Ngay sau khi ở Thành Đô về, ngày 5/9/1990 anh Linh và anh Mười,
có thêm anh Thạch và anh Lê Đức Anh đã bay sang Nông Pênh thông báo lại nội
dung cuộc gặp cấp cao Việt–Trung với BCT Campuchia. Để thêm sức thuyết phục
Nông Pênh nhận Thỏa thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải
thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải
có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy
họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc “. Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm:
“Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó
tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin thay mặt cho lãnh đạo CPC, vẫn
là: “Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng
ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải
quyết”. Về “giải pháp đỏ”, Nông Pênh nhận định ý đồ của Trung Quốc không muốn 2
phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với
Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện giải
pháp đỏ vì giải pháp đỏ trái với lợi ích của TQ. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia
đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục bạn: Ta
nói giải pháp đỏ nhưng là giải pháp hồng, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm
được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng
chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khơ–me đỏ. Vấn đề tranh thủ Khơ–me đỏ
là vấn đề sách lược mang tính chiến lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với
Trung Quốc kéo Khơ–me đỏ trở về … Ta đừng nói với Trung Quốc là làm giải pháp đỏ,
nhưng ta thực hiện giải pháp đỏ. Có đỏ có xanh, nhưng thực tế là hợp tác 2 lực
lượng cộng sản. Nguyễn Văn Linh bồi thêm: Xin các đồng chí chú ý lợi dụng
mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ, TQ muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép TQ nên TQ cũng muốn
có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta
có giải pháp đỏ.
Theo báo cáo của Đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn CPC đối với ta
từ sau Thành Đô đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt
Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách,
không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định khác với sự gợi ý của ta trên nhiều
việc.
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã bị mắc lỡm với Trung Quốc
ít nhất trên 3 điểm:
· Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề
CPC và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia,
còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường
cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia thì mới nói đến chuyện bình thường hoá
quan hệ hai nước;
· Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp Cố vấn
Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mồi” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp
cao.
· Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước,
nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp
hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản Thoả thuận Thành Đô theo hướng bất
lợi cho ta.
Ngày 7/9/90 BCT đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt–Trung
và cuộc gặp cấp cao Việt–CPC sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại
sứ TQ thông báo lại lập trường của Nhà Nước CPC; đồng thời thông báo với Liên
Xô, Lào như đã thông báo với CPC. Nếu có ai hỏi về công thức 6+2+2+2+1, nói
không biết.
Báo Bangkok Post ngày 19/9/90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã
công khai hoá bản Thỏa thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc
về thành phần HĐDTTC của Campuchia gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của
Khơ–me đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk. Thành viên thứ 13 là Hoàng
thân Sihanouk giữ chức chủ tịch Hội đồng. Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn
của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày
24/10/1990, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt
Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ánh qua cuộc họp
giữa các bên Campuchia ngày 10/9/90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc
phía Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Nông Pênh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội
chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Nông Pênh đã có “một
thái độ thiếu hợp tác (uncooperative)”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa
ta. Ta đã tự tạo ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa xã hội,
thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội
thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng
đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp đỏ”,
v.v…
Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về
chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi BCT họp (15–17/5/1991) thảo
luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và về việc thực hiện đường lối
đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”, cuộc gặp cấp cao Việt Nam–Trung
Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao
có câu “có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn
đề Campuchia”. Cuộc họp này có mặt đầy đủ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cố vấn
Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, các ủy viên BCT Đỗ Mười, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt,
Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ
Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói: Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những
việc vừa qua để nhận định sâu hơn thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn
ân hận về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì đây là tự kiểm điểm. Tôi ân
hận ở hai chỗ. Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói trước là
anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng
trình bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội
đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có
lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói tôi không nghĩ phương án
13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng… Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta
nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân.
Sáng sớm hôm sau, mấy anh em bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi
là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “consensus”, còn con số không quan trọng.
Tôi nghe hơi yên tâm, nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa
ký bản Thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung
trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu,
sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì có thể ta có cách bàn thêm với họ.
Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đồng chí
lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại,
khi họ mời tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ta sang gặp tổng bí thư và
chủ tịch Quốc vụ viện, họ lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ.
Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một
văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của bạn CPC, rất gay gắt.
Tôi hiểu là bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho là ta làm sau lưng, có
hại cho người ta.
Anh Linh: Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói
ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ
tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương
án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và
sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện
pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở
Châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chyển sang
phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khơ–me đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng
thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.
Anh Thạch: …Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng
ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Nông Pênh, Hun–xen nói là
trong biên bản viết là hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án
6+2+2+2+1, nhưng băng ghi âm lại ghi rõ là anh Linh nói “Không có vấn đề gì”.
Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu? Tại Tokyo
tháng 6/1990, Sihanouk và Hun–xen đã thỏa thuận thành phần SNC gồm 2 bên ngang
nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được.
Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang Nông Pênh để thuyết
phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc theo “consensus” trong SNC, anh
Hun–xen nói riêng với tôi: chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia
(bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng là Campuchia bị Việt Nam và Trung Quốc ép.
Như vậy dù là “consensus” cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được.
Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói
là Nông Pênh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đều cho ta biết là
Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô, và nói họ là lãnh
đạo Việt Nam không đáng tin cậy, Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ
của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta.
Hôm sau, BCT họp tiếp, anh Mười nói: Ta tán thành Sihanouk
làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hun–xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí
trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng…
Nếu có anh Thạch đi Thành Đô thì tốt hơn…
Anh Tô: Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô
như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như
thế nào? ở Thành Đô điều ta làm có thể chứng minh được, nhưng Campuchia cho là
ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận về sau này sẽ để lại
hậu quả.
Anh Mười: …Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta
không sai. Bạn Campuchia nghĩ gì ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng
sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của Campuchia.
Anh Thạch: Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói
thẳng. Có phải khi đi Thành Đô, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận
hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô “consensus” (nguyên tắc nhất
trí).
Anh Võ Văn Kiệt: Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có
anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói
thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp
Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung
Quốc chuyên là cạm bẫy.
Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: Mình
hớ, mình dại rồi mà cũng còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay
không thì không sao. Cùng lắm là nói cái lý đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là
thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.
Thỏa thuận Việt Nam–Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại
đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Nông Pênh. Trong phiên họp Quốc hội
Campuchia ngày 28/2/1991, Hun–xen phát biểu: “Như các đại biểu đã biết, vấn đề
Hội đồng Dân tộc Tối cao này rất phức tạp chúng ta phải đấu tranh khắc phục và
làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không ít đâu. Mặc dù Hội
đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến
nó thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng
không hoạt động được”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Nông Pênh, ngày 28/9/1990, Hun–xen đã
có những ý khá mạnh khi nói về thoả thuận Thành Đô: Khi gặp Sok An ở Băng
Cốc hôm 17/9, TQ dọa và đòi SNC phải công nhận công thức mà VN và TQ đã thỏa
thuận. Nhưng Nông Pênh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời TQ là ý này
là của VN không phải của Nông Pênh.
Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9/1990 hoàn toàn không phải là một
thành tựu đối ngoại của ta, trái lại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối
ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một
cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng
trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do
đó chậm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị
hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội
chống đế quốc Mỹ, thực hiện giải pháp đỏ ở Campuchia là không phù hợp với Nghị
Quyết 13 của Bộ Chính Trị mà còn gây khó khăn cho ta trong việc đa dạng hóa
quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN và tác động không thuận
lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia.
Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay
những đề nghị đó để bôi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức
ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép Nông Pênh đi vào giải pháp đỏ, việc ta
thỏa thuận với Trung Quốc về công thức HĐDTTC tại Thành Đô là không phù hợp với
nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn
đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của bạn Campuchia đối với
ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ của ta với
Campuchia và Lào.
Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối
với ta trong vấn đề Campuchia tập trung chủ yếu vào việc đòi ta thực hiện thỏa
thuận Thành Đô, tác động với Nông Pênh theo hướng: nhận bầu Sihanouk làm chủ tịch
Hội đồng Dân tộc Tối cao (Supreme National Council) gồm 13 thành viên của 4 bên
Campuchia; chấp nhận văn kiện của 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An về vấn đề
Campuchia.
6 giờ sáng ngày 9/9/1990, đại sứ Trung Quốc đến Ban Đối Ngoại
(chứ không đến Bộ Ngoại giao) gặp Hồng Hà trao thông điệp báo các bên CPC sẽ họp
ngày 10/9 tại Gia–các–ta để bàn việc lập HĐDTTC và nhấn mạnh yêu cầu phía Việt
Nam tác động theo hướng đã thoả thuận tại Thành Đô. Ngay sau đó BCT đã họp trao
đổi về thông điệp đó và quyết định cử tôi đi Gia–các–ta. Trong cuộc họp này BCT
đã quyết định từ nay các tiếp xúc đối ngoại về mặt Nhà Nước đều phải qua Bộ Ngoại
Giao và phải báo cáo trước với anh Thạch và Bộ Trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh (?)
vì cách làm của đại sứ Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại Giao một cách quá lộ liễu.
Trưa ngày 9/9/1990 tôi cùng anh Huỳnh Anh Dũng đáp máy bay qua
đường Bangkok sang thủ đô Inđônêxia để theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia
bàn về việc thành lập HĐDTTC. Không có “cẩm nang” nào kèm theo chỉ thị đó cả,
chỉ có lời dặn ngắn gọn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là cố lập được HĐDTTC.
Chiều tối 10/9/1990, vừa chân ướt chân ráo từ sân bay về đến sứ quán ta ở
Gia–các–ta, tôi đã nhận được một cú điện thoại từ sứ quán Trung Quốc gọi tới.
Trương Thanh gọi điện thoại đến nói lời chào từ biệt tôi trước khi rời
Gia–các–ta và cảm ơn tôi đã tác động tích cực khiến cho cuộc họp các bên
Campuchia tối nay đạt được một số kết quả (?). Tôi trả lời là tôi không
dám nhận sự biểu dương đó, nếu như cuộc họp có kết quả tốt thì đó là do thiện
chí của Nhà Nước Campuchia.
Chả là lúc tôi xuống sân bay Gia–các– ta cũng là lúc cuộc họp giữa
các bên CPC vừa bế mạc sau khi đã thoả thuận lập HĐDTTC gồm 12 thành viên, chức
chủ tịch còn để trống và tuần tới sẽ họp phiên đầu ở Bangkok để giải quyết nốt
vấn đề chủ tịch HĐDTTC. Bản Tuyên bố chung của cuộc họp có ghi “Các bên CPC chấp
nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở để giải quyết cuộc xung đột CPC”.
Tôi nghĩ bụng Bộ Chính Trị bảo tôi sang Gia–các–ta có thể là một tác động sách
lược để tỏ ra với Trung Quốc là ta đang tích cực thực hiện thỏa thuận Thành Đô.
Còn Trương Thanh gọi điện cảm ơn tôi thực ra cũng là một sự vỗ về của Trung Quốc
để khuyến khích tôi tiếp tục cố gắng thực hiện thỏa thuận Thành Đô. Nhưng sự
khuyến khích đó lại có tác dụng trái ngược lại, làm thức tỉnh cái con người bướng
bỉnh trong tôi. Từ đầu, tôi và số anh em chuyên nghiên cứu vấn đề Campuchia và
quan hệ với Trung Quốc trong Bộ Ngoại giao đã rất không thông với Thỏa thuận
Thành Đô vì nhiều lẽ, nay tôi càng thấy mình không thể hành động trái với điều
mình cho là lẽ phải.
Ngày 13/9/1990 tôi lại được trong nước chỉ thị đi thẳng từ
Jakarta sang Bangkok để theo dõi phiên họp đầu tiên của SNC ở đó. Sáng
14/9/1990 Bí thư thường trực Bộ Ngoại Giao Thái Kasem mời tôi tới Bộ Ngoại Giao
Thái Lan nói chuyện. Chủ đề câu chuyện vẫn là vấn đề Campuchia, Kasem hỏi dò
tôi về thoả thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc về cơ chế SNC. Tôi trả lời đó chỉ
là những tin đồn không căn cứ, không nên tin. Trưa hôm đó, Sok An, thứ trưởng
ngoại giao Campuchia, tìm đến gặp tôi. Anh hỏi ý kiến tôi về cuộc họp SNC ở
Bangkok sắp tới, thái độ ta nên như thế nào nếu đối phương đòi đưa Sihanouk làm
chủ tịch SNC và là thành viên thứ 13 của SNC? Tôi gợi ý cần giữ vững nguyên tắc
hai bên ngang nhau. Để tỏ thiện chí, một lần nữa, ta có thể nhận cho đối phương
thêm 1 người nhưng bên ta cũng phải thêm 1 người (mỗi bên 7 người). Không 12
thì 14 chứ không nhận 13. Sau đó tôi lại được anh Sok An cho biết là Kraisak,
con trai Thủ tướng Chatichai và là thành viên trong nhóm cố vấn của thủ tướng
Thái, đã bảo anh rằng ông ta được Bộ Ngoại Giao Thái thông báo là Việt Nam cũng
ủng hộ việc lập SNC với 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu. Tôi nói với Sok An
đấy là điều bịa đặt và tôi sẽ gặp Kraisak để nói lại. Chiều hôm đó khi gặp
Kraisak, tôi đã nói khá thẳng rằng: “Không thể coi ông Sihanouk là ông chủ ở
Campuchia, là vua đứng trên tất cả. Vấn đề thành phần cũng như chức chủ tịch Hội
đồng Dân tộc Tối cao phải do người Campuchia quyết định. Việt Nam và Trung Quốc
không có quyền bỏ phiếu về vấn đề đó”. Sau đó Kraisak đã kể lại cho cả Kasem. Kết
quả là cuộc họp Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia (SNC) phiên đầu tiên ngày
17/9/1990 tại Bangkok đã tan vỡ vì Hun–xen không chấp nhận công thức
“6+2+2+2+1”, cự tuyệt bầu Sihanouk làm chủ tịch với tư cách là thành viên thứ
13 của HĐDTTC. Hẳn TQ đã gán trách nhiệm, hoặc ít nhất cũng là một phần trách
nhiệm về thất bại đó cho tôi.
Hạ tuần tháng 9/1990, Trung Quốc đón Phó thủ tướng Võ Nguyên
Giáp thăm Trung Quốc và dự lễ khai mạc Á Vận Hội (ASIAD) 11 với tư cách là
“khách mời đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc” (tuy nhiên báo chí TQ vẫn đưa tin
việc TQ mời Võ Nguyên Giáp là theo yêu cầu của ta, dù rằng ngày 1/9/1990 khi tiếp
đoàn cấp cao ta ở Thành Đô chính GiangTrạch Dân đã nói sẽ mời anh Giáp dự khai
mạc ASIAD như một cử chỉ thiện chí của họ). Ngày 24/9/1990 khi tiếp Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Lý Bằng có nói: “Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, cuộc
họp Jakarta kết quả tốt, đã ra được tuyên bố lập HĐDTTC 13 người. Song đến khi
họp HĐDTTC ở Bangkok thì không tốt. Xin nói thẳng thẳn với đồng chí là chúng
tôi thấy Thứ trưởng Trần Quang Cơ có tác dụng xấu trong việc này. Khi Kasem hỏi
có thực sự giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận lập SNC gồm 13 người
hay không? Trần Quang Cơ đã đáp rằng hoàn toàn không có việc đó, đó hoàn toàn
là những điều dối trá. Chúng tôi không hiểu tại sao Thứ trưởng Trần Quang Cơ lại
nói nhữnglời như vậy, hoàn toàn truyền đạt thông tin không đúng đâu”. Anh
Giáp đáp: “Khi về tôi sẽ hỏi lại về phát biểu của đồng chí Cơ. Nếu có như vậy
thì đấy không phải là ý kiến của Trung Ương chúng tôi. Tôi không biết việc này
vì tôi không phụ trách công tác ngoại giao”.
Tiện đây tôi thấy cũng nên ghi lại một chuyện có thể giúp cho
chúng ta hiểu thêm đặc điểm của người Trung Quốc: sau khi đến Bắc Kinh, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp có đề nghị gặp một số tướng lĩnh cao cấp trong quân đội Trung Quốc
như Dương Đắc Chí (Dương là tổng chỉ huy cuộc chiến tranh đánh Việt Nam năm
1979). Nhưng Dương nói một cách bực tức: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mồ của
các cán bộ chiến sĩ ta còn chưa xanh cỏ!” Ngày 1/10/90 Dương cùng một số tướng
lĩnh khác còn gọi điện thoại thăm hỏi động viên sĩ quan binh lính ở Vân Nam, Quảng
Tây. Nhà văn quân đội Lý Tôn Bảo, tác giả cuốn “Vòng hoa dưới chân núi cao” viết
về cuộc tấn công vào Việt Nam tháng 2 năm 1979, phát biểu: “Xem tin Lý Bằng tiếp
Võ Nguyên Giáp mà trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt. Giờ đây chúng ta phải xem
xét lại xem có nên gây ra cuộc chiến tranh đó không? Chẳng những phần lớn sĩ
quan binh lính dưới đơn vị không thông mà ngaycả một số tướng lĩnh cao cấp cũng
không thông nổi”.
Tư liệu trên đây tôi lấy ở bài “Võ Nguyên Giáp thăm Bắc Kinh gây
chấn động” của Quan Nghiệp Thành đăng trên báo “Tranh Minh” xuất bản ở Hồng
Kông tháng 11/1990. Từ đó đến nay, tôi vẫn phân vân mãi là người Việt Nam và
người Trung Quốc đáng lý ra ai là người phải nhớ dai hơn về sự kiện tháng 2 năm
1979?
Từ sau cuộc gặp Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối với
ta về vấn đề CPC chủ yếu là đòi ta thực hiện thỏa thuận Thành Đô, cụ thể là tác
động với Nông Pênh nhận SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm chủ tịch, chấp
nhận văn kiện của P5. Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thỏa thuận Thành Đô gặp
trở ngại chính từ Bộ Ngoại Giao Việt Nam nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng
trắng trợn hơn. Đại sứ mới của Malaysia ngày 3/10/90 đến chào xã giao, nói với
tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại Giao và
Lãnh đạo Đảng về chủ trương đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp
cao Trung Quốc không có ông Nguyễn Cơ Thạch. Sau Thành Đô, trong khi ta nới rộng
phạm vi hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam thì phía Trung Quốc lại tỏ
ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại Giao, công kích lãnh đạo Bộ Ngoại Giao Việt Nam; hạn
chế hoạt động của đại sứ ta ở Bắc Kinh, không sắp xếp đại sứ ta tham dự các cuộc
Lý Bằng tiếp anh Võ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc
với đại sứ ta. Trung Quốc một mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải
quyết thì quan hệ Trung–Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích cực
tác động đến vấn đề nhân sự và phương hướng chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng
Sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991. Từ tháng 3/91, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội
Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Trung–Việt đã tan băng” và có một
số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Về vấn đề HĐDTTC của
Campuchia, Trung Quốc không cố bám giữ con số 13, tạm gác vấn đề chủ tịch, phó
chủ tịch, đưa ra công thức Sihanouk chủ trì các cuộc họp SNC. Từ chỗ chỉ có
quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển
sang quan hệ trực tiếp với Nhà Nước Campuchia, mời Hun–xen thăm Bắc Kinh trong
3 ngày (22–24/7/91). Những thỏa thuận cấp cao ở Thành Đô đã trở thành vô nghĩa,
Chiều chủ nhật 18/11/90 họp BCT về vấn đề CPC. Từ sau khi 5 nước
thường trực HĐBA thỏa hiệp về văn kiện khung (28/8/1990), cuộc đấu tranh về vấn
đề CPC đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết định. Thay mặt BNG, tôi trình
bày đề án để BCT cho ý kiến về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện khung của P5 và
về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao CPC. Khi tôi trình bày xong, anh Thạch đề
nghị BCT khẳng định 2 điểm: 1) vấn đề HĐDTTC là vấn đề nội bộ của CPC, ta không
ép bạn được; phải tôn trọng chủ quyền của bạn, 2)về văn kiện khung, ta phải bác
những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không sau này có thể ảnh hưởng đến vấn
đề xử lý Trường Sa… Ta thấy rõ TQ và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà Nước CPC bằng cách
khác nhau…
Cuối cuộc họp, Tổng Bí thư Linh kết luận: về SNC ta không
thể góp ý với bạn được… Nếu nói rằng TQ và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý.
Sau hội nghị T.Ư., BCT sẽ định giá lại một số vấn đề liên quan đến Ngoại Giao
như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc nói về TQ như thế nào? (Nguyễn
Cơ Thạch nói luôn: Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô).
Dự thảo Hiệp định toàn bộ về CPC ngày 21/6/90 do P5 thảo ra đã
được các thành viên Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao Campuchia chấp nhận về cơ bản tại
cuộc họp ở Pa–ri ngày 23/12/1990. Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về
Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết định và
chịu trách nhiệm với dân tộc CPC. Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ý để họ tránh được
những thất bại không đáng có, nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa
hết lòng giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu
tranh nội bộ của CPC. Không để vấn đề giải pháp chính trị về CPC lại một lần nữa
trở thành vấn đề lịch sử trong quan hệ Việt Nam–Campuchia.
Theo yêu cầu của bạn, ngày 14/1/1991, tôi cùng các anh Huỳnh Anh
Dũng, Lê Công Phụng, Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang
Nông Pênh làm việc với bạn với mục đích:
a) tìm hiểu suy nghĩ và ý định của bạn về giải pháp
Campuchia sau khi bạn đã chấp nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp
Gia–các–ta 10.9.1990 và chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định 26.11 của P5 tại
cuộc họp Pa–ri 23.12.1990;
b) thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc
chủ quyền Campuchia để chỉ thảo luận và giải quyết trong SNC;
c) thỏa thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội
nghị quốc tế Pa–ri.
Khi tiếp tôi, anh Hun–xen nói: Trong nội bộ Campuchia, xu
hướng mạnh nhất là muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng,
không để cho Polpot quay trở lại … Tình hình hiện nay rất tế nhị. Tình hình phức
tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần chấp nhận một
giải pháp như vậy thì nội bộ Campuchia đã hỗn loạn rồi chứ chưa nói là ký kết.
Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt. Đề nghị Việt Nam không để đẩy
quá nhanh tiến trình giải pháp.
Như vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, thứ trưởng
Dith Munty và thứ trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hun–xen chiều
16.11, có thể thấy được chủ trương của bạn là cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện
tại vì nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu vì trong nội bộ
lãnh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn rất mạnh. Hun–xen cho biết
là theo quyết định của BCT, trong cuộc họp Trung ương ngày 17.1.1991, ông ta sẽ
thông báo cho Trung ương là năm 1991 sẽ chưa có giải pháp. Tuy nhiên tôi lại có
cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động lãnh đạo CPC đang có nhiều mâu
thuẫn lúng túng, chưa xác định được cho mình một đường lối rõ ràng mạch lạc, mà
chỉ lo đối phó từng bước với những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.
Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24.2.1991, anh Nguyễn
Văn Linh vẫn cố ép bạn “cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên
nhấn mạnh vấn đề diệt chủng, nên nhận HĐDTTC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm
chủ tịch”. Heng Somrin về nói lại với Bộ Chính trị đảng CPC thì tất cả đều băn
khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe có thể sai sót.
Thực ra, như Hun–xen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin
nói lại những ý kiến của anh Linh, BCT Campuchia rất lo vì thấy Việt Nam khác
Campuchia nhiều quá. Ngày 13/3/91 Hun–xen nói với anh Thạch: Có thể bỏ
sách lược phân hoá Khơ–me đỏ, nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu
bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất
lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi
chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng thành viên
HĐDTTC có thể là 12 hoặc 14, không thể chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho
Sihanouk làm chủ tịch, Hun–xen làm phó, không đòi chức chủ tịch luân phiên hay
đồng chủ tịch nữa.
Trong cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà
ta cho là có lợi ích đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi
ích của bạn không. Cách làm đó tất yếu sẽ ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu
nay giữa ta với Nông Pênh.
Đầu năm 1991, BCT đã có cuộc họp tại T78 Thành phố HCM
(24–25/1/91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách hai mặt
quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp CPC, đồng thời báo cáo ý kiến của Hun–xen
cho biết là Bộ chính trị CPC quyết định không đi vào giải pháp trong năm 1991.
BCT quyết định cần thăm dò khả năng họp BCT 3 nước để hướng CPC đi vào giải
pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết định. Ta không ép bạn, đồng
thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi đã ngỏ ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi
Trung ương khoá tới. Anh Thạch tỏ ý không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc
bàn đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh Nguyễn Đức
Tâm, trưởng ban Tổ chức Trung Ương, xin rút khỏi danh sách dự Đại hội VII. Lúc
này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc trong thời gian qua.
Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tháng 6/1991, tôi vẫn có giấy đi dự Đại
hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La tôi tiếp tục tham gia T.Ư. khoá VII.
Tình hình bất đồng ý kiến trong BCT càng đến gần Đại hội càng bộc
lộ gay gắt. Ngày 13/4/1991, trong cuộc họp BCT bàn về tình hình thế giới và đường
lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch báo
cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê
Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc Phòng, trình bày về “tình
hình thế giới và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, TBT Nguyễn Văn Linh phát biểu: Chủ
quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản trình bày
tình hình quân sự chiều nay (của Bộ Quốc phòng) có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo
luận chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh giá tình
hình còn khác nhau. Cố vấn Phạm Văn Đồng: Nói khôi hài lúc này thật
không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng
trách nhiệm của mình. Bộ Chính trị đã giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm
nhưng lại chưa làm. Lê Đức Anh: BCT nên nghe tình hình nhiều mặt,
ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh giá chung, mỗi
ngành có đề án riêng, không làm chung được. Nguyễn Cơ Thạch đồng ý ngành
thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành làm.
Trên tinh thần đó, ngày 2/5/1991, đã có cuộc họp giữa Ngoại
giao, An ninh và Quốc phòng để thống nhất nhận định tình hình thế giới. Dự họp
về phía Quốc phòng có Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, đại tá Lân (Lân thọt); Bộ Nội
vụ có Mai Chí Thọ; Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. Còn có 3 phó
ban đối ngoại (Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo). Thu hoạch của
cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong nhận định tình
hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung chung.
Chỉ còn một tháng đến ngày họp Đại hội VII. BCT họp liền gần 3
ngày (15, 16 và 17/5/1991) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế
giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”.
BCT có mặt đông đủ. Theo dõi cuộc họp ở ghế dự thính (số dự thính lúc đầu có 10
người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối
ngoại của Đại hội VI thì số dự thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng Bích
Sơn, Đinh Nho Liêm và tôi) từ đầu đến cuối, tôi cảm nhận rõ sự đấu tranh giữa
hai quan điểm về mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường
lối đối ngoại, nói đến vấn đề CPC và quan hệ với Trung Quốc. Bản dự thảo báo
cáo của Bộ ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết
của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn
(trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết 13”, “một số việc làm không đúng với
các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”, “giữa ta và bạn Lào đã bộc
lộ sự khác nhau rõ rệt” về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình tĩnh” trước cuộc
khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô … đã bỏ lỡ cơ hội cải thiện với
ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi
Liên Xô, đi Ấn–độ rồi mới đi Thái), đã làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt
khi bàn đến đúng sai trong chuyện gặp cấp cao TQ ở Thành Đô tháng 9/1990 và vấn
đề chống diệt chủng và “giải pháp đỏ”.
Anh Võ Chí Công: Về TQ rất phức tạp …BCT đã đánh giá TQ có
hai mặt XHCN và bá quyền. Về XHCN cũng cần thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn
là chưa bình thường hoá quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm
không giải quyết nổi. Ví dụ như Liên bang Đông Dương, họ biết ta không có ý đồ
song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạt ta ra … Chuyện
“giải pháp đỏ” là không được, vì như vậy thì có nghĩa là TQ sẽ đi với ta chống
Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh thủ khoa học kỹ thuật của phương Tây để
hiện đại hoá, còn gì là TQ nữa?
Tới cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói: Chưa làm dự thảo Nghị
quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến Bộ Chính trị còn khác nhau về đánh
giá đúng thành tích, đúng bạn–thù, đối sách Đại hội đến nơi, sau Đại hội không
còn Bộ Chính trị này nữa, tuy một số đồng chí còn ở lại… Mặc dù vậy, Nguyễn
Thanh Bình, chủ trì cuộc họp, vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về Đối ngoại.
và chính sách đối ngoại
còn có tranh luận
1. Về tình hình
quốc tế: do tác động của cách mạng KHKT, khoảng cách giàu –nghèo giữa các quốc
gia ngày càng lớn. Thách thức lớn nhất của nước ta là nguy cơ tụt hậu về kinh tế,
yếu tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của quốc gia hiện nay chủ yếu là kinh
tế.
A. có tranh luận: nguy cơ diễn biến hoà bình
hơn thách thức tụt hậu về kinh tế. Từ đó có ý kiến cho các quốc gia là sức mạnh
an ninh quốc phòng là chủ yếu chứ không phải chủ yếu là sức mạnh kinh tế–xã hội
bên trong mỗi nước.
B. về mâu thuẫn thời đại: nhiều ý kiến cho rằng những biến
đổi lớn trong cục diện thế giới đã làm thay đổi thứ tự quan trọng của các mâu
thuẫn lớn, mâu thuẫn chính chi phối quan hệ quốc tế ngày nay không còn là mâu
thuẫn Đông–Tây mà là mâu thuẫn Tây–Tây. Nhưng có ý kiến cho mâu thuẫn Đông–Tây
vẫn quan trọng.
C. về tập hợp lực lượng: ý kiến chung chủ trương đa dạng
hoá quan hệ. Nhưng còn tranh luận là tập hợp lực lượng theo ý thức hệ hay theo
lợi ích dân tộc; hoặc đa dạng hóa nhưng nhấn ý thức hệ, cần tìm đồng minh chiến
lược.
2. Về ý đồ và chính sách của các nước lớn và ASEAN:
Mỹ: về câu hỏi “Cục diện thế giới mới tạo cho Mỹ thời cơ hay
thách thức?” (Mỹ mạnh lên hay yếu đi)
- Có ý kiến cho rằng Mỹ đang tranh thủ lợi thế để thiết lập
trật tự một cực do Mỹ chi phối, ý kiến khác cho rằng đang hình thành “trật tự
đa cực”, “đa trung tâm”, hay trật tự thế giới đang trong quá trình hình thành,
đang có sự cân bằng giữa các nước lớn.
- Mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ là xoá sạch các nước
XHCN còn lại hay là kiềm chế các trung tâm kinh tế tư bản khác?
- Lý giải hiện tượng các nước khu vực mong muốn Mỹ tiếp tục
có mặt sẽ giúp ổn định khu vực, còn VN cho Mỹ là mối đe dọa nguy hiểm nhất.
* TQ:
- Vì sao các nước khu vực đều lo ngại TQ, còn VN đặt hy vọng
vào TQ (đồng minh chiến lược)?
- Mặt bành trướng bá quyền của TQ là chính hay mặt XHCN là
chính? thực chất của “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc TQ”?
* Về quan hệ Mỹ–TQ (liên quan đến VN):
- Dư luận chung: Mỹ lo kiềm chế TQ ở Châu Á–Thái Bình Dương
và mong VN góp vào đó. Nhưng có ý kiến cho Mỹ và TQ thoả hiệp bất lợi cho VN.
Vì Mỹ đặt ưu tiên quan hệ với TQ cao hơn nên Mỹ sẵn sàng thí VN cho ưu tiên đó.
* Đánh giá về ASEAN:
- Có ý kiến cho ASEAN là tổ chức có tiếng nói, có sức sống,
biết lợi dụng mâu thuẫn các nước lớn lợi ích quốc gia, vì lợi ích nhóm nước khu
vực mình. VN cần sớm gia nhập tổ chức này.
3. Về chiến lược đối ngoại của ta:
- Vị thế của VN có gì khác trước?
- Đe dọa chính đối với an ninh và phát triển của ta nay là
gì? Nguy cơ tụt hậu về kinh tế hay nguy cơ diễn biến hoà bình là đe dọa chính?
- Biện pháp đối phó với đe dọa và thực hiện mục tiêu của
ta? (“đồng minh chiến lược”, “quan hệ đặc biệt”).
- Tập trung phát triển kinh tế có phải là lối thoát duy nhất
để củng cố ổn định, ra khỏi khủng hoảng kinh tế–xã hội trong nước và nâng cao vị
thế và vai trò nước ta trên quốc tế, đối phó “diễn biến hoà bình” có kết quả
hay không? Ta đã đặt ưu tiên cao nhất cho phát triển kinh tế hay chưa?
- Trong thực tế đối ngoại, thường có sự lúng túng ngập ngừng
về ưu tiên trong các mối quan hệ sau:
o giữa phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh
chính trị (giữa nguy cơ tụt hậu về kinh tế và nguy cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ
bị diễn biến hoà bình).
o lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Tập hợp
lực lượng và phân biệt bạn–thù theo quan điểm ý thức hệ hay theo lợi ích dân tộc.
o độc lập chủ quyền và hợp tác quốc tế. Hoà nhập
cộng đồng thế giới.(2/1995)
Từ 17 đến 27/6/1991 ĐCS VN họp Đại hội lần thứ 7 đưa lại nhiều
thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư;
Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, ủy viên thường trực Bộ
Chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng–an ninh–ngoại
giao; Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà Nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng;
Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm
bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên
Giáp bị gạt ra khỏi chức ủy viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi
Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao… (Thực ra những thay
đổi về nhân sự trong Bộ Chính trị đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc
đã biết). Dư luận quốc tế xôn sao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần”
trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới
chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà
là phụ thuộc hoá quan hệ.
Trước hết vấn đề đặt ra là ai sẽ thay anh Thạch giữ chức bộ trưởng
ngoại giao? Từ đầu tháng 7, tôi đã nhiều lần được triệu tập lên gặp TBT Đỗ Mười
và Trưởng ban Tổ chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn Đức Tâm), để
được thông báo và đã thông về dự định đưa tôi làm bộ trưởng ngoại giao. Sáng
ngày 10/7/91, thấy tôi từ chối, Đỗ Mười đã hiểu lầm tưởng tôi không nhận vì
chưa được vào Bộ Chính trị như Bùi Thiện Ngộ (người thay Mai Chí Thọ làm bộ trưởng
bộ Nội Vụ) nên hứa sẽ giải quyết chuyện đó sau. Tôi nói chỉ vì lý do “sức khoẻ”
mà tôi không nhận. “45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các công
việc được giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ có nguyện vọng
là làm nốt công việc thứ trưởng ngoại giao. Đề nghị các anh quyết định theo
phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ Oanh hay anh Vũ Khoan. Nhân
đây tôi xin phản ánh tư tưởng chung của anh em cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao
là có sự đối xử chưa công bằng với Ngoại giao”.
Vì sao tôi được người ta chọn để thay Nguyễn Cơ Thạch tuy biết
rõ tôi đồng quan điểm chính trị với anh Thạch? Tôi nghĩ có 2 lý do: một là che
đậy ý nghĩa chính trị của việc sa thải Nguyễn Cơ Thạch; hai là cơ chế mới về đối
ngoại sau Đại hội VII có khả năng vô hiệu hoá hoàn toàn mọi chủ trương và hành
động sai khác với quan điểm của mấy vị trong Ban Thường Trực BCT mới.
Mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà Nước đều do Hồng Hà,
bí thư T.Ư. Phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất
nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa
nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối Ngoại chủ trì.
Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể:
ngày 5/8/91, giữa cuộc họp Hội đồng bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: Từ nay
trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (đại
sứ TQ), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh”. (Lê Đức Anh cho biết khi ở
TQ, Ban Đối Ngoại TQ Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật (?) quan hệ giữa
hai đảng xin làm qua Trương Đức Duy). Hôm sau, Hồng Hà với tư cách trưởng ban đối
ngoại tiếp đại sứ CPC Ouch Borith, đã thông báo: Theo sự phân công của Bộ
Chính trị VN, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đ/c Hồng Hà sẽ phụ trách thảo luận
giải pháp CPC và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo CPC muốn bàn các vấn đề
trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.
Sau khi tôi được miễn, đã có một cuộc vận động khá sôi nổi về chức
bộ trưởng ngoại giao. Những tên tuổi như Vũ Oanh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Nguyễn
Dy Niên, Vũ Khoan… được nói tới. Cuối cùng, Nguyễn Mạnh Cầm (lúc đó đang là đại
sứ ta ở Liên Xô) được chọn, mặc dù khi đó anh còn rất lưỡng lự.
Ngày 9/7/91, vừa được bàn làm tổng bí thư, Đỗ Mười gặp đại sứ TQ
Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội
VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11/6/91–Bộ Ngoại
Giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng
ngoại giao hai nước. Ngày 17/7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp thứ trưởng ở
Bắc Kinh từ 5/8 đến 10/8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử đặc
phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp sau cuộc gặp đặc phái viên
trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao. Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc
muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thỏa thuận với cấp đặc phái
viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc
này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc
biệt của Ban chấp hành Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2
thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư T.Ư. phụ trách đối
ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi
đó Bộ Ngoại Giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là ủy viên Trung Ương
đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại
giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung
Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong
khi đó đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy, lại có mặt trong mọi hoạt
động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.
Ngày 28/7/91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp
Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII (những
ý kiến khác nhau, quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn
đề quan trọng trong Đại hội; và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành Trung Ương…)
Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có ngoại trưởng
mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8/1991. Giang tỏ ý hài
lòng “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng
chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc
thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà
đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29/7/ và tối 31/7 để tạ lỗi
(?). Mở đầu cuộc gặp chiều 29/7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ
Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng
tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng
tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi … Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc
đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các
đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng
Nghiêm Hoành: “Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc
chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự
thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán
tháng 6/1990 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu để có
thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức
Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp
Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này… Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt
Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với
nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ
với chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng
8/1991, tối 31/7 Hồng Hà vẫn bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ
làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi
đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước khi
đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với Bộ Chính trị để có ý kiến
chỉ đạo không những cả về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc.
Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi
đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn
hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội
các bên Campuchia và vai trò Liên Hiệp Quốc thì phương hướng giải quyết nên thế
nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt–Trung ở Bắc
Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”. Xin ý kiến đối phương về hướng giải quyết vấn
đề đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử
ngoại giao!
Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4/8/1991, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp
tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng Trung Ương Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm
phán với Trung Quốc. Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại giao, tôi nói:
“Anh Hoành (đại sứ ta ở TQ) vừa điện về, phía TQ thông báo có 3 buổi
làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa
văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước
PS, ASEAN và bạn CPC. Ta sẽ bị vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu
ta đòi sửa văn bản của TQ thì sẽ không ra được văn bản, sẽ thất bại. Chúng tôi
đã xem lại biên bản thấy TQ gắn rất chặt vấn đề CPC, với việc bình thường hoá
quan hệ, vẫn coi CPC là điều kiện. TQ rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung
vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta
phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá với TQ
nhưng không được phá quan hệ với CPC và không được để thế giới thấy anh Việt
Nam là người tráo trở”. Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thỏa
hiệp vô nguyên tắc với TQ, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến
đi Bắc Kinh vừa qua. Hồng Hà nói: Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức
Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Không biết đồng
chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không?” Tôi liền
bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận
được”, Hồng Hà: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ
lo”. Tôi đáp: Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam
muốn bình thường hóa quan hệ với TQ hơn”. Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: Chuyến
đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng
là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6/90 họ rất cay cú. Lê
Đức Anh thêm vào: Sau tháng 6/90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên
nên càng tích tụ thêm, găng thêm. (ý nói đến lần đàm phán tháng 6/90 giữa
tôi và Từ Đôn Tìn). Và đến chiều, khi họp Thường trực Bộ Chính trị bàn về việc
đàm phán với TQ, họ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.
Được biết trong cuộc họp này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không
nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình thường hoá quan hệ của ta với
Trung Quốc. Về vấn đề CPC, họ chỉ thị cho Niên thỏa thuận với phía TQ:
a) không nói vấn đề diệt chủng. Lê Đức Anh nói phải
dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và TBT Đỗ Mười nhấn thêm: Nếu nói vấn đề
diệt chủng tức là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc (!)
b) nâng cao vai trò HĐDTTC, hạ thấp vai trò LHQ.
c) giảm quân các bên CPC 50%.
Để đảm bảo cuộc đàm phán không đi chệch khỏi quỹ đạo đã dàn xếp
trước với Trung Quốc, Hồng Hà còn để Trịnh Ngọc Phái, phó ban Đối ngoại, ở lại
Bắc Kinh để tham gia đoàn đàm phán, thực chất để giám sát Nguyễn Dy Niên theo
đúng những điều họ đã thoả thuận trước với Trung Quốc. Ngày 10/8/1991, sau khi
cái gọi là cuộc đàm phán này đạt kết quả đúng ý Trung Quốc (hoan nghênh
Sihanouk giữ chức chủ tịch HĐDTTC, ủng hộ văn kiện khung của LHQ về giải pháp
CPC… ) vào đúng ngày Quốc Hội Việt Nam thông qua việc bổ nhiệm Nguyễn Mạnh Cầm
thay Nguyễn Cơ Thạch làm bộ trưởng Ngoại Giao. Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ
Tham nhận tiếp Nguyễn Dy Niên và ngỏ lời mời ban ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm
ngày 10/9/1991 thăm Trung Quốc để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung–Việt ở Bắc
Kinh.
Ta đã dự kiến sau cuộc đàm phán ở Bắc Kinh sẽ sang Nông Pênh
thông báo cho bạn CPC, nhưng tối 18/8/1991 Hồng Hà gọi điện chỉ thị: Theo
ý kiến đồng chí Lê Đức Anh, anh Niên không phải đi CPC thông báo với bạn nữa và
cũng không thông báo cho bất cứ ai về cuộc đàm phán ở Bắc Kinh vừa qua (mặc
dù phía TQ đã thông báo cho các nước ASEAN và các nước phương Tây rồi). Và còn
nói thêm: Từ nay trở đi, trên giấy trắng mực đen đừng ghi ý đồ của Trung
Quốc nữa (?) vì vấn đề này BCT đã nắm rồi.
Nói chung, từ sau Đại hội VII, tiến trình bình thường hoá quan hệ
Việt Nam–Trung Quốc như cỗ máy đã được tra dầu đầy đủ, diễn biến chơn chu theo
trình tự đã định. Ngày 5 đến 10/11/91, sau khi Hiệp Định về Campuchia được ký kết
ở Pa–ri, TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức CHND Trung Hoa để
hoàn thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2/1979.
Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng TQ “bảo vệ xã hội chủ nghĩa chống đế
quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn,
tranh nhi bất đấu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng
không đánh nhau). TQ nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh
thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.
Với đà tiến triển nhanh chóng qua các cuộc họp SNC tại Jakarta
(6/91), Bắc Kinh, Pattaya (Thái Lan) và Nữu ước (9/91), 5 nước thường trực Hội
Đồng Bảo An quyết tâm quyết nhanh gọn vấn đề Campuchia làm đà giải quyết các cuộc
xung đột khu vực khác, đặc biệt là Trung Đông. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều có
lợi ích đồng tình với phương Tây–chủ yếu là Mỹ–gạt nốt những vướng mắc cuối
cùng trong việc thông qua các văn bản dự thảo Hiệp định 28/11/1990 của P5.
Cuối tháng 9/1991, tôi dẫn đầu đoàn đại biểu nước ta đi Nữu Ước
dự khoá họp thứ 46 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Khác với năm 1988, khi tôi đại
diện Việt Nam dự Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khoá thứ 43, lần này vấn đề CPC đã
đi sát đến giải pháp. Trong thời gian ở Nữu Ước, tôi đã tranh thủ tiếp xúc với
anh Hun–xen họp SNC ở đó để tìm hiểu thái độ bạn đối với dự thảo Hiệp định. Tôi
được biết ngày 21/9/91, Nhà Nước Campuchia cuối cùng cũng đã buông thả rất
nhanh tất cả các điểm yêu cầu sửa dự thảo Hiệp định. Như vậy, chỉ còn lại một
mình Việt Nam là nước duy nhất đòi bổ sung dự thảo về 4 điểm liên quan đến Việt
Nam. Tôi vội thông báo tình hình này về nước để nhà sớm có quyết sách thích
đáng cho đoàn đại biểu ta đi dự Hội nghị quốc tế Pa–ri về Campuchia. Ngày
13/10/1991 bộ phận thường trực và sau đó các đồng chí khác trong BCT đã thông
qua chủ trương Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định với 2 phương án đấu tranh về
4 điểm bổ sung của ta. Sáng 14/10, anh Võ Văn Kiệt đã gặp tôi ở Văn phòng Hội đồng
bộ trưởng để cho ý kiến về 2 văn bản do Bộ Ngoại Giao chuẩn bị cho cuộc họp về
vấn đề Campuchia ở Pa–ri . Sau khi nghe tôi trình bày, anh Kiệt tán thành Tờ
trình BCT về phương án đấu tranh của ta tại Hội nghị quốc tế Pa–ri, và góp ý
nên sửa lại 2 chỗ trong bản dự thảo Tuyên bố Chính phủ.
Ngày 16/10, trên đường đi Pa–ri, tôi được điện của Bộ báo cho biết
cả Levitte, thứ trưởng ngoại giao Pháp và Từ Đôn Tín, lúc này đã là thứ trưởng
ngoại giao, đều muốn gặp tôi sớm, trước ngày họp Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị.
Trên cơ sở phán đoán là cả hai đều muốn gặp để thương lượng và thúc đẩy Việt
Nam rút các yêu cầu sửa đổi dự thảo Hiệp định để bảo đảm cho cuộc họp Uỷ ban Phối
hợp khỏi gặp trắc trở, tôi đã quyết định gặp Levitte trước, sau đó mới gặp Từ.
Suy nghĩ của tôi là: Pháp là nước đồng chủ tịch đăng cai hội nghị, rất muốn hội
nghị đạt kết quả, đề cao được vai trò Pháp trên quốc tế, đồng thời gặp Pháp trước
sẽ tỏ được thiện chí và tính độc lập của ta, nếu gặp Trung Quốc trước gặp Pháp
sau thì sẽ chịu tiếng bị sức ép của Trung Quốc mà phải nhượng bộ.
Ngày 18/10, ngay sau khi đến Pa–ri, tôi đã gặp Levitte thảo luận.
Đúng như đã phán đoán, Pháp tha thiết mong Việt Nam có thái độ mềm dẻo đối với
dự thảo Hiệp định. Cuối cùng, để tỏ thiện chí, tôi đã thỏa thuận với Pháp về
cách làm như sau: trong báo cáo của Tổng thư ký LHQ trước Hội đồng Bảo an sẽ có
giải thích những điểm mà Việt Nam yêu cầu làm rõ. Và ngay trong cuộc họp UB phối
hợp ngày 21/10/91, trong bản trình bày của Phó tổng thư ký LHQ Ahmed Rafeuddin
cũng phải nêu đầy đủ giải thích này, đồng thời Levitte nhân danh chủ tịch Uỷ
ban sẽ tuyên bố hoan nghênh thiện chí hợp tác của Việt Nam đã thôi không đưa
các bổ sung dự thảo Hiệp định nữa vì đã có những giải thích thích đáng của Phó
tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Tôi cũng thỏa thuận với Levitte sẽ có cuộc gặp tay
ba với Ahmed thoả thuận cuối cùng.
Hôm sau, tôi gặp Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín. Từ
cũng có mục đích thu phục ta thôi không đưa các yêu cầu bổ sung nữa, nói nếu Việt
Nam đưa bổ sung thì các nước khác đòi bổ sung để cân bằng lại. Mỹ sẽ đòi hoãn
việc ký kết và đổ trách nhiệm cho Việt Nam.
Ngày 20/10/1991, như đã thỏa thuận với Pháp, ngay sau khi Phó tổng
thư ký Liên Hiệp Quốc đến Pa–ri, đã có cuộc họp tay ba giữa Việt Nam, Pháp, và
Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ahmed thoả thuận cách làm như ta đã bàn với Pháp
hôm 18/10 và cho trợ lý của ông ta ghi lại các câu chữ yêu cầu nói rõ khi ông
giải thích về mấy điểm bổ sung của ta. Như vậy, thực chất là đã vượt mức yêu cầu
của ta, nhưng để giữ cao giá, tôi nói sơ bộ thỏa thuận như vậy, song tôi còn phải
xin chỉ thị Hà Nội: khẳng định lại trong sáng 21/10 trước khi bắt đầu họp Uỷ
ban Phối hợp.
Sáng 21/10/1991, khi đoàn Việt Nam đến Trung tâm Hội nghị quốc tế
Kléber, có một đoàn của đoàn Trung Quốc ra mời tôi gặp Từ Đôn Tín có việc gấp cần
trao đổi trước khi họp. Từ yêu cầu riêng tôi nói chuyện bằng tiếng Tàu không
qua phiên dịch, cho biết Mỹ định đưa bổ sung vào Hiệp định một đoạn lên án diệt
chủng và yêu cầu tôi cho biết ý kiến. Tôi Trả lời: chuyện này bây giờ
chủ yếu là vấn đề của người Campuchia, nên để các bên Campuchia có ý kiến. Còn
quan điểm của Việt Nam là đến nay không nên để bất cứ một vấn đề nào gây trở ngại
cho việc ký kết. Từ xem ra hài lòng về cách tỏ thái độ của ta. Nhưng cuối
cùng hình như đã có sự thỏa hiệp giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ rút bỏ từ “diệt chủng” trong
đoạn bổ sung và chỉ nói chung chung về “nhân quyền” và các quyền tự do cơ
bản của Campuchia cần được các nước tôn trọng.
Sau đó đã tiến hành phiên họp thứ 8 của Uỷ ban Phối hợp của Hội
nghị quốc tế Pa–ri (PICC[86])
để thông qua lần cuối các văn kiện đưa ra Hội nghị cấp bộ trưởng. Sự việc đã diễn
ra hoàn thành đúng như đã thoả thuận giữa ta với Pháp và Tổng thư ký LHQ. Sau lời
khai mạc của hai đồng chủ tịch Pháp và Inđônêxia, Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
Ahmed đọc bản trình bày tình hình chuẩn bị trong việc thi hành Hiệp định sẽ được
ký kết và đọc đầy đủ những lời giải thích về 4 điểm mà ta yêu cầu họ (việc đưa
trở lại hay đưa quân của bất cứ nước ngoài nào vào Campuchia sẽ là
vi phạm Hiệp định; thông tin cần cung cấp cho UNTAC chỉ liên quan đến các lực
lượng nước ngoài còn có mặt ở Campuchia khi ký kết Hiệp định này; sự có mặt của
sĩ quan liên lạc UNTAC ở thủ đô Việt Nam, Lào và Thái Lan không có hàm ý mở
rộng quyền hạn UNTAC sang các nước láng giềng của Campuchia… phải tôn trọng đầy
đủ chủ quyền của các nước này). Đáp lại, tôi đã phát biểu hoan nghênh và
ghi nhận những lời giải thích của Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, Levitte, đồng
chủ tịch cuộc họp, biểu thị cảm ơn Việt Nam, thiện chí hợp tác.
Kết quả cả 4 văn kiện để ký kết đều đã được nhất trí thông qua
trong UB Phối hợp, không tranh cãi nào về thực chất cả, kể cả những vấn đề ta
đã dự phòng như vấn đề tù binh, Việt kiều ở Campuchia, biên giới Việt
Nam–Campuchia... đều không có đoàn nào nêu ra. Giờ đây chỉ còn là các việc ký kết
Hiệp định của anh Nguyễn Mạnh Cầm tối 23/10/1991.
Sáng 22/10/1991, Đài RFI[87] (Pháp)
đã xin gặp tôi và đặt Câu hỏi: Ông tới Pa–ri với tư cách đại diện của
Việt Nam tham dự Hội nghị hoà bình về Campuchia, và hôm qua ông đã tham gia
thông qua văn bản cuối cùng của Hiệp định hoà bình. Trước hết xin ông cho biết
cảm tưởng về việc ký kết văn bản này, khi mà sau mười mấy năm chiến tranh ác liệt,
nay ở Campuchia đã có hoà bình thực sự? Câu trả lời của tôi lúc đó là: “Cảm tưởng
của tôi đối với việc một hai ngày nữa sẽ ký kết Hiệp định hoà bình về Campuchia
là cảm tưởng của một người sau nhiều ngày luồn rừng leo núi đã tới được quãng
đường rộng rãi thảnh thơi, và cũng là cảm tưởng của một người qua nhiều ngày đi
trên sa mạc sắp đến trạm nghỉ. Tất nhiên đây không phải là trạm nghỉ cuối cùng,
mà là nghỉ để tiếp tục một chặng đường mới với những thử thách mới, nhưng chắc
chắn có nhiều điều hứa hẹn tốt đẹp hơn”.
Sau 12 năm dòng dã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như
đã kết thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại Giao
Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn đó, vẫn còn có nhiều tính
chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.
Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực
hiện bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thỏa thuận giữa hai bên, ngày
5.11.1991, tổng bí thư Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm
chính thức nước CHND Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
“Quan hệ Việt–Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau… Quan hệ Việt–Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại
quan hệ những năm 50–60…”
Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra
những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất
là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới (Hà Giang tháng 2,
3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12/91, 4,
5/92; Lục Lâm, Quảng Ninh tháng 5/92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ
Trung Quốc công khai hoá việc ký kết hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí với
Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt
Nam (bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì
Trung Quốc cho rằng tình hình lúc đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực
hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom
1000–kilotons, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế
đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển
Nam Trung Hoa thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ
vùng Đông Nam Á:
1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới
chưa hình thành. Các đối thủ chính của Trung Quốc ở Châu Á–Thái Bình Dương đều
đang gặp khó khăn. Liên Xô vừa tan rã, Liên bang Nga trước mắt chưa phải là
thách thức đáng kể. Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở Châu Á–Thái Bình
Dương tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.
2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan
hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá
Đông Nam Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở
ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với
Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục. Trung Quốc muốn tranh thủ thời
gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương chủ yếu là Việt Nam,
và ASEAN, tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt
Thái, quân phiệt Myanmar, Khơ–me đỏ ở CPC và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt
Nam.
3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn
đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn–thù)
trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường
hóa, Trung Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ
với Việt Nam, vừa tạo bề ngoài thân mật gắn bó Trung–Việt, vừa xiết chặt bên
trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều
nhằm mục tiêu khẳng định Việt Nam–Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của
Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.
Ngày 29/11/1993, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận
định tình hình và bàn về phương hướng tới, dự tính trước việc tôi sẽ xin rút khỏi
Trung ương, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên họp toàn thể
Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và Thách thức”.
Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là làm nảy sinh những xu thế
phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của
ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước
ta. Đó là:
1. xu thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của những
nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi ích dân tộc của mình, cưỡng lại chính trị cường
quyền áp đặt của nước lớn.
2. xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường
ngoại giao đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
3. xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm
đảm bảo môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
4. xu thế liên kết khu vực kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát
triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
a) thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và
nhũng nhiễu đang hủy hoại sức đề kháng vật chất cũng như tinh thần của
dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên
ngoài
b) diễn biến hoà bình–một dạng biểu hiện của mâu thuẫn
Đông–Tây sau chiến tranh lạnh.
c) Bá quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến
hoà bình, ở sát nách ta, thể hiện lúc mềm lúc cứng dễ gây mơ hồ mất cảnh giác
(điểm này trong hội nghị hầu như không có ý kiến nào đề cập tới vì ngại đụng
TQ, tuy là nói trong nội bộ).
d) Tình hình Campuchia còn đầy bất trắc với Khơ–me đỏ, cộng
với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa
ra kiến nghị:
1. Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ
quan, đối chiếu các thách thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý
sát thực tế, vừa sức.
2. Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của
ta, tập trung chống tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa
thách thức bên ngoài.
3. Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết
không phải để đối đầu chống nước nào.
4. Đối với các nước lớn, hữu hảo không đối đầu nước
nào, nhưng đều phải giữ khoảng cách nhất định.
5. Song song với việc kết bạn, không lơ là việc đấu
tranh khi cần thiết. Song luôn luôn giữ giới hạn không gây nguy cơ mất ổn định
khu vực.
6. Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ
câu kết lại với nhau chống ta.
7. Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho
phần hồi ức này của tôi, vì phản ánh đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay
(1999) xem ra nó chưa phải là đã lỗi thời. Trước đấy ngày 14/6/1993, theo yêu cầu
của Thường trực Bộ Chính trị, tôi đã viết và ngày 20/6/1991 đã gửi các đồng chí
Thường trực BCT tài liệu “Những thách thức đối với an ninh và phát triển của
ta. Một số kiến nghị đối sách” (xem phụ lục Hồi ức), thẳng thắn nêu ý kiến của
mình về mấy vấn đề lớn: những thách thức, đe dọa đối với an ninh và phát triển
của có thể xuất xứ từ đâu, dưới những dạng nào.
Những thách thức đối với an ninh và phát triển của ta –– Một số
kiến nghị đối sách
(Viết theo yêu cầu của Thường trực Bộ Chính trị và đã gửi các đồng
chí Thường trực BCT ngày 20.6.1993)
Những biến đổi lớn trong chính trị thế giới những năm gần đây
cũng như những biến đổi lớn của tình hình kinh tế thế giới và những tiến bộ vượt
bậc của khoa học kỹ thuật đã tác động tổng hợp vào sự hình thành cục diện chiến
lược ngày nay với những xu thế mới ngày càng thể hiện rõ nét.
Bối cảnh chung này đã thúc đẩy tất cả các nước lớn nhỏ, đã phát
triển hay đang phát triển phải điều chỉnh lại chiến lược, điều chỉnh lại thứ tự
ưu tiên các mục tiêu chiến lược của mình sao cho phù hợp đặc điểm tình hình thế
giới mới và những xu thế chung hiện nay.
Một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi nước là sớm xác định được những cơ
hội và nhất là những thách thức trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược
của mình. Đối với ta, trong khi phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược là sớm
đưa đất nước “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế–xã hội, phấn
đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống của
nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển
với nhịp độ mới vào đầu thế kỷ 21” để bảo đảm hoà bình và ổn định chúng ta
cần tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề cấp bách là: hiện nay về mặt đối
ngoại đất nước ta đang đứng trước những thách thức, đe dọa chủ yếu gì? có thể từ
đâu đến và dưới dạng nào? Đâu là mối đe dọa trực tiếp nhất, thúc bách nhất cần
đối phó? Phương hướng xử lý, trong đó có vấn đề tập hợp lực lượng để đối phó với
những đe dọa, thách thức đó sao cho phù hợp với khả năng còn rất hạn chế về mọi
mặt của ta?
Hơn 2 năm qua kể từ Đại hội Đảng lần thứ 7, trên cơ sở những
thành tựu trong công cuộc Đổi mới trong nước, việc triển khai đường lối đối ngoại
rộng mở, đa dạng hoá quan hệ theo hướng “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chúng ta
đã cải thiện một bước đáng kể vị trí nước ta trên quốc tế. Quan trọng nhất là
ta đã phá được một bước quan trọng thế bị cô lập về chính trị trong môi trường
quốc tế, thuận lợi hơn cho việc giữ vững hoà bình và đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, trong tình hình quan hệ đối ngoại của ta đã bị đảo lộn
ghê gớm với sự tan rã của hệ thống các nước bạn bè ở Liên Xô và Đông Âu thì những
kết quả này mới chỉ là bước đầu và chưa thật vững chắc. Về chính trị, ta chưa tạo
được một hậu thuẫn quốc tế thay thế chừng nào cho những chỗ dựa truyền thống mà
ta vừa mất đi. Về kinh tế, đất nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về kinh tế,
KHKT so với nhiều nước trong khu vực và chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế–xã
hội. Ngày nay quan hệ giữa ta và các nước chủ yếu dựa trên cơ sở lợi ích tương
đồng, trên từng mặt, từng vấn đề; hoàn toàn khác với phương thức tập hợp lực lượng
truyền thống trước đây và đối với bất cứ đối tác nào cũng đều có hai mặt hợp
tác và đấu tranh rất phức tạp. Trong khi đó, những đe dọa thách thức đã và đang
nảy sinh từ những phía khác nhau, trước mắt và trong tương lai gần.
Trên cơ sở dự báo chiến lược, những đối tượng chính trước mắt hoặc
sau này có thể tạo nên những đe dọa thách thức chủ yếu đối với sự nghiệp an
ninh và phát triển của ta là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Thái Lan.
Sau đây là những dạng thách thức đe dọa mà mỗi đối tượng có thể
gây ra đối với ta:
1. Trung Quốc: Sau hơn 1 năm bình
thường hoá, quan hệ Việt–Trung có nhiều mặt được thúc đẩy như trao đổi đoàn qua
lại, mở một số cửa khẩu, buôn bán biên giới… Song mặt tiêu cực và hạn chế đang
nổi lên, nhiều hiệp định đã ký kết và nhiều thỏa thuận ở cấp cao chưa được thực
hiện. Đặc biệt từ đầu năm 1993, TQ dùng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng sức ép
và tạo thêm nhiều khó khăn cho ta, gây tình hình không ổn định cho ta cả bên
trong lẫn bên ngoài nhằm làm chậm đà phát triển kinh tế của ta và kìm hãm việc
mở rộng quan hệ đối ngoại của ta trước hết là ở khu vực ĐNÁ và Châu Á–TBD. Những
thách thức và đe dọa của Trung Quốc đối với ta đang được thể hiện ngày càng rõ
nét dưới các dạng chính sau đây:
a. Xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta
trên bộ và trên biển: trong khi trên bộ, TQ không có dấu hiệu nào muốn giải quyết
các vấn đề tồn tại về biên giới, lại còn làm xấu thêm tình hình (xâm canh xâm
cư, xây kè cống làm thay đổi dòng chảy các sông suối biên giới có lợi cho
TQ, lấn sang phía ta) thì trên biển TQ liên tiếp có những bước leo thang nghiêm
trọng từ tranh chấp ngoài biển Đông, TQ đã từng bước ngày càng lấn sâu vào thềm
lục địa, ngay trong khu vực ta đã phân lô ký kết với các công ty nước ngoài và
đang thăm dò khai thác dầu khí (đầu tháng 5/93 TQ cho tàu “FENDOU 4” vào thăm
dò địa chấn ở khu vực lô 6 nằm sâu trong thềm lục địa của ta) bộc lộ ý đồ biến
một số khu vực trong thềm lục địa của ta thành vùng tranh chấp, đang chuẩn bị
dư luận để đưa đảo Bạch Long Vĩ vào diện tranh chấp.
b. Phá môi trường quốc tế hòa bình ổn định của VN với
những hoạt động: ở CPC, thông qua Khơ–me đỏ khuấy động vấn đề người VN ở CPC đồng
thời làm cho tình hình CPC khó đi vào ổ định; lôi kéo 3 nước (Thái, Miến, Lào)
thành một cụm liên kết kinh tế ở ĐNÁ lục địa thượng lưu sông Mê Kông gắn với
TQ, tách rời VN, khủng hoảng biển Đông kéo dài cũng có tác động phá môi trường
phát triển của VN.
c. Gây mất ổn định chính trị, kinh tế bên trong VN:
nêu trở lại “vấn đề người Hoa”, đẩy số người Hoa đã bỏ về TQ từ những năm 78,79
trở lại VN; thông qua Khơ–me đỏ dồn đuổi Việt kiều ở CPC về nước; gây sức ép với
Hồng Kông đưa toàn bộ số thuyền nhân ở đó về VN trước năm 1997; để hàng lậu từ
TQ tuồn vào VN qua con đường tiểu ngạch bán hàng vào VN với giá rất rẻ gây rối
loạn thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất ở nước ta.
d. Kìm hãm phát triển kinh tế đối ngoại của VN: tiếp
tục bắt giữ tàu thuyền của ta (số lượng nhiều hơn 1992: 28 chiếc); chống việc
ICAO[88] trả
lại vùng FIR Hồ Chí Minh cho VN.
2. Mỹ có thể
thách thức đe dọa an ninh và phát triển của VN qua các dạng:
a. Mỹ là nước lớn duy nhất hiện nay chưa bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam và còn tiếp tục chính sách cấm vận gây trở ngại cho
các tổ chức quốc tế (Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới … ) và các nước
khác trong việc viện trợ tài chính và hợp tác với ta phát triển kinh tế.
b. Tiến hành diễn biến hoà bình: thông qua những cái
gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ép ta đa nguyên, đa đảng; kích
động các vấn đề tôn giáo, dân tộc thiểu số để gây tình hình phức tạp làm mất ổn
định chống ta.
c. Nuôi dưỡng những phần tử phản động hoặc thoái hoá
biến chất còn lại ở VN và các lực lượng phản động người Việt đang ở nước ngoài
khi có điều kiện thuận lợi thì gây bạo loạn, lật đổ như đã làm ở một số nước.
3. Nhật Bản trước
mắt là một đối tượng hợp tác chính của ta để thực hiện yêu cầu phát triển nhanh
kinh tế VN, song ta vẫn phải dự phòng về lâu dài những khả năng xấu từ phía Nhật:
- Trước hết là cùng với việc tăng cường đầu
tư viện trợ, Nhật sẽ từng bước thao túng kinh tế VN và đưa VN và cả ĐNÁ vào quĩ
đạo Nhật Bản phục vụ cho tham vọng bá quyền khu vực và thế giới của Nhật Bản về
kinh tế cũng như về chính trị.
- Mặt khác, cùng với tham vọng về chính
trị và kinh tế được thực hiện từng bước, chủ nghĩa quân phiệt Nhật có thể được
phục hồi nhằm trở thành 1 siêu cường toàn diện ở khu vực và trên thế giới. Nguy
cơ này sẽ có hậu quả trực tiếp tới khu vực Đông Á trong đó có VN.
4. Thái Lan hiện
là một bộ phận của ASEAN mà ta đang tích cực tranh thủ hợp tác cả về kinh tế lẫn
chính trị. Nhưng chủ nghĩa “Đại Thái” xưa nay là nguy cơ truyền thống đối với
an ninh và phát triển của VN, hiện vẫn tồn tại và đầy tham vọng.
Thái luôn coi VN là một đối thủ tiềm tàng về kinh tế cũng như về chính trị. Vì
vậy thách thức của Thái đối với ta có thể đến từ hai phía:
- Về kinh tế, Thái có lợi ích kiềm chế nhịp
độ phát triển của VN (vấn đề Uỷ ban Mê Kông, FIR[89] Hồ
Chí Minh), đồng thời tận dụng được VN như một thị trường tiêu thụ hàng Thái và
một nguồn cung cấp nguyên liệu (lâm sản, hải sản, khoáng sản).
- Về chính trị, quân sự Thái có lợi ích
biến Lào và CPC từ những đồng minh của VN thành vùng chịu ảnh hưởng Thái nhiều
hơn. Đồng thời Thái vẫn có thể cung cấp căn cứ địa cho các lực lượng phản động
VN thâm nhập phá hoại nội địa ta
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét