ tre, còn bên ta thì các phong trào khởi nghĩa đều nhỏ
lẻ và yếu ớt nên rất dễ bị đàn áp. Vì thế, Hoàng Hoa Thám đã phải liên
tục nay đây mai đó tìm nơi dụng võ. Khi quân Pháp chiếm thành Bắc Ninh tháng
3/1884, Hoàng Hoa Thám đã gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh
Bắc Ninh.
Một năm sau đó, ông
lại tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh, tức Hoàng Đình Kinh ở Lạng Giang. Khi Cai
Kinh chết, Hoàng Hoa Thám lại tới nhập dưới cờ của nghĩa quân do Đề Nắm (Lương
Văn Nắm) chỉ huy. Và chính trong lực lượng này, ông đã trở thành một vị tướng
xuất sắc, rất được ba quân khâm phục.
Vì thế, khi Đề Nắm
bị thủ hạ Đề Sặt sát hại tháng 4/1882, Hoàng Hoa Thám đã mặc nhiên được suy tôn
làm thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế, tập hợp lực lượng không chỉ từ dư
binh của Đề Nắm để lại mà còn cả những toán quân khởi nghĩa khác trong vùng.
Có thể nói rằng,
dưới sự chỉ huy của Đề Thám, nghĩa quân Yên Thế trong nhiều năm đã thực sự vươn
lên thành một lực lượng kháng chiến uy lực, gây nên những tổn thất nặng nề cho
thực dân Pháp và tay sai. Yên Thế đã trở thành một cái gai khó nhổ đối với kẻ
xâm lăng, mặc dầu chúng đã đô hộ được hầu hết nước ta. Kẻ thù đã phải tập trung
rất nhiều tinh binh và sử dụng vô số những mưu ma chước quỷ nhằm dập tắt ngọn
lửa yêu nước của nghĩa quân. Bản thân Đề Thám cũng trở thành đối tượng tiễu trừ
hàng đầu của thực dân Pháp.
Ái quốc bất vong
Trong bối cảnh cực
kỳ bất lợi của thời vận lịch sử, nghĩa quân Yên Thế đã dần dà bị lâm vào thế
kẹt. Đã không chỉ một lần Đề Thám gần như chuẩn bị sa chân vào những cái bẫy
tinh vi mà kẻ thù đã giăng mắc. Có lúc tưởng như vận mệnh của ông cũng đã bị
kết liễu bởi những trò phản bội từ chính những kẻ từng là thân cận nhất.
Thế nhưng, trong
nhiều năm liền, “hùm thiêng Yên Thế” bằng những chiến thuật khôn khéo và quả
cảm đã vượt qua được mọi nguy nan. Chỉ tới thập niên đầu tiên của thế kỷ XX,
lực lượng của Đề Thám mới trở nên ngày càng suy yếu. Đầu năm 1909, vào đúng
ngày mùng 8 Tết Kỷ Dậu (29/1) viên thống sứ Bắc Kỳ đã huy động 15.000 quân
chính quy và lính khố xanh cùng 400 lính dõng do Đại tá Bataille và viên đại
thần khét tiếng Lê Hoan chỉ huy tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế.
Thế giặc hơn hẳn
buộc Đề Thám phải vừa phản công, vừa rút lui. Phan Bội Châu đã mô tả: “Chỉ vì
việc chiến tranh phát triển, thì nông nghiệp bỏ bê, lương thực bị cạn, đạn dược
hết dần, các kiện tướng ở dưới trướng lần lượt bị tử trận. Thế của tướng quân
ngày càng bị cô lập. Thủ hạ chỉ còn lại vài trăm người, thì dù sức có bạt được
núi, khí thế có ngất trời mà thời vận không lợi, thì ngựa ô cũng đành phải chùn
bước. Đã đến lúc tướng quân không thể không vào ẩn non sâu như thế của một con
hổ nghỉ ngơi…”.
Tới cuối năm 1909,
sau khi lực lượng nghĩa quân gần như bị tan rã hoàn toàn, Đề Thám phải đi ẩn
náu trong những khu vực hiểm trở của núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc.
Từ năm 1909, Hoàng
Hoa Thám đã phải vất vả mai danh ẩn tích để tránh khỏi sự truy sát của kẻ thù.
Tuy nhiên, vòng vây của giặc ngày một thít chặt. Cho tới nay vẫn chưa có những
kết luận thống nhất về những ngày cuối cùng của “Hùm thiêng Yên Thế” vì tồn tại
nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của người anh hùng.
Theo một số nguồn tư
liệu, vào đầu năm 1913, khi Hoàng Hoa Thám di chuyển tới vùng Hồ Lẩy trong khu
rừng Tổ Cú, kẻ thù đã sắp đặt cho ba kẻ tay sai đến trá hàng để tiếp cận rồi
bất ngờ hạ sát ông cùng hai chiến binh thân tín nhất vào sáng mồng 5 Tết năm
Quý Sửu, tức ngày 10/2/1913. Sau đó, chúng cắt thủ cấp của ông mang ra bêu tại
chợ Nhã Nam để thị uy dân chúng. Sau đó, chúng cho đốt đầu Đề Thám
thành tro và đổ cả xuống ao mất dấu tích.
Tuy nhiên, nhiều
người đã không tin rằng “Hùm thiêng Yên Thế” lại dễ dàng để cho kẻ thù hạ sát
như thế. Và họ cũng không tin rằng, thủ cấp được bêu ra ở chợ Nhã Nam năm
đó thực sự là thủ cấp Hoàng Hoa Thám. Theo Lý Đào, một cận vệ cũ của Đề Thám,
một người từng nhiều lần cắt tóc cho ông, trên đầu “Hùm thiêng Yên Thế” vốn có
một đường gồ chạy từ trán lên tới đỉnh, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm.
Thế nhưng, trên cái
thủ cấp mà thực dân Pháp đã cắm ở chợ Nhã Nam lại không có đường gồ
và cằm cũng không có râu. Một số người dân làng Lèo cho rằng, thủ cấp bị bêu đó
chính là của sư ông trụ trì ở chùa Lèo. Sư ông này bình sinh có dung mạo khá
giống với Đề Thám và từ hôm cái thủ cấp trên bị bêu ra thì cũng không
thấy ông sư xuất hiện ở đâu nữa.
Cho tới gần đây, một
số nhà nghiên cứu vẫn cho rằng, có thể Hoàng Hoa Thám đã thoát được khỏi âm mưu
ám sát ông cuối tháng 2/1913 và đã đổi tên họ để sống ẩn dật trong dân gian
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét