Linh Mục Cao Văn Luận
39. Chế độ bị dư luận và Chính quyền Mỹ
chống đối
Vào
năm 1961 tôi bắt đầu nghe những luồng dư luận bất mãn đối với Tổng Thống Diệm
trong nhiều thành phần dân chúng.
Ít
ai dám chỉ trích lớn tiếng, nhưng nhiều lúc tôi nhận thấy nhiều người khi phải
nghe ca tụng suy tôn đã lấy làm ngượng ngập, khó chịu.
Sự
bất mãn đó đã có cơ hội xuất hiện trong biến cố 11.11.1960. Vụ đảo chánh hụt
năm đó không phải chỉ lôi cuốn được một số sĩ quan bất mãn mà thôi, mà còn kéo
theo nhiều nhà trí thức, và giả sử trong thời gian cô lập được Dinh Độc Lập, sử
dụng được đài phát thanh, họ chỉ cần biết dùng đài này để đưa ra một vài đường
lối xã hội thật táo bạo, thì tình thế đã có thể thay đổi ngay lúc bấy giờ không
cần chờ đến 1963. Nhóm đảo chánh cũng không chú trọng đến công việc xách động
quần chúng.
Xách
động quần chúng là một việc làm dễ nếu biết và dám làm, nhưng rất khó nếu không
hiểu tâm lý và những phản ứng quần chúng. Hơn nữa thời bấy giờ dân chúng đang
sống yên ổn, thịnh vượng cho nên ít ai muốn xáo trộn. Sự bất mãn chỉ mới bắt
đầu trong số trí thức không được trọng dụng, hay trong một số người sáng suốt
nhận thấy trước con đường cụt mà chế độ đang đi dần vào.
Tôi
đã thấy buồn cười khi nghe những hô hào hiệu triệu ngây ngô trên đài phát
thanh. Tôi không nhớ rõ vì một công việc gì liên quan đến Đại Học Huế tôi có
việc vào Sài Gòn trước ngày 11-11-1960 vài hôm và đêm đó tôi đang ở tại một nhà
gần Dinh Tổng Thống Diệm và ông Nhu không có vẻ lo sợ gì cho lắm.
Các
đơn vị Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống tuy chỉ được võ trang bằng những loại
vũ khí nhẹ, nhưng rất trung thành không một nhóm nào bị lung lạc. Quân Đội nói
chung đã không có đơn vị lớn nào ngã về phe đảo chánh. Ngay sáng hôm sau những
điện tín bày tỏ sự trung thành được tấp nập gửi đến ông Diệm, sáng ngày 12-11
tôi làm lễ tạ ơn trong Dinh. Ông Diệm, ông bà Nhu và đầy đủ những người thân
cận tham dự buổi lễ đó. Ông Diệm cũng tin tưởng ở cái thiên mệnh mà ông coi như
được Chúa giao phó cho ông.
Biến
cố này không thay đổi tình thế bề ngoài nhưng đã làm cho ông Diệm, ông Nhu bà
Nhu và nhiều thuộc hạ thân tín trở nên độc đoán hơn. Những vụ thanh trừng, bắt
bớ tiếp theo sau hẳn là đã có tác dụng dâng cao thêm sự bất mãn trong nhiều
thành phần dân chúng.
Đặc
biệt, nó làm cho nhiều người thấy rằng chế độ ông Diệm không phải là một chế độ
không thể lật đổ được, và điều đó có lẽ làm cho nhiều người nghĩ đến câu tục
ngữ: Thua keo này bày keo khác.
Sáng
hôm sau, dân chúng, nhiều đoàn thể, nhiều đại diện các cơ quan vội vàng kéo vào
Dinh hoan hô và bày tỏ sự ủng hộ đối với ông Diệm. Tôi vì tò mò đứng núp sau
một chiếc cột trước Dinh nhìn đám đông đang kéo vào chật sân trước Dinh. Tôi
thoáng thấy ông bà Nhu cũng nấp sau một chiếc cột khác ở góc Dinh nhìn ra. Ông
Diệm từ trong phòng bước ra đón nhận những lời hoan hô. Mặt ông hớn hở, kiêu
hãnh. Khi đi ngang chỗ tôi đứng nấp, ông cau mày hỏi khó:
-
Sao Cha lại ra đây?
Ý
ông hình như muốn trách tôi tại sao tôi lại ra đây để đón nhận và hưởng những
sự hoan hô, ủng hộ đáng lẽ chỉ dành riêng cho ông. Tôi khó chịu và bỏ vào trong
lập tức. Tôi hiểu thêm một khía cạnh của con người ông Diệm: Tự kiêu, độc đoán,
khó dùng ai được. Sự kiện nhỏ mọn này bắt đầu làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn và
từ đó về sau, trước mọi việc làm của ông Diệm, tôi suy nghĩ đắn đo, và thường
tìm ra hai lối giải thích, một lối không lợi gì cho ông.
Cũng
từ đây, tôi bớt thân với ông Diệm. Mặt khác những công việc quanh Đại Học Huế
đã ổn định, điều hòa, tôi ít cần phải vào Dinh để yêu cầu ông Diệm trực tiếp
giúp đỡ hay giải quyết một vấn đề gì quan trọng. Cũng từ đây tôi chỉ chú ý đến
những công việc của Đại Học Huế, nó đã vững, tôi cố làm cho nó mạnh.
Có
lẽ vì tâm trạng đặc biệt mà những biến cố dồn dập năm 1963 làm cho tôi hơi ngỡ
ngàng. Năm đó, Đức Cha Ngô Đình Thục đã được giữ chức Tổng Giám Mục địa phận
Huế, và nghe nhiều tin đồn nói rằng có những cuộc vận động để đưa Đức Cha Thục
lên làm Hồng Y đầu tiên của Việt Nam. Tôi cũng chẳng quan tâm nhiều đến việc
này.
Vào
khoảng tháng ba 1963 nhiều ông Dân Biểu, Tổng Trưởng và những người tai mắt
trong chính quyền thời đó đã tổ chức một Ủy Ban mừng Lễ Ngân Khánh (25 năm thụ
phong Giám Mục) của Đức Cha Thục. Ủy Ban này bắt đầu quyên tiền khắp nước. Tôi
nghĩ là ngoài số người muốn tìm cơ hội để xu nịnh, lợi dụng cơ hội tâng công
với họ Ngô, cũng có một số người Công Giáo thành tâm muốn bày tỏ lòng kính mến
khâm phục đối với Đức Cha.
Khi
còn làm Giám Mục địa phận Vĩnh Long, Đức Cha Thục đã làm được nhiều việc hữu
ích cho địa phận và cho dân chúng trong vùng. Sự kính mến khâm phục thành thật
đối với Đức Cha Thục không phải là không có và số người thành thật không phải
là ít.
Trong
việc tổ chức mừng Lễ Ngân Khánh Đức Cha Thục (nhằm ngày 29.6.1963) có vài chi tiết làm tôi chú ý.
Một
buổi sáng cuối tháng ba, vào khoảng 7 giờ, Đức Cha Thục đến gặp tôi tại nhà
riêng, và nói thẳng với tôi:
-
Cha Luận à, bây giờ các anh em ở Sài Gòn có lập một Ủy Ban tổ chức mừng Lễ Ngân
khánh của tôi, do ông Chủ Tịch Quốc Hội đứng đầu, gồm cả ông Bộ Trưởng Giáo Dục
Nguyễn Quang Trình và Viện Trưởng Đại Học Sài Gòn Lê Văn Thới với vài ông Bộ
Trưởng nữa. Cha là Viện Trưởng Đại Học Huế, Cha nên vào trong Ủy ban đó.
Ngay
lúc này, tôi cho rằng mình đứng vào Ban Tổ Chức Mừng Lễ Ngân Khánh Đức Cha Thục
cũng là một việc tự nhiên. Tôi chỉ hơi ngạc nhiên về cái việc là đích thân Đức
Cha lại đến gặp tôi nói chuyện đó. Tôi nghĩ là đáng lý một người nào đó trong
Ủy Ban Tổ Chức sơ khởi bàn với tôi việc đó thì đúng hơn.
Tôi
im lặng một lúc rồi thưa:
-
Thưa Đức Cha, cố nhiên con có bổn phận giúp vào việc tổ chức Lễ Ngân Khánh của
Đức Cha. Trước đây khi chưa nghe nói đến Ủy Ban, con đã có ý định làm vài công
việc nhỏ để mừng Lễ Ngân khánh của Đức Cha.
Đức
Cha Thục lần đó chỉ nói với tôi thế thôi, rồi ra về. Tôi nhân danh Viện Trưởng
Viện Đại Học Huế viết thư cho ông Chủ Tịch Quốc Hội (Trương Vĩnh Lễ) hỏi về Ủy Ban tổ chức mừng Lễ Ngân Khánh
Đức Cha Thục và tỏ ý sẵn sàng gia nhập Ủy Ban này. Tôi thông báo cho ông biết
rằng vì Huế xa xôi tôi lại bận bịu nên cử một đại diện vào hợp tác trực tiếp
với Ủy Ban là ông Nguyễn Hạnh.
Tôi
cho Nguyễn Hạnh tới tiếp xúc với Ủy Ban. Ông Hạnh có viết thư về cho tôi biết
là Ủy Ban có tổ chức một bữa tiệc với điều kiện là mỗi người 5000 đồng. Ông
Hạnh được giao cho 20 phần ăn, và chỉ tìm được 10 người (những thương gia ở Chợ Lớn) đóng tiền dự tiệc, còn 10 phần ăn còn lại thì ông phải nhận hết và
đóng tiền.
Vào
tháng tư tôi nhận thấy những công việc chuẩn bị mừng Lễ Ngân Khánh của Đức Cha
Thục tiến đến một qui mô quá rộng lớn có hy vọng thành một quốc lễ chính thức.
Các Tỉnh cũng lập một Tiểu Ban tổ chức mừng Lễ Ngân Khánh và dĩ nhiên do ông
Tỉnh Trưởng đứng đầu, cũng có những trò đi quyên góp tiền bạc, và tất nhiên là
xảy ra nhiều trường hợp cưỡng bách, hay ít ra áp lực đóng tiền cho Tiểu Ban.
Dư
luận dân chúng bắt đầu xôn xao bàn tán chế nhạo. Tôi thấy điều này không có lợi
gì cho Quốc Gia và Giáo Hội, trái lại có thể làm cho Giáo Hội mang tiếng và làm
cho chế độ bị chỉ trích nặng nề và có cớ. Tôi nghĩ rằng chỉ nên tổ chức mừng Lễ
Ngân Khánh của Đức Cha Thục trong phạm vị Địa Phận hay Giáo Hội mà thôi. Tôi
băn khoăn và đến gặp ông Cẩn. Lúc bấy giờ mọi người quanh ông đều gọi ông là
cậu, cậu Cẩn. Tôi cũng không làm cách gì khác hơn.
-
Thưa cậu, Lễ Ngân Khánh 25 năm làm Giám Mục của Đức Cha là một ngày đáng ghi
nhớ đối với người thân cũng như đối với Giáo Hội. Đức Cha lại đang là Niên
Trưởng các Giám Mục Việt Nam. Tôi nghĩ là nên tổ chức mừng Lễ Ngân Khánh của
ngài một cách trọng thể, nhưng chỉ nên tổ chức trong phạm vi Giáo Hội và Địa
Phận mà thôi, chớ không nên tổ chức trong phạm vi quốc gia theo một thứ Quốc
Lễ. Vậy cậu nên tìm cách nói với Đức Cha nên tổ chức Lễ Ngân Khánh của ngài một
cách vừa phải thôi.
Ông
Cẩn gật đều đồng ý:
-
Con đồng ý với Cha hoàn toàn. Con cũng thấy trong tình thế hiện tại, nhiều
người bất mãn với chúng ta, đang bới móc tìm cơ chỉ trích và gây hiềm khích với
chính phủ. Làm như vậy thực ra không có lợi chi cả. Nhưng Cha biết đó, từ khi
Đức Cha về Huế, con chẳng còn quyền hành gì nữa. Mọi việc Đức Cha bao biện hết.
Thậm chí những anh em thân tín cũ ra vào gặp con còn bị người của Đức Cha theo
dõi và báo cáo cho Đức Cha. Gia đình chúng con sau khi anh Khôi mất, thì Đức
Cha là kẻ quyền huynh thế phụ, lớn tuổi hơn con nhiều và nghiêm khắc lắm, con
không nói gì với Đức Cha cả. Hay nhất là Cha nên vào gặp Tổng Thống, xin Tổng
Thống nói lại với Đức Cha, thì may ra Đức Cha còn nghe theo mà không giận.
Vì
việc đó tôi vào Sài Gòn xin gặp ông Nhu trước. Tôi định trình bày với ông Nhu
những điều đã bàn với ông Cẩn, nhưng sợ đường đột nên tôi mở đầu bằng một vấn
đề khác:
-
Thưa ông Cố Vấn, tôi xin gặp ông Cố Vấn để được biết đại cương về Quốc Sách Ấp
Chiến Lược. Đại Học Huế nhận được thông tri kêu gọi các Giáo Sư đi dự khóa huấn
luyện về Ấp Chiến Lược tại suối Lồ Ồ. Tôi muốn cho họ hăng hái đi dự khóa huấn
luyện đó nên muốn hiểu rõ hơn mà về giải thích cho họ rõ.
Ông
Nhu say mê nói về những cái hay cái tốt của Ấp Chiến Lược sẽ đạt được hai mục
đích lớn: Bảo về an ninh nông thôn và thực hiện công cuộc cách mạng nông thôn.
Ông Nhu nói liên miên về Ấp Chiến Lược hơn một giờ đồng hồ. Lúc nghe ông thuyết
xong tôi vào vấn đề.
-
Thưa ông Cố Vấn, nhân dịp này tôi muốn trình bày với ông Cố Vấn một việc. Lễ
Ngân Khánh của Đức Cha nhằm vào cuối tháng sáu. Bây giờ đã có một Ủy Ban Tổ
Chức Lễ đó, gồm ông Chủ Tịch Quốc Hội và nhiều Bộ Trưởng. Theo lề lối hoạt động
của Ủy Ban thì tôi xem chừng họ muốn tổ chức Lễ Ngân khánh hết sức trọng thể,
không thua gì một Quốc Lễ. Trong tình thế hiện tại, tôi và ông Cẩn đã có bàn
bạc với nhau nếu tổ chức trọng thể quá sẽ bất lợi cho chính thể cũng như cho
Giáo Hội.
Ông
Nhu cũng trả lời như ông Cẩn:
-
Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với nhận định của Cha. Tôi và anh tôi đôi khi buồn
Đức Cha vì ngài lầm lẫn phạm vi Tôn Giáo với phạm vi Quốc Gia. Khi ở Vĩnh Long,
tôi cũng đã không biết làm sao khi thấy từng đoàn từng lũ Dân Biểu, Tỉnh
Trưởng, Bộ Trưởng nườm nượp kéo đến chầu Đức Cha. Tôi tưởng rằng Đức Cha ra Huế
xa xôi một chút sẽ bớt được cái nạn đó, không ngờ họ lại viện cớ Lễ Ngân Khánh
của ngài để làm ồn ào hơn. Nhưng Cha cũng biết, gia đình chúng tôi anh cả mất
sớm, Đức Cha tuy là anh lớn trong gia đình, nhưng đối với chúng tôi chẳng khác
gì bậc Cha. Riêng tôi thì biết là không có cách gì, mà cũng không dám nói thẳng
với Đức Cha. Chỉ còn Tổng Thống may ra có thể can gián được Đức Cha vài phần,
để rồi tôi liệu nói với Tổng Thống khuyên can Đức Cha bớt đi đôi chút, nhưng
tôi sợ cũng không được.
Tôi
về Huế lại với tâm trạng buồn rầu, chán nản khó chịu và lo lắng. Dựng được một
uy quyền, thế lực như ông Diệm không phải là chuyện dễ, nhưng làm suy giảm uy
quyền thế lực đó thì dễ lắm. Tôi không hy vọng có ai tài giỏi hơn thay thế được
ông Diệm. Cho nên chẳng những vì cảm tình và sự tin tưởng nơi ông Diệm mà tôi
lo lắng cho tương lai của chính phủ ông Diệm, mà cũng vì số phận quốc gia mà
tôi lo lắng.
Nhưng
tôi không có tư cách hay thẩm quyền gì đáng kể để chen lấn vào những việc làm
của chính ông Diệm. Hình như độ sau này chẳng hiểu vì lý do nào, gia đình ông
Diệm có vẻ bớt tin cậy nơi tôi mặc dầu sự giao thiệp vẫn bình thường, thân
thiết.
Những
nỗi lo lắng của tôi quả thực chẳng sai chút nào.
Ngày
7-5 Đức Cha đi viếng La Vang trở về Huế dọc đường nơi nào cờ Phật Giáo cũng
tung bay. Điều này chẳng có chi lạ. Dân Huế 90 phần trăm theo Đạo Phật và tại
đây từ ngày tôi có mặt (1949) Phật Giáo hoạt động rất mạnh, có tổ chức qui củ. Ở Huế nơi nào cũng
có Chùa chiền, Sư Tăng. Đức Cha Thục có vẻ không bằng lòng, và ngay chiều đó,
cho mời Đại Biểu Chính Phủ là ông Hồ Đắc Khương vào Tòa Tổng Giám Mục Huế khiển
trách tại sao đã có Sắc Lệnh cấm treo cờ tôn giáo hay đảng phái bên ngoài trụ
sở hoặc khuôn viên mà nay Phật Giáo lại treo cờ đầy đường như vậy.
Ông
Đại Biểu Chính Phủ Hồ Đắc Khương không biết quyết định thế nào, vì ông cũng dư
biết rằng nhắc lại Nghị Định cấm treo cờ Phật Giáo ngay lúc này thật là không
thích hợp, có thể bị hiểu lầm là cố tình làm nhục Phật Giáo, cho nên ông đánh
điện vào Dinh Độc Lập xin chỉ thị. Không rõ điện văn của ông Đại Biểu Chính Phủ
có đến Tổng Thống hoặc ông Cố Vấn hay không nhưng có điện văn trả lời từ văn
phòng Phủ Tổng Thống đánh ra Huế xác nhận rằng Nghị Định cấm treo cờ tôn giáo
hay đảng phái bên ngoài khuôn viên và trụ sở vẫn có giá trị.
Ông
Đại Biểu Chính Phủ ra lệnh cho chính quyền địa phương tại miền Trung phải triệt
hạ cờ Phật Giáo. Ông Tỉnh Trưởng Thừa Thiên là ông Nguyễn Văn Đẳng bị đặt trong
một tình thế hết sức khó xử và khẩn cấp, ông xin vào gặp ông Cẩn để giải bày và
xin bỏ qua việc triệt hạ cờ Phật Giáo, ít ra cho hết ngày Lễ Phật Đản năm nay.
Ông Cẩn tỏ ra hiểu biết ra lệnh cho Tỉnh Trưởng rằng người ta (Phật Tử) đã lỡ treo thì cứ để treo hết ngày lễ, sau sẽ liệu.
Ông
Cẩn còn cho Tỉnh Trưởng Thừa Thiên đánh điện tín đi tất cả các Tỉnh miền Trung
chỉ thị mật không được hạ cờ Phật Giáo. Tưởng vụ này tạm yên được, và cách giải
quyết đó có thể trì hoãn được. Nhưng tối hôm 7 tháng 5 có Nhà Sư thuyết pháp ở
Chùa lớn ở Huế như Từ Đàm, Bảo Quốc, Diệu Đế v.v…Quần chúng địa phương đến tham
dự đông đảo. Nhiều bài thuyết pháp đã lên tiếng đả kích chính quyền một cách
nặng nề, tố cáo chính quyền có chủ trương đàn áp Phật Giáo và nêu lệnh cấm treo
cờ tôn giáo như nhắm riêng vào Phật Giáo. Các Nhà Sư cũng nhắc đến những vụ lễ
lạc của Công Giáo trước đây ít lâu, lúc đó cờ Công Giáo đã được treo khắp đường
phố, sao lại không cấm, mà nhằm ngày Lễ Phật Đản rồi cấm.
Các
tổ chức Phật Tử ở Huế yêu cầu phát thanh trực tiếp các cuộc thuyết pháp và các
buổi lễ Phật Đản của Chùa Từ Đàm. Vì có nhiều bài thuyết pháp đả kích chính
quyền, Tòa Tỉnh và Tòa Đại Biểu miền Trung ngần ngại không phát thanh. Một đám
Phật Tử đông đảo kéo đến đài phát thanh biểu tình đòi phải phát thanh trực tiếp
và trọn vẹn các bài thuyết pháp và các cuộc lễ Phật Giáo.
Trong
lúc các nhà chức trách tìm cách dàn xếp, thì một trái lựu đạn không biết từ đâu
đã nổ ngay giữa đám Phật Tử biểu tình làm nhiều người chết và bị thương. Cuộc
tranh đấu của Phật Giáo chính thức bùng nổ từ ngày đó.
Có
vài giả thuyết được nêu lên về xuất xứ của trái lựu đạn.
Giả
thuyết thứ nhất, và khó tin nhất cho rằng một cán bộ chính quyền hoặc là binh
sĩ hay cảnh sát bảo vệ đài phát thanh đã ném trái lựu đạn đó. Một giả thuyết
thứ hai đổ cho mật vụ Mỹ là tác giả trong vụ này. Giả thuyết thứ ba thì cho
rằng chính phe đấu tranh, tôi xin nói là phe đấu tranh trong đó còn nhiều thành
phần khác ngoài Phật Giáo đã thâm độc cho ném trái lựu đạn gây nên cảnh đổ máu
để tạo căm phẫn trong quần chúng Phật Tử hầu kích động mạnh hơn cuộc đấu tranh
và dồn hai bên đến cái thế một sống một chết với nhau.
Tôi
chỉ nêu lên những giả thuyết được bàn tán lúc bấy giờ, mà không nghiêng theo
giả thuyết nào.
Tôi
thấy tình hình gay cấn, và không lối thoát. Chiều hướng của cuộc đấu tranh và
tương lai chế độ rõ rệt lắm rồi. Tôi lo sợ bị lôi cuốn vào một tình trạng khó
xử. Ở cương vị một Viện Trưởng Đại Học, với truyền thống tự trị của Đại Học mà
tôi đã thâm nhiễm từ Pháp, tôi không thể nào đi ngược lại các phong trào sinh
viên mà tôi biết chắc trước sau cũng bùng lên.
Thực
tình tôi không chủ trương lánh mặt hay chạy trốn, nhưng biết mình bất lực trong
các cuộc hỗn loạn sắp tới nên chỉ mong thoát ra ngoài. Tôi đi Mỹ, và sáng ngày
9-5 tôi vào chào Đức Cha Thục để từ giã vào Sài Gòn thu xếp lên đường.
Tôi
thưa với Đức Cha:
-
Thưa Đức Cha, những sự việc vừa xảy ra mấy hôm nay làm cho con lo ngại lắm. Thủ
phạm không rõ là ai, nhưng đã có chuyện đổ máu, con sợ sự chống đối sẽ lan rộng
và nổ mạnh. Con nghĩ chính quyền nên mềm dẻo, khéo léo hơn một chút.
Đức
Cha Thục có vẻ coi thường:
-
Cha cứ yên tâm ra đi đừng lo chi cả, các phong trào chống đối của quần chúng
bất quá chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có chi phải sợ.
-
Đức Cha nhận định như thế thật đúng nếu bên trong có những nguyên nhân sâu kín
và mạnh mẽ. Nhưng xin Đức Cha nhìn vào những nguyên nhân bên trong. Công Giáo
trước ngày di cư, ở miền Nam chỉ có vài trăm ngàn người. Sau di cư nhờ gần 1
triệu dân Công Giáo từ Bắc vào, con số đông hơn trước nhưng tỉ lệ cũng vẫn chỉ
là 10 phần trăm hay kém hơn trong dân số Việt Nam, vậy mà hiện nay mọi chức vụ
lãnh đạo quốc gia đều trong tay người Công Giáo.
Chỉ
riêng điều này cũng có thể gây những bất mãn và chống đối trầm trọng, chưa nói
chi đến những lầm lỗi không thể tránh được của bất cứ chính quyền nào.
Đức
Cha Thục xem chừng không muốn nghe và cũng chẳng để ý chi đến những điều tôi
nêu lên. Đức Cha trao cho tôi một số thư từ gửi tay cho các Cha bên Mỹ.
Tôi
vào Sài Gòn được mấy hôm thì có giấy mời đi dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất
Đại Học Sư Phạm Thủ Đức ngày 14-5. Sau lễ Tổng Thống và quan khách gồm đủ Ngoại
Giao Đoàn đi xem xét sơ đồ và khu đất xây trường. Lúc bấy giờ Đại Sứ Nolting
đến gần tôi hỏi về tình hình ở Huế.
-
Theo ý Cha thì chính phủ có lỗi gì trong vụ đài phát thanh Huế vừa rồi không?
Tôi
ngập ngừng một lúc, rồi thành thật trả lời:
-
Bàn chuyện lỗi phải của ai, thì hơi khó, nhưng tôi cho rằng chính phủ phải chịu
trách nhiệm một phần, vì đã cố tình nhắc lại Nghị Định cấm treo cờ đúng vào
ngày Lễ Phật Đản. Tôi cho hành động này không đúng lúc, không thích hợp, dù
nghị định có đứng đắn, hữu lý. Cách đây chỉ ít tháng có nhiều cuộc lễ bên Công
Giáo, như lễ tựu chức các Giám Mục, và các cuộc rước kiệu, bên Công Giáo đã
treo cờ khắp nơi bên ngoài khuôn viên nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh cấm, và
không thi hành lệnh cấm một cách nghiêm chỉnh?
Bây
giờ nhằm vào lúc Phật Giáo mừng Lễ Phật Đản mà nhắc lại lệnh cấm treo cờ thì có
thể hiểu là cố tình nhằm vào Phật Giáo, nhục mạ và đàn áp Phật Giáo. Vả lại khi
ra lệnh cấm treo cờ đã không có một sự giải thích nào cho dân chúng hiểu rằng
lệnh này áp dụng cho mọi tôn giáo, và chỉ có mục đích tránh sự lạm dụng treo
cờ.
Tôi
không hiểu trong thâm tâm ông Nolting nghĩ gì chỉ thấy lúc đó ông gật gù.
-
Cha nói có lý.
Sau
đó câu chuyện không có gì đặc biệt.
Ngày
15-5 tôi vào Dinh Độc Lập gặp ông Diệm để chào ông đi Mỹ, ông Diệm trách tôi:
-
Sao hôm qua Cha chỉ trích chính phủ trước một Đại Sứ ngoại quốc như vậy?
Tôi
thật tình thưa lại:
-
Thưa Tổng Thống tôi không dám chỉ trích chính phủ trong câu chuyện tôi chỉ đưa
ra một vài giải thích sau khi tường thuật cho ông Đại Sứ Mỹ nghe những biến cố
xảy ra ở Huế. Tôi thiết tưởng trong một quốc gia tự do mọi người đã được biết
những chuyện đó, và cũng có quyền phê phán. Nhưng thực tình tôi không phê phán
điều gì đáng coi là bất lợi cho chính quyền. Tôi chỉ nói rằng đáng tiếc là khi
ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài khuôn viên chùa hay nhà thờ, Cán Bộ Thông
Tin đã không giải thích rõ điều đó là có mục đích để làm cho cờ Quốc Gia trở
nên có giá trị hơn, thành ra gây sự hiểu lầm cho một số người, và gây cớ cho họ
bất mãn và chỉ trích.
Ông
Diệm im lặng, nhưng vẫn có vẻ không bằng lòng. Tôi tiếp:
-
Thưa Cụ, nhân dịp này, tôi xin thưa dài dòng hơn đôi chút. Nếu Cụ muốn hiểu tâm
trạng những Phật Tử Việt Nam Cụ nên đặt mình vào địa vị của họ. Trước khi Cụ
về, số giáo dân chỉ vài trăm ngàn, nhờ phong trào di cư, có thêm gần một triệu
giáo dân từ Bắc vào. Tỷ lệ Công Giáo trong toàn quốc vẫn là thiểu số, mà nay
Tổng Thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người Công Giáo đảm
trách. Dù không có sự thiên vị nào, mà chỉ dựa theo tài năng mà chọn người, thì
bên ngoài người ta cũng có thể hiểu rằng Cụ thiên vị bên Công Giáo mà bạc đãi
các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền, thì nhà thờ mọc
lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã được tái thiết
gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ đồ sộ. Số
người theo đạo mới cũng tăng lên mau chóng. Những sự kiện này làm cho Phật Giáo
có mặc cảm bị chèn ép, bị bạc đãi, bị bỏ rơi, hay là bị lép vế. Cụ nên hiểu tâm
lý đó của họ mà đối xử cho tế nhị hơn mới có thể dàn xếp dễ dàng được.
Ông
Diệm cau mày:
-
Cha có thể thấy là nếu đôi lúc tôi tin người Công Giáo cũng chỉ vì nghĩ rằng
người Công Giáo ít có ai theo cộng sản dễ dàng. Hơn nữa nhiều người không Công
Giáo vẫn được tôi tin cậy và trọng dụng. Tôi cũng đã giúp cho nhiều Chùa chiền.
Tôi cho Chùa Xá Lợi 500.000đ để xây cất. Tôi cũng giúp cho các Chùa Từ Đàm,
Diệu Đế để trùng tu. Tại các Tỉnh tôi có nhắc các Tỉnh Trưởng giúp đỡ trùng tu
các Chùa chiền.
-
Bây giờ Cụ nói ra tôi mới biết. Đáng lý Cụ nên nói rõ điều đó cho toàn dân biết
để họ khỏi hiểu lầm, và đặt những công việc đó vào một chính sách chung đối với
mọi tôn giáo. Tôi vẫn biết nhiều công cuộc kiến thiết của Công Giáo do sự đóng
góp của giáo dân và các tổ chức Công Giáo ngoại quốc, nhưng dân chúng bên ngoài
không hiểu nguồn gốc những khoản tiền lớn lao đó, nghĩ rằng chỉ có chính quyền
giúp tiền cho Công Giáo. Nhiều Cha còn quá nhiệt thành đến thẳng Tỉnh Trưởng,
các Bộ Trưởng xin giúp đỡ, và có nhiều trường hợp, hoặc là Tỉnh Bộ Trưởng có
Đạo nên hăng hái giúp đỡ, hoặc là họ nể Cụ là người Công Giáo, nên cũng tìm
cách giúp đỡ, tưởng làm như thế được lòng Cụ. Những điều đó tạo nên dư luận chỉ
trích chính quyền của Cụ thiên vị bên Công Giáo.
Ông
Diệm làm thinh không nói gì. Tôi giã từ ông ra về.
Hôm
sau tôi đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ, mục đích là vận động sự giúp đỡ ở Mỹ để mở một Trung
Tâm Kỹ Thuật ở Huế, đồng thời cũng muốn tìm hiểu dư luận ngoại quốc đối với
chính quyền ông Diệm trong lúc này.
Những
biến cố ở Huế đã gây xúc động mạnh tại Sài Gòn đối với giới Phật Tử cũng như toàn
thể dân chúng. Những ngày cuối cùng tôi lưu lại Sài Gòn trước khi đi Mỹ, nhiều
người đã đến tìm tôi hỏi han về những chuyện xảy ra ở Huế. Với những người thân
thiết hoặc thành thật tôi biết sao kể lại vậy. Đối với những người đến hỏi tôi
với mục đích dò xét, thì tôi cũng kể sự thật nhưng là những sự thật dưới mắt
mọi người, làm hài lòng mọi người.
Nếu
tôi nhớ không lầm thì hôm tôi vào Sài Gòn được một ngày tức vào sáng ngày
10.5.1963 một phái đoàn đại diện Phật Giáo gồm các Tăng Ni đến yết kiến Tổng
Thống Diệm để bày tỏ các nguyện vọng. Những nguyện vọng của họ thì ai cũng
biết, chẳng có gì quá đáng. Ít ra là lúc bây giờ, đại để là hủy bỏ Nghị Định
cấm treo cờ Phật Giáo, trừng phạt thủ phạm gây ra cảnh đổ máu ở đài phát thanh,
chấm dứt tình trạng đàn áp Phật Giáo nếu quả thực chính quyền có chủ trương đó.
Theo
chỗ tôi biết, thì ông Diệm đã tiếp đón phái đoàn Phật Giáo một cách cởi mở, ghi
nhận và hứa thỏa mãn phần lớn những nguyện vọng của họ. Ông Diệm giải thích
rằng Nghị Định cấm treo cờ tôn giáo ngoài khuôn viên Chùa chiền hay Nhà Thờ áp
dụng chung cho mọi tôn giáo, không phân biệt Công Giáo hay Phật Giáo, và không
nhằm hạ nhục gì Phật Giáo cả. Còn đối với vụ đổ máu ở đài phát thanh Huế, thì
ông Diệm hứa sẽ đem ra xét xử và trừng trị những thủ phạm sau khi có cuộc điều
tra kỹ lưỡng.
Cuộc
hội kiến gay go, kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ, từ hơn 10 giờ sáng đến 1 giờ
trưa. Sở dĩ tôi biết được việc này là tôi mấy lần gọi điện thoại vào Chánh Văn
Phòng Phủ Tổng Thống để xin giờ gặp ông Diệm, và được người trong văn phòng cho
biết giờ giấc trong ngày của ông Diệm.
Cũng
trong ngày 10-5 có lẽ để tránh những hiểu lầm và lạm dụng, Đức Cha Nguyễn Văn
Bình ra thông cáo nhắc nhở giáo dân về việc treo cờ Tòa Thánh đúng theo Nghị
Định của chính phủ, là chỉ được treo trong Nhà Thờ, và phạm vi các cơ sở Giáo
Hội mà thôi.
Như
tôi đã kể đoạn trước, chiều 15-5 tôi vào gặp ông Diệm để sáng hôm sau lên đường
sớm. Tôi được biết rằng sáng hôm sau, tức là ngày 16-5 sẽ có một cuộc họp báo
của phái đoàn Phật Giáo tại Chùa Xá Lợi, có sự tham dự của Bộ Trưởng Công Dân
Vụ Ngô Trọng Hiếu, để trình bày kết quả cuộc tiếp xúc ngày 15-5 với Tổng Thống.
Những lời lẽ trong cuộc họp báo thì ai cũng biết rồi.
Ngày
16-5 tôi lên máy bay đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ đến San Francisco. Một trong những
mục đích của chuyến đi này là vận động sự giúp đỡ của các giới ở Mỹ trong việc
thành lập một Trung Tâm Kỹ Thuật tại Huế, trong khu vực đồng An Cựu. Mục đích
thứ hai dự định là qua Ba Lê, gặp các Giáo Sư Đức, và sẽ cùng họ sang Tây Đức
vận động thêm những sự giúp đỡ cho Đại Học Y khoa Huế.
Nhưng
một mục đích khác của tôi là muốn tìm hiểu dư luận Mỹ và thế giới đối với tình
hình Việt Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ. Tôi vẫn hiểu rằng vai trò
của Mỹ trong việc tồn tại của chính quyền Ngô Đình Diệm rất quan trọng, sự giúp
đỡ của họ rất cần thiết, và sự lạnh nhạt của họ rất nguy hiểm.
Tôi
đã được nghe những dư luận Mỹ từ ít lâu nay và phần lớn những dư luận đó không
có lợi cho chế độ ông Diệm. Tôi muốn tìm hiểu sự thật, để may ra còn kịp thì
giờ cảnh giác những người có trách nhiệm trong chế độ.
Lúc
tôi đến San Francisco thì ông Chủ Tịch Tổ Chức Asi Foundation đang có mặt tại
nơi này. Ông Chủ Tịch tiếp đón hết sức niềm nở, mời tôi ăn cơm thân mật với ông
một bữa. Tôi trình bày dự án thành lập viện kỹ thuật Huế và yêu cầu ông giúp
đỡ. Ông hứa sẽ giúp đỡ tùy phương tiện và khả năng của tổ chức, tuy nhiên ông
cho biết rằng tổ chức không được dồi dào lắm, cho nên sự giúp đỡ nếu có cũng
không quan trọng lắm.
Từ
San Francisco tôi đến Hoa Thịnh Đốn. Lúc này ông Trần Văn Chương, nhạc phụ ông
Ngô Đình Nhu làm Đại Sứ ở đây, đã biết trước chương trình thăm viếng Mỹ của
tôi, ra tận phi trường đón tôi và hướng dẫn về Tòa Đại Sứ. Do sự sắp xếp của
ông Chương tôi gặp nhiều chính khách và nhân vật chính phủ Mỹ thời đó.
Đầu
tiên tôi gặp Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, thuộc đảng Dân Chủ đang nắm quyền
đơn vị trách nhiệm của ông là Tiểu Bang Motana, vốn là nơi Âu Ngọc Hồ theo học
trước đây và do đó hiểu biết về tiểu bang này rất nhiều. Nhờ đó câu chuyện giữa
chúng tôi rất cởi mở vui vẻ. Câu chuyện kéo dài suốt một buổi chiều.
Ông
Mansfield có vẻ lưu tâm nhiều đến tình hình chính trị Việt Nam, lo lắng cho chế
độ ông Diệm khó qua được cơn sóng gió. Ông trình bày sự đổi hướng của dư luận
Mỹ, những năm trước 1960 thì hết sức thiện cảm với ông Diệm, và ủng hộ ông tích
cực, nhiệt thành, nhưng sau cuộc bầu cử Tổng Thống ngày 9.4.1961 báo chí Mỹ bắt
đầu chỉ trích chế độ ông Diệm là một chế độ độc tài, và cuộc bầu cử lần thứ hai
này có nhiều trò gian dối, đôi lúc không cần thiết vì lúc đó uy tín của ông
Diệm trong nước còn khá lớn, đủ để ông đắc cử dễ dàng.
Thượng
Nghị Sĩ Mansfield cho tôi biết rằng hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà
phần lớn các nhân vật chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ ông Diệm là một chế độ
độc tài, gia đình trị, Công Giáo trị, không đoàn kết được toàn dân, đẩy những
kẻ đối lập quốc gia đến bước đường cùng phải chống đối bằng bạo động, do đó
không thể thắng được cộng sản. Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ hết sức lo
lắng và thất vọng. Ông khuyên tôi nên trình bày lại với ông Diệm hiểu chiều hướng
của dư luận Mỹ, và nếu có thể nên giúp ông Diệm thay đổi đường lối, nhân sự thì
mới được sự ủng hộ của Mỹ, bằng không rất có thể Mỹ sẽ bỏ rơi ông Diệm, nếu
không phải là bỏ rơi Việt Nam.
Tôi
cố gắng biện hộ cho ông Diệm, trả lời rằng theo chỗ tôi thấy thì không có nạn
cuồng tín tôn giáo tại Việt Nam lúc này, và cũng không có sự xung đột tôn giáo
nào giữa Phật Giáo và Công Giáo. Có thể có những mâu thuẫn hiềm khích giữa
chính quyền và Phật Giáo.
Ông
Diệm không mấy tin tưởng Phật Giáo và Phật Tử tích cực chống cộng, cho nên dè
dắt đối với Phật Giáo. Tôi cũng trình bày về chuyện cấm treo cờ, biến cố ở Huế,
vừa đưa ra lối giải thích cùng quan điểm của tôi. Những giải thích và biện hộ
của tôi xem chừng không đủ sức thuyết phục được Thượng Nghị Sĩ Mansfield.
Trước
khi chia tay, Thượng Nghị Sĩ Mansfield nhắc nhở lần nữa rằng nếu ông Diệm không
có những thay đồi chính trị sâu rộng, nhằm đưa ra một chế độ dân chủ thật sự
kết hợp nhiều thành phần chính trị dị biệt, thì chính phủ Mỹ cũng như dân chúng
Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ ông Diệm lâu hơn được nữa.
Lúc
bấy giờ đảng Dân Chủ của Tổng Thống Kennedy đang nắm quyền nhiệm kỳ một và ông
Mansfield là một lãnh tụ nhiều uy tín của đảng này. Lập trường cũng như ý kiến
của ông có thể được coi như lập trường không chính thức của đảng và chính phủ
Dân Chủ.
Do
đó những lời ông Mansfield nói ra làm tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng
là người Mỹ đã hết tin ở ông Diệm và đang nghĩ đến một thay đổi lớn lao không
phải chỉ là thay đổi nhân sự hay chính sách.
Tôi
muốn biết thêm quan điểm của đảng Cộng Hòa đối lập, do đó tôi thu xếp gặp
Thượng Nghị Sĩ Dirksen, một lãnh tụ Cộng Hòa lão thành. Ông Dirksen cũng cho
tôi biết những ý kiến tương tự như ông Mansfield, nói rằng dân chúng Mỹ, các
chính khách Mỹ không phân biệt Cộng Hòa hay Dân Chủ đều tỏ ý thất vọng với chế
độ ông Diệm, và coi như sự ủng hộ của Mỹ đối với ông Diệm nên được chấm dứt
càng sớm càng tốt.
Báo
chí Mỹ có vẻ đã thổi phồng những xung đột giữa chính phủ ông Diệm và Phật Giáo
với một dụng ý nào đó tôi không hiểu rõ lúc bấy giờ.
Trong
lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn thì có tin về những cuộc lễ cầu siêu cho các nạn
nhân vụ đổ máu tại đài phát thanh Huế và lễ cầu siêu đã biến thành biểu tình ở
Huế và Sài Gòn, ngày 30-5 báo chí Mỹ đăng những tin tức về những hành động đàn
áp Phật Giáo, như Quân Đội hay các Lực Lượng An Ninh canh gác các Chùa ở Huế,
cúp điện nước trong khu Chùa Từ Đàm.
Trong
thời gian này, tôi gặp ông Robert Kennedy, bào đệ Tổng Thống Kennedy, hiện là
Bộ Trưởng Tư Pháp. Ông Kennedy chỉ trích mạnh mẽ những hành động độc tài và đàn
áp đối lập, kỳ thị tôn giáo của ông Diệm. Ông nói rằng nếu tình trạng này không
thay đổi thì chính phủ Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ ông Diệm được nữa, vì dư
luận dân chúng và Quốc Hội Mỹ sẽ áp lực buộc chính phủ Mỹ bỏ rơi ông Diệm hoặc
là bỏ rơi hẳn Việt Nam.
Trong
cuộc họp báo ngày 22-5 về Việt Nam, Tổng Thống Kennedy đã có những lời lẽ chỉ
trích chính phủ ông Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ
rút hết Quân Đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam bất cứ lúc nào chính phủ
Việt Nam yêu cầu. Trả lời báo chí, ông ngụ ý là Việt Nam muốn chiến thắng cộng
sản, cần phải có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản.
Trong
cuộc gặp gỡ với Bộ Trưởng Tư Pháp Mỹ Robert Kennedy tôi được nghe ông nhắc lại
những luận điệu này, và ông nói rõ hơn là ông Diệm phải mở rộng chính phủ, lập
Thủ Tướng, tăng quyền cho các Bộ Trưởng, kêu gọi các thành phần chính trị đối
lập tham gia tân chính phủ, chấm dứt những sự bắt bớ đàn áp vì lý do chính trị
hay tôn giáo.
Giọng
ông có vẻ gay gắt khi nhắc đến những tin tức quanh việc đàn áp Phật Giáo. Ông
châm biếm rằng không nên vì cái chuyện cờ quạt mà làm mất lòng 80 phần trăm dân
chúng Việt Nam. Ông đề cập đến ông bà Nhu và tuy ông không nói rõ, nhưng ngụ ý
rằng cách hay nhất để xoa dịu dư luận Việt Nam cũng như Mỹ, là ông Diệm nên cho
các ông Nhu, ông Cẩn và bà Nhu rời khỏi chính trường trong ít lâu, hay đi du
lịch thế giới với tư cách cá nhân. Đến đây thì tôi không thể nghi ngờ gì được
nữa. Tôi hiểu ảnh hưởng của ông Robert Kennedy đối với Tổng Thống Kennedy, vậy
quan điểm của ông em cũng có thể coi như quan điểm của ông anh.
Mặc
dầu ông Robert Kennedy không nói rõ ra, nhưng tôi hiểu ý muốn dành cho ông Diệm
một cơ hội cuối cùng, muốn tôi khuyên ông Diệm nên cải tổ chính trị sâu rộng để
tránh khỏi bị Mỹ bỏ rơi.
Đến
nơi nào tôi cũng được nghe những dư luận tương tự. Những sinh viên Việt Nam mà
tôi gặp ở các nơi cũng tỏ vẻ bất mãn với ông Diệm, có lẽ vì bị ảnh hưởng của dư
luận Mỹ nhiều hơn là do chính kiến của họ. Dĩ nhiên là tôi cố gắng bênh vực ông
Diệm, nhưng tôi chẳng thuyết phục được ai cả.
Ở
lại Hoa Thịnh Đốn hơn một tuần thì có máy bay của Đại Học Ohio, Tỉnh Athenes
lên đón tôi về thăm Đại Học này. Một Khoa Trưởng và một Giáo Sư Đại Học lên
theo máy bay hướng dẫn tôi. Từ nhiều năm, Đại Học Ohio đã bảo trợ và giúp đỡ
Đại Học Sư Phạm Huế, và hằng năm tôi gửi sang nhiều sinh viên du học, đồng thời
Ohio cũng đã gửi sang nhiều Giáo Sư giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm Huế.
Tại
Đại Học Đường Ohio, tôi được tiếp đãi nồng hậu, than dự nhiều cuộc tiếp tân,
thuyết trình liên hoan. Đại Học Đường Ohio cấp cho tôi một bằng danh dự. Sau
mấy ngày thăm viếng các cơ sở của Đại Học, đàm luận với các Viện Trưởng, Khoa
Trưởng, Giáo Sư, Sinh Viên, tôi lại được Đại Học dùng máy bay riêng chở đến
Chicago để gặp một số sinh viên Việt Nam du học tại đây.
Hầu
hết các sinh viên đều bất mãn với ông Diệm, nhất là ông Nhu, bà Nhu, và chỉ
trích các hành động đàn áp chính trị và tôn giáo.
Một
số ký giả Mỹ đến gặp tôi. Tôi không có ý định họp báo, hay dành cho họ một cuộc
phỏng vấn nào. Nhưng khi tiếp họ, dĩ nhiên tôi phải trao đổi với họ nhiều câu
chuyện quanh những đề tài thời sự Việt Nam. Tôi cố tránh không nêu lên quan
điểm của tôi, chỉ giải thích các sự kiện theo hiểu biết của mình. Trong câu
chuyện, tôi được biết rằng báo chí Mỹ hầu hết bây giờ quay qua chỉ trích ông
Diệm, bênh vực Phật Giáo.
Vài
hôm sau tôi lên Nữu Ước, và tại đây tôi gặp một chuyện bất ngờ đau lòng: Người
từng giúp đỡ cho văn hóa Việt Nam, cho Đại Học Huế tích cực nhiều nhất, là Giáo
Sư Buttinger, trước là Chủ Tịch Hội New Land Foundation và bây giờ là Chủ Tịch
Hội ‘’Những người Mỹ bạn Việt Nam’’ tỏ ra chán nản thất vọng về Việt Nam, về
ông Diệm và không còn sốt sắng giúp đỡ cho Việt Nam như trước nữa. Tôi định gặp
ông để ngỏ lời cám ơn về những sự giúp đỡ của ông đối với Đại Học Huế, và đề
cập đến dự án lập Trường Kỹ Thuật Huế, nhưng khi thấy thái độ của ông như vậy
tôi không còn nghĩ đến việc xin ông giúp đỡ nữa. Những chỉ trích của Giáo Sư
Buttinger cũng tương tự như của các ông Mansfield, Kennedy, Dirksen.
Giáo
Sư Buttinger còn nói rõ hơn, là nếu ông Diệm không kịp thời thay đổi sâu rộng,
thì Mỹ sẽ bỏ rơi ông.
Ông
khuyên tôi nên làm cách gì cho ông Diệm hiểu mà thay đổi chính phủ cải tổ nội
các, bớt quyền Tổng Thống, lập Thủ Tướng Tổng Trưởng có thực quyền gồm những
chính khách có uy tín, và tốt nhất nên mời một số chính khách đối lập tham gia
tân chính phủ, bàn về những biến cố thời sự. Giáo Sư Buttinger cho rằng ông
Diệm cần phải giải quyết cấp thời vấn đề Phật Giáo, chấm dứt mọi hành động có
tính cách đàn áp hay kỳ thị.
Hôm
sau tôi gặp một ông Giáo Sư khác, ông Fishell từng là bạn thân của ông Diệm từ
khi ông còn lưu vong ở Mỹ. Về sau tôi biết rằng ông Fishell là một nhân viên
Trung Ương Tình Báo Mỹ, thuộc hàng cao cấp.
Ông
đã từ Michigan lên Nữu Ước tìm gặp tôi. Tôi nói chuyện với ông Fishell từ chiều
đến 12 giờ khuya và câu chuyện vẫn quanh những đề tài chính trị Việt Nam. Những
nhận định và chỉ trích mà ông Fishell nêu lên tương tự như các nhận định và chỉ
trích của những nhân vật Mỹ tôi đã từng gặp trước, nhưng ông Fishell nhấn mạnh
hơn. Một lúc, không hiểu vô tình hay cố ý để cảnh cáo, nhắn nhủ, ông Fishell
nói rõ rằng nếu ông Diệm không thay đổi sâu rộng đường lối chính trị của ông
thì nội trong năm 1963, Mỹ phải tìm cách loại bỏ ông Diệm khỏi sân khấu chính
trị Việt Nam và biện pháp thủ tiêu có thể được xét tới. Dĩ nhiên là ông Fishell
lúc bấy giờ chỉ nói điều này ra như một lời nhận định về kế hoạch trong tương
lai gần của chính phủ Mỹ.
Ở
Nữu Ước được vài ngày thì tôi nhận được điện tín tại Tòa Đại Sứ Việt Nam tại
Hoa Thịnh Đốn cho biết Tổng Thống gọi tôi về nước gấp. Tôi để Âu Ngọc Hồ ở lại
Mỹ tiếp tục công cuộc vận động sự giúp đỡ cho Viện Kỹ Thuật Huế, còn tôi rời Mỹ
trở về, qua ngã Ba Lê.
Tôi
hẹn gặp các Giáo Sư Đức tại đây, và dự định sẽ cùng họ sang thăm viếng Đức. Bây
giờ vì lệnh triệu hồi khẩn cấp của Tổng Thống Diệm tôi đành hủy bỏ chuyến tham
viếng Tây Đức. Tôi dùng cơm trưa với các Giáo Sư Đức, trình bày tình hình có vẻ
khẩn trương ở Việt Nam, xin lỗi họ và ngày hôm sau tôi về thẳng Sài Gòn.
Tôi
nhớ thì hình như tôi đến Sài Gòn vào khoảng đầu tháng sáu. Tôi vào ngay Dinh
Độc Lập gặp ông Diệm. Chính ông cho tôi biết rằng: Các sinh viên và nhiều Giáo
Sư Đại Học Huế đã biểu tình ủng hộ Phật Giáo. Ý ông Diệm định cách chức một số
Khoa Trưởng, Giáo Sư, vì họ không kiểm soát được sinh viên. Tôi chưa hiểu gì,
xin ông Diệm cho tôi một thời gian.
-
Xin Cụ khoan đưa ra những biện pháp mạnh lúc này. Cụ cho phép tôi ra Huế cố
gắng dàn xếp nếu không xong, sau đó Cụ muốn có biện pháp nào tùy ý Cụ.
Tôi
đã được biết Đại Biểu Chính Phủ miền Trung là ông Hồ Đắc Khương bị thay thế,
Tỉnh Trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng và Phó Tỉnh Trưởng Đặng Sỹ bị triệu hồi
về Bộ Nội Vụ. Nhiều cuộc biểu tình có bạo động xảy ra tại Huế, các chùa bên kia
sông Phú Cam bị phong tỏa, và ngày nào cũng có những cuộc tiếp xúc giữa Ủy Ban
Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng không giải quyết
được tình trạng căng thẳng khắp toàn quốc.
Tình
hình tại Huế rất lộn xộn. Nhiều cuộc biểu tình đã liên tiếp diễn ra mấy hôm
nay, mà theo lời ông thì thành phần tham dự đông đảo là học sinh sinh viên Phật
Tử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét