Linh Mục Cao Văn Luận
Sau
khi phái đoàn cụ Hồ rời Ba Lê, tôi và các anh em Việt kiều ở Pháp hồi hộp chờ
tin mừng từng ngày. Cụ Hồ lên đường ngày 19 tháng 9, mãi đến ngày 21 tháng 10
cụ Hồ mới đến Hải Phòng. Những bức ảnh đăng lại trên các báo Pháp, báo Cứu
Quốc, cuộc đón tiếp cụ Hồ tại nhà ga Hà Nội cho tôi thấy rằng sự nồng nhiệy mà
nhân dân Việt Nam dành cho cụ Hồ đã bị suy suyễn đi nhiều lắm. Báo Pháp tường
thuật một cử chỉ khéo léo của cụ Hồ: Giữa lúc rừng người hò reo phản đối thỏa
ước 14 tháng 9, cụ Hồ đã cất tiếng ca, và ra hiệu cho dàn nhạc cử quốc ca Việt
Nam, và quốc ca Pháp tiếp ngay sau đó.
Trước
phong trào chống Pháp ngày càng bành trướng mạnh mẽ, nhiều báo Pháp đã tiên
đoán sự đổ vỡ của bang giao Việt Pháp. Nước Pháp cũng đoán được điều này, và từ
Ba Lê, tôi đã nhận thấy những sự chuẩn bị của chính phủ Pháp để đem thêm quân
và chiến cụ sang Việt Nam. Các báo tả phái lên tiếng tố cáo sự thiếu thành thất
của chính phủ Pháp đối với chính phủ Việt Nam và tường thuật đầy đủ những cuộc
chuyển quân và chiến cụ đến các hải cảng lớn, chờ xuống tàu sang Việt Nam.
Vào
cuối tháng 11 tôi hay tin quân Pháp đã đánh chiếm Thành Phố Hải Phòng, bắn phá
vào nhiều khu phố làm cho hàng ngàn người chết. Khi đọc tin này trên báo tôi
lặng người một lúc, và không còn hy vọng gì tránh được chiến tranh trên đất
nước mình. Tôi cũng không tin rằng nền độc lập của Việt Nam có thể tồn tại. Lúc
bấy giờ tôi tin chắc rằng quân Pháp sẽ thắng. Nhưng tôi vẫn hy vọng vào những
biến cố của thời đại sẽ buộc nước Pháp dù thắng, cũng không thể trở lại chế độ
thuộc địa hoặc bảo hộ thời xưa.
Nhiều
báo Mỹ lên tiếng chỉ trích chính sách Pháp, và tôi đã nghĩ nhiều đến vai trò
của Mỹ trong vấn đề Việt Nam. Tôi cũng nghe tin nhiều nhân vật Mỹ đã sang Hà
Nội, không để giúp nước Pháp, mà hình như là để đóng một vai trò bí mật và khó
hiểu nào đó. Giới chính trị Pháp thường bàn tán rất nhiều đến thái độ của Mỹ,
chỉ trích các hành động dẫm chân và thọc gậy bánh xe của Mỹ.
Tên
một vài nhân vật Mỹ được nhắc đến, như Tướng Galagher Trưởng Phái Bộ Mỹ đặc
trách kiểm soát việc giải giới quân Nhật phía Bắc vĩ tuyến 16, Đại Tá Patti,
Giám Đốc Sở Mật Vụ Mỹ OSS tại Viễn Đông, Đại Tá Nordlinger, đặc trách giao tế
trong phái bộ Mỹ tại Hà Nội và nhiều bài bình luận của báo Pháp đã đổ tội cho
những nhân vật đó xúi chính phủ Việt Minh chọn thái độ cứng rắn đối với Pháp.
Tôi
không được biết một điều gì rõ ràng từ nước nhà, và tình trạng mù mờ càng làm
cho tôi lo sợ, buồn rầu. Hiến pháp Việt Minh ngày 12 tháng 11 cũng được báo
Pháp nhắc đến sơ lược, và bình luận về sự thiếu sót trong phần đề cập đến chính
sách ngoại giao. Báo Pháp phân tích Hiến pháp này và kết luận rằng chính phủ
Việt Minh đã phản bội những cam kết trong các thỏa ước Đà Lạt 8 tháng 3, 14
tháng 9. Những báo cực hữu lên tiếng đe dọa nước Pháp sẽ không tha thứ cho thái
độ rồ dại và hỗn xược đó. Lúc bấy giờ chính phủ Bidault bị phe cực hữu chi phối
nặng nề, và quan điểm của các báo cực hữu có thể được coi như quan điểm của
chính phủ Pháp. Do những sự kiện đó, tôi thấy rằng Việt Nam không còn cách gì
tránh được cảnh chiến tranh.
Vào
cuối năm 1946, những tin càng ngày càng bi thảm hơn về Việt Nam làm cho tôi và
các anh em Việt kiều không còn một lúc nào mà quên được tình trạng nước nhà.
Một bản tin của báo Mỹ tường thuật sự thất bại của sứ mạng trung gian của ông
Moffat, đặc sứ của Bộ Ngoại Giao Mỹ tiếp xúc với chính phủ Việt Minh vào khoảng
đầu tháng 12. Theo báo Mỹ thì chính phủ Việt Minh không tin tưởng một chút nào
về sự thành tâm và thái độ đứng đắn của Pháp, và coi con đường chiến tranh là
điều không thể tránh được. Tại Ba Lê, Đại Sứ Mỹ có thông tri cho Bộ Ngoại Giao
Pháp biết quan điểm của Mỹ, và hình như khuyến cáo Pháp nên mềm dẻo hơn để
tránh đổ vỡ. Báo chí Pháp một bên đăng lại những tin tức của phái bộ Maffat,
một bên liên tiếp chửi rủa Mỹ đã bỏ rơi Pháp, và lên giọng bất cần Mỹ giúp đỡ
chi nữa cũng sẽ tái chiếm được Đông Dương một cách dễ dàng.
Tại
Pháp nhiều đơn vị quân đội lớn đã được lệnh cấm trại. Những đường xe hỏa đến
Marseille, Toulon được quân đội trưng dụng, và ngày đêm tại các nhà ga lớn,
người ta thấy xe tăng, đại bác, lính tráng được chuyển lên xe hỏa tấp nập.
Các
đảng khuynh tả ở Pháp tổ chức vài cuộc biểu tình nhỏ phản đối chính phủ
Bidault, tố cao chính phủ này đem quốc gia vào một chiến tranh nguy hiểm và vô
ích. Nhìn không khí chuẩn bị chiến tranh ở Pháp, tôi hoàn toàn thất vọng cho
nền hòa bình và độc lập của nước nhà.
Giữa
lúc đó, chính phủ Bidault từ chức và chính phủ Léon Blum lên thay thế. Ông Léon
Blum, được nhiều người ở Pháp coi như một phần tử tiến bộ và ôn hòa, nhưng hình
như chẳng còn ai hy vọng rằng mối bang giao Việt Pháp còn có thể giải quyết
bằng những cuộc thương thuyết ngoại giao được nữ.
Ngay
sau khi đó chính phủ mới, ông Marius Moutet vẫn còn là Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa
cầm đầu một phái đoàn sang Hà Nội. Nhiều báo khuynh tả ở Pháp đây là một hành
động vụng về nhục mạ chính phủ Việt Minh. Đáng lý Pháp phải cử một phái bộ
ngoại giao do một Ngoại Trưởng cầm đầu sang Việt Nam thì Pháp để ông Bộ Trưởng
Thuộc Địa Pháp sang Hà Nội, và dĩ nhiên hành động này chỉ có thể được giải
thích như là Pháp cố tình coi Việt Nam là một Thuộc Địa. Tin này làm nhiều Việt
kiều phẫn nộ.
Vào
cuối năm 1946, hình như giữa không khí chuẩn bị lễ Giáng Sinh năm đó, tôi hay
tin chiến tranh đã bùng nổ khắp Việt Nam đêm 19 tháng 12. Lần này báo chí Pháp
đăng những tin nóng hổi, mau chóng, đầy đủ, có cả hình ảnh ông Jean Sainteny,
Cao Ủy Pháp tại Hà Nội bị thương nặng.
Như
vậy là chiến tranh đã thành một sự thật không thể tránh được nữa rồi. Lệnh tổng
động viên từng phần bắt đầu áp dụng ở Pháp. Nhiều binh sĩ, sĩ quan trừ bị Pháp
được gọi tái ngũ. Không khí nước Pháp sôi sục chiến tranh.
Báo
chí chia hai phe, một phe chỉ trích chính phủ bỏ lỡ cơ hội giải quyết vấn đề
Việt Nam cách ôn hòa bằng thương thuyết, phe khác thì đòi chính phủ đánh mạnh,
đánh mau, dồn mọi nỗ lực quân sự để giải quyết chiến tranh chớp nhoáng. Phe
cộng sản Pháp, các đảng phái khuynh tả, xã hội, lao động thì theo phe chỉ trích
chính phủ.
Những
tin tức đầu tiên về chiến tranh Việt Nam bắt đầu chiếm trang nhất các báo Pháp,
và hầu hết đều là những tin chiến thắng. Ngày 22 tháng 12, Thủ Tướng Pháp Léon
Blum đọc diễn văn trước Quốc Hội loan báo rằng chiến tranh Việt Nam đã thực sự
diễn ra, và kết luận rằng quân Pháp đang thắng lớn. Cuối diễn văn, ông Léon
Blum hứa hẹn rằng nước Pháp chỉ nhằm tái lập an ninh trật tự tại Đông Pháp, và
sau đó sẽ bàn chuyện tổ chức một nước Việt Nam tự trị và tự do. Tướng Leclerc
được bổ nhiệm làm Tổng Thanh Tra Quân Đội Pháp tại Đông Pháp.
Ngày
26, hay 27 tháng chạp năm 1946, tôi nghe đài phát thanh Pháp lập lại một lời
kêu gọi của cụ Hồ gửi Thủ Tướng Pháp Léon Blum, ngỏ ý sẵn sàng mở lại các cuộc
thương thuyết, nếu quân Pháp lui về các vị trí cũ được qui định trong thỏa ước
6 tháng 3, Đà Lạt và 14 tháng 9.
Cụ
Hồ đề nghị nếu quân Pháp làm theo các điều kiện đó thì sẽ có một cuộc ngưng bắn
tức khắc. Tôi và các anh em Việt kiều đêm ngày gắn tai vào các đài phát thanh
Pháp Á và đài phát thanh Pháp, BBC để nghe tin tức.
Niềm
hy vọng cho hòa bình Việt Nam lại được nhen nhúm le lói trong lòng những người
Việt Nam xa quê hương. Lúc bấy giờ Bộ Trưởng Thuộc Địa Pháp là ông Marius
Moutet đã sang Việt Nam, và nhiều tin đồn nói rằng ông được chỉ điều đình một
cuộc ngưng bắn.
Trong
diễn văn đầu năm dương lịch, 1 tháng giêng 1947, cụ Hồ lại nói trên đài phát
thanh, nghe đâu đặt tại Hà Đông, những điều kiện ngưng bắn đại để đòi quân Pháp
ngưng hành quân trở lại vị trí cũ trước ngày 16 tháng chạp 1946. Nước Pháp
ngưng gửi viện binh sang Đông Pháp. Ông Marius Moutet trực tiếp gặp cụ Hồ một
địa điểm sẽ được chỉ định sau và một cuộc thương thuyết chính thức sẽ khai diễn
trên căn bản thỏa ước 6 tháng 3-1946, và sau đó sẽ có một Hội Nghị thượng đỉnh
giữa cụ Hồ và ông Léon Blum tại Ba Lê. Dư luận chính giới Pháp lúc bấy giờ tỏ
ra khinh thường Việt Minh, không tin tưởng gì vào sự thành thật của các đề nghị
mà cụ Hồ đưa ra. Lý do mà chính phủ Pháp đưa ra, theo báo chí Pháp lúc bấy giờ,
để từ chối đề nghị của cụ Hồ, là cho rằng cụ Hồ không còn lãnh đạo được chính
phủ Việt Minh và phong trào Việt Minh. Chính phủ muốn quyết định một điều gì
quan trọng đều bị những phần tử quá khích, hiếu chiến, bài Pháp cực đoan chi
phối như Võ nguyên Giáp, Trần huy Liệu, Hoàng minh Giám. Mặt khác, nước Pháp
đang ở trong một chế độ phải chờ Quốc Hội nhóm họp, thỏa luận, biểu quyết.
Trong lúc đó thì quân Pháp tiếp tục lên tàu sang Việt Nam càng ngày càng đông,
và chiến cuộc Việt Nam càng khốc liệt. Với những tường thuật và tin tức chiến
thắng mà người Pháp coi là rực rỡ. Các Tướng Lãnh Pháp được phỏng vấn, trừ
Tướng Leclerc là sáng suốt, còn thì hầu hết đều tiên đoán rằng quân Pháp sẽ
chiến thắng nhanh chóng. Có người nói chỉ trong vòng một năm thì Pháp sẽ bình
định xong Việt Nam, tái lập chế độ bảo hộ như cũ.
Các
giới chính trị Pháp bắt đầu nói đến một giải pháp chính trị: Tái lập chế độ
quân chủ bù nhìn ở Việt Nam, Lào, Cao Miên. Bảo Đại, lúc bấy giờ là công dân
Vĩnh Thụy, được một máy bay Mỹ chở từ Hà Nội sang Hồng Kông ít lâu trước ngày
chiến tranh bùng nổ.
Ông
Léon Blum, cố vấn chính trị cho Đô Đốc D'Argantlieu cũng cho một bài phỏng vấn
đăng trên báo Pháp nào đó tôi không nhớ tên nói rằng đã vào cái giai đoạn này
thì nước Pháp không còn có thể thương thuyết cái gì với Hồ chí Minh và chính
phủ Việt Minh được nữa rồi, vì vậy phải tìm một nhân vật Việt Nam khác để mà
thương thuyết, ông Torel, một Cố Vấn thứ hai của Cao Ủy D'Argantlieu còn quá
khích hơn thế nữa, đôi khi tỏ ra khinh thị khả năng của người Việt Nam có thể
cai trị đất nước họ, và nói rằng vì lòng nhân đạo, vì tinh thần trách nhiệm đối
với tình hình thế giới, Pháp phải chiến thắng Việt Minh bằng quân sự.
Giữa
tháng giêng 1947, tôi nghe qua đài phát thanh, tin chính phủ Việt Minh đã từ
chối thương thuyết, và hạ lệnh tổng động viên để kháng chiến chống Pháp. Thế là
hy vọng hòa bình cho Việt Nam mà những người Việt Nam xa quê hương còn nuôi
dưỡng bây giờ hoàn toàn tan vỡ. Tôi nhớ khi hay tin này nhiều anh em Việt kiều
đã nhìn nhau, mắt rưng rưng. Nhiều Việt kiều cương quyết về nước, dù biết rằng,
hay lo sợ rằng sự đóng góp của họ sẽ không ích lợi gì, nhưng họ nghĩ không thể
chạy trốn trách nhiệm được.
Tôi
cũng có ý nghĩ về nước, mặc dù với thiên chức Linh Mục tôi không biết đóng góp
gì vào vận mệnh nước nhà một cách tích cực và hữu ích. Việc học hành của tôi
được xếp vào hàng thứ yếu, và trong các buổi cầu nguyện không lúc nào tôi quên
được số phận đất nước mình.
Chỉ
được nghe tin tức nước nhà qua đài phát thanh Pháp Á đặt tại Sài Gòn, và qua
những bài tường thuật, chắc chắn là không trung thực của báo chí Pháp, tôi bồn
chồn đau xót và gần như quay quắt lên.
Tôi
không thù ghét gì người Pháp, và tôi thương yêu văn hóa Pháp, quí mến những
người bạn Pháp, nhưng tôi không thể nào đứng về phía chính sách của nước Pháp.
Tôi đi tiếp xúc với nhiều chính khách Pháp và chính họ cũng không hoàn toàn
đồng ý với chính sách của chính phủ Pháp trong vấn đề Việt Nam. Nhưng họ cũng
chỉ thở dài, coi đó như một điều không thể tránh được, như một thứ định mệnh
khắt khe nào đó. Điều làm tôi ngạc nhiên, là những cá nhân người Pháp thì rất
dễ thương, chỉ trích đường lối của chính phủ Pháp, nhưng vì danh dự, vì bổn
phận họ vẫn hăng hái lên đường sang Việt Nam để bắn giết người Việt Nam.
Một
bản tin của Pháp tấn xã từ Hà Nội đánh về vào đầu năm 1947 viết rằng phái đoàn
ông Marius Moutet sang Hà Nội chỉ để tìm cách tái lập Bảo Hộ, mà không có ý
định thương thuyết tìm một giải pháp chính trị chi cả. Cũng trong thời gian này
báo France Soir, một báo lớn có quan điểm khuynh hữu đăng lại một bài phỏng vấn
quan Cao Ủy Pháp D’argenlieu, và quan Cao Ủy trả lời rằng kể từ đây vấn đề Đông
Pháp chỉ còn có thể giải quyết bằng sức mạnh quân sự. Ông cao ủy cũng ngụ ý nói
rằng nước Pháp có thể tìm được những nhân vật quốc gia ngoài Hồ Chí Minh để
thương thuyết và như vậy lá vài Bảo Đại đã được chuẩn bị, và đã được lật tẩy
dần.
Những
tin chiến thắng của quân Pháp từ Việt Nam liên tiếp được gửi về Pháp. Tướng
Leclerc có lẽ là người sáng suốt nhất thời bấy giờ trong hàng ngũ lãnh đạo
Pháp, hình như ông có gởi lên chính phủ Pháp một bản phúc trình hay điều trần
chi đó, nhận định quân Pháp có thể thắng được Việt Minh, với điều kiện căn bản
là phải dựa vào tinh thần quốc gia của người Việt Nam nếu cần thì dựng lên một
đối tượng hay một biểu tượng quốc gia cho người Việt Nam. Tướng Leclerc khuyến
cáo chính phủ Léon Blum tuyên cáo rõ ràng một hiến chương thật rộng rãi, đứng
đắn cho vấn đề Việt Nam, có các điểm trao trả độc lập cho Việt Nam, hứa hẹn
thống nhất ba kỳ bằng tuyển cử tự do. Nhưng Tướng Leclerc không được Cao Ủy
D’argenlieu tin cậy nhiều, và ngày 14 tháng giêng năm 1947, ông D’argenlieu ra
một tuyên cáo hứa hẹn tái lập chế độ quân chủ ở Việt Nam, Nam bộ tự trị. Vào
lúc đó một phái đoàn Pháp được cử sang Hồng Kông tiếp xúc với cựu Hoàng Bảo
Đại, lúc đó là công dân Vĩnh Thụy. Những điều này được chính phủ Pháp tuyên bố
ầm ĩ, coi như một giải pháp tốt nhất, đúng nhất cho Việt Nam, cho Pháp. Quan
Cao Ủy D’argenlieu theo các tin đồn thì cũng cho người tiếp xúc với những nhân
vật quốc gia như Ngô Đình Diệm, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn mạnh Hà để thành lập một
chính phủ trong chế độ quân chủ do Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Không một nhân vật
nào được tiếp xúc chịu ra hợp tác với Pháp và Bảo Đại trong những điều kiện mà
người Pháp đưa ra.
Tại
Nam bộ, Thủ Tướng Nguyễn Văn Thinh đã tự tử và Bác Sĩ Lê Văn Hoạch được chọn
lên thay thế. Hình như trước đó, Pháp định chọn Đại Tá Xuân, nhưng các tay
quyền thế ở Nam bộ không chịu ông Xuân và ông Xuân buồn tình đành qua Pháp.
Ngay tại Pháp, ngay trong chính phủ Pháp có hai khuynh hướng mâu thuẫn. Nhóm
cộng sản, đảng xã hội, nghiệp đoàn lao động Pháp do cộng sản chi phối thì thúc
giục chính phủ Pháp phải điều đình với Hồ chí Minh. Nhưng đảng MRP thì lấy cớ
Hồ chí Minh đã phản bội mọi thỏa ước ký kết với Pháp trong đêm khởi nghĩa 19
tháng 12, không thể điều đình với Hồ chí Minh lần thứ hai được nữa.
Trong
lúc chính phủ Pháp hết sức bối rối thì tôi hay tin Tướng Leclerc được đề cử
thay Cao Ủy D’argenlieu giữ chức Cao Ủy Pháp tại Việt Nam. Tôi lại cho rằng vấn
đề Việt Nam có đôi chút hy vọng giải quyết bằng thương thuyết.
Nhưng
chỉ mấy hôm sau, vào cuối tháng hai, chính Tướng Leclerc lên tiếng từ chối, và
nói rõ rằng khi mà chính phủ Pháp không chấp nhận phương thức của ông đã từng
được trình bày trong bản trần tình của ông, thì ông thấy không làm việc được,
nên ông từ chối. Tướng Leclerc cũng chủ trương phải thương thuyết với Hồ chí
Minh, nhưng mà vừa tiếp xúc, vừa bình định đồng thời ban bố một hiến chương mới
rõ ràng cho Việt Nam và Đông Pháp, trong đó quyền độc lập được tôn trọng, hy
vọng thống nhất ba kỳ được hứa hẹn. Tướng Leclerc có đề cập đến diễn văn của
Tướng De Gaulle tại Brazaville đầu năm 1945 và đòi hỏi chính phủ Pháp, vì danh
dự của nước Pháp, phải tôn trọng các hứa hẹn của Tướng De Gaulle đối với các
thuộc địa Pháp, nhất là đối với Việt Nam và Đông Pháp. Thái độ của Tướng
Leclerc làm nhiều người Việt Nam thán phục, nhưng sự từ chối của ông làm cho
mọi người đã thất vọng nay thêm tuyệt vọng.
Sau
khi Tướng Leclerc từ chối chức vụ Cao Ủy Pháp, chính phủ Pháp lúng túng mấy
tháng, không tìm ra người thay thế Đô Đốc D’argenlieu, và đến đầu tháng 3 năm
1947, ông Emil Bollaert mới được cử làm Cao Ủy Pháp tại Đông Pháp. Ngay lúc mới
nhận chức ông này đã gặp khó khăn: Dân biểu lãnh tụ cộng sản là Maurice Thorez
tố cáo trước quốc hội Pháp một ‘’cẩm nang’’ của chính phủ giao ông Bollaert,
buộc ông này phải làm sao cho 5 quốc gia trong Đông Pháp nằm trong Liên Hiệp
Pháp.
Ông
được gia hạn cho sáu tháng để tìm những phe phái ở Việt Nam chịu đứng lên nhân
danh dân tộc Việt Nam thương thuyết với Pháp trong căn bản đó mà thôi. Báo chí
cộng sản lại được dịp làm rùm beng về vụ này, và cái ‘’cẩm nang’’ trở thành một
đề tài bàn cãi công khai ở Pháp. Chính sự tiết lộ cái cẩm nang này đã làm cho
nhiều chính khách Việt Nam đứng đắn từ chối hợp tác với Pháp và Bảo Đại. Vì sự
làm rùm beng này mà chính phủ Léon Blum phải nhượng bộ khối liên hiệp cộng sản
và đảng xã hội Pháp một đòn nhỏ, là thêm vào đoạn cuối trong cẩm nang trao cho
ông Bollaert một khoản phụ đính "nếu còn có thể được thì nên nghiên cứu
việc mở các cuộc thương thuyết với Hồ chí Minh và chính phủ Việt Minh’’. Đảng
cộng sản và Xã Hội Pháp cũng coi đó là một thắng lợi rõ ràng và dứt khoát thêm
nữa.
Vì
vào thời kỳ đầu năm 1947, chính trị nước Pháp liên quan quá mật thiết với số
phận nước nhà, bỗng dưng tôi chăm chú theo dõi mọi tin tức chính trị của Pháp,
đọc kỹ lưỡng những cuộc thảo luận tại quốc hội Pháp và hồi hộp nghe những tin
tức từ hành lang chính trị Pháp ở Ba Lê.
Những
điều đó không làm cho tôi vui mừng, vì càng theo dõi kỹ càng thấy nước Pháp coi
nặng vấn đề quân sự trên chính trị, và tin tưởng vào đoàn quân viễn chinh Pháp,
nhất là sau những chiến thắng dễ dàng và rực rỡ của đoàn quân Tướng Leclerc ở
Nam bộ.
Chỉ
trong vài tháng, Tướng Leclerc gần như tiêu diệt trọn các đơn vị Việt Minh, đẩy
Tướng Nguyễn Bình vào vài mật khu sát biên giới Việt Miên Lào và bắt đầu thu
phục được các lực lượng giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo hay ít ra làm cho các
lực lượng này tách rời khỏi phong trào Việt Minh.
Nhưng
cái chết của Tướng Leclerc trong năm đó làm cho hy vọng chiến thắng bằng quân
sự của Pháp ở Việt Nam đen tối dần.
Vào
khoảng tháng 4 năm 1947, tôi có nghe tin chính phủ Pháp cử một đặc sứ gặp Hồ
chí Minh: Ông Paul Mus, một Giáo Sư và một Nhà Văn nổi tiếng, tiến bộ, quen
biết với Hồ chí Minh và nhiều nhân vật Việt Minh.
Chúng
tôi những Việt kiều ở Pháp lại cố bám vào một hy vọng mong manh. Nhưng hy vọng
đã tan vỡ ngay chỉ ít lâu sau, khi ông Paul Mus trở về, và trong một vài tiết
lộ của Pháp, cho biết rằng những điều kiện của chính phủ Pháp được coi như căn
bản của giải pháp mà Pháp trao cho Hồ chí Minh là một đòi hỏi Việt Minh phải
đầu hàng vô điều kiện trước khi thương thuyết thượng đỉnh giữa Hồ chí Minh và
Léon Blum.
Trong
văn thư của Léon Blum mà ông Paul Mus trao tay cho Hồ chí Minh có khoản buộc
mọi lực lượng võ trang của Việt Minh phải giải giới tập trung vào những khu chỉ
định, trao quyền bảo vệ an ninh trật tự toàn cõi Việt Nam cho quân đội Pháp.
Theo sự bàn tán ở Ba Lê lúc đó thì sở dĩ chính phủ Léon Blum thời bấy giờ có
hành động này chẳng qua là để xoa dịu những yêu sách của khối cộng sản và đảng
Xã Hội Pháp mà không thực tâm muốn thương thuyết với cụ Hồ.
Bấy
giờ thì tôi thấy rõ không còn chút hy vọng gì về một nền hòa bình cho Việt Nam
bằng các cuộc thương thuyết. Chiến tranh thì càng ngày càng khốc liệt hơn, và
bên Tàu, quân Mao trạch Đông đang tiến dần xuống phía Nam, chính phủ Tưởng Giới
Thạch bắt đầu gặp những cuộc khủng hoảng kinh tế và tiền tệ trầm trọng.
Tôi
còn nhớ vào khoảng đầu năm 1947, ít lâu sau khi phái đoàn Marius Moutet và
Tướng Leclerc từ Hà Nội trở về Ba Lê, và sứ mạng của Giáo Sư Paul Mus thất bại,
một giai thoại được truyền tụng trong chính giới Pháp, Tướng Leclerc và ông Bộ
Trưởng Marius Moutet lúc đến Hà Nội, đã được mật vụ Pháp cho biết tin Hồ chí
Minh và Tổng Bộ hiện đang trốn tại một vùng rừng núi trong Tỉnh Tuyên Quang.
Đại Tá Debes, Tướng Salan đề nghị tổ chức một cuộc hành quân nhảy dù đột kích
vào nơi đó, trong lúc bề ngoài lên tiếng chấp nhận thương thuyết trở lại với cụ
Hồ, và như thế có nhiều hy vọng bắt trọn bộ tham mưu Việt Minh.
Đô
Đốc D’argenlieu, tuy đã từ chức nhưng vẫn còn giữ quyền Cao Ủy Pháp tại Sài
Gòn, Tướng Moliere, Tư Lệnh quân Pháp tại Hà Nội đều tán thành kế hoạch này.
Riêng Tướng Leclerc nhất định phản đối. Ông nói rằng danh dự nước Pháp không
cho phép quân đội Pháp hành động như vậy, ông gọi đó là hành động đê tiện mà
nước sông Seine không rửa sạch được (C’est une perfidie que
toute l’eau de la Seine ne peut laver!).
Bộ
Trưởng Moutet thì nói rằng một chính phủ xã hội (Thủ Tướng Léon Blum) được thành lập để tìm giải pháp hòa bình cho Việt Nam không thể
hành động như một bọn thảo khấu, bất chấp danh dự, bất chấp lương tri. Tướng
Leclerc muốn đích thân gặp cụ Hồ, như lời đề nghị riêng của cụ Hồ, bất cứ nơi
nào mà cụ hồ chỉ định, và tự đặt trong sự bảo vệ an ninh của cụ Hồ với điều
kiện ông được chính phủ Pháp trao toàn quyền giải quyết vấn đề Việt Minh, và
toàn quyền ký kết các văn kiện thay mặt chính phủ Pháp.
Nhưng
các đảng hữu khuynh như MRP, và cả đa số đảng cộng sản và Xã Hội Pháp không chấp
nhận điều kiện của Tướng Leclerc, vì hầu hết mọi người Pháp đều đinh ninh rằng
cụ Hồ đã mất hết uy quyền trong Tổng bộ Việt Minh, bị nhóm hiếu chiến và thân
Mao trạch Đông (lúc bấy giờ đã chiếm quá
nửa Trung Hoa lục địa) như Hoàng quốc Việt,
Trường Chinh, Võ nguyên Giáp, Trần huy Liệu thao túng và bao vây cụ Hồ. Chỉ có
ba nhân vật trong chính quyền Pháp là ông Moutet, Tướng Leclerc, ông Jean
Sainteny là những kẻ hiểu rõ uy thế và tài năng của cụ Hồ, tỏ ý tin tưởng rằng
trong mọi trường hợp, cụ Hồ vẫn là lãnh tụ được tuân phục của phong trào Việt
Minh.
Những
nhân vật Pháp đã giết chết mọi hy vọng tái lập hòa bình Việt Nam bằng thương
thuyết, ngoài Đô Đốc D’argenlieu, và hai cận thần của ông ta là Leon Pignon và
Torel, còn có các Tướng lãnh Pháp như Tướng Moliere, Valluy. Giữa lúc giải pháp
thương thuyết ở Việt Nam được chính phủ Pháp coi như không thực tế thì nước
Pháp lại vướng vào những phong trào nổi loạn dành độc lập ở nhiều thuộc địa:
Madagascar, Maroc, Tunisie v.v…Tướng De gaulle tuy đã rời chính quyền, nhưng uy
thế của ông vẫn rất lớn, lại đưa ra một thông cáo ý nghĩa hết sức mập mờ nói
rằng người Pháp nào làm cho nước Pháp mất đi một lãnh thổ hải ngoại Pháp, sớm
muộn phải bị xét xử trước tòa án tối cao. Ông Bollaert, vốn là một thuộc hạ
thân tín của Tướng De Gaulle trong thời kỳ kháng chiến chống Đức, nhất định là
phải "khớp’’ trước lời cảnh cáo nghiêm khắc của Tướng De Gaulle, cho nên
đã lúng túng trong việc quyết định tìm một giải pháp thương thuyết với cụ Hồ.
Vào
khoảng đầu năm 1947, quyết định về nước của tôi đã dứt khoát, nhưng tôi muốn
hiểu thêm trách nhiệm cũng như vai trò của một người Công Giáo, của một Linh
Mục Công Giáo đối với số phận đất nước mình. Tôi thu xếp đi La Mã cùng với các
Cha Mai, Cha Khiết, Cha Bồng và xin yết kiến Đức Giáo Hoàng. Chúng tôi lên
đường vào khoảng tháng tư hay tháng năm. Chúng tôi đáp xe hỏa từ Ba Lê sang Ý.
Những dấu tích của chiến tranh vẫn chưa xóa hết dọc đường xe hỏa. Những cầu
cống đường sá vừa sửa chữa còn những dấu vết của bom đạn.
Hai
bên đường những nhà cửa bị tàn phá vẫn chưa tái thiết hết được. Càng nhìn cảnh
tàn phá do chiến tranh gây nên ở Âu Châu, tôi lại càng lo sợ buồn phiền cho đất
nước mình đang lâm cảnh chiến tranh không biết bao giờ mới thoát ra được.
Các
Cha giao hết cho tôi trách nhiệm và vinh dự hầu chuyện với Đức Thánh Cha. Đến
La Mã vào buổi chiều chúng tôi tìm đến một nơi tạm trú dành cho các Linh Mục từ
xa đến, nghỉ tạm một đêm. Chúng tôi đã gởi thư xin yết kiến Đức Thánh Cha lên
Bộ Truyền Giáo của Tòa Thánh Vatican từ trước, nên trong ngày đó, chúng tôi đến
gặp Đức Hồng Y và lấy giấy giới thiệu. Được biết Đức Thánh Cha đang nghỉ mát
tại biệt điện Castel Gondolpho, hôm sau chúng tôi đi xe buýt đến nơi đó, vào
lúc 8 giờ. Chúng tôi được một lính hầu thường được gọi là Garde Suisse, phục
sức như lính thời Trung Cổ dẫn qua nhiều dãy phòng, nhiều hành lang. Tại mỗi
phòng đều có một Đức Ông. Chúng tôi được dẫn vào phòng một Hồng Y phụ trách
việc tiếp khách của Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y cho biết là phái đoàn chúng tôi
những bốn người, và thường thì trong trường hợp này, Đức Thánh Cha tiếp trước
cửa văn phòng của Ngài.
Chúng
tôi ngồi trong phòng Đức Hồng Y phụ trách nghi lễ và tiếp khách một lúc. Chúng
tôi được dặn dò những cách thức quỳ lạy hôn tay Đức Thánh Cha.
Một
lát sau, chúng tôi được dẫn đến cửa văn phòng Đức Thánh Cha. Lính hầu mở rộng
cánh cửa, và từ trong văn phòng, Đức Thánh Cha bước ra nhìn thẳng vào chúng
tôi, mỉm cười hiền từ. Ngài mặc y phục trắng tinh, phủ tận chân. Chúng tôi theo
đúng nghi lễ triều yết Đức Thánh Cha, quỳ lạy và hôn tay. Đức Thanh Cha Piô XII
có vẻ mặt nghiêm nghị nhưng hiền từ, nhìn bốn chúng tôi, và nói chuyện với
chúng tôi bằng tiếng Pháp:
-
Cha yêu mến dân tộc Việt Nam của chúng con nhiều lắm và Cha rất sung sướng gặp
các con. Cha còn nhớ một người Việt Nam hiền đức mà Cha thương mến, là Đức Nam
Phương Hoàng Hậu. Cha gặp bà trước đây, trước Đệ Nhị Thế Chiến, khi bà mới kết
hôn với Hoàng Đế của chúng con. Các con có tin tức gì về hai người đó không?
Chúng
tôi trình Đức Thánh Cha những tin mà chúng tôi biết về Hoàng Đế Bảo Đại và
Hoàng Hậu Nam Phương.
Chúng
tôi cũng chẳng biết gì về gia đình vương giả đó, và những tin chúng tôi biết
chỉ qua tin đồn. Hoàng Đế Bảo Đại thì đã thoát sang Hồng Kông và Hoàng Hậu Nam
Phương nghe đâu còn ẩn nấp tại một Nhà Dòng ở Huế (Dòng Chúa Cứu Thế Huế).
Tôi
trình Đức Thánh Cha những thắc mắc của tôi, của những người Công Giáo, và nhất
là của những Linh Mục Công Giáo trong tình thế mới:
-
Kính tâu Đức Thánh Cha, chúng con muốn xin Đức Thánh Cha soi sáng cho chúng con
một vài niềm băn khoăn. Hiện nay bên nước Việt Nam của chúng con có một phong
trào đang nổi lên dành độc lập, đánh Pháp. Phong trào Việt Minh như một làn gió
mạnh thổi từ Nam chí Bắc, nung nấu tâm chí mọi người Việt Nam, nhưng chúng con
biết rằng phong trào đó đã bị cộng sản chi phối, mặc dầu mục tiêu đấu tranh của
nó là mục tiêu chung của độc lập Việt Nam chúng con. Chúng con là người Công
Giáo lại là Linh Mục Công Giáo, chúng con không biết nên có thái độ như thế nào
trước phong trào này.
Đức
Thánh Cha có vẻ trầm ngâm, nghĩ ngợi một phút, giọng ngài chậm rãi, từ tốn, dè
dặt:
-
Cha biết rằng những người Công Giáo Việt Nam đang làm bổn phận người yêu nước
của họ.
Tôi
nhớ rõ nguyên văn câu nói bằng tiếng Pháp của Đức Thánh Cha: (Nous savons que les Catholiques Annamites font
leur devoir patriotes).
Sau
câu nói đó, Đức Thánh Cha im lặng nhìn chúng tôi, ánh mắt có vẻ nhiều buồn
phiền, đau thương xót xa. Ngài ban phép lành cho chúng tôi, và theo lệ thường,
gửi phép lành về cho những người thân, cho đất nước chúng tôi. Câu nói của Đức
Thánh Cha làm tôi suy nghĩ mãi từ đó không dứt. Câu nói có thể hiểu nhiều cách,
không chê trách, không bắt buộc, không dạy bảo phải hành động như thế này hay
thế kia, mà để toàn quyền lựa chọn và quyết định cho người trong cuộc.‘’Những người Công Giáo
Việt Nam chỉ làm bổn phận người yêu nước’’. Khi họ theo Việt Minh, dù biết Việt Minh
là cộng sản, khi họ chiến đấu chống Pháp, họ cũng làm bổn phận người yêu nước.
Tôi
cảm thấy như trút được gánh nặng. Giáo Hội không lên án người Công Giáo Việt
Nam làm bổn phận người yêu nước. Quyền lựa chọn và quyết định là ở mọi người.
Và riêng tôi đã có sự lựa chọn, quyết định. Tôi không thể dửng dưng, đứng
ngoài, trốn tránh cuộc chiến tranh máu lửa trên đất nước tôi. Tôi phải về nước,
mặc dù chưa biết sẽ làm gì, sẽ làm được gì.
Tháng
tám 1947, nghĩa là vài tháng sau khi yết kiến Đức Thánh Cha, tôi cùng 15 Cha
Việt Nam khác lên tàu Felix Roussel về nước. Tàu lênh đênh 21 ngày trên biển
cả. Mỗi ngày qua đi, tôi lại thấy lòng thương nhớ nước Việt Nam lớn thêm, những
bồn chồn mong đợi và lo sợ cũng tới theo. Những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, chờ
đợi nước Việt Nam chúng tôi trong những ngày tới? Khi tàu ghé qua một vài bến ở
Phi Châu, tôi và vài Cha có lên thăm các thành phố xứ người cho khuây khỏa.
Hình ảnh nước Pháp hùng mạnh càng hiện rõ hơn, nhưng bóng dáng những nứt rạn,
những lúng túng của nước Pháp, của đế quốc Pháp cũng đã bắt đầu nổi lên tại các
xứ thuộc địa Pháp này rồi. Tôi tin tưởng gần như chắc chắn là nước Pháp sẽ phải
thanh toán các thuộc địa của họ. Điều đáng lo sợ là cái cách thanh toán đó, có
bao nhiêu dân tộc nhỏ bé bị nghiền nát, bị hy sinh?
Tàu
đến Cap St Jacques dừng lại một đêm ngoài cửa sông chờ người cầm lái. Sáng hôm
sau, tàu ngược dòng sông lên Sài Gòn.
Chúng
tôi đứng trên boong tàu nhìn vào hai bên bờ sông từ khi tàu vào sông cho đến
lúc tàu cập bến, những đám ruộng lúa bắt đầu hiện ra. Vài con trâu đủng đỉnh
gặm cỏ trên bờ ruộng. Tự dưng mắt tôi ươn ướt, và tôi đã khóc thầm lặng không
biết từ lúc nào. Nhìn sang các Cha bên cạnh, một vài người Việt Nam bên cạnh,
cũng đang rưng rưng nước mắt. Nhưng không phải là nước mắt đau thương mà là
nước mắt sung sướng vinh dự được trở về quê hương mình sau 8 năm cách biệt. Mặc
dầu báo chí đã cho tôi thấy những cảnh chiến tranh tàn bạo nhưng lúc tàu ngược
dòng tôi chỉ thấy cảnh thanh bình, yên ổn hết sức. Những lũy tre, những rặng
dừa, những thửa ruộng, những đàn trâu bò, những đứa bé chăn trâu, vài đoàn
người đi trên bờ ruộng. Tất cả đều có vẻ thanh bình kỳ lạ.
Chúng
tôi được một đại diện Đại Chủng Viện Sài Gòn ra Bến Nhà Rồng đón tiếp, và chúng
tôi về ngay Đại Chủng Viện ở đường Cường Để bây giờ. Các Cha khác, tùy gốc địa
phận, chờ tàu trở lại địa phận của họ. Riêng tôi thì chờ tàu ra Hải Phòng để
tìm cách về địa phận Vinh.
Khoảng
vài tuần sau, tôi mua được vé tàu thủy ra Hải Phòng. Cảnh Vịnh Hạ Long hùng
tráng, sừng sững nổi lên trên mặt nước, với vài chiếc thuyền buồm, vài chiến
hạm Pháp, tuy đồ sộ mà so với cảnh thì thật là bé nhỏ vô nghĩa, càng làm tôi
yêu mến đất nước mình hơn.
Lúc
tàu cập bến Hải Phòng, cảnh chiến tranh bắt đầu hiện ra trước mắt. Những dấu
vết của vụ bắn phá Hài Phòng cuối năm 1946 vẫn còn nguyên vẹn.
Dân
Việt Nam ngoài bến tàu ra thì rất thưa thớt. Chỉ có những khu phố của người Tàu
và người Pháp là còn có vẻ đông đúc, thịnh vượng. Vừa bước lên bến tàu tôi đã
biết ngay thế nào là nỗi nhục của một người dân nước nhỏ bị trị. Đáng buồn
nhất, là chính một người Việt Nam nhắc nhở cho tôi cái nhục này.
Tôi
đến phòng nhà đoan để khai giấy tờ. Trên phiếu khai bằng tiếng Pháp, nơi dòng
ghi quốc tịch, tôi viết thật đậm nét hai tiếng: Việt Nam.
Người
Thư Ký nhà đoan gạch hai chữ đỏ, nhìn tôi trâng tráo hỏi:
-
Cha người Cochinchinois, Annamites hay Tonkinois? Tôi trừng mắt nhìn người Thư
Ký nhà đoan, gắt giọng:
-
Tôi người Việt Nam.
Người
Thư Ký nhà đoan cau mày, mấp máy như sắp gắt gỏng với tôi, rồi chẳng hiểu sao
lại mỉm cười, giải thích dài dòng:
-
Xin lỗi Cha, lệnh quan trên bây giờ bắt buộc mọi người lên bến phải khai rõ là
người Cochinchinois, Annamite du Centre, hay Tonkinois. Cha hiểu cho, đó chỉ là
bệnh quan trên, chúng tôi có muốn bắt ép ai làm gì đâu.
Tôi
chán ngán đau đớn:
-
Quê tôi ở Hà Tĩnh, Thầy ghi sao đó cũng được. Người Thư Ký nhà đoan viết nắn
nót: Annamite du Centre. Tôi chua xót vì hiểu ra âm mưu định gây chia rẽ Nam
Bắc trở lại của người Pháp. Mình không được quyền làm người Việt Nam nữa. Mình
phải bị bắt buộc làm người Trung kỳ, Bắc kỳ. Người Pháp muốn có 3 nước Nam kỳ,
Trung kỳ, Bắc kỳ!
Tôi
lên ngay Hà Nội.
Đường
xe lửa đã được tái lập ngay sau khi Pháp tái chiếm Hà Nội. Xe chạy thật chậm
chạp, có lẽ chỉ khoảng năm chục cây số 1 giờ hay kém hơn. Từ cửa sổ toa xe lửa
nhìn ra ngoài, những làng mạc hoang tàn, những khu nhà bị đốt cháy còn trơ nền,
những nhà gạch đổ nát cho tôi biết chiến tranh đã là một sự thật mà từ đây tôi
phải làm quen, phải hòa mình vào. Tôi đến ở tại Nhà Chung Hà Hội, nơi tôi đã
từng sống ít lâu trước khi đi Pháp. Tôi bắt đầu làm quen lại với văn chương
Việt Nam. Tôi đọc hầu hết những sách của Tự Lực Văn Đoàn. Khi hay tin tôi về
nước, một số người Việt ở Pháp và những người biết tiếng tôi đôi chút lần lượt
đến thăm, thỉnh thoảng mời tôi đến nhà họ chơi.
Tôi
nhớ hình như người đầu tiên mà tôi gặp là Hoàng Bá Vinh còn được người Công
Giáo trong địa phận Vinh gọi là ông già Vinh. Tôi xin đóng một dấu ngoặc ở đây:
Ông già Vinh được gọi như thế không phải vì ông nhiều tuổi, mà vì ông từng học
ở Đại Chủng Viện ra và gần thụ phong Linh Mục, thì vì một lý do nào đó bỏ dở
con đường tu hành.
Đối
với những người đó, người Công Giáo địa phận Vinh gọi là ‘’ông già’’ để tỏ ý
kính trọng một chút.
Hoàng
Bá Vinh lúc bấy giờ cầm đầu một nhóm thanh niên trẻ, hăng say lý tường, phần
lớn người Công Giáo đầy lòng yêu nước, tuy không theo Việt Minh, nhưng nhất
quyết không hợp tác với Pháp, đang hoạt động cho một giải pháp quốc gia thuần
túy.
Lãnh
tụ được tôn thờ nhất là ông Ngô Đình Diệm. Trong này có anh Nguyễn Văn Châu,
người Quảng Bình, về sau làm Trung Tá Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý, một thời
được ông Diệm tin cậy. Ngoài ra, nếu tôi nhớ không lầm thì có một anh chàng cao
lớn, hơi gầy, đen, liều lĩnh, thật thà, là anh Hoàng Bá Linh.
Không
rõ lúc đó anh đã đi học Trường Hạ Sĩ Quan Pháp hay chưa, hình như là chưa thì
phải.
Hoàng
Bá Vinh gặp tôi rất thường, và những lúc đó tôi với anh ta bàn về tình hình đất
nước, nói đến những niềm hy vọng của mọi người Việt Nam, của những người Công
Giáo yêu nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét