PHẦN III - Chương XVI
TRONG CHIẾN TRANH VIỆT – PHÁP (1945-1954)
TẢN CƯ VỀ TÂN THẠNH
TẢN CƯ VỀ TÂN THẠNH
Hôm đó chúng tôi rời căn nhà 50 đường Monceau,
có ngờ đâu tám năm sau mới trở lại.
Trời trong trẻo, mát mẻ. Trên đường xuống Phú
Nhuận, có nhiều nhà treo cờ thanh thiên bạch nhật: hôm đó là ngày quốc khánh
(lễ Song thập 10-10) của Trung Hoa, quân cách mạng thắng quân nhà Thanh ở Vũ
Xương năm 1911. Đa số xe đạp cắm một cây cờ Trung Hoa nhỏ bằng giấy trước ghi
đông. Trung Hoa đã leo lên địa vị cường quốc thứ năm trên thế giới; người ta
cho rằng cờ của họ là lá bùa hộ mạng khi gặp quân Anh, Pháp.
Gần tới ngã năm Phú Nhuận tôi thấy một chiếc
“xe cá” chở đầy sách gấp mười số sách của tôi, trong lòng vừa phục mà vừa
thương hại: chở gởi đi đâu? xa không? cực khổ quá!
Ba anh em chúng tôi chỉ có hai cái va li nhỏ,
một giỏ đồ vặt, cố mắc vào xe đạp, rồi thay phiên nhau đẩy. Một đứa cháu 12
tuổi giúp việc nhà, lẽo đẽo theo sau. Lác đác có từng nhóm người tản cư cũng
như chúng tôi, không ai có vẻ buồn rầu, lo lắng cả. Gặp nhau người ta còn mỉm
cười với nhau nữa.
Vào khoảng trưa chúng tôi tới Thủ Đức, vào một
khu vườn cao su cách chợ hơn một cây số, chỗ để hai chiếc xe ngựa lớn, có mui,
có cửa, của sở Thủy lợi. Người coi vườn chào tôi, đưa chìa khóa xe cho tôi. Tôi
hỏi thăm tình hình trong miền, người đó đáp: “Yên ổn lắm, nhưng những nhà ở gần
đường lộ cũng ngại quân Anh, Pháp sẽ lên đây. Họ tính lùi vào trong xóm, ở xa
đường một chút... Còn đường về miền Tây, ông có tin tức gì không?
Tôi bảo: “Nghe nói quân Pháp đã xuống đến Tân
An rồi, con đường Sài Gòn - Tân An nghẽn. Vì vậy tụi tôi phải đi vòng lên đây
để kiếm đường về miền Tây”.
Người đó khuyên tôi lên chợ Lái Thiêu rồi kiếm
ghe quá giang về Mĩ Tho. Chúng tôi theo ý kiến đó, nghỉ lại trong xe, nấu cơm
lấy mà ăn; sáng hôm sau lại lên đường. Người coi vườn tiễn chúng tôi một quãng,
chỉ cho chúng tôi một bụi cây ở xa, bảo: “Người ta nói Phan Văn Hùm bị giết ở
bụi cây đó. Ông biết Phan Văn Hùm không?”.
Tôi đáp: “Nghe tiếng chứ không biết mặt. Tại
sao ông ấy bị giết?”.
- “Không ai biết. Thời buổi này mà!”.
Chia tay người đó rồi, tôi mới hỏi Tân Phương:
Phan Văn Hùm là một nhà cách mạng trong nhóm
Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, chắc là theo Đệ tứ Quốc tế, được nhiều người mến.
Mà nhóm Đệ tứ có Trần Văn Thạch ở trong Ủy ban Hành chánh Nam Bộ thì ai giết
Phan Văn Hùm? Tôi chắc là người ta đồn bậy.
Tân Phương làm thinh, có vẻ suy nghĩ.
Cũng ngày đó, chúng tôi lại được tin Tạ Thu
Thâu bị giết ở Quảng Ngãi trên đường từ Huế về Sài gòn. Tôi xúc động mạnh vì
tôi rất quí ông ta. Ông gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị,
bình dân, khắp thành phố Long Xuyên không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là
giới thợ thuyền. Căn nhà của ông ở gần Cầu Máy, một khu lao động, tuy bằng
gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí.
Hai chiến sĩ đệ tứ bị giết trong khoảng nửa
tháng hay một tháng thì khó có thể cho là bịa được, mà cũng khó bảo là ngẫu
nhiên được. Mấy năm sau tôi mới được biết cả hai vụ đó có thật, chỉ sai một
điểm là Phan Văn Hùm bị giết ở gần quê ông (Búng, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một), chứ
không phải ở gần Thủ Đức.
Bốn giờ chiều chúng tôi mới tới chợ Lai Thiêu,
may gặp một nhân viên của tôi cũng tản cư về đó và làm trong Ủy ban hành chánh
xã. Thầy kiếm nhà cho chúng tôi tá túc. Nhà ở giữa một khu vườn măng cụt và sầu
riêng, có đường mương ngang dọc, săn sóc rất kĩ.
Thầy lại xin cho chúng tôi một giấy chứng nhận
của Ủy ban hành chánh và sáng hôm sau tìm cho tôi một chiếc ghe về phía Mĩ Tho.
Thầy làm việc với tôi đã mười năm, tính tình hiền lương; tôi tiếc là từ buổi đó
đến nay tôi không được gặp lại thầy nữa.
Lái Thiêu cũng sợ quân Anh, Pháp sắp tới, nên
rất nhốn nháo. Nhân viên các ủy ban và thanh niên đi đi lại lại, người nào cũng
vội vàng, dân chúng chen chúc nhau ở trụ sở hành chánh để xin giấy tờ đi đường.
Thiếu giấy, phải dùng mặt sau của các công văn thời trước. Con dấu thì bằng gỗ.
Ai cũng có thể làm giấy chứng nhận giả được.
Náo nhiệt nhất là cảnh chợ. Trên bờ, dưới
sông, tấp nập kẻ qua người lại và ghe xuồng đủ cỡ... Mọi người lo mua đồ tích
trữ: từ gạo, than đến thuốc uống, cả nồi niên, chiếu, nóp... Rõ ràng là cảnh
sắp loạn lạc, chia li.
*
Chiếc ghe chúng tôi mướn được là ghe thương
hồ, bán hết đồ, trở về Mĩ Tho. Chúng tôi đi chung với một gia đình khác làm ăn
ở Lái Thiêu, di tản về quê ở Tân An. Ghe đi vòng lên Đức Hòa rồi theo một con
kinh vào Đồng Tháp. Khỏi Đức Hòa một chút, một chị nông dân Thanh niên tiền
phong bảo ghe ghé bờ để xét. Chị bận một bộ đồ hàng Tân Châu - tôi đoán là bộ
tốt nhất của chị - lưng dắt dao găm, nhưng coi mặt không dữ tợn. Thấy tôi mang
một cuốn sách khá dày, chị mở ra coi mà lại cầm ngược - chị chưa biết chữ Quốc
ngữ - hỏi tôi:
- Anh mang sách gì vậy?
Tôi đáp:
- Sách về nghề đốc công thủy lợi của tôi.
- Sách Tây hả?
- Phải.
- Thời buổi này mà anh còn giữ sách Tây à? Anh
đi theo tôi vô Ủy ban xã.
Tôi lên bờ theo chị. Ghe phải đậu lại. Chúng
tôi đi qua một cánh đồng rộng, tới xóm làng, lại đi một đỗi nữa mới tới trụ sở
ủy ban ở trong một Nhà việc. Ủy ban gồm sáu bảy người đương bàn về kế hoạch
phục kích quân Pháp ở một dốc cầu. Trông thấy tôi vào, một người chạy ra hỏi:
- Ủa. Ông đi đâu đây?
Lại gặp may nữa: cũng là một nhân viên cũ sở
Thủy lợi.
Thầy đó cầm cuốn sách của tôi, đưa viên chủ
tịch coi. Tôi được thả. Thầy còn ân cần đưa tôi ra khỏi xóm, bảo tôi:
- Ông đừng nên giữ một cái gì có màu xanh, đỏ,
trắng của cờ Pháp, người ta cho là ám hiệu liên lạc với địch đấy.
Về tới ghe, ai nấy đều mừng. Tối đó ghe đậu ở
một xóm bên bờ kinh. Đồng quê hồi đó còn yên ổn, không có trộm cướp. Khoảng bốn
giờ chiều hôm sau tôi mới tới một chợ quê cách Tân An độ mươi cây số về phía
tây, ghe đậu lại. Chủ ghe, một giáo viên hồi hưu, đãi chúng tôi một bữa cháo vịt
rất thân mật. Sáng hôm sau - ngày thứ năm từ khi rời Sài Gòn - chúng tôi lại
dắt xe ra đường lộ Tân An - Trung Lương, rồi thuê xe ngựa đi từng chặng tới Mĩ
Tho. Quân Pháp mới tới thành phố Long An, chưa tiến xa hơn nữa; nên trên đường
xe cộ dập dìu.
Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi tới Mĩ Tho. Không
khí căng thẳng, thành phố rất náo nhiệt. Chúng tôi lại Ủy ban Hành chánh Nam bộ
(đã rút về Mĩ Tho từ trước) để trình diện, nhưng ai nấy bận việc tíu tít, không
tiếp chúng tôi được. May sao gặp được ông bạn cũ Nguyễn Ngọc Thơ tản cư theo ủy
ban. Ông cho tôi hay có tin hôm sau quân Pháp sẽ tới tấn công Mĩ Tho, ủy ban đã
ra lệnh đào đường lộ, ngã cây để chặn đường; còn ủy ban thì cũng sắp phải dời
đi nơi khác, rồi ông khuyên tôi sáng hôm sau còn chuyến tàu thủy chót về Long
Xuyên, đừng bỏ lỡ cơ hội đó.
Chúng tôi lại một trường tiểu học, vô một lớp
học, sắp đặt hành lí, kê bàn làm chỗ ngã lưng rồi đi nghe diễn thuyết về hôn
nhân - diễn giả khuyên thanh niên đợi 25 tuổi hãy kết hôn - lại ăn cơm xã hội
của thị xã. Tối trở về trường, tắm xong, ngủ thẳng một giấc tới sáng.
Thức dậy, không kịp ăn sáng, chúng tôi ra bến
tàu, mua giấy đi Long Xuyên. Khi tàu rời bến, chúng tôi mới nhẹ người.
Năm giờ chiều hôm đó tới Long Xuyên. Như vậy
từ Sài Gòn đi Long Xuyên mất sáu ngày. Chúng tôi ghé nhà cô Nguyễn Thị Liệp và
nhờ người nhà nhắn với bác tôi ở Tân Thạnh (Đốc Vàng) rằng chúng tôi đã tới
Long Xuyên.
Thị xã Long Xuyên có vẻ buồn hiu. Ủy ban hành
chánh đã ra lệnh tiêu thổ kháng chiến: đập phá các công sở, đốt hết các hồ sơ;
tư gia thì phải dỡ mái ngói, gở tất cả các cánh cửa, để địch không có chỗ ở.
Lệnh chỉ được thi hành một phần thôi: mới có vài cơ sở bị phá, một số nhà dỡ
một phần mái; nhưng đồ đạc quí thì đã chở lần lần đi gởi ở trong làng, xa thị
xã, những chỗ chắc địch sẽ không tới.
Ở Long Xuyên hai ba ngày thì có ghe nhỏ ở Tân
Thạnh qua đón chúng tôi. Hồi đó đã gần cuối mùa lụt, nước trong đồng rút mạnh
ra Tiền Giang, Hậu Giang; ghe gặp toàn nước ngược, cả giờ chỉ tiến được vài ba
cây số. Chiều hôm đó chúng tôi phải nghỉ lại nhà một người quen ở giữa đường
Long Xuyên - Mĩ Luông; sáng hôm sau mới đi tiếp. Trên bờ, thấp thoáng trong các
vườn xoài, dừa, một đám khoảng vài chục thanh niên vác tầm vông vạt nhọn, đương
tập quân sự. Người nào cũng bận bà ba đen, đi chân không, nét mặt hăng hái, vui
vẻ. Nghe họ hô “một hai, một hai” và tiếng chân họ nện trên mặt đất, lòng tôi
cũng sôi lên.
Tới Mĩ Luông, ghe phải đi men bờ, ngược lên
gần chợ Thủ rồi mới qua sông. Ngồi ghe lâu quá, tù túng, mấy anh em tôi lên đi
bộ cho ghe được nhẹ. Giữa đường từ Mĩ Luông tới chợ Thủ, chúng tôi được biết ba
tín đồ Hoà Hảo bị giết ngày 17-10-1945 ở sân vận động Cần Thơ: Nguyễn Xuân
Thiếp, hiệu là Việt Châu, người thứ nhì là em trai út Thầy Tư Hòa Hảo, người
thứ ba là con trai của Trần Văn Soái, Tổng tư lệnh quân đội Hòa Hảo.
Chúng tôi bàng hoàng, lặng lẽ cúi đầu đi,
không ai nói một lời. Tôi nhớ lại buổi trưa đó, anh Việt Châu từ biệt tôi đi
Cần Thơ để hòa giải, hai bên vui vẻ và tự tin, chắc thành công: mọi sự chia rẽ
lúc đó chỉ có lợi cho địch, mà anh tuy theo Thầy Tư nhưng vẫn có cảm tình với
Việt Minh thì khó khăn nào mà không giải quyết được. Dè đâu, lần chia tay đó
lại là lần vĩnh biệt.
VIỆT CHÂU
Chỉ vì tin đó mà chuyến về hết vui. Bác trai
tôi rầu rầu trách chúng tôi: “Sao ở trên đó lâu vậy? Ở nhà mong mãi”.
Cả nhà xúm lại. Chúng tôi kể tin tức Sài Gòn,
Long Xuyên, những nỗi khó nhọc khi đi đường đường, mà không dám nhắc tới tin
buồn kia.
Bác tôi nói trước:
- Khi nó hỏi ý bác có nên giúp thầy Tư Hòa Hảo
không, bác bảo giúp thì giúp, nhưng chỉ nên lãnh công việc xã hội, đừng làm
chính trị. Nó không nghe lời bác. Có tin cho hay khi nó tới Cần Thơ, người ta
ngờ nó xuống để kích động tín đồ, bắt giam nó liền, không chịu nghe nó phân
trần. Rồi tín đồ thấy nó bị bắt lại càng làm dữ, tình hình mỗi ngày thêm găng
và kết quả như vậy. Ra pháp trường, nó không một lời nào nhắn gia đình gì cả,
ung dung ngâm bốn câu thơ rồi hô: “Việt Nam muôn năm”. Thật là có
tinh thần Nguyễn Trung Trực.
Việt Châu (Nguyễn Xuân Thiếp) tính tình giống
bác tôi, có khí tiết mà mềm mỏng, khéo xử sự, biết lo cho gia đình mà có tài
làm thơ, nên bác tôi mến nhất. Anh sanh năm 1918, biết chút ít chữ Pháp, chữ
Hán và nhà coi sóc ruộng nương. Năm 1940 hay 41, mới 23 tuổi đã xuất bản tập
thơ Lông ngỗng gieo tình (truyện Mị Châu, Trọng Thủy) được một
số thi sĩ ở Bắc khen, rồi ít năm sau viết xong một tập thơ nữa trên ngàn câu về
Dương Qui Phi, chưa xuất bản. Thỉnh thoảng có thơ văn đăng trên báo; lại giữ
phụ trương văn chương một tờ nhật báo ở Sài Gòn, có nhiều bạn thơ ở Bắc, Nam,
thường thư từ với Trần Huyền Trân, một thi sĩ theo Việt Minh từ trước 1944.
Trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện
đại (Khai Trí - 1967), Trần Tuấn Kiệt có chép sơ lược tiểu sử và trích
ít bài thơ của anh. Thơ anh trôi chảy, bóng bảy, lãng mạn như các nhà thơ trẻ
tuổi hồi đó, nhưng cũng có bài tả những cảnh chưa ai tả, như bài Hoa Ô
môi mà trong cuốnThi ca Việt Nam hiện đại đã
trích đăng.
Mới 28 tuổi đã lìa đời, nếu không sự nghiệp
thi văn của anh còn tiến nhiều. Từ 1945 đến 1974, năm nào “tổ đình” - đình thờ
gia đình thầy Tư ở làng Hòa Hảo, được tín đồ coi như thánh địa - cũng làm giỗ
anh với hai người tử vì đạo với anh.
Nhưng có điều là do thời cuộc, thơ anh ngay vợ
con anh cũng không giữ được. Anh có hai người con trai, một người theo nghề võ,
một người viết báo, nhưng không ai biết làm thơ.
TÂN PHƯƠNG
Chín năm sau bác tôi lại bị một cái tang nữa.
Người con trai lớn tên là Nguyễn Xuân Tăng (bút hiệu là Tân Phương) đẹp trai,
nhưng ẻo lả, chết một cách thật vô nghĩa.
Bác sĩ rọi phổi bảo là bị bệnh lao. Thời đó
(khoảng 1950), Tây y đã có những thuốc rất công hiệu để trị lao: Streptomicine,
Rimifon, P.A.S. Anh ấy mới chích một mũi Steptomicine rồi nhất định không chịu
chích nữa (có lẽ vì sợ chích) mà tự dối mình là chỉ ho thường thôi chứ không bị
lao, rồi uống thuốc Nam, thuốc Bắc, không chịu đi bác sĩ. Bệnh mỗi ngày một
nặng, vài ba năm sau, khi toát mồ hôi lạnh, yếu quá rồi, vợ mới vội đưa ngay
lên bệnh viện Grall ở Sài Gòn, thì phổi đã bị vi trùng lao đục rỗng, vài ngày
sau chết tại bệnh viện. Năm đó anh mới 39 tuổi. Thật uổng một đời thông minh.
Giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, làm thông dịch
viên cho cơ quan Domei của Nhật. Mới tự xuất bản được một tập nhỏ nhan đề là Vers
une dictature đại ý là muốn cho thế giới hết loạn thì phải cho Hội Vạn
quốc (Société des Nations) có đủ binh lực và quyền hành để buộc các nước lớn
nhỏ trên thế giới phải tuân lệnh. Tập đó ra năm 1938 hay 1939, trước khi thế
chiến nổ. Thỉnh thoảng anh có viết chuyện ngắn, làm một bài thơ đăng báo. Anh
viết kĩ, văn gọn, có khí, đôi khi bóng bẩy.
Tôi còn giữ được truyện ngắn Tình
trong bức tường (đăng trên nguyệt san Tiểu thuyết Thứ bảy – số tháng 9
năm 1944) tả mối tình tuyệt vọng của một thanh niên hơi có học, nghèo, làm thợ
nề mê con gái một điền chủ, mà không dám ngỏ lời, kín đáo chép tâm sự bỏ vào
một cái chai lén giấu trong bức tường của ông điền chủ khi chàng xây tường.
Thơ anh cũng đăng trên nguyệt san đó, bài thơ Trương
Lương cũng được nhiều người tán thưởng.
KHÔNG KHÍ LÀNG TÂN THẠNH
Không khí làng Tân Thạnh đã thay đổi nhiều.
Trên đường chỉ thấy thanh niên nam nữ đa số là gia đình nông dân. Các hương
chức và điền chủ ít ai ra khỏi nhà. Ghe xuồng bớt qua lại, tuyệt nhiên không
thấy một chiếc ghe hầu, một chiếc ca nô. Một hai miễu ông Tà bị lật đổ, nhưng
chưa hất xuống rạch. Ở đình người ta làm lễ, nhưng rất sơ sài; một hai nhà cách
mạng theo phong trào mới tới dự, nhưng bận áo bà ba và không vái. Vài nhà cách
mạng khác bỏ làng, theo kháng chiến. Gần cuối năm 1945, vài gia đình ở nơi khác
tản cư về đây, trong số đó có gia đình cô giáo Liệp[1] và
gia đình một thầy giáo nữa ở Long Xuyên.
Chủ tịch Ủy ban Hành chánh xã là một thanh
niên học tới trung học, ở bên cạnh nhà bác tôi và có họ hàng với bác gái tôi.
Mấy anh em tôi lại trình diện với ông ta và tôi cũng đi canh gác một hai đêm
với thanh niên ở bến đò gần nhà.
Trong làng ai cũng biết nhau và có họ hàng xa
gần với nhau nên ít có sự nghi kị. Chỉ có mỗi một lần vào mùa xuân năm 1946 vài
anh bộ đội đóng đâu ở phía Phong Mĩ vào nhà bác tôi đòi khám xem có súng ống
không vì họ biết anh Tân Phương làm việc với Nhật. Họ chỉ xét qua loa rồi ra.
Sau đó anh ấy lánh qua bên chợ Thủ sống với vợ con. Còn anh Việt Châu thì không
ai nhắc tới cả. Mãi hai năm sau, khi thầy Tư Hòa Hảo đã bị thủ tiêu (lúc này
tôi đã qua Long Xuyên rồi), ủy ban xã mới mời bác tôi vô trụ sở, giam mấy ngày
để điều tra, rồi thả, vì biết bác tôi từ 1939 không hề ra khỏi làng, không hề
biết mặt thầy Tư.
Mùa đông năm 1945, một chiếc ghe chở muối từ
Bạc Liêu lên bán ở Long Xuyên, ghé Tân Thạnh cho tôi biết: vợ con tôi vẫn bình
an ở nhà người em ruột tại Long Điền. Em rể nhà tôi trước làm Xã trưởng làng
đó, nay lại làm Chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Tôi yên tâm. Tạm sống xa nhau như
vậy vì tôi tin chiến tranh sẽ mau kết thúc.
Nhưng đợi tới cuối năm, tình hình vẫn chưa có
gì thay đổi. Tết đó thật buồn, chợ Tết lèo tèo, nhà nào cũng cúng qua loa. Không
có dưa hấu, quít, mứt. Chỉ gói một nồi bánh tét, mổ thịt một vài con gà.
TÔI HỌC ĐÔNG Y
Về Tân Thạnh được vài tháng, không có công
việc gì làm, để khỏi buồn, tôi xin bác tôi dạy cho tôi đông y.
Tôi học bộ Y học toản yếu gồm
sáu quyển của Lưu Thánh Tuyền. Tôi đọc rồi bác tôi cắt nghĩa. Thỉnh thoảng có
bệnh nhân xa gần lại nhờ bác tôi trị (làm phúc), nhờ vậy tôi có dịp tập coi
mạch.
Sau chín mười tháng tôi nhận được một số bệnh,
biết chút y lí, phân biệt được hàn nhiệt, hư thực trong những trường hợp dễ, sử
dụng được một số toa thuốc cơ bản, cổ điển: loại bổ, loại tán (làm cho tà khí
tan đi), loại hàn (thuốc mát), loại nhiệt (thuốc nóng), loại công (công phá,
như thuốc xổ); thuộc được tính chất độ một trăm vị thuốc thường dùng; biết gia
giảm những vị nào cho hợp với bệnh nhân; lại biết nấu thục địa, sao, tẩm một số
thuốc.
Đọc các sách thuốc khác như bộ của Hải
Thượng Lãn Ông, tôi đã hiểu được nhưng chưa thể làm y sĩ được vì thiếu
nhiều kinh nghiệm. Sự hiểu biết của tôi chỉ dùng được cho người trong nhà, về
những bệnh thông thường.
Tôi thấy y lí của phương Đông, sự phân biệt
hàn nhiệt, hư thực thật tinh tế và có lợi. Tôi lấy thí dụ bệnh ho do phải cảm
hay thời tiết thay đổi, nếu phân biệt được hàn nhiệt, thì chỉ vài thang là hết,
trong khi các bác sĩ thử hết thuốc nước này, thuốc hoàn khác mà bệnh không dứt.
Mới mười năm trước đây, đọc một số báo Pháp hay Mĩ thấy một bác sĩ chỉ dùng
cách này mà trị được một bệnh ho dai dẳng: bảo bệnh nhân vẩy nước trong phòng
cho không khí ẩm thấp, mát mẻ; vài ngày sau bệnh nhân hết ho. Trường hợp đó
đông y cho là do nhiệt mà ho.
Bệnh đi tiêu chảy, đông y phân biệt hàn nhiệt
và cách trị khác nhau. Bệnh lị Đông y phân biệt hàn nhiệt, tây y phân biệt
dysenterie amibienne và dysenterie bacillaire. Hai cách phân biệt đó có điểm
nào giống nhau không?
Đông y có một kinh nghiệm lâu dài (trên mấy
nghìn năm) và rộng rãi (trên miền Đông Á rộng bằng cả châu Âu không kể Nga) tất
có nhiều điều đáng cho tây y tìm hiểu. Ngày nay ai cũng biết công dụng của tử
hà sa (nhau), đồng tiện (nước tiểu trẻ em), cam thảo (để trị loét bao tử) mà
người Trung Hoa đã tìm ra được hàng ngàn năm trước; phương Tây đương nghiên cứu
khoa châm cứu của Trung Hoa và hình như bây giờ đã có bác sĩ nhận rằng thận có
nhiều công dụng khác quan trọng ngoài công dụng tiết ra nước tiểu, rằng Đông y
có lí khi bảo trẻ em và người già cần bổ thận. Nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu rõ
quan niệm khí (khí huyết), quan niệm thận thủy và thận hỏa… của Trung Hoa.
Nghiên cứu theo khoa học để tìm hiểu Đông y là việc làm lí thú và có ích cho
nhân loại.
Tuy nhiên chúng ta phải nhận rằng Đông y chỉ
giúp cho Tây y được thôi chứ không thể nào tiến mau như Tây y được. Tây y dùng
thuốc hóa học, chế tạo được rất nhiều thuốc mới mà giá lại rẻ; Đông y gần như
chuyên dùng thảo mộc, mà trồng thảo mộc đã lâu, lại phải tùy đất, tuỳ thời
tiết, phải bào chế, giá thuốc quá đắt, ít người mua nổi.
Nhất là phương pháp dạy, nghiên cứu của Đông y
cổ lỗ quá, cần phải canh tân.
CÁC KHOA HỌC HUYỀN BÍ CỦA TRUNG HOA
Trong những năm 1939-1940 tôi đã đọc một hai
cuốn Tử vi viết bằng tiếng Việt. Năm 1945 về Tân Thạnh tôi đọc
thêm sách Tử bình bằng chữ Hán. Năm 1974 tôi lại được đọc cuốnBát
tự Hà Lạc của Học Năng, một bạn già của tôi quê ở Thanh Trì (Hà Nội)
có cả Hán học lẫn Tây học, đã lần hiệu trưởng nhiều trường tiểu học.
Tôi đọc chỉ do tò mò muốn biết mấy môn học
huyền bí đó của Trung Hoa. Hơn hai chục năm trước, một anh bạn “làm cách mạng”
thấy tôi đọc sách tử vi, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại tin những sách vô lí như
vậy?
Tôi đáp:
- Anh thiếu tính thần khoa học rồi. Phải tìm
hiểu một môn học rồi mới phê bình nó được chứ. Ở đời thiếu gì cái vô lí mà có
thực. Một người thân ở xa bị tai nạn, đúng lúc đó mình ở nhà bồn chồn, lo lắng
cho người đó; hiện tượng cách cảm (télépalhic) đó, lấy logique mà xét thì thấy
vô lí, nhưng vẫn có thực. Anh vẫn thường bắt tin tức thế giới trong máy thâu
thanh; nửa thế kỉ trước, ai mà không cho như vậy là vô lí, không thể có được.
Anh bạn đó làm thinh.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965)
chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau:
“Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử
bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách
không phải là ngẫu nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi
được biết.[2].
Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai
sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người
con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con.
Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì
không thể cho là ngẫu nhiên được.
(...) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những
số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào
trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đóphần nhiều đúng,
đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh
vấn là quan trọng”. (trang 174-175).
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo
Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng
chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai.
So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi
thấy:
- Tử vi cho con người chịu
ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn.
Không thể cải được mệnh.
Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung:
mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh
đệ... cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu
nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà
của, ruộng nương..., nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy
mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai;
mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều
sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa đó không hợp lí vì
dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải
coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một
tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày
giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn,
chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại
sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất
sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi
(thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa?
Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó
được.
Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính
sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
- Tử bình gọi năm, tháng,
ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không
có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp
lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân
bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành
sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều
đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản
với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết,
nên nhiều người không thích khoa đó.
- Hà lạc gọi là bát tự vì
cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi
những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch,
quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ,
mỗi hào trong kinhDịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi
hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm).
Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về
số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu
ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con... Sau mỗi hào có
lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy
thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp
với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí
thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác
nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân
Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi,
tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu.
Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi
đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung
quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử
vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó,
còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà
lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả
hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kì dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong
họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa.
Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo
là đáng tin hẳn thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để
nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi
không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả.
Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số[3].
Tất cả các sách số đều khuyên vậy: “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ”
(Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số.
Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi
thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói:
“vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng
cả.
Đó là bài học tôi rút được khi rảnh, đọc chơi
môn lí số của Trung Hoa.
*
Tôi lại đọc môn bói nữa trong bộ Bốc
phệ chính tôn và Dã hạc.
Môn bói trong hai cuốn đó đều dùng quẻ Dịch một
cách tài tình. Khi ta đã chấp nhận một số định đề, nguyên tắc rồi thì cứ áp
dụng luật ngũ hành tương sinh tương khắc mà suy đoán mọi việc sẽ xảy ra. Bói và
Tử bình có lẽ là hai khoa hợp logique nhất trong các khoa học huyền bí của
Trung Hoa, khiến tôi mê mải đọc. Đem ra thực hành thì tôi thấy có một số quẻ
đúng một cách kì dị như hai quẻ tôi đã dẫn trong cuốn Luyện lí trí (tr.
177), một quẻ về bệnh của mẹ tôi, một quẻ về việc buôn bán của một bà chị tôi;
đúng về tốt xấu là chuyện thường (vì chỉ có tốt với xấu, như vậy dù có đúng
cũng chỉ được 50%), nhưng còn đúng cả về ngày và tháng nữa thì thật lạ lùng.
Nhưng sau tôi thấy nhiều quẻ sai be bét: người
chết rồi thì bảo là chưa chết; miếng đất đoán là sẽ mua được mà rốt cuộc không
mua được. Đoán rất đúng sách, chỉ tại quẻ không nghiệm thôi. Chính một bạn tôi
có mấy chục năm kinh nghiệm về khoa đó cũng nhận rằng có người xin quẻ thường
nghiệm, có người trái lại; lại có người lúc thì nghiệm lúc thì không. Hình như
quẻ nghiệm hay không còn tùy nhân điện của người xin quẻ, của người gieo tiền,
hoặc tùy tâm trạng người đó, tùy lúc, tùy giờ hay tùy cái gì đó nữa.
Riêng tôi chỉ thấy sai nhiều nên không tin
khoa đó nữa, cứ xét nhân sự mà quyết định mọi việc; nhưng vẫn nhận là kì dị,
huyền bí chứ không phải là chuyện nói láo mà chơi.
Trong tủ sách bác tôi còn có một bộ Địa
lí hám giá, tôi cũng lấy ra coi, chỉ xin bác tôi giảng cho ít thuật ngữ,
một vài qui tắc rồi đọc lấy được.
Khoa này còn huyền bí hơn các khoa trên nữa.
Cổ nhân đã nói muốn làm thầy địa lí (tức khoa phong thủy, để mả chỗ nào cho kết
(phát) thì phải có “lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu”. Tôi không có lòng
thần, cũng không có mắt thánh, cho nên dù được các bác tôi dắt đi coi vài kiểu
đất kết, chỉ cho “mạch” phát từ đâu, đi theo hướng nào, tụ ở đâu, đâu là tay
long, đâu là tay hổ v.v... tôi cũng chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ, ở một miền
hoang vu, nhận những chỗ cao thấp trên mặt đất thì còn có thể thấy được long mạch;
chứ trên một cánh đồng đã khai phá cả mấy trăm năm, cả ngàn năm rồi, gò đồi đã
san phẳng, hồ ao đã lấp hoặc đào thêm, đường đi đã chằng chịt như bàn cờ, thì
căn cứ vào đâu để bảo đó là long mạch. Cho nên khoa địa lí tôi chỉ đọc qua thôi
và tin rằng sẽ không còn ai học nó nữa.
TRỒNG DÂU NUÔI TẦM
Tôi làm tất các việc lặt vặt trong nhà: nhổ
cỏ, quét sân, xách nước, giã gạo, bữa củi... Khi tản cư tôi còn được 700 đồng.
Tôi hùn nuôi tằm, không lời mà cũng không lỗ. Tôi nghĩ nếu trồng dâu, có sẵn
dâu để nuôi tằm thì vừa tiện vừa có lời. Tôi bèn cuốc một công đất ở bên cạnh
nhà, đầu mùa mưa 1946 qua chợ Thủ mua từng bó thân dâu đem về chặt rồi giâm,
cắm. Nhưng thiếu kinh nghiệm: Tân Thạnh ở ngang chợ Thủ, tuy chỉ cách con sông
Tiền Giang mà đất hai nơi rất khác nhau: chợ Thủ là đất bãi, trồng dâu tốt, còn
Tân Thạnh là đất đồng, đất sét, dâu mọc rất chậm, mới cao được vài tấc thì gặp
mùa nước lớn, lá dâu vàng úa lần lần rồi ngọn chìm dưới nước. Thế là bỏ luôn cả việc nuôi tằm.
PHÁP BẮN PHÁ TÂN THẠNH – TÔI MẤT BẢN THẢO
Mùa xuân năm đó, luôn nửa tháng, sáng nào cũng
khoảng 9, 10 giờ là máy bay Pháp lượn trên mấy làng Tân Phú, Tân Thạnh..., sà
xuống tưởng như gần sát ngọn sao, ria liên thanh xuống. Nhiều nhà đào hầm ở
dưới bụi tre để núp. Đàn bà, con nít và các ông già bà già ăn cơm sớm rồi di
tản vào trong đồng từ 8, 9 giờ sáng, 3, 4 giờ chiều mới về. Nhà chúng tôi di
tản qua chợ Thủ, chỉ có tôi và một người nữa ở lại coi nhà. Nhà cài then cửa
trước, cửa sau, hễ máy bay tới thì ra núp ở bụi tre. Có hôm chúng bắn rát quá,
tôi hồi hộp, quặn đau ở bụng. Bệnh loét bao tử của tôi có lẽ phát từ hồi đó.
Trong xóm không có người nào bị thương, nhưng vài nhà bị mấy chục viên đạn vào
nóc, vách.
Máy bay tới bắn phá được ít lâu thì quân Pháp
và “partisan” (lính Việt đánh thuê) tới đóng đồn ở làng Tân Phú và làng Tân
Thạnh, hai đồn cách nhau độ ba cây số. Mỗi đồn có một hạ sĩ quan Pháp và dăm ba
lính Việt. Mới tới chúng hiếp dâm một chị nông dân rồi bắn chết, vất thây xuống
sông. Chúng vào khám xét một số nhà, bắt gà, vịt…
Tới mùa nước lên, cả miền đó như mặt biển,
nước mấp mé tới sàn, đường sá đều ngập hết, đi đâu người ta cũng phải dùng
xuồng. Vậy mà tên Pháp coi đồn cũng chịu khó lội nước theo bờ rạch từ đồn nọ
đến đồn kia để xét giấy tờ của các chủ nhà. Coi vẻ nó uể oải, một nhọc lắm, còn
tên lính Việt đi theo thì như thường. Cuối mùa nước chúng rút đi đâu không
biết, đồn bỏ hoang.
Một đêm, hồi chưa có đồn Pháp, ba bốn tên cầm
đuốc vào nhà bác tôi, đập cửa bảo để xét nhà. Bác tôi không ngờ là cướp, mở
của; chúng trói bác tôi bắt ngồi một chỗ, rồi đi lục một lát, sau thấy chiếc va
li của tôi, chúng xách đi; ngoài ra không lấy gì khác. Trong va li đó chỉ có ít
thước vải, vài cuốn sách và bản thảo. Cũng may tiền tôi không cất trong đó. Tôi
không tiếc vải, chỉ tiếc hai bản thảo về cải tổ giáo dục và về Đồng Tháp Mười.
Chủ ý bọn đó không phải là để cướp nhà bác tôi
mà để bắt cóc một ông Hội đồng, con ông phủ Nghĩa ở Tân Phú, có tiếng là giàu nhất
trong quận. Từ mấy hôm trước ông ta đã bỏ nhà, lại trốn trong nhà bác tôi, suốt
ngày không ra khỏi phòng riêng vậy mà chúng cũng hay được. Đêm đó ông ta ngủ ở
nhà sau, thấy động ở nhà trước, nhanh chân nhảy ngay xuống dưới sàn núp, bọn
cướp không thấy. May cho ông ta mà rủi cho bác tôi - bị thương nhẹ vì chúng
hành hung - và cho tôi. Bản thảo Đồng Tháp Mười trả về cho
Đồng Tháp Mười và chắc chúngdùng để vấn thuốc.
[1] Tôi không biết trước hay sau khi tản cư về làng Tân Thạnh,
gia đình cô Liệp còn tản cư vô làng Vĩnh Trạch, quận Núi Sập (nay là huyện
Thoại Sơn), ở nhà một ông họ Cao, cách chợ Long Xuyên khoảng 12 cây số.
(Goldfish).
[3] Nghĩ vậy cho nên theo Tử vi thì vận năm 1953-1963 của tôi
rất xấu, vậy mà năm 1953 tôi vẫn đổi nghề, không dạy học nữa mà chuyên viết
văn, xuất bản (coi ở sau) và từ đó tôi phát đạt.
Chương XVII
CÁC CUỘC THƯƠNG THUYẾT VIỆT - PHÁP
MỘT NĂM CHỜ ĐỢI: 1946
Như trong chương IX tôi đã nói, năm Tuất trước
(Giáp Tuất 1934) là năm buồn nhất trong tuổi trẻ của tôi: không có việc làm
trong 5 tháng, để cho qua ngày, tôi cặm cụi học chữ Hán. Năm Tuất này (Bính
Tuất 1946) còn buồn gấp mấy năm đó nữa. Cũng thất nghiệp vì tôi đã quyết tâm
còn chiến tranh với Pháp thì không trở về nghề Công chánh, về sở Thủy lợi; và
để cho qua ngày tôi lại cặm cụi học chữ Hán. Nhưng lần trước còn tin chắc sớm
muộn gì cũng được bổ dụng; lần này thì không biết được sẽ làm gì để mưu sinh; vốn
liếng chỉ còn 500 đồng (lỗ mất 200 đồng vào việc trồng dâu rồi), nghề Đông y
thì mới biết sơ sài, chưa đủ để làm thầy; tương lai thật mù mịt. Lần trước nằm
dài ăn báo mẹ thì còn được; lần này năm dài ăn báo hai bác tôi thì thật khó
coi; vì chiến tranh hai bác tôi cũng túng thiếu, chỉ làm được mấy chục công đất
ở sau nhà, số thu hoạch chỉ vừa đủ gạo để ăn.
Lại thêm cảnh gia đình tôi nữa: nhà tôi và
cháu ở nhờ người em gái ở Long Điền, cũng phải tản cư với gia đình cô em. Miền
đó nhiều người Thổ (Miên), chúng nổi dậy, uống rượu say, đi cướp phá, tìm những
chỗ chứa của, gập người Việt nào cũng “cáp duồng” (chặt đầu). Cái nạn Thổ ở Nam
Việt thật tai hại: thời bình chúng ngoan ngoãn, lễ phép, mà thời loạn chúng
thành giặc. Ngay ở Tân Thạnh cũng trong năm 1946, mấy lần có tin đồn Thổ ở Svay
Rieng (Cao Miên) băng qua Đồng Tháp, tính đánh phá, đốt nhà, cướp lúa, cướp
trâu bò ở mấy làng chung quanh chỗ tôi ở, dân chúng phải đề phòng, tổ chức
chống cự.
Những đồ tư trang nhà tôi gởi gia đình cô em
giữ, bị Thổ phát giác chỗ chôn giấu (chúng tưới nước, chỗ nào nước hút mau là
đất mới lấp, đào lên là thấy liền), do đó mất hết.
Mùa xuân năm 1946, nhà tôi phải từ biệt cô em,
dắt cháu lên Sài Gòn, thì nhà ở đường Monceau bị lính thủy Pháp chiếm, đồ đạc
không còn gì. Vậy là hai bàn tay trắng, không có chỗ ở. May gặp được một cô bạn
mở một tiệm may quần áo cho trẻ con Tây ở đường Sabourain (nay là đường Lưu Văn
Lang) gần chợ Bến Thành, lại giúp cô ấy trong việc may cắt, tiếp khách, như vậy
tạm yên chỗ ăn chỗ ở.
Yên chỗ rồi, nhà tôi về thăm tôi ở Tân Thạnh,
cho hay tình hình như vậy, và bảo ở Sài Gòn có phong trào đả đảo người Bắc của
chính phủ Nam Kì quốc do tên thầy tu D'Argenlieu, Cao ủy Pháp dựng lên, thủ
tướng là bác sĩ Nguyễn văn Thinh. Thinh sau tự treo cổ để đền tội với quốc dân.
Như vậy tôi không thể lên Sài Gòn được. Đành chờ một thời gian nữa, và vợ con
một nơi, tôi một nơi.
Thêm một nỗi buồn nữa là em trai tôi một lần
qua chợ Thủ, đắm xuồng, không vớt được thây. Năm đó chú ấy mới 33 tuổi ta, đúng
như số tử vi đã cho biết. Còn yểu hơn cha tôi nữa. Để lại một đứa con gái mới
được mấy tháng.
Anh Tân Phương đã qua chợ Thủ ở với vợ con và
giữa năm cũng lên Sài Gòn. Các người tản cư đã hồi cư hết rồi. Gia đình cô Liệp
cũng đã trở về Long Xuyên. Chỉ còn một mình tôi ở lại Tân Thạnh.
Lâu lâu có ai đi Long Xuyên mới đem về cho một
vài tờ báo mà biết được qua loa tin tức. Tháng nào, tuần nào cũng mong tình
hình sáng sủa. Đầu năm có tin phái đoàn Việt Nam (ở Bắc) qua Pháp dự hội nghị
Fontainebleau, tôi le lói có chút hi vọng; ít tháng sau thất vọng, cuối năm thì
hoàn toàn thất vọng: chiến tranh đã nổ lớn ở Bắc Việt, chính phủ mình đã rút ra
khỏi Hà Nội để trường kì kháng chiến (20-12-1946).
Trước Tết, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui,
làm đôi câu đối này:
------ “Trị
ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu;
------Bần dĩ đạo, phú dĩ
đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch ra như sau:
------Trị yêu sách,
loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
------Nghèo giữ đạo, giàu
giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
Và bác tôi cũng cho tôi câu đối:
------Phú quí mạc cầu, nhất
phiến băng tâm cư loạn;
------Thư hoa chân ái, sổ
thiên văn tự lưu phương.
Cũng ông bạn trên dịch là:
------Phú quí chẳng màng,
giữ tấm băng trinh thời loạn;
------Sách hoa riêng thích,
thơm trang giấy mực đời sau.
Tết này buồn não lòng, chỉ ngâm câu thơ cổ:
------ “Nhất niên tương tận
dạ,
------
------ (Một đêm năm gần
hết,
------Ngàn dặm người chưa
về)
Và luôn cho tới ngày nay, ba mươi lăm cái Tết
nữa rồi, không có cái Tết nào tôi hoàn toàn vui cả: khi đoàn tụ gia đình thì
chiến tranh chưa chấm dứt, khi chiến tranh chấm dứt thì gia đình lại không đoàn
tụ được. Cho nên ngày Tết tôi cũng coi như ngày thường, cũng đóng cửa gần như
không tiếp khách, để viết lách cho tiêu sầu. Nhớ lại, chỉ những Tết hồi còn đi
học là lưu lại nhiều kỉ niệm đẹp nhất. Hai câu thơ cổ dẫn trên, bác Hai tôi đọc
cho tôi nghe một đêm 30 Tết, hồi 8 giờ tối, anh em tôi ở Hà Nội mới về tới nhà,
khiến người lo lắng, tưởng có tai nạn gì.
CHIẾN SỰ 1945-1946
Dưới đây tôi ghi vắn tắt ít tin chiến sự và
biến cố xảy ra ở Việt Nam từ ngày tôi rời Sài Gòn cho tới cuối năm
1946.
Ở Nam (dưới vĩ tuyến 16)
Ngày 5-10-1945, Leclerc một viên tướng giỏi
của Pháp, biết nhận định tình hình, tới Sài Gòn thì Pháp có tất cả 35.000 quân,
được Anh giúp đỡ để cho tái chiếm lại miền Nam.
Trong tháng 10, quân Anh “chiếm” Gia Định,
Biên Hòa, Thủ Dầu Một.
Pháp một mặt tiến lên Tây Ninh, tính diệt lực
lượng Cao Đài; một mặt xuống Long An (Tân An), Mĩ Tho (25-10), Vĩnh Long, Cần
Thơ, rồi Sa Đéc, Long Xuyên (1-1946), Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau; một mặt nữa
cho quân đổ bộ lên Nha Trang rồi tiến vô Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết, cuối
năm 1945 lên tới Ban Mê Thuột, Djiring, Đà Lạt.
Như vậy đầu tháng 2-1946, Leclerc tự cho là
công việc “bình định” ở miền Nam của ông ở miền Nam đã xong, vì chỉ trừ từ đèo
Cả đến Tourane, còn bao nhiêu tỉnh lị, một số lớn quận lị nữa từ đèo Cả tới Cà
Mau và ở miền Tây Nguyên đã bị quân Pháp chiếm đóng và lập lại lần lần các cơ
quan hành chánh.
Nhưng Leclerc sáng suốt hiểu rằng như vậy chỉ
để cứu vãn uy tín của Pháp thôi, và phải thương thuyết ngay với Việt Minh ở
Bắc, chứ 35.000 quân Pháp của ông không thể dẹp nổi kháng chiến Việt Nam.
Sở dĩ ông tiến mau được như vậy vì quân đội
mình dùng chính sách tiêu thổ kháng chiến, rút lui để bảo toàn lực lượng rồi
đánh du kích.
Trần Văn Giàu mới đầu chỉ huy cuộc kháng
chiến, sau bị triệu về Bắc. Tướng Nguyễn Bình từ Bắc vô thay, tổ chức lại quân
đội và vừa phục kích quân Pháp, vừa trừ Việt gian, nhất là bọn hương chức Pháp
đặt lên. Như vậy Pháp chỉ thực sự làm chủ các tỉnh lị và quận lị thôi, không
dám ra khỏi vài cây số, cũng không dám tiến xa quá một hai trăm thước hai bên
đường lộ.
Lần lần, ủy ban kháng chiến cũng lập ủy ban
hành chánh xã, huyện, tỉnh ở thôn quê; và Nam bộ trở lại tình trạng non một thế
kỉ trước, dưới triều Nguyễn, khi quân Pháp mới chiếm xong lục tỉnh: Các làng
xóm ban ngày thuộc về “đàng tân”, ban đêm thuộc về “đàng cựu”; đàng tân bây giờ
là các công chức theo Pháp, đàng cựu là quân kháng chiến; và cũng như thời xưa,
một số đàng tân bây giờ ủng hộ ngầm đàng cựu.
Ở Bắc (trên vĩ tuyến 16)
Ngày 2-9-1945, chính phủ Việt Minh làm lễ
tuyên bố độc lập thì đúng một tuần sau, quân của Lư Hán lục tục tới Hà Nội. Tất
cả là 180.000 người thốc thếch, rách rưới, ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông đi
bộ qua, một số dắt theo cả vợ con, không ra thể thống quân đội của nước hùng
cường thứ năm trên thế giới. Mới tới, Lư Hán đã định hối suất một đồng bạc
Trung Hoa ăn hai đồng Việt Nam, như vậy họ tha hồ mua bất kì món gì họ thích
với một giá rất rẻ.
Họ tới với mục đích là để giải giới quân Nhật,
mà thực sự là để vơ vét. Tội nghiệp cho dân Bắc, vừa mới qua nạn đói chết cả
triệu người thì lại bị cái nạn cướp bóc của mấy trăm ngàn tên lính Trung Hoa
Quốc Dân Đảng này.
Một người Việt Nam như Nguyễn Hải Thần trong
Đồng Minh hội, Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân đảng, theo Lư Hán qua;
nhưng Tưởng Giới Thạch không có ý thực tâm ủng hộ họ, và Lư Hán chỉ muốn dùng
họ để gây khó cho Việt Minh mà thủ lợi riêng. Việt Minh lúc đó thật bối rối,
phải đương đầu với cả Trung Hoa lẫn Pháp, mềm dẻo với cả hai. Họ vội vàng tổ
chức bầu cử Quốc hội ngày 6-1-1946, giải tán đảng Cộng sản, mỏ rộng nội các.
Mĩ có chút cảm tình với chính phủ. Nga không
ủng hộ gì cả. Còn Trung Hoa thì theo Bernard Fall trong cuốn Les deux
Việt Nam (Payot-1967), ngay từ 1944, khi tổng thống Mĩ Rosevelt
muốn tặng cả Đông Dương cho Tưởng, Tưởng biết là khó nuốt nên từ chối. Pháp
hiểu vậy nên điều đình với Tưởng, nhường chút quyền lợi cho Tưởng (khúc đường
xe lửa từ Lào Cai đi Vân Nam, trả lại Quảng Châu Loan, cho được tự do ra vô
cảng Hải Phòng) và đáp lại, Tưởng thừa nhận Pháp có chủ quyền ở Đông Dương.
Chính ông Hồ Chí Minh cũng thích Pháp hơn,
tuyên bố với kí giả Pháp P.M. Dessinges của tờ Résistance: “Chúng
tôi phục nước Pháp và dân tộc Pháp lắm và không muốn cắt đứt những dây cột chặt
hai dân tộc chúng ta... Chúng ta phải khéo thu xếp với nhau. Nhưng xin ông nhớ
cho rằng chúng tôi quyết tâm chiến đấu tới cùng, nếu người ta bắt chúng tôi
phải chiến đấu…” (Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952 -
Philippe Devillers - Editions du Seuil - 1952).
Ủy viên chính trị của Pháp ở Bắc là Sainteny
và tướng Leclerc lúc đó đã ra Bắc, cũng muốn thương thuyết với ông Hồ Chí Minh
hơn là với Nguyễn Hải Thần hay Bảo Đại. Nhờ vậy mà có Hiệp ước 6-3-46 kí giữa
Sainteny và Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh. Hiệp ước đó nhận Việt Nam là
một quốc gia tự do (libre) ở trong Liên hiệp Đông Dương và Liên hiệp Pháp, có
chính quyền, quân đội, tài chính riêng. Sẽ có một cuộc trưng cầu dân ý để xem Nam bộ
sẽ sát nhập vào quốc gia mới đó không.
Hai bên (tướng Salan và tướng Võ Nguyên Giáp)
kí thêm mấy ước khoản nữa: Quân đội Việt được Pháp huấn luyện và giúp khí giới;
sau 5 năm, quân đội Pháp sẽ rút hết.
Ông Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Tôi muốn
nhiều hơn vậy... nhưng tôi cũng hiểu rằng không thể trong một ngày mà có được
tất cả”.
Ngày 18 tháng 3, Leclerc đem quân vô Hà Nội,
cùng với Sainteny lại thăm ngay ông Hồ Chí Minh. Hai
bên rất vui vẻ.
D’ARGENLIEU PHÁ HIỆP ƯỚC 6-3-46 - NAM KÌ QUỐC - HỘI
NGHỊ ĐÀ LẠT
Nhưng trong khi đó thì D'Argenlieu, cao ủy ở
Sài Gòn hủy ngầm hiệp ước đó. D'Argenlieu rất trung thành với De Gaulle, mà De
Gaulle muốn nắm chặt các thuộc địa cũ để cho Pháp còn có vẻ một cường quốc. Lại
thêm bọn thực dân Pháp ở Nam bộ tham lam không muốn nhả quyền lợi ra,
xúi D'Argenlieu phá đám.
Ngày 17-4-46 hai bên Pháp Việt mở một hội nghị
ở Đà Lạt chuẩn bị cho hội nghị quan trọng hơn ở Paris. Ngay từ buổi họp
đầu tiên, đại biểu Việt Nam đòi bàn về vấn đề Nam Bộ. Đại biểu Pháp đáp rằng
không có chỉ thị của cấp trên nên không bàn tới. Sự thực là D'Argenlieu đã có
chủ trương tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam rồi.
Ngày 1-6-1946, khi chiếc phi cơ đưa Hồ Chí
Minh sang Pháp, bay ngang qua không phận Damas, thì ông Hồ Chí Minh bắt được
tin nước Cộng hòa Nam Kì tự trị đã được thành lập ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh làm
thủ tướng, các bộ trưởng hầu hết có quốc tịch Pháp.
Vậy là trước khi họp hội nghị Fontainebleau,
D'Argenlieu đã vi phạm một điều khoản trong hiệp ước ngày 6 tháng 3.
Bọn Thinh dùng tay sai gây phong trào đả đảo
Bắc Kì; nhiều người Bắc ở Sài Gòn bị hành hung, dân chúng cả Bắc lẫn Nam phẫn
uất; tướng Nguyễn Bình phản ứng mạnh, khủng bố dữ bọn Việt gian, không khí Sài
Gòn nghẹt thở.
Ông Hồ Chí Minh bực mình về hành động của
D'Argenlieu, nhưng hi vọng rằng ở Paris, sẽ được đảng Cộng sản, đảng Xã
hội, nhiều chính khách trong các đảng khác nữa giúp đỡ. Không ngờ tới Pháp thì
nội các Pháp đương bị một cuộc khủng hoảng. Ông cùng phái đoàn phải ghé Biarritz,
đợi xong cuộc khủng hoảng rồi mới lên Paris.
Rủi cho Việt Nam, nội các mới (thành lập
ngày 24-6) gồm 3 thành phần: Cộng sản, Xã hội và Phong trào Cộng hòa nhân dân
(M.R.P). Một lãnh tụ của phong trào Cộng hòa nhân dân, Georges Bidault, làm thủ
tướng, mà Bidault rất có ác cảm với ông Hồ Chí Minh, suốt trong chiến tranh
Việt Pháp, lúc làm thủ tướng, lúc làm bộ trưởng ngoại vụ, nhất định không chịu
thương thuyết với ông Hồ Chí Minh, và những người Pháp hiểu dân tộc Việt Nam
như Jean Lacouture, P. Mus, Philippe Devillers cho rằng Bidault với D'Argenlieu
là những người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc làm hỏng cuộc hòa giải Việt
Pháp, kéo dài cuộc chiến tai hại cho cả hai dân tộc, để rốt cuộc đưa tới sự
thất bại tủi nhục của Pháp ở Điện Biên Phủ sau này.
HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU THẤT BẠI
Hội nghị Fontainebleau họp ngày 6-7.
Phía Pháp không có một đại biểu nào vào hàng bộ trưởng. Phái đoàn Việt Nam do
ông Phạm Văn Đồng cầm đầu. Ngay từ buổi đầu, ai cũng thấy ngay rằng chính quyền
Pháp chỉ coi Việt Nam như một nước lệ thuộc ở trong Liên hiệp Đông
Dương, thuộc quyền cao ủy Pháp ở Sài Gòn. Pháp không muốn bàn thêm gì cả mà chỉ
muốn rút lại những nhượng bộ trong Hiệp ước 6-3.
Lại thêm trong khi ở Paris có hội
nghị thì ở Việt Nam D'Argenlieu đem quân chiếm các tỉnh Pleiku, Kontum; rồi lại
họp một hội nghị Đà Lạt nữa, mời đại biểu của tất cả các chính quyền Đông
Dương, trừ chính quyền Việt Minh.
Dĩ nhiên hội nghị Fontainebleau thất
bại. Sau cùng, để khỏi về tay không, gần nửa đêm 14-9, ông Hồ Chí Minh lại tư
dinh bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet, trong đảng Xã hội Pháp mà ông quen
biết từ ba chục năm trước, để kí với Moutet một thỏa hiệp ước (modus vivendi)
“định cách thức giao trả một số công sở cho chính phủ Hồ Chí Minh, chính phủ
này chịu nhận ở lại trong Liên hiệp Pháp (lời Marius Moutet); “các cuộc thương
thuyết sẽ tiếp tục càng sớm càng tốt, trễ nhất vào tháng giêng năm 1947”; trong
khi đó “cả hai chính phủ quyết định chấm dứt những hành động thù nghịch, cùng
các bạo động ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ”.
HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC – VỤ HẢI PHÒNG
Ông Hồ Chí Minh về đường biển, ngày 20 tháng
10 mới tới Hải Phòng. Dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Ông vẫn muốn mềm mỏng, kiên
nhẫn với D'Argenlieu, hi vọng hòa giải được; nhưng hình như trong nội bộ có một
phe “cực tả” tin chắc rằng thế nào cũng phải có cuộc sống mái với Pháp và phải
tăng cường ngay võ bị. Việt Nam Quốc Dân đảng trách ông nhu nhược.
Quân Pháp đã đổ bộ lên Bắc Việt rồi được tăng
viện, lần lần chiếm các công sở, mở rộng khu vực đóng quân... Họ lại lấn quyền
kiểm soát quan thuế, tự ý đặt những cơ quan liên bang mà chẳng hỏi ý kiến mình.
Tới cuối năm 1946, sức họ mạnh rồi, thế nào họ cũng sẽ dùng võ lực để giải
quyết mọi vấn đề. Mà phía mình, tướng Võ Nguyên Giáp cũng thấy nếu để chậm trễ
thì sẽ tới một lúc không sao đuổi được quân Pháp đi, đành để chúng cột tay cột
chân mình thôi.
Ngày 20 tháng 11 xảy ra vụ Hải Phòng. Một
chiếc thuyền Trung Hoa chở khí giới, xăng nhớt vô hải cảng, bị một chiếc tàu
tuần Pháp bắn; quân đội Việt Nam can thiệp. Hai bên bắn qua bắn lại.
Ủy ban hỗn hợp Pháp-Việt bắt ngưng bắn để hai chính phủ thảo luận với nhau về
vấn đề quan thuế, ngoại thương. Tướng Valluy ương ngạnh không chịu, đòi quân
đội ViệtNam phải rút hết ra khỏi Hải Phòng, mình không chịu. Thế là một
chiếc tuần dương hạm Pháp bắn tưới vào một khu người Việt, cháy rụi hết các nhà
1á. “Ít nhất có sáu ngàn người chết” (Paul Mus trong Việt Nam,
sociologie d'une guerre).
Toàn dân phẫn uất, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không
tuyệt vọng, ngày 15-12 đánh một điện tín cho Léon Blum, lãnh tụ đảng Xã hội
Pháp, lúc đó làm thủ tướng, khẩn khoản yêu cầu làm cách nào cho tình hình bớt
căng. Điện tín đó phải do Sài Gòn kiểm duyệt rồi mới chuyển đi. Sài Gòn trì
hoãn không chuyển ngay, mãi tới ngày 26-12 mới tới Paris. Mà đêm 19-12 đã
xảy ra chiến tranh ở Hà Nội rồi.
ĐÊM 19-12-46
Vụ tấn công thình lình đêm 19-12, Võ Nguyên
Giáp đã chuẩn bị trước, chẳng may một tên Pháp lai, Fernand Petit, làm phản
gián cho Pháp, len lỏi vào đoàn Tự vệ của mình, biết trước, 18 giờ lại báo cho
Pháp hay nội đêm đó quân mình sẽ ra tay. Nhờ vậy quân Pháp kịp thời đối phó.
Đúng 20 giờ điện tắt trong khắp thành phố. Quân tự vệ tiến vào khu Pháp ở, giết
khoảng 40 người Pháp và bắt cóc khoảng 200 người khác. Dân Pháp đã được báo
trước, nên chống cự lại dữ dội, không vậy thì còn chết nhiều hơn nữa. Tướng Morlière
phản ứng lại liền, giải vây được cho nhiều nhà, nhiều khu. Hai bên chiến đấu
suốt đêm. Sáng hôm sau, nhiều nơi trong thành phố có vẻ hoang tàn: nhà cháy,
thây người, vật chướng ngại, cây đổ.... ngổn ngang khắp nơi. Cuộc chiến đấu vẫn
tiếp tục. Mãi chiều, quân Pháp mới tiến tới khu dinh thự của chính quyền mình.
Các nhà lãnh đạo của mình đã rút ra khỏi Hà Nội, vô Hà Đông rồi. Tối hôm đó
Pháp kiểm soát được gần trọn khu trung ương thành phố.
Nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục một hai tháng
nữa. Tại khu Việt và Hoa, quân Tự vệ đục tường nhà nọ thông sang nhà kia để
chiến đấu rồi rút lui. Ngõ Phất Lộc của chúng tôi và mấy phố chung quanh: hàng
Mắm, hàng Muối, hàng Mã Mây chống cự được khá lâu nhờ có nhiều ngóc ngách. Quân
Pháp phải chiếm lại từng nhà một, khi chiếm xong thì thành phố chỉ còn là một
cảnh hoang tàn, dân chúng đã di tản gần hết.
Ngay đêm 19-12, tướng Giáp đã ban lệnh tổng
tấn công khắp mặt trận, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân chiến đấu bằng
bất kì khí giới gì có trong tay. Các đồn Pháp ở Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh, Nam Định,
Huế bị tấn công trước hết (2 giờ sáng ngày 20). Ngày 21 thì lệnh được thi hành
khắp nước.
Như vậy là phe diều hâu của Pháp: Bidault,
D'Argenlieu, Pignon... đã thắng phe bồ cầu: Sainteny, Leclerc...; và chiến
tranh du kích dai dẳng, tàn khốc lan khắp cõi Việt Nam. Điều đó Leclerc
ngại nhất vì nó sẽ làm cho sinh lực Pháp tiêu mòn.
Tin Pháp bị Việt tấn công gây xúc động lớn
trong dư luận Pháp cũng như trong Quốc hội. Marius Moutet, bộ trưởng Hải ngoại,
tuyên bố rằng ông sắp qua Đông Dương để rán lập lại những điều kiện của một
chính sách hòa giải mà cả hai bên Pháp, Việt phải thi hành một cách chân thành.
Nhưng báo chí tỏ ra quá khích. Philippe
Devilers trong sách đã dẫn bảo báo chí không biết rõ sự thực - vì suốt thời
gian khủng hoảng không có một phóng viên báo Pháp hay báo ngoại quốc nào ở Bắc
cả - và dân Pháp chỉ được biết những tin do bọn thực dân và diều hâu Sài Gòn
tung ra thôi. Ngay báo của phe tả cũng không biết gì hơn. Và một số người Pháp
hiểu rõ Việt Nam cho rằng báo chí Pháp cũng chịu một phần trách nhiệm
trong cuộc chiến tranh đó.
Mới tới Sài Gòn, Moutet vẫn còn giữ ý kiến hòa
giải. Ngày 1-1-1947, ông Hồ Chí Minh gởi lời chúc mừng năm mới chính phủ Pháp,
dân tộc Pháp, và cả Marius Moutet mà ông mong được gặp gỡ ở Hà Nội. Ông lại gởi
một thư riêng cho Moutet, đưa đề nghị ngưng chiến. Thư đó không tới tay Moutet.
Về sau khi thăm thành phố Hà Nội tan hoang rồi, Moutet đổi ý, không muốn gặp Hồ
Chí Minh nữa. Có sách nói ông ta được lệnh ở Paris không thương
thuyết.
Thế là Hồ Chí Minh hết hi vọng ở đảng Xã hội
Pháp và cả ở đảng Cộng sản nữa, vì có tin nói rằng đảng này cũng dè dặt chưa
lên tiếng. Và chiến tranh phải tiếp tục non tám
năm nữa.
Chương XVIII
TÔI QUA LONG XUYÊN
HUỲNH PHÚ SỔ BỊ THỦ
TIÊU
Mùa xuân năm 1947 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ đồ bà
ba đen và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về
làm một tễ thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Liệp.
Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả
miền quê hương thầy Tư Hòa Hảo từ phía trên Chợ Mới xuống tới phía dưới Mĩ
Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hòa Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì
có tin thầy Tư bị thủ tiêu trong buổi họp đêm 16-4-47 ở địa phận làng Tân Phú,
cách nhà bác tôi độ vài cây số. Huỳnh Phú Sổ quá tín, chỉ dắt theo bốn vệ sĩ
nên bị hại. Tôi đã hỏi vài người bạn trong nhóm đồ đệ thân tín của thầy, họ bảo
tất cả tín đồ đều tin rằng thầy khỏng thể chết được, thầy chỉ tạm lánh mặt
trong một thời gian thôi rồi sẽ trở về. Họ dẫn vài câu thơ của thầy nói trước
về vụ đó nữa. Tới nay họ vẫn còn nói như vậy. Họ cố bám vào một hi vọng hão
huyền chăng?
Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại Long
Xuyên vài tháng cho yên vụ đó đã, không dè tới trên sáu năm.
TÌNH HÌNH LONG XUYÊN
Những người ở thị xã Long Xuyên đã hồi cư về gần đủ, lại thêm có
người ở nơi khác tản cư về đây, cho nên thị xã có vẻ phồn thịnh hơn trước. Một
vài cơ quan chưa xây cất lại, nhưng nhà thường dân thì đã sửa sang. Đường phố
đông đúc, nhất là ở bến tàu và chợ. Chưa có xe đò chạy Sài Gòn, vì đường chưa
được yên, nhưng có tàu thủy, mỗi tuần vài chuyến, chuyến nào cũng đông hành
khách và chở nhiều hàng hóa. Đặc biệt nhất là chợ có nhiều sạp vải, sạp nào
cũng đắt hàng vì trong sáu, bảy năm chiến tranh dân thiếu vải nhất. Sữa, đường
cũng nhiều. Mới chỉ có một tiệm thuốc Tây, nhưng thuốc Bắc thì có tới bốn năm
tiệm.
Ít thấy Tây đi ở ngoài đường. Hầu hết các sở làm đều do người
Việt điều khiển. Công chức đàn ông mặc đồ tây đi làm, còn đàn bà - ngay cả các
cô giáo - cũng còn bận bà ba tới sở, tới trường. Không khí tương đối yên ổn.
Lâu lâu mới có một lựu đạn nổ, phần nhiều là ở bên chợ vào ban đêm. Tối, nhà
nào cũng đóng cửa sớm.
Xét chung, thì công chức hồi cư trở lại làm việc có vẻ hơi
ngượng khi gặp những người như tôi bận bà ba, lết đôi guốc trên lề đường. Họ
cũng rất muốn nước nhà độc lập, cũng muốn người Pháp về hết, nhưng chiến tranh
kéo dài quá, họ không thể sống cực khổ trong đồng, trong bưng được, nên phải
hồi cư. Về rồi, họ được truy lãnh những tháng lương từ khi họ tản cư, lại được
làm việc với ông chủ Việt, đời sống như vậy rất dễ chịu, mà công việc lại chẳng
có gì. Hầu hết nhà nào cũng có người thân còn đi kháng chiến, có người còn hoạt
động kín trong châu thành nữa.
Ngay trong nhà tôi ở, cũng có hai thanh niên đều là cháu mà như
con nuôi của cô Liệp theo kháng chiến, một đi bộ đội, một nằm vùng ở châu
thành. Lại thêm một cháu xa làm liên lạc viên, tới xin ở nhờ. Một nữ sinh cũ
cũng nằm vùng, lâu lâu tới cho tin tức hoặc quyên tiền.
Tôi đoán các nhà láng giềng nếu không biết rõ như vậy thì cũng
nghi ngờ. Công an tỉnh cũng có thể biết nữa nhưng không làm gì lộ liễu quá thì
họ để yên. Còn các công chức Việt quan trọng, chủ một sở chẳng hạn, thì nhắm
mắt cho nhân viên giúp đỡ kháng chiến, miễn đừng để lụy cho họ thì thôi. Những
nhân viên đó là cháu họ, con của bạn bè họ, hoặc hàng xóm của họ, mặt mũi nào
mà tố cáo; vả lại tố cáo chỉ gây vạ cho bản thân họ thôi. Có thể nói, chỉ trừ
một số rất ít Việt gian, còn tối đại đa số người Nam đều có cảm tình
với kháng chiến, một số lớn còn giúp đỡ nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp
cho kháng chiến nữa. Cho nên năm 1975, sau ngày 30-4, tôi nói với các bà con và
bạn bè ở Hà Nội vào: “Đừng nghĩ lầm rằng đa số người Nam là ngụy!
Ngược lại, chỉ có một số rất ít ngụy thì họ đã trốn đi ngoại quốc gần hết rồi;
còn lại toàn là những người yêu nước, ghét Pháp, ghét Mĩ. Nếu lực lượng kháng
chiến không được dân chúng ở đây ủng hộ thì không làm sao thành công, không sao
sống được. Ngoài đó, các anh bảo bộ đội sống trong dân chúng như cá trong nước,
như vậy là nhận rằng dân trong này đã nuôi nấng, che chở bộ đội. Nay bảo dân
trong này là ngụy thì có phải là mâu thuẫn, vong ân không? Không một gia đình
nào trong này không có anh em, con cháu theo kháng chiến, hoặc ủng hộ kháng
chiến”.
Ở Long Xuyên, tôi gặp ba người bạn cũ. Anh Hách, người cũng vào
Sài Gòn với tôi để nhận việc ở sở Thủy lợi như tôi, anh cũng thôi việc công
chính, không trở lại sở cũ, có một cái sạp bán vải ở chợ Long Xuyên. Người thứ
nhì là một thầy họa đồ, trước giúp việc tôi ở sở Thủy lợi, tản cư về Lấp Vò rồi
qua Long Xuyên mở một quán cóc bán tạp hóa, cũng bỏ luôn nghề cũ. Người thứ ba
là ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã gặp ở Mĩ Tho trên đường tản cư về Tân Thạnh.
Ông lúc này làm chủ quận châu thành Long Xuyên. Thời Nhật, ông làm thư kí riêng
của Toàn quyền Decoux; nhờ thông minh, lanh lợi, thạo việc, biết nhiều nhân vật
ở Nam, giải quyết việc gì cũng mau mà lại liêm khiết, nên chính quyền nào cũng
dùng ông. Tính giản dị, bình dân.
Tôi lại biết thêm được vài ông nữa: ông Paulus Hiếu chủ sở Kho
bạc, ông Nguyễn Văn Hiếu chủ sở Địa chánh, một bác sĩ, một dược sĩ chủ nhà
thuốc Tây, một điền chủ có Tú tài Pháp, một ông có cử nhân luật, tên là Kính,
bạn cột chèo của anh Hách. Giới trí thức ở Long Xuyên đại khái có bấy nhiêu người.
TÔI DẠY TƯ TẠI NHÀ
Mới đầu tôi có ý định làm thử nghề Đông y, bắt mạch ra toa cho
mấy người quen, làm vài tễ thuốc. Nhưng sau tôi thấy nghề đó khó sống nên thôi.
Mà muốn làm thầy lang thì phải có chân trong hội Đông y sĩ, phải
làm đơn xin hành nghề “médicastre” nghĩa là nghề “lang băm”, gởi cho chủ tỉnh.
Việc đó tôi cũng không thể làm được.
Lí do nữa: tôi tự xét chưa đủ kinh nghiệm làm một thầy lang kha
khá.
Một hôm, ông Thơ thấy tôi ở không và không muốn trở về nghề công
chánh, nhờ tôi kèm Pháp văn và Toán cho một đứa con trai của ông học lớp Nhất.
Sau ông giới thiệu thêm một đứa cháu nữa. Từ đó hai ba ông Trưởng ti nữa dắt
con lại nhờ dạy; từ hai trò lần lần đến tám trò, mỗi ngày dạy hai giờ, mỗi
tháng được khoảng 1.000 đồng.
Vì ít học sinh nên tôi dạy kĩ, tùy theo tư chất của mỗi trẻ, nếu
thông minh thì tôi thúc, bắt học nhiều, kém thông minh thì chỉ bắt buộc nhớ
những điều cần thiết thôi. Cha mẹ học sinh thấy tôi siêng mà dạy rõ ràng, trẻ
dễ hiểu, mau tấn tới nên càng tín cậy. Chỉ trong ba tháng tôi luyện Pháp văn và
Toán cho hai đứa thi vào trường Trung học Cần Thơ, cả hai đều đậu.
Tôi nổi tiếng dạy giỏi và đầu niên học sau số học sinh xin học
rất đông, tôi chỉ nhận hai chục em thôi, và mở thêm một lớp buổi chiều riêng
cho chúng.
Tuổi trung bình của chúng là 14, 15. Đa số siêng, nhất là con
gái; con trai ít cẩn thận. Cứ khoảng mười đứa có một đứa thông minh, sau có thể
lên đại học được. Mà những đứa đó thường ở trong những gia đình trung lưu, cha
làm thầy giáo, thầy kí. Em nào cũng lễ phép, dễ bảo, hồn nhiên, dễ thương.
Một hôm ông Thơ bảo đi ngang qua chợ, thấy một người chừng 30
tuổi bận đồ tây rách, ngồi ở lề đường, trước mặt để một miếng bìa với mấy hàng
chữ tự xưng là con một đốc phủ sứ vì gia đình sa sút, nên xin những người hảo
tâm giúp cho một vài đồng. Rồi ông tâm sự với tôi: “Tôi ngại làm cái nghề của
tôi thất đức - lúc đó ông cũng là Đốc phủ sứ rồi. Con tôi, tôi chưa thấy đứa
nào học được”.
Tuy ông làm chủ quận, sau làm tỉnh trưởng Long Xuyên mà đứa con
ông học tôi, phải đi bộ, có hôm đi chân không, vừa đi vừa cạp một trái bắp nấu.
Về điểm đó, tôi khen ông. Con trai tôi ở Sài Gòn, hồi đó, nghỉ hè về ở với tôi,
tôi cũng cho sống như vậy.
HỌC HÀM THỤ
Có dư tiền tôi gởi mua sách ở Pháp: vài
cuốn dạy tiếng Anh, bộ đĩa Linguaphone, một số sách Anh, Pháp về Culture
humaine, và khá nhiều sách về văn học, giáo dục, tâm lý, khoa học, xã hội học…
Sau mấy năm thiếu sách, lúc này tôi gặp sách nào cũng muốn
mua. Tôi lựa những cuốn sách giới thiệu trong hai cuốn: Quels
livres faut-il avoir lus? của A. Souché,La Bibliothèque de
l’Honnêtre homme của một nhóm học giả ở Bỉ…
Mới đầu đọc lung tung rồi sau
thấy vấn đề nào thích thì tôi mua thêm. Lần lần tôi hướng về giáo dục, về ngữ
học, lịch
sử văn học Trung Hoa, tiểu sử danh nhân, loại
tự luyện đức trí (Culture humaine) môn tổ chức.
Nhân đọc một cuốn sách Pháp, tôi được biết
năm 1926 người ta lập ở Paris một Uỷ hộiquốc tế để nghiên cứu sự
tổ chức công việc theo khoa học. Mỗi nước lập một Uỷ hội quốc
gia nữa. Ở Pháp, Uỷ hội đó là Comité national de
l’Organisation Française. Hội mở một trường dạy môn tổ chức
công việc, lấy tên là École d’Organisation scientifique du travail, có lớp hàm
thụ cho những người ở xa Paris.
Học phí khá cao. Tôi rủ anh Hách hùn tiền
ghi tên học. Tôi yêu cầu trường gởi một lần hết các bài giảng và bài tập cho
tôi. Mục đích của chúng tôi là học cho biết chứ không cần được bằng cấp của
trường, vì
muốn được bằng thì phải làm một luận án (mémoire) và qua Paris tự biện hộ (défendre: có người
dịch là bảo vệ) cho chủ trương của mình trước mặt các giám
khảo của trường. Như vậy bằng cấp được chính phủ Pháp công nhận, rất có giá
trị.
Tôi học môn đó rất kĩ,
mỗi bài dài chừng mươi, mười lăm trang lớn (khổ 21x31)
chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một tập vở
riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về hai ba đề
tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp, có
nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết khoá.
Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi, vì
có bài muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được.
Tôi lại gởi mua những sách mà trường giới
thiệu để nghiên cứu thêm.
Năm 1948 gia đình bác tôi ở Tân Thạnh tản cư qua Long Xuyên, ở
nhờ nhà một người quen bên chợ. Như một chương trên tôi đã nói, quân đội Pháp
đã rút đi từ 1946, bỏ các đồn ở Tân Thạnh và Tân Phú. Nhưng Ủy ban nhân dân
miền Nam, theo đúng chiến lược tiêu thổ kháng chiến, ra lệnh cho dân chúng
phải dỡ nhà, rút sâu vào trong đồng, nhà nào không dỡ được thì phải phá hủy.
Thế là bao nhiêu nhà gạch của các điền chủ lớn bị san phẳng hết. Bác tôi phải
dỡ nhà, vào trong đồng cất tạm một cái chòi để ở. Vì loạn lạc, ruộng chỉ làm
được ít công; vì tuổi già, không chịu được mọi sự thiếu thốn ở trong, bác tôi
xin Ủy ban nhân dân xã cho qua Long Xuyên làm thuốc. Vì ở Long Xuyên có nhiều
người biết tiếng từ lâu, nên “thân chủ” - bệnh nhân - tới mỗi ngày cũng được
trung bình ba người. Trước kia chỉ trị bệnh làm phúc, nay đành phải nhận tiền
coi mạch, nhưng để tùy ý ai đưa bao nhiêu thì đưa. Như vậy gia đình gồm bốn
người, sống tằn tiện thì cũng đủ.
Cũng vào khoảng đó hay năm sau, nhà tôi thôi không làm ở tiệm
may đường Sabourain nữa mà dạy học giúp cho một cô bạn có một trường tư nhỏ ở
khu Bàn Cờ. Chỗ ở rất chật, phải kê bàn học sát nhau để nằm. Cháu đã vào trường
Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quí Đôn), nhà tôi vừa dạy học vừa kèm
cho nó.
Năm 1949 một viên kĩ sư người Việt đồng sự với tôi ở sở Thủy lợi
trước kia, bấy giờ coi cả khu Công chánh miền Tây gồm 5, 6 tỉnh, ba lần mời tôi
trở lại sở Công chánh, tôi đều từ chối.
DẠY TẠI TRƯỜNG THOẠI
NGỌC HẦU
Tháng 11 năm sau, ông Thơ đã làm tỉnh trưởng Long Xuyên, và đã
mở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu ở thị xã, hai lần khẩn khoản mời tôi dạy
thay ông Kính phải trở về bộ Tư pháp. Giữa niên học, không dễ gì kiếm được
người thay, nên tôi vì tình bạn với cả hai ông ấy, nhận lời giúp với điều kiện
là cuối niên khóa nếu tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi[1].
Tôi dạy Pháp văn, Việt văn,
Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở nhiều lớp từ năm thứ Tư
xuống tới năm thứ Nhì (bây giờ tương đương với 9, lớp 7).
Tôi soạn bài kĩ,
giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài tập, công bằng, thẳng thắn, dù con bạn thân mà làm
biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng
nặng lời. Mới đầu có vài phụ huynh phàn nàn với ông tỉnh trưởng Thơ về điều đó,
ông Thơ không nói gì với tôi cả, nhưng rồi cũng tới tai tôi, tôi nổi giận, một
hôm ở giữa lớp học, tôi bảo các học sinh:
“Các cháu về nói với ba má các cháu rằng tôi không hề xin vô làm
giáo sư trường này đâu. Ông tỉnh tưởng khẩn khoản nhờ tôi hai ba lần tôi mới
nhận lời dạy giúp với điều kiện là lúc nào tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi.
Tôi quen sống thanh bạch rồi, ăn cơm rau quen rồi, không cần bơ sữa như kẻ khác
đâu. Trò nào không muốn học tôi thì cứ đi ra khỏi lớp”.
Tôi ghét bọn con nhà giàu, sang mà làm biếng; rất yêu những
thanh niên nghèo mà thông minh, siêng học. Tôi thường giúp đỡ hạng sau, hoặc
cho tiền, cho sách; nghỉ hè tôi lại nhà họ chơi, dắt họ đi chơi.
Nhưng tôi có tật nóng tính, hễ giận thì la lớn nên học sinh sợ
tôi, kính tôi chứ ít mến tôi. Năm nào tôi cũng đề nghị với hiệu trưởng cho mỗi
lớp năm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có lẽ
vì không muốn làm mất lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy
trái với qui tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không hiểu
thì đã mất thì giờ mà lại chán. Nhưng đa số phụ huynh học sinh hồi đó không cần
con thi đậu, chỉ cần trong học bạ được ghi là học tới năm thứ Tư thôi; cho nên
mỗi lớp năm Thứ tư Cao đẳng tiểu học Pháp Việt (chương trình Hoàng Xuân Hãn gọi
là lớp Tứ niên, chương trình thời ông Diệm gọi là Đệ Tứ, cuối năm này học sinh
thi lấy bằng Thành chung, sau gọi là bằng Trung học đệ nhất cấp, học hai năm
nữa thi Tú Tài I) có đến bốn năm học sinh không viết được câu đúng văn phạm Pháp.
Tôi cho rằng trong nghề dạy học, tư cách ông thầy quan trọng
nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời giảng phải sáng sủa, có mạch
lạc, muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài phải kĩ.
Khi tôi rời Long Xuyên, tôi chắc có nhiều người không ưa tôi,
nhưng không ai không trọng tư cách của tôi; và bây giờ các học sinh cũ của tôi
- nhiều người theo kháng chiến, rồi làm cán bộ ở tỉnh - đối với tôi vẫn lễ
phép, xưng con với tôi như hồi còn đi học, gặp tôi thường nhắc lại những câu
tôi khuyên hồi còn ở trường.
Một người bảo đã lấy lời khuyên này của tôi làm chăm ngôn: “Về
vật chất nên sống dưới mức trung, về bản tính thần nên trên mực trung”.
Một người khác bảo nhờ tôi khuyên “Bất cứ việc gì ở đời, làm hết
sức mình đi rồi mặc cho hoá công định đoạt, đừng có tham vọng cướp quyền của
hoá công”, mà vượt được nhiều nỗi khó khăn trong đời sống hàng ngày.
Bài giảng của tôi ngày nay chắc họ quên hết, nhưng những lời
khuyên như trên, có thể nhiều người còn nhớ. Dạy ba năm ở Thoại Ngọc Hầu, mà
non ba chục năm sau, bây giờ về Long Xuyên còn gặp được năm sáu trò cũ coi tôi
như cha, có trò thân mật như người trong nhà; điều đó làm cho tuổi già của tôi
được vui. Vợ sau của tôi dạy học ở Long Xuyên trên 35 năm, còn được nhiều cảm
tình của học trò cũ hơn tôi. Mấy năm trước, cứ tới sinh nhật của nhà tôi, họ
họp nhau chừng mươi người lại chúc thọ, đem thức ăn tới nấu nướng rồi già trẻ
cùng ăn với nhau. Có vài người - đều là cô giáo - còn thân mật tới nỗi, ngày
giỗ của bà nhạc tôi, cũng đến cúng như con cháu trong nhà vậy.
Cả vợ lẫn chồng được như vậy, tôi cho là một hạnh phúc lớn; từ
xưa tới nay rất ít gia đình có được. Long Xuyên đúng là quê hương thứ hai của
tôi, mà bây giờ tôi quyến luyến với nó hơn quê hương thứ nhất nhiều.
Trong giới phụ huynh học sinh ở Long Xuyên, tôi cũng được nhiều
người kính nể. Một vị nói với một độc giả của tôi ở Phan thiết như sau: “Ông ấy
- tức tôi - săn sóc sự học con em một cách công bằng, thận trọng, biết thích
nghi với trẻ, đối với học sinh luôn luôn có thái độ ân cần, rộng rãi, hết lòng hướng
dẫn chúng, sửa chữa chúng, giúp chúng thành những người biết tự trọng và trọng
người”.
Lời khen đó, tôi không dám nhận hết.
NẾP SỐNG CỦA TÔI – CHỮ
NHÀN VÀ ĐIỆU HÁT NÓI – CẢNH MIỀN TÂY
Trong những năm 1949-1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa học vừa
dạy học lại vừa viết sách. Hễ miệng thôi giảng thì tay cầm cuốn sách lên, đặt
cuốn sách xuống thì lại cầm cây bút lên. Hấp tấp tới trường rồi hấp tấp về nhà.
Mỗi tuần tôi chỉ nghỉ buổi chiều chủ nhật để qua khu chợ (cách nhà tôi khoảng 1
cây số), thăm bác tôi và một hai người bạn. Có người thấy vậy chê tôi: “Đi chơi
mà cũng phải có ngày giờ nữa”. Tôi đáp: “Hồi đi học, chúng ta làm gì cũng có
giờ, thì bây giờ ra đời, tại sao lại không giữ được thói quen đó. Tôi muốn làm
một thư sinh suốt đời mà”. Bây giờ bảy chục tuổi tôi vẫn còn là một thư sinh,
vẫn làm việc đều đều có giờ như xưa, và tôi cho đời thư sinh của tôi ba chục
năm nay hoàn toàn tự do và độc lập, phong lưu nữa, thú gấp trăm đời những chính
khách được hằng vạn người hoan hô nhiệt liệt năm trước mà năm sau đã bị đả đảo
cũng nhiệt liệt, may thì trốn thoát ra nước ngoài, không may thì bị băm vằm
không toàn thây. Tôi không muốn lên voi xuống chó, chỉ muốn đều đều ở mực
trung. Tôi không muốn được thiên hạ hoan nghênh, chỉ muốn được một số bạn thân
hiểu tôi, được một số học sinh quí mến, và một số độc giả trung thành, không
thất vọng về tôi.
Trong gia đình, tôi muốn vợ con hiền lương, con học được và
thích đọc sách chứ không ham sang giàu. Nhà ở tôi không muốn sang trọng, lộng
lẫy, ít đồ đạc thôi nhưng nhiều sách. Chỗ làm việc phải rộng rãi, sáng sủa và
trông ra một khu vườn có lá có hoa. Hoa thì tôi muốn loại dễ trồng mà có hương
thơm, có bóng mát để chim chóc, ong bướm tới. Tôi ngại nhất loài hoa bắt người
ta phải hầu hạ như hải đường, phong lan. Quần áo tôi muốn giản dị, dễ thay dễ
giặt. Đi đâu mà phải bỏ ra mười lăm, hai mươi phút để thay quần áo, thắt cà
vạt, xỏ giầy, tôi thấy bực mình. Ở xứ nóng như nước mình, bận bộ bà ba là tiện
nhất, ra đường khoác thêm chiếc áo dài thì càng nhã, không cũng không sao, rồi
xỏ chân vào đôi dép cao su, trước sau không mất quá một phút. Như tôi đã nói ở
chương V, chỗ ở thì tôi muốn nửa quê, nửa tỉnh; công việc thì tôi muốn nửa viết
lách, nửa làm vườn.
Nhàn là mục đích lí tưởng của nhân loại ở thời đại nông nghiệp.
Văn minh Trung Hoa đã đề cao sự nhàn, tạo được những triết nhân, nghệ sĩ biết
hưởng nhàn, ca tụng cái nhàn như Đào Uyên Minh, Tô Đông Pha…
Tôi thích bài Qui khứ lai từ của Đào Tiềm:
….”…Thăm vườn dạo thú hôm mai,
….Cửa dù có, vẫn then cài như không.
….Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
….Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên.
….Mây đùn mấy đám tự nhiên,
….Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
….Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
….Quanh gốc tùng, tựa mát thảnh thơi.
….…
….Giàu sang đã chẳng thiết gì,
….Cung tiên chưa dễ hẹn gì lên chơi.
….Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
….Việc điền viên vất vả mà vui.
….Lên cao hát một tiếng dài,
….Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu…”.
……………………………(Từ Long dịch)
Tôi thích bài Tiền Xích Bích phú của Tô Đông
Pha, nhất là đoạn cuối:
“... Tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất cũng chỉ ở
trong một cái chớp mắt; tự ở nơi không biến đổi mà xem ra thì muôn vật cùng với
ta đều không bao giờ hết cả... Vả lại ở trong trời đất, vật nào có chủ ấy, nếu
không phải là của ta thì dẫu một li ta cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió mát ở
trên sông cùng vầng trăng sáng ở trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông
nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, đó là cái kho vô tận của tạo
hóa mà là cái vui chung của bác với tôi”.
Trong văn học phương Tây tôi chưa gặp được bài nào vừa tao nhã
vừa du dương như hai bài đó, nhưng phải đọc trong nguyên văn chữ Hán[2] mới
thưởng được hết cái thú của nó.
Trong Việt văn, bài Hát nói Chữ nhàn của Bùi Kỉ
có giọng ung dung, phơi phới nhất:
----Tìm yên hoa gỡ mối giang san,
----Dù ái ưu cũng có khi nhàn,
----Thì tiêu khiển trong cuộc rượu cung đàn chơi cũng nhã.
----Hãy gác vinh nhục thị phi cùng cổ kim nhân ngã,
----Trộm cái “nhàn” trong túi kiền khôn,
----Dăm bảy vốc con con thôi cũng đủ.
----Thử tung ra cho nó: chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn
như mây, bay lững thững như trăng, thổi thênh thênh như gió.
----Rải rác ra ngoài bát hoang trong lục vũ[7] vẫn còn thừa.
----Cái nhàn đã lạ lùng chưa?
-----------------(Nam Phong số 123, tháng 11, 1927)
Thể Hát nói là một biến thể của thể song thất lục bát, hoàn toàn
Việt Nam. Nó không ngắn, không dài, gồm mười một câu, hoặc thêm bốn câu
Mưỡu nữa là mười lăm câu, theo tôi rất vừa vặn (thể Sonnet của Pháp cũng vậy,
có 14 câu); nó có qui luật, nhưng không chặt chẽ, tương đối tự do, nên rất hợp
để diễn những tư tưởng phóng khoáng, có thể hùng hồn, có thể nhàn nhã, hùng và
nhàn là hai hình thức của phóng khoáng. Vì vậy tôi thích thể đó. Nó xuất hiện
rất trễ, vào đời Nguyễn, chỉ thịnh được khoảng 60 năm rồi suy lần, tới nay gần
như tắt hẳn. Thật đáng tiếc!
Tôi chưa bao giờ được hưởng cái thú “đập trống”, nhưng được nghe
ca được ít bài hát nói từ hồi thanh niên và lần đầu tôi đã thích liền. Giọng
ca, đệm tiếng đàn đáy thưa thớt như uể oải, có vẻ ung dung lạ lùng, kéo dài ra,
có chỗ ngưng lại khá lâu, bắt mình lắng tai đợi câu tiếp; có chỗ dồn dập một
chút, đúng là “chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như mây”, rồi lại ung dung
tiếp tục.
Tôi nghĩ muốn thưởng thức hết cái thú của nhàn thì phải nghe
điệu Hát nói, mà nghe trên một bờ liễu hoặc giữa một lòng rạch dưới ánh trăng,
khi gió vi vu trên cành sao mà làng xóm bên bờ đã tắt đèn.
Có đào nương nào ca lên bài Chữ nhàn để tôi
thâu băng, rồi những đêm khuya nằm trong chiếc võng dưới mái hiên, bên một dòng
rạch nhỏ dưới vài gốc mận và xoài đương hoa, cho băng chạy nhè nhẹ đủ nghe thôi
thì thú quá.
Bùi Kỉ đã vịnh chữ “Nhàn” rồi lại còn đề cao chữ “Lao”, “Hùng”.
Tôi xin chép lại cả bài “Chữ Lao” dưới đây để ghi lại tâm trạng cụ:
----”Phàm vật hữu hình giai hữu hoại,
----Vỏ kiền khôn trút lại mấy từng tro.
----Tội gì mà lo tính quanh co,
----Thừa hơi sức để bày trò thân nhọc?
----Song đã là người, dù lớn nhỏ cũng linh kỳ chung dục[8].
----Chẳng có lẽ si si ngốc ngốc, chịu hồ đồ tranh trọc với cừ lư[9]
----Kìa thử xem kiến cõng mồi, chim nhặt rác, ong ủ mật, nhện xe
tơ
----Vật còn thế, nỡ người ngu hơn vật?
----Nợ vũ trụ chồng chồng chất chất,
----Trốn làm sao, toan lẩn quất cho rồi.
----Đã xuất thân ngang dọc với đời,
----Quản chi nước mắt mồ hôi, bỏ cái tiếng nâng trời là hả.
----Nên chăng thì cưỡi gió đè mây, nắm nhật nguyệt vào trong
chương bả[10].
----Chẳng nên thì vỡ bờ, sạt bến, cát dã tràng tơi tả tử tiếc gì
công.
----Dẫu sao cũng nhất thế hùng!
--------------------- (Nam Phong số đã dẫn
trên)
Tôi đã nhiều lần nói tới sự bận rộn của đời sống từ khi văn minh
cơ giới thay văn minh nông nghiệp. Lần đầu trong bài Tựa cuốn Tố chức
gia đình (P. Văn Tươi - 1953) về sự bận rộn của đời sống của con
người.
“Văn minh cơ giới tặng cho mỗi người chúng ta 100 tên nô lệ (máy
móc) mà chúng ta cực hơn cổ nhân vì chúng ta thành nô lệ của cơ giới, nhiều nhà
bác học lo cho nhân loại sẽ bị diệt chủng vì cơ giới. Người ta tranh giành nhau
tài nguyên, thị trường, dùng những khí giới mỗi ngày mỗi thêm khủng khiếp, tàn
nhẫn để diệt nhau và bọn muỗi mắt như chúng ta sẽ bị hi sinh trước hết. Thật là
văn minh, thì loài người không đề cao chữ “hùng”.
Tôi rất thích nhàn mà từ 1949 đến nay trên ba chục năm rồi,
không năm nào được hưởng nhàn. Trong cuộc đời đã qua của tôi, nhớ lại chỉ có
hai năm thật nhàn, thân nhàn mà tâm cũng nhàn, tức hai năm tôi lênh đênh trên
những kinh rạch, tha hồ ngắm cảnh miền Tây: cảnh mặt trời mọc trên bờ biển Rạch
Giá sau tấm màn lưa thưa của rặng bần mà có người ví với màn liễu – không đúng
hẳn nhưng đẹp thì không kém; cảnh mặt trời đỏ như một mâm than hồng từ từ lận
trên cánh đồng Sóc Trăng bát ngát; cảnh trăng cô liêu, lạnh lẽo, tĩnh mịch trên
sông Cửu Long, hoặc nhảy múa trên những làn sóng ở rạch Bình Thủy; cảnh một đầm
sen giữa Đồng Tháp Mười, chung quanh toàn là lau sậy; cảnh những rừng chàm đìu
hiu ở miền U Minh, những rừng đước âm u ở Cà Mau. Rồi những vườn soài bông vàng
phủ kín, hương hăng hắc mà mát, trái đong đưa trên cành, đi ngang qua tôi chỉ
muốn đưa tay lên vuốt những má no tròn, mịn màng, ửng đỏ rủ xuống ở trên đầu
tôi. Rồi những rặng bằng lăng dài hàng cây số, bông tựa như bích đào, cánh nhẹ
hơn lụa lả tả bay trong gió và trôi theo dòng nước trong veo; những rặng dừa
vừa yểu điệu vừa mạnh mẽ như thôn nữ miền Nam (Tây), tàu lá phe phẩy, lóng lánh
dưới ánh vàng ban mai, thật lộng lẫy, tình tứ, “voluptueux” như Somerset
Maugham nói. Buồng dừa nào cũng chi chít, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy mát và
ngọt. Dừa đáng tượng trưng cho thiếu nữ đồng bằng Cửu Long. Còn thiếu nữa đồng
bằng Nhị Hà có cây gì tượng trưng được không? Tôi không thấy. Vì vậy mà tôi yêu
dừa. Nhưng dừa muốn thật đẹp thì phải ở bên một dòng nước, ở chỗ quang đãng đủ
cho năm sáu cây phát triển, xoè tàn ra bốn bên, và thân cao khoảng 6-7 thước.
Câu “Trúc nên thưa, dừa nên cao” thật đúng, nó vươn được lên nền
trời xanh mây trắng. Mọc chen chúc nhau như có lần tôi thấy ở Nha Trang thì nó
làm sao phô hết duyên dáng được.
VIẾT SÁCH ĐỂ TỰ HỌC
Tôi đã lạc đề xa quá. Tôi nhắc lại: trong năm năm từ 1949 đến
1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa dạy học, vừa học, vừa viết sách, không có thì
giờ để hưởng nhàn. Dạy học thì mỗi tuần 16 hay 18 giờ thôi, không bận gì mấy.
Học mới tốn thì giờ hơn. Tôi học môn tổ chức, học tiếng Anh, lại học thêm về
văn học Trung Hoa nữa, nhờ có mấy bộ văn học sử mua được. Ngoài ra còn học các
lớp hàm thụ: Cours d'édition et de librairie; Cours de technique littéraire;
Institute Pelman. Những bài hàm thụ đều giúp cho tôi tài liệu để sau viết sách:Nghề
viết văn, Hương sắc trong vườn văn, nhiều cuốn loại Học làm người.
Như trong chương XIII tôi đã nói muốn học một
ngoại ngữ thì phải dịch. Tôi muốn học thêmvề một môn
nào thì nên viết về môn đó. Điều đó tôi đã trình bày
trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại:
“Có người nói: khi chưa biết về một vấn đề
nào thì người ta viết sách về vấn đề ấy”.
Nếu lời ấy là mỉa mai thì là mỉa mai một
cách vô lí.
Khi đọc bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim hoặc bộ Lý
Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, không ai tự hỏi hai học giả ấy trước
khi viết sách đã biết rõ về đạo Khổng hoặc triều Lí chưa?
Điều chúng ta đòi hỏi ở tác giả là tài liệu phải chính xác,
lí luận
phải vững vàng, văn phải sáng sủa và tươi nhã; còn tác giả phải học thêm nhiều
trong khi soạn sách không thì ta không cần biết
tới.
Vì có học giả nào không vừa học vừa viết?
Trần Trọng Kim đâu phải là một nhà
cựu học, Hoàng Xuân Hãn đâu có bằng thạc sĩ về sử học? Và
trước khi soạn hai bộ ấy, họ Trần và họ Hoàng có lẽ cũng không biết gì nhiều về
Khổng tử
hoặc Lý Thường Kiệt hơn bạn và tôi, vậy mà tác phẩm của hai nhà ấy vẫn rất có
giá trị.
Tôi muốn đổi câu dẫn trên ra như
sau cho nó chứa một lời khuyên chí lí và nghiêm trang:
“KHI MUỐN HỌC VỀ MỘT VẤN ĐỀ NÀO THÌ CỨ VIẾT
SÁCH VỀ VẤN ĐỀ ẤY”.
Chúng ta ai cũng có tính làm biếng, học cái
gì cũng chỉ mới biết qua loa mà đã cho là mãn
nguyện, không chịu suy nghĩ kĩ, tìm tòi thêm.
Nhưng khi viết sách, ta
cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp
đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi
làm những công việc ấy, ta nhận thấy có nhiều chỗ tư tưởng của ta còn
mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm nhiều sách nữa, do đó sự học của
ta cao thêm một bực. Càng được nhiều sách thì càng gặp những
ý tưởng mâu thuẫn nhau, và ta lại phải xem xét đâu là phải,
đâu là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn
đề, nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ.
Cho nên muốn học một cách kĩ lưỡng
không gì bằng viết sách về điều mình học. Viết
sách là tự ra bài cho mình làm.
Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua
chứ không phải học.
Song tôi xin dặn bạn: khi viết nên nhớ mục
đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu
danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn và sự học của ta cũng sẽ hoá ra nông
nổi”.
Một anh bạn thân của tôi,
học giả Lê Ngọc Trụ (mất năm 1979, nhà ngôn ngữ học có công nhất
với chính tả Việt ngữ, tác giả cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị, ngay
khi cuốn Tự học của tôi vừa mới phát hành, một hôm gặp tôi ở Thư
viện đường Gia Long, bảo tôi: “Lời anh nói rất đúng: chính tôi viết về chính tả
Việt ngữ là để tự học đấy”.
Tôi nắm chặt tay anh, cười:
“Anh em mình giống nhau quá. Tôi viết cuốn Tổ chức công việctheo khoa học cũng
để tự học”.
LOẠI TỔ CHỨC CÔNG VIỆC
Học xong mỗi bài của trường Tổ chức
công việc theo khoa học ở Paris gởi cho, tôi tóm tắt đại ý trong một tập vở rồi
tôi lại đọc thêm những sách gởi mua từ Pháp về môn đó để bổ túc những bài học
ấy, cũng ghi chép những ý chính. Được một hai tập 100 trang vở
học trò.
Tôi sắp đặt lại hết những
điều ghi chép ấy, chia thành chương, lập một bố cục, viết một cuốn về môn Tổ
chức, chủ ý để hiểu rõ môn học và khi coi lại, đỡ mất thì giờ tìm trong một xấp dày tài
liệu, bài giảng của trường và trong non một chục cuốn sách khác
nữa.
Tôi viết kĩ lưỡng, sáng sủa,
mạch lạc. Viết xong tôi thấy tập đó có ích cho giới trí thức Việt Nam vì rất ít
người biết về môn tổ chức. Đọc nó đủ biết được những nguyên tắc quan trọng cùng
cách thực hành; nó luyện cho ta được tinh thần khoa học, giúp ta làm việc mau
hơn, có hiệu quả hơn mà đỡ tốn thì giờ, đỡ mệt sức. Mà nó lại dễ đọc hơn,
dễ hiểu hơn sách Pháp. Nghĩ vậy tôi đem cho ông Paulus Hiếu, chủ sở Kho
bạc Long Xuyên đọc.
Ông thích nó, đề nghị với tôi để ông xuất bản giúp; ông sẽ bỏ
tiền ra tìm nhà in ở Sài Gòn, in xong ông sẽ gởi cho một số tiệm sách ở Sài Gòn
và Hà Nội, ông sẽ thu tiền, tóm lại là mọi công việc ông đảm đương hết, có lời sẽ chia hai. Ông
thật là một người tốt, yêu văn hóa, nhờ ông mà tôi chính thức bước vào làng
văn, công đó tôi không quên.
Cuốn đó in có 2.000 bản,
phí tổn khá nặng vì phải làm nhiều Cliché (bản kẽm),
ra mắt độc giả cuối năm 1949, hai năm sau bán hết, nhưng không lời bao nhiêu.
Đó là cuốn đầu tiên tôi ra mắt độc giả. May
mắn nó được hoan nghênh liền. Một nhà giáo ở Long Xuyên bảo tôi: “Tôi mong có
một cuốn như vậy từ lâu”.
Một độc giả ở Sài Gòn, nhà văn Thiên Giang, chưa
hề quen biết tôi, đọc xong viết thư cho tôi, khen là viết sáng
sủa, sách có ích, và
bảo tôi sẽ thành công trong nghề cầm bút.
Ông giám đốc nhà xuất bản Phạm Văn
Tươi ở Sài Gòn do có cuốn đó mà để ý đến tôi liền.
Tôi mừng rằng không là “mẻ” cái vốn của ông bạn P.
Hiếu. Sau đó, tôi “khai thác” thêm môn tổ chức, áp
dụng vào công việc hằng ngày, vào việc học, việc
vặt trong nhà.
Tháng 11.1950, tôi nhận dạy cho trường
Thoại Ngọc Hầu. Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học, rồi
hướng dẫn họ, để
họ có thể tự học được. Điều đó rất quan trọng
vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không
biết cách học bài, làm bài, không biết cách học ôn, cách tìm
tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng cách học
một bài ám đọc (récitation), khác
cách học một bài toán; một bài sử, địa khác một bài sinh
ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi những điều cần nhớ để thường coi lại.
Dạy được ba bốn tháng,
tôi nghĩ công việc cần nhất là phải chỉ cho học sinh cách học đã, và ngày 29
tết âm
lịch năm Tân Mão (tháng 2-1951)
tôi khởi sự viết, mới đầu chỉ định viết 50 trang để toà
hành chánh tỉnh quay ronéo chừng 100 bản
phát cho học sinh. Nhưng khi đã hạ bút thì ý này gợi ý kia, vấn đề này kéo vấn
đề khác và số trang rốt cuộc tăng lên gấp ba.
Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong
ba tháng là xong. Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ
tốn thì giờ mà mau có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi
học ở trường Yên Phụ và trường Bưởi. Trong phần I tôi đã nói tôi
sớm có tinh thần phương pháp, ngay từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire), tôi đã
có lối học riêng của tôi: ở trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường
về nhà vừa nghĩ cách làm một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà
là làm, học ngay bài trong ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học, tôi
có một sổ tay tóm tắt những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lí,
hoá, toán…, những
điều tôi cho rằng lúc nào cũng phải nhớ, như vậy khi học ôn
để thi trong lớp hoặc thi ra trường, tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít
khi phải coi lại trong sách.
Những kinh nghiệm đó và nhiều kinh nghiệm
khác nữa tôi đều chỉ lại cho học sinh.
Viết xong, thấy tập đó có thể
in thành sách được, tôi đặt cho nó nhan đề Kim chỉ nam của học sinh. Lúc
này tôi đã có được một số tiền tiết kiệm rồi,
khỏi phải nhờ ông Hiếu nữa. Tôi mướn nhà in duy nhất ở Long Xuyên in cho 1.000 cuốn, tôi không
nhớ phí tổn bao nhiêu (có lẽ là 3.000đ)[11].
Nhà in chỉ có máy đạp chân (pédale) in rất chậm, mà mỗi “cahier” chỉ được 4 hay 8 trang
nhỏ, cho nên công in và khâu rất tốn mà mà
sách rất xấu. Họ chỉ in các mẫu giấy tờ cho công sở và ít quảng
cáo cho nhà buôn, chưa bao giờ in sách nên thiếu rấtnhiều
phương tiện.
Tôi bán được một số ít cho vài tiệm sách ở
Long Xuyên còn thì gởi lên Sài Gòn cho nhà Phạm Văn Tươi. Ông Tươi
chê sách in xấu quá nhưng khen nội dung có
giá trị, bán trong mấy tháng đã hết, và xin tôi cho phép
tái bản. Cuốn đó bán chạy hơn cuốn Voulez vous que vos
enfants soient de bons élèvres của giáo sư La Varenne, Thiên
Giang lược dịch, nhan đề là Muốn thành học sinh giỏi, cũng
do nhà P. Văn Tươi xuất bản, ra trước cuốn của tôichừng một
năm, không hề tái bản.
Kim chỉ nam của học sinh rất
được hoan nghênh. Nhiều phụ huynh học sinh sau gặp tôi, cảm ơn tôi vì nhờ cuốn đó mà con
họ tấn tới. Một giáo sư bảo học trò: “Nếu theo đúng cuốn đó thì học rất giỏi,
nhưng ít người theo đúng được lắm”. Cần gì phải theo đúng. Cứ hiểu nguyên tắc,
hiểu phương pháp rồi chịu khó áp dụng tuỳ khả năng, hoàn cảnh của mỗi người,
cũng đủ có lợi nhiều rồi.
Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc
đời của một thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách nào tiến
thân, sau thành một bác sĩ, một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ,
hai cuốn dạy cách đề phòng các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tờ Bách
Khoa số 20-4-75,
thanh niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết: Kim chỉ nam đã mở cho
tôi chân trời mới, đọc xong, tôi thấy gần gũi với ông - (tức tôi) - kỳ
lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng,
vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá,
đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều
kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành,
không có những lý thuyết viễn vông, nhàm chán”.
Thanh niên đó từ mười năm nay đã thành một
bạn thân của tôi.
Kim chỉ nam của học sinh được
tái bản bốn năm lần, lần nào cũng in ba ngàn bản.
Sau Kim chỉ nam, cũng trong
loại tổ chức, tôi viết cuốn Tổ chức công việc gia
đình (1953), chỉ cách tổ chức công việc
trong nhà, dự tính, sắp đặt, chỉ huy, cư xử với người giúp việc…
Nhưng sách của
tôi khác những sách trong loại đó của Âu, Mĩ ở
điểm tôi đề
cao nếp sống giản dị, đừng để “cái hình hài
làm tội cái tâm” mà “đời sống vật chất thì nên dưới mức trung, còn đời sống
tinh thần nên trên mức ấy” - cuốn đó được tái bản hai
ba lần.
Lại mười năm sau (1964), tôi mới viết một
cuốn nữa về cách Tổ chức công việc làm ăn.Cũng
vẫn áp dụng những nguyên tác tổ chức theo khoa học, nhưng cuốn này tôi chỉ
in được một hai lần, mỗi làn in 2.000 bản. Thời đó giới kinh doanh không cần
biết môn tổ chức. Họ chỉ cần chạy chọt, xin được cái “lít xăng” (licence: giấy
phép) xuất nhập cảng, vay ngân hàng một số vốn để “khai thác” là đủ làm giàu.
Có kẻ chỉ cần bán lại “licence” cũng đủ sống phong lưu. Trong cái việc
đấu thầu, hễ “quen lớn”, có phe cánh là lãnh được những lô “bở”. Không biết tới
cuối thế kỷ này người mình đã có được tinh thần “làm ăn” như phương Tây chưa.
Cuốn đó của tôi ra sớm quá.
Ngay cuốn Tổ chức công việc theo
khoa học mặc dầu in trước sau ba lần, mỗi lần 2.000 bản,
cũng vẫn “được ra sớm quá”. Hiện nay (1980) từ Nam ra Bắc vẫn còn rất nhiều
cơ quan không biết cách quản lí, tổ chức, làm việc luộm thuộm
như tổng lí,
hương chức thời tiền chiến. Mà ở phương Tây thì khoa tổ chức của Taylor, Fayol
đã bị coi là lạc hậu từ hai chục năm nay rồi. Ngày nay họ tìm cách thích ứng
công việc với người chứ không thích ứng người với công việc; tập cho thợ có
sáng kiến, tự lãnh trách nhiệm, giúp cho thợ
tự giải quyết lấy các vấn đề...
Rồi đây các máy điện tử (Ordinateur[12])
sẽ làm thay đổi hẳn cách quản lí nữa; sự quyết định sẽ không tập trung
vào ban giám đốc mà phân tán cho các phòng, xưởng, nghĩa là cho cấp dưới.
Chỉ một khoá hàm thụ mà giúp tôi viết bốn
cuốn như trên.
Để giúp học sinh có phương pháp, sau tôi
còn dịch và viết mấy cuốn nữa - có thể coi như thuộc về loại tổ chức - như:
Muốn giỏi toán hình
học phẳng (dịch J. Chauvel) - 1954.
Muốn giỏi toán hình
học không gian (n.t) - 1956.
Muốn giỏi toán đại
số (tôi viết) - 1957.
Bí quyết thi đậu - 1955.
Mấy cuốn đó đều viết theo tinh thần cuốn Kim
chỉ nam, tinh thần giúp đỡ thanh niên, giúp họ nhớ rằng cần
nhất là có phương pháp, có chủ đích, làm việc đều đều. Trong đời có nhiều người
rất thông minh mà thiếu những đức đó nên không làm được gì cả; trái lại có
những người thông minh chỉ trên trung bình một chút thôi mà
lập được sự nghiệp nhờ những đức đó.
Một số độc giả quá yêu tôi, bảo
giá tôi đừng viết những cuốn đó mà khảo cứu về những đề tài cao xa thì
có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho tôi hơn về
kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết sách dạy phương
pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy có ích nên cuốn
nào cũng được tái bản nhiều lần. Trong 30 năm cầm bút, tôi bỏ ra hơn một năm
giúp đỡ học sinh như vậy, tôi nghĩ không phải là
phí thì giờ.
Vì dạy Việt ngữ cho lớp đệ tứ niên, tôi
phải đọc kĩ cuốn Văn
phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim và vài cuốn như Nhận xét về
văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh… Đọc xong tôi thấy những sách văn
phạm (nay gọi là ngữ pháp) đó, nhất là cuốn của Trần Trọng Kim phỏng theo ngữ
pháp của Pháp quá, không hợp với đặc tính của tiếng
Việt. Tôi lại thấy tất cả các giáo sư và học sinh đều miễn cưỡng dạy và học môn
đó – vì nó có trong
chương trình - chứ không tin tưởng, không thấy ích
lợi chút nào cả. Và tôi viết cuốn Để hiểu văn phạm, đưa ra vài ý
kiến, mặc dầu tôi chưa hề nghiên cứu về ngữ pháp.
Đại ý tôi cho rằng Việt
ngữ không có phần từ pháp (morphologie), không biến di tự dạng
(cùng một từ dùng làm danh từ, động từ thì viết cũng vậy:
cái cuốc, cuốc đất), cho nên nhiều từ không có từ loại nhất định; ta
không nên chú trọng quá đến việc phân biệt từ loại, mà nên chú trọng đến sự phân
biệt từ vụ, đến vị trí của mỗi từ trong câu.
Tôi lại đề nghị không nên dùng gạch nối, vì
Việt ngữ có tính cách đơn âm (ngày nay, người ta gọi
là ngôn ngữ cách thể - langue isolante), rất khó để gạch nối cách nào cho hoàn
toàn hữu lí được
lắm, mà chỉ làm rối trí thêm cho học sinh. Viết liền những từ ghép, lại
càng
không nên.
Tập đó dày khoảng hơn
trăm trang, tôi viết trong hai tháng, ngoài những giờ dạy học. Nhà
P. Văn Tươi không nhận xuất bản vì khó bán. Tôi đề nghị bỏ vốn ra in một ngàn (hay một ngàn rưỡi) bản và để cho họ
độc quyền phát hành (nhà P. Văn Tươi đứng tên), bán được bao nhiêu, trừ hoa
hồng rồi còn thì về phần tôi. Lợi về vật
chất không có gì nhưng về tinh thần thì đáng kể. Chính nhờ cuốn đó mà mấy năm
sau, ông
Trương Văn Chình (bút hiệu Trình Quốc Quang, tác giả hai cuốn Hội
nghị Đà Lạt, Hội nghị Fontainbleau) ở Hà Nội di cư vô, lại
đường Monceau kiếm tôi, đề nghị với tôi viết
chung về ngữ pháp Việt Nam vì chủ trương của tôi có nhiều điểm hợp với ông. Rồi
hơn hai chục năm sau, miền Nam giải phóng rồi,
một số học giả trong viện Khoa học Xã hội (ban Ngôn ngữ) ở Bắc vô cũng lại thăm
tôi, bảo họ để ý đến tôi từ khi đọc cuốn đó. Nó được chú ý như vậy vì là cuốn
đầu tiên vạch một hướng mới cho công việc nghiên cứu ngữ pháp Việt, thoát li ảnh
hưởng của các sách ngữ pháp Pháp dùng trong các trường học.
Cũng vì dạy Việt văn, nên tôi có ý viết một
cuốn chỉ cho học sinh trung học và những người lớn tự học cách viết văn và sửa
văn, nhan đề là Luyện văn.
Để viết cuốn này, tôi đọc khá nhiều tác
phẩm văn chương Việt, Pháp, và một số sách Pháp về nghệ thuật viết như cuốn L’Art
d’écrire của Antoine Albalat, La Formation du style của
tu viện trưởng Moreux, Le style au microscope (ba cuốn)
của Criticus…
Không kể thì giờ đọc sách và thu thập tài
liệu để dẫn chứng, chỉ nội công việc viết kĩ ba trăm trang cũng
mất sáu tháng làm việc từ bảy giờ sáng đến bảy giờ
tối, trừ những giờ dạy học, chấm bài, giờ ăn và ngủ trưa.
Nhưng tôi không thấy mệt vì viết rất có hứng.
Viết xong cuối năm 1952, nhà P. Văn Tươi in
ngay, sau tái bản được hai ba lần. Sách in ra đúng lúc Việt ngữ được trọng
dụng, ai cũng thấy cần nói và viết tiếng Việt cho đúng,
cho hay, còn tiếng Pháp chỉ là một ngoại ngữ ở các trường trung học, cho nên
được độc giả hoan nghênh, cho là “gia đình nào cũng phải có”; có vị còn khuyến
khích tôi, buộc tôi viết thêm nữa: “ông Lê, ông phải soạn ngay một cuốn Luyện
văn thứ nhì và phải xuất bản gấp nội trong ba tháng,
không được trễ, để hè này tôi có sách đọc mà quên cái nắng nung người đi nhé.
Vấn đề còn rộng, ông chưa xét hết và ông không được từ chối”.
Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc
khác, nên năm 1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai
cuốn này cao hơn cuốn I nên chỉ in được một lần thôi.
Để học tiếng Anh, tôi tập dịch sách Anh ra
tiếng Việt cũng như trước kia để học bạch thoại,tôi dịch Hồ Thích.
Thật may mắn, ông P. Hiếu
giới thiệu cho tôi hai cuốn How to win friends and influence people và How
to stop worrying đều của Dale Carnegie và kiếm cho tôi được cả nguyên
bản tiếng Mĩ với
bản dịch ra tiếng Pháp.
Hai cuốn đó cực kỳ hấp dẫn, tôi say mê đọc,
biết được một lối viết mới, một lối dạy học mới, toàn bằng thuật kể
chuyển. Mỗi chương dài từ 10 đến 20 trang, chỉ đưa ra một chân
lí,
một lời khuyên; và để cho người đọc tin chân lí, lời khuyên đó, Carnegie
kể cả chục câu chuyện có thực, do ông nghe thấy hoặc đọc được trong sách báo,
nhiều khi là kinh nghiệm bản thân của ông nữa,
kể bằng một giọng rất có duyên, cho nên đọc thích hơn tiểu thuyết mà lại dễ
nhớ.
Tiếng Anh của tôi hồi đó còn non lắm – thực sự
thì cũng chỉ kể như mới học sáu tháng - nên
nhiều chỗ tôi phải dựa vào bản dịch tiếng Pháp. Và
dịch cuốn How
to win friends xong, tôi
đưa ông Hiếu coi lại, sửa chữa. Do đó mà chúng tôi kí tên
chung với nhau.
Tôi đặt cho nhan đề là Đắc nhân tâm.
Chủ trương của tôi là dịch
loại sách “Học làm người” như hai cuốn
đó thì chỉ nên
dịch thoát, có thể cắt bớt, tóm tắt, sửa đổi một chút cho thích hợp với người
mình miễn là không phản ý tác giả;
nhờ vậy mà bản dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có “dấu
vết dịch”,
độc giả rất thích.
Cuốn Đắc nhân tâm bán rất
chạy, từ 1951 đến 1975, in đi in lại tới 15-16
lần, tổng cộng sốbán được trên 50.000 bản[13].
Có người mua trước sau ba bốn bản hoặc vì mất, hoặc để tặng bạn.
50.000 bản ở nước mình là nhiều thật, nhưng
không thấm vào đâu với Âu, Mĩ. Ở Pháp, nhà Hachette
lần đầu in 200.000 bản dịch, nhan đề là Comment se faire des amis;
còn ở Mĩ thìkhông
biết tới mấy
triệu bản. Hiện nay (7-1980) ở chợ sách cũ, đường Cá Hấp (Bùi Quang Chiêu
cũ) - Sài Gòn có người chịu mua một bản với giá 40 đồng
ngân hàng (20.000đ cũ). Năm 1975 giá chỉ có 2 đồng ngân hàng.
Qui tắc đắc nhân tâm
gồm trong câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”[14] mà
tất cả các triết gia thời thượng cổ từ Thích Ca, Khổng Tử, Ki Tô… đều đã dạy
nhân loại, nhưng trình bày như Dale Carnegie thì hơi có tính cách vị lợi, và
tôi nghĩ trong đời cũng có một đôi khi chúng ta cũng cần
phải tỏ thái độ một cách cương quyết chứ không thể lúc nào cũng giữ nụ cười
trên môi được. Cho nên tôi thích cuốn How to stop worrying mà chúng tôi
dịch làQuẳng gánh lo đi hơn.
Đúng như Đoàn Như Khuê nói:
-------------… Thuyền ai ngược gió ai xuôi
gió,
Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư,
phiền muộn; chỉ hạng đạt quan, triết nhân, quân tử mới “thản đãng đãng” (thản
nhiên, vui vẻ) được như Khổng Tử nói (Luận ngữ - Thuật nhi – 36).
Nhưng làm sao để có thể thản nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử
không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm nghiên cứu hết các triết gia
cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn hàng trăm đồng bào của ông để
viết cuốn Quẳng gánh lo đi.
Tôi bắt đầu đau bao tử từ khi phi cơ Pháp
bắn liên thanh xuống miền Tân Thạnh (1946), năm sau qua Long Xuyên, để quên
tình cảnh nước và nhà tôi phải trốn vào trong sách vở, nhưng đọc và viết
suốt ngày thì bệnh bao tử lại nặng thêm, mà bác sĩ không
biết, cứ cho là gan yếu, uống thuốc Tây, thuốc Bắc, thuốc Nam đều không hết.
Rồi khi đọc cuốn Quẳng gánh lo đi,
tôi thấy hết ưu tư, nhẹ hẳn người đi. Suốt thời gian dịch và trong năm sáu
tháng sau nữa, tôi có cảm giác “đãng đãng” đó. Vì vậy mà tôi rất mang ơn tác
giả, viết một bài Tựa tôi tự lấy làm đắc ý để giới thiệu với độc giả, và
cuối bài, đề:
“Long Xuyên, một ngày đẹp trong 365 ngày
đẹp năm 1951”
Nhiều độc giả đồng ý với tôi là cuốn đó hay
hơn Đắc nhân tâm, và ngay từ chương đầu đã trút được một phần nỗi
lo rồi, cho nên chép nhan đề chương đó “Đắc nhất nhật quá nhất nhật” để trước
mặt, trên bàn viết.
Mới đây, một độc giả, bác sĩ, bảo từ hồi đi
học, đọc xong chương đó, thì đổi chữ kí, không kí tên
thật nữa mà kí là
“Today” (Hôm nay). Tôi còn giữ một bản có chữ kí đó
của ông ta.
Quẳng gánh lo đi trước
sau chỉ bán được độ ba chục ngàn bản, nhưng tôi chắc
nó đã đem lại niềm vui cho ít nhất là của trăm ngàn
người. Nó ra rất đúng lúc chiến tranh gây biết bao nỗi lo lắng cho biết bao gia
đình!
Cũng trong năm 1951, tôi
dịch thêm cuốn tiếng Anh nữa: Give
yourself a chance (The Seven steps to success) của Gordon
Byron. Nhan đề tiếng Việt của tôi: Bảy bước đến
thành công.
Cuốn này nhà P. Văn Tươi cũng cho vào loại “Học
làm người”,
ích lợi cho thanh niên, gọn, sáng, dễ theo, nhưng không có gì đặc biệt. Có lẽ
vì nhan đề hấp dẫn nên cũng được tái bản nhiều lần, tuy
thua xa hai cuốn trên.
Ngoài ra tôi viết xong nhưng chưa sửa mấy
cuốn này:
+ Nghệ thuật nói trước công chúng:
tài liệu đa số lấy trong cuốn Public Speaking của
Dale Carnegie mà tôi cho là tác phẩm thực tiễn nhất trong loại. Phần phụ lục có
vài bài diễn văn rất hấp dẫn. Sách bán rất chạy, tới nay vẫn còn người tìm mua.
+ Thế hệ ngày mai: tôi tổng hợp
các phương pháp tân giáo dục của phương Tây để tìm ra một đường lối mới trong
việc dạy trẻ. Bài Tựa rất cảm động (cuối chương XI,
tôi trích dẫn một đoạn). Tác phẩm được tái bản nhiều lần. Thiên
Giang đọc xong, trở
nên thân với tôi. Nhờ cuốn Kim chỉ nam của học sinh và cuốn đó
mà giới hiệu trưởng, giáo sư tư thục để ýtới tôi.
+ Hiệu năng: bí
quyết của thành công: trong loại Doanh nghiệp
của nhà P. Văn Tươi.
+ Bí mật dầu lửa: dịch cuốn Le
Secret de l’or noir của Robert Gaillard, kể vụ tìm ra mỏ dầu
lửa đầu tiên ở Mĩ. Truyện có tính cách mạo hiểm, cho
trẻ em đọc. Trên 15 năm sau,cuốn đó mới xuất bản[16].
Công trình mệt cho tôi nhất – mệt mà thú – hồi tản cư ở Long
Xuyên nhất là viết bộ Đại cương văn học
sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ; II.
Đời Đường;III.
Từ Ngũ đại đến hiện đại.
Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự
học. Trong bài Tựa - mà tôi lấy làm đắc ý - tôi
nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học
Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi
lần nghe đúng tên
nhưVăn tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền
Xích Bích phú, Qui khứ lai từ… dù
chẳng hiểu nghĩa, tôi cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm trầm, như
nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên
tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?
Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách
báo Việt chỉ làm cho tôi thất vọng. Cuốn Việt
Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những bài dịch Cổ
văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số
báo khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu, bông móng rồng mà
mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá chuối, chứa trong
cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn
làng Ngọc Hà,
làng Yên Phụ ra sao.
Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách của người
Trung Hoa viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển
Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy bộ Cổ văn, Đường thi, Văn
học sử,
Bạch thoại văn học sử, Trung Quốc văn học tư trào sử lược…
như tôi đã nói (chương
XIII), rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng! Đọc
một bài trong Cổ văn quan chỉ dài độ hai mươi hàng, tôi
thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ. Bộ ấy chú thích rõ ràng, và có dịch cổ văn
ra bạch thoại; nhưng cổ văn và bạch thoại của tôi đều ở mức sơ đẳng, phải dùng
cổ văn để đoán bạch thoại và ngược lại dùng bạch thoại để đoán cổ văn.
Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên
không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám
hỏi nhiều vì mất công bác viết thư trả lời. Đành đọc nhiều sách,
nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần.
Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so
sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một
số bài văn thơ, viết thành chương. Nội công việc dịch và viết này cũng mất chín, mười tháng.
Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một
số lớn. Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề “Vô danh dịch” là
của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất tới đức
“tín”, nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng
tôi biết nhiều bài người trước đã dịch rồi mà hay, nhưng vì
ở Long Xuyên thiếu sách, tôi không thể kiếm
được, nên
không dẫn vô.
Tôi viết như vậy cốt để học, chứ
không nghĩ đến việc in. Viết xong, thấy có thể giúp
cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung Quốc nên mới sửa lại rồi cho
xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều vì tôi
đã tham khảo kĩ, bằng
những phương
tiện tôi có; bố cục có mạch lạc và sáng
sủa; nhưng
tôi nhận rằng còn những lỗi dịch
sai, nhất
làphiên âm sai, mặc dầu vậy tôi cũng
cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ “tôi cả gan như vậy là vì tin lòng quảng đại của
các vị cựu học, không
nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ
sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là
cái nền tảng văn hóa dân tộc Việt Nam chúng
ta” (trích trong bài Tựa).
Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến
văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi
đành phải mò kim vậy.
Viết xong tôi chép lại, khoảng 750 trang, mất
ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm).
Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tị (26-XI-1953),
mọi công việc hoàn thành, tôi thấy khoan khoái. Tôi thảo
bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:
“Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm,
bí mật bỗng
hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung
rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh
sĩ Trung Hoa thời trước.
“Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị
rất nhiều, gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sanh,
tôi đã được nghe lời ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều xen
lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong văn học nước tôi cũng thường
thấy ẩn hiện nỗi củalòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày nay một phần
cũng do chư vị đào luyện nên.
“Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị
thêm một chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái
lỗi giới thiệu vụng về, tất còn mang thêm cái tội vô tình
xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ”.
Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó
nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được hai cây
hoàng lan, chiều tối hương thơm ngào ngạt cả một xóm.
Bác tôi mừng tôi hoàn thành tác phẩm, cho
tôi hai bài thất ngôn tứ tuyệt:
-----Hồng tử môn tiền đấu diễm hương,
-----Mãn bàn thi sử phí bình chương.
-----Kim phong thiết mã nhàn trung quá,
-----Nhất hạp thanh sơn tự chủ trương.
-----Nễ tự biên chi ngã duyệt chi
-----Nhất gia lạc sự tại tương tri.
-----Hà tu cánh hướng đông tây vấn,
-----Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?
Dịch nghĩa:
-- (1)
--Trước cửa, các hoa đỏ, tía tranh nhau phô hương sắc,
--Trên bàn đầy thi sử, khó khọc phê bình.
--Gặp lúc nhàn trong thời buổi binh đao,
--Có chủ trương lưu lại một hộp sách trong núi xanh (lưu tác
phẩm cho đời sau)
- (2)
--Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,
--Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu
hiểu nhau.
--Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây,
--Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào
ai nữa.
Bác tôi còn cho tôi hai câu đối:
----Cổ sắc cổ hương văn tự cổ
----Tân tâm tân bút thế phương tân.
--- Nhất môn văn hiến kham trưng sử
----Lưỡng quốc binh phần bất diệt thư
Dịch nghĩa:
--(1)
--Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ
--Lòng mới, bút mới, đời vừa mới
-- (2)
--Một nhà văn hiến có thể ghi vào sử
--Lửa binh hai nước không diệt được sách
Bộ Đại
cương văn học sử Trung Quốc,
ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn
(phải sắp chữ Hán) mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới
xong[17].
Chỉ in 1.500 bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng
4.000đ - 5.000đ một lượng. Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn
lại bán bảy tám năm sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha
khá thì mới giữ được chí hướng, làm được những việc mình thích, mà
chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu tôi không có xuất bản lấy thì 10-15 năm
sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, lòng ham viết tất phải nguội dần mà sẽ không viết
thêm được cuốn nào về cổ học Trung Hoa nữa.
In xong tôi mang về Long Xuyên ngay để
bác Ba tôi coi.
Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công của ba người thân đó.
Trang đầu sách tôi đề:
KÍNH DÂNG
-----Hương hồn Thân
mẫu tôi,
-----Người đã cho tôi học thêm chữ Hán
-----ở giữa thời tàn tạ của Nho học.
Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; in 2.000 bản, được
viện Đại học Huế khuyên sinh viên đọc; nhưng năm
1974 bán
vẫn chưa hết.
Lần tái bản này tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên
bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì sắp chữ lại thì tốn công lắm.
Vậy trong năm năm
(1949-1953) làm việc tích cực, nhất là ba năm sau cùng,
tôi đã xuất bản được chín cuốn: Tổ chức công việc theo khoa học, Kim
chỉ nam của học sinh, Tổ chức gia đình, Luyện
văn, Để
hiểu văn phạm, Đắc nhân tâm, Quẳng
gánh lo đi, Bảy bước đến thành công, và Huấn
luyện tình cảm dịch từ 1941 - lại
có sẵn một bộ 3 cuốn Đại
cương văn học sử Trung Quốc; và 4 tác phẩm nữa: Nghệ
thuật nói…, Thế hệ ngày mai, Hiệu
năng, Bí
mật dầu lửa.
Tác quyền được khoảng trên100.000đ,
cộng với số lương giáo sư, số tiền dạy tư tại nhà, tiêu pha rồi (tôi sống rất
giản dị, chỉ tốn tiền học hàm thụ và mua sách), đưa cho nhà tôi một số tiền để
sang một căn nhà nhỏ trong một hẻm
khu Hãng Sáo (Tân Định) mà mẹ con khỏi phải ở chung với bạn và các em nữa, cuối
năm 1953 còn dư non 200.000đ. Nhớ lại hồi mới qua Long Xuyên
trong túi chỉ có 200đ.
Đáng kể nhất là tôi có chút danh trên văn
đàn và được một số độc
giả khá
đông tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của
nhà P. Văn Tươi.
Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm
một mình làm việc nuôi con, dạy con nữa; một phần là nhờ thân
mẫu cô Nguyễn Thị Liệp. Bà cụ theo nếp cổ, nghiêm khắc, ít nói, nhưng tin tôi cho tôi
ở nhờ, có chỗ yên ổn để học, dạy học, viết sách, mà sở dĩ tin tôi cũng là do
biết bác tôi và thấy tôi biết chữ Nho. Tôi ở Long Xuyên không bao lâu thì cụ
qui tiên, và cô Liệp cũng tiếp tục cho tôi ở. Tôi xin góp tiền chợ, cô không
nhận. Thấm thoát mà tôi ở nhà cô tới non
bảy năm. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải làduyên
trời.
Ngày nay nghĩ lại, tôi
thấy số phận tôi một phần do tôi quyết định, nhưng phần lớn thì do may rủi, do
những cái ngẫu nhiên xảy tới, không sao ngờ được, nhất là do thời cuộc.
Ông cha tôi không ai viết sách, làm nghề viết văn;
song thân tôi, mẹ tôi và các bác tôi cũng không có ý định
cho tôi thành nhà văn; chính tôi tới năm 1951, hồi bốn chục
tuổi, mặc đã
chính thức bước vào làng văn mà vẫn chưa có ý sống bằng nghề cầm bút. Còn số tử
vi của tôi, nhiều người đã coi, không ai biết được là số của một
nhà văn. Bác Ba tôi chỉ đoán đượcsố tốt, giàu và sang;
và tôi thấy một người số tử vi giống số tôi đến tám phần mười, mà
làm thầu khoán, giàu lớn. Một ông bạn già bảo số tôi nổi danh vì được cách
“tứ linh hội phi liêm, thanh danh viễn chấn”, nhưng trong nghề nào cũng có
người nổi danh, mà cứ theo các chính tinh ở mạng và chiếu mạng của tôi, thì tôi
làm một kĩ thuật
gia hoặc một nhà kinh doanh mới hợp, vì mạng tôi có Vũ khúc với Sát,
Phá, Liêm, Tham; thân tôi ở cung Thiên di có Thiên phủ, Lộc tồn. Mạng, thân đều
không có Khôi, Việt (văn tinh); còn Xương khúc, Hoá khoa (cũng là văn
tinh) thì đều ở cung thê, bàng chiếu về cung thân.
Chỉ những bạn
nào đã biết
tôi là nhà văn rồi, coi tử vi cho tôi mới giảng rằng
chính nhờ
cách Xương khúc, Hoá khoa chiếu cung thân đó mà
ngoài bốn
mươi tuổi, tôi đổi nghề thànhmột nhà
văn có danh.
Như vậy là giảng một cách hơi ép, chứ không phải
là đoán số. Cho nên tôi không tin hẳn môn số; nhiều lắm nó chỉ
đúng được sáu phần mười thôi; sự di truyền của tổ tiên, giáo dục trong gia đình, hoàn
cảnh và thời cuộc mới có ảnh hưởng lớn tới đời sống con người.
Về di truyền thì ông nội, ông ngoại tôi đều
có tiếng là hay chữ, bà nội tôi lại ở trong một thế tộc mười đời khoa hoạn. Tới
thế hệ cha tôi thì có hai bác Cả và Ba của tôi học giỏi.
Tới thế hệ của tôi thì hai anh Tân Phương, Việt Châu và tôi đều có khiếu về
văn.
Về giáo dục thì trong gia đình tôi, đời nào
cũng trọng sự học, cũng cha (có khi cả mẹ nữa như bà nội tôi, rồi
nhà tôi) dạy cho con, mẹ tôi tuy không dạy tôi nhưng lại cho tôi học thêmchữ
Nho với bác Hai tôi.
Do hai nguyên nhân mới kể,
tôi thích đọc sách, thích văn học, mặc dầu học nghề công chánh.
Rồi thì hoàn
cảnh và thời cuộc đưa đẩy tôi vào nghề cầm bút:
- Đầu năm 1935, không có kinh tế khủng hoảng, ở trường Công
chánh ra tôi được bổ nhiệm ngay thì tất tôi không có thì giờ học thêm chữ Hán.
- Đầu năm 1935 tôi mới được bổ mà bổ ngay vào Nam, ở gần bác
tôi; mười năm sau (1946) tôi lại tản cư về Tân Thạnh; khi tôi qua Long Xuyên
rồi thì hai năm sau bác tôi cũng tản cư qua đấy; nhớ vậy tôi có dịp học thêm
với bác tôi. Mà chữ Hán rất có ích cho nhà văn.
- Ở Long Xuyên, tôi
gặp ông P. Hiếu, một người cũng thích văn; ông giúp
tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của Carnegie.
- Nhờ dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu tôi mới có ý viết vài cuốn
cho học sinh.
- Tôi viết những cuốn đầu đó đúng lúc nhà
xuất bản P. Văn Tươi cho ra loại sách “Học làm người” tiếng Pháp gọi là
Culture humaine, tiếng Anh gọi là Self improvement. Thực
ra ông Tươi không phải là người mở đường. Trong thế chiến, tôi nhớ đâu vào
khoảng 1943, nhà Hàn Thuyên ở Hà Nội đã cho ra vài cuốn về kinh doanh, về luân lí thực
nghiệp.
Trước hay sau đó, một người soạn (hay dịch) một
cuốn về tinh thần khoa học được giải thưởng Alexandre de Rhodes; nhóm Tự Lực
cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch ít
đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của V. Pauchet; được
thanh niên chú ý.
Lúc đó người ta đã thấy phải cải tạo tinh
thần của thanh niên để thích ứng với thời mới, và lớp thanh niên được cải tạo
đó sẽ là lớp người mở đầu cho giai đoạn phát triển kinh tế sắp
tới. Ý đó “phảng phất trong không khí” từ đầu thế chiến. Ông Tươi cho tôi hay
hồi đó ông viết một cuốn rồi xuất bản nhưng bán không chạy.
Năm
1949-50 ông tụ tập được một số cây viết cùng chủ
trương, như Thiên Giang, Nguyễn Duy Cần, mở nhà xuất bản, mới đầu chuyên ra
loại Học làm người và loại đó hợp với nhu cầu của thời đại nên ông
thành công rất mau, chỉ trong một năm,
nhà xuất bản ông nổi tiếng, được sự tin cậy của rất nhiều
độc giả.
Nhờ vậy, tác phẩm nào của tôi lúc
đó gởi cho ông
cũng được ông hoan nghênh liền.
- Một điều may nữa là cũng vào lúc đó - năm
1951 hay 1952 - Việt
ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, từ nhà giáo đến học sinh
đều cần sách Việt; mà số học sinh tăng gấp ba gấp bốn năm 1948, số độc giả cũng
tăng theo tuy chậm hơn, nên sách của tôi rất dễ bán.
- Nhưng cuộc Cách
mạng tháng 8 năm 1945
mới làm thay đổi hẳn cuộc đời của tôi.
Khi quân đội Pháp đổ bộ lên Sài Gòn, muốn tái chiếm nước mình, tôi đã quyết tâm
bỏ luôn nghề
công chánh, không trở lại làm việc nữa nếu Pháp vẫn làm chủ nước mình. Một phần
vì vậy tôimới học
nghề Đông y, học chưa rành thì phải qua Long Xuyên rồi dạy học chờ thời, vừa
dạy học vừa học thêm vừa viết sách. Không có cuộc cách mạng đó, tôi vẫn làm sở
Công chánh thì viết không thể nhiều được.
Đầu
năm 1953 tôi thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi
chuẩn bị để chuyển nghề. Vừa đúng lúc này việc dạy học không còn hứng thú nữa
vì đa số nam sinh chán nản không muốn học. Tình hình hồi đó khá nguy cho Pháp. Từ
1952, họ
đã ra lệnh bắt tất cả thanh nhiên ViệtNam từ
18 tuổi phải nhập ngũ, người nào học hết năm thứ tư cao đẳng tiểu học, thi bằng Cao tiểu đậu
hay rớt thì cũng
phải học một khoá quân sự ở Thủ Đức trong sáu tháng (?) rồi
ra làm chuẩn uý[18].
Như vậy thì gắng
học để thi làm
gì? Đằng nào thì cũng sẽ thành bia đỡ đạn cả. Chính phụ
huynh học sinh lo lắng, không muốn thúc con học, chỉ tìm cách chạy chọt để con
được miễn dịch thôi.
Tôi khuyên học sinh đừng thối chí.
Không ai biết chắc được tương lai ra sao. Có thể sắp có sự thay đổi. Dù không
thay đổi ngay thì có bằng Cao tiểu[19] vẫn
hơn: nhập
ngũ có thể được chuyển qua một ngành chuyên môn, không phải ra mặt trận; rồi
khi giải ngũ có bằng cấp đó, muốn tiếp tục học nữa cũng dễ. Tuy khuyên chứ tôi
cũng biết không trò nào nghe tôi.
Lớp học vẫn còn kỷ luật, nhưng
không khí rất buồn, tinh thần học sinh xuống rất thấp,
đa số đãng trí không nghe lời giảng, làm bài qua loa cho xong. Dạy học mà không
có hứng, không thấy có kết quả thì thà làm nghề khác còn hơn, để
lương tâm khỏi bứt rứt.
Giữa niên học tôi làm đơn gởi
lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối niên khoá đó, không kí lại
giao kèo cho
niên khoá sau. Ông giữ lời đã hứa với tôi, nên không
bác đơn, nhưng
cứ ngâm đó.
Đơn gởi rồi, tôi chuẩn bị ngay.
Tôi đã tính kĩ. Trong mấy năm
tôi để gây một số vốn khoảng 200.000đ. Bỏ
ra một ít để
sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa làm vốn xuất bản; vẫn
còn khoảng 70-80
ngàn đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số tiền tác
quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.
Tôi lại có sẵn non chục tác phẩm, kể
cả một số bản
thảo viết trước 1945: Đế Thiên Đế Thích (du ký), Nam
Du tạp ức (dịch của Hồ Thích), và bộ Đại cương văn học sử
Trung Quốc viết sắp xong.
Tôi lại có gần đủ tài liệu để viết ba bốn cuốn
nữa như Tự học để thành công, Nghề viết văn, Bí
quyết thi đậu, Đông Kinh nghĩa thục…
Như vậy là có đủ việc làm, đủ tác phẩm để
xuất bản trong vài ba năm. Hễ qua được hai năm đầu rồi thì cứ theo đà
đó mà tiếp tục được ít nhất cũng năm, mười
năm.
Tôi dự định tự xuất bản lấy; công việc
không tốn thì giờ bao nhiêu: chỉ được đưa cho mộtnhà
in, họ lo việc kiểm duyệt rồi in cho mình, mình chỉ sửa bản vỗ
(morasse)
lần cuối cùng; in xong họ chở lại nhà rồi tôi đem giao cho bốn
năm nhà phát hành ở Sài Gòn như Nam Cường, nhà Yiễm Yiễm, nhà Á Châu… với vài tiệm sách
lớn, thu ngay được một số tiền mặtgần bằng nửa vốn in; khi các
nhà đó bán gần hết, sẽ lấy thêm. Như vậy mỗi tháng mất độ
bốn năm ngày, còn nhiều thì giờ để viết. Mà số lợi trung bình gấp ba – có khi
gấp bốn nếu sách bán chạy – số tác quyền trong trường hợp bán cho một nhà xuất bản.
Tôi tính mỗi năm chỉ viết
ba cuốn - mỗi
cuốn độ hai
trăm trang, bán được độ 2.000, 3.000
bản thôi - mà
xuất bản lấy thì cũng bằng có chín, mười
cuốn bán cho nhà xuất bản.
Không dạy học nữa mà cũng không mua tác
phẩm của ai để
kinh doanh, chỉ viết rồi đưa in, bán ở nhà như vậy, tôi
có thể viết mỗi năm được số đó và sống ung dung với cây viết. Tính kĩ rồi
tôi vững bụng tin chắc sẽ thành công, cho nên như trên tôi đã nói, dù biết rằng
theo số tử vi, tôi sắp bước vào một đại hạn rất xấu, tôi cũng quyết tâm đổi
nghề: nhân năng thắng số; mà cũng có thể là số sai.
Mùa hè năm đó, ông Thơ thấy tôi không trở
lại dạy trường Thoại Ngọc Hầu, đành phải cho tôi thôi, nhưng ông vẫn
cố níu trở
lại. Ông bảo: “cho
vui, bạn bè ở đây có được bao người”.
- Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định
thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như chúa chổm rồi viết đêm
viết ngày đến khi chết vẫn trả chưa hết nợ đó sao?
Tôi đáp:
- Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là
một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một
thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng sống cuộc đời lộng lẫy của bọn
công tước, bá tước,
tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac,
nên mới mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần nhiều anh ơi, miễn
kiếm được một số tiền đủ sống, chẳng hạn bằng số lương
giáo sư hay kĩ sư
là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tínhcẩn thận, có thể kiếm được một số như vậy, nếu
chịu làm việc gấp hai một giáo sư, kĩ sư. Tuy mệt nhưng
được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, chẳng phải đi
đúng giờ, về
đúng giờ.
Sáng ngày tựu trường năm đó, ngồi bàn viết, trông
ra ngoài đường, thấy học sinh dắt nhau,ríu rít đi ngang tôi cũng
buồn buồn, nhớ bạn, nhớ trò, nhớ cảnh trường. Mới dạy có ba
năm mà tôi cũng đã quyến luyến với nghề
rồi, trách chi nhà tôo,
cô Liệp sau ba mươi bảy năm dạy học, về hưu chẳng buồn rầu, tuần nào cũng tới
trường cũ một lần cho đỡ nhớ.
Mạnh Tử,
thiên Tận tâm thượng bài 20 bảo: “Người
quân tử có ba điều vui. Trong ba điều ấy không có điều làm vua thiên hạ, mà có
điều: được bọn anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ” (Quân tử hữu tam lạc, nhi vương thiên hạ bất
dự tồn yên (…): đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi…).
Tôi nghiệm thấy ở nước ta, người nào là con
cháu nhà Nho chân chính, con cháu giai cấp sĩ phu, cũng có vài nét
chung dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái.Yêu
nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và có khiếu dạy học
nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông với tôi
thân nhau, quí nhau một phần vì vậy.
Dạy học mà được một số trò thông minh, hiếu
học, lại có thì giờ viết sách nữa thì thật là một điều vui. Hai
năm đầu tôi được hưởng cái vui đó, mà bây giờ tôi còn
giữ được nhiều kỉniệm đẹp về thời đó.
Đầu năm 1974, trong một buổi tiệc tất niên âm lịch của Hội cựu học sinh Thoại
Ngọc Hầu tổ chức ở sân trường, tôi được gặp lại vài bạn
giáo sư cũ và nhiều học trò cũ đã thành bác sĩ, dược sĩ,
hiệu trưởng…; được thấy tình niềm nở, thân mật, kính
mến của họ đối với tôi, tôi càng thấy lời Mạnh Tử là đúng. Giá tôi không viết
sách thì chưa chắc năm 1953 tôi đã bỏ trường Thoại Ngọc Hầu vì mặc dầu không
khí năm đó kém trước, nhưng học trò vẫn còn tình nghĩa với
thầy. Làm nghề viết văn, tôi may mắn được một số độc giả thanh
niên coi tôi như thầy, gọi tôi bằng thầy, tuy không học với
tôi một giờ nào. Điều đó an ủi tôi rất nhiều và chung
qui tôi
vẫn là một nhà giáo cho tới ngày nay.
Trong mấy tháng cuối, tôi rán chép cho xong
bộ Văn
học sử Trung Quốc rồi
thu xếp để lên Sài Gòn. Tôi chỉ đem theo bản thảo và một cái rương
sách cần dùng, còn thì để lại cả. Tôi không đi chào ai, ngoài hai bác
tôi. Bác tôi có vẻ buồn, nhưng tôi thưa rằng chỉ ít tháng tôi sẽ về thăm. Gặp
ai tôi cũng nói lên Sài Gòn tính việc làm ăn, chứ không vĩnh biệt Long Xuyên. Tôi đưa cô Liệp
mười lượng vàng nhờ giữ giùm, trong thâm tâm tôi là một cách trả ơn cô và để cô
dưỡng già.
Khoảng cuối tháng 11-1953 tôi rời Long
Xuyên. Tình hình chiến sự ở Bắc Việt lúc đó bất lợi cho
Pháp, ai cũng biết sắp có sự thay đổi.
[1] Trường Trung học Thoại Ngọc Hầu được thành lập năm 1948
với tên là College de Long Xuyên. Trong niên khoá đầu tiên, ban giản huấn gồm
các ông: Lê Xuân Kính làm hiệu trưởng và các thầy Từ Chấn Sâm, Đỗ Văn Hách,
Phan Văn Tài, Nguyễn Thái Hưng, Trương Văn Đức. Qua năm sau, 1949, Bộ Giáo
Dục mới chánh thức bổ nhiệm Ông Đặng Văn Kế làm hiệu trưởng. (Theo T.N.D.,
Nguồn gốc việc thành lập trường Trung học Thoại ngọc Hầu, http://www.aihuuangiang.org/xuan08/truongthoaingochau.html).
(Goldfish).
[14] Lời của Khổng Tử; có người dịch là: Điều gì mình không
muốn thì đừng làm cho người khác. (Goldfish)
[17] Trong danh mục sách trong cuốn Mười câu chuyện văn
chương thì bộ ĐCVHTQ do nhà Nguyễn Hiến Lê xuất bản năm 1955. Do đó ta
có thể suy ra rằng năm 1955 đã in xong cuốn đầu hoặc cuốn đầu và cuốn thứ hai,
năm 1956 thì in xong cuốn thứ ba hoặc cuốn thứ hai và cuốn thứ ba. (Goldfish).
[18] Có tài liệu cho rằng trong 5 khoá đầu từ 1951-1954, sinh
viên tốt nghiệp quân trường Thủ Đức được mang cấp bực thiếu uý; từ khoá thứ 6
trở đi thì sinh viên tốt nghiệp chỉ mang cấp bực chuẩn ý. (Goldfish).
[19] Có lẽ vào thời đó, bằng Cao đẳng Tiểu học đã đổi tên thành
bằng Trung học đệ nhất cấp, và lớp Đệ tứ niên đã đổi tên thành lớp Đệ Tứ (nay
là lớp 9). (Goldfish).
Chương XIX
PHÁP SA LẦY VÀ THUA Ở BẮC VIỆT
TẠI SAO PHÁP THUA?
Những người Pháp sáng suốt như Leclerc, Sainteny, Lacouture,
Devillers, Paul Mus... đều muốn điều đình vì biết chiến tranh sẽ kéo dài, càng
kéo dài càng bất lợi cho Pháp. Việt Namcó đủ ba điều kiện để thắng: địa
lợi, nhơn hòa và thiên thời.
Về địa lợi, chúng ta chiến đấu ở trên đất chúng ta, biết rõ sông
núi từng miền, quen với khí hậu. Pháp trái lại, phải đem quân viễn chinh qua,
rất tốn kém mà không quen với sông núi, khí hậu. Nước ta rất nhiều rừng, khi
địch tấn công ta mạnh quá, ta chống cự không lại rồi thì rút lui ngay vào rừng,
bụi; địch không dám đuổi theo.
Ta lại có thể tản vào trong đám dân thường, làm bộ cuốc đất hay
nhổ cỏ, hoặc núp trong hầm hố, và được dân chúng che chở cho. Bộ đội khéo được
huấn luyện, tới đâu cũng nhã nhặn, lễ phép, vui vẻ, giúp đỡ dân, cho nên rất
được lòng dân, sống với dân như cá trong nước.
Vả lại toàn dân đều coi thực dân Pháp là kẻ thù, đều muốn đuổi
chúng đi, gần như gia đình nào cũng có người theo bộ đội hoặc giúp kháng chiến,
và coi chính phủ kháng chiến là chính phủ của dân, mặc dầu những người lãnh đạo
là cộng sản. Ông Hồ Chí Minh đã giải tán đảng Cộng sản, hô hào toàn dân đoàn
kết và toàn dân đã đoàn kết thật, ít nhất là cho tới năm 1950. Cũng có một số
rất ít vì lẽ này hay lẽ khác bất mãn với chính phủ, nhưng hạng đó không dám
sống ở chiến khu mà phải về những miền bị địch chiếm. Ngay trong những miền
này, số dân có cảm tình với kháng chiến cũng rất động, có nơi đến chín phần mười.
Như vậy địch bất kì ở đâu cũng phải sống với kẻ thù, lo lắng, bất an; nhất cử
nhất động của họ đều bị theo dõi và báo cho kháng chiến biết. Kháng chiến được
điều kiện nhân hòa đó, nên lực lượng mỗi ngày một tăng: mới đâu chỉ có một số
du kích, cuối cùng có tới vài ba trăm ngàn quân kể cả chính qui và du kích, với
những sư đoàn đầy đủ võ khí nặng. Quân đội Pháp không thể tăng hoài cho kịp ta
được vì ngân sách thiếu, dân chúng họ cũng muốn chống tăng thuế, chỉ muốn sống
yên ổn thôi, không muốn chiến tranh. Họ không muốn cho con họ chết trong rừng
bụi Đông Dương để bảo vệ quyền lợi của giới tư bản.
Như vậy càng kéo dài chiến tranh thì quân ta càng mạnh lên mà
địch càng suy, tất phải tới một lúc địch không chịu nổi phải xin hòa đàm.
Điều lợi thứ ba cho ta là thiên thời. Sau thế chiến thứ nhì là
thời giải thực (décolonisation), thời tàn của chế độ thực dân lối cũ. Các dân
tộc thuộc địa khắp thế giới đều muốn đuổi thực dân đi, và cường quốc thứ nhất
là Mĩ không muốn cho Pháp chiếm lại Việt Nam; vì vậy năm 1945 Mĩ có cảm tình
với Việt Minh. Còn Nga thì không hề lên tiếng ủng hộ Hồ Chí Minh, không hiểu
tại sao. Anh, cường quốc thứ ba, nhờ có thủ tướng Attlee sáng suốt, đã tự ý trả
lại độc lập cho các thuộc địa cũ. Pháp yếu mà tham, ngu muội cố bám lấy các
thuộc địa nên hùng hùng hổ hổ đem quân viễn chinh qua tính tái chiếm nước mình,
rốt cuộc đã mất Việt Nam, sau lại mất Algérie và phải bấm bụng trả lại độc lập
cho tất cả các thuộc địa khác mà vẫn bị thế giới ghét.
Nhất là từ cuối năm 1949, cộng sản Trung Hoa đánh bại Quốc Dân
đảng, chiếm toàn thể lục địa, Tưởng Giới Thạch phải cuốn gói qua Đài Loan; rồi
tháng Giêng năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhìn nhận Cộng hòa Dân chủ
Việt Nam, thì sức kháng chiến của mình tăng lên rất mau, nhờ sự giúp đỡ của
Trung Hoa: quân đội của mình có thể “trốn” qua Trung Hoa được, họ huấn luyện
cho, viện trợ lương thực, khí giới cho.
Năm 1953, chiến tranh Triều Tiên kết liễu rồi, sự viện trợ đó
càng tăng cường, và theo Bernard Fall thì từ đó, Paris hoặc Washington còn hi
vọng hão huyền, chứ ở Sài Gòn và Hà Nội, bọn thực dân đã hết ảo tưởng, chỉ cố
vơ vét cho thật nhiều để cuốn gói về “mẫu quốc”.
Một nguyên nhân nữa mà tôi cho là nguyên nhân chính: chiến tranh
của ta có chính nghĩa, toàn dân vì chính nghĩa mà chiến đấu; quân đội của Pháp,
trừ một số thanh niên Pháp và một số lính lê dương là chiến đấu hăng, hầu hết
tinh thần rất kém, nhất là bọn “partisan”, bọn lính đánh thuê Việt mà họ tuyển.
Sau khi Bảo Đại về nước, Pháp buộc Bảo Đại phải thành lập một đạo quân Việt Nam,
Bảo Đại phải kí sắc lệnh bắt thanh niên nhập ngũ, sắc lệnh đó khiến dân càng
ghét Bảo Đại và Pháp. Chương trên tôi đã nói ảnh hưởng biện pháp ấy tới học
sinh ra sao.
Louis Saurel trong cuốn La Guerre d’Indochine (Editions
Rouff – Paris – 1966) dẫn mấy hàng này trong một số Paris Match:
“Khi sắp có trận Điện Biên Phủ, tướng Navarre (Tổng tư lệnh Pháp
ở Đông Dương) kêu 120.000 thanh niên Việt Nam nhập ngũ, thì chỉ có 7.000 trình
diện, trong số đó có 5.000 sở dĩ trình diện vì biết chắc sẽ được miễn dịch,
thải về”.
Có nhiều người tự hủy hoại thân thể thành tàn phế để khỏi bị bắt
lính. Kẻ có tiền thì đút lót, chạy chọt. Vậy là kêu 120.000 chỉ được có 2.000.
Đúng như lời ông Hồ Chí Minh nói với kí giả Mĩ Davis Schoenbrun
từ 11-9-1946, trước khi xảy ra chiến tranh ở Bắc:
“Nếu có chiến tranh thì sẽ là một cuộc chiến đấu giữa con cọp và
con voi. Nếu cọp ngưng thì bị ngà voi đâm thủng bụng liền. Nhưng nếu cọp không
ngừng thì voi lần lần sẽ mất máu và kiệt sức”.
LỰC LƯỢNG VÀ TÍNH THẦN
QUÂN ĐỘI PHÁP
Tháng Giêng 1947 khi chiến tranh mới phát, Leclerc tính phải có
500.000 quân mới thắng nổi. Không biết hồi đó ông ta đoán quân đội du kích Việt
có được bao nhiêu. Theo các nhà quân sự Mĩ năm 1960, thì muốn chặn được du kích
phải có một số quân gấp 10 số quân du kích. Muốn thắng được thì số quân phải
gấp 20. Ở Mã Lai, Anh dùng 350.000 quân mà mất 12 năm mới diệt được 8.000 Mã
cộng. Như vậy không phải là gấp 20 mà gấp 40.
Quân Pháp hồi đó chỉ có 13.000 người[1].
Leclerc đòi tăng lên 500.000, các bộ trưởng Pháp hoảng hồn, lắc đầu. Từ đó tới
1954, có tất cả 19 lần cải tổ nội các, nội các nào cũng không chịu thương
thuyết với chính phủ kháng chiến của ta, mặc dầu những người Pháp sáng suốt bảo
chỉ chính phủ đó mới được toàn dân ủng hộ. Pháp không đủ sức tăng quân số lên,
dân chúng thấy chiến tranh sa lầy sinh chán nản. Các thượng tướng hàng Tổng tư
lệnh, Tư lệnh đa số bất tài, thay đổi không biết mấy lần; tướng nào cũng tin
chiến lược của mình mới đúng, mà chẳng chiến lược nào có kết quả, nhiều lắm chỉ
gỡ nguy được một thời gian. Còn hạng thấp hơn, thiếu tướng, tá, đại úy thì theo
Lucien Bodard trong La guerre d’Indochine(3 cuốn) chỉ phè phỡn, ham
tiền, gái, huy chương. Bất đắc dĩ phải dùng quân đội Việt. Pháp tung tiền ra
mua chuộc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và đảng Bình Xuyên; nhưng hễ không
thỏa mãn được yêu sách của họ, thì họ bỏ vô bưng, mang theo khí giới.
Sài Gòn, Hà Nội thành những kinh đô ăn chơi, áp phe mà áp phe
lớn nhất là buôn đồng quan. Từ trên xuống dưới ai cũng đua nhau xin được mua
đồng quan theo hối suất chính phủ (1 đồng bạc Đông Dương ăn 17 quan), xin giấy
phép xuất nhập cảng. Được một giấy phép xuất nhập cảng rồi, người ta chỉ nhập
cảng lấy lệ một số đồ xấu giá rẻ còn dư đồng quan thì gởi các ngân hàng bên Pháp, vì buôn bán gì cũng không lợi bằng mua bán
đồng quan. Tóm lại bao nhiêu thanh niên Pháp chết, toàn dân Pháp phải đóng thuế
để nuôi mập một bọn thực dân con buôn và một số tay sai Việt Nam của
chúng.
CHIẾN SỰ Ở NAM,
BẮC
Mặt trận ở Nam (từ Đèo Cả trở vào) không có gì quan
trọng, tình hình cho tới 1954 đại khái cũng như hồi 1946. Chỉ khác mỗi ngày du
kích tăng lên nhiều hơn, các đường giao thông, nhất là đường Sài Gòn - Miền Tây
bất ổn hơn. Nhiều đoàn xe dài hai ba chục chiếc của quân đội cũng bị phục kích,
mà hễ bị phục kích thì tổn thất lần nào cũng nặng. Có chỗ bị phục kích hoài -
4, 5 lần - mà không cách nào tránh được, đồn bót bên đường không có chút công
dụng gì cả. Về sau Pháp phải cho quân đội đi dò mìn mỗi buổi sáng rồi mới cho xe
đò qua, vì vậy có nhiều chuyến xe từ Hậu Giang lên phải đậu lại ở Mĩ Thuận,
sáng hôm sau mới tới Sài Gòn. Xe đò muốn chạy thì phải đóng thuế cho Việt Minh.
Miền quê nào bị quân Pháp thường bố thì dân chúng một phần rời vào trong xa,
một phần ra các thành thị. Dân số các châu thành tăng lên rất mau, càng dễ cho
Việt Minh len lỏi vào; đồng quê bỏ hoang, kinh tế càng mau suy sụp. Những vụ xử
tử Việt gian ở làng xóm cũng tăng lên. Tình thế mỗi ngày mỗi tệ.
Ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh tự tử rồi, Hoạch lên thay, rồi Xuân, rồi
Hữu... nhưng Pháp có giao cho chút quyền hành nào đâu, họ chỉ đóng vai bù nhìn;
dù là bù nhìn thì cũng phải có chút tư cách, mà bọn họ lại thiếu tư cách quá,
quan thầy biểu sao nghe vậy, nên bị dân chúng khinh. Báo nào độc lập, có cảm
tình với kháng chiến thì bán chạy như tôm tươi, còn báo của chính quyền chỉ để
phát không cho các công sở. Điều đó đáng lẽ mở mắt cho họ chứ; nhưng họ lại cho
báo chí là tiếng nói bậy bạ của bọn “nói láo ăn tiền”, chứ dân chúng thì ghét
cộng chứ không ghét Pháp và chỉ muốn yên ổn làm ăn. Họ thật mù quáng không biết
tinh thần yêu nước của người Việt.
Khi chiến tranh nổ ở Bắc, D’Argenlieu bị gọi về Pháp, Bollaert
qua thay nhưng chỉ có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình rồi báo cáo về Pháp thôi.
Không hề ở Việt Nam, ông ta làm sao hiểu tình hình được. Người phụ tá của
ông là Pignon, Torel với bọn thực dân nói gì thì ông biết vậy. Vả lại chính phủ
Pháp cũng không có ý muốn thương thuyết, nên chẳng có gì thay đổi cả.
Ở Bắc, chính phủ kháng chiến rút lên miền Thái Nguyên, Bắc Cạn để
bảo toàn lực lượng, tổ chức, huấn luyện du kích, nắm chắc dân tâm và hô hào
toàn dân bất hợp tác với Pháp. Giai đoạn đầu là giai đoạn du kích, phải mua và
chế tạo những khí giới nhẹ; những khí giới nặng như chiến xa, đại bác đều cất
giấu hoặc hủy bỏ.
Tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch ở Bắc Cạn, chung quanh chỉ có vài
ngàn quân không đủ khí giới, nhưng trong khu Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc
Cạn có nhiều kho khí giới và nhiều quân đội. Tướng Valluy biết được tin đó, đem
một lực lượng rất mạnh, gồm 15.000 quân với nhiều xe thiết giáp, phi cơ phóng
pháo, săn giặc, bất thần đánh vào Bắc Cạn để bắt sống Hồ Chủ tịch, nhưng ông Hồ
thoát kịp. Chuyến đó Pháp không đạt được mục đích mà tổn thất nặng vì khi rút
lui, bị phục kích.
Trong chiến dịch đó, quân Pháp chiếm được con đường thuộc địa số
4 từ Cao Bằng tới Lạng Sơn, chủ ý để bao vây quân Việt ở phía Bắc, không cho
trốn qua Trung Hoa. Đại tá Beauffre chiếm Cao Bằng một cách quá dễ dàng, không
tốn một viên đạn, không gặp một lính Việt, một người dân Việt; chỉ thấy những
chiếc cầu bị phá, những khúc đường bị đào và những xóm làng đương cháy. Vài
ngày sau quân đội của ông ta mới bị phục kích. Và từ đó, con đường số 4 bị phục
kích liền liền thành một ung nhọt rỉ máu hoài, làm tiêu mòn lực lượng của Pháp.
Pháp phải dùng mấy ngàn lính bảo vệ con đường, mỗi tháng tiêu hàng tỉ quan, mà
các nghĩa địa ở Cao Bằng và Lạng Sơn thì mỗi ngày một thêm những cây thánh giá
quét vôi trắng.
Ai cũng biết đó là một thất sách nhưng các tướng Pháp tự ái,
không chịu rút lui, bỏ con đường đó, sợ mất mặt. “Đoàn viễn chinh Pháp mà chịu
thua quân đội da vàng ư?”.
Họ cố bám lấy đường đó hai năm. Cuối năm 1949, quân đội cộng sản
Trung Hoa tiến tới biên giới Bắc Việt, và năm sau quân đội Việt được Trung Hoa
huấn luyện, viện trợ khí giới nặng, đủ sức để tấn công Pháp rồi, Carpentier mới
cho phép rút khỏi Cao Bằng.
Họ rút lui chậm quá, ngày đầu chỉ được 13 cây số vì đường bị phá
hủy nhiều, họ phải sửa lại cho từng đoàn căm nhông, chiến xa, đại bác... qua.
Tướng Võ Nguyên Giáp kịp thời huy động 15.000 quân đánh họ tơi bời ở Thất Khê
và khi tàn quân của họ tới Lạng Sơn, coi lại thì thiệt mất 7.000 người.
Ở Lạng Sơn, họ mắc thêm một lỗi nữa. Lúc đó quân mình còn ở cách
xa Lạng Sơn, nếu họ đóng quân ở đó, chuẩn bị để chống cự thì Lạng Sơn chưa đến
nỗi mất; nhưng họ hoảng quá, không kịp phá hủy 1.300 tấn khí giới, quân nhu ở
Lạng Sơn, đã vội rút lui nữa về Phủ Lạng Thương. Quân ta thắng được trận đó rất
lớn, thu được tất cả khí giới đó. Quân Pháp phải bỏ tất cả khu ở phía Bắc sông
Hồng Hà mà chỉ giữ được miền đồng bằng thôi.
Thừa thế, tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục đại tấn công, lần này
tính dùng năm sư đoàn (304, 308, 312, 316, 320) để tiến về Hà Nội.
Chiến thắng đó làm cho tinh thần mình phấn khởi bao nhiêu thì
tinh thần Pháp suy sụp bấy nhiêu. Dân chúng Pháp bất mãn về chính phủ. Quân
linh Pháp gởi qua tăng viện ở Việt Namphải đi ban đêm, xuống tàu ban đêm.
Quan tài chở về Pháp cũng phải lén lút đưa lên bờ trong các nhà máy ở các bến
tàu, đã có những vụ phá hoại để ngăn chận “cái chiến tranh dơ dáy” đó.
Ở Việt Nam cũng có sự thay đổi. Cho tới cuối năm 1949,
còn là “Mặt trận quốc gia”, nhưng khi Trung Cộng đã giúp mình thì họ đòi chính
phủ kháng chiến phải có thái độ, đường lối dứt khoát. Theo Jean Lacouture và
Phillipe Devillers trong La fìn d’une guerre (Editions du
Seuil - 1960) thì Mao Trạch Đông buộc ông Hồ Chí Minh phải lập lại đảng Cộng
Sản Việt Nam đã giải tán năm 1946, và đảng Cộng sản phải ra mặt nắm địa vị lãnh
đạo. Do đó mà chính phủ kháng chiến lập ra đảng Lao Động và năm 1950-51 có
nhiều vụ thanh trừng. Lần lần chính phủ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam thành
chính phủ Cộng hòa Nhân dân; kế đó ta bắt đầu có cuộc cải cách ruộng đất theo
kiểu Trung Cộng. Đó là một lầm lẫn lớn của chính phủ kháng chiến, hậu quả rất
tai hại tới nay chưa hết, tôi sẽ xét ở sau.
Một số người ái quốc theo kháng chiến, thấy cuộc thanh trừng đó, rời bưng trở về thành.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI
Đầu năm 1946, khi lập xong chính phủ Liên hiệp Quốc gia rồi (chủ
tịch là Hồ Chí Minh, phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần; Huỳnh Thúc Kháng bộ
trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam bộ trưởng Ngoại giao...), Hồ Chủ tịch phái công
dân Vĩnh Thụy (Bảo Đại) cầm đầu một phái đoàn qua Trùng Khánh. Bảo Đại được
Tưởng Giới Thạch tiếp đãi, mời lên Nam Kinh vì chính phủ Trung Hoa đương dọn về
Nam Kinh. Chính phủ Liên hiệp Quốc gia bảo ông cứ ở Trung Hoa đừng về vội. Ông
ở lại Trung Hoa nhưng không lên Nam Kinh mà qua Hương Cảng.
Năm 1947, chính phủ Pháp theo chính sách của Bidault trong Phong
trào Cộng hòa Nhân dân (M.R.P.) nhất định không thương thuyết với ông Hồ Chí
Minh mà muốn dùng lá bài Bảo Đại, phái người qua tiếp xúc với Bảo Đại ở Hương
Cảng. Các đảng phái ở Nam: Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân đảng v.v.. tức
thì phái đại biểu tới tấp qua Hương Cảng thúc Bảo Đại về và bày mưu kế với Bảo
Đại. Dĩ nhiên Bảo Đại cũng đòi hỏi như Hồ Chí Minh: sát nhập Nam Bộ và miền cao
nguyên vào Việt Nam, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tự trị về ngoại
giao, bỏ hết các kiểm soát của Liên bang Đông Dương... Pháp biết nếu không chấp
nhận thì giải pháp Bảo Đại không thành, nên sau hai lần tiếp xúc ở vịnh Hạ Long
giữa Bảo Đại và Bollaert (12-47), rồi giữa Bollaert và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng
Nam Kì quốc, đại diện cho Bảo Đại, Pháp đành nhượng bộ (6-48) nhưng mãi đến
8-3-49, Bảo Đại mới kí một hiệp ước với tổng thống Pháp Vincent Auriol, rồi về
nước.
Tuy nhiên Bảo Đại không ở Sài Gòn mà lên thẳng Đà Lạt, lập
“triều đình” ở đó, để tỏ vẻ bất mãn về nền độc lập bánh vẽ mà Pháp trao trả
ông, và đến 7-1953, tình hình Đông Dương nguy khốn, chính phủ Laniel mới chịu
thi hành đúng đắn hiệp ước 8-3-49. Lúc đó đã quá trễ.
Bảo Đại khôn lanh nhưng nhu nhược, chỉ ham tiền, ham gái và săn
bắn, bị dân chúng khinh bỉ. Bọn tay sai của ông, trừ một hai người như Nguyễn
Hữu Trí trong đảng Đại Việt mà ông ta nghi kị vì có tư cách, còn thì “chủ nào
tớ nấy” cả. Uy tín của Hồ Chí Minh vẫn lớn và giải pháp Bảo Đại hoàn toàn thất
bại.
DE LATTRE DE TASSIGNY
VÀ VÕ NGUYÊN GIÁP
Vụ Pháp đại bại trên đường Cao Bằng - Lạng Sơn làm cho dân chúng
Pháp xúc động và một phần quân đội viễn chinh (nhất là quân Algérie) mất tinh
thần. Chinh phủ Pleven phải đưa tướng De Lattre de Tassigny qua. De
Lattre là một tướng giỏi, can đảm, cương quyết, quyết định mau, đòi được toàn
quyền ở Đông Dương, vừa làm Cao ủy vừa làm Tổng tư lệnh, và xin thêm nhiều
quân, nhiều võ khí, nhưng chính phủ chỉ cung cấp được một phần nhỏ thôi.
Ngày 17-12-50 ông ta qua, không ở Sài Gòn mà ở Hà Nội. Rất hách
dịch. Mới qua, đuổi ngay một số tướng tá về Pháp, không cho vợ con quân nhân,
công chức Pháp về nước để khỏi làm dao động tinh thần quân đội. Người Pháp gọi
ông ta là “Le roi Jean” (Quốc vương Jean).
Ông ta vừa kịp chỉnh đốn lại quân đội, tiêm tinh thần chiến đấu
vào đoàn quân viễn chinh thì tướng Võ Nguyên Giáp tấn công ở Vĩnh Yên ngày
13-1-51, cách Hà Nội độ 40 cây số với một lực lượng mạnh. Lần này là lần đầu
bên mình dàn quân để chiến đấu ở đồng bằng với một biển người. Mới đầu quân
mình thắng. De Lattre phải dùng rất nhiều phi cơ chở quân lính lên tiếp sức và
thả bom napalm (mủ cao su trộn với dầu xăng) để chặn biển người đó. Quân mình
lần đầu thấy bom napalm hoảng hốt, hỏi nhau có phải là bom nguyên tử không.
Trận đó mình thất bại nặng: 6.000 chết, 500 tù binh (theo Louis
Saurel - sách đã dẫn). Tướng Võ Nguyên Giáp nhận là lầm lẫn.
Nhưng cuối tháng 3-1951, tướng Giáp tấn công nữa ở Đông Triều
(Mao Khê, phía tây bắc Hải Phòng). Quân Pháp lại lâm nguy, De Lattre lại phải
dùng nhiều phi cơ và napalm mới cứu được. Quân mình phải rút lui vào rừng,
nhưng không thiệt hại nặng như lần trước.
Lần thứ ba, mình tấn công thình lình ở Phủ Lí và Ninh Bình, mới
đầu cũng đánh bại được quân Pháp ở Ninh Bình. De Lattre vội vàng đem quân xuống
cứu; quân mình rút lui về bờ bên kia sông Đáy, trốn vào các hang núi vôi ở miền
đó.
Ba lần đó Pháp tuy thắng nhưng rất khó nhọc và hai lần suýt
nguy; thế giới đều thấy lực lượng của mình đã ngang với Pháp rồi. Tướng Võ
Nguyên Giáp rút kinh nghiệm, biết rằng chiến đấu ở đồng bằng, mình bất lợi vì
phi cơ địch ở trên nã xuống, mình không có chỗ núp, mà rút lui tới chỗ yên ổn
thì hơi xa, nên từ đó đổi chiến lược, đưa chiến tranh lên xứ Thái. Ba lần
trước, De Lattre chỉ chống đỡ, tháng 11-1951 mới bắt đầu tấn công, đem quân lên
chiếm Hòa Bình để chận con đường Bắc Việt tiếp tế cho Thanh Hóa. Chiếm thì dễ,
nhưng giữ rất khó. Chỉ có hai đường tiếp tế Hòa Bình là con đường thuộc địa số
6 đã hư hỏng nhiều, và con sông Đà. Cả hai đường đó, khúc gần Hòa Bình đều có
nhiều bụi rậm, hoặc bờ giốc âm u, rất dễ cho quân mình phục kích và Pháp lần
nào cũng bị thiệt hại nặng, đến nỗi gọi đường thuộc địa số 6 là địa ngục, và
gọi Hòa bình là “merdier” (đám phân hay cầu tiêu). Sau cùng Pháp phải bỏ Hòa
Bình, rút về, thiệt hại nặng, gần bằng vụ Cao Bằng - Lạng Sơn.
Lần đó một đại đội quân của chính phủ Bảo Đại đào ngũ, trốn qua
phía kháng chiến, mở đầu cho nhiều vụ đào ngũ sau này.
De Lattre thất bại, lại đau nặng vì bệnh ung thư, về Pháp ít lâu
thì chết. Ông ta còn mắc một lỗi nữa là xây một vòng đai đồn bót bao vây miền
đồng bằng Bắc Việt, đã tốn tiền, lại cầm chân một số binh lính để giữ đồn, mà
chẳng được ích gì. Quân mình vẫn len lỏi vào miền đồng bằng như trước.
NAVARRE VÀ TRẬN
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tướng Navarre qua thay De Lattre. Tài kém xa De
Lattre, uy tín cũng kém mà lại tự phụ, không chịu nghe ý kiến ai, cho chỉ chiến
lược của mình mới đúng.
Khoảng cuối năm 1952, quân mình chiếm được Nghĩa Lộ ở ngang
Tuyên Quang, giữa khoảng từ Nhị Hà tới sông Đà. Pháp muốn phục thù, đem 30.000
đánh vào phía sau quân mình ở Phủ Đoan gần Tuyên Quang, không gặp quân kháng
chiến, chỉ phát giác và phá hủy được ít kho súng đạn rồi rút về, thiệt hại độ
một đại đội. Thất bại nữa.
Thất bại thứ ba ở miền Trung, phía ngoài Huế, bên con đường Quốc
lộ số 1, từ Vân Trình tới Quảng Trị, nơi mà quân Pháp gọi là “con đường sầu
thảm” vì bị phục kích rất thường. Pháp dùng cả thủy quân, lục quân với rất
nhiều phi cơ yểm trợ, tính bao vây, diệt trọn quân kháng chiến, nhưng quân mình
trốn thoát được; Pháp lục soát từng nhà một ở làng Phủ An, tìm được một ít khí
giới, bắt được một số tù binh, rồi vội vàng rút lui.
Sau cùng là trận Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là một lòng chảo
dài 17 cây số, rộng 9 cây số, giữa có con sông Nam Youn[2],
chung quanh là rừng núi, nằm ở phía dưới Lai Châu, gần biên giới. Tháng
11-1953, Navarre dùng phi cơ thả quân xuống chiếm lòng chảo đó để chặn đường
quân mình qua Lào, rồi rút quân ở Lai Châu về đó, xây cất đồn binh, sân bay. Từ
tổng tư lệnh Navarre tới tư lệnh miền Bắc Cogny và tướng chỉ huy Điện Biên Phủ
là De Castries đều tin rằng quân kháng chiến không sao hạ Điện Biên Phủ được,
vì không đủ đại bác, không đủ người để chở khí giới quân nhu tới nơi xa xôi đó;
và nếu chở được đại bác thì cũng bị hủy diệt vì phi cơ Pháp ở trên bắn xuống,
đại bác Pháp ở lòng chảo bắn lên. Họ không thể ngờ được rằng tướng Võ Nguyên
Giáp cho làm cả trăm cây số đường rừng, sửa sang 200 cây số đường nữa, đưa được
năm sư đoàn và rất nhiều đại bác tới Điện Biên Phủ mà chỉ nhờ sức của cả trăm
ngàn người đi dân công với cả ngàn chiếc xe đạp Peugeot cũ để thồ mỗi chiếc 200
ki lô trong rừng. Pháp về sau biết vậy mà không sao chặn được vì phi cơ bay
trên cao không thấy, còn đem quân vào rừng để đánh thì không dám.
Đại bác tới, mình đào hang trong núi để giấu, hễ bắn xong vài
phát lại kéo thụt vào trong hang rồi lấy lá cây phủ miệng hang, Pháp không dò
ra được, mà có được thì máy bay cũng không có cách nào bắn phá được. Vậy là
chung quanh Điện Biên Phủ có vô số họng đại bác từ trên cao nã xuống sân bay,
đồn trại của địch, mà địch không có cách nào chống đỡ.
Trận Điện Biên Phủ bắt đầu từ 13-3-1954. Khi các căn cứ ở phía
Bắc: Gabrielle, Béatric, Anne Marie bị đại bác của ta san phẳng thì Điện Biên
Phủ rung rinh rồi. Tới phiên hai sân bay bị phá hủy nữa, sự tiếp tế chỉ còn
trông vào máy bay thả dù xuống - việc này rất mạo hiểm mà kết quả không được
bao vì máy bay không dám xuống thấp, một nửa số tiếp tế rớt vào khu vực của ta
- lúc đó quân đội Pháp như cua ở trong giỏ, sinh mạng đếm từng ngày. Pháp cầu
viện Mĩ, xin Mĩ dùng bom nguyên tử, Mĩ không chịu, xin Mĩ ồ ạt đem quân lính và
phi cơ sang, Mĩ cũng không chịu. Mà rốt cuộc ngày 7-5-1954, trong khi sáu nước:
Pháp, Nga, Trung Hoa, Mĩ, Anh, Việt, đương họp ở Genève để tìm một giải pháp
chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì Điện Biên Phủ thất thủ, tướng De Castrie
phải đầu hàng.
Theo Saurel, Pháp thiệt hại 16.000 người trong số đó 1.500 người
chết, 4.000 bị bắt làm tù binh. Chắc cuốn La guerre d’Indochine của
Saurel đã in lộn. Con số 10.000 tù binh Jules Roy đưa ra trong cuốn Điện
Biên Phủ (René Julliard - 1963) có phần đúng hơn.
Việt Nam, theo sự phỏng đoán của bộ tham mưu Pháp, thiệt
hại gần gấp đôi: từ 25.000 đến 30.000 người, trong số đó có từ 10.000 đến
12.000 người hi sinh.
Một tờ báo ngoại quốc bảo sau trận Waterloo chưa bao
giờ Pháp thua một trận lớn như vậy. Khắp thế giới đều phục sự anh dũng của
người Việt.
De Gaulle, D’Argenlieu, Bidault có bị lương tâm cắn rứt không
nhỉ? Biết bao thanh niên bỏ mạng ở Việt Nam vì họ. Nhưng thời đại dân
chủ này, có một ông lớn nào chịu một trách nhiệm gì đâu? Giá như Nhật Bản thời
trước thì đã có dăm ba vụ hara kiri (tự mổ bụng) rồi.
SÁCH TÔI DÙNG ĐỂ VIẾT
VỀ CHIẾN TRANH VIỆT - PHÁP
Sách ngoại quốc (Anh, Pháp) viết về chiến tranh Việt Pháp rất
nhiều, tôi đọc được trên một chục cuốn. Dưới đây là những cuốn chính, tôi dùng
làm tài liệu:
Philippe Devillers - Histoire du Viet Nam de
1940 à 1952 (Ed. du Seuil - 1951)
Paul Mus - Sociologie d'une guerre (Ed. du
Seuil - 1952)
Jean Lacouture et Philippe Devillers… - La fin d'une
guerre… (Ed. du Seuil - 1960)
Jean Lacouture - Ho Chi Minh (Ed. du Seuil –
1965). Les deux Viet Nam (Payot -1967)
Bernard Fall - Guerres d’Indochine France 1946-
1954; Amérique 1957 (Ed. J’ai lu - 1965)
Bốn tác giả trên đều là học giả hiểu dân tộc Việt Nam,
không hiếu chiến.
Jules Roy - La bataille de Dien Bien Phu (Julliard
- 1963). Tác giả rất ghét Navarre.
Lucien Bodard - La guerre d'Indochine (3 cuốn)
(Gallimard - 1963)
Hai nhà trên là kí giả.
Louis Saurel – La guerre d’Indochine (Ed. Rouff
- 1966)
Cuốn này cho ta một tổng quan sơ lược nhưng rõ ràng, khá đầy đủ… Có vài lỗi nhỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét