KỲ 41
Thật tôi không ngờ, chỉ vì nắm
đấm hù doạ của tiểu đội trưởng Q. đã khiến tài xế đổi ý, và nhờ vậy đã giúp tôi
thoát nạn. Lúc đó, tôi cũng không hiểu tại sao bỗng dưng tiểu đội trưởng Q. lại
dơ nắm đấm hù doạ viên tài xế. Tôi chỉ biết Q. là người thiểu số, thuộc thành
phần cảm tình đảng, rất mù quáng, cuồng tín, trung thành với “đảng Bác” vô
cùng. Vốn là người Nùng, Q. rất khỏe, tóc mọc thẳng và cứng như rễ tre, lông
mày rậm như hai con sâu róm, hai mắt lồi như hai con ốc nhồi, lòng trắng đầy
gân máu, mỗi khi y tức giận điều gì, cả cặp mắt của y bỗng đỏ ngầu, tiếng nói
của y trở nên lắp bắp, lồng ngực của y phập phồng như hai tấm phản gặp cuồng
phong, và khi cơn giận bùng nổ, y sẵn sàng đập phá bất cứ thứ gì có ở trước
mắt, bất chấp hậu quả. Trong tiểu đội tôi, ai cũng kinh hãi khi thấy Q. nổi
giận. Nhưng tối hôm đó, tôi không
hiểu sao Q. lại dơ nắm đấm về phía người tài xế. Thú thực, lúc đầu khi thấy Q.
dơ nắm đấm về phía viên tài xế, tôi hoảng hốt, tưởng Q. biết có tôi ngồi trên
xe, nên vô tình, vội thu người lại. Đến khi xe chạy qua, tôi mới hiểu, nắm đấm
của Q. khi đó là dành cho tài xế. Nhưng tại sao Q. lại dơ nắm đấm dọa tài xế,
thì quả tình lúc đó tôi không hiểu. Mãi mấy tháng sau, khi trở lại đơn vị “nạp
mạng” để phải trải qua những cuộc đấu tố dai như đỉa của đơn vị, tôi mới biết,
đêm hôm đó, trên chặng đường truy đuổi tôi suốt 2 tiếng đồng hồ trước đó, toán
bộ đội do Q. chỉ huy đã nhiều lần vẫy xe xin quá giang, nhưng không lần nào
thành công. Vì thế, khi gặp chiếc xe tôi “quá giang” lậu, Q. vừa chán, vừa tức
giận không thèm xin quá giang, vì y đinh ninh có xin quá giang cũng không thành
công. Không những thế Q. còn dở thói côn đồ, dơ nắm đấm hù doạ và chửi bới viên
tài xế. Q. không thể ngờ, chính thói côn đồ của y đã giúp tôi vượt qua được một
cửa ải nguy hiểm do y giăng mắc.
Thoát khỏi nguy hiểm lần này,
tôi vừa mừng vừa lo. Tôi thấy suốt từ lúc rời khỏi đơn vị cho đến giờ, tôi đã
gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng toàn gặp những may mắn. Tôi biết, những may mắn
như vậy sẽ không thể đến mãi, và không sớm thì muộn, tôi sẽ phải gặp rủi ro. Vì
vậy, tôi cần phải cẩn thận thật nhiều trong những chặng đường sắp tới, vì những
rủi ro nguy hiểm đang chờ đợi tôi.
Xe chạy được khoảng nửa tiếng
đồng hồ nữa trong đường rừng, tôi bỗng thấy phía trước, có 3 người đeo súng,
đang đạp xe cùng hướng xe chạy. Tôi linh cảm, 3 người lính đó cũng đang trên
đường truy đuổi tôi. Nhưng vì trời tối, ánh đèn pha của xe lại không chiếu xa
(vì sợ máy bay Mỹ oanh tạc), nên tôi không thể nhận ra họ là ai. Sau này, khi
trở lại đơn vị, tôi mới biết, linh cảm của tôi là đúng. Thì ra, sau khi ra lệnh
cho Q. tiểu đội trưởng mang nửa tiểu đội đi bộ truy đuổi tôi, ban chỉ huy đại
đội nhận ra, dùng người đi bộ đuổi người đi bộ, khó có cơ hội đuổi kịp, nên đã
cho 3 người lính trinh sát đi xe đạp đuổi tôi cho nhanh. Nhưng họ đã không nghĩ
tới 2 điểm quan trọng. Một, khi xuống tới đường lộ, tôi đã không dại dột rẽ
phải về hướng bắc để đi thẳng xuống đồng bằng ngay. Trái lại, tôi đã rẽ trái đi
về hướng nam khoảng mấy cây số, rồi chui vô rừng rậm nằm nghỉ, khoảng hai
tiếng, trong khi cả hai toán bộ đội truy đuổi tôi vẫn tiếp tục lao về hướng
bắc, và càng đi thì họ lại càng cách xa tôi mà không hề hay biết. Điểm quan
trọng thư hai họ không ngờ tới là tôi có thể “quá giang lậu” một trong những
chiếc xe từ nam ra bắc. Chính hai yếu tố bất ngờ này đã giúp tôi thoát khỏi
cuộc truy lùng của đơn vị.
Nhưng đó chỉ là những may mắn
bước đầu. Trước mắt tôi sẽ còn phải đối phó với rất nhiều khó khăn. Dĩ nhiên,
khi cả hai toán bộ đội truy đuổi tôi đều không bắt được tôi, họ sẽ tìm cách báo
cho ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn và có thể cả sư đoàn biết để đối
phó. Lúc ấy, họ sẽ đoán ra được, tôi đã quá giang một chiếc xe nào đó, và sẽ
tìm cách chặn xét tại các trạm gác giao thông ở các bến xe, bến phà. Đây là
điều tôi lo xa, chứ thực ra tôi cũng biết, đối phó với một người “bộ đội quèn”,
cấp bậc binh nhì như tôi, chưa chắc gì ban chỉ huy đại đội đã báo cáo lên
thượng cấp trong vòng 48 tiếng đồng hồ đầu tiên. Thông thường, những vấn đề
nghiêm trọng như đảo ngũ, rã ngũ, quậy phá nhà dân nơi đóng quân, “hủ hoá”, hay
có xung đột, ẩu đả với cán bộ, công an của chính quyền an địa phương… ban chỉ
huy đại đội, hay tiểu đoàn, thường giấu diếm, cố gắng giải quyết trong nội bộ,
để khỏi ảnh hưởng đến thành tích thi đua của đơn vị. Sau 48 tiếng đồng hồ, ban
chỉ huy đại đội hay tiểu đoàn không giải quyết được nội vụ, lúc đó họ mới báo
cáo thượng cấp. Thêm vào đó, mạng lưới thông tin trong quân đội cũng như xã hội
dân sự ở Miền Bắc lúc đó còn rất thô sơ, lạc hậu. Điện thoại vô tuyến cũng như
hữu tuyến chỉ dùng để liên lạc giữa các đơn vị tại mặt trận. Còn tại hậu cứ,
việc sử dụng những thứ đó rất hạn chế, nhất là khi liên lạc với chính quyền dân
sự, vì trang bị của chính quyền dân sự rất thô sơ. Vì thế, tôi tin tưởng trong thời
gian 48 tiếng đồng hồ đầu tiên, dù cho có dự đoán được khả năng tôi quá giang
xe trên đường đào thoát, ban chỉ huy đại đội không đủ khả năng, cũng như thẩm
quyền để điều động một cuộc truy lùng rộng khắp tại các trạm gác ở các bến xe,
bến phà.
Nghĩ đi đã vậy, nghĩ lại, tôi
thấy không gì bằng sự thận trọng trong mọi tình huống. Lúc đó, tôi đã có sẵn
trong người giấy tờ công tác do chính sư đoàn trưởng cấp với chữ ký và con dấu
đầy đủ. Ngoại trừ tên giả do tôi phịa ra, còn tất cả đều là thật 100%. Tôi đoán,
nếu đơn vị có báo cho các trạm gác biết có người đào ngũ tên là Nguyễn Hữu Chí,
thì họ cũng không thể ngờ được, tôi lại có sự vụ lệnh thật với tên giả, không
phải là tên Nguyễn Hữu Chí. Tôi cũng xin thưa thêm để quý độc giả hiểu, thời
buổi đó, ở Miền Bắc, chế độ CS kiểm soát con người vô cùng chặt chẽ, mà không
cần đến giấy tờ, thẻ căn cước. Bằng chính sách kiểm soát chặt chẽ lương thực,
thực phẩm; cộng với ảo tưởng của người dân đối với chế độ CS, đã sản sinh ra cả
một mạng lưới “công an nhân dân, mỗi người dân là một người công an” bao trùm
tất cả mọi nơi, mọi lúc. Chính vì hai yếu tố quan trọng này, nên trong mọi sinh
hoạt, người bộ đội chỉ có những giấy tờ tuỳ thân rất đơn giản, đánh máy trên
một tờ giấy nhàu nát, đen đủi, hoặc không có một thứ giấy tờ gì trong người,
ngoại trừ đơn vị trưởng, khi thi hành công vụ. Trong hoàn cảnh đó, tôi tin
tưởng, với sự vụ lệnh thật do chính sư đoàn trưởng cấp, tôi sẽ qua mặt dễ dàng
các trạm gác từ Thanh Hoá, Nghệ An, trở ra Hà Nội. Riêng với những trạm gác tại
vùng tỉnh Quảng Trị, tôi vẫn lo ngại, có thể gặp người quen của đơn vị, hoặc
biết đâu, những người được lệnh đang truy đuổi tôi, nhờ một sự may mắn nào đó,
có thể quá giang được xe, đến được những trạm gác đó trước tôi, đóng chốt chờ
tôi tới nộp mạng. Nghĩ như vậy, tôi thấy tốt nhất vẫn là tránh tất cả những
trạm gác ở các bến phà, bến xe. Nếu có đi xe khách, tôi sẽ không mua vé ngay
tại bến, vì nơi đó, công an, bộ đội luôn luôn hiện diện. Thay vì vậy, tôi chọn
giải pháp đợi xe ở một nơi cách bến xe khoảng một, hai cây số, rồi vẫy xe quân
sự đi nhờ, hoặc vẫy đón xe khách rồi trả tiền vé.
Xe chạy tiếp khoảng 4 tiếng
đồng hồ thì trời hửng sáng. Đến lúc đó, người tài xế vẫn không hề hay biết,
trong thùng xe phía sau có một người “quá giang”. Nhìn đường xá, tôi biết,
khoảng hai tiếng nữa, xe sẽ qua phà. Vì lâu ngày quá, nên tôi không còn nhớ tên
của bến phà này, mong quý độc giả thông cảm. Đến lúc này, tôi thấy đã đến lúc
cần phải làm quen với tay tài xế và cho biết, mình đã “quá giang lậu” để xem
thái độ của y như thế nào. Nếu thuận lợi, tôi sẽ quá giang xe của y đi tiếp,
càng xa càng tốt, trên chặng đường ra bắc. Còn nếu không thuận lợi, tôi sẽ khéo
léo chia tay, tìm xe khác quá giang.
Tôi phải làm như vậy là vì tại
các trạm gác ở các bến phà bao giờ cũng kiểm soát rất nghiêm ngặt các xe cộ và
người qua lại. Tại những trạm gác này, nếu tôi tiếp tục ngồi trên xe, tôi sẽ bị
phát giác dễ dàng, và khi đó sẽ rất bất lợi cho tôi, dù tôi có xuất trình giấy
tờ hợp lệ. Còn nếu như tôi xuống xe, trình giấy tờ đầy đủ tại trạm gác, tôi có
thể rủi ro bị người của đơn vị đóng chốt ở đó phát hiện. Tốt nhất, khi xe xếp
hàng chờ xuống phà, mọi người trên xe phải xuống xe, xếp hàng trình giấy tờ,
tôi sẽ tìm cách, tuỳ cơ ứng biến, lẩn trốn việc trình giấy tờ.
Thông thường việc trốn trình
giấy tờ là điều rất khó tại các trạm gác. Nhưng nếu tinh ý một chút, ta có thể
qua mặt lính gác một cách dễ dàng, bằng cách làm những việc sau đây. Thứ nhất
là đừng có mang bất cứ hành lý gì trong tay khi đi lại. Thứ hai, nên cởi trần,
hoặc chỉ mặc áo lót. Thứ ba, giữ thái độ bình thản, nhàn tản của người địa
phương. Quả nhiên, mỗi khi làm như vậy, tôi đều thản nhiên đi qua trạm gác, mà
không hề bị xét hỏi giấy tờ.
Khoảng 7 giờ sáng, xe dừng lại
tại bến phà đầu tiên. Trước mặt tôi về phía bên phải là một dẫy xe cộ đủ loại
tới khoảng 20 chiếc đang chờ kiểm soát giấy tờ. Phía bên trái là đoàn người dài
tới hơn trăm thước cũng đang xếp hàng chờ kiểm xét giấy. Giữa đường, lác đác
một số người đi lại, ăn mặc đủ hình đủ kiểu, nhưng tất cả đều rách rưới, sầu muộn
và đói khổ. Họ là những phu khuân vác, người bán hàng rong, người ăn xin, người
đi gánh nước, người đi tắm giặt, hay đánh cá về muộn…
Tôi nhảy xuống xe, nhưng ba lô
vẫn để lại trong thùng xe. Sau khi quan sát cách ăn mặc, đi đứng của người địa
phương, tôi kín đáo cởi chiếc áo bộ đội, vắt lên vai, chỉ mặc chiếc có chiếc áo
lót. Tiếp đến, tôi cởi luôn đôi giầy, buội giây giầy của hai chiếc vô một, rồi
đi chân đất, quần xắn móng lợn bên cao bên thấp… Xong tôi thản nhiên lững thững
đi theo một người đàn ông quảy hai chiếc xọt xuống bờ sông. Tôi đi qua trạm
gác, liếc vô thấy mấy người lính gác đang chúi mũi lo kiểm tra giấy tờ đoàn
người, không một ai thèm ngẩng đầu ngó chúng tôi. Khi xuống đến bến sông, tôi
lặng lẽ bước lên chiếc phà, không một ai để ý, và cũng chẳng một ai quan tâm.
Trung bình mỗi chuyến phà chỉ chở được khoảng 10 chiếc xe hơi, còn xe đạp và
người thì không giới hạn. Sau khi sang được bên kia sông, tôi phải chờ cho
chiếc xe tôi “quá giang” qua phà, rồi tìm cách kín đáo leo lên xe đi tiếp…
KỲ 42
Sau khi trải qua những nguy
hiểm ban đầu, trên suốt chặng đường từ Quảng Bình về đến nhà, với tờ giấy phép
có chữ ký của sư đoàn trưởng, và con dấu của sư đoàn, tôi không hề gặp khó khăn
trở ngại nào. Nhưng điều khiến tôi lo ngại bây giờ, chính là những nguy hiểm
tại địa phương, một khi tôi về đến nhà. Trên đường đi, tất cả các trạm gác đều
không biết rõ tôi là ai, nên với giấy tờ giả mạo, tôi dễ dàng qua mặt được họ.
Hơn nữa, tôi chỉ là một trong số hàng chục ngàn bộ đội trốn đơn vị về thăm nhà,
nên đơn vị của tôi không thể nào mở cuộc truy lùng tôi trên mọi tuyến đường của
Miền Bắc. Tuy vậy, tôi biết chắc chắn, đơn vị của tôi sẽ gửi giấy báo tôi đào
ngũ về tận địa phương. Vì sống trong một xã hội khép kín cộng với chế độ tem
phiếu, và guồng máy kiểm soát của đảng và nhà nước cộng sản bao trùm mọi mặt
của cuộc sống, nên hầu hết những ai đào ngũ cũng chỉ dám đào ngũ tạm thời một
vài tuần lễ, sau đó phải trở lại đơn vị. Qua chuyện trò với một số người lính
đào ngũ trong đơn vị, tôi biết được, mỗi khi có người đào ngũ, đơn vị chỉ đánh
điện tín về uỷ ban xã, nơi người lính đó có gia đình và từng cư trú trước khi
đi bộ đội. Trong điện tín, đơn vị chỉ ghi có vỏn vẹn tên tuổi, địa chỉ cư ngụ
của người đào ngũ, và yêu cầu uỷ ban xã tìm mọi biện pháp để tạo áp lực buộc
người lính đào ngũ trở lại đơn vị gấp. Vì là một bức điện tín, nên chẳng có con
dấu, chữ ký hay bất cứ thứ gì khác chứng tỏ thẩm quyền của người đánh điện tín.
Nói cách khác, vì kỹ thuật truyền thông ở Miền Bắc lúc đó quá thô sơ và lạc
hậu, nên bất cứ một người nào, mặc đồ bộ đội, vô một bưu điện địa phương, đều
có quyền đánh đi một bức điện tín với bất cứ nội dung nào. Đây chính là lỗ hổng
tôi có thể khai thác, nếu tôi biết tận dụng tờ giấy đi công tác mà tôi có. Vì
biết rõ như vậy, nên tôi quyết định về quê thăm Thầy, bất chấp những nguy hiểm
đang chờ đợi.
Tôi bước vô sân nhà vào một
buổi chiều, khi hoàng hôn đã bao phủ vạn vật. Cảnh vật tất cả vẫn như xưa. Hàng
rào râm bụt vẫn xanh tươi, bên cạnh dàn hoa tràng pháo lao xao trong gió như
nhắc nhở tôi bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của quá khứ. Chiếc bể nước vẫn còn đó,
im lìm bất động nhưng ẩn chứa muôn vạn lời thì thầm về những mộng mơ tôi hằng
ao ước và ấp ủ, vào những buổi tối mùa hè oi bức, nằm trên mặt bể, ngước mắt
nhìn bầu trời đầy sao, lắng nghe Thầy tôi kể chuyện…
Mấy người cháu, con của ông
anh, đang chơi đùa ở sân, trông thấy tôi vội reo lên:
- Chú Chí!…. Chú Chí đã về!…
Sau mấy tiếng reo vui, Hoa, cô
cháu gái lớn nhất vội ghé tai tôi thầm thì, giọng có vẻ bí mật và lo ngại:
- Hôm trước có công an xã đến
đòi bắt chú…
Tôi chưa kịp hỏi Hoa, thì Thầy
tôi từ trong buồng bước ra. Chỉ trong có không đầy một năm trời xa cách, Thầy
tôi trông già hẳn đi, lưng còng hẳn xuống. Chỉ có hàm râu bạc trắng như cước,
dài đến rốn là vẫn như xưa. Thầy tôi hỏi, giọng ưu phiền:
- Mày về phép hay đào ngũ đó?
Nghe câu hỏi của Thầy, và câu
nói thì thầm của Hoa lúc trước, tôi biết ngay, đơn vị của tôi đã đánh điện về
ủy ban xã, báo tin tôi đào ngũ, và uỷ ban xã đã đến gặp gia đình tôi. Vì đã
lường trước chuyện này, nên tôi bước đến cạnh Thầy, cầm lấy bàn tay run run của
Thầy và thưa:
- Thầy yên tâm, con đi công
tác.
Ngay lúc đó, anh của tôi từ
trong nhà bước ra. Không một nụ cười, không một lời chào hỏi, anh tôi nói,
giọng lo lắng, nét mặt nghiêm trọng:
- Chú vô ngay trong nhà, anh
hỏi…
Quay sang phía Thầy, anh nói
tiếp:
- Thầy vào trong phòng nghỉ đi,
để con “làm việc” với chú ấy.
Thầy nhìn tôi ái ngại, rồi thở
dài quay vô buồng. Đó là căn phòng nhỏ vừa đủ kê hai chiếc giường, một chiếc
cho Thầy và một chiếc cho tôi trước đây. Không biết bây giờ, chiếc giường cho
tôi có còn đó không nhỉ? Tôi tự hỏi, rồi thản nhiên đi theo anh vô trong nhà.
Tôi thản nhiên vì tôi biết, chuyện một người bộ đội đào ngũ chẳng có gì là quan
trọng, miễn sao người bộ đội đó chấp nhận lên đường trở lại đơn vị. Điều đó,
tôi đã sẵn sàng, vì tôi có trở lại đơn vị thì tôi mới có thể đi tiếp con đường
tôi định đến là bầu trời tự do của Miền Nam, nơi có 4 người chị, cùng đông đảo
họ hàng, hàng xóm của gia đình tôi đang sống. Tôi sẽ đến vùng trời tự do đó bằng
bất cứ giá nào. Quyết tâm đó tôi giữ kín trong lòng, chẳng một ai biết. Và tôi
nghĩ, một người khi đã chấp nhận hy sinh để quyết tâm làm một điều mình tin
tưởng là đúng, thì người đó thấy trong lòng thanh thản lạ lùng.
Bước vô nhà, bỏ ba lô xuống,
tôi ngồi vào chiếc ghế trống, đối diện với anh tôi. Lũ cháu bốn, năm đứa xúm
xít chung quanh, mở to những cặp mắt ngây thơ, đen nhánh, nhìn tôi với vẻ tò mò
và lo ngại. Anh tôi trừng mắt nhìn lũ trẻ, khẽ hất cằm. Chúng nó hiểu ý, lập
tức riu ríu kéo nhau ra khỏi phòng. Nhìn điệu bộ hoảng hốt, lo ngại của anh,
tôi biết, anh tôi lo cho tôi thì ít, mà lo chuyện đào ngũ của tôi sẽ ảnh hưởng
đến công danh, sự nghiệp của anh thì nhiều….
Sống trong chế độ cộng sản, ai
ai cũng khổ. Ngay cả những người cộng sản có tiền có thế, cũng phải chịu đựng
nhiều nổi khổ cực, giầy vò, vì những gian dối, giấu diếm của mình, của người,
của vợ con. Nhưng tôi nghiệm ra, trong số những nạn nhân của cộng sản, tất cả
những ai dại dột, ngây thơ chạy theo ảo tưởng, danh vọng do cộng sản thêu dệt,
họ sẽ là những nạn nhân phải chịu đựng nỗi đau khổ thê thảm gấp bội, và chính
họ sẽ là thủ phạm mang đến muôn vàn khổ đau cho vợ con và những người thân
chung quanh. Ông anh tôi là con “địa chủ cường hào ác bá”, bản thân lại thuộc
thành phần “tạch tạch sè” (tiểu tư sản), nhưng vì chạy theo ảo tưởng muốn thành
đảng viên cộng sản, nên cả cuộc đời cố gắng “phấn đấu”… để rồi cuối cùng, mọi
tham vọng vẫn mãi mãi ngoài tầm tay với.
Tôi nhìn anh tôi thản nhiên chờ
đợi. Trong nhà im phăng phắc. Bóng tối đã ùa vào phòng. Ngọn đèn hoa kỳ leo
lét, nhưng cũng đủ để tôi nhìn thấy gương mặt khắc khổ của anh, và trên mặt
bàn, hai bàn tay của anh đan vào nhau trong tư thế trịnh trọng quen thuộc mỗi
khi anh nói chuyện trước đám đông.
- Hai hôm trước, “đồng chí” bí
thư, “đồng chí” chủ tịch xã và “đồng chí” xã đội trưởng có đến nhà mình hỏi
thăm về chú…
Nói đến đó, anh dừng lại nhìn
tôi thăm dò phản ứng. Là một người được xếp vào diện “cảm tình đảng” (cho dù
mãi mãi cũng chỉ là “cảm tình đảng” chứ không bao giờ được kết nạp vô đảng),
anh tôi vẫn có thói quen gọi các cán bộ của cộng sản là “đồng chí”.
Nghe anh nói, thì ra, cả đảng
uỷ, hành chánh lẫn cả quân sự cùng đến nhà tôi để hù doạ ông anh đáng thương
của tôi. Tôi ngồi bất động và lặng im chờ đợi. Phần thì tôi quá mệt mỏi, lại
khát nước, phần tôi biết quá rõ đường đi nước bước của bí thư, chủ tịch xã, lẫn
cả xã đội trưởng, cũng như cách thức tôi sẽ đối phó với họ như thế nào ở thế
thượng phong, nên tôi đâu có ngán. Dù sao tôi cũng là một “bộ đội” chuẩn bị lên
đường “đi B cứu nước”, trong túi tôi lại có giấy công tác do chính sư đoàn
trưởng cấp, với chữ ký và con dấu đàng hoàng. Tất cả đều thật trăm phần trăm,
kể cả tên họ thật của tôi là Nguyễn Hữu Chí. Sư đoàn trưởng, một cấp bậc vô
cùng to lớn đối với mấy “đồng chí” bí thư, chủ tịch ở một xã nhỏ bé của nông
thôn Miền Bắc, vì ngay cả bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch tỉnh còn phải kinh sợ. Từng
đóng quân ở các làng xã của Việt Nam trong thời gian huấn luyện, tôi biết, ngay
cả một viên sĩ quan cấp uý, cấp bậc đại đội trưởng còn hét ra lửa, khiến mấy
nhân viên hành chánh từ huyện ủy đến chủ tịch xã đều phải run sợ, nên tôi biết
tờ giấy công tác tôi có trong túi sẽ có sức mạnh như thế nào.
Anh tôi nói tiếp:
- Họ hỏi chú có về nhà hay
không. Anh rất ngạc nhiên nói từ khi chú lên đường “vô Nam cứu nước” đến giờ,
chưa bao giờ chú về nhà. “Đồng chí” bí thư liền đưa cho anh coi bức điện tín từ
đơn vị của chú đánh về, nói là chú đào ngũ…
Anh ngưng lại chờ đợi tôi phản
ứng. Tôi vẫn im lặng. Anh liền hỏi, giọng hơi sẵng:
- Chú đào ngũ có phải không?
Rồi không đợi tôi trả lời, anh
nói tiếp, giọng gay gắt:
- Chú làm như vậy là không
được. Vì tương lai của chú, chú phải trở lại đơn vị ngay lập tức. Chú làm vậy
là hỏng hết mọi chuyện. Cả Thầy và anh đã hứa với họ, nếu thấy chú về là phải
báo cáo cho họ biết ngay tức khắc, và phải tìm mọi cách để “động viên” chú lên
đường “tòng quân cứu nước”….
Tôi thở dài, rồi nhẹ nhàng nói:
- Em không đào ngũ!
Anh tôi ngạc nhiên, nhìn tôi
trong mấy giây, rồi gặng hỏi:
- Chú không đào ngũ?
- Không!
- Vậy chú về nhà làm gì?
- Em về thăm Thầy, Mẹ, thăm
anh, chị và các cháu.
- Nghĩa là chú được về phép?
- Em đi công tác.
Anh tôi ngạc nhiên:
- Chú đi công tác?
- Vâng.
- Vậy sao chú lại về nhà?
- Trên đường đi công tác, em
ghé thăm nhà.
Anh nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.
Đã từ lâu, anh biết tôi là thằng liều lĩnh, dám làm những chuyện động trời.
Trong nhà, Thầy vẫn bảo, anh tôi có cặp mắt trâu nên rất nhát. Con trâu to
kềnh, nhưng có cặp mắt nhìn cái gì cũng phóng to gấp trăm lần, nên thấy thằng
bé chăn trâu, cứ ngỡ là người khổng lồ, sợ một phép.
- Chú đi công tác vậy có giấy
tờ gì không?
- Em có đầy đủ.
- Giấy của ai cấp?
- Của sư đoàn.
- Đâu chú đưa anh coi xem.
Tôi móc túi, lấy tờ giấy gấp tư
bọc cẩn thận trong một tờ giấy bóng, đưa cho anh. Để cho tờ giấy có vẻ đúng là
giấy thật, tôi đã cố tình làm cho nó nhàu nát một chút, dính mồ hôi một chút,
và có vẻ cũ một chút.
Cầm tờ giấy đưa gần về ngọn
đèn, anh tôi chăm chú đọc. Nhìn ánh mắt của anh tôi đọc đi rồi đọc lại, coi kỹ
con dấu và chữ ký, tôi biết, anh tôi không tìm ra dấu vết nào là giả, nhưng vì
biết tính tình của tôi, nên anh vẫn bán tín bán nghi.
Sau khi coi kỹ xong, anh ngẩng
mặt nhìn tôi hỏi một câu thừa thãi:
- Giấy công tác này là thứ
thiệt?
Tôi hỏi ngược lại:
- Anh có thấy chỗ nào giả
không?
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Chú nói thật với anh, chú đào
ngũ hay chú đi công tác?
Tôi trả lời chắc như đinh đóng
cột:
- Anh đọc giấy là anh biết, em
đi công tác…
Anh tôi lắc đầu:
- Đọc giấy tôi không tin. Tôi
muốn chú trả lời anh một cách thành thực…
- Em đã trả lời anh rồi đó.
- Tôi muốn chú nói lại một lần
nữa.
- Vâng, em nhắc lại với anh một
lần nữa, em đi công tác.
- Chú phải biết, là các “đồng
chí” trong xã ủy, xã đội sẽ “làm việc” với chú, chứ không phải chuyện chơi đâu.
- Anh cứ yên tâm, em sẽ xuống
nhà chủ tịch xã trình giấy tờ công tác đàng hoàng và em sẽ “làm việc” với họ.
Anh gật đầu, có vẻ thoả mãn.
Với tay lấy bình nước, rót vào ly, đẩy ly về phía tôi, anh nói:
- Chú uống nước đi. Tha lỗi cho
anh, vì lo cho chú, nên quên cả mời chú uống nước.
Tôi cầm ly nước, uống một hơi
cạn ly. Tính uống ly nữa, thì anh tôi sực nhớ tới bức điện tín, vội hỏi:
- Ủa, chú nói chú đi công tác,
vậy sao có bức điện tín từ đơn vị đánh về nói chú đào ngũ?
Tôi cũng làm ra vẻ ngạc nhiên
không kém:
- Anh đã coi kỹ bức điện tín đó
chưa?
- Thì chính mắt anh coi rất kỹ.
Điện tín như vậy làm sao mà giả được. Chính bưu điện ở đây gửi tới tận nhà
“đồng chí” chủ tịch xã.
- Em không nói bức điện tín là
giả, nhưng em nói người đánh điện tín phải là giả.
- Chú nói vậy là thế nào, anh
không hiểu?
- Có nghĩa là người đánh bức
điện tín là một tên nào đó, không phải là “thủ trưởng” trong đơn vị của em.
- Nhưng tại sao người đó lại
biết rõ họ tên, địa chỉ của chú?
- Ý em muốn nói là người đánh
bức điện tín đó có thể là một người trong đơn vị em, nhưng không phải là cấp
chỉ huy trong đơn vị.
- Tại sao người trong cùng đơn
vị của chú lại làm chuyện đó?
- Có thể vì họ ghét em, hay vì
một lý do nào đó, em không biết. Anh biết mà, đánh điện tín, thì ai ra bưu điện
đánh chả được, muốn viết thế nào chả xong, miễn sao có tiền trả. Anh cứ yên tâm
đi, chuyện này khi về đến đơn vị, em sẽ làm rõ trắng đen mọi chuyện, rồi cho
anh biết.
Nghe tôi nói với giọng quả
quyết và nét mặt đầy tin tưởng,bình tĩnh, anh thấy có lý, nên gật gù nói:
- Bây giờ thế này, chú đi xa về
chắc là đang đói. Nhưng việc này rất quan trọng, phải giải thích “đả thông tư
tưởng” làm sao để các “đồng chí lãnh đạo” hiểu rõ. Vì vậy, để mừng chú về chơi,
anh sẽ bảo chị ở nhà nấu cơm chờ. Còn bây giờ anh với chú đi xuống nhà “đồng
chí” chủ tịch xã để trình bầy vấn đề. Chú thấy thế nào?
- Anh nói vậy rất đúng. Em đi
với anh ngay bây giờ để anh yên tâm, tránh phiền phức cho anh và gia đình mình…
Anh tôi vội vã quay ra, hạ
chiếc xe đạp treo lơ lửng dưới mái nhà bằng hai sợi dây, bê chiếc xe qua bậu
cửa, qua hè rồi xuống đến sân. Tôi bước ra theo anh…. Ngay lúc đó, có tiếng chó
sủa, nhìn ra ngõ, trong bóng tối, chỉ có chút ánh sáng từ ngọn đèn hoa kỳ ở
trong nhà chiếu ra mờ mờ, tôi thấy thấp thoáng bốn, năm bóng đen đang đi vô.
Tiếp đó, tiếng chào hỏi ầm ĩ, ra vẻ thân mật xuồng xã nhưng vẫn không giấu được
sự trịnh thượng của những người chức sắc cho chế độ. Vì mới xa quê chưa bao
lâu, nên tôi nhận ra ngay, bốn, năm bóng đen bước vô nhà là chủ tịch xã, bí thư
xã uỷ, xã đội trưởng và hai người du kích có trang bị súng ống đàng hoàng. Thì
ra, có thể uỷ ban xã đã cho cho người theo dõi nhà anh tôi từ mấy ngày qua,
hoặc ngay khi tôi về đã có người trông thấy, vội báo cho uỷ ban xã biết. Lập
tức, họ vội kéo đến nhà tôi với ý định bắt tôi ngay tại trận về tội đào ngũ.
KỲ 43
Với sự hiện diện của mấy người
cán bộ của nhà nước địa phương, không khí trong nhà bỗng dưng khác hẳn. Chiếc
đèn hoa kỳ tù mù được thay thế bằng chiếc đèn lớn hơn, tỏa ánh sáng nhiều hơn
và rộng hơn. Chiếc đèn này bình thường được ngự trị trên tủ cao. Chỉ khi nào
nhà có “khách quý” thuộc loại chức sắc của nhà nước, nó mới được hạ phong để
ngắm nghía dung nhan những vị khách lạ. Chiếc ấm trà cũng được đem ra xúc rửa
sạch sẽ. Một phong trà mới tinh được mở ra trước mặt những vị “khách quý”. Bao
thuốc lá Tam đảo cũng được ông anh tôi trịnh trọng đặt lên bàn. Tiếng chào hỏi
của mọi người nghe rôm rả, vui vẻ và thân mật, nhưng không giấu nổi sự căng
thẳng, nhất là khi có mặt của hai người du kích trang bị súng ống.
Quanh chiếc bàn chỉ có 4 chiếc
ghế. Anh tôi và tôi ngồi hai chiếc. Còn hai chiếc dành cho chủ tịch xã và bí
thư đảng uỷ xã. Mấy chiếc ghế đẩu được mang ra cho xã đội trưởng và hai người
du kích. Ngay lúc đó, bí thư đảng uỷ xã ghé tai xã đội trưởng thì thầm, xã đội
trưởng gật đầu, rồi quay sang bảo hai người du kích ra ngoài hiên đứng.
Vì chuyện xảy ra đã lâu ngày,
nên tôi không nhớ tên một ai trong số những vị “khách quý” đến nhà hôm đó.
Nhưng tất cả những người cán bộ cộng sản từ cấp xã ấp cho đến trung ương, bao
giờ cũng nói chuyện với luận điệu tuyên truyền, áp đảo.
Sau những câu chào hỏi xã giao,
bí thư đảng uỷ xã, ngồi ở ghế đối diện với anh tôi, cất tiếng hỏi:
- Hôm nay chúng tôi trong ủy
ban xã và đảng uỷ xã đến đây trước hết là thăm hỏi gia đình và “đồng chí” Chí
vì được tin báo là “đồng chí” vừa mới ghé thăm nhà. Sau là
chúng tôi cũng muốn biết “đồng
chí” Chí về thăm nhà lần này có giấy phép của đơn vị hay không?
Anh tôi lễ pháp đáp:
- Thay mặt cho gia đình, tôi
xin có lời cảm ơn các “đồng chí” đã ghé thăm. Đêm hôm như thế này, mà các “đồng
chí” không quản ngại thời gian, đường xá xa xôi, ghé thăm gia đình chúng tôi,
khiến chúng tôi rất cảm động. Còn về chú Chí thì cũng xin được “báo cáo” với
các “đồng chí” là chú trên đường đi công tác, có ghé thăm nhà trước khi chú trở
lại đơn vị để lên đường đi B chiến đấu. Chú có giấy đi công tác đầy đủ. – Quay
sang tôi, anh nói tiếp – Chú trình giấy tờ công tác cho các “đồng chí” kiểm
tra…
Tôi rút tờ giấy công tác để
xuống mặt bàn rồi đẩy về phía bí thư đảng uỷ xã. Bí thư đảng uỷ xã cầm tờ giấy
đưa cho chủ tịch xã đọc, rồi nhìn tôi, y hắng giọng:
- “Đồng chí” Chí đi công tác,
nhân tiện ghé thăm nhà, trước khi lên đường đi B chiến đấu là điều đảng uỷ và
uỷ ban rất hoan nghênh tinh thần chiến đấu của “đồng chí”. Chúng tôi ở hậu
phương sẽ hết sức yểm trợ tiền tuyến. Chúng tôi sẽ cố gắng làm đầy đủ bổn phận
theo đúng chính sách đãi ngộ của đảng và nhà nước đối với những người đi B cũng
như những gia đình có con em đi B. Nhưng trước khi nói đến chính sách đãi ngộ,
chúng tôi cũng nói thẳng để “đồng chí” biết, hai tuần trước, ủy ban có nhận
được bức điện tín từ đơn vị của “đồng chí”, báo tin là “đồng chí” đã đào ngũ.
Ngay sau khi nhận được, “đồng chí” chủ tịch đã đến gặp tôi, và cả hai chúng tôi
đã đến nhà “đồng chí” tìm hiểu tình hình thì được biết là “đồng chí” không hề
về nhà. Bây giờ nghe “đồng chí” cho biết là “đồng chí” đi công tác, có giấy
phép đàng hoàng thì chúng tôi lại càng hoan nghênh, nếu đó là sự thực. Nhưng
cho đến bây giờ thì chúng tôi không biết thực hư thế nào, yêu cầu “đồng chí”
giải thích?
Trước khi quyết định trở lại
quê nhà, tôi đã lường trước được chuyện gì sẽ xảy ra, và đã nghĩ đến cách thức
để đối phó. Tôi biết, toàn bộ mạng lưới cầm quyền địa phương, từ quận xuống đến
xã ấp, của nông thôn Miền Bắc luôn luôn nhường nhịn những người bộ đội đi B. Những
câu chuyện, bộ đội đi B ngang ngược phá phách, hành hung công an, cán bộ địa
phương, tại các tiệm ăn, bến xe, cửa hàng bách hóa… khá phổ biến ở Miền Bắc vào
thời bấy giờ. Thậm chí có cả những thanh niên, bị cán bộ xã ấp o ép, hành hạ
trong suốt nhiều năm, đã chọn giải pháp “tình nguyện” đi bộ đội, để có dịp “đội
nón cối, đi dép râu” trở lại quê nhà trả thù… Vì vậy, đối với nhà cầm quyền CS
ở làng xóm thôn quê Miền Bắc, khi có một người bộ đội về thăm quê, chuẩn bị lên
đường đi B, bao giờ họ cũng phải tìm cách chiều chuộng, cho mọi sự êm đẹp,
trước khi “chúng đi cho khuất mắt”.
Hiểu rõ tâm lý của mấy người
cán bộ xã, và biết được thế thượng phong của mình, tôi trả lời ngắn gọn:
- Tôi không biết “đồng chí” yêu
cầu giải thích điều gì?
Viên xã đội trưởng sẵng giọng,
nói chõ vô:
- “Đồng chí” đảo ngũ, có giấy
tờ của đơn vị gửi về rõ rành rành. Bây giờ “đồng chí” lại bảo đi công tác là
thế nào?
Tôi nhìn thẳng vào mặt viên xã
đội trưởng, nói:
- Tôi bảo tôi đi công tác là
tôi có giấy tờ chứng minh đàng hoàng. Giấy đi công tác do sư đoàn cấp, có đóng
dấu và chữ ký của sư đoàn trưởng. “Đồng chí” bảo tôi đảo ngũ, có phải “đồng
chí” bảo giấy đi công tác của tôi là giấy giả?
Quay sang phía chủ tịch xã, tôi
nói:
- “Đồng chí” chủ tịch đã xem
giấy công tác của tôi, xin cho biết, đó là giấy giả hay thiệt?
Xã đội trưởng định nói gì,
nhưng bí thư đảng uỷ xã trừng mắt nhìn, nên y hậm hực im lặng. Dưới gầm bàn,
tôi thấy bàn chân của anh tôi dẫm nhẹ, ra hiệu. Tôi hiểu ý, anh muốn tôi ăn nói
phải lễ phép. Tôi thực tâm cũng không muốn cứng rắn với họ làm gì.
Nhưng tôi hiểu, nếu tôi không
cứng rắn, tôi sẽ bị rơi vào thế kẹt, nguy hiểm. Trong hoàn cảnh của tôi lúc đó,
tôi phải lấy công làm thủ.
Chủ tịch xã nhìn tờ giấy công
tác, gật gù nói, giọng hiểu biết:
- Với kinh nghiệm và “lập trường”
của tôi, tôi không thấy tờ giấy công tác này có dấu hiệu gì là giả. Họ tên, địa
chỉ, thời gian công tác đều rõ ràng. Dưới có đầy đủ chữ ký và tên của sư đoàn
trưởng. Lại có cả con dấu của sư đoàn nữa. Với trình độ tiên tiến của ta hiện
nay, làm được tờ giấy công tác loại này thì tôi dám đảm bảo không có ai làm giả
được. Chỉ có điều…. Chỉ có điều…
Khi nói câu “chỉ có điều…” hai
lần, viên chủ tịch xã nhìn thẳng vô mắt tôi rồi bỏ lửng không nói. Bí thư đảng
uỷ đỡ lời:
- Chỉ có điều… là tờ điện tín
báo tin “đồng chí” đảo ngũ cũng không thể là giả.
Tôi hỏi:
- Các “đồng chí” có thể cho tôi
xem tờ điện tín đó được không?
Chủ tịch xã quay nhìn bí thư
đảng uỷ. Bí thư gật đầu. Chủ tịch xã lôi trong xà cột ra tờ giấy màu vàng gấp
tư, đưa cho tôi. Mở tờ giấy ra coi, tôi thấy phía trên ghi tên người gửi vỏn
vẹn có mấy chữ dính liền. Phía dưới là người nhận và địa chỉ. Nội dung bức điện
tín chỉ có một câu chạy dài. Lâu ngày, tôi không còn nhớ chi tiết, nhưng đại
khái báo tin cho ủy ban xã biết, Nguyễn Hữu Chí đã đảo ngũ ngày… tháng… năm…
Yêu cầu các đồng chí hữu trách áp dụng những biện pháp cần thiết để đương sự
trở lại đơn vị gấp.
Gấp tờ điện tín lại làm tư,
trao lại cho chủ tịch xã, tôi nói:
- Thú thực với các “đồng chí”
tôi rất ngạc nhiên không hiểu sao lại có bức điện tín này. Các “đồng chí” có
thể cho tôi biết, người đánh bức điện tín là ai? Cấp bậc, chức vụ của người đó
là gì được không?
Chủ tịch xã ú ớ nhìn bí thư
đảng uỷ. Cả hai đều không thể ngờ, tôi hỏi câu đó. Thông thường, gửi một bức
điện tín, người gửi bao giờ cũng tiết kiệm tiền bằng cách đánh thật ngắn gọn,
nên ít khi ghi đầy đủ tên họ, địa chỉ của mình. Hơn nữa, vì là điện tín, nên
trong một bức điện, không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ, tên họ, chức vụ
của người đánh là thật. Nắm được những điểm quan trọng này, tôi mềm mỏng nói:
- Thưa các “đồng chí”, tôi đi
công tác có giấy tờ đàng hoàng do sư đoàn cấp. Nếu các “đồng chí” cần, tôi có
thể cung cấp đầy đủ tên họ, cấp bậc, chức vụ, địa chỉ và số điện thoại của
người chịu trách nhiệm, để các đồng chí ra bưu điện gọi điện thoại về đơn vị
của tôi phối kiểm cho rõ ràng. Còn tờ điện tín này, tôi không biết ai gửi và vì
sao gửi, nhưng tôi dám cam đoan, đó là tờ điện tín giả mạo, mà bất cứ ai ra bưu
điện cũng làm được….
Bí thư đảng uỷ ngắt lời:
- Nhưng không phải bất cứ ai
cũng biết rõ họ tên, địa chỉ của “đồng chí”, mà họ gửi?
Tôi đồng ý:
- “Đồng chí” nhận xét rất đúng.
“Bất cứ ai” ở đây phải là người biết rõ tôi. Người đó có thể ở trong cùng đơn
vị của tôi, hoặc ở một đơn khác, nhưng biết rõ tôi…
Bí thư đảng uỷ nhăn mặt:
- Tại sao họ biết rõ “đồng chí”
mà họ lại đánh điện tín nói “đồng chí” đào ngũ?
Tôi tỏ vẻ thận trọng:
- Cho đến bây giờ tôi cũng
không biết tại sao họ lại làm như vậy. Nhưng tôi đoán, có thể người đó không ưa
tôi, hoặc vì chuyện gì đó, họ có thù oán với tôi. Chuyện này như thế nào, sau
khi trở lại đơn vị, tôi sẽ tìm hiểu thật kỹ lưỡng, rồi sẽ “báo cáo” đầy đủ với
các “đồng chí”. Nếu cần, tôi sẽ yêu cầu đơn vị viết thư cho các “đồng chí”
tường trình đầu đuôi mọi chuyện.
Nghe tôi nói đến đó, bí thư
đảng uỷ và chủ tịch xã đều gật gù ra vẻ thoả mãn. Riêng xã đội trưởng vẫn ngồi
im, thái độ không thân thiện, nhưng vì vị thế thấp kém, nên y không tiện phát
tác. Tôi giáng tiếp một đòn tâm lý:
- Thưa các “đồng chí”, tôi đi
công tác có giấy tờ đầy đủ, và các “đồng chí” đã xem xét giấy tờ đó kỹ lưỡng.
Tôi biết, khi đi công tác đáng lẽ tôi không được phép ghé thăm nhà. Vì vậy, nếu
các “đồng chí” không thể thông cảm cho phép tôi ở lại với gia đình trong vài
ngày, thì ngay sáng mai, tôi sẽ lên đường trở lại đơn vị.
Bí thư đảng uỷ cười lớn, tay
xua lấy xua để:
- Thông cảm, thông cảm, hoàn
toàn thông cảm. “Đồng chí” cứ thoải mái ở lại đây cho đến khi nào hết phép thì
trở lại đơn vị. “Đồng chí” cũng thông cảm cho chúng tôi vì phải thi hành nhiệm
vụ nên đã làm phiền “đồng chí” và gia đình. Bây giờ mọi chuyện đã rõ ràng,
chúng tôi rất an tâm, không còn phải lo ngại gì nữa. Còn về chính sách đãi ngộ
bộ đội đi B khi về thăm nhà thì “đồng chí” chủ tịch xã sẽ làm việc với “đồng
chí” thật đầy đủ và xứng đáng…
Chủ tịch xã vui vẻ tiếp lời:
- Theo chính sách của đảng và
nhà nước, mỗi người bộ đội đi B về thăm nhà đều được xã cấp cho một cây thuốc
lá, nửa ký lô đường, và tem phiếu để mua 2 kí lô gạo nếp, 2 kí lô gạo tẻ, 1 kí
lô thịt lợn. “Đồng chí” cứ yên tâm, sáng mai đến văn phòng ủy ban xã, chúng tôi
sẽ cho người trao cho “đồng chí” đầy đủ. Trong thời gian ở lại đây, nếu “đồng
chí” cần chúng tôi giúp đỡ thêm gì, cứ mạnh dạn “đề xuất” với chúng tôi.
Nói xong, chủ tịch xã, bí thư
xã, xã đội, đứng dậy vui vẻ bắt tay hai anh em chúng tôi, rồi cùng với hai
người du kích bước ra khỏi nhà. Khi mấy cái bóng đen khuất sau hàng rào dâm
bụt, rồi chìm hẳn trong bóng tối, anh tôi đưa tay quệt mồ hôi trán, rồi thở dài
mệt nhọc, không nói một câu. Tôi lặng lẽ bước ra ngoài sân, hít một hơi thở
thật sâu, nhìn lên bầu trời đầy sao, và bâng khuâng nhận ra cái thân phận mỏng
manh, con sâu con kiến, của một kiếp người trong guồng máy khổng lồ, dán nhãn
hiệu cộng sản…
KỲ 44
Trên chuyến tàu hỏa từ Hà Nội
về thị xã Hà Nam vào tháng 5 năm 1975, tôi đã nhớ lại lần về quê thăm gia đình
5 năm trước đó. Lúc đó, trong hoàn cảnh chiến tranh và khoa học kỹ thuật còn vô
cùng lạc hậu, nên việc liên lạc, phối kiểm tin tức giữa các tỉnh, huyện là điều
rất khó khăn. Nhờ vậy, tuy uỷ ban xã nhận được giấy báo tôi đào ngũ, nhưng tôi
vẫn dễ dàng qua mặt uỷ ban xã, để được an toàn ở lại quê nhà hơn một tuần lễ.
Nhưng bây giờ trở lại quê nhà trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác, tôi sẽ phải
đối diện với nhiều nguy hiểm hơn. Trong những năm tháng ở Miền Nam tự do, tôi
đã dứt khoát chọn cho mình con đường, cùng với quân dân Miền Nam, tích cực đóng
góp công sức nhỏ bé của mình trong công cuộc chống cộng sản, bảo vệ Miền Nam.
Bất chấp mọi lời can ngăn, tôi quyết định công khai tên tuổi thật, địa chỉ
thật, trong mọi việc làm chống cộng sản. Ngoài việc làm xướng ngôn viên cho
những chương trình của Bộ Chiêu Hồi trên đài phát thanh và truyền hình, tôi còn
trực tiếp lên tiếng trên đài VOA mỗi tuần vài lần (vì đã lâu, nên tôi không còn
nhớ chính xác số lần), kể lại những tội ác của cộng sản, và kêu gọi đích danh
tất cả những người thân yêu, bằng hữu của tôi hãy sớm nhìn rõ bộ mặt thật của
cộng sản. Vì vậy, tôi biết, trong chuyến trở về quê hương lần này, tôi có thể
gặp nguy hiểm nếu bị phát hiện. Biết vậy, nhưng vì tình yêu thương sâu xa dành
cho thân phụ, cùng những ân hận về những lầm lỡ của thuở ấu thơ, đã khiến tôi
bất chấp mọi nguy hiểm, nhất định về thăm mộ Thầy tôi trước khi tôi tìm đường
vượt biên.
Tôi xuống ga Phủ Lý vào lúc 11
giờ đêm. Nhà ga Phủ Lý lúc đó vẫn tiêu điều, đổ nát, hậu quả từ những cuộc oanh
tạc của máy bay Mỹ và chính sách “sơ tán”, “tiêu thổ kháng chiến” của cộng sản
Hà Nội. Nhưng bao trùm lên quang cảnh đổ nát, tiêu điều của thị xã, vẫn là
những tấm bích chương cực lớn, những khẩu hiệu thật to, ca ngợi cái gọi là
“chiến thắng giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước” của những người cộng sản.
Bên cạnh đó là những tấm hình Hồ Chí Minh khổng lồ, với những khẩu hiệu ca ngợi
HCM, và kêu gọi mọi người tham dự lễ kỷ niệm ngày sinh 19-5 của HCM. Nhìn những
khẩu hiệu, bích chương và những tấm hình của HCM, tôi không hiểu tại sao, dân
tộc Việt Nam với 4000 năm văn hiến, đã bước vào thế kỷ 20 với không biết bao
nhiêu nhân tài, truyền thống cao đẹp, vậy mà dân tộc đó vẫn bị cộng sản kìm
kẹp, nô lệ, đầu độc… để tôn thờ HCM, một tên tội phạm hai tay nhúng đầy máu của
những người dân vôi tội. Mỗi dân tộc đều có những thần tượng. Nhìn vào những
thần tượng được tôn thờ, nhân loại sẽ đánh giá được quá khứ, hiện tại và tương
lai của dân tộc đó. Hitler chỉ được dân tộc Đức ảo tưởng coi là “anh hùng” có
khoảng hơn 5 năm, rồi sau đó Hitler trở lại nguyên hình của một tội phạm chiến
tranh. Trong khi đó tại Miền Bắc, tội phạm HCM được cộng sản thêu dệt trở thành
“cha già dân tộc” suốt mấy chục năm, nhưng chỉ có một vài người dám nói lên sự
thực, và tất cả những người dám nói sự thật đó đều phải sống trong lao tù. Đau
lòng hơn, cả một tầng lớp trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà báo Miền Bắc, tuy
nhìn rõ sự thực, nhưng chỉ vì tem phiếu của mấy chục kí lô gạo, mấy chục lạng
thịt, lạng đường, họ đã thản nhiên chà đạp tinh thần “sĩ phu Bắc Hà”, viết văn
thuê, làm thơ mướn, ra rả ca ngợi đồ tể Hồ Chí Minh lên tận mây xanh. Thơ văn
của họ đã đầu độc suốt mấy thế hệ thanh thiếu niên Miền Bắc trong suốt những
thập niên dài. Và tôi nghĩ, khi nào cộng sản còn tồn tại trên quê hương Việt
Nam, khi nào tội phạm HCM còn là “thần tượng” xuất hiện trong các công viên,
trên các đường phố Việt Nam, khi đó, tổ quốc dân tộc Việt Nam còn bị chìm đắm
trong nô lệ, khổ đau.
Đặt chân xuống ga Phủ Lý lúc
trời đã khuya nên không còn xe khách. Tại thị xã Phủ Lý, tôi có một vài người
bạn rất thân, cùng chí hướng ở tuổi hoa niên, nhưng tôi không muốn nhờ vả một
ai vì sợ họ bị liên luỵ. Từ ga Phủ Lý về đến quê tôi chỉ khoảng 15 cây số. Tôi
dự tính đi bộ không đầy 3 tiếng, tôi sẽ về đến quê vào khoảng 1, 2 giờ sáng.
Thăm mộ Thầy xong, tôi sẽ trở lại Phủ Lý vào rạng sáng hôm sau, để đáp tàu trở
lại Hà Nội.
Đêm hôm đó, sau ba giờ đồng hồ
đi bộ, tôi đặt chân lên quê hương nhưng không dám về nhà. Tôi biết, trong hoàn
cảnh của tôi lúc đó, nếu về nhà, tôi sẽ làm kinh động gia đình và làm liên luỵ
đến nhiều người. Thậm chí, trong một xã hội mà chế độ cộng sản đã thiết lập
được cả một mạng lưới “mỗi người dân là một người công an”, nếu về thăm nhà,
tôi sẽ dễ dàng bị hàng xóm phát hiện, và không sớm thì muộn tôi sẽ bị bắt giữ.
Khi đó, không những bản thân tôi gặp nguy hiểm, mà còn nhiều người thân trong
gia đình gặp khốn khó.
Quê tôi có hai nghĩa địa lớn và
khi ở Hà Nội, chị tôi đã nói cho tôi biết, mộ của Thầy tôi ở nghĩa địa nào. Tối
hôm đó, tôi đã bí mật đến được tận nơi, nhưng tôi không thể nào tìm được mộ của
Thầy. Tôi chỉ biết chung chung, mộ của Thầy có một tấm mộ chí sơ sài, bên cạnh
vài hòn đá. Vì vậy, tìm ra mộ của Thầy giữa một nghĩa địa rộng mênh mông, mồ mả
chập chùng trong đem tối là điều vô cùng khó khăn. Sau khoảng thời gian gần một
tiếng đồng hồ vừa khóc, vừa tìm kiếm mộ của Thầy nhưng không thấy, tôi đành
phải bỏ cuộc, vì tôi phải cố gắng trở lại ga Phủ Lý vào sáng sớm để đáp tàu trở
lại Hà Nội. Tôi không thể nấn ná ở lại đợi bình minh, vì khi đó, nếu gặp người
quen nhận ra, tôi có thể bị bắt ngay. Ở Miền Nam nếu bị bắt, tôi còn có cơ hội
giống như con cá bơi trong nước, có thể nương tựa vào người dân Miền Nam để tẩu
thoát, vì người dân Miền Nam chưa hề bị cộng sản nhuộm đỏ, lòng người vẫn còn
cực kỳ đôn hậu, sẵn sàng cứu giúp những nạn nhân của cộng sản. Còn nếu tôi bị
bắt ở trên Miền Bắc, tôi sẽ giống như con cá mắc cạn, vì người dân Miền Bắc
trải qua mấy chục năm sống trong chế độ cộng sản, ngay cả vợ chồng, cha con,
anh em, còn không tin được nhau, nói gì đến chuyện cứu giúp người dưng nước lã
để rồi mang họa…
Quá mệt mỏi, cộng với nỗi xúc
động, đau khổ vì thương nhớ Thầy, cùng nỗi kinh hoàng lo sợ trước viễn ảnh vô
cùng đen tối của cuộc đời mình, tôi níu lấy một cành cây (hình như là cây nhãn
thì phải), rồi vừa khóc, tôi vừa đọc kinh cầu nguyện cho Thầy. Tuy gia đình của
tôi là đạo gốc mấy đời ở làng Đầm, nhưng vì lớn lên trong chế độ cộng sản vô
thần, cấm đạo, việc dậy dỗ kinh bổn cho con cháu trong nhà vừa là điều cấm kỵ,
vừa là chuyện nguy hiểm cho mọi người, kể cả tương lai của con cháu, nên tôi
chỉ thuộc có kinh Lậy Cha và kinh Kính Mừng. Tôi cũng cầu xin Thầy tôi phù hộ
cho tôi trong những ngày tháng sắp tới được tai qua nạn khỏi, đến được bến bờ
bình an ở một nơi nào đó ngoài lãnh thổ Việt Nam…
Khoảng bốn giờ sáng, tôi âm
thầm rời khỏi nghĩa địa, trở lại Phủ Lý trong tâm trạng của một người phải vĩnh
biệt quê hương. Tôi biết rằng, ra đi lần này tôi sẽ mãi mãi không bao giờ được
trở lại quê nhà. Kinh nghiệm sống với cộng sản trong mấy chục năm, cùng với
thảm họa cộng sản tại nhiều quốc gia, và nhất là sau chiến thắng xâm lăng của
cộng sản tại Miền Nam vào thời điểm đó, khiến tôi đau lòng tin rằng, bóng ma
cộng sản sẽ đè nặng trên quê hương tôi không biết đến bao giờ…
Tôi lủi thủi đi dọc theo con
đường có hàng trăm cây nhãn xum xuê dọc theo hai bên đường. Từ con đường này,
nhìn về phía bên trái là dòng sông Châu quanh co uốn khúc, chảy hiền hòa qua
bao nhiêu làng mạc, trong đó có núi Đọi, Đệp, quê ngoại của tôi, và mái trường
tôi học khi còn bé. Bao nhiêu kỷ niệm của tôi thời ấu thơ gắn liền với dòng
sông Châu như hình với bóng. Tôi nhớ lại những buổi Thầy tôi lấy dây thừng buộc
ngang lưng tôi rồi quẳng tôi xuống sông để tôi tập bơi; những buổi trưa hè, tôi
ngồi quạt cho Thầy tôi ngủ, rồi trốn ra sông bơi lội cùng lũ trẻ chăn trâu cho
đến tận chiều tối mới rón rén mò về để ăn đòn; những hôm cùng bạn bè bơi qua
sông hái nhãn, hái ổi của hợp tác xã, bị bắt; rồi những buổi tối bên sông, khi
mùa hè đến, chúng tôi trong lứa tuổi 15, 16, tâm tình trong nhút nhát, vụng về
để rồi nhớ mãi “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, nghìn năm chưa dễ mấy ai quên”…
Trời rạng sáng hôm đó, mưa lất phất thật nhẹ, đủ để ướt một mái tóc, một bờ
môi, một hàng mi… Đường quê hương là đường phù sa cát bồi tôi đã đi suốt bao
nhiêu năm chân trần, nên bây giờ dù đi giầy, tôi vẫn cảm nhận được cái mịn màng
mát lạnh của đất, khi nước mưa thấm nhanh vào lòng đất. Bước đi dưới mưa, trong
niềm đau của người con phải vĩnh viễn lìa xa muôn vàn kỷ niệm cùng dòng sông
của quê hương, tôi bâng khuâng nhớ đến bài thơ Nhớ con sông quê hương của nhà
thơ Tế Hanh….
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông ấm áp
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ…
Trong niềm đau khổ của một
người vĩnh biệt quê hương, tôi đã không trở lại ga Phủ Lý qua những con đường
cũ. Tôi đã chọn con đường dọc theo sông Châu, để được nhìn lại những phong cảnh
cũ, được sống lại những kỷ niệm xưa. Gió sông lồng lộng thổi, sóng sông dào dạt
khiến tôi nhớ lại ngót hai chục năm trước, khi tôi mới 7, 8 tuổi, hai bố con
tôi đã phải lênh đênh trên một chiếc thuyền dọc, rời khỏi làng Đầm, nơi có
không biết nhiêu oan nghiệt, khổ đau cho gia đình tôi, khi Thầy của tôi bị đội
cải cách ruộng đất quy kết “tội địa chủ cường hào, ác bá”… Những oan nghiệt,
khổ đau đó vẫn còn hằn sâu trong tâm hồn mỗi người trong gia đình tôi trong suốt
bao nhiêu năm tháng, thậm chí cả nửa thế kỷ sau, kể từ những năm tháng oan
nghiệt của cuộc cải cách ruộng đất, ngay tại Úc, gia đình tôi mỗi khi có dịp
đoàn tụ, đều nhắc lại những kỷ niệm đau thương, đầm đìa máu và nước mắt của gia
đình, trong đó có hình ảnh giữa trưa nắng, Thầy tôi phải quỳ, trên đầu phải đội
một thúng đá, chung quanh là một vòng tròn vẽ bằng vôi, mỗi khi Thầy tôi mệt
quá, bị gục xuống là bị đánh đập dã man… Tôi biết, tất cả những kinh nghiệm đau
thương đầy máu và nước mắt mà gia đình tôi đã trải qua, chỉ là một trong muôn
triệu phần khổ đau mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu trong suốt những năm
tháng dài dưới chế độ cộng sản. Cùng với kinh nghiệm đau thương của gia đình,
của quê hương làng xóm, của đất nước dân tộc… dưới sự đoạ đầy của chế độ cộng
sản, khi đó tôi biết, kể từ nay (tháng 5 năm 1975) trở đi, người cộng sản sẽ
tiếp tục tung hoành trên hình hài của đất nước, thảm họa cộng sản sẽ tiếp tục
sinh sôi nảy nở từ bắc vô nam, tội ác của cộng sản sẽ tiếp tục lan tràn từ Mục
Nam Quan đến Mũi Cà Mâu… với mức độ ghê rợn và tàn nhẫn gấp bội phần ngày xưa.
Tuy nhiên, ở thời điểm đó, tôi vẫn không thể ngờ được, cùng với thảm cảnh chạy
nạn cộng sản, phải vượt biên vượt biển tìm tự do; cùng với bi kịch của trẻ em
và phụ nữ Việt Nam bị xuất cảng ra hải ngoại làm điếm, làm nô lệ tình dục; cùng
với tội cắt đất cắt biển dâng cho cộng sản Tàu… cộng sản VN đã trở thành đảng
Việt gian bán nước; và tội ác của chúng đã vượt khỏi biên cương quốc gia, khiến
CSVN trở thành kẻ thù chung của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới…
KỲ 45
Khoảng cuối tháng 5 năm 1975,
tôi từ biệt Mẹ lên đường trở lại Miền Nam, để tính chuyện vượt biển, vượt biên
ra ngoại quốc. Đêm cuối cùng, cả hai Mẹ con tôi đã thức trắng trong đau thương
và nước mắt. Tôi được nghe Mẹ tôi kể lại những kỷ niệm u buồn, xót xa của Mẹ
trong quá khứ… Hai Mẹ con tôi đã ôm nhau mà khóc trên chiếc giường độc nhất,
trong căn nhà chỉ có duy nhất một phòng vừa là phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp
khách. Qua những đau khổ chắp nối, không theo thứ tự thời gian, không gian của
Mẹ, tôi thấm thía nổi khổ đau của của những người phụ nữ Việt Nam…. Sinh ra và
lớn lên trên một đất nước nông nghiệp lạc hậu, liên tục có chiến tranh, đất
nước đó lại có hủ tục “trọng nam khinh nữ”, “chồng chúa vợ tôi”… suốt mấy ngàn
năm, nên người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu không biết bao nhiêu nỗi khổ đau
chồng chất. Còn hạnh phúc nếu có đến với họ, cũng chỉ mong manh và hiếm muộn
như những tia nắng yếu ớt hiện ra trong chốc lát của mùa đông băng giá…
Không biết bao nhiêu người phụ
nữ Việt Nam, thuở ấu thơ đã từng xót xa khóc cho thân phận những người phụ nữ
trong truyện Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Chân Trời Cũ của Hồ Dzếnh, Bỉ Vỏ của Vũ
Trọng Phụng, Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh,… để rồi
khi lớn lên, nước mắt của họ lại tiếp tục lã chã rơi cho muôn ngàn nỗi khổ đau
bi phẫn mà chồng con, và chính bản thân họ phải gánh chịu trên khắp mọi nẻo
đường của đất nước. Nhưng thê thảm hơn, cay nghiệt hơn, vào giữa thế kỷ 20,
cùng với sự xuất hiện của bóng ma cộng sản trên quê hương Việt Nam, số phận của
người Việt Nam nói chung, người phụ nữ nói riêng, đã rơi xuống xuống mức tận
cùng của khổ đau, đói khát và chết chóc. Chính mắt tôi đã chứng kiến những
người vợ, những người mẹ ở quê tôi phải chịu trăm đắng nghìn cay với muôn vàn
khổ đau do chế độ cộng sản gây nên. Đó là những người cô gái tuổi con rất trẻ
nhưng vĩnh viễn không được đến trường học chỉ vì lý lịch gia đình; những bà mẹ
có chồng con phải đi bộ đội, ở nhà quần quật một nắng hai sương, bán lưng cho
trời bán mặt cho đất quanh năm suốt tháng, vẫn không đủ ngô khoai, rau cỏ để
nuôi sống gia đình. Trong những năm đi trọ học xa, chính mắt tôi đã chứng kiến
cảnh những bà mẹ, lưng còng tóc bạc, quần áo rách rưới, nét mặt hằn nỗi khổ
đau, khóc lóc thảm thiết ở giữa chợ chỉ vì mang ra chợ bán mấy cây mía, ngọn
rau, củ khoai,… được trồng ngay trên mảnh đất bé xíu của nhà mình, nhưng vẫn bị
cán bộ lương thực nhà nước tịch thu, đập phá…
Tôi biết, tất cả những nỗi khổ
đau tôi đã chứng kiến, chỉ là muối bỏ biển so với muôn triệu nỗi khổ đau mà
những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu trong chế độ cộng sản. Và tất cả
những khổ đau đó vào thời điểm 1975 trở về trước, quả thực không thấm vào đâu
so với những thảm cảnh người phụ nữ Việt Nam tiếp tục gánh chịu từ 1975 cho đến
nay. Trong suốt mấy chục năm dài kể từ khi cộng sản chiếm được Miền Nam, đã bao
nhiêu người phụ nữ Việt Nam phải khóc khi đi thăm chồng, con trong các trại cải
tạo? Bao nhiêu người vợ, người mẹ, phải khóc trong tử biệt sinh ly khi chồng
con của họ bị cộng sản hành quyết, chôn sống, tống tù? Bao nhiêu phụ nữ Việt
Nam phải chết trên đại dương, trong rừng sâu, trên đường vượt biển, vượt biên,
tìm tự do? Bao nhiêu người mẹ đã phải khóc khi con gái của họ mới trên dưới
mười tuổi đã bị xuất cảng sang nước ngoài làm điếm? Bao nhiêu cô gái Việt đã
phải khóc khi mang thân làm vợ những ngoại nhân ở miền đất lạ cách quê nhà cả
vạn cây số, trong khi ngôn ngữ thì bất đồng, phong tục lại không biết?… Chính
những đau thương này khiến tôi nhận ra, nếu đất nước Việt Nam đau thương của
tôi trong thời Pháp thuộc đã có những bi kịch như chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô
Tất Tố; vợ Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân,… thì ở cuối thể kỷ 20, dưới sự cai
trị của những người cộng sản, những bi kịch của người phụ nữ Việt còn hiện ra
muôn phần thê thảm trên khắp địa cầu. Những khổ đau đó thật muôn hình vạn
trạng, không bút mực nào kể xiết, và dù cho cả thế giới này có tưởng tượng,
cũng không thể nào tưởng tượng hết những khổ đau mà người con gái Việt phải
gánh chịu khi phải lấy những người chồng què cụt nơi đất khách, hay phải làm
điếm tại gia cho cả ba thế hệ của một gia đình “tam đại đồng đường”…
Khi trở lại Miền Nam, tôi không
thể ngờ được, chuyến đi ra Bắc chớp nhoáng của tôi đã khiến chính gia đình bà
chị nghi ngờ tôi là VC nằm vùng, hay nói đúng hơn, gia đình bà chị đã nghi tôi
là hồi chánh giả. Dĩ nhiên, lúc đó, trong không khí của một thành phố bị cộng
sản chiếm đóng, mọi chuyện nghi ngờ đều được gia đình bà chị giữ kín, không hề
nói cho tôi biết. Cho đến gần một năm sau, khi tôi bị cộng sản bắt giam tại
Trung tâm thẩm vấn hỗn hợp Việt Mỹ ở Tô Hiến Thành, chị tôi vô thăm tôi trong
tù, mới vừa khóc vừa ân hận nói về những nỗi nghi ngờ của chị đối với tôi trong
quá khứ. Nghe chị nói, tôi không buồn giận gì. Trái lại, tôi thầm cảm ơn chị,
vì qua đó tôi thấm thía được một điều, trong cuộc sống, khi những người chung
quanh thực sự có những nghi ngờ hay hiểu lầm về tôi, phần lớn là do chính tôi
gây ra. Làm sao chị tôi không nghi ngờ tôi cho được, khi cộng sản mới chiếm
Sàigòn không đầy một tuần lễ, tôi đã có đầy đủ giấy tờ để trở về Miền Bắc, rồi
khoảng hơn một tháng sau, tôi lại ung dung trở lại Miền Nam, mà không hề gặp
phải bất cứ sự khó khăn nào? Thì ra trong cuộc sống, nhiều lúc tôi chỉ biết
hành xử theo tình cảm, sở thích của mình, mà quên mất rằng, qua những việc làm
đó, những người thân chung quanh mình có thể đánh giá sai về mình.
Trước 30-4-1975, tôi được ở
trong một căn phòng nhỏ thuộc Bộ Dân Vận Chiêu Hồi ở 272 Hiền Vương. Sau khi
cộng sản chiếm Miền Nam, tôi bị cộng sản đuổi ra ngoài, nên phải trở về sống
với gia đình bà chị. Trong cảnh đổi đời lúc đó, phần vì thiếu thốn trăm thứ,
phần muốn che mắt thế gian, nên bà chị đã cho mướn tầng dưới làm quán nhậu. Và
đây là đầu dây mối nhợ khiến tôi bị CS bắt, vào khoảng giữa năm 1976.
Giống như hầu hết người Miền
Nam lúc đó, ngay sau khi trở lại Miền Nam vào tháng 6 năm 1975, tôi đã nôn nóng
tìm đường vượt biên, nhưng không thành công. Trong hoàn cảnh lúc đó, tôi không
tiền bạc, lại chẳng quen biết ai, những người thân của tôi đều gặp cảnh khốn
khó, nên tôi thấy không thể có tiền, vàng, để đi theo đường biển, mà chỉ có con
đường vượt biên bằng đường bộ qua ngả Đông Hà, Quảng Trị, là nơi trước đây tôi
ít nhiều quen thuộc. Quyết định như vậy, nhưng khi nguy hiểm chưa đến chân, tôi
vẫn sống lay lắt chờ thời, chứ không dám lên đường vượt biên để phải đối diện
với những nguy hiểm chết chóc.
Suốt thời gian gần một năm
trời, tôi cố gắng né tránh mọi giao tiếp với công an, bộ đội trong khu vực, mỗi
khi họ ghé vô quán ăn nhậu. Vào một buổi chiều nọ, đi đâu về không nhớ, tôi
phải đi qua tầng dưới là quán nhậu trước khi leo cầu thang lên phòng của tôi.
Bước vào quán, tôi thấy ngay trong quán lúc đó, người ăn nhậu không nhiều. Ở
bàn trong cùng có ba người tuổi trung niên đang ngồi nhậu, nhưng rất lặng lẽ.
Góc ngoài cùng có khoảng 5, 6 người vừa mặc đồ bộ đội, vừa mặc độ thường, đang
ăn nhậu ầm ĩ, cãi lộn huyên náo. Trong chiếc bàn nhỏ ở phía trong quầy tính
tiền, ông anh rể của tôi đang ngồi nhâm nhi với ông chủ quán. Chủ quán là một
người đàn ông trạc tuổi trung niên, giàu nghệ sĩ tính, có gương mặt phúc hậu
vui vẻ, thích giao du bằng hữu, nên rất hợp tính ông anh rể của tôi.
Trông thấy tôi, ông chủ quán
liền kéo tôi ngồi xuống làm một ly. Uống xong ly rượu, chưa kịp cầm đũa, tôi
bỗng nghe thấy trong bàn nhậu của mấy người bộ đội có người lớn tiếng chửi rủa
thi sĩ Nguyễn Bính là “nhà thơ phản động” thời Văn Nhân Giai Phẩm.
Với tôi, nhà thơ Nguyễn Bính là
một thần tượng trong số những thần tượng của tôi thời tiền chiến. Thời gian ở
Miền Bắc, suốt hai mươi năm sống trong sự kìm kẹp của cộng sản, nhưng tôi cũng
đã đọc lén nhiều sách cấm trong đó có những tập thơ của Nguyễn Bính. Tôi cũng
còn được đọc những bài thơ của Nguyễn Bính được những người ái mộ chép tay, bí
mật chuyền cho nhau coi. Trong những năm đầu thập niên 1960, tôi và một số bạn
học đã chầu chực ở phòng văn hóa xã Nhân Hoàng, huyện Lý Nhân, để được thấy mặt
Nguyễn Bính, vì nghe phong phanh ông có về đó họp, nhưng không gặp. Sau này, vô
Miền Nam, tôi mới được đọc và học thuộc lòng thật nhiều thơ văn của ông, trong
đó có bài trường thi Hoa Và Rượu. Tôi cũng biết, trong chương trình học của học
sinh cấp 1, 2 và 3 tại Miền Bắc có những bài thơ rất “đỏ” đi theo đúng đường
lối của đảng cộng sản, được Nguyễn Bính sáng tác từ năm 1954, sau khi ông “tập
kết” ra Miền Bắc. Nhưng điều đó không hề làm suy giảm lòng ái mộ của tôi dành
cho ông.
Vì vậy, khi nghe những người bộ
đội phỉ báng ông, tôi đã giận mất khôn, bước sang bàn của họ, tranh luận, bảo
vệ ông bằng tất cả vốn liếng hiểu biết và tấm lòng ái mộ của tôi dành cho ông.
Tôi không thể ngờ được, những người bộ đội trong bàn nhậu bữa đó là thành phần
an ninh thuộc lực lượng quân quản được điều động về phường Phú Nhuận. Trong khi
tôi ba hoa phô trương tất cả sự hiểu biết của tôi về thi sĩ Nguyễn Bính, về đời
sống đói khổ của Miền Bắc mà chính tôi mắt thấy tai nghe, cùng đời sống tự do
của Miền Nam, ưu đãi văn nghệ sĩ, trong đó có cả những văn nghệ sĩ đi theo cộng
sản Miền Bắc,… tôi đã gieo rắc những nghi ngờ trong đầu óc của những người bộ
đội đó.
Ngay sau khi bàn nhậu tan, cả
ông anh rể lẫn ông chủ quán đều lo lắng cho tôi. Khi vô trong nhà, anh tôi mắng
tôi ngu dốt, không thức thời, hơi đâu mà tranh hơi tranh tiếng với tụi nó. Tôi
lúc đó cũng lo lắng, nhận ra sự dại dột của mình. Nhưng tất cả đã muộn.
Ngay tối hôm sau, khoảng 12 giờ
đêm, tôi vừa từ nhà người bạn ở cư xá Chu Mạnh Trinh về đến nhà, đã thấy đằng
trước nhà một toán bộ đội súng ống đầy đủ. Tôi biết ngay, hậu quả của sự ba hoa
dại dột của tôi đã hiện ra trước mắt. Thấy tôi, một người bộ đội bước lại chặn
hỏi:
- Anh có phải là Nguyễn Hữu
Chí?
Tôi đáp:
- Dạ, phải.
- Mời anh sang ủy ban phường có
chút chuyện.
Lúc đó, những người bộ đội đã
đứng vây chung quanh tôi. Tất cả đều thản nhiên, sẵn sàng đối phó nếu tôi có
hành động phản kháng. Tôi tuyệt vọng tìm cách câu giờ:
- Bây giờ quá khuya, các anh có
thể để đến sáng mai tôi sang được không?
- Chúng tôi có lệnh mời anh
sang ngay bây giờ.
- Như vậy, các anh cho tôi vô
nhà đi tiểu chút được không?
Người bộ đội khôn ngoan trấn an
tôi:
- Anh yên tâm, đi sang đó một
chút rồi về ngay…
Không còn cách nào khác, tôi
lặng lẽ đi theo họ. Hai người bộ đội đi trước. Tôi đi theo sau. Những người bộ
đội còn lại đi sau cùng. Con đường từ nhà bà chị đến uỷ ban phường Phú Nhuận
chỉ có khoảng 5 phút đi bộ, nên tôi còn đang bối rối kinh hoàng, chưa kịp nghĩ
kế thoát thân, thì đã thấy mình bước vô phòng làm việc của uỷ ban phường. Ngay
khi bước vô, tôi đã thấy không khí vô cùng căng thẳng, vì ở đó, đã có mấy người
bộ đội, súng ống đầy đủ đang đứng chờ sẵn.
Uỷ ban phường lúc đó, đèn điện
sáng trưng. Trong căn phòng rộng thênh thang có kê một chiếc bàn dài ngay chính
giữa. Trên mặt bàn là một đống còng số 8, mấy cuộn dây dù. Đằng sau bàn là mấy
chiếc ghế trống. Ngồi ở mấy chiếc ghế giữa là hai người mặc đồ thường phục và
một người mặc đồ bộ đội. Phía bên trái và bên phải có mấy chiếc ghế trống, để
người tới làm việc ngồi chờ. Phía bên trong có một phòng nhỏ, có cửa sổ bằng
kính, nên tôi thấy có hai người đang cặm cụi làm việc.
Tôi theo hai người bộ đội bước
vào phòng làm việc của uỷ ban phường. Bốn, năm người bộ đội đi theo sau, đứng ở
ngoài. Tất cả những người bộ đội ở trong phòng đều đứng sang hai bên. Trước mặt
bàn làm việc có hai chiếc ghế, nhưng không một ai mời tôi ngồi. Không khí căng
thẳng trong phòng, và thái độ không thân thiện của họ, khiến tôi hiểu số phận
của tôi tối nay lành ít dữ nhiều.
Khi tôi bước vô phòng, hai
người ngồi bên thản nhiên cắm cúi làm việc. Người ngồi ở giữa, mặc thường phục,
ngẩng lên nhìn tôi, rồi đứng dậy, cầm một tờ giấy trên bàn, hỏi, giọng lạnh
lùng:
- Anh là Nguyễn Hữu Chí?
Tôi đáp:
- Vâng.
- Từ xưa đến nay, anh có nhận
tiền của CIA để tham gia hoạt động tuyên truyền đánh phá cách mạng phải không?
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa xưa nay tôi chưa bao giờ
nhận tiền của CIA.
- Chúng tôi có đầy đủ bằng
chứng là anh có nhận tiền để làm việc cho những đài phát thanh “phản động” là
đài VOA và đài Gươm Thiêng.
Tôi điếng người. Thì ra trong
thời gian nhận lời Trung uý Hiệu, cộng tác với đài VOA, mỗi lần nhận tiền thù
lao, tôi có ký tên và ghi địa chỉ đầy đủ. Khi cộng sản chiếm được Sàigòn, chúng
đã thu hồi được tất cả những hồ sơ lưu trữ ở Cư Xá Thành Tín, trong đó có đầy
đủ tên tuổi và địa chỉ của tôi.
Thấy tôi im lặng, người cán bộ
phường nói tiếp:
- Bây giờ yêu cầu anh đứng
nghiêm chỉnh nghe tôi đọc lệnh tạm giam của Uỷ ban Quân quản.
Lệnh tạm giam ngắn gọn chỉ có
mấy hàng. Vì lâu ngày tôi không còn nhớ rõ, nhưng đại khái có câu, “quyết định
bắt giữ” tôi vô thời hạn, và lệnh cho ủy ban phường Phú Nhuận thực thi quyết
định này.
Đọc xong lệnh bắt giữ, người
cán bộ phường hỏi:
- Anh có hỏi gì không?
Tôi trả lời gọn lỏn, không giấy
giếm sự mệt mỏi, chán nản:
- Không.
Người cán bộ phường nói tiếp:
- Yêu cầu ảnh bỏ lên mặt bàn
tất cả những gì anh có trong người.
Tôi lặng lẽ lấy bóp, chùm chìa
khóa, ít đồng bạc lẻ… để lên bàn. Sau đó, người cán bộ phường gật đầu ra hiệu
cho hai người bộ đội bước đến khám xét người tôi một lần nữa. Khám xét xong,
một tên lấy chiếc còng số 8 còng hai tay tôi lại, rồi lấy sợi dây dù trói chặt
hai khuỷu tay tôi.
Cùng với nỗi đau của chiếc còng
số 8 xiết chặt vào hai cổ tay, tôi tê dại cả người, và hối tiếc cho những ngày
tháng sống vật vờ, lần lữa, không đủ can đảm để tìm đường vượt biên. Bây giờ
thì mọi chuyện đã quá muộn màng. Tôi đã chui vô rọ, và không sớm thì muộn họ sẽ
phanh phui ra hồ sơ hồi chánh của tôi. Khi đó, nếu tôi không bị tử hình, thì
cũng sẽ mục xương trong lao tù cộng sản…
KỲ 46
Toán bộ đội áp giải tôi tối hôm
đó chỉ có 4 tên. Hai tên đi phía trước, hai tên đi phía sau. Đường đi từ uỷ ban
phường sang đến nhà làng Phú Nhuận không đầy cây số nếu đi thẳng đường Võ Duy
Nguy, nhưng toán bộ đội đã chọn con đường hẻm, đi tắt ra đường Võ Tánh, gần
tiệm Phở Huỳnh, quẹo trái xuống ngã tư Phú Nhuận rồi quẹo phải khoảng 500 thước
là tới. Trên đường đi, nhìn những cảnh vật quen thuộc, ngày ngày tôi vẫn dửng dưng
đi qua, nhưng sao khuya hôm đó, tôi thấy tất cả thân quen, tha thiết như có
tình người. Góc dưới là đường Trương Tấn Bửu, ở đó có một dãy quán nhậu nổi
tiếng, bên cạnh trường Chánh Tâm là trường của người Hoa. Dọc bên kia đường Võ
Tánh là Phở Quyền. Xế lên một chút ngay cạnh con hẻm nhỏ không tên, trước ngày
30 tháng 4 năm 1975, ngày nào cũng như ngày đó, luôn luôn có một chiếc xe sinh
tố, người bán là một thiếu nữ người Miền Nam, tóc để đuôi gà, tuổi 16, 17,
trông thật dễ thương, mà tôi đã trồng cây si suốt bao nhiêu tháng năm trong âm
thầm và hạnh phúc… Ngay sau ngày cộng sản chiếm được Sàigòn, cùng với không
biết bao nhiêu mất mát và khổ đau của Miền Nam, quán sinh tố đó cũng biến mất
cùng với cô chủ… Nhưng mỗi lần có dịp đi qua đó, tôi vẫn bâng khuâng với nhân
dáng cũ, khung cảnh xưa, hiện về trong tâm trí…
Trên đường bị áp giải, tôi đã
nhiều lần muốn liều mình chạy trốn, nhưng lại không dám, vì đường phố quá vắng
vẻ. Ở Miền Bắc, chạy trốn khi đường phố vắng vẻ, sẽ dễ thoát, vì nếu đường phố
đông đúc, người chạy trốn dễ bị dân chúng chặn bắt giao cho công an. Trái lại,
ở Miền Nam, một người chạy trốn khi đường phố đông đúc bao giờ cũng dễ thoát,
vì dân chúng thường khéo léo tìm cách giúp đỡ. Trái lại, nếu chạy trốn khi
đường phố vắng vẻ thì nguy hiểm vì người chạy trốn dễ bị ăn đạn. Hơn nữa, lúc
đó, tay tôi không những bị còng, tôi còn bị trói giật cánh khuỷu về phía sau
bằng một sợi dây dù, một đầu dây nằm trong tay tên bộ đội đi phía sau. Dù cho
tôi có giật được sợi dây dù khỏi tay tên bộ đội, rồi chạy, tôi cũng khó thoát,
vì bị trói phía sau, khi chạy, rất dễ bị mất thăng bằng.
Khoảng 20 phút sau, tôi bước vô
nhà làng Phú Nhuận. Tên bộ đội cởi trói lấy lại sợi dây dù, mở khoá chiếc còng
số 8, rồi đẩy tôi vô một căn phòng chật hẹp, mỗi bề khoảng 5 thước, trong đó đã
có khoảng hai chục người bị giam giữ. Dưới ánh đèn điện vàng vọt, tôi thấy mọi
người nằm, ngồi ngổn ngang ngay trên sàn. Tất cả đều thản nhiên, im lặng, như
say ngủ. Không một ai ngó ngàng hay hỏi han gì tôi. Tôi thở dài mệt mỏi, chán
nản, rồi ngồi ngay xuống cạnh chiếc cửa sắt, hai tay ôm gối, lo lắng không biết
tương lai của mình sẽ đen tối đến thế nào.
Một người đàn ông đang nằm trên
sàn nhà, ngay trước mặt tôi, bỗng nhỏm dậy, với chiếc điếu thuốc lào tự chế
bằng ống nhôm. Ngay khi ông ngồi dậy, một người khác, nằm cạnh ông cũng vội
thức dậy, móc gói thuốc lào kính cẩn đưa cho ông. Ông cầm gói thuốc lào, vừa vê
vê cho vào nõ điếu, vừa nhìn tôi với ánh mắt có cái gì đó, rất khó hiểu. Ông
trạc tuổi ngoài 40, cởi trần để lộ những bắp thịt cuồn cuộn, hai vai vuông vức
và bộ ngực to như cánh phản, rất cân đối với chiếc đầu to, cổ bự và ngắn, mái
tóc đen rậm, cứng như rễ tre và bộ râu quai nón xồm xoàn.
Ngay khi ông đưa chiếc điếu lên
miệng, người đàn ông ngồi cạnh đã bật quẹt, dí lửa vào nõ điếu, nhịp nhàng và
quen thuộc, như đã làm hàng trăm lần… Ông rít một hơi thuốc lào thật dài, thật
sâu, khiến nõ điếu đỏ rực như cục than hồng, chiếc điếu kêu lên những tiếng kêu
ròn rã, khoái trá, rồi ông buông chiếc điếu sang bên, ém khói, ngửa mặt lên trần
nhà phun khói thuốc cuồn cuộn, làm căn phòng dưới ánh đèn vàng vọt trở nên lung
linh mờ ảo như trong sương khói. Từ bé đến lớn, suốt mấy chục năm trời, tôi đã
từng thấy không biết bao nhiêu người hút thuốc lào, nhưng chưa thấy người nào
hút thuốc một cách điệu nghệ và tài hoa như ông. Cái phong thái ngồi vững như
núi, cùng vóc dáng vai hùm lưng gấu và hai cánh tay dài như tay vượn, cộng với
gương mặt cương nghị, bộ râu quai nón xồm xoàm, cử chỉ hút thuốc thật đĩnh đạc,
hơi thuốc hút vô thật sâu, thật dồi dào gần như vô tận,… của ông khiến tôi, tuy
đang trăm ngàn mối lo lắng, cũng phải say sưa ngắm nghía ông với tất cả sự
ngưỡng mộ. Nhìn ông, tôi chợt nhớ đến truyện “Chữ Người Tử Tù” mà nhà văn
Nguyễn Tuân đã phác hoạ, hình ảnh người tử tù Huấn Cao, oai hùng và ngang tàng,
phóng tay viết đại tự trên tấm lụa trắng tinh, dưới ánh đuốc bập bùng, còn viên
quản ngục thì vừa say sưa ngắm nghía, vừa khúm núm xuýt xoa…. Thì ra, lao tù,
nơi muôn phần gian nan nguy hiểm, lại là chỗ rèn tâm luyện chí và là cơ hội để
cho con người thể hiện cái hùng tài, đởm lược của mình trước kẻ thù…
Sau một lúc im lặng, nhìn tôi
qua khói thuốc, ông hỏi nhỏ, giọng thân mật:
- Tao tên Hoàng. Còn chú mày
tên gì?
Tôi nhìn ông rụt rè, rồi gọn
lỏn:
- Thưa, tôi tên Chí.
- Chí hay Trí?
- Chí, “Chí ch”.
- À, “chí chấy”. Chú mày làm gì
mà bị bắt vậy?
- Tôi cũng không biết.
Người đàn ông gật gù:
- Ừ, đổi đời mà chú mày. Thời
thế này, tụi nó bắt người đâu cần có lý do… Nhưng thà làm cái gì rồi bị tụi nó
bắt vẫn khoái hơn là bị bắt oan!…
“Thà làm cái gì rồi bị tụi nó
bắt vẫn khoái hơn là bị bắt oan!” Ông nói đúng quá. Ừ, giá mà mình làm một cái
gì thật ngoạn mục rồi bị chúng bắt, thì vẫn có đã hơn không nhỉ? Tôi tự hỏi,
nhưng tôi im lặng nhìn ông, không nói gì. Gương mặt quắc thước và ánh mắt của
người đàn ông đầy vẻ cương nghị, lời nói của ông ngang tàng, chứng tỏ ông là
người khắc tinh với cộng sản. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi thấy im
lặng là tốt nhất.
Thấy tôi im lặng, người đàn ông
chỉ gật gù mà không nói gì thêm. Ông thở dài rồi nằm xuống ngủ. Trong khoảnh
khắc ban đầu, tôi có cảm tình với ông, nhưng tôi không dám để lộ tình cảm của
mình. Lúc đó tôi không thể ngờ được trong những ngày tháng sau đó, trong một
hoàn cảnh đặc biệt, cuộc đời của ông đã ảnh hưởng tới cuộc đời tù tội của tôi.
Sau mấy tiếng đồng hồ ngủ chập
chờn trong lo âu và buồn phiền, tôi giật mình thức giấc khi nghe tiếng xích sắt
loảng xoảng. Một tên bộ đội mở khóa, gọi tôi ra ngoài làm việc. Bước vô phòng
làm việc, tôi thấy chỉ có một tên bộ đội già, đeo lon đại uý.
Sau khi bảo tôi ngồi xuống
chiếc ghế trước mặt, y đẩy về phía tôi hai tờ giấy rồi nói, giọng lạnh băng:
- Tối qua anh bị bắt khẩn cấp
nên không mang theo tư trang nội vụ gì. Bây giờ anh cần những thứ gì thì viết
vào tờ giấy này, chúng tôi sẽ cho người đưa thư này đến tận nhà để gia đình anh
lo liệu đưa cho anh. Nhớ là anh chỉ được ghi những tư trang nội vụ cần thiết,
không được ghi đồ ăn, sách vở, dao kéo. Còn tờ giấy này, anh ghi rõ tên họ, địa
chỉ và tóm tắt lý lịch của anh trước và sau 1975, anh làm gì, ở đâu, nhưng chủ
yếu là trước 1975. Anh cầm hai tờ giấy này sang bàn bên kia ngồi viết. Viết
xong đưa lại cho tôi. Nhớ là phải thành thật, thì mới được “cách mạng khoan
hồng”.
“Cách mạng khoan hồng”, bốn chữ
đó tôi đã nghe cả ngàn lần, và đã hiểu sự gian trá, xảo quyệt của nó. Tôi hiểu,
tôi phải tìm mọi cách che giấu lý lịch hồi chánh của tôi cho đến khi nào không
còn che giấu được. Trong thời gian còn che giấu được, tôi phải tìm mọi cách
vượt ngục, trước khi mọi chuyện quá muộn màng.
Tối hôm đó, khoảng 12 giờ khuya,
tôi bị còng tay, giải ra xe, cùng với 6 người khác, trong số đó có ông Hoàng và
người đàn ông ngủ cạnh ông. Lúc đầu, trong danh sách chuyển tù, chỉ có ông
Hoàng, không có người đàn ông kia. Nhưng không hiểu sao, sau khi ông Hoàng to
tiếng cãi lộn gì đó với tên đại uý bộ đội mà tôi không nghe được rõ, thì người
đàn ông ngủ cạnh ông, được đi theo ông.
Chúng tôi mỗi người đều bị còng
tay bằng còng số 8. Sau đó, một sợi dây dù dài, buộc dính cả bảy người chúng
tôi thành một chùm. Như vậy, tôi thấy vô phương có thể chạy trốn một mình.
Sau thời gian khoảng nửa tiếng
xe chạy, chúng tôi đến trại tù sau này được biết là Trung tâm Thẩm vấn Hỗn hợp
Việt Mỹ ở đường Tô Hiến Thành. Ngay khi xuống xe, cảnh vật đầu tiên đập vào mắt
tôi là dưới ánh đèn pha sáng choang chiếu sáng rực cả trung tâm, hai chiếc cổng
sắt lớn, hàng dẫy phòng giam xây cất dọc theo các cạnh hình chữ nhật, mỗi phòng
đều có cửa sắt kiên cố, và số bộ đội canh gác đông đúc, súng ống lăm lăm…
Bảy người chúng tôi bị giải vô
một căn phòng ngay bên phải cổng sắt. Ngay khi bước vào phòng, tôi đã bị ánh
đèn pha cực mạnh chiếu thẳng vào mắt, nên không nhìn thấy gì trong bóng tối,
phía sau ánh đèn. Chúng tôi phải xếp hàng ngang, tư trang nội vụ để trước mặt,
và tất cả phải lột bỏ quần áo, kể cả quần lót. Mỗi người có một tên bộ đội bước
đến kiểm soát tư trang, nội vụ. Tất cả những thứ được coi là nguy hiểm như sách
báo, giấy tờ dù là giấy trắng, muỗng chén lon ly… bằng kim loại, đều bị vứt
sang bên. Sau đó, chúng tôi phải há miệng kêu “a… a…” rồi phải chổng mông để
cho các tên bộ đội kiểm soát xem có giấu giếm gì trong cổ họng, hay hậu môn
không. Việc kiểm tra tư trang, thân thể quá tỉ mỉ, lại diễn ra trong đêm khuya,
giữa bầu không khí im lìm đến rợn người, trong khi bên ngoài, thỉnh thoảng có
tiếng quát, tiếng súng ống vang lên lách cách, tạo cho chúng tôi cảm giác của
những con thú, bị xa bẫy, càng ngày càng bị những móng vuốt của bẫy xiết chặt,
vô phương đào thoát. Cũng trong dịp này, tôi được nhìn thấy vóc dáng của ông
Hoàng rõ ràng hơn. Ông cao hơn hẳn tất cả những người tù chúng tôi một cái đầu.
Thân hình ông thật đẹp, trông cân đối và vững vàng như một bức tượng Hy Lạp.
Sau khi bị khám xét hành lý và
thân thể, chúng tôi được giải vô các phòng giam riêng biệt. Riêng ông Hoàng
không hiểu sao, vẫn được đi cùng với người đàn ông ngủ cạnh ông. Mãi sau này,
tôi mới biết, cả hai người đều được giam riêng trong một phòng chỉ có hai
người. Còn tôi, bị giam vô một phòng, trong đó đã có một người bị giam là ông
già Thế. Tất cả các phòng giam tại Trung tâm Thẩm vấn đều giống nhau, mỗi phòng
vuông vức mỗi chiều hơn hai thước, chỉ đủ chỗ cho hai người nằm. Phòng kín như
bưng, cầu tiêu ở ngay trong phòng, và chỉ có một ô cửa sổ nhỏ hẹp bằng bàn tay
ở phía sau, trên cao để thông hơi. Cánh cửa duy nhất bằng sắt, có khoá kiên cố,
và một ô nhỏ, đủ để người bên ngoài nhìn vô theo dõi người tù bên trong. Bên
ngoài ô nhỏ có một miếng sắt, người ở bên ngoài có thể đóng mở tuỳ ý.
Ông Thế là một chuyên viên ngân
hàng, từng làm việc ở Ngân Hàng Thương Tín. Tuổi ông đã ngoài 60, nhưng trông
ông già cỡ 70 tuổi. Ông cao, gầy, đầu hói không có một sợ tóc. Ông có kinh
nghiệm rất nhiều về tội ác và thủ đoạn của người cộng sản, nên mặc dù không
biết mình bị bắt vì tội gì, ông rất bi quan, tin chắc ông vĩnh viễn sẽ không
còn ngày đoàn tụ với gia đình.
Trong những ngày tháng bị giam
tại Trung tâm, ông thương tôi như con, và chỉ bảo tôi rất nhiều về nghệ thuật
sống trong tù. Ông cũng chỉ dậy tôi về cờ tướng. Đúng như cái tên của ông, ông
đánh “cờ thế” rất cao. Vì bị giam trong Trung tâm suốt thời gian dài, không có
việc gì làm, nên ông và tôi chỉ biết đánh cờ tướng. Được ông chỉ bảo tận tình,
tôi tiến bộ trông thấy. Lúc đầu, ông chấp tôi cặp xe, cặp pháo và con mã, sau
ông chỉ chấp tôi có con xe, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn có ván thắng được ông.
Ông nói, tôi đánh cờ không thể giỏi được, dù tôi có học đánh cờ cả đời, vì khi
đánh, tâm tôi hay “phù động”. Ông bảo trong đánh cờ, điều tối kỵ là “tâm phù
động”. Khi tâm đã phù động, thì trí óc mất minh mẫn, lú lấp tất cả những nước
cờ hay mà khi bình thường, một người có thể nhìn ra rõ ràng.
KỲ 47
Vì là trung tâm tạm giam, chờ
sàng lọc, gửi đi các nơi, nên ở Trung tâm Tô Hiến Thành thời gian đó có đủ hạng
người, trong đó có những người nổi tiếng mà trước đó tôi chỉ nghe danh như ông
Mặc Đỗ và ông Phạm Thái Thuỷ cùng nhiều nhân vật khác mà lâu ngày tôi không còn
nhớ. Nhân vật giang hồ lúc đó có Lâm “chín ngón”, Hùng “mập”, Minh “vồ”… Hôm
ông Phạm Thái Thuỷ vô Trung tâm, tôi được nghe nhiều người kháo nhau, đó là nhà
văn Hoàng Hải Thuỷ. Nghe vậy, tôi mừng quá, vì không thể ngờ được có ngày mình
lại có cơ hội được nhìn thấy tận mắt một thần tượng văn chương như ông. Vô được
Miền Nam, điều tôi thích nhất là được đọc sách thả cửa. Trong số những tác giả
tôi ái mộ có nhà văn Hoàng Hải Thuỷ. Nhưng sau tôi mới biết, ông Thuỷ đó là
Phạm Thái Thuỷ làm ở đài Phát Thanh Sàigòn. Còn ông Mặc Đỗ thì là bố vợ của
ông. Gia đình của ông cũng sống ở Phú Nhuận. Được gặp các ông, tôi say mê nghe
chuyện các ông nói, và học tập được rất nhiều điều.
Một ngày nọ, tôi được một anh tù
tự do đến đưa “cơm” báo cho biết có một người tù mới tên là Lâm Vị Thuỷ sẽ đến
trại. Nghe vậy, tôi giật mình, sung sướng, vì ông chính là giáo sư Việt văn tại
Nguyễn Bá Tòng, Gia Định. Ông giảng bài rất hay, và ăn mặc cũng khác người.
Quanh năm ngày tháng, lúc nào ông cũng mặc chiếc áo trắng dài tay, chiếc quần
màu xám, và đến lớp cũng bằng xe xích lô. Khi lên lớp giảng bài, không bao giờ
ông cầm bất cứ sách vở hay giấy tờ gì. Từ lúc bước vô lớp cho đến khi hết giờ,
ông thao thao bất tuyệt, nói đủ thứ chuyện quá khứ, hiện tại, tương lai, trong
sách vở, ngoài đời, và thứ gì ông cũng thật uyên bác, khiến chúng tôi bị hớp
hồn. Thời gian tôi học tại đây còn có lần nhà văn Nhật Tiến, cũng đến giảng bài
hay nói chuyện gì đó, lâu ngày tôi không nhớ.
Riêng ông Mặc Đỗ, tôi mê ông vì
được đọc cuốn Thần Nhân & Thần Thoại Tây phương của ông. Tôi rất mê những
huyền thoại của Hy Lạp và La Mã. Niềm đam mê đó sau này còn ảnh hưởng đến tôi
khá nặng nề khi tôi làm báo, có những trang giới thiệu những huyền thoại của Hy
La. Trong thời gian ở Trung tâm Tô Hiến Thành, tôi chỉ bị gọi lên làm việc có
hai, ba lần. Tất cả đều đơn giản, không có gì rắc rối. Tôi đinh ninh cộng sản
vẫn không hề biết lý lịch hồi chánh của tôi. Sự thật, tôi đã lầm!
Vào một đêm khuya, khoảng 2 giờ
sáng, đột nhiên, chúng tôi nghe thấy có tiếng xe rì rầm tiến vô Trung tâm. Sống
trong Trung tâm đủ lâu, tôi biết ngay đó là xe chuyển tù qua các trại khác. Để
việc chuyển tù an toàn, thông thường, cộng sản khôn ngoan giả vờ “xì tin sắp
thả tù” cho mấy người vệ binh, quản giáo biết. Những người này vì có ăn chia
với “tù tự quản”, một loại tù hình sự sắp hết án, hoặc án nhẹ được tự do đi lại
trong trại tù, nên chỉ trong thời gian ngắn, họ tiết lộ những “tin sắp thả tù”
cho “tù tự quản” biết. Tù tự quản liền xì tin đó cho cả trại tù. Kết quả, ai ai
cũng mong đợi xe chuyển tù đến và hy vọng mình được gọi tên. Khi bị gọi tên, ai
ai cũng ngoan ngoãn đưa tay cho họ còng, họ trói. Nhưng từ lâu, ông già Thế đã
giải thích cho tôi biết, tin thả tù chỉ là tin vịt được cộng sản cố ý tung ra
để đánh lừa tù. Chỉ nguyên cái chuyện cho xe chuyển tù vào nửa đêm, vệ binh,
quản giáo đông nghẹt, súng ống đầy đủ cũng đủ hiểu, đó không phải là chuyện
chuyển tù để tha, mà là chuyển tù đến những trại tù nguy hiểm hơn, kiên cố hơn.
Nghe tiếng xe đi vô Trung tâm,
chúng tôi nghe đoán được có 2 chiếc. Xe tắt máy xong, chúng tôi nghe tiếng chân
người chạy, tiếng hô, tiếng súng đạn lách cách, rồi tiếng những chiếc bẩm xe
phía sau được tháo ra kêu ầm ĩ. Tôi phập phồng lo sợ, không biết mình có may
mắn thoát khỏi chuyến chuyển tù lần này hay không. Ngay lúc đó, chiếc cửa sổ
nhỏ của tôi bị kéo sang bên, rồi một giọng nói gay gắt, lạnh băng, chõ vô:
- Nguyễn Hữu Chí chuẩn bị “nội
vụ”.
Tôi giật mình vội vàng chồm
dậy, ngó ra cửa sổ nhỏ bằng bàn tay. Bên ngoài, đèn pha chiếu sáng choang cả
khu sân trại. Hai chiếc xe GMC kín mít như bưng, đậu im lìm trong sân. Trời lúc
đó lất phất mưa, nên mấy chục người lính vệ binh, quản giáo đếu khoác áo mưa,
súng AK-47 ghìm ở bên trong, dưới ánh đèn pha chiếu từ một phía, họ thành những
mảng đen chạy dài, trông giống như những tên ác quỷ.
Trong khi tôi mắt nhắm mắt mở
vội vàng thu dọn “nội vụ”, thì tiếng loa bên ngoài oang oang:
- Chú ý! Chú ý! Tất cả mọi tù
nhân phải ngồi im lặng trong trại giam. Ai được gọi tên, phải lên tiếng thưa
“Có” thật lớn. Sau đó nghe lệnh “Bước ra”, thì phải mở cửa đi ra thật chậm rãi.
Ra đến bên ngoài, phải đóng cửa phòng giam, rồi nằm úp mặt xuống, hai chân duỗi
thẳng, hai tay để ngay sau lưng chờ lệnh. Bất cứ ai vi phạm sẽ bị xử trí ngay tại
chỗ.
Tiếp đó là tiếng hô to: Các
“đồng chí” vệ binh sẵn sàng!… Ngay lập tức, toán vệ binh mấy chục người cùng hô
“Nhất chí!” rồi tất cả cùng đồng loạt lên đạn, nghe thật rợn người. Tuy nhiên,
tất cả những chỉ dẫn này, chúng tôi đã nghe nhiều lần, đã chứng kiến nhiều lần
chuyển tù, nên không một ai lộn xộn. Tất cả mọi người đều lặng lẽ làm khi nghe
gọi tên mình. Mỗi khi gọi đến tên một người, số phòng giam, lập tức, một chiếc
đèn pha rọi ngay về phòng giam đó. Trong chốc lát, chiếc cửa hé mở, người tù run
rẩy bước ra dưới ánh đèn pha thật mạnh, khiến hai mắt người tù bị chóa, không
nhìn thấy gì.
Tôi mở cửa bước ra, run rẩy nằm
úp mặt xuống vỉa hè. Lập tức, hai tên vệ binh lực lưỡng nhào tới, còng hai tay
tôi một cách nhậm lẹ. Tiếp theo, một sợi dây dù trói tôi giật cách khuỷu. Xong
xuôi, hai tên vệ binh hai bên, mỗi tên một tay, cầm lấy cánh tay tôi, vừa nhất
bổng, vừa kéo tôi xền xệt trên mặt hè, xuống sân đá răm, rồi tới chỗ tù đang
ngồi xếp hàng. Những sợi dây dù sau lưng chúng tôi được buộc lại với nhau, 5
người một sợi. Một tên vệ binh cầm một đầu sợi dây dù lôi đi. Tất cả nội vụ của
chúng tôi đều được choàng vào đầu, vào cổ, hoặc có người dùng răng cắn chặt…
Bỗng dưng chúng tôi giật mình vì một tiếng súng nổ vang. Một tiếng kêu thét
nghe thật rùng rợn trong đêm tối, tôi nghe nhưng không biết của ai. Đây là lần
thứ hai, tù vượt ngục ngay khi chuyển trại và bị bắn chết. Tình thế như vậy,
chúng tôi biết, không bao giờ có chuyện chuyển tù để tha… Tôi thở dài, và không
biết mình khóc từ lúc nào…
Xe chạy không đầy nửa tiếng
đồng hồ, thì chậm lại, rồi dừng hẳn. Tiếp theo là tiếng quát tháo phía đằng
trước. Chúng tôi đoán là một trạm gác của một trại tù khác. Thời gian xe chạy
có nửa tiếng đồng hô đã tới nơi làm chúng tôi thấy yên tâm và an ủi, vì như
vậy, có nghĩa, tạm thời, chúng tôi chưa bị giải ra ngoài Bắc. Thời đó, bất cứ
người “tù cải tạo” nào trong tay cộng sản, cũng đều nghĩ đến chuyện bị giải ra
các trại tù ngoài Bắc là một cái án tựa như án chung thân, hay án tử hình.
Xe từ từ chuyển bánh, chạy qua
một chiếc cổng vòm xây bằng gạch. Một người bạn tù ngồi cạnh tôi thì thầm:
“Quân lao Gò Vấp!” Đây là lần đầu tiên tôi được nghe 4 chữ “Quân lao Gò Vấp”,
và tôi không thể ngờ được trong suốt thời gian hơn một năm sau đó, cuộc đời tôi
tại Quân lao Gò Vất sẽ có không biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, khổ đau, ân
tình có, thù hận có, nước mắt có, nụ cười có, và cả máu của tôi cũng đã phải đổ
ra khi bị một toán vệ binh hơn chục người đánh hội đồng ngay trong nhà ăn tập
thể của khu A-1.
Ngay khi chiếc xe GMC dừng bánh,
chúng tôi nghe tiếng hô, tiếng chân người chạy rầm rập trong đêm, rồi tiếng
súng lên đạn lách cách. Tiếp đó, tiếng loa vọng tới đầy sắt máu:
- Tất cả các “tội phạm cách
mạng” chú ý, ai ngồi đâu ngồi yên đó, chờ lệnh! Cấm nhúc nhích. Ai trái lệnh sẽ
bị “xử trí” tại chỗ!
Tất cả chúng tôi ngồi im trong
lòng xe tối om, không ai nói với ai một câu. Không khí của Quân lao, những
tiếng hô rợn người của cán bộ cộng sản, tiếng súng đạn lách cách, nhất là bốn
chữ “tội phạm cách mạng” lần đầu tiên tôi được nghe, đã khiến tôi càng ngày
càng tuyệt vọng. Nhưng càng tuyệt vọng bao nhiêu, tôi càng thấy quyết tâm phải
vượt ngục bấy nhiêu. Tuy trước 1975, tôi chưa hề biết đến Quân lao Gò Vấp,
nhưng gia đình ông cậu, em của mẹ tôi sống ngay trong vùng, nên tôi biết, từ
Phú Nhuận, Gia Định đến Quân lao Gò Vấp không bao xa. Biết vậy, nên tôi vẫn le
lói hy vọng, và nuôi quyết tâm, sẽ vượt ngục bằng bất cứ giá nào, và phải vượt
ngục khi còn bị giam giữ ở Miền Nam.
Trong những ngày tháng sống ở
Miền Nam Tự Do, tôi hiểu lòng người dân Miền Nam không có ai ưa gì cộng sản.
Nhất là sau 30 tháng 4 năm 1975, tất cả những người cộng sản đã để lộ bộ mặt
đầy thú tính, những âm mưu nham hiểm, những tội ác man rợ, rùng rợn, trời không
dung, đất không tha, người người đều oán hận. Cùng với cái gọi là “chiến thắng”
của cộng sản, một số người dân Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc đều bừng tỉnh, để
rồi xót xa, ân hận, tiếc nuối cho những lầm lỡ, những dại dột nghe theo lời
tuyên truyền của VC. Nhất là ở Miền Nam, sau 30 tháng 4 năm 1975, cả mấy chục triệu
người dân bỗng thấy yêu thương vô cùng những người lính VNCH, và rộng lớn hơn,
bao la hơn, họ yêu thương tất cả những người bị cộng sản bắt đi “cải tạo”. Mọi
người đều nhận ra bài học đau đớn của cuộc chiến tranh Việt Nam, mà ít nhiều họ
đều có lỗi; trong khi những hy sinh, chịu đựng, những mất mát của người lính
VNCH quả thật là vô biên, không bút mực nào tả xiết…. Hàng triệu tiếng nấc,
tiếng khóc nghẹn ngào trong đêm tối, hàng trăm triệu giọt nước mắt âm thầm đã
nhỏ xuống, cùng với hàng trăm vạn nỗi khổ đau đã diễn ra với muôn ngàn hoàn
cảnh, ở khắp mọi miền của đất nước. Cùng với nỗi ân hận và đau thương của mỗi
thân phận, mỗi gia đình, và chứng kiến thảm hoạ bao trùm cả dân tộc dưới sự kìm
kẹp của cộng sản, người dân Miền Nam đã tìm mọi cách để giúp đỡ tất cả những
người “tù cải tạo”… Từ những củ khoai, củ sắn, lạng đường, gói thuốc rê, trái
xoài, qủa ớt… giấu vội trong các bụi câu, gần những nơi người “tù cải tạo” phải
lao động, đến những ánh mắt đẫm lệ, những bàn tay run run trao gửi chút ấm áp của
tình người cho những người “tù cải tạo”,… đã khiến cho cả dân tộc bừng tỉnh, và
hiểu được thật sâu xa, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chính nghĩa thuộc về
ai, lẽ phải thuộc về ai, chân lý thuộc về ai.
Sự dốt nát, cộng với cả một
guồng máy tuyên truyền, và hào quang cái gọi là “chiến thắng” trong chiến tranh
VN, đã khiến những người cộng sản bị sa lầy, không nhận ra chân lý này suốt mấy
chục năm trời. Họ quả thật là những tên tội phạm của lịch sử, những cũng là
những kẻ đáng thương, chỉ vì ngu dốt mà bị chìm ngập trong tội lỗi.
Trong thời gian hơn chục năm
trở lại đây, một số người cộng sản có dịp ra ngoại quốc, hoặc bị thất sủng, đã
bừng tỉnh nhận ra cộng sản là tội đồ của dân tộc. Tuy nhiên, vì quyền lợi, vì
hào quang giả tạo của quá khứ, trong đó có hào quang giả tạo của chính họ mà họ
đã đổ mồi hôi và máu để giành giật, đã khiến họ không đủ can đảm đoạn tuyệt với
ý thức hệ cộng sản.
KỲ 48
Quân lao Gò Vấp được chia là ba
khu nhà xây chạy dài là khu A, B và C. Mỗi khu có 3 phòng giam riêng biệt cùng
chung một mái nhà, nhưng ngăn cách bằng bức tường xây thiệt cao, trên trần có
rào kẽm gai. Mỗi phòng giam đều có hai cánh cửa bằng sắt, dầy và nặng. Ở giữa
cửa sắt có một ô nhỏ, mỗi chiều khoảng 15 phân, có cửa để mở, đóng bằng cách
kéo sang phải hay trái. Khỉ mở, cửa đủ rộng để cho tù ngó hai con mắt ra ngoài,
hoặc tù có thể dí mũi hít thở không khí tươi mát bên ngoài trong những ngày
nóng bức. Trong mỗi phòng giam đều có cầu tiêu ở ngay phía sau. Ngoài sân, giữa
các phòng giam cũng có hàng rào kẽm gai ngăn cách.
Toán của tôi 5 người được giải
vô phòng giam A-2 thuộc khu A. Sau này tôi được biết, A-1 giam giữ tù hình sự
thuộc loại quân phạm (bộ đội phạm tội cướp trộm, hủ hoá, tham nhũng…). A-2 giam
giữ tù chính trị, mà phần lớn là hồi chánh viên. Riêng A-3, lúc đó cộng sản
giam giữ mấy chị bên Phượng Hoàng. Chạy dọc theo Khu A, cách một cái sân có
chiều ngang khoảng 10 thước là nhà ăn, rồi đến một dẫy bể nước thấp ngang hông,
dành cho tù tắm, và cuối cùng là nhà bếp. Ngay dưới gốc cây bã đậu trong khu
A-3 có một cái giếng đường kính khoảng 2 thước, thỉnh thoảng tù có thể quay lấy
nước đem vô trong phòng giam, tắm rửa “tự túc”. Chữ “tự túc” được tù dùng có
nghĩa là tắm ngoài quay định của trại. Thời gian đó, tù chỉ được ban chỉ huy
trại cho phép tắm mỗi tuần một lần ở khu bể nước, và mỗi lần chỉ được phép tắm
có 10 phút.
Tất cả tù bị giam tại quân lao
Gò Vấp khi đó đều nằm trong dạng giam cứu, sẽ có nhân viên ở phòng quân pháp
xuống thẩm vấn, phân loại trước khi gửi đi trại giam Kà Tum. Cả trại giam Gò
Vấp lẫn trại giam Kà Tùm đều trực thuộc lực lượng quân quản của quân đội cộng
sản, nên gác tù thì có vệ binh, cai quản theo dõi tù thì có quản giáo, và thẩm
vấn phân loại tù thì có nhân viên ở phòng quân pháp. Tại quân lao Gò Vấp, thỉnh
thoảng tù cũng bị đi lao động, nhưng chủ yếu, khi bị đưa đi Kà Tum, tù mới phải
lao động liên miên tuần lễ 6 ngày, mỗi ngày 12 tiếng, để sản xuất khoai mì,
chuối, khai thác gỗ, đóng giường tủ, bàn ghế… để mang lại tiền bạc cho phòng
quân pháp của cộng sản.
Thời gian đó, cả nước Việt Nam
đang trải qua những ngày tháng kinh hoàng, thiếu thốn, đói khát, nhất là dân
chúng ở Miền Bắc thì nạn đói càng ghê gớm hơn. Ngay cả vệ binh quản giáo canh
gác tù cũng thiếu thốn. Nhiều người cho biết, giai đình của họ ở ngoài Bắc phải
ăn cả củ chuối, thân chuối, thậm chí phải tranh ăn cả rơm, cỏ với trâu bò.
Nhiều nơi dân bị chết đói la liệt. Chính quản giáo Trường nói cho chúng tôi
biết, Trung Cộng ép buộc cộng sản Việt Nam phải trả lại những món nợ mà họ đã
cho cộng sản Việt Nam vay mượn trong thời kỳ xâm lăng Miền Nam. Mà món duy nhất
cộng sản Việt Nam có thể gom góp để trả cho Trung Cộng là gạo. Ngoài ra không
có thứ nào khác Trung Cộng chịu nhận. Hậu quả của tình trạng trả nợ này đã
khiến kinh tế Miền Bắc kiệt quệ và cả nước phải khốn cùng.
Trong hoàn cảnh đói khát chung
của cả nước như vậy, những người tù chúng tôi trong quân lao Gò Vấp càng thấy
đói khát thê thảm. Những người tù nào có gia đình thăm nuôi thì còn đỡ, còn
những ai không có thân nhân, thì đành cắn răng chịu đựng mọi sự khốn khổ, và
chỉ trong thời gian ngắn không đầy hai tháng trời, tôi đã thấy thân hình của
tôi chỉ còn là bộ xương bọc da. Mỗi ngày, tù chỉ được ăn có hai bữa “cơm”. Mỗi
bữa, vỏn vẻn hai lưng chén bo bo độn, một tí rau luộc, một ít nước rau và chút
nước muối. Nhưng nếu đói khát hành hạ thể xác người tù một phần, thì sự tuyệt
vọng trong hoàn cảnh tù đầy hành hạ người tù gấp mười phần.
Anh chị Dzoãn Bình, Đàm Chi Lan
và Dzoãn Phượng
Trong phòng giam A-2 lúc đó đều
là hồi chánh viên mà phần đông là gốc Miền Nam. Tại đây tôi đã được gặp lại một
số anh em hồi chánh tôi đã quen biết trước như anh Duy “đầu bạc” tài hoa có máu
văn nghệ viết chữ rất đẹp, anh Nở người Việt từ bên Căm Bốt về, anh Ân người
gốc Hoa tính tình điềm đạm, chân thật, chất phác. Vô tù cùng lúc với anh Nở là
anh Dzoãn Bình, một ký giả nổi tiếng về những thiên phóng sự chiến trường thời
trước 1975. Cả hai anh trước bị giam ở trại tù cải tạo Long Khánh, sau cùng bị
chuyển về quân lao Gò Vấp, vì bị xếp loại hồi chánh viên. Sự thực, anh Dzoãn
Bình vì lòng yêu nước nên năm 1945, đang sống ở Hà Nội, anh đã trốn gia đình đi
theo vệ quốc đoàn, nhưng sau này bị cộng sản xếp vào thành phần “tạch tạch sè”
(tiểu tư sản) và anh cũng sớm nhận ra sự tàn ác, bất nhân của VC nên anh đã
“dinh T”, rồi vô Nam năm 1954. Không ngờ 30 năm sau, khi cộng sản bắt được anh,
anh thẳng thắn khai hết từ đầu đến đuôi nên chúng xếp anh vào dạng hồi chánh,
đưa về quân lao Gò Vấp.
Trước 1975, mỗi tuần tôi có đến
đài phát thanh Sàigòn hai lần để thu chương trình phát thanh của Bộ Dân Vận
Chiêu Hồi, nên có quen cô Dzoãn Phượng, con gái của anh Dzoãn Bình. Cô được
nhận vô làm xướng ngôn trong đài phát thanh sau khi bà Đàm Chi Lan, vợ của anh
Dzoãn Bình qua đời. Thời đó, tôi thấy anh Dzoãn Bình rất phong độ, trẻ trung,
tinh anh, thường mặc bộ đồ dân vận 4 túi, đeo kính cận, để hàng ria mép con
kiến, đi chiếc xe vespa đến đón Dzoãn Phượng, nhưng không bao giờ được hân hạnh
trò chuyện với anh. Đến khi gặp anh trong tù, anh già đi trông thấy, hàm răng
giả của anh lại bị mất, người anh lại cao nên trông càng thêm gầy gò, ốm yếu.
Thoạt thấy anh, tôi không tài nào nhận ra anh. Về sau nghe anh Nở nói chuyện,
tôi mới biết anh là ký giả Dzoãn Bình, người tôi đã đem lòng quý trọng một cách
âm thầm từ khi tôi được đọc những phóng sự chiến trường của anh, tại thư viện
của Bộ Thông Tin ở đường Phan Đình Phùng. Gặp được anh trong tù, tôi mừng quá,
nằm lắng nghe anh kể chuyện thâu đêm. Sáng ra, anh bảo tôi đưa cho anh cây viết
và mảnh giấy, rồi anh viết nguệch ngoạc mấy câu thơ, đến nay tôi vẫn còn nhớ và
vẫn còn thấy xao xuyến:
Gặp nhau mái tóc còn xanh,
Mà nụ cười cằn cỗi
Đường đời sao sớm mỏi
Chuyện mình vừa nói đã thương nhau.
Phải chăng mưa gió giãi dầu
Thời gian sẽ thấy lại màu áo xưa?
Trong suốt thời gian tôi bị
giam giữ trong trại tù cộng sản khoảng hơn một năm trời, anh Dzoãn Bình quả
thực là bóng mát, là nguồn nước giếng khơi, cho cuộc đời của tôi. Anh dậy dỗ
tôi rất nhiều điều. Kiến thức của anh uyên bác, hiểu biết của anh về xã hội
Miền Nam gần như vô tận, nên chỉ gần gũi anh một thời gian không đầy một năm, tôi
đã được anh kể cho nghe không biết bao nhiêu chuyện về giới nhà văn, nhà báo,
nghệ sĩ Miền Nam. Từ những nhà văn, nhà báo lão thành được anh kính trọng đến
những câu chuyện tưởng như huyền thoại về cuộc đời nghiện ngập và cái thú “yên
sĩ phi lý thuần” của anh. Anh rất kính trọng văn tài và tư cách của nhà văn
Nguyễn Mạnh Côn. Anh cũng tỏ ra có biệt nhãn khi nhắc đến dòng họ Nguyễn Ngọc
là ông Nguyễn Ngọc Trác, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Phách.
Sau này, trôi nổi sang Úc, được gặp gỡ một số nhà văn, nhà báo lão thành của
Miền Nam, các vị kể cho tôi nghe, thời kỳ làm ký giả cho Việt Tấn Xã, anh Dzoãn
Bình viết bài đụng chạm đến vài nhân vật có lai lịch lớn, nhưng được ông Nguyễn
Ngọc Linh, giám đốc Việt Tấn Xã, tận tình bênh vực và giúp đỡ, nên anh ấp ủ mãi
mãi ân tình đó.
Một người bình thường khi bị
cộng sản bắt đi tù cải tạo đã khốn khổ vô cùng. Nhưng anh Dzoãn Bình khi vô tù
cải tạo còn khốn khổ hơn nhiều, vì anh nghiện thuốc phiện, hay nói theo ngôn
ngữ của anh là “hít tô phe”. Cũng vì nghiện, nên một ngày nọ, anh đem đổi gói
thuốc lào để lấy mấy hạt mã tiền khô, đem về nghiền ra rồi pha nước uống. Tôi
không biết uống hạt mã tiền vô trong người thế nào, nhưng những người tù cải
tạo ở trại Kàtum mỗi khi về quân lao Gò Vấp, người nào cũng có một túi vải nho
nhỏ, trong có vài hạt mã tiền. Tù nhân vẫn đồn đại là dùng hạt mã tiền có thể
cường dương bổ thận, trị phong thấp, nhức mỏi, tê bại. Tôi không biết chuyện
này thực hư thế nào, nhưng đã có lần nếm thử một tí thì thấy đắng vô cùng. Tối hôm
đó, anh Dzoãn Bình uống hạt mã tiền vô được khoảng nửa tiếng, thì cả người anh
co giật thật khủng khiếp. Cả mấy người chúng tôi xúm vô giữ anh mà giữ không
nổi. Kinh hoảng quá, chúng tôi phải đập cửa sắt phòng giam rầm rầm, rồi la hét
ầm ĩ, quản giáo mới chịu mở cửa để cho anh ra ngoài cấp cứu. May mắn, lần đó
anh thoát nạn.
Vì quen biết Dzoãn Phượng từ
hồi trước 1975, nên anh Dzoãn Bình rất tin tưởng và thương yêu tôi. Vì tin
tưởng tôi nên anh đã bàn với tôi cách vượt ngục với sự trợ giúp của Dzoãn Phượng.
Thời đó, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn phải ra khu gia cư, ngay phía bên ngoài
quân lao Gò Vấp để lao động. Công việc thì không nhiều, không nặng nhọc, nhưng
tuần nào cũng có toán phải ra ngoài đó lao động, dọn dẹp nhà cửa, làm đường
xá…. Mỗi lần như vậy, tù cải tạo chúng tôi thường tìm cách cho tiền tụi vệ
binh, quản giáo để chúng mật báo cho thân nhân của mình ở quan vùng đến thăm
viếng. Người nào có thân nhân đến thăm, sẽ được quản giáo vệ binh cho vô một
căn phòng bỏ hoang hàn huyên tâm sự, rồi nấu nướng đồ ăn thức uống chia sẻ cho
nhau. Vệ binh quản giáo cũng rất bằng lòng với lối thăm viếng bí mật kiểu này,
vì chúng vừa được ăn uống phủ phê, lại vừa có tiền, có thuốc lá, thuốc lào đút
túi, và anh em tù cải tạo cũng vui vẻ vì được người thân của bạn tù, mỗi khi
viếng thăm, đều có món “bồi dưỡng” cho tù không món này thì cũng món khác.
Thường mỗi lần thân nhân viếng
thăm bí mật như vậy kéo dài nhiều tiếng đồng hồ, kể từ lúc nghỉ trưa ăn “cơm”.
Thân nhân đến cứ lặng lẽ đi vô nhà bỏ hoang, xếp đặt các thứ cần nấu nướng rồi
lặng lẽ làm các món ăn. Những thứ nào cho bạn tù thưởng thức được xếp riêng một
bên, chờ tù nhân vô mang đi phân phát. Thứ nào cho quản giáo, vệ binh thì cũng
để riêng. Những món này thường phải nhỏ bé, kín đáo và giá trị cụ thể hơn. Thường,
vệ binh quản giáo chỉ nhận tiền mặt, bột ngọt, hoặc thuốc lá. Đến giờ nghỉ trưa
ăn “cơm”, người tù nào có thân nhân đến thăm sẽ lặng lẽ và thản nhiên đi vô
trong nhà hoang, xum họp một, hai tiếng, hoặc có khi cả buổi chiều với gia
đình. Tất cả đều đâu vào đấy, tuần tự như tiến, ai cũng có phần mà mọi chuyện
trôi chảy, không ai làm phiền đến ai.
Trong thời gian tôi và anh
Dzoãn Bình ra ngoài làm việc, Dzoãn Phượng cũng đã đến viếng thăm bí mật như
vậy nhiều lần. Có lần Dzoãn Phượng đi một mình, có lần đi với bạn. Vì những
cuộc thăm viếng như vậy diễn ra thường xuyên, hầu như ngày nào chúng tôi ra
ngoài lao động cũng có vài người tù cải tạo có người thân thăm viếng, và xưa
nay chưa bao giờ xảy ra chuyện gì đáng tiếc, nên quản giáo vệ binh canh gác rất
lơ là. Thậm chí có nhiều lần, nấu nướng đồ ăn thức uống, thiếu món này món nọ,
người thân lại phóng xe Honda ra ngoài chợ Gò Vấp mua thêm đồ về nâu là chuyện
vẫn xảy ra. Vì vậy, tôi và anh Dzoãn Bình bàn tính chuyện vượt ngục bằng chính
chiếc xe Honda Dzoãn Phượng mang vô.
Trong khu gia cư của quân lao
Gò Vấp lúc đó cũng có nhiều gia đình sống tạm bợ, nên chuyện người và xe cộ ra
vô là điều bình thường. Tôi tính với anh Dzoãn Bình, để Dzoãn Phượng đi xe
Honda vô thăm, nấu nướng đồ ăn thật nhanh chóng, rồi Dzoãn Phượng lẻn ra ngoài.
Sau đó, đến giờ nghỉ, anh Dzoãn Bình sẽ bước vô, lấy quà trao cho vệ binh, quản
giáo. Còn tôi cũng tìm cách lẻn vô lấy đồ ăn trao cho bạn tù, rồi tôi và anh
Dzoãn Bình chờ đợi thời cơ thuận tiện, lấy xe Honda của Dzoãn Phượng phóng ra khỏi
quân lao. Từ khi nổ máy xe cho đến khi vọt ra khỏi quân lao Gò Vấp chỉ mất
không đầy 5 phút đồng hồ. Quản giáo, vệ binh có phát hiện ra cuộc vượt ngục,
sớm nhất cũng phải mất một giờ đồng hồ sau, khi ca lao động buổi chiều bắt đầu.
Tôi nói sớm nhất là vì thông thường, những người tù có thân nhân thăm nuôi kiểu
đó, nếu quản giáo, vệ binh được “đấm mõm” ngon lành, chúng sẽ chấp nhận để cho
người tù đó được miễn lao động ca chiều. Điều tôi lo ngại là chỉ có anh Dzoãn
Bình được vô gặp Dzoãn Phượng, còn tôi chỉ có thể vô lén, và nếu tôi vô lén
chót lọt, cuộc vượt ngục của tôi và anh Dzoãn Bình mới thực sự tiến hành.
Theo sự bàn bạc của chúng tôi,
Dzoãn Phượng sau khi lẻn ra bên ngoài, sẽ chờ ở một chỗ nào đó kín đáo gần đó,
để có thể quan sát cổng ra vô quân lao Gò Vấp. Trong khoảng nửa tiếng đến một
tiếng sau, nếu thấy chúng tôi đi xe Honda trốn ra được, Dzoãn Phượng sẽ không
về nhà, mà nhanh chóng gọi xe ôm đến ẩn náu tạm ở nhà bà con, nơi đã có hai em
gái là Dzoãn Hoàng và Dzoãn Điệp chờ sẵn. Nếu trong thời gian một tiếng đồng hồ
sau, không thấy chúng tôi đi xe Honda trốn ra, Dzoãn Phượng sẽ thản nhiên trở
lại quân lao Gò Vấp với gói đồ ăn mua sẵn, nói là ông Dzoãn Bình bảo ra ngoài
mua thêm…
Chuẩn bị đầy đủ và kỹ càng như
vậy, chúng tôi tin là nếu có được 5 phút thực sự an toàn, chúng tôi se sẵn sàng
chấp nhận phiêu lưu vượt ngục. Bằng không, chúng tôi sẽ bình tĩnh mai phục, chờ
đợi thời cơ thuận lợi vào dịp khác. Như vậy, sẽ không có một sự thiệt hại nào
về vật chất cũng như tính mạng cho chúng tôi. Hoàn cảnh của anh Dzoãn Bình lúc
đó rất bi đát. Nếu không vượt ngục, anh sẽ không có thuốc men điều trị và sẽ
chết trong ngục. Qua kinh nghiệm về cộng sản, anh biết, anh sẽ không bao giờ
được cộng sản trả tự do. Riêng bản thân tôi, khi tới quân lao Gò Vấp, tôi mới
biết, cộng sản đã biết quá rõ về tôi. Với “tội” hồi chánh, “tội” lên đài phát
thanh VOA tuyên truyền chống cộng sản, và “tội” làm cho Bộ Dân Vận Chiêu Hồi,
chắc chắn tôi sẽ bị cộng sản tử hình, hoặc ít nhất cũng sẽ bị cộng sản cầm tù
chung thân. Vì cả anh Dzoãn Bình lẫn tôi đều hiểu được số phận tận cùng bi đát
đang chờ đợi mình ở cuối đường hầm, nên hai anh em chúng tôi đã quyết tâm vượt
ngục bằng mọi giá. Vấn đề bây giờ chỉ còn là thời gian, khi nào chúng tôi sẽ có
được cơ hội ra ngoài lao động ở khu gia cư quân lao Gò Vấp?…
KỲ 49
Ngay từ khi bị cộng sản bắt vô
tù, tôi vô cùng hối hận cho sự lầm lỡ của mình, và quyết tâm phải vượt ngục
bằng mọi giá. Tôi biết, ngục tù của cộng sản vô cùng kiên cố, người cộng sản
cũng rất tàn nhẫn, sẵn sàng bắn bỏ tù bất cứ lúc nào, và dù có may mắn vượt
thoát được nhà tù nhỏ, tôi cũng còn phải tìm cách để vượt thoát ngục tù lớn để
ra ngoại quốc. Còn nếu vượt ngục được rồi mà vẫn tiếp tục sống trong chế độ
cộng sản, thì trước sau gì tôi cũng sẽ bị cộng sản bắt lại. Biết vậy, nhưng tôi
tin, dù lao tù của cộng sản có kiên cố đến đâu đi nữa, một khi mình đã quyết
tâm vượt ngục, thì một năm, hai năm, ba năm… trước sau gì mình cũng sẽ tìm ra
kẽ hở để trốn thoát.
Trong thời gian bị giam giữ tại
Quân lao Gò Vấp, trước khi gặp anh Dzoãn Bình, tôi cũng đã nhiều lần tìm cách
vượt ngục, nhưng chưa gặp cơ hội. Quân lao Gò Vấp có mấy hàng rào thép gai từ
trong ra ngoài. Lực lượng canh gác của vệ binh được chia làm nhiều toán, lại có
cả quân khuyển. Việc leo trèo hoặc chui qua những hàng rào kẽm gai về đêm, cũng
như cách đánh lạc hướng thính giác của quân khuyển là điều có thể làm được.
Nhưng điều khó khăn nhất chính là trở ngại tù canh gác tù trong mỗi phòng giam.
Thời gian đó, để đề phòng tù vượt ngục, cộng sản đã bắt những người tù chúng
tôi phải chia thành từng nhóm, mỗi nhóm hai người, có tránh nhiệm thay phiên
nhau thức hai tiếng đồng hồ để canh gác tù. Trong thời gian canh gác, chúng tôi
không được phép nằm, ngồi, mà phải liên tục đi lại trong phòng giam. Đèn trong
phòng giam phải bật sáng suốt đêm. Vệ binh canh gác đi lại bên ngoài có thể mở
chiếc cửa tò vò bất cứ lúc nào để ngó vô kiểm soát, theo dõi, hoặc gọi người tù
gác tù lại gần cửa tò vò bắt báo cáo. Để tránh tình trạng cả hai người tù cùng
canh gác, thông đồng với nhau vượt ngục, danh sách tù gác tù luôn luôn thay
đổi, phiên này gác chung với người này, phiên sau lại phải gác chung với người
khác.
Trong điều kiện khó khăn như
vậy, để có thể vượt ngục, tôi phải vượt qua mấy khó khăn mà khó khăn lớn nhất,
tôi chỉ có thể vượt ngục cùng với người bạn tù cùng canh gác với mình. Tôi
biết, để có thể kiếm được một người bạn tù mình tin tưởng là điều rất nan giải,
nhưng nếu kiên nhẫn, biết cách tìm kiếm, thuyết phục, điều này còn có cơ hội dễ
thực hiện hơn, so với việc thuyết phục người bạn tù cùng canh gác, chấp thuận
để mình vượt ngục, còn họ ở lại lãnh nhận sự trừng phạt của cộng sản.
Trong số những người bạn tù tôi
quen biết, trước khi gặp anh Dzoãn Bìn, tôi chỉ tin tưởng được có hai người.
Một anh tên Quang, gốc Thanh Hoá, thuộc lực lượng chính quy Bắc Việt, về hồi
chánh, từng tình nguyện tham gia lực lượng Delta Force, sau lấy vợ Huế, có một
con trai. Quang tính khí ngang tàng, liều lĩnh, nóng tính, gặp bất cứ điều gì
trái tai gai mắt, là la hét chửi bới, và nhào vô đập lộn, bất kể đối thủ là ai,
một người hay cả chục người. Ngay bản thân tôi, khi mới chân ướt chân ráo bước
vô Quân Lao Gò Vấp, ngay tối hôm đầu tiên, trong lúc chơi cờ tướng với Quang,
chỉ vì tôi đùa cợt về một hai nước cờ, Quang đã nổi khùng, chửi tôi, rồi người
nhào vô đánh tôi. Sau trận đập lộn đó, tôi và Quang trở thành bạn thân. Tình
bạn của chúng tôi trở nên tha thiết hơn, sẵn sàng sống chết cho nhau hơn, sau
lần tôi liều mạng cõng Quang, bất chấp lệnh của quản giáo Trường. Câu chuyện
đầu đuôi thế này…
Quang vì tính hay đập lộn, nên
nhiều lần bị quản giáo bắt giam trong conex. Lần Quang bị giam thê thảm nhất là
lần Quang đập lộn với một người tù “tự quản”, thuộc loại “gà nòi” của quản giáo
Trường. Thông thường bị giam trong conex 5 ngày đã là khủng khiếp, đằng này lần
đó Quang bị phạt giam tới 7 ngày! Ngày thứ 7, ngay từ buổi sáng, một người tù
nấu bếp cho chúng tôi biết, Quang đã hết “nhúc nhích”. Chúng tôi sốt ruột vô
cùng, nhưng đành bất lực.
Chiều hôm đó, anh em tù đang
xếp hàng điểm danh chuẩn bị vô phòng giam, thì tên quản giáo Trường bước tới ra
lệnh:
- Tất cả “chúng anh” đứng
nghiêm chờ tôi.
Quản giáo Trường là người thiểu
số, nói tiếng Việt không sõi, và không hiểu sao, y có tật chuyên môn gọi “các
anh” là “chúng anh”.
Sau khi ra lệnh cho chúng tôi
đứng nghiêm chờ, tên Trường bước tới conex ở ngay trước phòng giam A-1, mở
khoá. Quang đã bị giam trong đó đúng một tuần lễ! Ai bị giam trong conex đều
biết, đó là cả một cực hình, nhất là vào những ngày nắng hè oi bức. Trước đó,
đã có người bạn tù phải tự tử trong conex vì không chịu đựng nổi sự khổ ải, thì
đủ biết bị giam trong đó nguy hiểm và khủng khiếp đến thế nào. Cửa conex đã mở,
nhưng chúng tôi không thấy bóng dáng Quang đâu cả. Mùi hôi hám trong conex bốc
ra nồng nặc, khiến tên quản giáo Trường thụt lùi lại mấy bước, vừa bịt mũi, vừa
khạc nhổ lia lịa. Chúng tôi lo ngại, xót xa cho Quang, nhưng phải im lặng bồn
chồn chờ đợi. Tên quản giáo Trường quay về phía chúng tôi, vẫy vẫy chiếc dùi
cui, chỉ hai người đứng đầu hàng, phía bên phải, rồi hét giọng e é:
- Hai anh kia, đi vô lôi cổ nó
ra…
Hai người tù vội vàng chui vô
trong conex, nửa khiêng, nửa kéo Quang ra ngoài. Hai chân Quang vẫn bị còng,
thân hình Quang tiều tuỵ, nhẹ tênh, nét mặt thất thần…
Hai người tù vừa khiêng Quang
ra đến vỉa hè nhà ăn, thì tên quản giáo Trường hét lên:
- Để nó xuống đó, hai anh đi về
hàng.
Hai người tù vội để Quang xuống
vỉa hè nhà ăn, rồi trở lại hàng đứng. Vì nhà ăn đối diện phòng giam A-1, và
giữa các sân của mỗi phòng giam đều có hàng rào kẽm gai, cửa qua lại giữa các
sân cũng làm bằng dây kẽm gai, nên qua những lớp rào kẽm gai, chúng tôi thấy
Quang ngồi đó, chống hai tay xuống đất, vai so, cổ rụt… Quang ho rũ rượi một
hồi, rồi đưa cặp mắt buồn bã, u uất và tuyệt vọng nhìn chúng tôi….
Tên quản giáo Trường chỉ chiếc
dùi cui về phía Quang hét:
- Anh ngồi im đó, chờ lệnh tôi.
Nói xong, quản giáo Trường bước
vô sân phòng giam A-2 chúng tôi. Hắn lừ lừ liếc nhìn chúng tôi bằng cặp mắt hằn
học, oán giận, đỏ kè những gân máu…
Quản giáo Trường thấp khoảng
thước tư, thước rưỡi, trán thấp, tóc rễ tre, có gương mặt u ám, vô học, điển
hình của những người cán bộ cải cách ruộng đất. Là người thiểu số, không biết
là Nùng, Thượng hay Êđê, Trường nói tiếng Việt không sõi. Tính tình Trường độc
ác, hằn học với tù và rất hay kiếm cớ để hành hạ tù. Thời gian đó, tại Quân lao
Gò Vấp, vệ binh quản giáo VC có phong trào học võ nghệ, được chính một số tù là
võ sư, có võ đường, đứng ra huấn luyện. Với bản chất tàn nhẫn, độc ác, sau khi
ti toe học được ít võ nghệ, vệ binh quản giáo tại Quân lao Gò Vấp thường kiếm
cớ quy chụp tù tội này, tội nọ rồi mang tù ra dợt hội đồng ngay ngoài sân chơi
bóng chuyền, hay trong phòng thẩm vấn. Trong số những quản giáo thích mang tù
ra đánh hội đồng, có quản giáo Trường. Tuy nhiên, quản giáo Trường cũng là
người rất bộc trực, ruột ngựa, hay mở miệng chửi cộng sản. Mỗi khi về Bắc thăm
gia đình trở vô, quản giáo Trường thường tìm đến tù nhân tâm sự, chửi bới chế
độ cộng sản, rồi kể lể những nỗi khổ của gia đình y một cách công khai. Thoạt
đầu, nghe y nói, tù nhân đều không tin, cho y có mưu mô gì đây, nên chỉ ậm ừ
cho qua chuyện. Sau riết, có nhiều người hiểu, với bản chất của người thiểu số,
ít học, y dễ cuồng tín “nuốt sống, nuốt chín” bả tuyên truyền của cộng sản,
nhưng cũng dễ chửi bới cộng sản, khi y và gia đình phải chịu đựng những đói
khổ, những lừa lọc do cộng sản gây ra.
Sau một hồi lừ lừ nhìn những
người tù chúng tôi bằng cặp mắt oán hận, quản giáo Trường hét:
- Đảng nhà nước cho “chúng anh”
vô đây để cải tạo thành người tốt. Vậy mà “chúng anh” vô ơn, “chúng anh” phá
phách, đánh lộn. Tù “tự quản” là tù tiến bộ nhất của đảng và nhà nước. Anh
Quang đánh tù “tự quản” là đánh phá cách mạng, đánh phá đảng, là đồ phản động.
Quay qua phía Quang, Trường dơ
dùi cui, chỉ chỏ, hò hét:
- Anh Quang có biết tội phản
động của anh chưa?
Quang thều thào nói gì đó nghe
không rõ. Tên Trường lại hét:
- Để chuộc tội phản động của
anh, tôi ra lệnh anh Quang phải bò từ đó về hàng!…
Nghe tên Trường hét bắt Quang
phải bò về hàng, anh em tù trong hàng bỗng xôn xao, phản đối. Là những người tù
chính trị, chúng tôi chấp nhận bị trừng phạt như bị cùm chân, cùm tay, bị cắt
khẩu phần ăn, bị tống giam trong conex, bị cấm nhận quà thăm nuôi, kể cả bị
đánh đập hay bị xử bắn, nhưng chúng tôi không dễ gì chấp nhận bị làm nhục như
bị cộng sản bắt phải quỳ, phải bò…
Tên quản giáo Trường quay lại
phía chúng tôi, múa chiếc dùi cui rồi hét:
- “Chúng anh” câm miệng!
Quay sang Quang, quản giáo
Trường lại thét:
- Anh Quang, nghe tôi nói chưa?
Anh bò ngay về hàng!…
Anh em tù chúng tôi vẫn xôn xao
phản đối. Còn Quang lúc đó, vì quá mệt mỏi, chân lại bị xiềng bằng loại xiềng
gang do lò rèn của trại chế ra theo kiểu vẽ ác độc của tên trưởng trại, nên
Quang rất lúng túng. Thêm nữa, từ vỉa hè nhà ăn xuống đến sân của phòng giam
A-1 có hai hay ba bậc rồi lại thêm một rãnh thoát nước mưa rộng khoảng hơn gang
tay, làm cho Quang quýnh quáng, muốn bò mà không bò được, trông thật tội nghiệp
vô cùng… Tôi lúc đó đứng ngay hàng đầu, nên thấy rất rõ cảnh tang thương của
Quang. Vì tính khí ngang ngược của Quang nên trong tất cả những người bạn tù,
chỉ có tôi là người duy nhất chơi thân với Quang. Nay trong hoàn cảnh đó, Quang
không thể trông cậy vào ai ngoài tôi. Tôi cũng biết, tôi chơi thân với Quang,
bạn tù ai cũng biết, nên trong thâm tâm, tôi thấy mình có trách nhiệm phải giúp
đỡ Quang hơn cả… Nhưng giúp cách nào đây?.. Trong lúc bối rối, không kịp suy
nghĩ, không kịp hiểu mình phải làm gì, và tại sao mình lại hành động như vậy,
bỗng dưng tôi bước ra khỏi hàng, đi thẳng về phía Quang. Mới bước được vài
bước, tôi đã nghe tiếng quản giáo Trường hét lên, vừa ngạc nhiên, lúng túng,
vừa phẫn nộ:
- Ê… đứng lại! Anh Chí đứng
lại!
Tiếng thét của quản giáo Trường
vừa dứt thì tôi cũng đã đến bên Quang. Tôi xoay người, ngồi xuống, chìa lưng về
phía Quang và nói:
- Ôm lấy cổ tao, tao cõng…
Quang ngần ngừ và hoảng hốt:
- Đừng mày, nó đánh mày chết.
Tôi dứt khoát:
- Tao nói mày ôm cổ tao…
Vừa nói, tôi vừa xoay người
lại, nắm lấy hai cánh tay khẳng khiu của Quang, kéo choàng qua cổ tôi, rồi đứng
dậy, cõng Quang về hàng. Hai chân của Quang bị còng bằng còng sắt nên lủng
lẳng, đụng vào đùi tôi đau điếng, nhưng tôi cắn răng chịu… Một bước, hai bước,…
Cả trại tù bỗng im lặng rợn người… Rồi tự dưng, một tiếng, hai tiếng vỗ tay nổi
lên rời rạc, rồi tất cả gần trăm người tù cùng vỗ tay vang dội. Tôi xúc động
muốn ứa nước mắt… Quay sang phía quản giáo Trường, tôi thấy mặt y hầm hầm, mắt
y lừ lừ nhìn tôi, rồi y quát:
- Ai cho phép anh cõng tên
Quang?
Tôi biết, trong giây phút không
kịp suy nghĩ, tôi đã làm một điều vô cùng nguy hiểm. Tôi sẽ phải trả giá rất
đắt cho hành động của tôi. Vì vậy, để gỡ gạc phần nào nguy hại, tôi cố gắng trả
lời quản giáo Trường bằng một giọng thật nhã nhặn:
- Thưa quản giáo, như quản giáo
đã nhiều lần nói, chúng tôi vô đây là để được cải tạo trở thành người tốt hơn,
chứ không phải để bị làm nhục. Nếu quản giáo thấy anh Quang có tội, quản giáo
cứ việc trừng phạt theo đúng nội quy của trại tù, chứ không thể bắt anh ta bò,
vì trong nội quy của trại tù không hề có điều khoản nào cho phép quản giáo
trừng phạt tù bằng cách bắt tù phải bò.
Quản giáo Trường lừ lừ nhìn
tôi, miệng lầu bầu mấy tiếng, tôi nghe không rõ. Rồi y quát lên:
- “Chúng anh” đi vô!
Tôi thở phào thoát nợ, và chẳng
hiểu sao lúc đó, trong lòng tôi bỗng dâng lên niềm cảm xúc rất vô lý, “thầm
biết ơn” quản giáo Trường đã “tha tội” cho tôi!?
Sau lần xảy ra biến cố đó, tình
bạn giữa tôi và Quang vô cùng thân thiết. Tôi tin tưởng Quang đến độ một đêm
nọ, tôi nói với Quang ý định vượt ngục của tôi, và rủ Quang cùng vượt ngục khi
hai người cùng chung một phiên gác. Tôi nói với Quang mỗi ca gác 2 tiếng, chúng
tôi phải mất một tiếng để hai người gác trước ngủ say. Tiếp theo, chúng tôi
phải chờ cho tên vệ binh mở cửa tò vò của phòng giam, để báo cáo mọi chuyện yên
tĩnh. Sau đó, thời gian để tên vệ binh trở lại mở cửa tò vò lần kế phải mất ít
nhất nửa tiếng đến một tiếng. Như vậy chúng tôi sẽ có nửa tiếng đồng hồ để vượt
ngục.
Tôi cũng nói cho Quang biết,
địa hình của Quân lao tôi đã nắm rất rõ. Thời đó, nóc Quân lao thường bị thủng,
mỗi khi mưa, nước chảy vô trong rất nhiều, nên đôi khi chúng tôi được lệnh leo
lên trên nóc, lấy nhựa đường bít những chỗ thủng. Tôi may mắn được lên nóc Quân
lao hai lần. Lần thứ nhất, tôi quan sát địa hình, địa vật chung quanh, và tình
cờ phát hiện ra một cơ hội đặc biệt có thể giúp tôi vượt ngục tại Quân lao Gò
Vấp dễ dàng….
Tôi không biết cấu trúc của khu
B và C của Quân lao Gò Vấp như thế nào, nhưng khu A có 3 phòng giam là A-1, A-2
và A-3. Ngay đằng sau mỗi phòng giam có một phòng vệ sinh dính liền, với mái
bằng, đổ bê tông rất kiên cố. Trên nóc của phòng vệ sinh có một lỗ vừa để thông
hơi, vừa để lấy ánh sáng mặt trời. Lỗ thông hơi này rộng mỗi chiều khoảng 60
phân. Nằm giữa lỗ thông hơi là hai thanh sắt loại cọc hàng rào kẽm gai, được
đặt song song, cách nhau khoảng 20 phân. Vì hai thanh sắt này được đặt ngay
trong lớp bê tông khi mới xây, cộng với mặt có rãnh trũng của thanh sắt quay
lên trời, nên lâu ngày, nước mưa đọng trong rãnh, đã ăn mòn cả hai thanh sắt. Ở
trong phòng vệ sinh, nhìn từ dưới nhìn lên, thì thanh sắt vẫn còn nguyên vẻ
kiên cố. Nhưng nhờ lên trên nóc nhà, tôi có cơ hội nhìn hai thanh sát từ phía
trên, thấy được sự rỉ sét nhiều tới mức, một người có thể dùng một thanh sắt
hay khúc gỗ bẻ gẫy cả hai thanh sắt này dễ dàng.
Phát hiện ra điều này tôi rất
mừng. Để có thể tận dụng được cơ hội này, tôi bí mật “đổi chác” cho một anh tù
ở nhà bếp để lấy một ít muối. Ngoài ra, tôi cũng nhặt được một ống sắt làm ống
nước, dài khoảng 60 phân, có chu vi vừa bằng cổ tay. Tôi vứt ống sắt này ngay ở
hàng rào, bên ngoài phòng vệ sinh. Lần lên nóc Quân Lao lần thứ hai, tôi kín
đáo mang theo gói muối, trộn lẫn với cát, rồi nhét vô rãnh hai thanh sắt, để
tăng tốc độ rỉ sét, bào mòn hai thanh sắt. Tôi cũng kín đáo mang theo ống sắt,
rồi để ngay cạnh lỗ thông hơi trên nóc phòng vệ sinh. Vì đó là lỗ thông hơi của
nhà cầu, rất hôi thối, nên mọi người đều tránh xa, không một ai để ý đến việc
làm kín đáo của tôi. Ống sắt để cách lỗ thông hơi không đầy 20 phân, được các
loại dây leo bao phủ, nên rất an toàn. Tôi dự định, khi vượt ngục, từ bên dưới
nhà vệ sinh, tôi chỉ cần thò tay lên là nắm được ống sắt và dùng nó bẻ gẫy hai
thanh sắt chắn lỗ thông hơi một cách dễ dàng. Sau đó, với khả năng của một
thường xuyên chơi xà đơn (high bar), xà kép (parallel bars) ở trung tâm thể
thao Phan Đình Phùng thời trước 1975, tôi có thể chui qua lỗ thông hơi ra ngoài
một cách dễ dàng….
KỲ 50
Nung nấu trong lòng ý chí vượt
ngục bằng mọi giá, tôi đặt hết niềm tin tưởng vào Quang và đinh ninh Quang sẽ
vượt ngục cùng với tôi. Nhưng tôi không ngờ, hai ngày sau, Quang buồn rầu cho
tôi biết, Quang không thể vượt ngục. Ngay khi nghe Quang nói, tôi biết ngay lý
do Quang quá yêu vợ và thương con. Với Quang, tất cả mọi hạnh phúc trên cõi đời
này, kể cả sự tự do của chính bản thân Quang, sẽ hoàn toàn vô nghĩa, nếu Quang
không được sống bên cạnh vợ con. Viễn ảnh vượt ngục ra ngoài, trở về Huế đón vợ
con rồi vượt biên ra ngoại quốc, là cả một chuyện vô cùng xa vời và không tưởng
đối với Quang. Quang chấp nhận ở lại trong tù, chịu đựng tất cả mọi nỗi khổ
đau, để chờ ngày được đoàn tụ với vợ con, hơn là phiêu lưu vào con đường vượt ngục
vô cùng nguy hiểm.
Quang từ chối vượt ngục làm tôi
rất buồn, nhưng tôi không hề trách Quang. Tôi cũng không hề lo ngại về ý định
vượt ngục mà tôi đã tin tưởng tâm sự với Quang. Tôi hiểu Quang là người rất
trung thành với bằng hữu.
Hai ngày sau ngày Quang từ chối
vượt ngục, phòng giam A-2 của tôi nhận thêm một người tù cao to đặc biệt, có
tướng mạo giống người Châu Âu, với nước da trắng xanh, bộ râu quai nón xồm xoàm
và mái tóc để dài tới ngang vai. Khác hẳn tất cả những người tù chúng tôi một
khi vô phòng giam đều được cởi còng tay, xiềng chân, người tù đặc biệt này vẫn
bị còng tay, xiềng chân. Thấy người tù mới khí vũ hiên ngang, tướng tá ngon
lành, tôi lân la làm quen, và được anh cho biết, tên anh là Vũ Hoàng, nguyên võ
sư có võ đường ở Chợ Lớn. Hỏi anh tội gì bị bắt, anh chỉ cười không nói.
Chiều tối hôm đó, tôi lấy phần
cơm đem vô cho anh. Anh cảm ơn, nhưng không hề đụng đũa đụng chén. Trong khi
chúng tôi ăn, anh ngồi nhắm mắt dưỡng thần, thở ra hít vô kêu vo vo mà hơi thở
rất dài và sâu. Tôi nghĩ có lẽ anh là võ sư nên hơi thở phải khác hẳn người
thường…
Tối hôm đó, anh em chúng tôi
mấy người xúm xít nghe anh nói chuyện. Tuy ở trong tù, nhưng thái độ của anh
ung dung tự tại, làm chủ được cả thể xác lẫn tinh thần, nên chúng tôi rất khâm
phục.
Đến 9 giờ tối, tiếng kẻng nổi
lên, báo giờ đi ngủ. Chúng tôi ai về chỗ người nấy, nhưng ai cũng bồi hồi trong
dạ khi nghĩ đến những câu chuyện lên võ đài của anh, chuyện võ sư Bảo Truyền
biểu diễn trên truyền hình như thế nào, chuyện sư phụ của anh sang Miên bị bùa ngải
ra làm sao…
Trằn trọc nghĩ đến những câu
chuyện anh kể, nghĩ đến mưu kế vượt ngục của mình khó có thể thực hiện, tôi ngủ
thiếp đi lúc nào không hay. Đang ngủ, bỗng nhiên tôi giật mình nghe hai, ba
tiếng súng nổ, rồi tiếng kẻng ngũ liên đổ hồi, tiếng chó sủa, tiếng vệ binh
quản giáo la hét ầm ĩ bên ngoài… Tôi vội ngồi dậy, nhưng không dám ra khỏi
mùng, vì nội quy của trại đã quy định, trong đêm tối, khi nghe kẻng báo động,
mọi tù nhân phải ngồi nguyên trong mùng. Ai đi lại lung tung có thể bị quản giáo,
vệ binh “xử lý” tại chỗ. “Xử lý” ở đây có nghĩa, người nào vi phạm sẽ bị bắn
bỏ.
Tuy ngồi ở trong mùng, nhưng
tôi vẫn nghe tiếng anh em bạn tù xôn xao:
- Vũ Hoàng trốn rồi!
- Vũ Hoàng nào?
- Vũ Hoàng võ sư mới vô hồi
chiều…
Tôi ngạc nhiên, vội hé mùng, nhìn
về phía Vũ Hoàng ngồi hồi tối, cách chỗ tôi nằm khoảng bốn manh chiếu. Vì đề
phòng tù vượt ngục, nên trong phòng giam lúc nào đèn cũng sáng trưng. Nhờ vậy,
tôi nhìn thấy rõ, chỗ Vũ Hoàng ngồi lúc tối kể chuyện cho chúng tôi nghe, bây
giờ trống trơn. Ngay giữa manh chiếu rách là chiếc còng tay và chiếc cùm chân
mà Vũ Hoàng đã tháo ra và để lại thật gọn gàng. Tôi vừa khâm phục vừa tự hỏi,
không biết Vũ Hoàng đã vượt ngục bằng cách nào, và sao anh lại có thể vượt ngục
nhanh như chớp vậy? Thông thường, bất cứ người tù nào muốn vượt ngục, bao giờ
cũng phải mất một thời gian điều nghiên đường đi nước bước, trước khi vượt
ngục. Riêng Vũ Hoàng thì không vậy. Buổi chiều anh bước vô phòng giam với chiếc
còng tay, chiếc cùm chân và xích sắt cầm trên tay nặng tổng cộng cả chục kí lô
do tù lò rèn “tự quản” làm ra, để rồi ngay trong đêm, anh đã tháo còng, tháo
cùm, vượt ngục… Anh quả thực tài ba!
Nghe tiếng súng nổ, sau đó mới
đến tiếng kẻng ngũ liên đổ dài từng hồi, rồi tiếng vệ binh, quản giáo la hét
cùng tiếng quân khuyển sủa ầm ĩ suốt cả nửa tiếng đồng hồ,… chúng tôi đoán, anh
Võ Hoàng đã vượt ngục thành công. Kinh nghiệm tại Quân lao Gò Vấp cho chúng tôi
biết, một người vượt ngục, khi bị phát hiện, lệnh báo động được ban ra, chỉ
trong mươi, mười lăm phút là tối đa, người tù đó sẽ bị bắt lại, hoặc bị bắn
chết.
Từ khi vô Quân lao Gò vấp, tôi
biết có bốn cuộc vượt ngục, tất cả đều bị thất bại. Năm người bị bắn chết ngay
giữa hàng rào với bức tường gạch kiên cố quanh Quân lao. Xác họ bị vùi ngay nơi
họ bị bắn chết. Không điều tra, không báo cáo, không cho cả thân nhân của người
tù biết. Trong bốn cuộc vượt ngục đó chỉ có một một người tù bị bắt lại. Anh
này bị đánh đến ngất xỉu ở ngoài hàng rào. Sau đó, hai vệ binh nắm hai chân
người tù kéo dọc theo con đường lót sỏi, đi về phía conex ở khu B. Hôm đó, tôi
nhìn qua ô tò vò ở cửa sắt, thấy rõ mặt người tù đầy máu, đầu người tù bị kéo,
lúc lật sang bên trái, lúc lật sang bên phải, không có dấu hiệu gì chứng tỏ
người tù còn sống. Vậy mà như có phép màu, người tù đó vẫn sống, sau khi trải
qua những ngày nóng bức khùng điên trong conex, những trận đòn thù tra tấn liên
miên. Chỉ tội là anh bị câm và điếc mất một bên tai. Một mắt của anh cũng bị hư
hoàn toàn, vì bị vệ binh đánh lòi con ngươi ra ngoài, để lại một hốc mắt sâu
hoắm, lúc nào cũng rỉ máu mủ, ngồi đâu cũng có ruồi bâu…
Sau khoảng nửa tiếng ầm ĩ,
huyên náo bên ngoài, tôi nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng hét của vệ
binh, tiếng súng lên đạn nghe thật ghê rợn… rồi hai cánh cửa sắt phòng giam A-2
mở toang, kèm theo ánh đèn pha sáng rực chiếu từ bên ngoài. Quản giáo Trường
hét lên:
- “Chúng anh” tất cả nằm xuống,
không được nhúc nhích…
Nằm trong mùng, tôi âm thầm
quan sát, thấy hai tên vệ binh cầm súng AK-47 hườm sẵn, bước vô, chĩa súng về
hai phía bên trái và bên phải phòng giam. Sau một phút im lặng, không thấy động
tĩnh gì, hai tên vệ binh khác bước vô, đi thẳng tới chỗ nằm của anh Vũ Hoàng.
Một tên vệ binh cúi nhặt chiếc còng và chiếc cùm sắt, vật dụng cuối cùng của
anh Vũ Hoàng để lại, rồi đi thẳng ra ngoài. Sau đó, hai tên vệ binh khác cùng
quản giáo Trường bước vô, chiếu rọi đèn bấm tứ tung trong phòng giam, rồi chúng
bước về phía nhà cầu. Không hiểu sao, ngay giây phút đó, người tôi nóng ran,
linh tính sui khiến, tôi đoán ngay, anh Vũ Hoàng đã vượt ngục bằng chính lỗ
thông hơi trên nóc nhà cầu… Nhưng tôi đã đoán lầm. Anh Vũ Hoàng không vượt ngục
bằng lối đó.
Sau một hồi lục soát, tất cả vệ
binh, quản giáo đi ra ngoài. Tên quản giáo Trường bước ra sau cùng với hai tên
vệ binh, rồi tiếng cửa sắt khép lại ghê rợn, tiếng khoá loảng xoảng bên ngoài…
Ngay khi cánh cửa sắt được khoá
lại, tôi vội vàng vô nhà cầu giả vờ đi tiểu. Ngước mặt nhìn lên nóc nhà cầu,
tôi thấy lỗ thông hơi vẫn còn nguyên vẹn. Một khung trời đen nhỏ xíu với vài vì
sao nhấp nháy, như réo gọi tôi hãy vượt thoát tìm đến với tự do…
Trở về mùng, tôi thao thức
không ngủ. Tôi không hiểu anh Vũ Hoàng đã vượt ngục bằng cách nào mà tài tình
đến như vậy. Tôi ước ao có được tài năng của anh để vượt ngục, để làm một người
anh hùng, đêm đêm tung hoành đó đây, “làm thịt” những tên cộng sản tội đồ của
dân tộc… Trong đêm khuya, vang vọng từ ở vùng nào đó rất xa, có tiếng chuông
nhà thờ, tiếng xe chạy rì rầm như có như không… Tôi đoán chừng lúc đó khoảng 4
giờ sáng.
Cuộc vượt ngục thành công của
anh Vũ Hoàng làm cho ban chỉ huy VC tại Quân lao Gò Vấp rất điên đầu vì chúng
không tài nào điều tra được anh Vũ Hoàng đã trốn trại bằng cách nào, ra bằng
ngả nào. Anh đến thật bất ngờ, ra đi cũng bất ngờ, và vật dụng duy nhất chứng
tỏ anh đã đến và đi là chiếc còng và chiếc cùm với chùm dây xích anh để lại.
Tuy không biết anh Vũ Hoàng đã trốn bằng cách nào, nhưng ban chỉ huy VC vẫn ra
lệnh tăng cường các biện pháp an ninh của trại giam. Thêm hai hàng rào kẽm gai
được dựng lên chung quanh trại. Hàng tấn dây kẽm gai được gửi vô các phòng giam
để phủ lên lớp dây kẽm gai cũ trên các trần nhà. Nhưng đau khổ và tuyệt vọng
cho tôi hơn cả là một lớp dây kẽm gai mới dầy đặc, cũng được phủ lên trên nóc
lỗ thông hơi trong nhà cầu. Như vậy là ước mơ vượt ngục qua lỗ thông hơi trong
nhà cầu của tôi bị tiêu tan. Tôi phải tìm cách khác. Cách khác là cách nào, tôi
nghĩ chưa ra, nhưng tôi biết nếu mình đã quyết tâm và kiên nhẫn, thì sớm muộn
gì cũng sẽ có cách.
Hai tháng sau, chúng tôi đón
nhận một đợt tù cải tạo mới chuyển về, trong đó có anh Dzoãn Bình. Chỉ trong
một thời gian rất ngắn, tình cảm giữa tôi với anh Dzoãn Bình trở nên vô cùng
thân thiết. Sống trong A-2 lúc đó, đại đa số là hồi chánh viên trong cuộc chiến
tranh Việt Nam từ 1960 đến 1975, trong đó có tới phần ba là lính chính quy Bắc
Việt. Còn lại là người Miền Nam. Riêng anh Dzoãn Bình tuy bị VC xếp vào loại
hồi chánh, nhưng đúng ra, anh đã bỏ Việt Minh từ thời trước 1950. Sau khi từ
vùng Việt Minh kiểm soát trở về Hà Nội, mà ngôn ngữ của Việt Minh thời đó gọi
là “dinh T”, anh Dzoãn Bình đã vô quân đội Pháp, và là một sĩ quan, nhưng tôi
không nhớ rõ anh kể tôi nghe, đến 1954, anh cấp bậc gì.
Đến đây, tôi cũng xin thẳng
thắn và thành thật kể lại những sự thực đau lòng, vì những sự thực này sẽ giúp
quý độc giả hiểu rõ hơn bản chất của người cộng sản, cùng những tác hại to lớn
mà chủ nghĩa cộng sản đã gây cho dân tộc Việt Nam.
Không biết một ai đã nói, con
người là sản phẩm của chế độ. Điều đó rất đúng. Tuy không đúng 100% nhưng đúng
tới 90%. Trong phòng giam A-2 lúc đó, có tới phần ba là hồi chánh viên gốc
chính quy Bắc Việt. Và tôi phải thành thực thú nhận, thành phần này mất nhân
tính nhiều hơn so với hai phần ba hồi chánh viên gốc Miền Nam. Vào thời điểm
đó, tôi chỉ nhìn thấy sự khác biệt này xuất phát từ những dị biệt về đời sống
kinh tế của Miền Nam với Miền Bắc. Miền Bắc đói khổ nên con người sống ở Miền
Bắc tham lam, ích kỷ hơn so với Miền Nam. Nhưng anh Dzoãn Bình đã phân tích cho
tôi thấy, nguyên nhân khiến lính chính quy Bắc Việt tàn nhẫn, thủ đoạn, ít nhân
tính, là do họ sinh ra, lớn lên, trong chế độ CS, do chế độ CS nhào nặn.
Còn người Miền Nam, bản chất họ
thuần lương, được sinh ra và lớn lên ở Miền Nam, nên dù có theo CS, cũng chỉ
theo một vài năm, nên cái nhân tính, cái thuần lương, đôn hậu vẫn còn ở trong
lòng.
Sau này, ngẫm nghĩ những lời
anh Dzoãn Bình nói, tôi thấy anh rất có lý. Năm 1954, biết bao nhiêu thân nhân
chia tay nhau, kẻ ở lại Miền Bắc, người di cư vô Nam, trong tình nghĩa mặn
nồng, khi đó, bản chất, tình người, lòng yêu thương, cùng những đức tính nhân
nghĩa lý trí tín, của kẻ ở người đi, đều giống hệt nhau. Vậy mà 20 năm sau, sau
30-4-1975, cũng những người thân thương đó từ Miền Bắc vô Miền Nam, họ đã đổi
khác rất nhiều. Họ ăn nói thiếu thành thật, họ tuyên truyền cho VC một cách rẻ
tiền, họ trở nên vụ lợi, coi rẻ tình nghĩa, họ mê đắm từ cái xe máy, chiếc đồng
hồ, cho đến cái chén đôi đũa… Tôi không muốn vơ đũa cả nắm, nhưng chính kinh
nghiệm bản thân trong gia đình tôi, và câu nói “Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận
hàng” cho thấy đây là một nỗi đau, một sự băng hoại về lương tâm cho dân tộc VN
mà CS là thủ phạm.
Rồi trong những năm sau 1975,
thảm kịch đó lại tái diễn, khi chúng ta chia tay với những người thân thương
đầy nhân nghĩa, đạo đức, tình người của Miền Nam, để lên đường vượt biên. Hai,
ba chục năm sau, khi những người thân thương của chúng ta ra hải ngoại đoàn tụ,
hay thăm viếng, chúng ta giật mình và đau buồn khi thấy họ “khác xưa” rất
nhiều…
Anh Dzoãn Bình là một người vì
lòng yêu nước nên đi theo Việt Minh. Nhưng ngay khi nhìn thấy sự gian trá, xảo
quyệt, phi nhân của Việt Minh, anh đã nhanh chóng đoạn tuyệt, nên anh còn giữ
nguyên được bản chất thuần lương, đôn hậu, phóng khoáng, chịu chơi của người
Việt quốc gia chân chính, của người Việt văn hiến. Vì vậy, khi phải sống với
những người cộng sản, dù họ là cộng sản đã hồi chánh, anh Dzoãn Bình luôn luôn
coi đó là một cực hình, và anh công khai và thẳng thắn thể hiện thái độ khinh
bỉ họ, căm ghét họ, ra mặt. Riêng với tôi, tuy xưng hô anh em, nhưng anh yêu
thương tôi như con. Mỗi khi chỉ cho tôi thấy cái xấu xa, bất nhân của người
cộng sản, anh vẫn nói với tôi, “Tôi không hiểu sao, cậu khác họ. Cậu không phải
là họ”. Ngay trong những ngày tháng ấy, tôi đã vô cùng biết ơn tình thương yêu
và lòng tin tưởng của anh dành cho tôi. Sau này, nghe tin anh tự tử trong tù,
tôi vô cùng xúc động, nhớ lại ngày xưa, anh đã nhiều lần nói với tôi ước nguyện
duy nhất còn lại trên cõi đời của anh, là nếu anh trốn thoát được ra nước
ngoài, anh sẽ tổ chức ngay một cuộc họp báo quốc tế, để anh nói một câu duy
nhất, “Chủ nghĩa cộng sản là thảm hoạ của dân tộc VN, và của toàn nhân loại”.
Nói xong câu đó, anh sẽ tự tử, chết ngay trước mặt các phóng viên, các nhà báo,
các máy quay phim truyền hình quốc tế. Anh nói với tôi, kinh nghiệm sống và sự
hiểu biết của anh về cộng sản đã khiến anh có đủ can đảm và đức tin để làm được
điều hữu ích cuối cùng của cuộc đời anh trên mặt đất này. Anh muốn cái chết của
anh sẽ thắp sáng một sự thật, một chân lý: Chủ nghĩa cộng sản là thảm hoạ cho
dân tộc VN và của toàn nhân loại!
Trong suốt mấy chục năm qua, kể
từ ngày chia tay anh, hình ảnh anh luôn luôn gắn liền trong cuộc sống của tôi,
giúp tôi sống còn, vượt qua những thử thách trong cuộc đời, trong tình người.
Mỗi khi có dịp thuận tiện, tôi đều tâm sự với bạn bè, với vợ con, với tất cả
những người tôi quen biết, về anh. Khi bắt đầu làm báo, tôi lấy tên anh làm bút
hiệu. Và tôi luôn luôn vững tin, trên con đường tôi đi, dù nguy hiểm hay khó
khăn đến thế nào đi nữa, nếu tôi làm đúng, tôi biết đi theo lẽ phải, thì bất cứ
lúc nào và bất cứ ở đâu, tôi cũng sẽ được anh linh của anh phù hộ. Phù hội lúc
tôi sống, và phù hộ ngay cả lúc tôi nằm xuống vì bất cứ lý do gì! Niềm tin của
tôi không phải là mê tín, mà là một niềm tin thiêng liêng, có sức mạnh mãnh
liệt, và sức mạnh đó đã được chứng minh trên suốt con đường tôi đi, từ Miền Nam
ra Miền Bắc, sang Trung Cộng, đến Hồng Kông, rồi tới Úc…
Hơn một lần anh Dzoãn Bình nói
với tôi, anh không có con trai, chỉ có ba người con gái, nên anh coi tôi như
con trai của anh. Cuộc đời anh có nhiều tâm nguyện, nhiều nỗi buồn, trong đó
nỗi buồn lớn nhất, có nhiều ân hận nhất là anh đã làm cho chị Đàm
Chi Lan, vợ của anh buồn. Anh
khuyên tôi, trong cuộc đời của một người đàn ông, nếu không mang lại niềm vui,
hạnh phúc cho nhiều người, thì ít nhất, cũng cố gắng mang lại niềm vui, hạnh
phúc, cho một người, đó là vợ của mình.
Trong suốt thời gian sống tại
Quân lao Gò Vấp, cho đến khi bị đưa lên trại tù cải tạo Kàtum, ngoại trừ tôi và
anh Nở, anh Dzoãn Bình không hề chơi với một người tù CS nào, bất kể họ là hồi
chánh viên hay không. Chính thái độ công khai khinh bỉ, thù ghét một cách quyết
liệt của anh, đã dẫn đến một cuộc bề hội đồng, giữa một bên là gần chục tên đầu
gấu gốc hồi chánh, và một bên chỉ có anh và anh Nở.
KỲ 51
Sau khi được gặp anh Dzoãn
Bình, cuộc đời của tôi ở trong tù không còn tẻ nhạt và vô bổ như trước. Kiến
thức đa dạng cùng kinh nghiệm sống phong phú của anh qua những câu chuyện anh
kể đã giúp tôi có được những ngày tháng hứng thú và bổ ích. Tôi được nằm ngay
bên cạnh anh phía tay phải. Còn phía tay trái của anh là anh Nở. Anh Nở thì ít
nói chuyện, còn tôi và anh Bình thì tối nào cũng thì thầm nói đủ thứ chuyện, từ
chuyện gia đình, tình yêu, nghề nghiệp, đến những nhân vật tên tuổi của Miền
Nam. Sau này tôi ra ngoại quốc, tình cờ gặp gỡ nhiều nhà văn, nhà báo tên tuổi
của Miền Nam, tôi mới biết, hầu hết những chuyện anh nói, đều là sự thật.
Sau vài tháng quen biết và hoàn
toàn tin tưởng ở tôi, anh Dzoãn Bình và tôi bàn bạc kế hoạch vượt ngục như tôi
đã kể. Chúng tôi biết, cuộc vượt ngục nào cũng rất phiêu lưu, mọi bất trắc đều
có thể xảy ra, và khả năng thành công bao giờ cũng rất mong manh. Nhưng chẳng
hiểu sao, kế hoạch vượt ngục của chúng tôi lúc đó thật đơn giản, dễ dàng, và cả
hai anh em chúng tôi đều tin tưởng sẽ thành công. Vì vậy, chúng tôi đều hồi hộp
chờ đợi ngày cả hai anh em cũng được lệnh ra ngoài lao động, để có cơ hội đào
thoát tìm tự do như đã dự tính. Giữa lúc cả hai anh em đều hồi hộp chờ đợi
trong hy vọng, thì không ngờ, chỉ vì một tích tắc nóng giận mất khôn, tôi đã
làm đảo lộn tất cả… Câu chuyện đầu đuôi như sau.
Thời đó, tại Quân lao Gò Vấp,
mỗi buổi sáng, anh em tù cải tạo chúng tôi phải xếp hàng trước nhà giam, chờ
quản giáo Trường và vệ binh đến lấy người đi lao động. Để tránh tình trạng tù
có thể cướp súng vệ binh, quản giáo, nên ban chỉ huy trại giam đã có lệnh bắt
vệ binh khi đeo súng, đến trại giam nhận tù, phải đứng ngoài hàng rào kẽm gai.
Còn quản giáo khi vô trong hàng rào để điểm danh tù đi lao động thì không được
phép đeo súng.
Thông thường, ra ngoài lao động
là điều tù nào cũng muốn, vì được thở hít không khí trong sạch tươi mát; được
phần nào bớt tù túng khi trông thấy sinh hoạt xã hội bên ngoài; có điều kiện
“cải thiện” hái được ít ngọn rau, nhặt được một hai trái ớt, quả chanh; và nếu
may mắn, có khi còn được dân thương giấu diếm ở bờ bụi cho ít cà phê, đường,
trà, thuốc lào, thuốc lá… Riêng tôi, vì chỉ thích nằm nhà nghe anh Dzoãn Bình
kể chuyện, hoặc đọc sách, nên tôi thường cáo ốm, để khỏi phải đi lao động.
Vì lúc đó, công việc tại Quân
lao Gò vấp không nhiều, nên quản giáo và ban chỉ huy trại giam cũng không có
biện pháp gắt gao đối với việc tù cáo ốm để khỏi phải đi lao động. Nhưng phần
vì quản giáo Trường không ưa tôi kể từ lần tôi trái lệnh hắn, cõng Quang về
hàng, phần hôm đó số tôi không may, nên cả bốn người tù đứng trước tôi đều lần
lượt cáo ốm, nên tên Trường rất bực tức. Khi nhìn thấy tôi đứng ở hàng thứ 5,
tên quản giáo Trường càng tức giận, y chỉ chiếc dùi cui vô ngực tôi rồi ra
lệnh, giọng gắt gỏng:
- Còn anh này, hôm nay có ốm
nữa không?
Trong một thoáng rất nhanh, tôi
tính bước ra khỏi hàng, chấp nhận đi lao động ngày hôm nay. Nhưng nghĩ tới câu
chuyện hấp dẫn mà anh Dzoãn Bình đang kể dở dang tới đoạn phái đoàn báo chí ra
thăm Hạm Đội 7, nên tôi quyết ý “cáo ốm ở lại”. Tôi nói, giọng nhún nhường:
- Báo cáo quản giáo, hôm nay
tôi vẫn còn ốm, xin quản giáo cho phép tôi…
Tôi nói chưa dứt câu, quản giáo
Trường đã đỏ mặt, phùng mang, hét lên:
- Ốm nữa hả? Không được ốm! Hôm
nay tôi bảo anh đi lao động!
Tôi mềm mỏng hơn:
- Báo cáo quản giáo, hôm nay
tôi còn ốm, ngày mai tôi sẽ..
- Không có ngày mai, ngày kia
gì cả. Anh là chuyên môn ốm giả vờ!
- Thưa quản giáo, tôi… ốm thật.
Đến đây, quản giáo Trường tức
giận, y vừa dứ dứ chiếc dùi cui vào mặt tôi vừa thét lên:
- Ốm thật cũng đi. Ốm giả cũng
đi. Anh có đi không thì bảo?
Đến lúc này tôi thấy quả thật
mình đã cưỡi trên lưng cọp. Xuống cũng nguy hiểm mà tiếp tục cưỡi cũng khủng
khiếp không kém. Tôi chọn con đường nửa lý nửa tình:
- Thưa quản giáo, nội quy của
trại cho phép tù cải tạo nào ốm đau nặng được phép nghỉ lao động. Mà tôi hiện
giờ đang ốm nặng thật.
Quản giáo Trường điểm điểm
chiếc dùi cui vào ngực tôi, hai mắt hắn long lên sòng sọc, khoảng cách giữa mặt
hắn và mặt tôi chỉ có hơn gang tay, và lần này hắn nghiến răng, giọng rít lên,
đổi luôn cách xưng hô:
- Mày, mày, mày ngoan cố hả?
Tao nói, mày ốm giả vờ…
Bị chiếc dùi cui điểm vào ngực,
cộng với lối xưng hô thô lỗ mất dậy của tên quản giáo, khiến tôi cũng nổi điên.
Nhưng biết mình thân phận cá chậu chim lồng, nên tôi cố nén giận, nhưng mỗi lời
nói ra, tôi đều nói chậm rãi và nhấn từng tiếng:
- Quản… giáo… không… phải là
bác sĩ sao biết tôi ốm giả vờ?
Tên Trường càng tức giận thêm:
- Dù ốm thật, mày cũng phải đi
lao động hôm nay.
- Tôi…
- Tao đếm đến ba, mày không đi
là mày biết tay tao. Một…
- Thưa…
- Hai…
- Tôi…
- Ba…
Tiếng “ba” vừa dứt, tôi chưa
kịp nói, chưa kịp có phản ứng gì, kể phản ứng “chấp nhận đầu hàng”, chịu đi lao
động, thì tên Trường, tay phải vẫn dí chiếc dùi cui vào ngực tôi, tay trái vung
lên đấm ngay vào mặt tôi. Nếu lúc đó, tên Trường báo trước cho tôi biết, y sẽ
đánh tôi, chắc chắn tôi sẽ đủ khôn ngoan và bình tĩnh đứng yên để chịu đòn.
Nhưng vì hành động của tên Trường diễn ra quá đột ngột, nên ngay khi trái đấm
tay trái của tên Trường bay tới, theo phản ứng tự nhiên, tôi vội vung tay phải
gạt mạnh, đồng thời nắm đấm bên tay trái của tôi bung thẳng vô ngực quản giáo
Trường… Nói thì lâu, nhưng sự việc diễn ra lúc đó quá nhanh, và trước khi ý
thức được chuyện tày trời mình vừa làm là chuyện gì, thì tôi đã giật mình bàng
hoàng khi thấy quản giáo Trường té ngửa ngay trước mặt. Lúc đó, tuy sợ hãi,
nhưng sự tức giận khiến tôi mất khôn. Vì vậy, tôi vẫn chỉ thẳng vào mặt quản
giáo Trường, miệng hét to và toàn thân run bắn:
- Quản giáo… quản giáo… không
được quyền đánh tôi! Tôi có tội cứ đem bắn chết!…
Sau một, hai tích tắc lúng
túng, điên khùng, quản giáo Trường vội vã vớ chiếc kèn y vẫn đeo ở cổ, đưa lên
miệng thổi liên tục… Những người vệ binh đứng ngoài hàng rào vội vã lên đạn,
chĩa súng qua hàng rào rồi ra lệnh cho tôi phải đứng yên, nếu tôi nhúc nhích là
bắn!
Tôi đứng yên. Tôi không nhúc
nhích. Nhưng miệng tôi vẫn la to:
- Chúng tôi vô đây là để “cải
tạo” chứ không phải để quản giáo đánh đập. Quản giáo không được quyền đánh
chúng tôi.
Thời đó, tại Quân lao Gò Vấp,
vào mỗi buổi sáng từ Thứ Hai đến Thứ Sáu, đều có cán bộ chấp pháp cộng sản từ
phòng quân pháp của bộ tổng tham mưu đến Quân lao Gò vấp để làm việc, lấy khẩu
cung, tra khảo tù cải tạo, nên khi xảy ra chuyện, ở phía tay phải của phòng
giam A-1 lúc đó đang có mấy tên cán bộ chấp pháp, đeo “xà cột” đi ngang qua.
Nghe tiếng tôi la hét ầm ĩ, mấy tên vội đứng lại, nhìn qua hàng rào. Có lẽ nhận
ra tình thế lúc đó không thuận lợi cho y phát tác, tên quản giáo Trường vội lồm
cồm đứng dậy, xua tay và ra lệnh ngắn gọn:
- “Chúng anh” đi vô phòng.
Tất cả mọi người lặng lẽ vô
phòng. Riêng tôi không biết nên đi theo bạn tù, hay đứng lại chờ tên quản giáo
Trường ra lệnh. Giữa lúc tôi đang ngần ngừ, tên Trường phẩy tay:
- Đi vô, đi vô…
Vừa nói, miệng y vừa lẩm bẩm
điều gì, tôi nghe không rõ.
Ngay khi bước vô trong phòng
giam, tôi thấy không khí trong phòng khác hẳn. Mọi người đều yên lặng. Mọi sinh
hoạt bình thường của buổi sáng mọi ngày như chơi cờ tướng, trò chuyện, nấu trà…
đều ngưng hẳn. Ngoại trừ anh Dzoãn Bình và một số người bạn thân thiết của tôi,
còn mọi người đều có vẻ xa lánh tôi. Sau mươi phút bần thần, lo ngại, không
biết chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi, anh Dzoãn Bình ái ngại và buồn bã trách tôi:
- Cậu nóng quá… cậu mất khôn
rồi…
Tôi im lặng nhận lỗi.
Minh “mã tấu” bước tới, nói bộc
tuyệch bộc toạc, khiến tôi càng lo sợ:
- Tao nghĩ sớm muộn gì tụi nó
cũng sẽ đem mày ra xử bắn.
Cẩm, một hồi chánh viên, gốc
cán bộ tuyên truyền cấp trung đoàn của một đơn vị chính quy Bắc Việt, và là
người thuộc rất nhiều thơ của Nguyễn Bính, phân tích mạch lạc hơn:
- Bắn thì không, nhưng “nắn
xương nắn cốt” mày thì chắc chắn là phải có. Mày cứ lo chuẩn bị sẵn nửa kí lô
hạt mã tiền đi là vừa.
Thìn “rỗ”, cũng hồi chánh viên,
nhưng vì rất nhỏ con, lại rất khôn ngoan, nên tình nguyện “suốt đời kết cỏ ngậm
vành” làm chân điếu đóm cho đại ca Minh “mã tấu”, thì có vẻ thức thời hơn:
- Mã tiền mà làm cái gì. Sợ
dùng một hạt chưa xong thì đã ngoẻo rồi, lấy đâu mà dùng tới nửa ký. Anh Chí
phải biết, tù mà đánh quản giáo là dại dột vô cùng.
Tôi thở dài:
- Điều đó ai mà chả biết. Nhưng
nó đánh bất ngờ quá nên tôi mới mất khôn đi đánh lại nó…
Ngay lúc đó, có người gõ cửa tò
vò. Thìn “rỗ” vội nhanh chân chạy ra. Thìn “rỗ” và người bên ngoài không biết
là ai, cùng trò chuyện một hồi, rồi sau đó, Thìn đóng cửa tò vò, chạy vô, thì
thầm báo tin cho mọi người biết:
- Chiều nay, tụi nó sẽ đem anh
Chí ra đánh hội đồng.
Mọi người ồ lên, xúc động và lo
lắng. Tôi lịm người trong sợ hãi và ân hận. Minh “mã tấu” hỏi Thìn:
- Chiều nay là mấy giờ?
Thìn “rỗ” kính cẩn:
- Thưa anh cả, em nghe nói là
sau 4 giờ chiều, khi tụi cán bộ của phòng quân pháp ra về, là chúng sẽ đem anh
Chí ra đánh cho nhừ xương.
Cẩm, người được coi là “quân
sư” cho Minh “mã tấu”, hỏi:
- Mày nói “chúng nó” là gồm mấy
người?
- Em chỉ biết là tụi vệ binh
chúng nó, nhưng không biết bao nhiêu người.
Minh “mã tấu” gầm gừ:
- Thì vẫn “tiểu đội hành quyết
SS” của thằng Trường lùn.
Quản giáo Trường có dưới tay
một tiểu đội vệ binh. Tiểu đội này thường hành hạ, đánh đập, nhất là hay đánh
hội đồng tù cải tạo, nên được anh em trong tù cải tạo gọi toán đó là “tiểu đội
hành quyết SS”.
Anh Dzoãn Bình lo lắng hỏi tôi:
- Bây giờ cậu tính thế nào?
Tôi bần thần, đầu óc mụ mẫm,
chẳng hiểu anh Dzoãn Bình hỏi vậy là ý gì. Tôi hỏi lại:
- Anh hỏi em tính thế nào là
thế nào?
Anh Dzoãn Bình nhìn tôi xót xa,
nhưng câu hỏi có vẻ bực mình:
- Thì cậu tính xem, cậu có chịu
ra để cho chúng đập cho cậu một trận sống dở chết dở, hay cậu “làm reo” nhất
định không chịu ra cho chúng nó đánh.
Nói xong, không chờ tôi trả
lời, anh Dzoãn Bình quay sang phía Minh, Cẩm, Thìn, Lợi, Quyền… nói giọng rất
thân tình:
- Các anh xem có cách nào để
giúp cho Chí khỏi bị chúng đánh hội đồng không?
Xưa nay, tôi biết rất rõ, anh
Dzoãn Bình rất ghét những người cộng sản, kể cả những người hồi chánh viên. Lý
do, theo anh, một người đã có dính líu tới cộng sản, thì người đó không thể nào
đáng tin cậy được. Cũng vì đinh ninh tin tưởng như vậy nên trong tù, sống giữa
tất cả những người tù cải tạo gốc hồi chánh viên, anh Dzoãn Bình không hề trò
chuyện với ai, ngoại trừ anh Nở, tôi và một người khác, mà lâu ngày tôi đã quên
tên. Tuy nhiên, hôm nay vì quá lo ngại tới tính mạng của tôi, nên anh Dzoãn
Bình đã thay đổi thái độ, chấp nhận cầu cạnh tất cả những người mà anh ghét.
Cẩm “quân sư” lạnh lùng hỏi,
giọng mỉa mai:
- Anh ký giả có mưu kế gì hay
nói nghe coi.
Thái độ lạnh lùng, mỉa mai của
Cẩm “quân sư” đối với anh Dzoãn Bình cũng vì Cẩm biết rõ thái độ của anh Dzoãn
Bình. Cẩm hiểu điều đó, đồng thời Cẩm vẫn cho mình là một người có trình độ và
có tài, nổi tiếng mưu lược, nên vẫn coi thái độ cao ngạo của anh Dzoãn Bình là
một sự thách đố đối với Cẩm. Tuy nhiên, Cẩm không tiện phát tác với anh Dzoãn
Bình, vì Cẩm biết tôi rất quý anh Dzoãn Bình, mà Minh “mã tấu”, đại ca của Cẩm,
thì lại rất quý tôi vì mê nghe tôi kể chuyện chưởng Kim Dung.
Dĩ nhiên, anh Dzoãn Bình quá
hiểu lời nói mỉa mai của Cẩm, nhưng anh vẫn nhẫn nại:
- Tôi có một mưu kế, nhưng chỉ
có thể thành công nếu mọi người hậu thuẫn.
Nói đến đó, anh Dzoãn Bình im
lặng nhìn mọi người. Tất cả đều im lặng. Tôi biết, từ xưa đến nay, anh Dzoãn
Bình khinh bỉ những người gốc cộng sản và anh không hề giấu giếm sự khinh bỉ
này, cho dù những người cộng sản đó đã hồi chánh. Vì vậy, những người hồi chánh
đó cũng đều rất tức giận anh Dzoãn Bình. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, cả anh
Dzoãn Bình và phe Minh “mã tấu” đều không muốn tôi bị đòn, nên cả hai bên đều
chấp nhận một sự liên minh tạm thời. Nhưng liên minh như thế nào và liên minh
đó có thành công hay không, thì tôi không biết,
Thấy mọi người không nói gì,
anh Dzoãn Bình nói tiếp:
- Tôi thấy cách tốt nhất, khi
chúng nó gọi cậu Chí ra ngoài thì cậu nhất định không ra. Chúng nó có thể làm
áp lực, nhưng nếu tất cả mọi người trong phòng giam này cùng đoàn kết thì chúng
không làm gì được.
Cẩm “quân sư” hỏi:
- Chúng nó có vệ binh, có súng
đạn, sao anh ký giả bảo chúng không làm gì được?
Anh Dzoãn Bình gật đầu:
- Tôi đồng ý là chúng có vệ
binh, có súng đạn. Nhưng chuyện mang tù cải tạo ra đánh, chỉ là “nghề” của quản
giáo Trường và “tiểu đội hành quyết SS” của hắn, chứ không
phải của ban chỉ huy Quân lao.
Tôi nói vậy không phải là ban chỉ huy Quân lao nó nhân đạo gì, mà chỉ vì nó
thâm độc, khôn ngoan hơn, không muốn tai tiếng tới bên ngoài. Vì vậy, nếu mình
đoàn kết bảo vệ nhau thì chúng sẽ không dám làm to chuyện.
Cẩm “quân sư” lắc đầu:
- Anh ký giả nói vậy là anh
chẳng hiểu cái con mẹ gì về cộng sản tụi nó cả. Chuyện cả trăm vệ binh quản
giáo ở cái Quân lao này lôi tù cải tạo ra đánh là chuyện cơm bữa. Chúng đánh tù
ở ngoài sân banh, trong nhà ăn, trong phòng thẩm vấn, ngoài vườn rau, trong nhà
bếp… Nghĩa là chúng đánh tù ở khắp mọi nơi, và có hôm nào mà chẳng có. Tôi nói
cho anh ký giả biết chớ, tụi cộng sản trên dưới cùng ác độc như nhau. Càng lên
trên thì chúng càng độc ác, càng làm to thì chúng càng dã man. Anh bảo tụi này
đoàn kết giúp chuyện gì thì được, chớ “làm reo” không cho quản giáo Trường đánh
tù thì quả thực tụi này không dám.
Thâm tâm, tôi rất cảm ơn tấm
lòng yêu thương của anh Dzoãn Bình dành cho tôi. Nhìn anh, miệng đã móm, nay
hàm răng giả đã mất, nên càng thêm móm, tôi rưng rưng muốn khóc. Nhưng tôi phải
thú thực, kế hoạch “tù đoàn kết làm reo để bảo vệ tôi” là không thiết thực chút
nào. Thứ nhất, bảo tất cả những người tù liều chết chống lại quản giáo Trường
để cứu tôi là chuyện không thể được. Thứ hai, với sự tàn nhẫn, ác độc của người
cộng sản, làm sao chúng có thể thản nhiên khoanh chấp nhận hơn một trăm người
tù chống lại chúng? Hơn nữa, lúc đó, tôi và anh Dzoãn Bình đang chờ đợi ngày
không xa sẽ vượt ngục trở về với tự do, thì dại gì, tôi phải “ngoan cố” chống
lại chúng.
Thìn “rỗ” phá tan sự im lặng bế
tắc bằng một câu nói tôi nghe thấy rất thiết thực, nhưng cũng thật ghê rợn:
- Em thấy tốt nhất là chúng ta
nên khuyên anh Chí trưa nay đừng có ăn “cơm”. Vì ăn vô mà bị tụi vệ binh chúng
nó đánh hội đồng thì chỉ có chết vì vỡ dạ dầy thôi….
KỲ 52
Nghe Thìn “rỗ” nói, mọi người
bỗng dưng đều im lặng. Sự im lặng thú nhận một sự thực, chúng tôi hoàn toàn bất
lực trong bàn tay của kẻ thù. Tụi vệ binh quản giáo đã muốn lôi tôi ra đánh vào
buổi chiều này, thì tôi không có cách nào tránh thoát. Tôi đã gây nên chuyện thì
tôi phải có gan gánh chịu. Điều quan trọng nhất bây giờ là làm sao tôi có thể
sống sót sau trận đòn thù. Vì vậy, đúng như Thìn “rỗ” nói, trong hoàn cảnh hiện
tại, mọi bàn luận đều vô ích, mọi biện pháp đều chẳng giải quyết được gì, chỉ
chọc giận tụi nó, và như vậy chỉ nguy hiểm thêm cho tôi mà thôi. Bây giờ cách
thiết thực nhất, giúp tôi có thể sống sót sau trận đòn hội đồng, là tôi phải
nhịn bữa ăn trưa. Đơn giản vậy thôi!
Nghĩ vậy, tôi cố nén xúc động,
nói:
- Em cảm ơn anh Dzoãn Bình và
các anh đã lo lắng cho tôi. Nhưng tôi thấy tất cả những cách các anh bàn từ nãy
đến giờ đều rất khó thực hiện. Vì vậy tôi không còn sự chọn lựa nào khác ngoài
việc chấp nhận để cho chúng nó đánh. Nếu các anh la hét hay tuyệt thực để bảo
vệ tôi, không cho chúng đánh tôi hôm nay, thì cho dù chúng có chịu thua hôm
nay, chúng vẫn còn nhiều dịp để đánh tôi trong tương lai. Thậm chí, nếu tôi
chống cự hôm nay, mai kia khi tôi ra ngoài lao động, chúng có thể bắn bỏ tôi
bất cứ lúc nào, rồi ghép tôi vào tội vượt ngục…
Chuyện ghép tù vào tội vượt
ngục rồi bắn bỏ là chuyện có thật đã xảy ra ngay ở Quân lao Gò Vấp trước khi
tôi tới. Ít nhất có hai chuyện, tôi được nghe. Anh em trong tù vẫn thường kể
cho nhau nghe những chuyện này để giúp nhau cảnh giác, thận trọng mỗi khi phải
ra ngoài lao động. Chuyện thứ nhất, một anh tù hình sự (lâu ngày tôi không còn
nhớ tên), gốc bộ đội, phạm tội ăn cướp một tiệm vàng ở Sàigòn. Khi vào
Quân lao Gò Vấp, không hiểu vì
lý do gì, có lần anh cãi với một tên vệ binh. Tên vệ binh đuối lý nên nuôi lòng
thù hận. Ngày nọ, khi mang tù ra ngoài lao động, tên vệ binh liền gọi anh đi
theo hắn. Nội vụ sau đó như thế nào không ai rõ, chỉ biết tên vệ binh đã bắn
chết người tù và khai anh ta đã bỏ chạy nên tên vệ binh phải bắn. Chuyện thứ
hai, một người tù đi lao động về, bị vệ binh giữ lại chuyện trò cho đến chập
tối, rồi tên vệ binh sai anh chui vô trong hàng rào kẽm gai nhặt hộ trái bóng
chuyền. Khi người tù chui vô, tay chưa với tới quả banh, thì bị tên vệ binh bắn
chết, và bị vu cho tội vượt ngục.
Tôi biết, tôi đánh lại quản
giáo là điều vô cùng dại dột. Nhưng để chuộc lại sự dại dột đó, tôi chỉ có cách
duy nhất là ngoan ngoãn ra ngoài cho chúng đánh. Còn chống lại chúng, trong
hoàn cảnh tù đầy như vậy, là tôi đã đi từ dại dột này đến dại dột khác, để rồi
cuối cùng, tôi có thể phải trả giá đắt bằng chính tính mạng của mình.
Vì anh em bạn tù ai cũng nghe,
cũng biết những vụ hành quyết tù bằng cách ghép cho tù tội vượt ngục, nên nghe
tôi nói vậy, ai cũng thấy hợp lý. Mọi người chỉ biết chúc tôi may mắn, rồi buồn
bã về chỗ của mình. Còn tôi, cố giữ thái độ bình thản, trò chuyện thản nhiên
với anh Dzoãn Bình, nhưng trong lòng tôi, bồn chồn lo lắng khôn tả.
Trưa hôm đó, khi chia “cơm”,
tôi nói anh em đừng chia cho tôi. Nếu sau trận đòn hội đồng, tôi còn đủ mạnh để
ăn, thì tôi ăn xuất “cơm” chiều cũng đủ. Hồi đó, cứ 5 người tù chung một mâm
“cơm”. Để bảo đảm chia chác được công bằng, mỗi người tù được chia một bữa.
Chia xong, các người tù nhận phần của mình, còn người tù nhận trách nhiệm chia
bữa đó phải nhận phần của mình sau cùng.
Sống trong tù, đói khát triền
miên là chuyện thường. Trong tù cộng sản, đói khát lại khủng khiếp hơn một bậc.
Vậy mà buổi trưa hôm đó, tôi phải nhịn đói, nhìn cảnh anh em bạn tù ăn uống, mà
lòng tôi bồn chồn lo lắng trận đòn thù sắp tới…. Đói, lo, tinh thần căng thẳng,
tôi đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Đang ngủ, bỗng tôi giật mình
thức giấc khi có người lay gọi. Mở mắt, tôi thấy anh Dzoãn Bình ngồi ngay cạnh,
nhìn tôi với anh mắt lo âu. Anh bảo:
- Bốn giờ rồi, cậu dậy chuẩn
bị.
Phải một vài giây bàng hoàng,
tôi mới nhớ ra trận đòn thù đang từng phút đến gần. Tôi ngạc nhiên:
- Em đâu cần phải chuẩn bị gì?
Anh Minh hất cằm về phía Minh
“mã tấu”:
- Nó bảo cậu mặc thêm một bộ
quần áo nữa bên ngoài… Mặc vậy nhẹ đòn đi nhiều lắm.
Ngay lúc đó, Minh bước tới,
cũng nói:
- Ông Chí nghe tôi mặc thêm bộ
quần áo nữa.
Minh hơn tuổi tôi. Người Hải
Phòng, tính khí ngang tàng, thích đập lộn, nhưng rất tốt với bạn. Trong tù,
Minh quý Cẩm, vì Cẩm là quân sư, chuyên viết thư hộ cho Minh; và tôi vì Minh
rất thích nghe tôi kể chuyện chưởng.
Tôi lắc đầu:
- Mặc làm gì hai bộ. Ra ngoài
nó thấy nó lột ra thì cũng vậy, mà nó còn khinh mình nhát.
Anh Dzoãn Bình cười héo hắt:
- Thì cậu nghe tôi, cứ mặc vô,
khi nào nó lột hãy hay. Còn nó khinh mình nhát thì mặc cha nó… Miễn sao mình
còn sống là được.
Tôi vẫn cương quyết:
- Không, em không mặc.
Thấy tôi cương quyết như vậy,
Minh bỏ về. Anh Dzoãn Bình nhìn tôi định nói gì, lại thôi.
Tôi lấy khăn mặt, nhúng nước,
lau mặt mũi tử tế, rồi ngồi xuống chờ đợi. Cho đến lúc đó, tôi vẫn cầu mong,
tin tụi vệ binh quản giáo sẽ đánh hội đồng tôi do người tù “tự quản” bao tin là
tin vịt. Tôi biết niềm hy vọng của tôi vô cùng mong manh và vô lý, nhưng trong
giây phút đó, tôi đâu biết bấu víu vào đâu…
Không khí trong phòng giam lúc
đó oi bức và ngột ngạt khôn tả. Tất cả mọi người tù trong phòng, không ai bảo
ai, cũng đều ngồi im lặng, chờ đợi…
Bốn giờ 20, rồi bốn giờ rưỡi…
vẫn không thấy động tĩnh gì. Bỗng nhiên, người tù đứng ở cửa sắt, khom lưng
nhìn qua cửa tò vò la lên khe khẽ:
- Tới rồi… Chúng nó tới…
Cả phòng giam đột nhiên trở nên
hối hả, gay cấn. Người tôi bỗng dưng lạnh toát, mà chẳng hiểu sao, mồ hôi lại
vã ra đầy trán. Tôi vẫn cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng trái tim đập thình thịch
liên hồi, như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực…
Tiếng Minh vang lên:
- Bao nhiêu thằng?
Người tù không trả lời thẳng
vào câu hỏi. Thay vì vậy anh nói:
- Thằng “lùn” đi đầu. Theo sau
là tụi vệ binh… Một, hai, ba, bốn,… tám, chín… Khoảng hơn chục đứa.
Thằng “lùn” là bí danh anh em
tù đặt cho quản giáo Trường.
Nghe người tù đếm số vệ binh,
cứ thêm một đứa, bụng tôi lại đau thắt lại. Tôi nghĩ hôm nay chắc là ngày tôi
tận số. Tôi kinh hoàng, lo sợ, vội cầu Trời, khấn Phật. Mẹ tôi theo đạo Phật,
nhà nghèo xác xơ nhưng lúc nào trên bàn thờ cũng hương khói nghi ngút. Bố tôi theo
đạo Thiên Chúa và là đạo gốc, nhưng vì sống dưới chế độ cộng sản, nên tôi chỉ
thuộc lõm bõm có Kinh Kính Mừng và Kinh Lậy Cha, nên trong lúc sợ hãi, tôi cũng
vội lẩm bẩm đọc…
Bỗng nhiên, người tù đứng ở cửa
vội quay về chỗ, miệng la lên:
- Thằng “lùn” tới…
Cả phòng giam đột nhiên im
lặng. Sau đó không lâu, tôi nghe tiếng mở khoá, tiếng xích sắt vang lên, rồi
hai cánh cửa sắt mở toang. Nhìn ra, tôi thấy quản giáo Trường đứng giữa, hai
bên là hai vệ binh cầm súng AK-47 trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Tên Trường
quét cặp mắt cú vọ một vòng, rồi la lớn:
- Anh Chí ra ngoài làm việc.
Tôi đứng dậy, bước đi, tai còn
nghe tiếng anh Dzoãn Bình nói với theo trong vội vã, nghẹn ngào, “màu áo xưa”.
Nghe anh nói, tôi nghẹn ngào, rưng rưng lệ. “Màu áo xưa” là ba tiếng cuối trong
bài thơ anh viết tặng cho tôi ngay buổi đầu gặp gỡ, “Thời gian sẽ thấy lại màu
áo xưa”. Ba tiếng đó như một lời nhắn gửi trinh nguyên tình nghĩa, một hứa hẹn
thủy chung vuông tròn cho quá khứ, cho những người thân thương, nhưng ba tiếng
đó cũng là mật hiệu được hai anh em thường dùng để khích lệ nhau mỗi khi gặp
khó khăn, mà chỉ có anh và tôi biết…
Tôi bước ra ngoài, và bỗng dưng
tôi chợt thấy trời buổi chiều thật đẹp. Nắng chiều chưa kịp tắt, vàng rực cả
đất trời. Không khí bên ngoài thiệt tươi mát. Tôi hít một hơi thở thật sâu, và
đột nhiên, thấy lòng mình thật thanh thản. Tôi chấp nhận hôm nay ăn trận đòn
thù. Dù chúng có đánh tôi tàn nhẫn, dã man đến thế nào đi nữa, tôi sẽ cố gắng
cắn răng chịu đựng, không một lời rên rỉ, không một tiếng van xin. Tôi cũng
không chống lại chúng, không chửi bới chúng, vì tôi hiểu, sống trong chế độ
cộng sản, ngay cả những người cộng sản cũng chỉ là công cụ; và nhiều khi, họ
chỉ là những nạn nhân đáng thương mà thôi. Tôi biết, tôi sẽ chịu đựng được tất
cả, tôi sẽ vượt qua được cửa ải vô cùng khó khăn này, sẽ giữ được mạng sống của
mình, để trở lại phòng giam cho anh Dzoãn Bình thấy được “màu áo xưa”; để rồi
trong một tương lai không xa, anh Dzoãn Bình và tôi sẽ vượt biên, đến một vùng
trời tự do. Mang trong tâm tư ý nghĩ đó, tự dưng tôi thấy lòng mình thật bình
tĩnh, khác hẳn lúc trước, trong phòng giam, lòng
tôi bồn chồn, lo sợ, hoảng hốt vô cùng.
Sau khi đóng cửa sắt và khoá
lại, Trường quay qua bảo:
- Đi theo tôi.
Tôi lặng lẽ đi theo Trường. Sau
tôi là hai vệ binh. Đi khoảng ba chục thước, tôi bước vào phòng ăn, đối diện
phòng giam A-1. Mang tiếng là phòng ăn, cả phòng ăn rộng mênh mông hơn 100
thước vuông chỉ có một chiếc bàn nhưng không phải là bàn ăn. Vào giờ ăn, chỉ có
tù giam trong A-1 được ăn ở phòng ăn này, và tất cả đều phải ngồi ăn ngay trên
sàn xi măng.
Trong phòng ăn lúc đó có khoảng
chục tên vệ binh tay không, đứng chung quanh tường. Tất cả đều im lìm, lạnh
lùng. Góc trong cùng về phía tay phải là chiếc bàn duy nhất. Quản giáo Trường
bước lại phía sau bàn, chống hai tay vào mặt bàn, im lặng nhìn tôi. Hai tên vệ
binh ghìm súng, đứng hai bên. Tôi đứng trước mặt tên Trường, cách chiếc bàn
khoảng hơn một thước. Tên Trường quắc mắt nhìn tôi, ánh mắt đầy oán độc. Tôi
nhìn thẳng mắt Trường, cố gắng giữ ánh mắt thản nhiên, không chút căm giận, thù
hận. Thú thực, lúc đó, tôi không muốn chọc giận quản giáo Trường chút nào. Tôi
tha thiết muốn sống bằng mọi giá. Chọc giận hắn sẽ vô cùng nguy hiểm, vì Trường
là người thiểu số, thẳng tính, nhưng rất nóng, khi cơn giận nổi lên, y sẵn sàng
làm mọi chuyện kể cả giết người. Thứ hai, chế độ cộng sản đã cố tình dung dưỡng
và trao cho những người như Trường quyền sinh sát, để hắn thẳng tay diệt trừ
tất cả những ai ngang bướng chống đối lại chế độ.
KỲ 53
Sau khoảng mươi giây đồng hồ
nhìn tôi đầy căm giận, Trường hỏi tôi giọng cục cằn:
- Sáng nay mày nói gì, mày còn
nhớ không?
Tôi im lặng không biết trả lời
thế nào. Tôi biết, sự im lặng của tôi càng chọc giận quản giáo Trường. Nhưng
nêu nhắc lại lời nói buổi sáng, tôi sẽ đổ dầu vào lửa.
- Mày nói mày vào đây để cải
tạo, nên chúng tao không được quyền đánh mày phải không?
Tôi vẫn im lặng. Tên Trường
chửi thề:
- Đ.M. Chúng mày vào đây là để
cho chúng tao hành hạ cho đến chết. Đầu óc chúng mày có sạn làm sao mà cải tạo
nổi.
Đấm tay xuống mặt bàn đến rầm,
tên Trường gào lên:
- Vì vậy chúng tao được quyền
đánh mày, được quyền giết mày! Và chúng tao sẽ đánh mày ngay bây giờ… cho mày
coi, xem mày có la hét nữa hay không.
Nhìn thái độ điên cuồng của tên
Trường, tôi biết ngày hôm nay, chắc tôi khó sống. Trong một thoáng ngắn ngủi,
tôi nghĩ đến Mẹ, đến Thầy, những người thân yêu nhất của tôi. Mẹ tôi còn sống,
chắc Mẹ tôi không biết đứa con của Mẹ đang sắp phải gánh chịu trận đòn thù.
Nhưng Thầy tôi đã mất, chắc vong linh của Thầy tôi vẫn hiện hữu đâu đây trong
thế giới siêu hình, sẽ phù hộ cho tôi… Nghĩ đến đó, tôi xúc động muốn khóc….
Nhưng tôi kịp chế ngự sự xúc động của mình. Tôi hiểu, nếu tôi khóc bây giờ, tên
Trường sẽ cho rằng tôi sợ hãi chúng. Không, dù tôi có bị đánh chết, tôi cũng sẵn
sàng chấp nhận, nhưng tôi không thể nào để chúng coi mình là một thằng hèn.
Thấy tôi im lìm không nói, tên
Trường tiếp:
- Bây giờ chúng tao sẽ đánh mày
để mày thấy chúng tao có quyền muốn đánh ai thì đánh. Trong trại tù này, chúng
tao là luật pháp. Mày nghe rõ chưa?
Tôi im lặng. Tên Trường hét
lên:
- Mày nghe rõ chưa?
Tôi trả lời:
- Rõ…
Tên Trường lại hét:
- Mày nói như vậy hả? Nội quy
của trại tù để đâu?
Tôi trả lời:
- Báo cáo quản giáo, rõ.
- Mày có phản đối gì không?
Tôi im lặng. Tên Trường lại
hét:
- Tao hỏi, chúng tao đánh mày
ngay bây giờ, mày có phản đối gì không?
Tôi trả lời:
- Báo cáo quản giáo, không.
Tên Trường gật gù, khoái trí:
- Mày biết vậy là tốt. Bây giờ,
tao báo cho mày biết, hai vệ binh cầm súng đây sẽ lên đạn sẵn sàng, để những vệ
binh còn lại sẽ đánh mày đúng 15 phút. Trong 15 phút đó, nếu mày có bất cứ hành
động nào chống cự, lập tức hai vệ binh này sẽ “xử lý” mày tại chỗ. Mày nghe rõ
chưa?
- Báo cáo quản giáo, rõ.
- Mày có phản đối gì không?
- Báo cáo quản giáo, không.
- Mày có chống cự không?
- Báo cáo quản giáo, không.
- Mày đồng ý cho chúng tao đánh
mày?
Tôi im lặng. Chẳng lẽ tôi lại
ngu xuẩn lên tiếng đồng ý để cho cả chục tên vệ binh xúm vô đánh mình? Nhưng dù
tôi có không đồng ý, cục diện cũng không hề thay đổi. Chúng vẫn xúm vô đánh tôi
như thường, và có thể đánh dã man hơn. Thôi thì đến nước này, tôi chỉ còn có
con đường duy nhất, gồng mình chịu đòn, để sống sót thực hiện chuyến vượt ngục
cùng với anh Dzoãn Bình. Tên Trường lại hét lên:
- Mày có đồng ý cho chúng tao
đánh mày hay không?
Không còn cách nào khác, tôi
đành miễn cưỡng trả lời:
- Báo cáo quản giáo, đồng ý.
Tên Trường cười hô hố, chỉ tay
về giữa phòng ăn, bảo tôi:
- Tốt lắm. Vậy mày bước lại chỗ
kia.
Tôi lặng lẽ và chậm rãi bước
đến giữa phòng ăn. Tiếng tên Trường vang lên phía sau:
- Quay mặt lại đây.
Tôi lặng lẽ quay mặt lại. Tên
Trường lại hét:
- Quay cả người lại.
Tôi lặng lẽ làm theo. Tên
Trường gật gù thấy tôi ngoan ngoãn vâng lời. Hắn quay sang bảo hai tên vệ binh
cầm súng:
- Các đồng chí sẵn sàng, nếu
thấy thằng này chống cự, lập tức “xử lý” tại chỗ cho tôi. Các đồng chí nghe rõ?
Hai tên vệ binh liền hô to,
“rõ”, rồi thị uy bằng cách kéo cơ bẩm, khiến viên đạn nằm sẵn trong nòng bắn ra
ngoài, để cho viên đạn khác nhảy lên nòng. Sau đó, chúng mở khoá an toàn rồi
chĩa súng vào tôi trong tư thế sẵn sàng bóp cò.
Tên Trường dơ tay ngó đồng hồ
rồi hất cằm ra hiệu cho đám vệ binh và nói:
- Biện pháp chế tài tên ngoan
cố… bắt đầu! Các đồng chí được quyền thẳng tay đánh tên này đúng 15 phút kể từ
bây giờ…
Đám vệ binh lập tức vây quanh
tôi. Vài tên bước tới đấm gió kiểu võ sĩ quyền Anh, có tên tung giò đá vô
khoảng không, rồi cười hô hố khoái trá. Lúc đó, tuy hoảng hốt, nhưng tôi vẫn
nhớ lời dặn dò của Minh “mã tấu”, nên thu vội hai cánh tay lên hai bên thái
dương, hai bàn tay đặt sau gáy, đan vào nhau, đầu hơi cúi xuống, hai mắt quan
sát tay, chân của đám vệ binh trong tầm mắt của mình để đỡ đòn. Tôi không muốn
nhìn thẳng vào mắt của chúng, vì như vậy, dễ gây cho chúng sự thù hận cá nhân,
khiến chúng tức giận, xuống đòn nặng hơn.
15 giây đồng hồ trôi qua, nhưng
không hiểu sao, không một tên vệ binh nào đánh tôi. Tôi ngạc nhiên nghĩ, có lẽ
chúng sợ tôi liều mạng chống cự chăng? Ngay lúc tôi nghĩ vậy thì lưng tôi bị
một cú đá. Cú đá không nặng, nhưng tôi giả vờ loạng quạng, chúi về phía trước.
Vừa chúi về phía trước được hai bước, tôi bị đánh liên tiếp ba cú không hiểu là
cú đá hay cú đấm. Một cú vào be sườn bên trái, một cú vào lưng và một cú vào
đầu. Đến lúc này, tôi lạng quạng thật, chứ không còn giả vờ nữa. Giữa lúc còn
đang lạng quạng, tôi bị một đòn thật nặng vào sườn bên phải. Đây là đòn đánh
nặng nhất. Tôi thấy đau nhói cả một bên sườn, hơi thở bị nghẹn lại, cả người
tôi gập làm đôi, nhưng tôi vẫn tỉnh táo, cố gắng nhìn các đòn đánh trong tầm
mắt của mình để tránh không bị đánh vào đầu. Trong lúc tôi đang gập người đau
đớn và cố gắng nhìn để nhận đòn, một tên vệ binh từ phía bên phải đá một cú
xoay bản lề, thẳng vô bụng tôi. Vừa đá, y vừa quát:
- Mày nhìn tao, để nhớ mặt trả
thù hả?!
Cú đá của tên này làm tôi chới
với. Cả người tôi mất thăng bằng, muốn té. Ngay lúc đó, một tia chớp loé lên
trong óc: Tốt nhất tôi giả vờ té xỉu, để cho chúng chùn tay. Vừa nghĩ vậy là
tôi vội ngã lăn kềnh ra sàn. Té rồi, tôi mới biết trò giả vờ của tôi quả là dại
dột. Lúc tỉnh táo, đứng trên hai chân, tụi vệ binh khi xuất đòn còn dè chừng
tôi. Khi tôi té xuống, cả lũ vệ binh liền xúm vô đánh tôi túi bụi. Một tên la
lên:
- Nó muốn nhớ mặt để trả thù
hả, đánh chết nó đi…
Vài tên khác cũng la lên:
- Đánh chết nó đi…
Tuy bị đòn đau, nhưng đã chót
giả vờ xỉu, tôi đành phải nằm yên bất động, gồng mình chịu đòn với hy vọng,
chúng sẽ ngưng đánh. Quả nhiên, có tiếng một tên vệ binh nói:
- Này này, nó xỉu thật rồi.
Nghe vậy tôi hơi mừng. Bỗng
nhiên, tôi nghe tiếng của tên vệ binh đã đá tôi cú khủng khiếp vô bụng:
- Nó xỉu kệ cha nó, để tao sút
cho nó một cú ân huệ vào giữa mặt…
Nghe vậy, tôi giật mình. Bản
năng tự vệ khiến tôi không kịp suy nghĩ, vội vàng quay mặt sang hướng khác.
Chưa kịp quay xong, thì tiếng reo hò và những cú đấm đá của tụi vệ binh đổ xuống
người tôi. Tôi nhận ra sự dại dột của mình, vội vàng cố chịu đòn, lồm cồm bò
dậy. Nhưng làm như vậy tôi lại càng dại dột. Một người đang bị đòn thù, quằn
quại dưới sàn, lồm cồm bò dậy, đã tạo cho kẻ thù nhìn thấy không biết nhiêu chỗ
hở, có thể xuất đòn… Quả nhiên, chỉ trong mươi giây đồng hồ ngắn ngủi, cả thân
thể tôi bị đá, bị đấm, bị đạp không biết bao nhiêu cú… Tôi tuyệt vọng, nghĩ
mình hôm nay chắc chết mất. Nghĩ vậy, ý chí đề kháng trong tôi mất hết. Tôi vội
kêu lên hai tiếng “MẸ ƠI!” rồi nằm vật xuống sàn nhà, để mặc cho chúng đánh…
Đột nhiên, một cú đá vào mặt làm tôi nổ đom đóm mắt. Rồi tôi nghe tiếng tên
quản giáo Trường la lên:
- Ê, không đánh mặt! Không đánh
mặt!
Tiếng la của tên Trường khiến
tôi bừng tỉnh. Thì ra chúng không muốn đánh để lại những vết tích trên mặt của
tôi. Như vậy chúng không muốn đánh tôi chết. Như vậy tôi có hy vọng sống. Nghĩ
vậy, tôi cố gắng gồng mình chịu đòn, và lồm cồm bò dậy lần thứ hai. Nhưng những
cú đấm, cú đá làm tôi không kịp đứng dậy. Bụng tôi quặn thắt, một luồng hơi
nóng hực bốc lên từ dạ dầy, làm tôi vội oẹ một, hai tiếng, rồi ba tiếng… nhưng
tôi không thể nôn được thứ gì. Vì tôi không ăn uống gì từ tối hôm trước, trong
dạ dầy trống không, nên tôi chỉ nôn khan. Nhưng chính vì nhưng tiếng nôn oẹ của
tôi đã khiến cho mấy tên vệ binh phía trước định đánh tôi, vội vàng né sang
bên. Nhờ vậy, tôi đứng dậy được. Thấy vậy, tôi ngây thơ giả vờ nôn khan mấy
tiếng nữa cho chúng tránh, không ngờ, chúng biết ngay tôi giả vờ, liền xúm vô
vừa đánh, vừa chửi bới… Tôi loạng quạng chịu đòn, nhưng vẫn cắn răng không chịu
rên la. Đến lúc đó, tôi thấy cả người tôi đờ đẫn, mất hết cả mọi cảm giác, tôi
té xuống sàn nhà, để “nghe” thấy đòn thù đánh vào người mình thình thịch, mà
không thấy cảm giác đau đớn gì… Đến lúc này, vì tôi nằm dưới sàn, đám vệ binh
chỉ đánh tôi bằng những cú đá. Tôi không sợ chúng đá vào mặt, vì lời quản giáo
Trường đã ra lệnh chúng không được đánh vào mặt. Tôi chỉ sợ chúng đá vào ngực
vào bụng, nên tôi nằm nghiêng, co quắp như một con tôm, hai đầu gối co lên ngực,
hai tay tôi quặp lấy đầu gối, chịu đòn. Nhiều cú đá vào lưng, đùi, tay, chân,
vài cú đạp vào hông, rồi một tên nhảy lên cao, đạp hai gót giầy vào ngang bụng,
khiến cả người tôi bị lật ngửa. Ngay khi bị lật ngửa, nhìn lên, tôi thấy một
gương mặt đầy oán độc của một tên vệ binh, hắn đương dơ chân đạp thẳng vào ngực
tôi. Lần này tôi không còn cách gì đỡ kịp. Chỉ kịp nghe một tiếng “bịch” ngay
trên ngực mình, mà sao thấy xa xôi, tôi không đau đớn gì, nhưng trong lồng ngực
tôi bỗng dưng có cả một khối hơi khổng lồ dâng lên nghẹn ứ ở cổ… khiến tôi oẹ
một tiếng. Có chất gì ấm ấm chảy xuống cổ, xuống ngực tôi…. Tôi nghe có tiếng
la của một tên vệ binh, “Thôi, dừng, đủ rồi… Nó ói máu rồi”… Trong tích tắc
cuối cùng trước khi ngất xỉu… tự dưng tôi thấy hình bóng của Mẹ tôi ngày xửa
ngày xưa hiện về… Hình ảnh của Mẹ khi tôi còn bé, được gặp Mẹ lần đầu mà tôi
không dám gọi hai tiếng “Mẹ Ơi!”… Mẹ tôi vội vàng, cô đơn, đi ngang chiếc đập
của quê hương trong lúc hoàng hôn sắp tắt, gió sông lộng thổi, và chiếc ruột
tượng màu vàng của Mẹ bay lất phất… xa dần, xa dần… Tôi muốn gọi, “Mẹ ơi, chờ
con!…” nhưng tôi không thốt lên lời. Mắt tôi đột nhiên tối xầm hẳn lại…
KỲ 54
Sau trận đòn hội chợ của vệ
binh tại Quân lao Gò Vấp, cơ thể của tôi chịu đựng nhiều đau đớn, mà 3 tháng
sau, khi bị đổi lên trại tù ở gần núi Bà Đen, mỗi lần kéo gầu nước từ giếng
sâu, ngực tôi vẫn nóng ran, và tôi vẫn còn ho ra máu. Thê thảm hơn, những vết
máu bầm vẫn còn nguyên ở trong phổi của tôi suốt nhiều năm. Đến cuối năm 1979,
khi được qua Úc định cư, hôm trước đến Cabramatta Hostel, thì ngay sáng hôm
sau, tôi đã bị chuyển vô Randwick Hospital để điều trị. Lý do là qua chụp
X-rays, thấy vết bầm trong phổi, bác sĩ đã nghi ngờ tôi mắc “bệnh lao”. Sau 3
tháng uống thuốc, vết bầm vẫn còn nguyên nên bác sĩ ngạc nhiên hỏi tôi có bao
giờ đánh lộn với ai không. Tôi kể lại chuyện xưa ở Quân lao Gò Vấp, bác sĩ nghe
biết ngay tôi không hề bị bệnh lao, nên ngay tuần lễ sau đó, tôi được xuất
viện. Tuy nhiên, mấy năm đầu khi tới Úc, mỗi năm hai lần, tôi vẫn phải tới bệnh
viện Canterburry để chụp X-rays, cho đến khi vết bầm trong phổi mờ dần và mất
hẳn…
Trận đòn hội chợ của vệ binh
khiến tôi càng thêm quyết tâm, phải vượt ngục bằng mọi giá. Nhưng để có thể
vượt ngục theo kế hoạch của anh Dzoãn Bình, tôi phải hồi phục sức khỏe. Đáng
tiếc, không lâu sau ngày bị chúng đánh hội đồng, tôi và anh Dzoãn Bình, cùng
với khoảng 50 người tù khác, bị chuyển đến trại tù ở gần núi Bà Đen, chấm dứt
giấc mộng vượt ngục ở Quân lao Gò Vấp.
Trại tù gần núi Bà Đen là trại
tù được VC xây dựng khá quy mô, với đầy đủ các hàng rào kẽm gai trong ngoài.
Cho đến nay, tôi cũng không nhớ chính xác tên và vị trí của trại tù này, nhưng
tôi vẫn thỉnh thoảng nghe anh em bạn tù nhắc đến những địa danh như ấp Tân
Thiết, Trại Đèn, ấp Phước Hòa, xã Lộc Ninh… Nhìn về phía sau của trại tù, tôi
thấy rõ núi Bà Đen cao to sừng sững chiếm cả một góc trời. Trại tù được chia ra
làm nhiều khu, mỗi khu có nhiều lán, giam giữ khoảng trên dưới 1000 tù, gồm đủ
các thành phần, tù chính trị, tù hình sự… Hệ thống canh gác tại đây cũng rất
nghiêm ngặt. Ngoài các hàng rào kẽm gai, còn có những chòi canh chung quanh
trại, và tại mỗi khu gồm có hai lán, luôn luôn có vệ binh luân phiên canh gác
vào ban đêm.
Ngay khi đặt chân đến trại tù
mới, tôi đã vội tìm hiểu địa hình địa vật để vượt ngục. Tôi biết, lúc đó tôi đã
bị vệ binh và quản giáo VC ghi vô “sổ đen”, nên tôi bị theo dõi kỹ càng hơn và
thường bị trừng phạt chỉ vì những chuyện không đâu. Để có thể vượt ngục, điều
đầu tiên, tôi phải làm cho vệ binh quản giáo của trại lơ là cảnh giác đối với
tôi. Muốn vậy, một mặt tôi phải tỏ ra tích cực lao động và mặt khác, tôi phải
cho mọi người thấy tôi rất yếu đuối, bệnh hoạn, sau trận đòn hội chợ tại Quân
lao Gò Vấp. Vì vậy, cùng với những lần ho ra máu, tôi giả vờ đi đứng chậm chạp,
ăn uống uể oải, ngoại hình suy nhược…
Vì việc chuyển tù từ Quân lao
Gò Vấp về trại tù mới được tiến hành vào ban đêm, nên tôi không biết rõ vị trí
của trại tù mới nằm ở đâu. Trong những lúc đi lao động ngoài trời, tôi tìm cách
khéo léo dò hỏi anh em bạn tù đường đi nước bước, nên biết được, trại tù của
chúng tôi nằm gần xã Lộc Ninh, cách biên giới Việt Miên không bao xa. Thời gian
đó vào khoảng năm 1977, mối quan hệ Việt Miên ngày càng căng thẳng thù nghịch,
nên có tin đồn, cộng sản Miên đang có ý đồ xâm lăng Việt Nam. Nghe tin này, có
một số người lo sợ sẽ bị Miên cộng giết; nhưng cũng có người nuôi hy vọng, cuộc
xâm lăng của cộng sản Miên sẽ “giải phóng” chúng tôi thoát khỏi sự kìm kẹp của
cộng sản Việt Nam. Có điều mọi người lúc đó đều không thể ngờ được, chính viễn
ảnh xâm lăng Việt Nam của Miên cộng đã khiến cộng sản Việt Nam có âm mưu sẵn
sàng thủ tiêu tất cả những người tù chúng tôi bằng mìn Claymore một khi trại tù
bị quân đội Miên tấn công… Tôi chỉ biết được âm mưu này vào một buổi chiều, sau
khi đi lao động trồng khoai mì trở về trại…
Chiều hôm đó, tôi được anh
Dzoãn Bình gọi sang lán của anh uống trà. Tôi quên thưa với quý độc giả, anh
Dzoãn Bình và tôi tuy cùng được chuyển trại tù từ Quân lao Gò Vấp, nhưng khi
lên đến trại tù mới, anh bị chuyển sang lán tù đối diện với lán của tôi. Là một
nhà báo tên tuổi của VNCH trước năm 1975, từng được giải thưởng của Tổng Thống
qua phóng sự chiến trường viết về trận Bình Giã, nên anh Dzoãn Bình rất có uy
tín trong trại tù. Nhờ vậy, anh biết được những tin tức đặc biệt, mà những
người tù bình thường không thể biết, hoặc biết rất muộn.
Buổi chiều hôm đó, gặp tôi anh
Dzoãn Bình thì thầm nói:
- Cậu biết không, tôi vừa mới
nghe được một tin “con cuốc”…
Anh Dzoãn Bình có thói quen khi
nói chuyện thường hay dùng chữ “con cuốc” để mô tả bất cứ chuyện gì không rõ
xuất sứ hoặc có nội dung không tốt lành, không được như ý.
- Cậu biết thằng Tuân, tù “tự
quản” không?
Tôi thưa:
- Có phải Tuân bên khu rèn
không anh?
Anh Dzoãn Bình gật đầu:
- Thằng đó nó vừa nói với tôi,
sáng hôm qua, những người tù “tự quản” được lệnh của tụi giám đốc trại cho gài
mìn Claymore chung quanh trại…
Tôi giật mình, hỏi anh:
- Chắc chúng cho gài mìn để
chống tụi Miên xâm lăng?
Anh Bình lắc đầu:
- Không phải để chống tụi Miên
cộng đâu. Nó gài mìn là để giết mình đó. Thằng Tuân nó nói số lượng mìn gài
chung quanh trại không rõ bao nhiêu, nhưng cứ cách 20 thước, chúng bắt chôn một
trái, mà mìn hướng vào trong trại. Cậu biết mìn Claymore chứ gì?
- Em biết.
Mặc dù chính mắt tôi chưa hề
thấy trái mìn Claymore bao giờ, nhưng tôi đã nghe rất nhiều bộ đội đề cập đến
nó như là một loại vũ khí quái ác, gây nhiều tử vong và tàn tật cho binh lính
VC.
Anh Dzoãn Bình nói tiếp:
- Cậu phải biết, mìn Claymore
khác với loại mìn thường. Mìn thường, phải chôn dưới đất, còn mìn Claymore thì
để trên mặt đất, với mặt cong có dòng chữ bằng tiếng Anh ghi rõ hướng về phía
kẻ thù. Thằng Tuân nó cũng là lính nên nó biết, khi gài mìn Claymore mà quay
hướng mìn vô trong trại tù là rõ ràng, tụi VC chúng muốn giết tù, chứ không
phải giết tụi Miên cộng đâu. Cậu phải biết, với tầm sát thương từ 100 mét đến
200 mét theo hình quạt 60 độ của 700 viên bi thép cho mỗi trái mìn Claymore, mà
tụi VC nó cho gài các trái mìn Claymore sát nhau như vậy thì rõ ràng, cộng sản
nó sẽ giết cả trại tù này không còn một mống cho coi…
Tôi lạnh người:
- Như vậy là Miên cộng chưa kịp
“giải phóng” thì mình đã bị tụi VC nó giết sạch…
Anh Dzoãn Bình kéo một hơi
thuốc lào rồi nói thiệt nhỏ:
- Tôi nghĩ tình thế này, cậu
phải tìm mọi cách trốn trại ngay. Ở lại thêm ngày nào là nguy hiểm ngày ấy…
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, như vậy anh không vượt
ngục cùng với em hay sao?
Anh Dzoãn Bình thở dài:
- Tôi già rồi, trốn không được,
cậu ạ. Ở đây rừng rú bao bọc chung quanh, muốn trốn phải có sức. Già yếu như
tôi mà trốn tù với cậu thì chỉ là gánh nặng cho cậu. Cậu nghe tôi, đi đi…
Tôi rưng rưng nước mắt, nghẹn
ngào không biết nói làm sao, khi tôi phải chấp nhận một sự thực chua xót: Tôi
phải trốn trại một mình và anh Dzoãn Bình phải ở lại! Anh Bình nói tiếp:
- Nghe cậu kể chuyện ở Quảng Trị,
tôi biết cậu có kinh nghiệm đi rừng, nên chuyện trốn trại ở đây không có gì khó
khăn với cậu. Theo tôi biết, từ đây về thị trấn Dầu Tiếng chỉ khoảng vài tiếng
đồng hồ đường rừng. Trốn khỏi trại tù, cậu cứ nhắm vùng ánh sáng về phía tay
phải mà đi, thế nào cũng băng qua khu rừng cao su trước khi đến được thị trấn
Dầu Tiếng… Sau đó cậu đón xe về Tây Ninh… rồi về Sàigòn.
Tôi lo lắng hỏi:
- Anh nghĩ em có nên rủ Minh
trốn cùng với em không?
Anh Bình lắc đầu:
- Không nên. Tính Minh tôi
biết, hắn rất tốt với bè bạn, nhưng phổi bò, mắt lồi như mắt trâu nên nhát lắm.
Trong tù, Minh ngang tàng, thích làm người hùng những chuyện cỏn con. Nhưng
đụng chuyện lớn thì nhát. Tôi biết, khi ở Quân lao Gò Vấp, Minh đã hứa sẽ vượt
ngục chung với cậu, nhưng Minh đâu có dám thực hiện lời hứa. Tôi nói vậy có
đúng không nào?
Nhận xét của anh Bình về Minh
rất chính xác. Trong tù Minh ngang tàng, đánh đấm hết người này người nọ và trở
thành một “vua tù”. Nhưng thực tế, dù đã hứa sẽ vượt ngục với tôi, nhiều lần
Minh lần khân, khất lần, không muốn vượt ngục với tôi.
Anh Bình dặn tôi:
- Cậu nhớ, đừng nói với Minh và
bất kỳ ai về ý định trốn trại của mình. Cậu đừng có tin một ai cả. Điều khó
khăn nhất cho chuyến vượt ngục của cậu là cậu không có tiền mặt mà tôi cũng
không có. Nhưng tôi tin, nếu cậu trốn ra ngoài thế nào cũng được người dân họ
giúp đỡ. Lòng dân bây giờ khác với ngày xưa nhiều lắm. Chẳng còn ai ảo tưởng
vào tụi VC nữa đâu. Cậu đi lao động thì cậu biết lòng người ra sao rồi…
Anh Bình nói rất đúng. Trong
suốt thời gian bị tù đầy hơn một năm trời, mỗi khi phải ra ngoài lao động,
chúng tôi đều có dịp được chứng kiến những tấm lòng vàng của người dân đối với
tù cải tạo. Vì vậy, tôi tin chắc, một khi thoát khỏi hàng rào kẽm gai của trại
tù, được gặp gỡ người dân Miền Nam, tôi sẽ như con cá sống trong nước, tha hồ
vùng vẫy, xuôi ngược.
Anh Bình đưa chiếc điếu cầy làm
bằng nhôm cho tôi, rồi tiếp:
- Từ nay trở đi, cậu và tôi
cũng đừng nên gặp nhau nữa, kẻo khi cậu đi, chúng lại lôi tôi ra hành hạ. Nếu
có gì gấp gáp lắm, cậu cứ nói với Duy…
Sau lần trò chuyện với anh
Dzoãn Bình, tôi gấp rút chuẩn bị cho việc trốn trại. Qua tìm hiểu địa hình địa
vật, tôi thấy có hai cách trốn trại. Cách thứ nhất, trốn trại vào ban ngày khi
đi lao động. Trốn trại cách này tôi có được lợi thế lớn nhất là không phải vượt
qua bốn hàng rào kẽm gai và bãi mìn Claymore chung quanh trại. Theo lời anh
Dzoãn Bình, mìn Claymore có 3 cách phát hoả. Cách thứ nhất do người gài mìn chủ
động khai hoả. Cách thứ hai là gài bẫy, khiến mình đụng phải, mìn sẽ nổ tung.
Cách thứ ba là dùng mìn giờ để kích hoả vào đúng lúc mình muốn. Tại trại tù của
chúng tôi vào lúc đó, VC đã gài mìn Claymore theo cách thứ hai. Ngoài ra, chúng
còn gài những loại mìn cá nhân khác, nên rất nguy hiểm cho những ai trốn trại
phải chui qua mấy hàng rào kẽm gai quanh trại. Lợi thế thứ hai khi trốn trại
ban ngày là tôi có thể chui vào rừng rậm, ẩn mình chờ đến tối đi tiếp. Lợi thế
thứ ba, từ chỗ chúng tôi lao động đến thị trấn Dầu Tiếng, gần hơn một tiếng
đồng hồ đi bộ so với từ trại tù đến thị trấn Dầu Tiếng. Tuy nhiên, nếu trốn
trại ban ngày, tôi chỉ có thể trốn vào lúc ăn trưa, và có tối đa 30 phút đồng
hồ trước khi bị phát hiện. Với lực lượng vệ binh gần một trung đội cộng với
quân khuyển, việc truy lùng một người tù trốn trại trước đó 30 phút là điều
không khó khăn. Vả lại, khi tù lao động ở ngoài trại, đều bị vệ binh và tù “tự
quản” kiểm soát rất chặt chẽ, và mọi người tù đều bị tổ chức thành từng tổ 3
người một để theo dõi lẫn nhau. Tránh tình trạng những người quen thân cùng
chung một nhóm 3 người, cùng trốn trại với nhau, quản giáo thường bắt thay đổi,
nay người này ở nhóm này, mai phải ở nhóm khác…
Chính vì những khó khăn và nguy
hiểm lớn lao như vậy, nên tôi quyết định trốn trại vào ban đêm. Có hai cách, có
thể trốn trại vào ban đêm. Cách thứ nhất, trốn trong lúc tù còn thức từ 6 giờ
chiều đến 9 giờ tối. Cách thứ hai, chờ tù ngủ hết, trốn từ 9 giờ tối đến 5 giờ
sáng. Cách thứ hai rất khó trốn, vì lúc đó, trong mỗi lán tù cứ mỗi hai tiếng
đồng hồ, đều có bốn người tù luân phiên canh gác từ đầu lán đến cuối lán. Bên
ngoài lán tù, còn có hai vệ binh canh gác ở hai đầu lán. Riêng cách thứ nhất,
có vẻ khó khăn hơn, vì lúc đó tù còn thức, đèn điện còn sáng choang, nhưng trên
thực tế, lúc này là lúc có cơ hội trốn hơn cả, vì thứ nhất, tù còn thức nên đi lại
trong lán rất lộn xộn, không ai có thể theo dõi và biết tù nào còn trong lán,
tù nào đã ra ngoài lán đi dao. Thứ hai, vì đèn đuốc sáng choang nên lúc này chỉ
có một vệ binh canh gác mỗi lán tù khoảng 120 người. Thứ ba, thời gian này là
thời gian duy nhất, tù được phép đi vệ sinh ở một nhà cầu nằm ở cuối trại, sát
hàng rào kẽm gai. Sau 9 giờ tối, tất cả mọi chuyện vệ sinh cá nhân của tù đều
phải thực hiện ngay trong lán. Đi tiểu, thì tù phải đi vào trong một ống lồ ô,
hôm sau đem đổ. Còn đại tiện thì phải đào hố ngay trong lán, đi vô đó, rồi lấp
đất, ngày hôm sau phải dọn sạch sẽ. Tù nhân muốn đi tiểu hay đi tiêu từ sau 9
giờ tối đều phải hô to: “Báo cáo cán bộ tôi muốn đi tiểu / đi cầu”. Đến khi
nghe vệ binh nói “Được” thì mới được nghiêng mình trút bầu tâm sự vô ống hay
ngồi dậy đào lỗ….
KỲ 55
Trong hoàn cảnh vệ binh canh
gác nghiêm ngặt và cẩn mật từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng, tôi thấy thời gian trốn
trại hay nhất là từ 8 đến 11 giờ tối, tối Thứ Bảy. Trốn trại vào tối Thứ Bảy có
được mấy lợi điểm. Đầu tiên là số vệ binh canh gác chung quanh trại giảm đi gần
một nửa, vì thông thường vào sáng Thứ Bảy, rất đông vệ binh kéo nhau đi ra thị
xã Tây Ninh hoặc có người về tận Sàigòn chơi, và chỉ trở lại trại vào chiều Chủ
Nhật. Tuy số vệ binh canh gác trại giam vẫn không thay đổi, nhưng nếu một cuộc
truy lùng tù vượt ngục được tổ chức, số lượng vệ binh tham gia chắc chắn sẽ
giảm đi rất nhiều. Thuận lợi thứ hai, tối Thứ Bảy, chúng tôi được thức khuya
tới 11 giờ, thay vì 9 giờ như các tối khác. Như vậy, tôi sẽ có nhiều thời gian
xoay sở cho cuộc vượt ngục hơn. Thuận lợi thứ ba, tối Thứ Bảy không khí trại tù
cũng ầm ĩ hơn, ít căng thẳng hơn. Vào tối Thứ Bảy, tù giữa các lán trong một
khu được qua lại thăm nhau, trò chuyện, uống trà, đánh cờ… Trong bầu không khí
đó, nếu tôi có trốn, vệ binh cũng sẽ phát hiện chậm hơn, đối phó khó khăn hơn.
Toàn trại giam tù chúng tôi lúc
đó được chia làm nhiều khu, mỗi khu có hai lán, mỗi lán giam giữ khoảng hơn 100
tù. Chung quanh mỗi khu có hàng kẽm gai bao quanh và có vệ binh canh gác. Vào
tối Thứ Bảy, từ sáng cho đến 11 giờ tối chỉ có một vệ binh canh gác, mỗi vệ
binh gác 3 tiếng. Từ 11 giờ tối đến 6 giờ sáng khi chúng tôi đi ngủ, trại sẽ
tăng cường ca gác, mỗi ca hai vệ binh canh gác 2 tiếng. Để chống lại việc tù
vượt ngục, ban chỉ huy trại đã có biện pháp ghép tù vào những tổ 3 người một để
kiểm soát lẫn nhau. Một người tù vượt ngục thì hai người còn lại phải chịu
trách nhiệm. Phòng ngừa cả 3 người cùng âm mưu vượt ngục, nội quy của trại quy
định những tổ 3 người này phải thường xuyên thay đổi, nên một người nay chung
tổ với người này thì mai phải chung tổ với người khác. Đây là biện pháp vô cùng
thâm độc, nên từ khi những 3T tổ tam tam được thành lập thì số tù vượt ngục
giảm hẳn.
Nhớ lời dặn dò của anh Dzoãn
Bình, tôi không dám tin một ai, nên quyết tâm vượt ngục một mình. Muốn vậy, tôi
chỉ có thể thoát khỏi sự theo dõi của hai người tù khác bằng cách xin đi cầu
rồi vượt ngục. Nhà cầu của mỗi khu giam tù tại trại giam chúng tôi khi đó bao
giờ cũng ở tận cuối khu, bên ngoài hàng rao bao quanh khu, nhưng ở bên trong
bốn hàng rào kẽm gai bao quanh trại giam. Vì ở xa và biệt lập, nhà cầu nằm ở
ngoài vùng ánh sáng đèn điện của trại giam nên được gắn thêm một ngọn điện. Vì
tù không được phép đi cầu trong giờ giới nghiêm nên ngọn điện này chỉ bật sáng
từ 7 giờ tối đến 9 giờ mỗi tối, riêng tối Thứ Bảy thì bật sáng tới 11 giờ
khuya.
Nội quy của trại quy định, tù
muốn đi cầu, đều phải đến trước mặt tên vệ binh canh gác và nói: “Báo cáo cán
bộ, tôi muốn đi cầu”. Thông thường, vệ binh canh gác phải ngồi ở đồn canh trong
thời gian từ 7 giờ đến 9 giờ tối, và chỉ được đi lại trong sân trại sau khi tù
đã đi ngủ. Nhưng trải qua thời gian, những quy định này không còn nghiêm ngặt
như ban đầu, và thường vào những tối Thứ Bảy, vệ binh cũng hay đi lại trong sân
trại, và tù khi muốn đi cầu chỉ cần hô to câu “Báo cáo cán bộ, cho phép tôi đi
cầu”, rồi tự động đi, khỏi cần chờ vệ binh cho phép.
Qua quan sát, tôi nghĩ, nếu vào
buổi tối Thứ Bảy, xin đi cầu, tôi sẽ có ít nhất 45 phút để vượt ngục trước khi
vệ binh kịp nổ súng báo động, mở cuộc truy lùng. Tính toán như vậy vì một tên
vệ binh canh gác tù cho dù có sốt sắng làm việc, khi cho người tù đi cầu, y
phải chờ người tù ít nhất 15 phút. Sau 15 phút, không thấy người tù trở lại,
tên vệ binh sẽ sốt ruột chờ đợi và rơi vào trạng thái bán tín bán nghi, không
biết người tù xin đi cầu đã trở lại lán hay chưa. Trong trạng thái này, tên vệ
binh sẽ chờ thêm 15 phút, chứ không khi nào y hô hoán gọi tù, hay ra nhà cầu
kiểm soát. Sau 30 phút chờ đợi, vẫn không thấy người tù về, tên vệ binh sẽ cho
tù ra nhà cầu kiếm, không thấy, y sẽ cho lệnh thổi còi tập hợp để điểm danh xem
có vắng mặt người tù đó không. Toàn bộ việc này cũng mất ít nhất 15 phút nữa.
Nói tóm lại, từ khi tôi bắt đầu vượt ngục, cho đến khi bị người vệ binh phát
hiện, nổ súng báo động, tôi sẽ có ít nhất 45 phút đồng hồ. Và nếu tôi chạy thục
mạng trong rừng rậm, lúc đêm khuya được 45 phút đồng hồ, tôi sẽ chạy được ít
nhất là 10 cây số và như vậy, chắc chắn việc truy lùng tôi ngay trong đêm tối
không phải là điều dễ dàng.
Khó khăn lớn nhất đối với
chuyện vượt ngục của tôi lúc đó là những trái mìn nằm rải rác giữa các hàng rào
kẽm gai chung quanh trại giam. Tuy đã học cách dò mìn, gỡ mìn, nhưng tôi không
tin vào khả năng của mình. May mắn cho tôi, qua một người “tù tự quản” tôi biết
được có một lối đi “bí mật” từ bên ngoài trại giam vô thẳng nhà cầu do những
người “tù tự quản” tạo ra. Vì chôn mìn, chăng dây kẽm gai cũng do “tù tự quản”
làm, mà “tù tự quản” thường làm việc tự do bên ngoài trại, nên họ đã làm một
đường đi riêng, an toàn qua hàng rào kẽm gai, từ bên ngoài đi thẳng vô nhà cầu.
Biết được đường đi bí mật này tôi càng thêm quyết tâm và tin tưởng chuyến vượt
ngục của mình sẽ thành công.
Một điều nan giải nữa khi trốn
tù là quần áo mặc sau khi trốn trại ra ngoài. Thời gian đó, sống trong trại tù
của cộng sản, không có quần áo tù, nên chúng tôi đều mặc quần áo của mình mang
theo. Nhờ vậy có cái lợi, khi trốn trại ra ngoài, chúng tôi dễ trà trộn với mọi
người. Nhưng chuyến trốn trại, cắt rừng suốt nhiều tiếng đồng hồ của tôi chắc
chắn sẽ khiến quần áo của tôi bị rách bươm, bẩn thỉu. Với bộ quần áo đó, tôi
rất dễ bị nghi ngờ và bị phát hiện trên đường trốn trại. Vì vậy, tôi cần phải
mang theo một bộ quần áo sạch sẽ để thay sau khi thoát khỏi khu rừng rậm. Nhưng
làm sao một người tù trong lúc đêm hôm, đi cầu lại có thể mang theo một bộ quần
áo? Sau khi suy nghĩ, cuối cùng tôi nghĩ ra một kế. Hai tuần trước ngày dự định
trốn trại, tôi đã mặc trong người một bộ quần áo tươm tất nhất ở bên trong, và
bên ngoài mặc bộ quần áo rách rưới, cũ nát để đi làm. Khi đi trồng khoai mì ở
ngoài trại, tôi đã khéo léo cởi bộ quần áo bên trong, gối vô một bao nylon rồi
giấu dưới một hốc cây bằng lăng lớn và cao nhất, thẳng hướng với trại tù.
Vào một buổi tối Thứ Bảy của
tháng 4 (tôi không nhớ rõ ngày) năm 1978, tôi quyết định trốn trại. Tối hôm đó,
trời rất đẹp, bóng tối bao phủ nhưng không mưa không gió. Sau khi bí mật phân
phát tất cả tư trang của mình cho bè bạn, ghé thăm những người thân quen, nhưng
không hề nói một lời tạm biệt, tôi bước về phía hàng rào kẽm gai, nơi tên vệ
binh đang ngồi gác, nói:
- Báo cáo cán bộ, tôi muốn đi
cầu.
Tên vệ binh không thèm ngẩng
đầu nhìn tôi, chỉ nói gọn lỏn: “Đi.”
Thấy tên vệ binh thờ ơ như vậy
tôi rất mừng. Ngay phút đầu như thế là đã tốt đẹp. Tên vệ binh không thèm nhìn
mặt tôi, lát nữa, thấy tôi không về, hắn sẽ không nhớ người xin đi cầu là ai.
Điều này sẽ khiến hắn lúng túng, ngần ngại không dám vội vàng báo động có tù
trốn trại. Và sự ngần ngại của tên vệ binh sẽ cho tôi thêm thời gian an toàn cho
cuộc đào tẩu.
Sau khi đi thẳng một mạch ra
đến nhà cầu, tôi ngồi xuống quan sát tên vệ binh. Hắn vẫn ngồi đó, quay lưng
lại phía tôi. Chung quanh tôi, cả một màn đen dầy đặc, không có bất cứ dấu hiệu
gì nguy hiểm. Nhìn quanh một lần nữa, thấy không động tĩnh gì, tôi nhanh chóng,
cúi người thật thấp, đi vội vài bước đến sát hàng rào kẽm gai, rồi nằm xuống,
bò thật nhanh theo dẫy cọc thép gai mà những người “tù cải tạo” vẫn “bí mật” ra
vô. Không đầy mấy phút sau, tôi đã chui qua bốn hàng rào kẽm gai một cách an
toàn. Thở phào nhẹ nhõm, tôi lom khom bước vội băng qua con đường đất rộng
khoảng chục mét…. Những giây phút đầu tiên được tự do thật tuyệt vời. Cũng bầu
không khí này tôi hít thở mỗi ngày, nhưng sao bây giờ bỗng trở nên ngọt ngào và
tuyệt diệu khôn tả. Cả mặt đất như nghiêng ngửa, khiến tôi chao đảo, chân thấp
chân cao, té rụi xuống không biết bao lần, nhưng tôi không biết đau đớn gì.
Sang đến bên kia đường là cả khu đất trống, có những bụi cây rải rác. Tôi vội
vàng điên cuồng lao về phía trước như một mũi tên đã bắn ra khỏi cung. Tôi phải
chạy đua với thời gian. Tuy đinh ninh mình có ít nhất 45 phút đồng hồ chạy trốn
trong rừng trước khi bị phát hiện, tôi vẫn lo ngại, bất cứ lúc nào người vệ
binh cũng có thể bắn súng báo động có người trốn trại…
Trong bóng tối, tôi nhằm đúng
hướng cây bằng lăng phóng tới. Nhưng ở xa, tôi còn nhìn thấy cây bằng lăng dễ
dàng. Khi chui vô rừng rậm, trong đêm tối, lại bị cây cối che khuất, tôi mới
thấy việc định hướng quả là chuyện vô cùng khó khăn. Nhưng với tôi lúc này không
còn là lúc định hướng và cũng chẳng còn có thì giờ nghĩ đến bộ quần áo giấu
dưới hốc cây bằng lăng nữa. Bằng mọi giá, tôi phải chạy càng xa trại giam càng
tốt, và phải xa thật nhanh, trước khi tiếng súng báo động nổ vang… Đến lúc này,
tôi chẳng còn biết phương hướng là gì, chỉ biết được điều duy nhất, trại tù ở
phía sau lưng, và tôi phải chạy về phía trước, chạy thục mạng, chạy bán sống
bán chết. Trong thời gian ngắn khoảng nửa tiếng đồng hồ, tôi không biết mình đã
chạy được bao xa, tôi chỉ biết, đầu, mình, chân tay của tôi đụng phải không
biết bao nhiêu cành lá, cây rừng; tôi phải đứng lên rồi lại bị té rụi xuống
không biết bao nhiêu bận. Nhiều lần, đang chạy, bỗng dưng tôi bị hụt hẫng, cả
người rớt xuống một hố bom. Tôi vội vàng bám cỏ, bám cây, cào đất cào cát, hối
hả leo len, điên cuồng chạy tiếp… để rồi lại rớt xuống một hố bom khác…. Cứ như
vậy, tôi chạy, tôi té, tôi đứng dậy chạy tiếp… Nhiều lúc, mệt quá, tôi phải
đứng lại, ôm một thân cây, thở hổn hển trong chốc lát rồi lại chạy…
Trong khi chạy chối chết, tôi
vẫn chờ đợi tiếng súng báo động từ trại tù. Nhưng chờ hoài vẫn không thấy… Tôi
vừa mừng lại vừa lạ lùng không hiểu tại sao. Hay tên vệ binh ngớ ngẩn đinh ninh
tôi đã trở lại lán? Hay tên vệ binh đã quên phéng có một thằng tù xin đi cầu?
Hay có tên vệ binh khác đổi gác bất ngờ, tên vệ binh trước quên luôn cả chuyện
bàn giao về tôi?… Vừa chạy, vừa suy nghĩ vẩn vơ, vừa phập phồng chờ đợi…
Chạy trong rừng được khoảng một
tiếng đồng hồ, thì tôi nghe thấy có một tiếng súng nổ vang trong đêm tối. Tôi
vội dừng lại, ôm lấy một thân cây, vừa thở dốc vừa nghe ngóng. Tiếng súng ở
ngay phía sau lưng của tôi. Như vậy là tôi đã chạy đúng hướng. Tiếp theo tôi
nghe thấy hai tiếng súng nữa nổ rời rạc, rồi một tràng súng AK-47. Sau đó là
tiếng kẻng vang lên… nghe rõ mồn một từ phía trại tù. Thì ra một phần trong đêm
tối âm thanh vang vọng rất xa, phần nữa, tuy tôi chạy điên cuồng trong rừng cả
tiếng đồng hồ, nhưng vẫn chưa chạy được bao xa…
KỲ 56
Nghe tiếng súng, tiếng kẻng,
tôi thấy vừa kinh hãi lại vừa mừng. Kinh hãi vì thấy mình vẫn còn bị bóng ma
của trại tù bao trùm trong tâm trí. Mừng vì thấy lần đầu tiên nghe tiếng kẻng
của trại tù mà mình không phải nằm trong hàng rào kẽm gai. Tôi biết, từ lúc
trốn trại đến giờ, tất cả mọi chuyện đều diễn ra thật may mắn. Tôi đã trải qua
những nỗi hiểm nguy nhất và đã có được tự do, dù chỉ là tự do tạm thời. Từ giờ
phút này trở đi, tôi chỉ cần thật cẩn thận và khéo léo để cố gắng về được
Sàigòn. Một khi về đến Sàigòn, tôi sẽ tìm mọi cách để vượt biên. Tôi biết, ban
chỉ huy trại tù bây giờ đang mở cuộc truy lùng về hướng thị xã Tây Ninh vì qua
chuyện của những người tù, tôi biết, từ xưa đến nay, những cuộc truy lùng tù
trốn trại đều theo hai ngả, một về phía thị xã Tây Ninh và một về phía biên
giới Miên Việt. Cả hai ngả này đều thuận tiện đường xá, nhưng tù trốn trại
thường bị bắt lại tại bến xe Tây Ninh hay các chốt vùng biên giới. Riêng ngả
tôi chọn phải đi qua rừng rậm, nên xưa nay chưa có tù trốn trại nào chọn, nên
tôi đoán ban chỉ huy trại sẽ không cho người truy lùng tôi theo hướng này. Hơn
nữa, việc truy lùng tù trốn trại theo hai ngả kia bao giờ cũng dễ dàng hơn việc
truy lùng trong rừng rậm. Tôi cũng biết, bên cạnh việc cho vệ binh truy lùng,
ban chỉ huy trại tù cũng sẽ liên lạc với các bến xe trong vùng, đặc biệt là hai
bến xe ở thị xã Tây Ninh và thị trấn Dầu Tiếng, là hai nơi cách trại tù không
bao xa. Vì vậy, tôi phải tránh xa hai bến xe này.
Sau khi thở dốc một hồi cho đỡ
mệt, tôi lại cắm đầu chạy về phía trước. Chạy được khoảng nửa tiếng, tôi đến
bìa rừng. Từ bìa rừng, tôi nhìn thấy cả một vùng ánh sáng, cách khoảng 10 cây
số nằm về phía tay phải. Phía tay trái là cả một vùng nước mênh
mông, tôi không biết đó là sông
hay hồ nước. Sau mấy tiếng đồng hồ chạy trong rừng rậm, nay nhìn thấy vùng ánh
sáng, lòng tôi mừng vô hạn, vì đó là dấu hiệu của văn minh, của tình người. Đi
khoảng chừng nửa tiếng, tôi thấy có con đường mòn ngoằn ngoèo chạy giữa rừng
cao su. Tôi không biết con đường chạy từ đâu đến đâu. Suy nghĩ một chút, tôi
quyết định đi về phía tay phải, vì tôi tin đó là hướng đi tới thị trấn Dầu
Tiếng. Trong tù, suốt nhiều tháng trời, tôi đã âm thầm tìm hiểu, hỏi dò đường
xá, nên tôi biết, từ Dầu Tiếng, tôi sẽ kiếm cách đi về Tây Ninh, rồi từ Tây
Ninh tôi sẽ về Sàigòn.
Đi theo con đường mòn khoảng
một tiếng đồng hồ, tôi đến một ngã ba. Vì trong rừng cao su rộng bạt ngàn, nên
tôi không còn nhìn thấy vùng ánh sáng của thị trấn Dầu Tiếng. Hơn nữa, vì đi
theo đường mòn quanh co, nên tôi cũng mất luôn cả phương hướng. Đang băn khoăn
không biết đi về hướng nào thì tôi bỗng nghe thấy có tiếng chân người từ phía
sau. Giật mình ngoảnh lại, tôi thấy có một bóng người đang gồng gánh gì đó, đi
tới. Tôi định tạt vào rừng lẩn tránh, nhưng không kịp, vì người đó đã bước tới,
đi nhanh như chạy. Vì đường mòn nhỏ hẹp, hai bên là rừng, nên tôi phải né sang
bên cho người đó đi qua. Tuy đêm tối, nhưng nhờ có ánh sao nên tôi vẫn nhìn ra
đó là một người đàn ông cao to, lực lưỡng, đầu quấn chiếc khăn rằm, áo không
cài cúc. Khi đi ngang qua chỗ tôi đứng, ông chỉ hơi quay đầu nhìn tôi một thoáng,
rồi đi luôn. Trong một thoáng ngần ngại, cuối cùng tôi đánh liều:
- Thưa bác, cho cháu hỏi…
Ông dừng bước, quay nửa người
lại nhìn tôi, chờ đợi. Tôi hỏi tiếp:
- Thưa bác, cháu muốn về Dầu
Tiếng mà không biết rẽ lối nào?
Ông quay lại bước đi, miệng nói
hai tiếng gọn lỏn:
- Theo tôi.
Mừng quá, tôi vội vàng đi theo
ông, hay nói đúng hơn, tôi phải chạy theo ông. Tôi không biết ông gánh vật gì,
vì cả hai vật ở hai đầu của đòn gánh đều được bọc trong một lớp vải bố dầy. Chỉ
biết chúng rất nặng, vì tôi thấy chiếc đòn gánh trên vai của ông bị quằn trĩu
xuống. Vậy mà ông đi rất nhanh, bước chân rất dài. Tôi không hề mang vác vật gì
trên người, nhưng phải chạy gằn mới kịp theo ông. Trên đường đi, mấy lần tôi
định bắt chuyện, nhưng lại ngần ngại…
Khoảng nửa tiếng sau, đi hết
rừng cao su, chúng tôi ra đến đường lộ. Người đàn ông dừng lại, đặt gánh đồ
xuống đất, lấy vạt áo quệt mồ hôi trán, rồi không thèm nhìn tôi, hỏi trổng:
- Trốn trại, phải không?
Tôi giật mình, tê điếng cả
người. Chẳng hiểu sao lúc đó, trong khi bối rối, chưa kịp nghĩ ngợi, tôi đã
vuột miệng trả lời
- Dạ… phải…
Người đàn ông không nói gì
thêm, cúi xuống một đầu gánh, hí húi lấy ra chiếc bi đông nước, trao cho tôi:
- Uống đi.
Tôi sung sướng vì đang khát khô
cả cổ. Cầm chiếc bi đông, tôi ngửa cổ uống một hơi. Nước mát lạnh, trôi đến đâu
biết đến đó. Đậy nắp chiếc bi đông nước, tôi trao lại cho người đàn ông, và cảm
động nói:
- Cảm ơn bác.
Người đàn ông trao cho tôi một
bọc lá chuối. Tôi mở ra thấy có hai miếng khoai mì. Chưa kịp cảm ơn, thì người
đàn ông đã giơ tay chỉ về phía bên phải, nói tiếp:
- Chú mày đi theo hướng này sẽ
đến nhà thờ… Ở đó sẽ có người giúp.
Nói xong, người đàn ông xốc
gánh lên vai, rảo bước đi thẳng. Tôi nhìn theo người đàn ông, trong lòng vô
cùng xúc động và biết ơn. Tôi không biết ông tên gì, ở đâu, nhưng hình ảnh ông
chập choạng trong đêm tối, cùng ngụm nước, khúc khoai mì ông cho tôi
hôm đó, và đoạn đường tôi chạy
theo ông gần nửa tiếng đồng hồ… tất cả vẫn sống trong lòng tôi cho đến hôm nay
và mãi mãi về sau…
Theo hướng của người đàn ông
chỉ, tôi đi vào thị trấn Dầu Tiếng. Không lâu sau, tôi thấy lòng mình ấm lại
khi trông thấy tháp chuông nhà thờ hiện ra xa xa.
Xuất thân trong một gia đình
đạo gốc, ở vùng Công giáo toàn tòng, và sống giữa xã hội cộng sản Miền Bắc suốt
mấy chục năm, tôi hiểu rất rõ thái độ và sức mạnh chống cộng của giáo hội Công
giáo. Đó là sức mạnh của đức tin được bền bỉ tích tụ dưới mỗi mái nhà thờ, được
nuôi sống một cách âm ỉ trong lòng của mỗi giáo dân. Vì vậy, những ai trên
đường trốn chạy cộng sản, họ luôn luôn tìm đến nhà thờ để tìm nơi nương tựa,
gửi gắm đức tin hay tìm kiếm sự giúp đỡ.
Lúc đó trời đã khuya, tôi phỏng
đoán, phải một, hai giờ sáng. Nhưng không hiểu sao, cả hai cánh cửa nhà thờ đều
mở rộng. Tôi kính cẩn làm dấu, rồi rón rén bước vô, vừa đi vừa nghe ngóng động
tĩnh. Bước qua hai cánh cửa nhà thờ, tôi giật mình thấy người nằm ngổn ngang
khắp mọi chỗ. Cả một nhà thờ rộng mênh mông, nhưng toàn người là người, gồm đủ
cả già, trẻ, lớn, bé, đàn ông, đàn bà. Đèn trong nhà thờ đủ sáng để tôi thấy, tất
cả mọi người đều ngủ thành từng cụm, giống như mỗi gia đình ngủ một chỗ. Bên
cạnh họ là đủ thứ quang gánh, nồi niêu xoong chảo, túi bị ngổn ngang. Tôi rất
ngạc nhiên, không hiểu sao trong nhà thờ lại chứa đủ hạng người nằm ngủ ngổn
ngang như vậy. Tôi đang băn khoăn, không biết cách nào có thể gặp vị linh mục
để nhờ vả thì bỗng thấy ở phía đầu nhà thờ, có người vẫy vẫy tay. Tôi đi tới
thì thấy đó là một vị linh mục, nét mặt khả kính, phúc hậu, mới thoáng nhìn đã
thấy trong lòng mình tràn ngập niềm kính ngưỡng, tin yêu. Tôi vừa kính cẩn nói
được mấy tiếng, “Con chào Cha”, thì vị linh mục đã đưa ngón tay trỏ lên miệng
ra dấu cho tôi im lặng. Lúc đó, tôi cứ ngỡ là Cha không muốn tôi to tiếng để
giữ im lặng cho mọi người ngủ. Nhưng sau này, tôi mới biết ý tứ thâm sâu của
Cha…
Cha ra dấu cho tôi đi theo rồi
ngài quay lưng bước đi. Tôi im lặng đi theo. Dọc theo hành lang, tôi thấy vẫn
có nhiều người nằm ngổn ngang, nhưng thưa hơn bên ngoài. Qua hai căn phòng nhỏ,
đến căn phòng thứ ba, Cha đẩy cửa bước vô. Tôi lặng lẽ bước vô theo Cha. Trong
phòng cũng có khoảng chục người nằm ngay trên sàn. Chỉ tay vào một góc phòng
còn trống, ở đó có sẵn một tấm mền và chiếc gối, Cha nói nhỏ với tôi: “Chúc con
ngủ ngon!” Tôi chưa kịp nói gì, Cha đã lặng lẽ bước ra ngoài, khép cánh cửa
lại.
Nhìn chung quanh, tôi thấy tất
cả mọi người vẫn say ngủ. Yên tâm, tôi bước vào góc phòng, nằm xuống, và chìm
ngay vào giấc ngủ.
Đang ngủ say, bỗng nhiên tôi
giật mình vì có người lay vai tôi rất mạnh. Tội giật mình, vội mở mắt, thì thấy
có một cụ già, khoảng sáu, bảy chục tuổi đang ngồi ngay cạnh. Phải mất mấy giây
sau, tôi mới bàng hoàng nhớ lại mọi chuyện và nhận ra mình đang ở đâu. Cụ già
cũng ra dấu cho tôi im lặng, đi theo cụ. Tôi lồm cồm đứng dậy, đi theo, không
nói một lời. Qua hai khúc quẹo, tôi bước vào một căn phòng nhỏ, có lẽ là phòng
ăn. Trên bàn, có sẵn chén, đũa và một tô mì gói đã đổ nước sôi, được đậy kín
bằng một chiếc đĩa sứ. Ở chiếc ghế bên cạnh có một bộ quần áo, một đôi giầy thể
thao đã cũ. Cụ già nói với tôi, giọng ân cần:
- Cậu đi thay bộ đồ này ngay,
cho khỏi lộ. Rồi ra đây ăn tô mì lót dạ.
Nghe cụ nói hai chữ “khỏi lộ”,
tôi giật mình nhìn cụ, nhưng thấy cụ rất thản nhiên, nên tôi không dám hỏi han
gì. Thì ra, ngay khi tôi bước vô nhà thờ, nhìn bộ dạng và quần áo tôi rách tươm,
lấm bê bết đất cát, Cha đã biết rõ tôi là tù trốn trại, nhưng vì tai mắt của
tụi cộng sản ở khắp nơi, nên Cha không muốn tôi dài dòng kể lể, nguy hiểm…
Ngồi xuống bàn, vừa ăn mì, tôi
vừa trò chuyện với cụ và được cụ cho biết, tất cả những người nằm ngủ trong nhà
thờ đều là dân ở Sàigòn và các tỉnh bị cộng sản lùa đi vùng kinh tế mới. Cộng
sản cho xe chở người đến nhà thờ yêu cầu Cha phải cho họ tá túc qua đêm, sau
đó, cộng sản lại xảo quyệt dùng chính sự giúp đỡ của Cha để tuyên truyền cho
chiến dịch lùa người đi vùng kinh tế mới.
Sau khi tôi thay bộ đồ và ăn
uống xong, cụ già đưa cho tôi một gói giấy nhỏ, rồi nói:
- Cậu cấm lấy chút tiền đi
đường. Không nhiều lắm đâu, nhưng cậu tiêu pha tằn tiện thì đủ tiền ăn, tiền xe
cho cậu về đến Sàigòn. Bây giờ, cậu phải đi sớm ra phía xóm Bàu Sen rồi đón xe
đi Tây Ninh. Nhớ đừng vô bến xe, mà hãy đón xe dọc đường…
Tôi lặng lẽ chia tay cụ già,
bước đi trên đường phố của thị trấn Dầu Tiếng vào một buổi sáng tinh mơ của
tháng 4 năm 1977, mà thấy trong lòng rưng rưng như muốn khóc. Cuộc đời tôi, kể
từ khi phải rời xa mái gia đình năm 15 tuổi, trôi giạt khắp mọi nơi, luôn luôn
tiếp nối bằng những cuộc chia ly, và trong mỗi cuộc chia ly, lúc nào cũng có
hình bóng của những ân nhân, của những tấm lòng vàng, trong đó có những vị ân
nhân tôi vĩnh viễn không bao giờ biết tên tuổi, địa chỉ; và tôi biết vĩnh viễn
trong suốt cả cuộc đời còn lại của mình, tôi sẽ không bao giờ có được cơ hội
được gặp lại, được trả ơn… Cũng vì luôn luôn sống và thao thức trong tâm trạng
của một người luôn luôn chịu ân nghĩa của không biết bao nhiêu người, nên ngay
từ những ngày tháng đó, tôi đã thầm nguyện với lòng, tôi sẽ phải cố gắng sống
sao cho xứng đáng phần nào với những ân tình sâu nặng mà tôi đã được lãnh nhận…
KỲ 57
Vì
không thông thuộc đường xá của thị trấn Dầu Tiếng, mà đường phố lúc đó còn rất
vắng vẻ, chẳng có một ai để hỏi thăm, nên tôi cứ cắm cúi đi, miễn sao ra khỏi
được thị trấn, rồi sẽ tìm đường đón xe về Bình Dương. (Đến đây tôi xin được
đính chính, trong số báo trước, khi tường thuật lời dặn của cụ già trong nhà
thờ Dầu Tiếng, cụ dặn tôi từ Dầu Tiếng đón xe về Bình Dương, rồi từ Bình Dương
đón xe về Sàigòn. Nhưng vì đã ba chục năm trôi qua, không còn nhớ rõ lời của
cụ, nên tôi đã tường thuật sai là đón xe về Tây Ninh). Đi được khoảng nửa
tiếng, tôi thấy nhà cửa thưa thớt, ngay cạnh đường có một quán nhỏ, mái tranh,
bốn phía trống trải, bàn ghế sơ sài. Tôi bước vô, tính uống ly cà phê, hút điếu
thuốc, rồi lân la làm quen, hỏi thăm đường xá…
Trời
lúc đó còn rất sớm, nên trong quán không có khách, chỉ có một bà lão, lưng
còng, tóc bạc và một cô bé tuổi khoảng 16, 17, mà tôi đoán là hai bà cháu. Tôi
cất tiếng chào bà cụ, nhưng bà cụ chỉ hấp háy mắt nhìn tôi, không nói, tay chân
của cụ run lẩy bẩy. Có lẽ bà cụ quá già, nhưng vì cuộc sống vô cùng khó khăn,
nên hai bà cháu phải dậy sớm, bán quán, đắp đỗi qua ngày. Dưới chế độ cộng sản,
tôi đã thấy nhan nhản những hình ảnh khốn khổ như vậy, hoặc hơn thế, trải dài
trên khắp mọi miền của quê hương Miền Bắc suốt mấy chục năm. Từ sau tháng 4,
1975, cùng với gót giầy xâm lăng chiếm đóng Miền Nam, người cộng sản tiếp tục
gieo rắc tang thương trên khắp quê hương Miền Nam.
Tôi
gọi một ly cà phê đen. Cô bé bưng ly cà phê đặt trên bàn, rồi hỏi tôi:
-
Chú dùng chi nữa không?
-
Cảm ơn cháu, chú uống ly cà phê là đủ rồi.
Cô
bé có cặp mắt đen lay láy, thông minh, nhìn tôi có vẻ tò mò khiến tôi băn
khoăn, không biết hỏi thăm cô bé về đường xá như thế nào. Vẫn biết, hầu hết
người dân Miền Nam không ưa gì cộng sản. Nhất là sau tháng 4 năm 1975, người
dân Miền Nam càng hiểu rõ bộ mặt thật của cộng sản, nên sẵn sàng giúp đỡ những
người tù cải tạo trốn trại. Hiểu điều đó, nhưng tôi vẫn đắn đo, không biết mở
đầu ra làm sao.
Trong
lúc đang uống cà phê, tôi thấy cô bé vừa nhìn tôi vừa ghé tai bà thì thầm
chuyện gì không rõ, chỉ thấy bà cụ đập nhẹ vào vai cô. Cô bé cười khúc khích,
rồi bưng ra một đĩa xôi có trộn lẫn hai, ba miếng khoai mì, và nói:
-
Chú ăn xôi đi…
-
Cảm ơn cháu, chú vừa ăn sáng xong…
-
Chú ăn đi, cháo bao mà. Cháu không lấy tiền chú đâu mà chú ngại.
Tôi
ngạc nhiên, chưa kịp hỏi, cô bé lại tiếp:
-
Có phải chú là tù mới trốn trại không?
Tôi
giật mình, nhìn vội chung quanh. Cô bé cười:
-
Chú đừng ngại, ở đây không có ai đâu…
Sau
một thoáng ngần ngại, tôi gật đầu thú thật với cô bé:
-
Chú mới trốn trại thật. Nhưng sau cháu biết hay vậy?
Cô
bé lại cười, răng trắng đều như bắp:
-
Nhìn quần áo chú mặc cháu đoán ra liền à. Rồi thấy bộ điệu lo lắng của chú,
cháu đoán càng trúng… Với lại ở đây cháu thấy tù trốn trại hoài à, nên nhìn các
chú trốn ra là cháu biết liền. Mà chú định về đâu, nói cháu cháu chỉ đường cho?
Tôi
vừa lo lắng, vừa ngạc nhiên. Không hiểu sao, cô bé khi biết tôi là một tên tù
vượt ngục, nhưng vẫn giữ được sự hồn nhiên, tươi cười như vậy. Tuy ngạc nhiên,
nhưng tôi rất tin cậy ở cô bé. Tôi vội nói:
-
Thú thực với cháu, chú định đón xe về Bình Dương.
Cô
bé hóm hỉnh:
-
Chú muốn đón xe về Bình Dương thì chú đừng có vô bến đón xe. Trong đó công an,
bộ đội nhiều lắm. Vô đó là chú bị họ bắt liền đó.
-
Như vậy thì chú phải đón xe ở đâu cho an toàn?
Cô
bé giơ tay phải chỉ về phía con đường đất đỏ và nói:
-
Chú cứ đi thẳng con đường này khoảng một cây số, đến ngã ba X (vì lâu ngày nên
tôi không còn nhớ tên ngã ba này) có cây bằng lăng thật lớn, thì chú đứng đó
chờ. Hễ thấy xe đò nào tới thì chú vẫy đón về Bình Dương….
Nghe
cô bé nói, tôi mừng quá, nhưng vẫn hỏi thêm cho chắc ăn:
-
Làm sao chú biết xe nào về Bình Dương?
-
Chú đừng lo. Tất cả những xe từ Dầu Tiếng đi qua ngã ba X đều chạy về Bình
Dương hết. Nhưng xe đò thì mỗi ngày chỉ có 3 chuyến. Chú đi nhanh đi, để đón
kịp chuyến xe 8 giờ sáng…
Mừng
quá, tôi vội đứng dậy, tính trả tiền ly cà phê, thì cô bé đã nhanh nhảu:
-
Chú khỏi trả tiền đi. Chú tù mới trốn trại làm gì có tiền. Lấy tiền của chú kỳ
quá hà…
Tôi
còn đang bối rối và bâng khuâng, chưa kịp nói gì, cô bé đã lấy một gói thuốc
lá, mấy chiếc kẹo mè trong tủ kính, gói vội trong túi nylon nhỏ rồi quýnh quáng
dúi vào tay tôi:
-
Chú cầm lấy gói thuốc hút cho ấm… Thôi chú đi lẹ lên cho kịp xe… Chúc chú may
mắn!…
Cầm
gói đồ của cô bé trao, tôi cảm động rưng rưng nước mắt. Bà cụ vẫn đứng đó, chân
tay vẫn run lẩy bẩy, nhưng nhìn tôi mỉm cười, miệng móm mém, khiến tôi vừa xúc
động vừa thương cảm. Thì ra cụ tuy già, nhưng nghe chuyện, cụ hiểu hết và nụ
cười của cụ là cả một nhắn gửi, cầu chúc cho tôi tai qua nạn khỏi… Mắt tôi nhoà
đi. Tôi lắp bắp chào bà cụ, chào cô bé, rồi như một cái máy, tôi bước ra khỏi
quán. Vừa bước đi tôi vừa cố đè nén niềm cảm xúc đang dâng lên trong lòng. Bước
đi được một đoạn, ngoảnh đầu lại, tôi thấy cô bé vẫn đứng đó, đưa tay vẫy vẫy…
Từ
ngày đó cho đến bây giờ, đã 30 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh
quán nước siêu vẹo bên con đường đất đỏ dẫn vô thị trấn Dầu Tiếng và cô bé có
cặp mắt đen láy cùng tấm lòng đôn hậu, hồn nhiên đã giúp tôi trên con đường tôi
đào tẩu… Bây giờ, khi viết những dòng chữ này, những hình ảnh đó vẫn hiện lên
lung linh, sống động và tươi mát như chuyện mới xảy ra hôm qua, hôm kia…
Tôi
đi được khoảng một cây số, quả nhiên thấy một ngã ba. Con đường tôi đang đi là
đường đất đỏ, đụng phải con đường liên tỉnh lộ, trải đá răm. Cách ngã ba khoảng
chục thước, có một cây bằng lăng thật lớn, ngay cạnh đường. Tôi yên tâm đứng
cạnh gốc cây bằng lăng chờ đợi. Đường lúc đó rất vắng vẻ, nhưng để an toàn, tôi
ngồi xuống, khuất phía đằng sau cây bằng lăng chời đợi…
Trong
khi chờ đợi, điều tôi lo ngại nhất là một khi đón được xe, nếu chẳng may trên
xe có bộ đội hay cán bộ cộng sản thì tôi không biết phải đối phó như thế nào.
Tệ hại nhất, nếu những cán bộ, bộ đội đó lại là người ở trại tù, nơi tôi vừa
trốn đi. Gặp trường hợp đó, chắc chắn chúng sẽ nhận ra tôi, và tôi sẽ vô phương
tẩu thoát. Nhất là thời đó, hầu hết bộ đội, cán bộ cộng sản rời khỏi trại, đi
bất cứ đâu, chúng đều mang theo vũ khí. Vì thế, việc tôi phải đối phó với chúng
để tẩu thoát sẽ vô cùng khó khăn. Biết vậy, nhưng tôi không còn sự lựa chọn nào
khác, tôi phải đón xe về Bình Dương, không chiếc xe này thì phải đón xe khác.
Và làm sao tôi có thể biết được, trên chuyến xe đò từ Dầu Tiếng chạy tới, chiếc
nào có bộ đội cán bộ cộng sản, chiếc nào không? Thôi thì chỉ biết liều, rồi đến
đâu hay đến đó.
Tôi
chờ khoảng hai mươi phút, thì nghe thấy có tiếng xe hơi từ phía Dầu Tiếng vọng
tới. Bước ra khỏi bóng cây bằng lăng, nhìn về phía Dầu Tiếng, tôi thấy một
chiếc xe đò đang ì ạch chạy tới. Đó là chiếc xe đò loại vừa, chở khoảng ba chục
đến bốn chục người. Trên nóc xe chất đầy quang gánh, thúng mủng, ngay phía bên
trái của tài xế có một chiếc ống khói phun ra từng lớp khói đen đặc lên trời.
Khi
xe chạy tới gần, tôi dơ tay vẫy. Xe chạy chậm dần rồi dừng lại ngay cạnh chỗ
tôi đứng. Anh lơ xe đứng ở phía sau vẫy vẫy tay ra hiệu cho tôi lên xe, mà
không hề hỏi han gì. Mừng quá, tôi quýnh quáng chạy về phía sau xe. Anh lơ nhảy
xuống mở tung cửa, dục tôi lên lẹ lẹ. Tôi vội vàng leo lên, chưa kịp đứng vững
thì chiếc cửa xe đã đóng lại, ép chặt phía sau lưng, rồi chiếc xe giật mạnh,
kêu lên khục khục mấy tiếng, và lăn bánh… Tôi loạng choạng, phải nắm vội lấy
sợi giây lủng lẳng từ trần xe, cho khỏi té.
Anh
lơ xe vừa đập tay vào trần xe vừa hét:
- Các
ông các bà ngồi dịch vô, ngồi dịch vô cho chú này chú ngồi…
Mấy
người khách ngồi hàng ghế giữa vội dồn vô, để trống một chỗ ngay phía sau cùng.
Tôi vội ngồi xuống, thở phào, trút hết mọi sự mệt nhọc rồi kín đáo quan sát.
Trong xe có ba hàng ghế, hai hàng hai bên, và một hàng ghế giữa. Những người
ngồi ở hàng ghế giữa đều quay lưng vào nhau và quay mặt ra hai phía. Vậy là ba
hàng ghế, nhưng có bốn hàng người ngồi. Đa số hành khách trong xe là phụ nữ,
chỉ có hai, ba người đàn ông lớn tuổi, vài anh thanh niên và năm, sáu trẻ em,
trong đó có cả hai, ba em bé được cha mẹ bồng trên tay. Nhìn thoáng qua khoảng
40 hành khách trên xe, tôi mừng quá, vì không thấy bóng dáng một người bộ đội,
hay cán bộ cộng sản nào. Hầu hết hành khách đều là người Miền Nam, nét mặt lam
lũ, vất vả, chất phác và chân thật. Chỉ có bốn, năm cô ngồi ở hàng ghế bên
phải, phía trong cùng là mặc áo dài trắng. Ngay cạnh mấy cô có hai anh thanh
niên trẻ, tuổi mới ngoài hai mươi. Nhìn qua, tôi đoán họ là sinh viên hay thầy
cô giáo của một trường học nào đó.
Ngay
khi bước lên xe, tôi linh cảm có cái gì bất bình thường. Có lẽ sự bất bình
thường đó là do sự xuất hiện của tôi. Trong một thoáng rất nhanh, tôi thấy vài
ánh mắt tò mò nhìn tôi. Nhớ đến cô bé trong quán nước bên đường, tôi nghĩ ngay,
nếu một cô bé bình thường có thể nhanh chóng nhận ra tôi là một người tù trốn
trại, thì làm sao tôi có thể qua mắt được cả 40 người ngồi trong xe? Không hiểu
sao, lúc đó mọi người đều im lặng. Đây là chuyện lạ, vì thông thường, các ông
các bà ngồi chật trội trong một chiếc xe đò như thế này, bao giờ cũng trò
chuyện rôm rả đủ thứ trên đời… Người tôi như nổi gai và tôi thấy thật lúng
túng, không biết mình nên phản ứng như thế nào. Chỉ cầu mong làm sao, trong 40
hành khách trên xe, không có cán bộ phường khóm, hay tên “cách mạng 30″ nào.
Người
lơ xe đập tay vào vai tôi rồi hỏi:
-
Chú về đâu?
Tội
giật mình, vội trả lời, không kịp suy nghĩ:
-
Về Bình Dương.
Người
lơ xe nói số tiền, lâu ngày tôi không nhớ là bao nhiêu. Tôi vội lấy tiền trao
cho anh lơ xe. Ngay lúc đó, một chị tuổi khoảng bốn mươi, ngồi ngay đối diện
tôi, nói trổng:
-
Từ đây về Bình Dương tui sợ nhất Bến Cát. Mấy thằng bộ đội ở đó chúng kiểm soát
không sót thứ gì.
Tôi
nhìn chị. Chị nói trổng, nhưng chị nhìn thẳng tôi, ánh mắt của chị như gói
ghém, gửi gắm điều gì đó, khiến tôi có cảm giác như câu nói của chị dành riêng
cho tôi. Chị nói tiếp, lần này rõ ràng hơn:
-
Đến đó là tụi nó hỏi giấy tờ từng người một. Mấy chú tù cải tạo trốn trại mà đi
qua đó là bị chúng bắt lại nhiều lắm đó.
Một
ông trong xe cũng cất tiếng phụ hoạ:
-
Qua đó, có giấy tờ đầy đủ cũng còn lôi thôi, chớ đừng nói không có giấy tờ… Ai
mà không có giấy tờ là cầm chắc bị chúng bắt.
Nghe
đến đó, tôi ù tai, kinh hoàng, không biết làm thế nào. Lúc ấy, trong xe ồn ào,
mọi người thi nhau kể đủ thứ chuyện xấu xa, ngu ngốc của bộ đội. Tất cả đều kể
lể và cười bò ra một cách thoải mái. Ngay cả anh tài xế và anh lơ xe cũng góp
chuyện. Trong khoảnh khắc không đầy 10 phút đồng hồ, tôi có cảm giác, tất cả
hành khách trong chiếc xe đều là những người cùng chung một chiến tuyến, coi
cộng sản là những kẻ côn đồ, ác quỷ, thủ phạm của mọi tội ác. Và tôi có cảm
giấc, tất cả mọi người trong xe đều cố ý làm như vậy, để cho tôi hiểu và tin
tưởng họ là những người không ưa gì cộng sản.
Ngồi
cạnh người đàn bà bốn mươi tuổi, có một bà cụ, tóc bạc như cước, nhưng vóc dáng
vẫn khoẻ mạnh, ánh mắt tinh anh. Mọi người cười đùa, trò chuyện ầm ĩ, nhưng cụ
không nói, không cười, cụ chỉ nhìn tôi, khiến tôi rất lúng túng. Được một lúc,
cụ nhoài người sang phía bên tôi, ghé sát mặt tôi thì thầm hỏi:
-
Cậu tù cải tạo phải không?
Tôi
giật mình. Nhưng nhìn nét mặt phúc hậu và ánh mắt tinh anh của cụ, tôi biết,
tôi không thể nói dối được. Tôi chỉ biết “Dạ” một tiếng, rồi im lặng.
Cụ
hỏi tiếp:
-
Cậu được tụi nó thả phải không?
-
Dạ…
-
Thế đồ đoàn của cậu đâu?
Tôi
giật mình lúng túng không biết nói làm sao. Một người tù được ra trại mà lại
không có đồ đoàn, chỉ đi tay không, thì quả là điều vô lý. Chưa biết trả lời
thế nào, cụ già lại thì thầm:
-
Cậu là tù trốn trại phải không?
Tôi
ngần ngừ. Cụ lại nói tiếp, giọng ân cần:
-
Cậu cứ nói thiệt đi, già bảo tụi nó giúp. Trong xe này, tụi nó đều là con cháu
của già. Cậu yên tâm đi, chẳng có đứa nào nó ưa tụi cộng sản cả…
KỲ 58
Nhìn
gương mặt phúc hậu của cụ, nghe lời cụ nói, tôi yên tâm tin tưởng ở cụ và mọi
người khách trong xe, nhưng tôi không biết người tài xế và lơ xe như thế nào.
Vì vậy tôi nói nhỏ với cụ:
-
Cháu tin lời cụ… Cháu hẳng dám giấu gì cụ, cháu là tù trốn trại… Nhưng cụ đừng
cho anh tài xế và lơ xe biết… lỡ có chuyện gì…
Cụ
già cười móm mém, tay phẩy phẩy:
-
Tài xế với lơ xe cũng là người nhà cả…
Nói
đến đó, cụ quay ra, cất tiếng nói lớn với mọi người:
-
Tụi bây lặng im nghe tao nói nè…
Tiếng
nói của cụ có một uy quyền tuyệt đối. Mọi người trong xe đột nhiên im bặt, cùng
hướng về phía cụ chờ đợi. Tôi lúng túng vì biết, cụ sắp nói rõ cho mọi người
biết tôi là ai. Nhưng tôi không biết làm thế nào. Thôi thì đành trao cuộc đời
tôi cho mọi sự may rủi… Quả nhiên đúng như tôi đoán, cụ nói:
-
Cậu này vừa nói, cậu là tù cải tạo trốn trại, nay cậu muốn về Bình Dương. Tụi
bây xem tính cách nào giúp được cậu…
Mọi
người trong xe cùng ồ lên ngạc nhiên. Rồi nhiều người cùng nói, ồn ào, tôi nghe
không rõ. Bỗng nhiên, tiếng người tài xế thiệt lớn, át hẳn mọi người:
-
Từ đây về Bình Dương chỉ sợ trạm gác của tụi nó ở Bến Cát thôi má.
Cụ
già chép miệng:
-
Mày nói cái đó ai mà chả biết…
Người
tài xế lại tiếp:
-
Con thấy đến đó mình chỉ cần cho chú lơ chạy xuống dúi cho chúng ít tiền là
xong.
Chị
ngồi cạnh bà cụ cất tiếng:
-
Dúi tiền cho chúng là chuyện dĩ nhiên phải dúi vì xưa nay mình vẫn làm vậy mà.
Nhưng mình cũng còn phải chuẩn bị cho ảnh nữa. Chớ để ảnh ngồi chình ình ngay
ngoài này, tụi nó mở cửa ra, nói hỏi giấy tờ ảnh thì làm sao mà trả lời.
Một
chị ngồi ở góc trong chen vô:
-
Tốt nhất là để cho ảnh vô ngồi tận góc trong cùng này nè.
Mọi
người ồn ào vỗ tay hưởng ứng. Đợi tiếng vỗ tay ngớt, anh tài xế nói:
-
Thì các ông các bà ngồi ngoài đó lè lẹ nhường chỗ để ảnh vô trong này ngồi…
Mấy
người ngồi cạnh tôi vội vã đứng dậy, một số người ngồi đối diện vội co chân
nhường chỗ cho tôi đi. Cụ già bảo tôi:
-
Bây giờ cậu vô trong đó ngồi…
Tôi
vội vã đứng dậy bước đi nghiêng ngửa trong khi xe vẫn chạy… Trước mặt tôi, khi
tôi bước đi, tôi thấy những cánh tay vươn ra cho tôi nắm, những ánh mắt nhìn
tôi đầy thân thương, trìu mến. Tôi xúc động, lúng túng, mặt đỏ bừng, không biết
nói gì. Rồi một bàn tay to lớn, rắn chắc vươn ra cho tôi nắm. Tôi vừa nắm, thì
bàn tay đó đã kéo tôi ngồi xuống một chỗ ở hàng ghế giữa, ngay phía sau người
tài xế. Ngồi chưa xong, người đàn ông có cánh tay lực lưỡng đã quẳng cho tôi
chiếc áo, rồi bảo:
-
Chú em, cởi chiếc áo ra rồi mặc tạm chiếc áo này vô. Mà khỏi cài cúc à nghe…
Tôi
cầm chiếc áo, ngần ngại đưa mắt nhìn cụ già. Cụ mỉm cười gật đầu. Tôi lặng lẽ
nghe lời, thay áo. Mặc áo xong, tôi nhớ lời dặn của người đàn ông, để phanh
ngực. Cũng may, sau mấy tháng trời phải lao động dưới trời nắng, nên gương mặt,
nước da của tôi cũng cháy nắng, đen nhẻm.
Người
đàn ông nhìn tôi gật gù ưng ý. Sau đó, ông quay sang phía người đàn bà đang ẵm
con và cho con bú sữa bình:
-
Lát nữa, gần đến Bến Cát, chị cho anh này ẵm thằng nhỏ để ảnh cho nó bú… Có
vậy, cha tụi nó cũng không đoán được anh là tù trốn trại.
Mọi
người trong xe cười ồ, tiếng nói tíu tít, tiếng cười rôm rả. Ai cũng vui vẻ
trước sáng kiến độc đáo và ngộ nghĩnh của anh. Một chị ngay cạnh tôi nói lớn:
-
Để ảnh ẵm ngay bây giờ cho quen…
Mọi
người reo lên tán thành. Thế là người đàn ông vội vàng bế thằng bé, trao cho
tôi. Tôi ngượng nghịu ôm thằng bé trong tay. Tôi không biết và cũng không nhớ
thằng bé được mấy tháng. Chỉ biết nó khá nặng, mặt bụ bẫm, da trắng hồng, hai
mắt đen láy, thao láo nhìn tôi, và không hề khóc một tiếng. Tôi cúi xuống nhìn
nó, định cầm bình sữa cho nó bú, thì người đàn bà nói:
-
Lát nữa khi đến Bến Cát chú hãy cho cháu bú. Bú bây giờ nó no, lát cho nó bú,
nó không chịu nó khóc, là tụi công an chúng để ý…
Tôi
nhìn người đàn bà với ánh mắt biết ơn và vâng lời. Cúi xuống nhìn thằng bé, tôi
mỉm cười ầu ơ mấy câu, rồi thọc lét nó. Thằng bé cười như nắc nẻ… Trong phút
chốc, tôi quên tất cả mọi chuyện hiểm nguy, để thấy lòng mình thật khao khát có
được một mái nhà, một gia đình. Ước mơ sống một cuộc sống hiền lạnh, hạnh phúc
của tôi, cũng như của không bao nhiêu người Việt sao thật bình thường mà mãi
mãi ngoài tầm tay với?…
Từ
đó trở đi, ngồi trên xe, tôi thoải mái kể chuyện trốn tù của mình, chuyện cuộc
đời của tôi, và thành thực trả lời tất cả những câu hỏi của mọi người trong xe.
Trên chuyến xe đầy tình người đó, tôi cảm động và vui mừng nhận chân một sự
thực, cộng sản tuy chiếm được Miền Nam, nhưng chúng không chiếm được lòng
người. Không những vậy, chúng còn làm mất đi tất cả niềm tin của những người đã
từng một thời tin vào chúng.
Trước
30 tháng 4 năm 1975, khi chưa được dịp tiếp xúc với người cộng sản từ phương
bắc, ở Miền Nam vẫn còn có người ảo tưởng về cộng sản. Họ tưởng người cộng sản
cũng là người cùng chung nguồn cội, cùng nòi giống máu đỏ da vàng, cùng có lòng
yêu nước thương dân. Thậm chí, tại Miền Nam trước 1975, có những người chỉ vì
những bất mãn cá nhân với người này người khác trong guồng máy công quyền VNCH,
hay vì những thiệt thòi riêng tư ở phường khóm, quận huyện mà rồi dại dột quay
ra theo cộng sản. Nhưng kể từ sau 30 tháng 4 năm 1975, khi người cộng sản Việt
Nam xuất hiện bằng xương bằng thịt trên mọi nẻo đường của Miền Nam tự do, gây
nên không biết bao nhiêu tội ác, người dân Miền Nam mới thực sự hiểu được bản chất
xấu xa của người cộng sản, nên ai ai cũng sẵn sàng giúp đỡ người tù cải tạo, và
tìm mọi cách bêu riếu, chống đối người cộng sản. Trong suốt thời gian gần một
năm trời kể từ khi trốn khỏi trại tù tới khi vượt biên thành công, tôi càng
hiểu được lòng người dân Miền Nam không ưa cộng sản như thế nào.
Có
điều, ở ngoài Miền Bắc, hầu hết người dân cũng không ưa gì cộng sản. Nhưng
trong lịch sử mấy chục năm sống dưới sự đô hộ của cộng sản ở Miền Bắc, tôi chắc
chắn không có một người tù vượt ngục nào dám bô bô kể chuyện vượt ngục của mình
cho nhiều người nghe, cho dù đó là những người quen biết. Chính bản thân tôi
sau này phải ngược xuôi ở cả hai miền Nam Bắc để kiếm đường vượt biên, tôi cũng
thấy rất rõ, lòng người dân Miền Nam lúc nào cũng độ lượng, bao dung, sẵn sàng
giúp đỡ tôi, nếu tôi nói rõ mình là tù cải tạo vượt ngục. Còn ở Miền Bắc, tôi
lúc nào cũng giống như con cá mắc cạn, sợ hãi mọi người, kể cả người thân của
mình. Tôi biết, nếu ở Miền Bắc, trên một chuyến xe đò, tôi có hành vi hay ngôn
ngữ chống đối chế độ, khiến họ khả nghi, lập tức họ sẽ báo cho công an bắt tôi
ngay. Quả thực, tại Miền Bắc, sau mấy chục năm đô hộ, chế độ cộng sản đã thành
công tạo nên một mạng lưới “công an nhân dân” dầy đặc, mang “bục công an đặt
giữa tim người” khiến “mỗi người dân là một người công an”.
Viết
đến đây tôi băn khoăn tự hỏi, không biết sau thời gian hơn 30 năm đô hộ Miền
Nam, liệu cộng sản có biến Miền Nam trở thành xã hội công an trị giống như Miền
Bắc? Liệu bây giờ, phải trốn chạy cộng sản trên một chuyến xe đò ở Miền Nam,
tôi có còn đủ can đảm nói thực hoàn cảnh của mình cho mọi người trong xe biết
hay không? Và nếu tôi nói thiệt, liệu những người của quê hương tôi hôm nay có
còn tận tình giúp đỡ tôi như những người của 30 năm về trước?…
Sau
thời gian trò chuyện rôm rả, vui vẻ, tôi nghe người tài xế hô lớn:
-
Tới Bến Cát rồi đó bà con…
Kế
đó, tôi nghe người tài xế nhắc anh lơ xe chuẩn bị sẵn tiền đút lót cho công an.
Anh lơ xe mở cửa phía sau, đứng sẵn ở bậc lên xuống… chờ đợi.
Mọi
người trong xe nhộn nhịp chuẩn bị… Ẵm thằng bé trong tay và cho nó bú, tôi bồn
chồn lo lắng, không biết mọi chuyện sẽ ra sao. Tôi tin tưởng, với sự giúp đỡ
chí tình của tất cả mọi người trong xe, và tôi trong vai một “người cha” đang
cho “con bú”, mọi chuyện chắc sẽ chót lọt. Nhưng nếu có điều gì bất chắc xảy
ra, không những tôi gặp hoạ, mà nhiều người trong xe cũng sẽ bị liên luỵ. Rõ
ràng, nếu tụi công an VC bắt được tôi, thì chiếc áo tôi mặc không phải của tôi,
đứa bé tôi đang ẵm không phải con của tôi, rồi vị trí tôi ngồi được nhiều người
bao bọc chung quanh,… đều là những bằng cớ chứng tỏ, mọi người trong xe đã đồng
loã, bao che cho tôi…
Chiếc
xe đò vừa dừng lại là lập tức có tiếng đập cửa xe ầm ầm ở cả hai bên hông xe
lẫn cả phía sau. Tiếng la hét cộc cằn, ầm ĩ từ bên ngoài. Rồi cửa sau xe bị mở
tung. Các bà, các cô trong xe đứng ngồi lố nhố, nhưng tôi vẫn nhìn rõ một tên
công an áo vàng và hai tên bộ đội đứng ngay phía sau. Tên áo vàng đeo súng
ngắn, đưa cặp mắt cú vọ nhìn vô trong xe. Còn hai tên bộ đội đứng sau đeo súng
AK-47, ánh mắt lơ đễnh…
Tên
công an quát to, giọng nạt nộ:
-
Mấy bà này xuống ngay trình giấy tờ…
Tên
công an vừa dứt lời, chị ngồi cạnh bà già, đã đon đả:
-
Kìa mấy chị không nghe chú công an nói hả? Xuống lấy giấy tờ cho ảnh coi lẹ lẹ
đi? Người ta làm việc dưới trời nắng, cực lắm, mình phải giúp cho các ảnh hoàn
thành nhiệm vụ chớ…
Vừa
nói, chị vừa nhảy cái ào xuống đất, tay cầm một túi trái cây. Trao túi trái cây
cho tên công an, chị vồn vã:
-
Chú cầm gói trái cây (tôi không nhớ là trái cây gì) này ăn cho đỡ khát nghe…
Tên
công an đỡ túi trái cây khá nặng, ánh mắt của y vừa lúng túng, vừa ngạc nhiên.
Chắc từ hồi vô Nam đến giờ, y chưa gặp người Miền Nam nào vui vẻ như vậy bao
giờ. Nhưng giống như cái máy, miệng hắn vẫn hỏi:
-
Chị có đầy đủ giấy tờ không đó?
Chị
cười tự nhiên:
-
Có đầy đủ chứ chú. Mình là dân thì mình phải làm đúng luật của đảng và nhà nước
chớ chú…
Vừa
nói, chị vừa lấy giấy tờ đưa cho tên công an coi. Mấy chị khác ngồi phía sau
xe, cũng lần lượt nhảy xuống lấy giấy tờ cầm sẵn, chờ đưa cho tên công an. Tên
công an lúng túng, một tay cầm túi trái cây, tay kia cầm giấy tờ của từng người
coi… qua loa. Nét mặt của y dịu lại thấy rõ. Sau đó, thấy những người trên xe
đang tiếp tục bước về phía sau xe, định nhảy xuống trình giấy tờ, tên công an
dơ tay cản lại, nói giọng biết điều:
-
Thôi thôi, khỏi xuống mất công. Tất cả mọi người trong xe có đầy đủ giấy tờ hết
phải không?
Cụ
già ngồi ngay cuối xe, trả lời ngay:
-
Ai cũng có đầy đủ giấy tờ hết. Chú muốn coi cho hết thì leo lên xe mà coi. Thời
buổi này không có giấy tờ thì ai dám đi lại làm gì cho uổng tiền, uổng công… mà
mất thì giờ.
Tên
công an liếc cặp mắt cú vọ nhìn vô trong xe. Tôi thấy ánh mắt của hắn quét qua
từng người, rồi đến tôi, ánh mắt của y ngưng lại một chút, khiến tôi đứng tim,
nhưng vẫn giữ nét mặt tỉnh bơ. Sau đó, y nhìn sang những người khác, rồi không
nói một tiếng, y quay sang phía người lơ xe, chìa tay. Tôi không nghe thấy y
nói gì, nhưng lập tức viên lơ xe trao vào tay tên công an một gói giấy, trong
đó là tiền. Tên công an cầm gói giấy thản nhiên bỏ vô túi áo ngực, rồi vẫy tay
ra hiệu cho mọi người lên xe. Xong, y quay lưng lại, rồi bước đến chiếc xe đò
kế tiếp, vừa dừng bánh ngay phía sau xe của chúng tôi. Hai tên bộ đội cũng lại
lặng lẽ lẽo đẽo đi theo tên công an.
Những
người đàn bà, đàn ông phía sau xe lục đục leo lên xe. Xe nổ máy, từ từ lăn
bánh. Người lơ xe chạy theo, đu mình nhảy lên xe, đóng mạnh cửa sau. Tất cả mọi
người cùng thở phào, nhìn về phía tôi… Tôi vui mừng, muốn thét lên vì sung
sướng, nhưng miệng tôi thì méo sệch, chỉ bập bẹ được mấy tiếng, “Cháu… cảm ơn”,
trong khi hai mắt của tôi thì rưng rưng, và trong lòng của tôi lúc đó thì như
muốn khóc…
KỲ 59
Sau
khi thoát nạn tại trạm kiểm soát Bến Cát, xe chúng tôi chạy về đến Bình Dương
không gặp trạm kiểm soát nào nữa. Đến bến xe Bình Dương, sau khi bịn rịn chia
tay từng người, tôi được hai anh sinh viên cùng đi trên xe rủ vô quán uống
nước. Cả hai đều trẻ măng, tuổi trên dưới 20, tự giới thiệu tên là Hải và Tuấn.
Vô
quán, anh Hải và tôi ngồi xuống ghế, còn Tuấn vẫn đứng với chiếc ba lô nặng
trĩu trên vai. Hải quay sang Tuấn thì thầm. Tuấn gật đầu chào tôi rồi đi ra.
Quay sang tôi, Hải nói:
-
Anh ngồi đây uống nước với tụi em. Chờ Tuấn mang gạo đi bán lấy chút tiền cho
anh đi xe về Sàigòn.
Tôi
cảm động không biết nói gì để bầy tỏ lòng biết ơn của mình. Hải nói tiếp:
-
Tụi em là sinh viên sư phạm vừa tốt nghiệp, đang đi thực tập dậy học. Đi dậy
thì “người ta” trả lương bằng gạo. Mỗi người mỗi tháng được 12 kí lô. Ngoài ra,
họ không trả tiền bạc gì thêm. Gạo họ trả thì chẳng đủ ăn, còn đồ ăn thức uống
thì mình phải “tự túc” bằng cách tự “cải thiện”. Đời sống tụi em bây giờ thiến
thốn cực khổ lắm anh ạ.
Nghe
Hải nói, tôi thú thực:
-
Hải khổ như vậy vẫn chưa khổ bằng người dân ở ngoài Miền Bắc đâu. Tôi từng sống
ở Miền Bắc suốt 20 năm, tôi biết rõ lắm chế độ tem phiếu, tiêu chuẩn lương
thực, ở Miền Bắc trước đây. Hải phải biết, ở ngoài Bắc, mỗi người, mỗi tháng
chỉ được 10 kí lô lương thực, bao gồm cả ngô, khoai, bột mì. Tất cả những thứ
này đều mất chất lượng. Sạn, cát, sỏi đều được họ cố ý cho trộn lẫn trong gạo
để tăng kí. Còn ngô, khoai, bột mì, thì đều để lâu trong kho, nên mỗi khi nhúng
vào nước, sâu mọt nổi lềnh bềnh. Thời đó ở ngoài Miền Bắc, nếu chúng tôi được
ăn một bữa cơm không độn là cả một chuyện hi hữu, chỉ có vào dịp tết nhất, giỗ
chạp…
Hải
lắc đầu, tỏ vẻ không tin:
-
Sống như vậy thì làm sao mà sống nổi?
Tôi
cười cay đắng:
-
Vậy mà vẫn sống nhăn à. Nói Hải đừng cười chứ, trước đây ở ngoài Miền Bắc, bánh
bao làm bằng bột mì của Nga nhập cảng, không có bột nở, đem luộc trong nước
sôi, vớt ra để nguội, bánh cứng như cục đá, ném chó cũng chết. Đã vậy, bột mì
lại hôi khủng khiếp. Ăn riết, ngấy đến tận cổ. Trông thấy bánh bao là sợ, nghe
đến ăn bánh bao là kinh. Đến khi vô Nam, nghe ai mời ăn bánh bao là tôi lắc
đầu. Về sau có lần được ăn bánh bao bà cả Cần, tôi mới ngạc nhiên, không ngờ
bột mì làm bánh bao lại có thể ngon lành đến như vậy.
Hải
hỏi tôi về đời sống của thanh niên, sinh viên Miền Bắc. Tôi say sưa kể. Cuối
cùng tôi nói:
-
Với quá khứ khổ đau của người Miền Bắc như vậy, tôi nghĩ cuộc sống hiện tại đối
với Hải đã là khổ, nhưng tương lai chắc chắn sẽ còn khổ hơn nhiều.
Hải
nhìn quanh rồi thấp giọng hỏi tôi:
-
Anh đã có kinh nghiệm về cộng sản như vậy thì anh khuyên tụi em phải làm gì?
-
Tôi thấy cách tốt nhất là Hải cố gắng tìm đường trốn ra ngoại quốc. Chứ còn ở
lại sống trong chế độ cộng sản thì tương lai sẽ mù mịt vô cùng.
Hải
nhìn tôi tư lự:
-
Vậy chắc anh cũng sẽ trốn ra ngoại quốc?
Tôi
gật đầu:
-
Bằng bất cứ giá nào, tôi cũng phải trốn. Nếu không, tôi trốn trại tù cải tạo
làm gì. Trốn tù rồi, nếu không vượt biên ra ngoại quốc, để chúng bắt trở lại
thì có phải thêm khốn khổ không.
Hải
lại hỏi:
-
Anh nghĩ tình thế này liệu có thay đổi gì không?
Tôi
không hiểu:
-
Hải muốn nói thay đổi gì?
-
Thì em nghe có tin đồn phục quốc, rồi tin Mỹ sẽ trở lại… Vả lại, người Miền Nam
không giống người Miền Bắc đâu anh ơi. Em tin là khi người dân Miền Nam hiểu rõ
bộ mặt thật cộng sản là họ sẽ quật khởi đứng lên chống lại chúng, chứ họ chẳng
chịu yên phận đâu.
-
Tôi cũng hy vọng những lời Hải nói là sự thật, nhưng chuyện đó khó xảy ra lắm.
Cộng sản nó đã chiếm được đâu rồi thì mình có muốn giành lại được cũng còn
khuya. Vì vậy, vượt biên là thượng sách.
Chúng
tôi nói chuyện được một lúc, thì Tuấn trở lại, đưa cho Hải một số tiền. Hải giữ
lại một ít, còn đưa hết cho tôi, rồi nói:
-
Chúng em chẳng có gì để giúp anh… Thôi anh cầm lấy chút tiền đi đường. Cầu mong
anh gặp may mắn.
Tôi
cảm động bắt tay Hải và Tuấn. Hải nói nhỏ: “Hy vọng, tương lai chúng em sẽ được
gặp lại anh”. Tôi xiết chặt bàn tay nhỏ bé nhưng chai sần của Hải và nói: “Chắc
chắn chúng mình sẽ gặp lại”. Sau đó, chúng tôi chia tay. Đi được một đoạn xa,
ngoảnh đầu lại, tôi vẫn thấy Hải và Tuấn đứng đó nhìn theo. Chúng tôi vẫy tay
chào nhau lần cuối…
Cho
đến lúc ngồi trên chuyến xe về Bình Triệu, lòng tôi vẫn bâng khuâng nghĩ thật
nhiều về Hải và Tuấn… Từ đó đến nay, đã 30 năm trôi qua, tôi không được gặp lại
và cũng không biết Hải và Tuấn ở đâu. Nhưng tôi vẫn tin tưởng và cầu mong, hai
anh đã đến được bến bờ của tự do ở một nơi nào đó…
Sau
khi đến Bình Triệu, tôi đáp xe buýt về Sàigòn. Chen chúc trong chiếc xe buýt,
tôi thấy thật yên tâm. Như vậy là chuyến vượt ngục của tôi từ đầu cho đến giờ
đã gặp rất nhiều may mắn. Và may mắn càng nhiều, tôi càng phải cẩn thận, vì tôi
biết, may mắn chẳng thể nào đến với mình mãi mãi. Điều tôi phải cân nhắc bây
giờ là một khi về đến Sàigòn, tôi sẽ về nhà ai? Chắc chắn tôi không thể về gia
đình anh chị của tôi, nơi tôi từng ở trước khi bị bắt. Đó là địa chỉ chính thức
trong mọi giấy tờ tù tội của tôi. Cộng sản đã nắm giữ tất cả những giấy tờ đó,
và một khi hay tin tôi trốn tù, lập tức, địa chỉ đầu tiên cộng sản điều tra và
theo dõi, sẽ là gia đình anh chị của tôi. Từ khi tôi vượt ngục từ tối hôm trước
cho đến hiện tại, chưa đầy 24 tiếng đồng hồ, có thể cộng sản chưa kịp báo cho
tụi cộng sản ở phường khóm theo dõi gia đình anh chị của tôi. Nhưng tôi không
thể nào phiêu lưu chấp nhận rủi ro “có thể”. Hơn nữa, như tôi đã kể cùng quý
độc giả, tầng dưới căn nhà của anh chị tôi lúc đó là một quán nhậu. Muốn vô nhà
phải đi qua tầng dưới. Vì thế, nếu tôi bước vô, gặp tụi cộng sản, cán bộ phường
khóm đang ăn nhậu, chúng sẽ nhận ra tôi. Như vậy sẽ rất nguy hiểm cho tôi và
anh chị của tôi. Vậy tốt nhất, tôi phải tránh xa căn nhà này bằng mọi giá.
Tại
Sàigòn, tôi có một người chị thứ hai ở cư xá Chu Mạnh Trinh. Vì nhiều lý do tế
nhị trong gia đình cũng như vì sự an toàn của chị, khi tôi bị cộng sản bắt lại,
tôi đã không hề khai tên tuổi, địa chỉ của chị. Tôi chắc chắn cộng sản không hề
biết về chị và cũng không khi nào ngờ được, sau khi trốn trại tù, tôi lại về
sống ở nhà của chị. Nhưng tôi không muốn về sống ở nhà chị ngay sau khi trốn
tù. Tôi muốn để dành căn nhà của chị cho những lúc khốn cùng nhất, nguy hiểm
nhất, khi tôi không còn chỗ nào tá túc, ẩn nấp.
Trong
thời gian trước 1975, tôi có quen biết và giao thiệp rất thân tình với một số
bạn bè ở rải rác vùng Sàigòn và Gia Định. Họ là những người hiểu rõ hoàn cảnh
của tôi, và đã tận tình giúp đỡ tôi. Tất cả những người này đều sẵn sàng cưu
mang tôi một khi tôi gặp hoạn nạn. Có điều tôi không biết, cùng với sự chiếm
đóng của cộng sản, không biết những người bạn đó có còn ở nơi cũ, hay đã dọn đi
chỗ khác, hay đã vượt biên ra ngoại quốc. Hơn nữa, trong hoàn cảnh của tôi lúc
đó, giấy tờ không có, mạng lưới o ép khủng bố của cộng sản thì bao trùm khắp
mọi nơi, nên tôi thực lòng không muốn gây liên luỵ cho họ.
Ngay
khi còn ở trong trại tù cải tạo, tôi đã có quyết tâm, sau khi trốn thoát trại
tù, bằng bất cứ giá nào, tôi cũng phải vượt biên. Sau thời gian lần khân, không
chịu liều mạng vượt biên ngay, để rồi bị cộng sản bắt, phải trả giá gần một năm
tù, đã cho tôi bài học, nếu tôi không quyết tâm, không chịu liều mạng tìm cái
sống trong cái chết,… không sớm thì muộn tôi sẽ bị cộng sản bắt lại, và khi đó,
tôi sẽ mãn kiếp sống trong tù ngục, hoặc sẽ bị cộng sản thủ tiêu. Tôi cũng biết
rằng, một người sau thời gian bị tù đầy, khi được tự do, dù là tự do tạm,
thường dễ say sưa tận hưởng mọi lạc thú, và thường lần lữa, không dám phiêu lưu
đối đấu với những nguy hiểm để giành tự do. Tôi sẽ cố gắng để không bị sa lầy
vào những lần lữa nguy hiểm, “chờ đến mai rồi tính”, như vậy.
Khoảng
4 giờ chiều hôm đó, chiếc xe buýt chở tôi từ Hàng Sanh qua chợ Bà Chiểu rồi
chaỵ dọc theo đường Chi Lăng, đã giúp tôi được nhìn thấy quang cảnh thân quen
của ngày xưa. Đến ngã tư Phú Nhuận, tôi xuống xe, đi vào con hẻm nhỏ dẫn tới cư
xá Chu Mạnh Trinh…
Tôi
gõ cửa. Không có ai trả lời. Chờ một lúc, tôi gõ lần thứ hai, mạnh hơn. Trong
lòng tôi lúc đó lo ngại, căn nhà đã đổi chủ. Chị tôi đã dọn đi nơi khác, hoặc
đã vượt biên. Chị tôi là người phụ nữ rất tháo vát, giao thiệp rộng, quen biết
nhiều, và đã nổi tiếng ngay từ thời trước năm 1954, khi chị còn ở Hải Phòng. Vì
vậy, trong bối cảnh nhà nhà đều tìm đường vượt biên, tôi không nghĩ là chị còn
ở lại.
Đang
định gõ cửa lần nữa, thì tôi nghe thấy có tiếng chân người, rồi tiếng của chị
tôi hỏi vọng ra: “Ai vậy?”
Tôi
run run: “Em, Chí đây chị!”
Im
lặng. Rồi tấm rèm ở cửa sổ lay động. Chị tôi nhìn ra, thấy tôi. Lập tức, cảnh
cửa mở vội và mở hé, chị tôi vươn tay nắm lấy tay tôi kéo ngay vô bên trong
nhà. Xong, chị tôi thò đầu ra ngoài, ngó trước ngó sau cẩn thận, rồi đóng cửa,
cài then trên, then dưới, đóng chốt, khoá trong thật cẩn thận. Thấy thái độ cẩn
thận của chị, tôi hiểu ngay, cuộc sống “cá chậu chim lồng” của chị, và hoàn
cảnh nguy hiểm của tôi lúc đó.
Đóng
cửa xong, chị tôi thì thầm hỏi:
-
Cậu vô đây có gặp ai không?
Tôi
lắc đầu:
-
Em không gặp ai hết.
Chị
hỏi tiếp:
-
Mấy người hàng xóm có ai nhìn thấy cậu không?
-
Em không thấy người nào cả.
-
Cậu có thấy con mụ bán bún ốc ở đầu hẻm không?
Tôi
ngạc nhiên:
-
Em đi vô hẻm thấy có nhiều người bán hàng ở đầu hẻm, nhưng không biết ai là mụ
bán bún ốc cả.
Chị
tôi nói tiếp giọng gay cấn:
-
Con mụ bán bún ốc là “cách mạng 30″ đó, cậu ạ. Nó ngồi bán bún ốc là để theo
dõi tất cả mọi người trong cái cư xá này. Ốc nó bán tanh tưởi, không để đâu cho
hết, nên đâu có ai thèm ăn… Nó có ác cảm với chị ra mặt đó. Đáng lẽ chị cũng bị
chúng đuổi khỏi cư xá này từ trước Tết lận. Nhưng vì chị cũng biết cách đấm mõm
mấy thằng ở trên, nên đến giờ vẫn còn được ở đây… Mà ở thì cũng ở tạm thôi,
chẳng biết phải dọn đi vùng kinh tế mới lúc nào.
Tôi
băn khoăn hỏi:
-
Chị bị chúng nó theo dõi dữ lắm sao?
Chị
tôi lắc đầu:
-
Thì ai bây giờ mà chẳng bị chúng nó theo dõi.
-
Vậy sao em thấy chị có vẻ lo lắng, cẩn thận quá như vậy?
Chị
tôi dí dí tay vào trán tôi:
-
Tôi lo là lo cho cậu. Cậu trốn tù cải tạo về mà tôi không lo sao được.
Tôi
ngạc nhiên:
-
Ủa, sao em chưa nói mà chị đã biết em trốn tù?
Chị
tôi cười, miệng liến thoắng:
-
Cậu hồi chánh, phản bội “đảng bác”, mà tụi nó bắt được, nó không giết, nó cũng
phải giam cậu mệt nghỉ, đến tết công gô, hoạ may cậu mới được thả. Đằng này cậu
mới bị bắt chưa đầy một năm, cậu đã về thì cậu không trốn tù, tôi cứ đi đầu
xuống đất.
Tôi
cười, khâm phục trí thông minh và sự phán đoán sáng suốt của chị. Sau đó, tôi
kể lại đầu đuôi chuyến vượt ngục của tôi. Nghe chuyện tôi kể, chị cứ xuýt xoa
nói tôi may mắn. Sau đó, chị hỏi:
-
Bây giờ cậu định thế nào?
-
Em định ở lại Sàigòn ít ngày, rồi kiếm đường vượt biên.
-
Cậu vượt biên là rất phải. Chết thì chết, cậu cũng phải đi. Mà chị nghĩ, cậu
được ơn trên phù hộ, gặp nhiều may mắn như vậy, chắc chắn cậu sẽ vượt biên
thành công. Bây giờ, hoàn cảnh của cậu như vậy, thì chị cũng nói thật, cậu đừng
có ngại ngần gì, về đây ở tạm với chị. Cậu cứ ở trên căn gác, đừng có ra ngoài.
Cần gì nói với chị, chị bảo các cháu nó mua nó lo cho. Nếu dưới này có chuyện
gì, chị và các cháu sẽ cầm chân tụi nó, để cậu trên đó, chui qua cửa sổ, ra
ngoài, là tụi nó không tài nào khám phá ra được. Còn khi nào cậu vượt biên, cậu
cho chị gửi con H. là đứa con gái lớn của chị với thằng bồ của nó. Nói thiệt
với cậu, suốt thời gian qua, chị đã lo cho các cháu vượt biên mấy chuyến, mà
chuyến nào cũng thất bại. Tiền mất, vàng mất, của cải có bao nhiêu đem ra lo
chuyện tàu bè, mất đằng tàu bè, còn lại bao nhiêu, khi bị tụi nó bắt, nó tịch
thu bằng hết. Ở nhà, chị lại phải lo vay giật bạn bè, cầm cố đủ thứ để lấy tiền
thăm nuôi các cháu, rồi lo lắng cho các cháu không bị tù tội…
Nói
đến đó, chị tôi khóc tấm tức:
-
Bố các cháu thì bị chúng bắt đi tù cải tạo. Với chức vụ của anh chắc sẽ bị tù
chẳng có ngày ra. Ở ngoài này chị thì chỉ có một thân một mình. Phải bươn bả
đầu đường xó chợ, buôn bán đủ thứ ở chợ trời để lo cho các cháu, mà đến giờ này
vẫn chưa lo được cho đứa nào, khiến chị đau lòng quá, tuyệt vọng quá. Đời chị
thì thôi, coi như vất đi. Nhưng đời của các cháu, đâu có thể để tương lai của
chúng nó bị vùi dập trong cái chế độ cộng sản chết tiệt này, phải không cậu?
Xúc
động, không ngăn nổi những giọt lệ nóng hổi, tôi nói với chị:
-
Cảm ơn chị đã lo cho em. Nhưng hôm nay, em chỉ ghé thăm chị một chút, rồi em
phải đi. Tương lai, khi nào kẹt lắm, em sẽ ghé đây nhờ vả chị. Còn chuyện để
cho cháu H. đi vượt biên với em, chị cho em suy nghĩ, vì đi với em thì vô cùng
nguy hiểm…
Chị
tôi khóc:
-
Cậu hãy thương chị, hãy vì chị mà cố gắng giúp cháu. Chị biết, bề trên đã phù
hộ cho cậu tai qua nạn khỏi biết bao nhiêu lần, rồi hôm nay cậu vượt ngục thành
công về đến đây, thì thế nào cậu vượt biên cũng thành công….
KỲ 60
Nghe
chị của tôi năn nỉ cho hai cháu đi vượt biên với tôi, tôi không biết nói làm
sao, nên cuối cùng, tôi đành nhận lời. Tôi nói:
-
Chị đã nói vậy, thì em phải vâng lời chị. Nhưng em cũng xin thưa với chị…
Không
chờ tôi nói hết, chị tôi mừng quá, nắm chặt tay tôi:
-
Cảm ơn cậu đã thương chị mà nhận lời giúp cho hai cháu. Cậu muốn gì, cậu cứ
nói. Chị sẵn sàng làm theo ý của cậu…
Sự
thực, trong suốt thời gian kể từ khi cộng sản chiếm đóng Sàigòn, chị tôi đã nhiều
lần lo cho các cháu vượt biên, nhưng không thành công. Chị tháo vát, quen biết
nhiều, giao du rộng rãi, nên chuyện móc nối cho các cháu vượt biên là chuyện
không khó. Nhưng lạ một điều, hễ lo cho thiên hạ đi thì chót lọt, nhưng chuyến
đi nào có các cháu thì lại bị kẹt không vì chuyện này cũng vì chuyện khác. Đến
khi tôi vượt ngục về đến nhà, điều khiến chị lo lắng nhất là cháu H. và người
yêu của cháu, nghe chị nói cũng đang trong tình trạng trốn cải tạo. Vì vậy chị
đang cố gắng bằng mọi giá để lo cho hai cháu đi, nhưng chưa được.
Nhìn
ánh mắt van nài của chị, tôi buột miệng thú thực sự lo lắng của mình:
-
Chuyện em muốn thưa với chị là nếu em cho hai cháu đi theo em, thế nào tụi em
cũng bị bắt…
Chị
tôi la lên, vội lấy tay bịt miệng tôi không cho tôi nói:
-
Cậu nói gì mà nói gở vậy? Chưa đi mà nói vậy…
Tôi
im lặng không hề phản ứng. Chị tôi thở dài, bỏ tay xuống rồi nói, giọng có vẻ
lẫy:
-
Cậu đã nói vậy thì chị cũng chẳng ép. Thôi thì cậu cứ đi một mình cho an toàn…
đừng gồng gánh thêm của nợ mà làm gì. Cuộc đời của chị, từ khi xa mẹ, chỉ thấy
toàn là cô đơn buồn tủi…
Nói
đến đó, chị tôi úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở. Tôi ngồi đó im lặng. Kể từ
khi vô Nam, được gặp chị, tôi đã nhiều lần được nghe chị tâm sự về cuộc đời của
chị trong nước mắt và tiếng khóc. Cũng giống như phần đông những người phụ nữ
Việt Nam, hạnh phúc gia đình, tình thương yêu thuỷ chung của chồng, luôn luôn
vắng bóng trong cuộc đời của chị. Rồi những gian nan của cuộc đời, sóng gió của
xã hội, luôn luôn vùi dập cuộc đời của chị. Và bao giờ cũng vậy, ngồi nghe
những chuyện buồn của cuộc đời chị, tôi lại đau lòng và bất lực nhớ đến những
vần thơ buồn sũng nước mắt nói về tâm trạng của những người phụ nữ Việt Nam của
Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, TT. KH…
Chiều
hôm đó, trời đổ mưa đột ngột. Mưa Sàigòn bao giờ cũng vậy, đến và đi thật
nhanh. Khác với Hà Nội, những trận mưa dầm dề, day dứt, kéo dài nhiều ngày,
nhiều tuần, khiến cuộc sống của người nghèo đã khổ lại càng thêm khổ. Tôi nhớ đến
cuộc sống héo hon, cô đơn đầy lam lũ và vất vả của Mẹ tôi ở giữa vùng đất được
mệnh danh “kinh thành ngàn năm văn vật”. Và bây giờ, cùng với bóng ma cộng sản
bao trùm lên cả nước, bao nhiêu đường nét thơ mộng, êm đềm, cuộc sống ấm êm
hạnh phúc,… của người dân Miền Nam cũng đã bị xoá nhoà. Cả một đất nước, cả một
dân tộc chìm đắm trong sợ hãi, bất công. Sống trong bầu không khí khủng bố do
cộng sản gây ra lan tràn trên cả nước, những bi kịch trong gia đình, ngoài
đường phố, trong xã hội… đang hiện ra nhan nhản từng giờ, từng phút trên quê
hương của tôi…
Nhìn
mái tóc đen rũ rượi của chị, tôi thở dài:
-
Cuộc đời của em hiện nay ở trong tình trạng hoàn toàn bế tắc. Em ở lại Việt
Nam, không sớm thì muộn em sẽ bị bắt. Với tội chiêu hồi cộng với tội vượt ngục,
em sẽ bị chúng nó tử hình hoặc bỏ tù chung thân. Vì vậy em mới phải tìm mọi
cách vượt biên cho dù em có chết em cũng cam lòng. Nếu các cháu vượt biên một
mình hay vượt biên với người khác, chẳng may bị bắt, tội trạng của các cháu
cũng không nhiều, cùng lắm chỉ bị giam vài tháng đến một năm, sẽ được thả. Còn
nếu các cháu vượt biên với em, nếu chẳng may bị bắt, một khi tụi cộng sản phăng
ra lý lịch của em, các cháu sẽ bị liên luỵ, rất nguy hiểm. Chính vì vậy, nên em
mới lo ngại, thưa thực với chị, kẻo sau này, chuyện đau lòng xảy ra, chị lại
bảo sao em không bảo trước, để vì em mà các cháu bị liên luỵ.
Chị
tôi ngước nhìn tôi, gương mặt dàn dụa nước mắt:
-
Chị thấy cậu đi đến đâu là gặp may mắn đến đó. Các cháu đi vượt biên với cậu,
chắc chắn là không thể nào bị bắt. Chị tin như vậy mà…
Tôi
cười gượng gạo:
-
Em cũng ước ao được may mắn như lời chị nói. Nhưng em không thể không đề phòng
những chuyện rủi ro sẽ xảy ra. Và thực tế, như chị đã thấy, những rủi ro vẫn
đến với em hoài hoài. Nếu không, thì tại sao em lại bị tụi nó bắt, nói giam giữ
cả năm trời nay…
Chị
tôi vẫn khẩn khoản:
-
Chị vẫn nói với các cháu, mạng của cậu lớn lắm. Dù gặp hiểm nguy đến đâu, cậu
cũng sống sót. Thôi thì cậu đã về đến đây là cậu có duyên giúp chị, giúp các
cháu. Cậu cho chúng nó đi theo cậu. Còn mọi chuyện tàu xe, tiền bạc chi tiêu
dọc đường hết bao nhiêu, chị sẽ lo liệu hết.
Thấy
chị một lòng một dạ tin tưởng trao gửi hai cháu cho tôi, tôi đành nhận lời.
Nhận lời nhưng lòng tôi băn khoăn vô cùng. Cuộc đời của tôi cho đến lúc đó coi
như đã chết nhiều lần, nên tôi chẳng quản ngại gì, sẵn sàng lao vào cái chết
bất cứ lúc nào để tìm ra con đường sống cho chính mình. Mọi nguy hiểm, rủi ro
tôi đều chấp nhận. Nhưng với hai người cháu, tuổi còn quá trẻ, tương lai còn
dài, trong khi hoàn cảnh của cả hai cháu chưa đi đến bước đường cùng như tôi,
nên tôi không muốn lôi kéo cả hai vào những phiêu lưu nguy hiểm tới mức sinh tử.
Kinh
nghiệm những lần trốn chạy cộng sản đã cho tôi biết, có những giây phút thập
phần nguy hiểm, đòi hỏi mình phải có những quyết định tức khắc. Nếu chỉ có một
thân một mình, tôi dám có quyết định và dám chịu. Nhưng nếu có thêm người cùng
đi, tôi sẽ ngần ngại không dám có những quyết định ảnh hưởng đến tính mạng của
cả người khác. Và chỉ cần vài giây phút ngần ngừ, không dám có quyết định trong
giây phút thập phần sinh tử đó, là sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường, có thể
tù tội, chết chóc.
Điều
thứ hai quan trọng không kém, nếu vượt biên một mình, tôi dám không mang theo
bất cứ thứ hành lý đồ đạc nào, ngoại trừ có địa bàn, bản đồ và chút lương khô
giấu kín trong người. Nhưng nếu người cháu gái và bạn trai của cháu cùng đi với
tôi, chắc chắn hai người sẽ mang theo đủ thứ lỉnh kỉnh như mùng, mền, quần áo,
đồ ăn thức uống. Mang tất cả những thứ đó trên người, xuất hiện ở một vùng đất
xa lạ, nhất là nơi gần biên giới, là điều vô cùng nguy hiểm, chẳng khác chi
“lậy ông tôi ở bụi này”.
Biết
vậy, nhưng thương chị, thương các cháu, cuối cùng tôi đã nhận lời. Nhận lời, để
rồi hậu quả đã diễn ra đúng như điều tôi lo ngại.
CHUẨN BỊ VƯỢT BIÊN
Vào
thời điểm đó, cả Miền Nam đang lên cơn sốt vượt biên. Bất cứ lúc nào, ở bất cứ
đâu, gặp bất cứ ai, nói bất cứ chuyện gì, quanh đi quẩn lại, cuối cùng đều nói
đến chuyện tàu bè, vượt biển, vượt biên. Cùng với những chiến dịch khủng bố
người dân, lùa dân đi vùng kinh tế mới và o ép đàn áp người Hoa, cộng sản Việt
Nam đã quỷ quyệt dàn dựng nên cả một chiến dịch “vượt biên bán chính thức” để
vơ về vàng bạc và cướp trắng tài sản của hàng triệu người Việt, Hoa tại Miền
Nam. Với bản chất vô thần, tàn nhẫn và thủ đoạn, cộng với đường lối chính sách
công khai coi người dân Miền Nam là người của một nước bại trận, “tay sai của
Mỹ Nguỵ”, cộng sản Việt Nam đã tạo nên cả một hàng ngũ binh lính và cán bộ VC
đối xử cực kỳ cạn tàu ráo máng và vô cùng tàn nhẫn đối với người dân vượt biên.
Thêm vào đó, cùng với năm tháng, bản chất man rợ, quỷ mỵ của cộng sản đã lộ
diện, khiến người dân Miền Nam chấp nhận mọi hiểm nguy, để vượt biển, vượt
biên, trốn chạy cộng sản.
Vì
hoàn cảnh của tôi không có một xu dính túi, nên tôi không thể nào đi theo diện
“bán chính thức”, vào thời điểm đó từ 10 cây đến 25 cây vàng cho một người.
Hoàn cảnh của chị tôi lúc đó sau nhiều lần lo cho các cháu vượt biên thất bại,
cũng rất túng bấn, chỉ có thể dúi cho chúng tôi vài lượng vàng, phòng khi qua biên
giới, cần phải đổi chác. Do thiếu thốn như vậy, tôi quyết định vượt biên bằng
đường bộ.
Tôi
dự định, chúng tôi sẽ đi xe đò từ Sàigòn ra Quảng Trị, rồi từ Quảng Trị đi Đông
Hà. Đây là địa điểm cuối cùng chúng tôi có thể đi xe đò vào lúc đó. Từ Đông Hà
trở đi chúng tôi phải đi bộ theo ngả Quốc lộ 9 qua Cam Lộ, Khe Sanh, Làng Vây
rồi băng qua biên giới Lào Việt tại đèo Lao Bảo. Khi an toàn đặt chân lên lãnh
thổ Lào, chúng tôi sẽ tìm đường tới Sépone, rồi đi Savannakhet để rồi vượt sông
Mekong qua Thái Lan.
Con
đường vượt biên tôi vạch ra lúc đó chỉ có trên giấy tờ. Đó là con đường vượt
biên đầy những bất trắc, nguy hiểm và có thể nói không tưởng. Nhưng trong hoàn
cảnh của tôi, tôi không còn con đường nào khác. Tôi đã vạch ra con đường đó dựa
vào bản đồ, cộng với những kiến thức về địa bàn, kỹ thuật cắt rừng, cách thức
sống còn trong rừng rậm, mà tôi đã học khi còn trong bộ đội. Thêm vào đó, những
ngày tháng hành quân trong rừng, cộng với chuyến cắt rừng đi tìm tự do thành
công, đã giúp tôi thêm tin tưởng, tôi sẽ vượt biên qua con đường đó thành công.
Để
có thể đi dọc theo quốc lộ 9 một cách an toàn, tôi quyết định sẽ đi vào ban
đêm, và sẽ lấy hướng địa bàn, để cắt đường đi trong rừng, bảo đảm song song với
quốc lộ 9 cho đến khi qua được đèo Lao Bảo. Đối với sông Mekong, biên giới
thiên nhiên giữa Lào và Thái Lan, tôi tin tưởnsg, với khả năng bơi lội thành
thạo cả chục cây số của mình, tôi sẽ vượt qua không có gì khó khăn. Có điều,
bây giờ chấp nhận vượt biên cùng với hai người cháu, chuyến đi cắt rừng dọc
theo quốc lộ 9 trong đêm tối và việc vượt sông Mekong của tôi sẽ gặp nhiều trở
ngại. Nhưng tôi đâu còn cách nào hơn. Thôi thì tôi chỉ biết cầu nguyện và làm
hết sức mình.
Chuẩn
bị cho chuyến đi, quan trọng nhất là giấy tờ tuỳ thân để chúng tôi có thể đi từ
Sàigòn ra Đông Hà. Sau đó, hai vật dụng quan trọng khác là địa bàn và bản đồ.
Về giấy tờ tuỳ thân, chắc chắn chúng tôi phải lo giấy tờ giả. Thời gian trước
đây, khi cộng sản mới vô Miền Nam, trình độ về kỹ thuật của cộng sản còn sơ
sài, chúng tôi có thể làm giấy tờ giả một cách dễ dàng. Nhưng hiện tại, tôi
không còn đủ khả năng và sự tin tưởng để làm chuyện đó. Vì vậy, tôi đã tìm đến
một người bạn rất thân, tên BL đang làm việc cho một cơ quan của nhà nước cộng
sản ở Sàigòn.
BL
ở ngay vùng Võ Di Nguy, Phú Nhuận, và làm việc ngay vùng Đa Kao, cách trường
Thiên Phước Công giáo không bao xa. Để tránh mọi liên luỵ rắc rối cho BL, tôi
bí mật đi theo BL suốt một buổi chiều ngày Thứ Bảy. Cho đến khi biết chắc thật
an toàn, tôi mới đến gần, trao cho anh cuốn “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí
Minh. Tôi chọn cuốn sách này trao cho anh là để đề phòng mọi con mắt cú vọ của
công an cộng sản, vì nếu có chuyện gì bất ngờ xảy ra, cuốn sách cũng là tấm
bình phong khiến cho cán bộ công an cộng sản bớt nghi ngờ. Sau này, trên đường
trốn chạy cộng sản trên Miền Bắc, để vượt biên qua ngả biên giới Việt Trung,
tôi cũng đã dùng cuốn sách này làm tấm bình phong, vượt qua rất nhiều trạm gác
và qua mắt rất nhiều cán bộ công an cộng sản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét