Tôi
cho rằng tình hình đã đi quá đà, nay dù ở trung ương có những nỗ lực dàn xếp
thì các địa phương một số người quá khích của bên chính phủ, hoặc bên Phật Giáo
vẫn cứ gây ra những hành động nguy hiểm, khiêu khích.
Tôi
trở về Huế giữa lúc tình hình tại đấy hết sức căng thẳng. Các sinh viên hay tin
tôi đã trở về, kéo vào gặp tôi rất đông. Một đại diện sinh viên trình bày các
biến chuyển vừa qua, cho biết một số sinh viên bị bắt giam, tra tấn và một số
khá bị đe đọa. Họ đòi hỏi chính phủ phải trả tự do cho tất cả những kẻ bị bắt
và chấm dứt những hành động áp bức đối với những sinh viên Phật Tử.
Tôi
hứa sẽ can thiệp với nhà chức trách để yêu cầu trả tự do cho những người bị
bắt, kêu gọi các sinh viên bình tĩnh. Nhân danh một Linh Mục, tôi xác nhận với
anh em sinh viên Phật Tử rằng không hề có chuyện Công Giáo bách hại, hay đàn áp
Phật Giáo mà chỉ có thể có chuyện một chính phủ có những hành động có thể không
đúng đối với Phật Giáo. Tôi cam kết với các sinh viên rằng nếu quả thực chính
phủ có chủ trương đàn áp Phật Giáo thì chính tôi với tư cách Linh Mục và Viện
Trưởng sẽ đứng về phía các anh em sinh viên.
Trong
lúc số sinh viên đang tụ tập trong và ngoài phòng tôi, tôi gọi điện thoại ngay
cho Đại Biểu Chính Phủ miền Trung, lúc đó là ông Nguyễn Xuân Khương vừa được bổ
nhiệm thay thế ông Hồ Đắc Khương được triệu hồi về. Tôi yêu cầu ông Đại Biểu
Chính Phủ trả tự do mau chóng cho những sinh viên bị bắt. Ông Khương hứa giải
quyết ngay.
Các
sinh viên còn cho tôi biết rằng nếu vụ Phật Giáo không dàn xếp yên được ngay, thì
sẽ có nhiều vị Sư Sãi ở Chùa Từ Đàm tự thiêu, nhiều sinh viên cũng sẽ tự thiêu,
và nhiều cuộc biểu tình sẽ diễn ra khắp Thành Phố Huế.
Tôi
chỉ khuyên các sinh viên bình tĩnh, đừng lầm lẫn phạm vi chính trị với tôn
giáo, còn những hoạt động của anh em sinh viên thì tùy theo lương tâm, mọi
người tự do tham dự vào các hoạt động họ thấy là chính đáng.
Ngày
hôm sau ông Đại Biểu Chính Phủ và Tòa Tỉnh Thừa Thiên trả tự do cho một số sinh
viên bị bắt giam mấy hôm trước. Các sinh viên tuy chưa được thỏa mãn hoàn toàn,
nhưng có vẻ hòa hoãn hơn đôi chút.
Hôm
sau tôi vào gặp ông Cẩn, mặc dù là người ít học, nhưng ông Cẩn, theo nhận xét
của tôi không hẹp hòi thiển cận như nhiều người lầm tưởng.
Khi
nghe tôi trình bày về dư luận quần chúng và các chính khách ở Mỹ đối với chế độ
và vụ Phật Giáo, ông Cẩn đã đặc biệt lưu tâm, tỏ ra hết sức lo lắng khuyên tôi
nên vào gặp thẳng ông Diệm để trình bày sự thật đầy đủ, may ra còn cảnh tỉnh
chăng:
-
Cha cần phải về Sài Gòn nói rõ mọi chuyện cho ‘’cụ’’ biết (ông Cẩn gọi Diệm bằng tiếng Cụ). Con hiểu nhưng không
biết làm cách nào giúp cho Cụ hiểu được. Cha biết là con khó mà nói gì Cụ tin.
Con có ý thưa với Cha, là chẳng những Cha nói miệng, mà Cha nên ghi lại trên
giấy những điều Cha định nói với Cụ, rồi lúc Cha ra về Cha để lại tấm giấy đó
cho Cụ, để Cụ có dịp đọc lại mà suy nghĩ kỹ hơn. Cha làm như thế có thể Cụ sẽ
đưa cho ông Nhu và Đức Cha đọc.
Lúc
này quyền hành của ông Cẩn trên thực tế chẳng có gì. Những ảnh hưởng đối với
các nhà chức trách thì đã lọt vào tay Đức Cha Thục, cho nên dù ông Cẩn hết sức
hòa dịu, cố gắng dàn xếp, nhưng vì thiếu quyền hành, ảnh hưởng nên khó làm ðược
việc gì ích lợi quan trọng để ổn định tình hình.
Trong
lúc đó, tình hình biến chuyển mau chóng, trưa 11-6 Thượng Tọa Thích Quảng Đức
tự thiêu, báo chí quốc tế, các hãng truyền hình lớn đã chụp hình, quay phim và
tường thuật vụ này, làm cả thế giới lên án chế độ ông Diệm, ông Diệm hiệu triệu
quốc dân, và ý ông muốn kêu gọi dân chúng bình tĩnh, tin tưởng vào thiện chí
dàn xếp của ông, nhưng câu nói cuối cùng của ông có thể bị hiểu lầm là một câu
nói đầy kiêu căng, khinh miệt: ‘’Sau lưng Phật Giáo trong nước hãy còn có hiến
pháp nghĩa là có tôi!’’.
Ngày
16-6 các Tăng Ni biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đồng thời tại Chùa Giác Minh
hàng ngàn Phật Tử tụ tập dự tang lễ Thượng Tọa Quảng Đức. Cuộc tụ tập biểu
tình, có xô xát với cảnh sát, làm cho nhiều người bị thương, hàng trăm bị bắt.
Tại Huế, không khí thật ngột ngạt, làm tôi có cảm tưởng như không khí một buổi
chiều sắp dông bão lớn.
Ngày
23-6 tôi vào Sài Gòn và sáng hôm sau ngày 24-6, Lễ Thánh Gioan Baptista, Quan
Thầy của Tổng Thống, tôi đã vào dinh để chúc mừng ông. Theo lời khuyên của ông
Cẩn tôi đã viết sẵn lên giấy những điều sắp nói cầm theo vào phòng làm việc của
ông Diệm.
Tôi
vào đề ngay:
-
Thưa Cụ vừa đi Mỹ về tôi được lệnh Cụ phải ra Huế giải quyết vụ sinh viên ngay
chưa có dịp nào thưa chuyện với cụ về dư luận Mỹ đối với Việt Nam. Nay nhân dịp
vào mừng lễ bổn mạng Cụ, tôi muốn thưa với Cụ những khuynh hướng chính trong dư
luận Mỹ đối với tình thế hiện nay. Khuynh hướng thứ nhất của một nhóm chủ chiến
thiểu số do một Tướng lãnh chủ trương muốn đánh mạnh để thắng mau.
Khuynh
hướng này không được chính phủ, Quốc Hội và dân chúng ủng hộ. Khuynh hướng thứ
hai chủ hòa, chấp nhận một giải pháp trung lập. Khuynh hướng này do các chính
khách Dân Chủ như Harrimam, Hillman chủ xướng. Khuynh hương này tuy được quần
chúng và giới trẻ ở Mỹ ủng hộ rầm rộ, nhưng không được chính phủ Mỹ nghe theo
hoàn toàn.
Một
khuynh hướng có vẻ ôn hòa trung dung muốn rằng chính phủ Kennedy vẫn tiếp tục
ủng hộ Việt Nam với một số những điều kiện đặc biệt nào đó. Khuynh hướng này
được chính phủ Kennedy lưu ý đặc biệt. Theo khuynh hướng này thì một trong
những điều kiện mà Mỹ đòi hỏi ở Việt Nam là Cụ phải có những thay đổi chính trị
sâu rộng, lập Thủ Tướng và các Tổng Trưởng có thực quyền, chọn những người
không có liên hệ gia đình, và nếu thấy ai có tài năng thì dù họ thuộc một đảng
phái đối lập cũng nên dùng họ. Các Bộ Trưởng nên được nâng lên hàng Tổng Trưởng
để tăng thêm uy tín và quyền hành. Tại Quốc Hội cũng phải cố gắng lập khối đối
lập thực sự. Nếu Cụ có những thay đổi chính trị như vậy thì Mỹ có thể tiếp tục
ủng hộ Việt Nam để chiến thắng cộng sản, nếu không nội cuối năm 1963 Mỹ sẽ dùng
Phật Giáo làm cái cớ để lật đổ chế độ của Cụ, vì Tổng Thống Kennedy sắp phải ra
tranh cử nhiệm kỳ 2, cần gây uy tín để đắc cử. Đối với cử tri Mỹ trong mùa vận
động tuyển cử này, thì xem chừng lật Cụ là việc làm ăn khách nhất.
Ông
Diệm có vẻ trầm ngâm, nhưng là cái trầm ngâm của một người không muốn biết một
sự thật không vừa ý, hơn là sự trầm ngâm của một người muốn tìm một con đường
mới. Ông chống chế:
-
Những thay đổi ở thượng tầng kiến thiết quốc gia không cần thiết lắm. Những
người nào có chút khả năng thì như Cha biết tôi đã dùng hết rồi, và có mấy ai
ra gì đâu. Cha thử nghĩ xem, nếu đặt Thủ Tướng thì lấy ai xứng đáng bây giờ?
Nhóm Caravelle thì Cha đều biết qua cả có ai xứng đáng giữ chức Thủ Tướng đâu?
Điều quan trọng là tổ chức hạ tầng kiến thiết tức là Ấp Chiến Lược.
Tôi
cố gắng thêm lần cuối để thuyết phục ông Diệm chấp nhận những thay đổi cần
thiết trên thượng tầng:
-
Thưa Cụ, nói rằng thượng tầng cơ sở không quan trọng thì e không đúng lắm. Cụ
chẳng đang ở vị thế cao nhất trong thượng tầng cơ sở, và giữ một trách nhiệm
quan trọng nhất, nặng nề nhất đó sao. Chẳng những Cụ cần những người thuộc hạ
trung thành ở thượng tầng cơ sở, mà Cụ còn cần những cộng tác viên tài năng can
đảm, liêm sỉ, nhiều sáng kiến. Có thể lúc này Cụ không tìm ra những người như
thế để xây dựng thượng tầng, nhưng với sự nới rộng sẽ khích lệ những kẻ tài
năng đến với Cụ nhiều hơn, tạo cơ hội cho những nhân tài kiêu căng hoặc e thẹn
đến hợp tác với chế độ. Đó là nói về những lợi ích trong nước, trong nội bộ.
Bây giờ, thưa Cụ chúng ta cần người Mỹ, lệ thuộc nhiều vào người Mỹ, chịu ảnh
hưởng nặng nề vì sự thương hay ghét của họ. Nếu không vì những lợi ích thiết
thực mà phải cải tổ chính phủ, thì cũng nên vì để làm hài lòng người Mỹ mà cải
tổ, để họ khỏi phá hoại. Cụ cũng đã hiểu câu châm ngôn ‘’ai chi tiền thì kẻ đó
cai trị’’. Hiện nay người Mỹ đang chi tiền. Nếu Cụ cứng rắn quá sẽ bị bẻ gẫy.
Ông
Diệm có dáng suy nghĩ, lo lắng, chú ý hơn lúc đầu một chút:
-
Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ một bước thì Mỹ sẽ lại đòi thêm, biết nhượng bộ
đến bao giờ cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang đầy đủ cho Bảo An, Dân Vệ, thanh
niên chiến đấu. Mỹ không chịu. Tôi muốn tăng cường Quân Đội, Mỹ từ chối không
cấp vũ khí và phương tiện, Mỹ chỉ muốn đưa quân qua Việt Nam mà thôi.
Ông
Diệm ngưng một lúc, nhìn mơ màng lên trời rồi bắt đầu thuyết về Ấp Chiến Lược.
Ông cho rằng Ấp Chiến Lược là giải pháp hay nhất để đánh bại cộng sản ở nông
thôn, thực hiện những cải cách cần thiết cho nông dân. Tôi đã được nghe ông Nhu
nói về Ấp Chiến Lược một cách say sưa. Những lý lẽ ông Diệm đưa ra quanh vấn đề
Ấp Chiến Lược cũng không khác gì luận điệu của ông Nhu. Tôi tán đồng chủ trương
đó, chỉ tiếc rằng đã không được thực hiện từ khi mọi cơ hội còn thuận tiện,
ngày tháng còn dài, chờ đến bây giờ thì e muộn quá rồi.
-
Thưa Cụ, tôi xin đồng ý với Cụ là Quốc Sách Ấp Chiến Lược hay lắm, nhưng chúng
ta cần có thì giờ và phương tiện để thực hiện. Nếu làm cho người Mỹ bực tức, họ
không ủng hộ ta, thì lấy đâu phương tiện mà thực hiện. Hơn nữa người Mỹ có thể
không cho chúng ta có thì giờ để thực hiện đủ với phương tiện riêng của chúng
ta.
Ông
Diệm im lặng, có vẻ không muốn nghe tôi nói thêm. Tôi biết ý ông nên kiếu từ ra
về. Thấy không lung lạc được ông Diệm tôi cảm thấy gần như tuyệt vọng, nhìn
thấy trước những viễn ảnh đen tối cho chế độ và cho quốc gia. Hơn nữa những hỗn
loạn quanh vụ Phật Giáo càng ngày càng lớn thêm. Không cần Mỹ phải trực tiếp nhúng
tay vào, chỉ cần một lực lượng chính trị hay quân sự nào đủ gan liều một chút,
biết khai thác đúng cách và đúng lúc những xáo trộn chính trị và tôn giáo hiện
nay cũng có thể lật đổ được chế độ ông Diệm. Dù kính mến ông Diệm vì những thân
tình cá nhân, những liên hệ bằng hữu, tôi nghĩ rằng, nếu có một lãnh tụ nào tài
đức hơn ông Diệm đứng lên làm công việc đó, thì vì quyền lợi quốc gia dân tộc,
tôi sẽ chấp nhận.
Nhưng
trước mắt tôi, đếm kỹ những nhân vật tên tuổi trong danh sách những chính khách
Việt Nam, tôi không nhìn thấy một ai đủ khả năng thay thế ông Diệm để lãnh đạo
quốc gia. Vì những ý nghĩ đó, hơn là vì cảm tình riêng của tôi đối với ông Diệm
và gia đình ông, tôi cố gắng tìm mọi cách để cứu vãn chế độ ông Diệm, mặc dầu
tôi linh cảm mọi nỗ lực của tôi đều vô ích, vô vọng.
Tôi
nghĩ rằng ông Diệm rất mộ đạo, kính nể những bậc lãnh đạo tôn giáo, nên tôi đến
gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình ngay sau khi rời văn phòng ông Diệm. Tôi
lại trình bày những điều tôi vừa trình bày với ông Diệm:
-
Thưa Đức Cha, con đi Mỹ về, nhận thấy dư luận Mỹ đã hết thiện cảm với chế độ
này và chính phủ Mỹ vì áp lực của dư luận quần chúng và Quốc Hội, chỉ có thể
tiếp tục ủng hộ chế độ nếu có những cải tổ chính trị sâu rộng ở thượng tầng,
bằng không Mỹ có thể tính cách triệt hạ chế độ và lật đổ ông Diệm. Như Đức Cha
biết, một sự hỗn loạn chính trị lúc này có thể đưa quốc gia chúng ta đến nguy
vong. Con đã cố gắng trình bày những nhận định của con với Tổng Thống nhưng Cụ
không nghe, con chỉ là một Linh Mục, dù Cụ có lúc coi con như bạn, nhưng không
thể gây ảnh hưởng gì quan trọng đối với Cụ. Con nghĩ rằng nếu bây giờ các Đức
Cha trên toàn quốc gửi cho Cụ một văn thư khuyến cáo Cụ thay đổi chính sách và
cải tổ nội các, thì có lẽ Cụ sẽ nghe theo.
Đức
Cha Bình gật gù:
-
Tôi cũng nhận thấy tình thế lúc này thật khó khăn, phức tạp. Tôi chấp nhận ý
kiến của Cha và sẽ bàn sau với các Đức Cha khác để thảo văn thư và gửi Tổng
Thống.
Tôi
không rõ về sau Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và các Đức Cha có gặp gỡ nhau
thảo văn thư khuyến cáo ông Diệm thay đổi chính sách và cải tổ chính phủ hay
không, nhưng tôi không còn được nghe tin gì.
Cũng
ngày hôm đó tôi đến gặp Đức Khâm Sứ Tòa Thánh là Đức Cha Asto khoảng 5 giờ
chiều. Đức Khâm Sứ mới được cử sang Việt Nam ít lâu. Tôi trình bày mọi việc, từ
những nhận xét về dư luận Mỹ, đến hai cuộc gặp gỡ ông Diệm và Đức Tổng Giám Mục
Nguyễn Văn Bình, cùng mọi ý kiến riêng của tôi. Đức Khâm Sứ cũng đồng ý với
những nhận định của tôi, tỏ ra lo lắng về những diễn biến dồn dập của tình thế.
Ngài có ý dịch bản điều trần của tôi gởi về Tòa Thánh và xin Đức Giáo Hoàng
khuyến cáo ông Diệm, hy vọng làm như thế thì với tư cách một tín đồ Công Giáo
ông sẽ chịu nghe dễ dàng hơn. Lúc bấy giờ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vừa băng
hà ngày 4-6, và Đức Hồng Y Gio-Vanni Battita Montini vừa được bầu lên ngôi Giáo
Hoàng, lấy hiệu là Giáo Hoàng Phao Lô VI hôm 21-6.
Tôi
thưa với Đức Khâm Sứ rằng tôi chỉ viết tay một bản mà thôi nên nay không thể
nào có bản thứ hai y hệt như bản điều trần để lại trên bàn ông Diệm. Đức Khâm Sứ
ngỏ ý muốn tôi ngồi lại, viết thật giống như bản điều trần đã đưa ông Diệm, rồi
trao cho ngài để ngài cho dịch ra. Tôi thưa rằng bây giờ tôi không có thì giờ,
vì lát nữa, lúc 7 giờ tối, tôi phải dự một bữa cơm chiều với một số trí thức,
nhân sĩ, và 8 giờ sáng thì tôi đã phải lên máy bay về Huế. Đức Khâm Sứ nhất
định buộc tôi phải cố nhớ mà viết lại bản điều trần, ngài nói:
-
Cha đi ăn về trễ lắm thì cũng đến 10 giờ là cùng. Cha nên chịu khó thức khuya
một chút viết lại bản điều trần bằng tiếng Pháp, càng giống càng tốt, rồi bất
cứ giờ nào viết xong thì đưa lên cho tôi, để gửi sang Tòa Thánh Vatican.
Tôi
đi dùng cơm tối với một số trí thức như Tôn Thất Thạch, Đại Tá Tung, Nguyễn
Trân v.v…Sau đó tôi vội về nhà trọ, cố nhớ lại, viết lại bản điều trần bằng tiếng
Pháp, 5 giờ sáng tôi lên gặp Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, và ngài yêu cầu tôi ký tên
dưới bản điều trần. Tôi cười:
-
Thưa Đức Khâm Sứ, bên La Mã ai biết đến tên tuổi con mà ký làm gì?
-
Cha lầm đó, bên La Mã người ta biết đến Cha lắm chứ. Tôi hy vọng Đức Thánh Cha
sẽ có thư khuyến cáo ông Diệm và ông sẽ nghe mà sửa đổi.
Tôi
nói chuyện với Đức Khâm Sứ một chút rồi ra phi trường về Huế.
Trong
những ngày cuối tháng bảy tôi theo dõi tin tức thấy rằng những cuộc dàn xếp
giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ vẫn chưa đi đến một kết quả
dứt khoát nào.
Bên
Phật Giáo vẫn còn tố cáo chính phủ không thi hành đúng đắn thông cáo chung ba
điểm được thỏa thuận giữa đôi bên ngày 16-5. Ở Huế trong lúc đó tình hình có vẻ
yên tịnh nhưng vẫn căng thẳng, sự căng thẳng trước một cơn giông bão. Ngày 5-7
Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt ở Sài Gòn xử vụ đảo chánh hụt ngày 11-11-60.
Vụ
án này diễn ra lúc này chắn chắn không có lợi gì cho chế độ, trái lại càng làm
cho lòng người thêm bất mãn với chế độ. Tiếp đến để phản đối vụ xử án này, Nhà
Văn và nhà cách mạng Nhất Linh uống thuốc ngủ tự tử được đem vào Bệnh Viện
Grall, nhưng không cứu được.
Bức
thư tuyệt mệnh của ông lên tiếng phản đối vụ xử án các nhân sĩ liên can vụ đảo
chánh hụt, chính sách đàn áp chính trị và tôn giáo của ông Diệm, đây là một đòn
nặng đập vào chế độ vì Nhà Văn Nhất Linh có nhiều uy tín trong quần chúng, sinh
viên, chính khách.
Từ
ngày vào Nam ông gần như không còn hoạt động chính trị nữa, và những tác phẩm
văn chương của ông sau này, như Gòng Sông Thanh Thủy v.v…không được nổi tiếng
như những tác phẩm tiền chiến.
Tuy
vậy ông là một người được nhiều giới kính mến vì quá trình cách mạng và văn
chương của ông. Cái chết của ông gây xúc động mạnh trong quần chúng toàn chúng.
Ông cũng có tên trong danh sách 14 nhân sĩ bị xét xử trước Tòa Án Quân Sự, và
đến ngày 11-7 Tòa tuyên án, ông được tha bổng. Dù tha bổng Nhà Văn Nhất Linh,
vụ án này vẫn gây căm phẫn cho mọi người. Đám tang Nhà Văn Nhất Linh ngày 13-7
tưởng đã thành một vụ biểu tình hỗn loạn lớn. Các giới sinh viên, Phật Giáo
hình như cũng đã có ý định biến đám tang thành cuộc biểu tình.
Nhưng
sau vì những biện pháp phòng ngừa quá nghiêm ngặt của chính quyền, nên đám tang
chỉ là đám tang. Ngay trong ngày đó, Tòa Án Quân Sự lại xử vụ 19 nhân sĩ họp ở
Khách Sạn Caravelle, được gọi là nhóm Caravelle đòi hỏi cải cách chính trị. Tất
cả 19 bị can được tha bổng.
Đến
hôm sau, 16-7 nhiều cuộc biểu tình của Tăng Ni Phật Tử diễn ra nhiều nơi tại
Sài Gòn như trước Tòa Đại Sứ Mỹ, Chợ Bến Thành. Nhiều Nhà Sư lên tiếng đòi tự
thiêu để phản đối hành động đàn áp Phật Giáo, trong đó có Sư Bà Diệu Huệ, thân
mẫu Giáo Sư Bửu Hội hiện là Đại Sứ.
Như
đổ thêm dầu vào lửa chính phủ lại tổ chức một cuộc biểu tình trước Chùa Xá Lợi,
gồm toàn những Dân Vệ và Thanh Niên Cộng Hòa, cùng một số thương phế cựu chiến
binh. Phật Giáo lại lên tiếng tố cáo hành động này, coi đó như một hành động
phá hoại những cuộc điều đình giữa Phật Giáo và chính quyền, có mục đích kích
động phá hoại. Để trấn an, chính quyền cách chức ông Thanh Tra Dân Vệ Đoàn,
nhưng xem chừng vẫn không làm dịu được tình hình.
Tình
hình ở Huế thoạt nhìn không có gì đặc biệt, có thể cho như yên tịnh nhưng bên
trong dân chúng đa số Phật Giáo coi như sớm muộn cũng phải đi đến một hành động
quyết liệt, một mất một còn với chế độ ông Diệm. Không có một cuộc biểu tình
lớn nào diễn ra tại Huế nhưng những tin đồn từ Chùa, các đoàn thể Phật Tử được
loan truyền về những người bị bắt, mất tích và về những hành động tàn bạo, bí
mật của chế độ. Chính vì sự yên tịnh bề mặt đó, có người đã hiểu lầm là tình
hình đã ổn định. Vào đầu tháng 8 Trần Quang Ngọc ra gặp tôi:
-
Thưa Cha, Đức Cha (Ngô Đình Thục) sai con ra gặp Cha, nói rằng Cha không chịu họp các Giáo Sư, Sinh
Viên để giải thích về đường lối của chính phủ đối với Phật Giáo, nên Đức Cha
thấy cần phải đích thân tụ họp Giáo Sư, Sinh Viên để Đức Cha đích thân nói
chuyện với họ. Vậy Cha tụ họp các Giáo Sư và Sinh Viên tại Giảng Đường để nghe
Đức Cha nói chuyện.
Tôi
không dám chắc làm như vậy có lợi hay có hại, điều đó còn tùy thuộc những điều
Đức Cha Thục sẽ nói. Nhưng tôi không thể đưa ý kiến gì trái ngưọc vì đây là một
mệnh lệnh.
Vả
lại lúc này tôi có tâm trạng một người vượt biển gặp giông tố lớn biết thuyền
sắp chìm, sức người không thể cứu vãn được nữa, chỉ còn trông vào phép lạ, mà
phép lạ thì ít khi xảy ra lắm, nhất là với những người không cầu xin. Tôi ngại
là Giảng Đường thì quá rộng mà số Giáo Sư hay Sinh Viên đến tham dự thì thưa
thớt quá, sẽ làm buồn lòng Đức Cha và gây cho ngài nhiều phản ứng không có lợi
gì cho việc hòa giải, nên tôi đưa ra một yêu cầu nhỏ:
-
Hay lắm, nếu Đức Cha muốn nói chuyện với Sinh Viên, Giáo Sư thì cũng là một
điểm tốt. Nhưng lúc này vào kỳ nghỉ Hè, không thể nào cưỡng bách Sinh Viên hay
Giáo Sư đến dự đông đảo. Để phòng trống nhiều quá khó coi, vậy yêu cầu ông mời
các học sinh Trung Học đệ nhị cấp một vài trường và Thanh Niên Cộng Hòa của ông
đến cho đông cho chật giảng đường.
Mọi
việc được thu xếp đúng như đề nghị của tôi, nên mặc dù dưới mắt tôi số người
tham dự buổi nói chuyện của Đức Cha Ngô Đình Thục tại Đại Giảng Đường Viện Đại
Học Huế phần lớn không phải là sinh viên Giáo Sư, nhưng dưới mắt bất cứ ai khác
thì có thể coi như Giảng Đường đã chật ních sinh viên, Giáo Sư cũng được. Đức
Cha cố gắng giải thích và biện hộ cho việc cấm treo cờ và ngỏ ý tiếc về vụ đổ
máu ở đài phát thanh Huế ngày 8-5.
Đức
Cha cho biết rằng chính phủ sẵn sàng điều tra trừng phạt thủ phạm và bồi thường
đích đáng cho gia đình các nạn nhân bị thương tích hoặc thiệt mạng. Đức Cha tha
thiết kêu gọi sinh viên đoàn kết để đối phó với nguy cơ cộng sản.
Đã
có những sự dàn xếp trước, nên sau mỗi đoạn và cuối bài nói chuyện, mọi người
vỗ tay hoan hô rầm rộ, làm cho Đức Cha có vẻ hài lòng lắm. Lúc bước xuống khỏi
khán đài, tôi thấy nét mặt Đức Cha rất tươi tỉnh, vui vẻ.
Ngài
nhìn tôi mỉm cười, vừa như tỏ dấu hài lòng, vừa như ngụ ý khoe: Thu phục đám
Sinh Viên Giáo Sư này có khó chi đâu. Tôi cũng mỉm cười với ngài, nhưng với y
khác hẳn: Đã chắc gì?
Đức
Cha không hề hay biết, những người nghe Đức Cha nói chuyện phần đông không phải
là Sinh Viên Giáo Sư Đại Học Huế mà là những Thanh Niên Cộng Hòa Phú Cam, học
sinh các Trường Trung Học Tư Thục Công Giáo như Thiên Hựu.
Đức
Cha lại có ý muốn nói chuyện với sinh viên học sinh một lần thứ hai, sau đó độ
một tuần lễ.
Trong
thời gian này tại Sài Gòn trong một buổi lễ của Phụ Nữ Bán Quân Sự, bà Ngô Đình
Nhu đã lên tiếng gay gắt chỉ trích cuộc tranh đấu của Phật Giáo, có những lời
lẽ chế giễu nhục mạ các Nhà Sư, và tỏ ra không tôn kính những vị Sư tự thiêu.
Ngày
Lễ Phụ Nữ Bán Quân Sự vào ngày 3-8 và sáng hôm sau 4-8 tại Phan Thiết một Nhà
Sư tự thiêu.
Từ
Hoa Thịnh Đốn, trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí Mỹ, Đại Sứ Trần Văn
Chương, thân phụ bà Nhu, nhạc phụ ông Nhu dĩ nhiên chỉ trích bà Nhu đã ăn nói
kém lễ độ đối với các Tăng Ni và Phật Giáo. Mầy hôm sau, bà Nhu bằng giọng gay
gắt và chế giễu cho rằng dù bà có thiếu lễ độ đối với Phật Giáo chăng nữa, thì
có lúc cần phải thiếu lễ độ, nếu điều đó nói ra có một ích lợi và một tầm quan
trọng lớn. Đối với người Việt Nam dù ai trái ai phải cái việc cha con chỉ trích
nhau công khai đều được coi chẳng tốt đẹp gì, do đó dân chúng vốn đã ít cảm
tình với bà Nhu, sau vụ cãi vã công khai giữa cha con này, lại càng mất hết
những cảm tình còn lại đối với bà Nhu. Cùng lúc những tin đồn về đức hạnh của
bà Nhu được tung ra, bằng những câu chuyện mập mờ chuyển từ miệng người này
sang tai người khác. Tôi không biết sự thật như thế nào, nhưng tôi nhận thấy có
một chiến dịch được điều khiển nhằm hạ uy tín gia đình ông Diệm, bắt đầu bằng
cách hạ phẩm cách, đức hạnh của bà Nhu. Như cái việc bà Nhu mặc áo hở cổ, thực
ra chẳng có gì quan trọng lắm, vậy mà cũng thành đề tài để chế giễu, chê bai bà
Nhu.
Áo
hở cổ của đàn bà Việt Nam cũng chẳng phải là một thời trang hoàn toàn mới lạ,
và nhìn từ một khía cạnh khác thì đó là một đóng góp cho thẩm mỹ y phục của phụ
nữ Việt Nam, nhưng vào lúc này mọi hành động của bà Nhu đều bị nhìn bằng con
mắt chê bai có thành kiến xấu.
Có
lẽ mất bình tĩnh vì bị chỉ trích và vì không khí thù nghịch chung quanh hoặc
quá tự kiêu, bà Nhu lại tuyên bố với báo chí Mỹ rằng cần phải cứng rắn, thẳng
tay, quyết liệt với phong trào đấu tranh của Phật Giáo.
Hình
như bà Nhu có đề cập đến vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, và đã có
những lời lẽ khiếm nhã trong lúc toàn dân, toàn thế giới đều xúc động vì vụ đó.
Mấy hôm sau ngày 12-5, sau lễ cầu siêu cho một vị sư tự thiêu tại chùa Xá Lợi,
nữ sinh Mai Tuyết An đã tự nguyện chặt bàn tay để tỏ ý phản đối những hành động
đàn áp Phật Giáo, và những lời lẽ khiếm nhã của bà Nhu đối với các nhà tu Phật
Giáo. Ngày 13-8 tại Huế trước Chùa Phước Duyên, Quận Hương Trà, Đại Đức Thích
Thanh Tuệ tự thiêu. Dân chúng, sinh viên Phật Tử biểu tình ở khắp mọi đường phố
ở Huế, ở các Quận.
Vài
cuộc xung đột và bạo động xảy ra một vài nơi. Chính quyền địa phương lo ngại,
ban hành tình trạng giới nghiêm trong Thành Phố Huế và khắp tình Thừa Thiên.
Càng
ngày tình hình càng đen tối thêm, vậy mà có người vẫn không chịu nhìn thấy sự
thật. Khoảng giữa tháng 8, Đức Cha Ngô Đình Thục vào Sài Gòn đề nghị với ông
Diệm bãi chức Viện Trưởng Đại Học của tôi và bổ nhiệm Viện Trưởng mới. Đức Cha
có lẽ đã nghĩ rằng tôi không tích cực trong việc vận động sinh viên Phật Tử,
hoặc ít ra im lặng để cho sinh viên Phật Tử tham gia các cuộc đấu tranh Phật
Giáo.
Ngài
còn nghĩ rằng sau hai lần nói chuyện với sinh viên Giáo Sư mà ngài cho như
thành công lớn, ngài đã có uy tín với sinh viên Giáo Sư Huế và vai trò của tôi
không cần thiết để trấn an sinh viên nữa. Trong lúc ở Sài Gòn Đức Cha gặp Trần
Hữu Thế nguyên Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục lúc đó đang làm Đại Sứ tại Phi Luật
tân vừa về Sài Gòn, và ngài đề nghị lên ông Diệm cho ông Thế làm Viện Trưởng
Đại Học Huế thay tôi. Ông Diệm bằng lòng ngay, và ngày 14-5, Đức Cha cùng với
Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình và ông Thế ra Huế.
Chiều
ngày 15-8, lúc năm giờ, một nhân viên của Viện Đại Học Huế đến cho tôi hay rằng
có ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình có mặt tại Tòa Đại Biểu
Chính Phủ muốn gặp tôi có việc cần gấp. Tôi lên và gặp ông ngay. Ông Trình có
vẻ lúng túng:
-
Thưa Cha, tôi có một tin buồn muốn báo cho Cha biết.
Tôi
đã đoán được vài phần cái tin buồn này:
-
Tin chi mà buồn?
-
Thưa Cha, Tổng Thống muốn cho Cha nghỉ, và đã quyết định đưa ông Trần Hữu Thế
ra thay thế Cha giữ chức Viện Trưởng. Sáng mai lúc tám giờ yêu cầu Cha làm lễ
bàn giao.
Thú
thực là khi nghe tin này một cách chính thức tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong
người. Trong bụng tôi muốn reo lên:
-
Tôi tưởng có chuyện gì khác, chớ chuyện đó có chi mà buồn. Tôi đã đoán trước
được sự việc này rồi. Tôi là bạn của ông Diệm và gia đình ông, khi lên làm Viện
Trưởng Đại Học Huế, cố gắng phát triển Đại Học Huế này, một phần vì muốn giúp
ích cho đất nước, một phần cũng muốn giúp cho họ Ngô. Nay gặp tình thế gay cấn
này, Tổng Thống không muốn tôi giúp cho ông nữa, không có gì là buồn mà lại vui
là đàng khác. Thưa ông Bộ trưởng, ông là bạn của tôi, cũng là người đồng hương
với tôi, tôi xin nói thật để ông biết trước, chế độ này đã đến thời mạt rồi,
tôi đã khuyến cáo Tổng Thống, nài xin ông sửa đổi mà ông không chịu, lẽ ra tôi
đã tự ý xin thôi, nhưng làm như thế tỏ ra là thiếu trung thành với một người mà
mình đã phục vụ mấy năm nay, nên tôi đã bỏ ý định từ chức, nay Tổng Thống cho
thôi, thì thật là may mắn cho tôi, ra đi mà khỏi mang tiếng là phản bội.
Ông
Nguyễn Quang Trình có vẻ lúng túng không nói gì thêm về tương lai chế độ mà chỉ
nói:
-
Thôi đêm nay chúc Cha ngủ yên giấc và cũng xin Cha đừng để lộ tin này ra ngoài
cho các Giáo Sư hay sinh viên nào biết, sáng mai đúng tám giờ Cha đến làm lẽ
bàn giao một cách kín đáo với ông Thế.
-
Được, tôi sẽ cho mời các Khoa Trưởng và vài Giáo Sư đến dự, nhưng không nói lý
do.
Đêm
đó thú thực tôi không chợp mắt được. Tôi ôn lại những việc mình đã làm từ chín
năm nay, nhớ đến mối giao tình thân thiết với ông Diệm, những lần gặp gỡ thân
mật. Tôi vẫn cầu mong cho ông Diệm sớm tỉnh ngộ để kịp thoát khỏi nguy cơ lần
này, nhưng tôi rất ít hy vọng. Tôi cũng nhẩm trong đầu óc những điều sẽ nói
trong lễ bàn giao.
Sáng
hôm sau, trước 7 giờ, tôi đã cho các Tùy Phái đi mời các Khoa Trưởng và một số
Giáo Sư đến văn phòng Viện Đại Học Huế.
Không
có một sinh viên nào hay biết đến dự. Đúng 8 giờ sáng, ông Nguyễn Quang Trình,
Trần Hữu Thế đã có mặt. Ông Bộ Trưởng tuyên bố lý do: Tôi được bãi chức và ông
Trần Hữu Thế lên thay tôi làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế. Tôi ứng khẩu một
diễn văn ngắn đại ý nói rằng tôi xin cảm ơn ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục
Nguyễn Quang Trình đã dời gót ra chứng kiến lễ bàn giao, và xin ông Bộ Trưởng
chuyển lời lên cám ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cất cho tôi cái gánh nặng làm
Viện Trưởng Viện Đại Học Huế trong giai đoạn khó khăn và nhiều trách nhiệm này.
Tôi
nhắc lại những nỗ lực của tôi và những Khoa Trưởng Giáo Sư đã cộng tác với tôi
dựng lên Đại Học Huế và tạo cho nó bộ mặt hôm nay. Ngày nay tình thế đã thay
đổi sợ tôi không đủ khả năng gánh vác trách nhiệm nặng nề đối phó với những khó
khăn, nên Tổng Thống đã cho tôi được trở lại đời sống tu hành, tôi hết lòng cám
ơn.
Tôi
ra đi không buồn phiền chi cả, mà mừng vì ngọn đuốc văn hóa mà tôi và các cộng
sự viên đã cố gắng nhóm lên ở Huế, nay được trao cho một bàn tay khác hy vọng
đủ khả năng tiếp tục làm bừng sáng lân vì ông Tân Viện Trưởng kế tiếp nhiệm vụ
của tôi là một Nhà Ngoại Giao, chính trị và trí thức tài ba.
Như
tên ông đã tiền định ông là người ‘’có thế’’, ông được lòng tin của Tổng Thống
và Đức Tổng Giám Mục, ắt sẽ làm tròn nhiệm vụ một cách dễ dàng.
Tôi
kêu gọi các Khoa Trưởng Giáo Sư trước đã hợp tác với tôi, hãy tiếp tục hợp tác
với ông Tân Viện Trưởng và đừng buồn vì chuyện ra đi của tôi, vì ai cũng cần
phải tâm niệm rằng chẳng có nhân vật nào là không thể thay thế. Những người mà
người ta tưởng không thể thay thế ngày nay đã nằm chặt nghĩa địa, như lời nói
của một văn hào quốc tế. Có tôi, hay không, thì Viện Đại Học vẫn tiếp tục bình
thường.
Tôi
dứt lời. Toàn thể Giáo Sư, Khoa Trưởng ngơ ngác chưa hiểu được biến cố nhỏ vừa
xảy ra vị việc bất ngờ. Họ nhìn tôi, nhìn ông Trình, nhìn ông Thế với những đôi
mắt ngơ ngác, nhiều người cúi đầu. Rồi một phản ứng mà tôi đã đoán trước bột
phát trong đám Khoa Trưởng và vài Giáo Sư. Nhiều người lên tiếng phản đối việc
thay thế tôi giữa lúc này và tuyên bố không công nhận lễ bàn giao. Nhiều người
bỏ đi ra ngoài một cách lặng lẽ, âm thầm. Ông Trình và ông Thế có vẻ lúng túng.
Nhưng rồi lễ bàn giao cũng chấm dứt theo đúng nghi lễ.
Khoảng
chín giờ, sau lễ bàn giao, vừa về đến nhà tôi lấy làm ngạc nhiên, thấy ngoài đường,
trong sân, trên thềm chật đầy những sinh viên. Tôi đoán chừng ngay sau khi ông
Trình tuyên bố quyết định của Tổng Thống, một vài Giáo Sư bất mãn đã bỏ ra về
và báo tin cho sinh viên biết.
Thấy
tôi, các sinh viên reo hò vẫy tay:
-
Cha không thể đi được.
-
Cha không thể bỏ chúng con lúc này.
-
Cha hãy ở lại với chúng con.
-
Trần Hữu Thế cút đi.
-
…
Vài
sinh viên lớn tuổi và có vẻ đầu đàn trong bọn xúm lại gần tôi, nắm tay tôi dẫn
lên thềm, rồi đưa hai tay tôi giơ lên cao hô to:
-
Hoan hô Viện Trưởng Cao Văn Luận.
Cả
bọn lặp lại nhiều lần, và càng lúc số sinh viên kéo đến ngoài đường càng đông
thêm.
Tôi
lo sợ nếu cứ nhùng nhằng thế này thì chẳng mấy lúc số sinh viên tụ tập ở đây
lên đến hàng ngàn, và từ bất mãn này cộng thêm bất mãn khác, họ có thể biến
cuộc tụ họp ôn hòa này thành một cuộc biểu tình mà hậu quả chưa biết ra sao.
Tôi
cũng lo sợ trong đám sinh viên thực tình thương mến tôi, có một số trong phong
trào tranh đấu muốn lợi dụng sự bất mãn của các sinh viên ngây thơ nhẹ dạ để
lôi cuốn họ vào những hành động chống đối.
Tôi
vẫy tay chào và ra hiệu cho đám sinh viên yên lặng:
-
Các anh chị về đi, Cha chưa đi ngay đâu mà sợ. Nếu Cha có đi thì ít ra cũng
phải đến mai.
Đám
sinh viên dùng dằng chưa muốn giải tán ngay. Tôi nói những anh đứng gần nhất:
-
Các anh nên nói với anh chị em giải tán đi thôi, kẻo người ta hiểu lầm là Cha
xách động các anh chị.
Tôi
nói câu này như một lời nói đùa mà thôi.
Đám
sinh viên từ từ giải tán, từng tụm năm ba người kéo ra về, bàn tán xôn xao về
việc giải nhiệm chức Viện Trưởng của tôi.
Tôi
vào nhà gọi người nhà dọn cơm sớm. Thu xếp một ít quần áo rồi lúc hơn 12 giờ
trưa mượn chiếc xe hơi riêng của ông Vũ Đình Chính vô Đà Nẵng ngay. Tôi đến Cha
Ngô Đình Phú cho ông biết chỗ ở, và nhờ giữ kín.
Về
sau tôi được biết, lúc 3 giờ chiều hàng ngàn sinh viên kéo đến trước nhà tôi
khiêng theo một chiếc kiệu, dự định rước tôi lên Viện Đại Học, biểu tình đòi
ông Thế phải từ chức và yêu cầu Tổng Thống hủy bỏ quyết định giải nhiệm tôi.
Các Khoa Trưởng Giáo Sư phản đối ôn hòa hơn, nhưng ngay trong ngày đó họ cũng
làm kiến nghị, gởi lên Bộ Giáo Dục và Phủ Tổng Thống yêu cầu trả chức Viện
Trưởng lại cho tôi.
Các
sinh viên tìm không thấy tôi, hay tin tôi đã bỏ đi lại càng tỏ ra bất mãn hơn,
khiêng kiệu trống kéo xuống đường tiến về phía Viện Đại Học.
Lúc
đầu đám sinh viên có lẽ không đông lắm nhưng dọc đường có thêm nhiều sinh viên
và học sinh trung học gia nhập làm cho đám biểu tình lên đến hàng ngàn người
đến Viện Đại Học. Trần Hữu Thế không dám ra tiếp họ. Các Giáo Sư Khoa Trưởng
phần lớn đều tán đồng cuộc biểu tình này nên chẳng có ai ra can thiệp để yêu
cầu sinh viên giải tán, vì thế mà càng về chiều thì cuộc biểu tình càng đông
đảo và ồn ào. Ông Cẩn, Đức Cha Thục bây giờ thấy hậu quả nguy hiểm của việc
giải nhiệm tôi, lo lắng lắm, và Đức Cha Thục cho hai Cha là Cha Phát, Tổng Đại
Diện Tòa Giám Mục Huế và Cha Bính vào Đà Nẵng tìm tôi, trao cho tôi một lá thư
yêu cầu tôi trở lại dàn xếp ổn thỏa vụ biểu tình của sinh viên vì sợ sinh viên
sẽ làm loạn và tạo nên tình hình gay cấn thêm.
Trong
bức thư Đức Cha Thục kêu gọi tinh thần hiểu biết và bác ái của một vị Linh Mục
nơi tôi hãy giúp Đức Cha trấn an các sinh viên trong ít lâu. Đức Cha cũng giải
thích việc giải nhiệm tôi và nói rằng Tổng Thống nhận thấy lúc này vì tình thế
quá khó khăn, phức tạp, sợ một vị Linh Mục giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học
Huế sẽ gặp tình cảnh khó xử, nên Tổng Thống mới cho một người đời thay thế chứ
thực tâm Tổng Thống không có ý gì là buồn lòng hoặc hết tin cậy tôi cả.
Tổng
Thống cũng đã có ý định cho tôi thôi chức Viện Trưởng để cử tôi làm đại diện
Việt Nam Cộng Hòa tại Cơ Quan Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO).
Tôi
đọc thư Đức Cha Thục trong lúc Cha Phát và Cha Bình ngồi chờ. Tôi nhờ hai Cha
thưa lại với Đức Cha rằng tôi không hề buồn phiền gì cả đối với Tổng Thống và
Đức Cha về việc cho tôi thôi làm Viện Trưởng, trái lại tôi vui mừng và cám ơn
vì hai vị đã gỡ cho tôi một gánh nặng lớn lao.
Tôi
cũng sẵn sàng làm mọi việc để giúp Đức Cha giải quyết vấn đề sinh viên, nhưng
việc tôi trở ra Huế lúc này quả thực không thể làm sao để cho vụ sinh viên yên
được. Tôi ra Huế lúc này chẳng những không giúp làm ổn định tình hình, mà trái
lại có thể gây nên những phản ứng bất ngờ và tai hại nơi sinh viên.
Tôi
nêu lên trường hợp nếu bây giờ tôi trở ra Huế sinh viên quyết liệt đòi tôi làm
Viện Trưởng trở lại, và đòi hủy chức ông Thế, thì Đức Cha và Tổng Thống sẽ xử
cách nào?
Tôi,
Đức Cha và Tổng Thống vì danh dự và tự ái mỗi người không thể thay đổi quyết
định được. Như thế sinh viên lại càng bất mãn, và vụ lộn xộn càng nổ lớn thêm.
Vậy
tôi nhờ hai Cha về thưa lại với Đức Cha điều đó và xin phép Đức Cha cho tôi
được nghỉ ở Đà Nẵng mấy hôm rồi vô Sài Gòn, còn về cái chức Đại Diện Chính Phủ
Việt Nam Cộng Hòa tại UNESCO thì tôi xin cám ơn Đức Cha và Tổng Thống, nhưng
không dám nhận, vì sau bảy năm làm Viện Trưởng tôi đã ngao ngán và lo sợ trách
nhiệm lắm rồi, nay chỉ muốn được yên ổn để lo việc đạo mà thôi.
Tôi
ở Đà Nẵng được hai hôm nữa thì ông Cẩn sai Phan Quang Đông vào tìm gặp tôi và
cho tôi biết rằng ông Nhu đánh điện ra cho ông Cẩn nói phải tìm mọi cách mời
tôi ra Huế. Phan Quang Đông cũng cho tôi biết trong mấy ngày qua, phong trào
sinh viên trở nên gay cấn, lộn xộn hơn, tuy chưa có đám biểu tình nào thật lớn,
nhưng mầm chống đối trong dân chúng nay lại được các sinh viên tham dự gần như
đồng loạt, cùng dâng cao hơn. Mọi nhà Phật Tử đều đóng cửa cầu siêu cho Đại Đức
Tiêu Diêu tự thiêu ngày 18-8, tức là cùng ngày tôi ra đi khỏi Huế.
Tôi
cũng trả lời tương tự như đã trả lời với Đức Cha Thục.
Đêm
20-8 tại Đà Nẵng có cuộc biểu tình lớn của Phật Tử. Cuộc biểu tình lan khắp các
đường phố lớn. Nhiều vụ xô xát với Cảnh Sát xảy ra làm cho nhiều người bị
thương ở cả hai phía Phật Giáo và Cảnh Sát. Lệnh giới nghiêm được áp dụng tại
Đà Nẵng. Cũng trong đêm này Cảnh Sát chiến đấu đến bao vây lục soát Chùa Xá Lợi
lúc bấy giờ là trụ sở của Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo. Những Phật Tử tụ tập ở
đây đã chống lại Cảnh Sát và gây ra nhiều cuộc xô xát.
Cảnh
Sát nổ súng làm nhiều người bị thương, và một số Tăng Ni, Phật Tử bị bắt. Hòa
Thượng Thích Tịnh Khiết bị Cảnh Sát xô ngã bị thương ở mắt. Các Chùa khác ở Sài
Gòn như Chùa Ấn Quang, Kỳ Viên Tự cũng bị lục soát. Gần sáng ông Diệm triệu tập
Hội Đồng Nội Các, tuyên bố cần phải quyết liệt và cứng rắn đối với Phật Giáo,
vì có tin việt cộng sắp lợi dụng các vụ lộn xộn này để gây loạn ở Thủ Đô. Sáng
hôm đó, ông Diệm ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc, tuyên bố tình trạng
khẩn trương, và giao trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Quân Đội.
Hôm
sau 21-8 tôi hay tin ông Vũ Văn Mẫu xuống tóc để phản đối sự đàn áp Phật Giáo.
Ngày 21-8 tôi vào Sài Gòn ở tại nhà ông Nguyễn Hạnh đường Hiền Vương. Tôi lại
được tin Đại Sứ Trần Văn Chương tại Hoa Thịnh Đốn được chấm dứt nhiệm vụ. Bà
Ngô Đình Nhu lúc đó đi vòng quanh thế giới, đến đâu cũng tuyên bố những lời lẽ
có luận điệu đả kích, thóa mạ Phật Giáo và để cho cộng sản xách động các vụ
tranh đấu của Phật Giáo. Dư luận Mỹ và quốc tế lúc bấy giờ như tôi đã trình bày
trước, hoàn toàn chống lại ông Diệm, và nhất là bà Nhu, cho nên những lời lẽ
của bà Nhu, cũng như sự xuất hiện của bà càng làm cho dư luận quốc tế phản ứng
bất lợi đối với chính phủ.
Tôi
nhận được một điện tín của ông Trần Văn Chương báo tin cho tôi biết ông cũng bị
giải nhiệm và chúc mừng tôi đã thoát khỏi cái ‘’nợ’’.
Thời
gian mấy tháng ở Sài Gòn, tôi gần như bị canh chừng và bao vây. Lúc nào trước
cửa nhà ông Hạnh cũng có một vài cảnh sát chìm và cảnh sát đồng phục lảng vảng.
Tôi biết vậy nên chẳng đi đâu cũng không gặp ai. Chẳng phải tôi lo cho bản thân
mà sợ phiền lụy đến những người tôi gặp gỡ. Từ Đà Nẵng vào vài hôm, tôi đến gặp
Đức Khâm Sứ của Tòa Thánh.
Ngài
cho biết rằng có lẽ nhờ sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng nên có một lúc Tổng
Thống đã quyết định cho ông bà Nhu đi Pháp trong ít lâu, và thay đổi thành phần
Nội Các, bãi bỏ những biện pháp cứng rắn đối với Phật Giáo, nhưng sau một phiên
họp Hội Đồng Gia Tộc thu hẹp, không có bà Nhu, ông Cẩn, chỉ có ba người là ông
Diệm, ông Nhu và Đức Cha Thục, Tổng Thống đã quyết định dùng các biện pháp cứng
rắn như đã ban hành ngày 21-8. Đức Khâm Sứ lấy làm tiếc về việc tôi bị giải
chức. Nhưng ngài tỏ ra lo lắng hơn vì tình hình đất nước Việt Nam.
Đức
Khâm Sứ Tòa Thánh cho tôi biết rằng, theo nhận định của ngài thì chế độ họ Ngô
khó thoát khỏi cơn thử thách định mệnh này, và để tránh những hậu quả tai hại
cho Đạo Công Giáo, Đức Khâm Sứ đã mời Đức Cha Thục đi La Mã sớm để dự Cộng Đồng
Vatican mặc dù Cộng Đồng chưa khai mạc. Ngài cho tôi hay rằng trong trường hợp
các cuộc hỗn loạn xảy ra Đức Cha Thục khó có thể tránh được những tai họa khó
lường, và trong trường hợp đó Tòa Thánh phải can thiệp. Nếu thành công Tòa
Thánh cũng mang tiếng là dùng áp lực, nếu thất bại thì mất uy tín Giáo Hội.
Đức
Cha Thục được mời đi dự Cộng Đồng Vatican và ngài lên đường vào tháng 9, sang
Roma rồi qua Nữu Ước phát một thông cáo biện hộ cho các biện pháp cứng rắn của
chính phủ, nhưng dư luận Mỹ bấy giờ đã có thành kiến với ông Diệm cho nên chẳng
có lời biện hộ nào thay đổi được chiều hướng dư luận. Đức Hồng Y Spellman ngày
trước rất thân thiết với gia đình ông Diệm, và quen Đức Cha Thục, cũng không
tiếp. Trong thời gian này, tôi hay tin ông Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn
làm Đại Sứ, thay thế Đại Sứ Nolting bị triệu hồi về nước và hình như bị khiển
trách là đã báo cáo sai lạc về chế độ ông Diệm.
Tất
cả các Trường học bị đóng cửa vô hạn định. Cũng trong thời gian này, tôi nằm
nhà đọc sách, ngóng tin tức, và ngày nào cũng có nghe tin biểu tình lớn của
sinh viên, Phật Tử Tăng Ni trước Chợ Bến Thành. Hơn ngàn người phần lớn các
Tăng Ni trẻ bị bắt và đem giam tại Trại Huấn Luyện Quang Trung.
Vấn
đề Phật Giáo tại Việt Nam được đưa ra trước Liên Hiệp Quốc và Đại Sứ Bửu Hội đề
nghị Liên Hiệp Quốc cử phái đoàn sang Việt Nam điều tra. Tình thế càng ngày càng
gay cấn, và đến cuối tháng mười tất cả bảy vụ tự thiêu trên toàn quốc.
Thời
gian này tôi không tiếp xúc với ai nhiều, nhưng vẫn để ý theo dõi tình hình và
dư luận trong ngoài nước. Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày 25-8 trong chương
trình phát thanh của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, Tổng Thống Kennedy họp báo tuyên bố
rằng muốn công cuộc ngăn chặn cộng sản tại Việt Nam hữu hiệu cần phải thay đổi
chính sách, và không chừng, thay đổi hệ thống nhân sự lành đạo tại Sài Gòn.
Cũng khoảng thời gian này, bà Ngô Đình Nhu họp báo tại Los Angeles tuyên bố
rằng Mỹ đang dự định tổ chức một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Bà
tố cáo rằng hiện thời ở Việt Nam bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng không thể
thành công được trừ khi được Mỹ xúi giục và hậu thuẫn.
Những
tờ báo Mỹ như Newsweek, Businessweek, Washington Fost đề cập đến một cuộc đảo
chánh do các Tướng lãnh Việt Nam chủ mưu, hay thực hiện, có sự đồng tình của Bộ
Ngoại Giao Mỹ. Tờ Newsweek viết rằng không có gì bảo đảm, nếu Mỹ chủ mưu một
cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm hiện nay thì công cuộc chống cộng sẽ
hữu hiệu hơn. Tạp chí Business week thì viết với tựa đề Mỹ sắp đào hố dưới chân
chế độ ông Diệm, rằng có thể chúng ta (Mỹ) sẽ phải hậu thuẫn cho một cuộc đảo chánh bằng lực lượng quân sự.
Hoa Thịnh Đốn đã ngỏ ý cách khác rõ ràng cho mọi người đủ hiểu rằng nơi này
không còn ủng hộ ông Diệm nữa, bất cứ hành động nào âm mưu lật đổ chế độ Diệm
đều được cứu xét với chiều hướng thiện cảm.
Tôi
được nghe những tin đồn nói rằng Bộ Ngoại Giao Mỹ họp với một vài Dân Biểu và
Thượng Nghị Sĩ Mỹ. Mỹ đang gây áp lực mạnh mẽ đối với Tổng Thống Kennedy để xúi
ông này bật đèn xanh cho phép nhóm Á Châu Sự vụ tại Bộ Ngoại Giao công khai hậu
thuẫn một cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm.
Sự
thành công của nhóm này được chứng minh bằng sự triệu hồi Đại Sứ Nolting, Giám
Đốc Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Mỹ CIA tại Việt Nam là ông Richardson về Hoa
Thịnh Đốn, và thay thế bằng Đại Sứ Lodge. Nhóm chủ trương loại trừ ông Diệm tại
Bộ Ngoại Giao do các ông Roger Hilsman, Averell Harriman, Paul Kattenburg. Đặc
biệt ông Kattenburg, Giám Đốc Việt Nam Vụ tại Bộ Ngoại Giao Mỹ, trước đây từng
là Sĩ Quan Tình Báo trong Cơ Quan Tình Báo Quân Đội OSS tại Á Châu vào năm 1955,
đã chủ trương lật đổ ông Diệm một lần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét