PHẦN II - Chương X
VÔ NAM LÀM VIỆC (1935-1955)
LÀM SỞ THUỶ LỢI MIỀN TÂY
LÀM SỞ THUỶ LỢI MIỀN TÂY
TRÊN XE LỬA, NHỚ LẠI
LẦN CẤT MỘ CHA TÔI
Mười một giờ trưa ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất (19-1-1935)
mẹ tôi, em trai và một người em họ tôi đưa ra ga Hàng Cỏ để đáp xe lửa vô Nam.
Hôm đó trời u ám, mưa phùn lất phất. Buồn vô hạn. Ở sân ga mẹ
tôi chỉ dặn tôi vào Nam thế nào cũng phải đi thăm ngay bác Ba tôi ở
Tân Thạnh rồi viết thư cho người biết để người yên lòng.
Anh Đỗ văn Hách cũng được bổ vào cùng một sở với tôi và cùng đi
một chuyến xe. Toa xe lửa hạng ba của chúng tôi vắng, chỉ có hai anh em tôi và
một người cháu gái của anh Hách bồng con nhỏ, tiễn anh tới Nam Định. Chúng tôi
chào hỏi nhau ít câu, rồi để họ nói chuyện với nhau, tôi ngồi riêng ra, nhìn
cánh đồng bằng phẳng, chưa trồng gì, còn trơ chân rạ, với làng xóm, bụi tre,
cây đa, vài mái đình chùa ở xa xa mà nhớ lại lần cải táng cha tôi từ ngoại ô Hà
Nội về Phương Khê, hồi tháng tám âm lịch bốn tháng trước.
Mẹ tôi đã tính toán từ trước, đợi tôi thi đậu rồi mới cải táng,
nhân dịp đó bảo các anh con bác tôi làm cỗ cúng tổ tiên và mời mấy người thân
trong họ, mấy bà lí, bà chánh trạc tuổi mẹ tôi ở trong làng và một làng bên tới
dự. Mẹ tôi lại biết tôi không khéo ăn nói, nên nhờ một người em cháu cô cháu
cậu với tôi, con cả chú Ba Đỗ, lớn tuổi mà có vẻ nho nhã, đứng ra tiếp khách
thay tôi.
Hôm đó thật vui. Mẹ tôi và mấy anh em tôi đi từ làng Thịnh Hào
rất sớm, xách một cái bồ nhỏ trong chứa hài cốt cha tôi, ra ô Câu Giấy đón xe
hàng đi Sơn Tây. Gió thu hây hẩy, hai bên đường ruộng lúa mơn mởn, chúng tôi
vừa đi vừa ăn cốm Vòng dẻo, thơm, ngọt. Không có món điểm tâm nào thanh bằng
thứ đó. Xế trưa tới Phương Khê, sắp hài cốt vô một tiểu sành rồi chôn trong một
thửa ruộng của nhà, trên đồng đỗ, nhìn ra bờ đê, chôn xong xây gạch bốn bên
liền. Công việc chuẩn bị kĩ từ trước, khoảng ba bốn giờ chiều đã xong, rồi về
nhà thờ làm lễ, tiếp khách khứa. Tôi thấy hôm đó mẹ tôi rất vui, rộng rãi với
mọi người. Người thật khéo xử, ghét cái danh hảo, cho nên tôi thi đậu mà người
không khao vọng, mà chỉ nhân việc cất mộ cha tôi, trình với vong linh tổ tiên,
và họ hàng, làng mạc bên chồng rằng người đã ở vậy nuôi con trên mười năm và
con người đã thành tài.
Ngồi trên xe lửa, ôn lại từng ngôn ngữ, cử chỉ của người hôm đó
tôi càng phục: người không được học mà tính toán việc gì cũng chu đáo, xử sự
đàng hoàng, khiêm tốn, mềm mỏng mà tự trọng, bà con bên chồng không ai không
kính.
Rồi tôi lại nghĩ sau khi tôi đi, cảnh nhà còn buồn hơn nữa. Cả
ba em tôi đều không có nghề gì, em trai tôi lại lông bông, không biết mẹ tôi sẽ
tính sao. Tôi định vào làm trong Nam ít năm rồi xin đổi về Bắc, cưới
vợ ngoài đó, chỉ có cách đó nhà mới vui hơn được. Tôi tưởng người cũng mong
vậy. Không hiểu sao một năm sau người lại có ý cho tôi ở luôn trong Nam.
HÀ NỘI - SÀI GÒN –
LONG XUYÊN
Xe tới Thanh Hóa thì tối, nên tôi không được thấy phong cảnh
miền bắc Trung phần. Từ Tourane khí hậu khác hẳn: trời nắng ấm, trong trẻo,
không ảm đạm như ở Bắc, chúng tôi lên xe ca (car) vì khúc này chưa có đường xe
lửa. Trong cuốn Tương lai ở trong tay ta, tôi đã ghi cảm tưởng và
nỗi lòng tôi như sau:
“Hồi đó, một ngày gần Tết, một ông bạn đồng song và tôi ngồi
chiếc xe “ca” vượt cảnh núi trùng trùng điệp điệp trên quốc lộ Số 1 để vào Sài
Gòn nhận việc, vì con đường xe lửa “xuyên Đông Dương” chưa hoàn thành. Qua
những rừng dừa ở Tam Quan, ở Sông Cầu, rồi leo ngọn Đèo Cả, nhìn xuống biển
khơi một màu ngọc thạch, tôi thấy trong lòng nổi lên một khúc nhạc tựa như khúc
Xuân tình. Dưới con mắt tôi, cái gì cũng mới: từ trời biển, núi sông đến cô bạn
đồng hành cười luôn miệng và giọng líu lo như tiếng chim, nhất thiết đều khác
hẳn với quê hương chúng tôi mà tươi sáng quá chừng! Lòng tôi cũng mới: từ nay
bắt đầu bước vào đời, được bay bổng như những con hải âu lấp loáng ở ngoài Nam
Hải kia, được tự do tạo cuộc đời theo ý muốn của mình. Nhớ lại tuổi thiếu niên
bị câu thúc và thiếu thốn, tôi có cảm tưởng rằng chiếc xe ca mỗi giờ mỗi phút
đưa tôi xa cái thời đó cũng như xa cảnh mưa phùn ảm đạm ở Bắc Việt mà chúng tôi
mới từ biệt ngày rưỡi trước.
“Nghĩ tới tương lai, tôi không hề lo lắng (...) mà trước mặt chỉ
thấy hăng hái và hi vọng, tràn trề hi vọng. Có ít nhất là ba chục năm để sống,
sẽ gặp những thời thế mới, hoàn cảnh mới, sẽ kiếm được tiền, học hỏi thêm, và
sẽ hoạt động để đóng một vai trò nào đây. Có gì thú cho bằng, kích thích cho
bằng nữa? Tôi nghĩ thầm: ở trường ra ai cũng như ai, đều sắp hàng ở cái vạch
trắng đánh dấu mức khởi hành của cuộc đua, thử xem sau này ai tới trước và tới
đâu? Chiếc xe ca vẫn lăn đều đều trên đường tráng nhựa, một bên là dãy Trường Sơn,
một bên là biển cả, gió khơi lộng vào tóc, hương rừng ùa vào phổi.
Đó là tâm trạng của tôi hồi đó như vậy”.
Tới Nha Trang chúng tôi bỏ xe hơi lên xe lửa. Tám giờ sáng hôm
sau đến Sài Gòn. Một anh bạn học, Lê Trọng Minh, đợi chúng tôi ở sân ga, đưa
chúng tôi về Đa Kao. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là ga Sài Gòn nhỏ quả, kém xa
ga Hàng Cỏ; mà Sài Gòn rất tươi sáng, náo nhiệt: ánh vàng tưng bừng trên cành,
trên những ngọn sao, dầu, cao vút, thẳng như cây cột, khiến tôi nhớ phố Lò Sũ ở
Hà Nội; đường phố nhộn nhịp người qua lại, phụ nữ hầu hết bận áo cụt[1],
chưa quen mắt nên tôi thấy chướng.
Nghỉ ở Đa Kao một chút - mấy từ này tôi nghe lạ quá, như không
phải tiếng Việt - rồi tôi qua Khánh Hội ở trọ nhà một người em họ tên là Quýnh
làm thư kí tại ngân hàng Đông Dương. Giờ đó trời đã nóng như đầu hè ở Bắc. Hôm
sau lại sở nhận việc, chúng tôi được biết chỉ ở Sài Gòn hơn mười bữa rồi ăn Tết
xong, xuống làm ở Long Xuyên. Tôi liền viết thư cho mẹ tôi hay và báo tin cho
bác Ba tôi ở Tân Thạnh rằng ba mươi Tết tôi sẽ xuống thăm người.
Ở Sài Gòn non nửa tháng đó, tôi đã bắt đầu ngán “Hòn ngọc Viễn
Đông”. “Đủ mọi giống người hỗn tạp, đa số là con buôn; nóng, bụi và ồn; muốn
kiếm một chỗ thanh tĩnh có chút di tích dể ôn lại dĩ vãng thì không biết kiếm ở
đâu, và suốt ngày thâu đêm, chỉ thấy người ta ăn uống, đánh tứ sắc và ca vọng
cổ”.
Sáng sớm 30 Tết, chú Quýnh và tôi lại chợ Bến Thành lên xe đò[2] để
đi Mĩ Luông. Trên đường tôi để ý nhận thấy miền Nam nhiều sông rạch
quá, cho nên nhiều cầu, nông dân ít người lam lũ, và ruộng nhiều chỗ chưa gặt
xong, còn đương đập lúa ở ngoài đồng, vài chỗ có những đống lúa mới đập chưa
chở về nhà. Từ cảnh vật đến người, đâu đâu cũng có vẻ tươi sáng, vui vẻ, thoải
mái.
Đường dài quá, trên trăm rưỡi cây số, qua mấy thị xã, mấy chợ
quê rồi mà vẫn chưa tới nơi, tôi sốt ruột. Khoảng 12 giờ trưa xe mới ngừng ở
chợ Mĩ Luông và chú Quýnh và tôi xuống đò qua làng Tân Thạnh ở bờ bên kia sông
Tiền Giang. Đi bộ một quảng nữa, gặp một người anh con bác tôi, anh Việt Châu đi đón.
BÁC BA TÔI VÀ LÀNG TÂN
THẠNH
Tới nhà, bác Ba tôi nắm chặt tay tôi, mừng biết bao. Đã mấy năm
nay bác cháu anh em chỉ biết nhau trong bức thư chứ đâu đã biết mặt. Cả nhà xúm
lại chung quanh chúng tôi.
Bác trai tôi cũng thấp người, da trắng như cha tôi, có phần đẫy
hơn; trán cao, mặt vuông, miệng rộng - nghe nói hồi trẻ môi son nữa - tướng
phương phi, phúc hậu, tính tình nghiêm hơn bác Hai, nhưng có phần khoan hơn cha
tôi. Bác gái tôi cũng thấp, trắng trẻo, ra vẻ nhàn hạ phong lưu, không cực khổ,
tháo vát như mẹ tôi, tính tình thành thật, dễ dãi, rộng rãi.
Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục tôi đã chép khá
kĩ về bác Ba tôi, đây chỉ xin tóm tắt vài nét chính. Học giỏi, có tài văn thơ,
thi Hương thử một lần rồi bỏ, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục, cưới con gái (cô
Năm) cụ cử Lương Văn Can, thục trưởng, cả hai vợ chồng đều dạy giúp nghĩa thục.
Hiệu là Phương Sơn, bạn đồng chí trong nghĩa thục gọi là Tiểu Phương để phân
biệt với bác Cả tôi là Đại Phương, chơi thân với cụ Đỗ Chân Thiết (Đỗ Cơ
Quang), thân phụ Đỗ Bàng và Đỗ Thị Tâm, nhưng chí hướng mỗi người một khác, bác
tôi ôn hòa hơn.
Nghĩa thục bị đóng cửa thì bác gái trước và con trai mới vài
tuổi đều chết, bác tôi bỏ Hà Nội, lẻn vào Sài Gòn, định ở Nam ít tháng để liên
lạc với các đồng chí rồi sẽ qua Xiêm, không ngờ tàu vô Vũng Tàu thì hay tin đêm
trước Phan Xích Long công phá Khám Lớn Sài Gòn (1913), mật thám canh gác rất
ngặt, bác tôi lại phải lẻn vào một miền hẻo lánh ở ven Đồng Tháp Mười[3].
Ở đó, người tiếp xúc được với vài đồng chí cũ và mới, liên lạc được với cụ
Lương Văn Can đang bị an trí ở Nam Vang, nhưng thấy thời cơ chưa thuận tiện,
người tạm trú tại nhà một người có Nho học và có uy tín trong làng Tân Thạnh để
dạy học, được người trong miền kính mến. Rồi người cưới vợ, được người quen chỉ
cách cho, xin khẩn một khu ruộng - thời đó Đồng Tháp còn hoang vu - thành một
điền chủ hạng trung, có độ hai trăm héc-ta, chỉ một nửa là làm lúa sạ được. Vốn
tri túc, người không khuếch trương thêm, tiêu khiển với mấy chậu cảnh, với việc
dạy học và làm thuốc giúp bà con trong vùng. Danh tiếng lan xa, đa số các nhà
giàu sang ở Long Xuyên, Sa Đéc đều nhờ người trị bệnh. Tóm lại, người là một ẩn
sĩ phong lưu, nhà cầm quyền Pháp ở Long Xuyên có lần muốn mua chuộc người bằng
lợi lộc, người từ chối; họ thấy người không bạo động, nên để yên. Chính người
đã lấy số Tử vi cho tôi khi mới sanh. Năm đó (1935) người 53 tuổi, còn mạnh
lắm.
Làng Tân Thạnh ở giữa miền Hồng-Cao (Hồng Ngự - Cao Lãnh) mà tôi
đã tả trong bài Tựa cuốn Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu,
nổi tiếng là đất văn học và cách mạng trong vùng. Văn học thì xưa có một số nhà
Nho, học trò cụ Tú Thường[4] ở
Cái Vừng; khi tôi tới, mấy nhà Nho đó còn sống, con cháu họ đã theo Tây học, có
người qua Pháp đỗ kĩ sư điện, hoặc cử nhân văn chương; đặc biệt là có một người
xuất thân trường nữ học Gia Long, thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh năm 1928 có bằng
Cao đẳng tiểu học. Cách mạng thì phái cổ có cụ Hồ Nhật Tân hướng ứng phong trào
Đông kinh nghĩa thục, phái mới có bốn năm người kháng Pháp, theo đảng Cộng Sản.
Làng lại giàu có: đầu thế chiến thứ nhất chỉ có những nhà lá rải rác trên bờ
rạch Đốc Vàng thượng[5],
sau nhà là lau sậy; phương tiện giao thông chỉ có ghe, xuồng, từ làng ra tỉnh
lị Long Xuyên mất một ngày, lên Sài Gòn mất một tuần; vậy mà chưa đầy hai chục
năm sau, dân chúng đã khai phá sâu vào được mấy cây số suốt hai bên bờ rạch,
cất được mấy ngôi nhà đúc và vô số nhà sàn mái ngói, phương tiện giao thông đã
có ca-nô. Nhiều điền chủ có ba trăm héc-ta ruộng hoặc hơn.
Nhà bác tôi chỉ là một nhà sàn mái ngói vào bực trung trong
làng, trước có sân rộng trồng hoa nhìn ra rạch Đốc Vàng thượng, một bên là vườn
xoài, sau lưng là một hàng tre. Nhà rộng 9 thước, gồm hai lớp: lớp ngoài sâu độ
tám thước, lớp trong độ sáu thước. Bên hông nhà là một lẫm cũng bằng cây, khá
lớn, vừa để chứa lúa vừa để chất các đồ làm ruộng.
Hôm đầu, ngồi xe mệt mà không được nghỉ, phải hầu chuyện bác tôi
và nói chuyện với hai người con trai lớn của bác: anh Xuân Tăng đương học ban
tú tài ở Cần Thơ, và anh Xuân Thiếp đậu bằng tiểu học rồi ở nhà học chữ Nho,
theo nghề Đông y[6].
Tối đó bác tôi đưa tôi và chú Quýnh đi chào mấy vị lớn tuổi và
có danh vọng trong họ bác gái tôi: một bà cụ con một vị Cai tổng đã khuất, mà
thời trước Cai tổng miền này có uy quyền ngang với phủ huyện; dân trong tổng
còn sợ hơn sợ chủ quận vì chủ quận ở xa; một vị Hương Cả (cũng như Tiên chỉ ở
Bắc) có học Nho, vào hạng khá giàu. Sáng hôm sau, mùng một, bác tôi đưa chúng
tôi đi thăm cảnh trong làng rồi xuống chợ Tân Phú trên rạch Đốc Vàng hạ, vào
thăm ông Phủ Nghĩa (phủ hàm), người giàu nhất nhì tỉnh Long xuyên. Ông năm đó
khoảng bảy chục tuổi mà còn mạnh, tướng mạo phương phi. Bác tôi tuy không thích
làm giàu nhưng trọng những người tay trắng làm nên như ông (miễn là không làm
giàu một cách tàn nhẫn, tí tiện), khen ông là giỏi tính toán, khéo cư xử, không
khoe giàu, biết xét người. Ông cũng có biệt nhãn với bác tôi vì tư cách, học
thức.
Ông phủ hồi nhỏ nghèo, không được học, nhưng thông minh, cần
kiệm, cố gây một số vốn rồi xin khẩn đất hoang, gặp thời, làm đâu trúng đấy,
mấy chục năm sau có khoảng ngàn mẫu ruộng, dinh cơ ở Tân Phú gồm một nhà lầu
nền đúc, nhiều nhà một tầng cũng nền đúc, mấy cái lẫm lúa, vài nhà máy xay lúa,
tất cả choán một khu rộng trên bờ rạch Đốc Vàng hạ. Trước nhà luôn luôn có mấy
chiếc ghe lúa đậu, xuồng và ca-nô chật bến. Ông cất cho làng một ngôi chợ gần
dinh cơ của ông và nhiều dãy phố cho mướn ở chợ Mĩ Luông. Có ba người con trai,
đều vào hạng biết làm ăn, chứ không phá của vì ông biết dạy con; một người làm
cai tổng, một người làm hội đồng tỉnh. Dân trong miền không oán ghét gia đình
đó vì họ không cướp bóc, hà hiếp ai.
Coi dinh cơ của họ đồ sộ, người ăn kẻ làm tấp nập, từ trên nhà
tới dưới bến, trông cũng vui mắt, nhưng tôi không thích mà thích một nhà sàn có
hoa cỏ, cây cao bóng mát hơn.
Chiều mùng hai tôi phải từ biệt bác tôi để qua Chợ Mới, ngủ tại
nhà một người anh họ, anh Thiệm, ở Phương Khê vào đây làm ăn từ mấy năm trước,
có một sạp bán vải ở chợ. Sáng sớm mồng ba tôi với anh Thiệm đi đò đạp qua Long
Xuyên. Đò là một chiếc ghe dài chở được ba bốn chục người và nhiều hàng hóa,
nhưng không có chèo mà có một xa quạt ở phía sau do bốn người đạp. Đò đi rất
chậm, lại ghé nhiều nơi đón khách, nhờ vậy tôi được coi phong cảnh hai bên bờ
rạch Ông Chưởng (Chưởng binh Lễ tức Nguyễn Hữu Cảnh 1650-1700). Miền này phong
phú, nhà cửa san sát, hầu hết là nhà sàn mái ngói, một số là nhà nền đúc. Nhà
nào cũng có vườn trồng xoài, mận… đẹp nhất là mai vàng.
*
Mười một giờ trưa mới tới Long Xuyên, gặp anh Thái và anh Hách ở
Nha Trang vào, ba chúng tôi cùng học một lớp, nay cùng làm một sở. Lại gặp một
hai thầy họa đồ (Opérateur) giúp việc cho chúng tôi nữa. Mướn phòng ngủ rồi rủ
nhau đi coi thị xã. Thành phố nhỏ mà buồn, đi độ một giờ là hết. Chia làm hai
khu vực: khu thương mãi ở phía Nam gồm một nhà lồng (chợ) ở sau nhà
việc (cơ sở hành chánh) của làng Mĩ Phước, và gần bờ sông Hậu Giang. Chung
quanh chợ có ba bốn dãy phố buôn bán, hầu hết là của Hoa kiều, có một đường lát
đá dọc theo sông Hậu đưa xuống Cái Sơn, ngoại ô, cảnh ở đây đã như nhà quê rồi.
Khu hành chánh ở phía bắc; một cây cầu sắt bắt qua rạch Long Xuyên nối hai khu
với nhau. Khu hành chánh gồm các công sở như Tòa bố (tỉnh đường), sở Bưu điện,
sở Công chánh, Địa chánh, Bệnh viện, trường tiểu học Nam, Nữ... Chỉ có hai con
đường chính song song nhau: Gia Long và Lê Lợi, với vài con đường ngang, nhỏ.
Đường Lê Lợi có nhiều phố lầu của công chức gần bờ hồ và sông Hậu, nhiều cây
cao bóng mát, như cây teck, cây dái ngựa (?) mùa xuân hương thơm ngào ngạt.
Đường Gia Long vắng vẻ, hầu hết là nhà sàn cách nhau có khi tới trăm thước; nét
đặc biệt là có một con kinh ở bên đường và nhiều cầu gỗ đưa từ đường vào nhà,
nhà nào cũng có vườn rộng; lắm chỗ còn bỏ hoang. Ngày nay đường đó đã đông
nghẹt nhà lớp trước lớp sau, có chỗ tới ba lớp; kinh đã lấp, cầu đã dỡ và đường
đã mở rộng thành một đại lộ lớn nhất thị xã.
CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG
TÔI
Sáng hôm sau chúng tôi lại sở Trường tiền (Công chánh) lãnh việc
rồi dọn đồ đạc, máy móc xuống ghe (mỗi người trong ba anh em tôi được một chiếc
ghe, loại ghe hầu dài ba bốn thước, rộng trên một thước), chèo xuống Ô Môn
(cách Long Xuyên khoảng bốn chục cây số trên đường đi Cần Thơ) để tối đó bắt
đầu làm việc.
Công việc của chúng tôi là đo mực đất cao thấp (nivellement) ở
miền Tây, từ Châu Đốc, Long Xuyên qua Rạch Giá, xuống Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau; từ mực đất đó mà đo xuống mực nước kinh rạch để tính
ra đường nước chảy, khi thảo những kế hoạch thủy lợi.
Ba anh em tôi mỗi người chỉ huy một đội, đi đo một miền. Chúng
tôi đo theo các đường lộ và bờ kinh, rạch. Công việc phải làm ban đêm, có hai
kíp thay phiên nhau, một kíp từ sáu giờ chiều tới nửa đêm, một kíp từ nửa đêm
tới sáu giờ sáng. Mới đầu dùng đèn điện, bất tiện, sau dùng đèn khí đá
(Acétylène). Tôi cho việc làm đêm đó là một sáng kiến không có lợi của các kĩ
sư Pháp sở tôi.
Mỗi đêm chúng tôi đo được từ ba đến bốn cây số, đo tới đâu, ghe
dời chỗ theo tới đó, cứ như vậy tiến hoài, có khi phải trở lại hai ba lần một
con đường cũ.
Vào mùa mưa thì cực vô cùng, nhất là ở những miền còn hoang như
Chắc Băng - Cạnh Đền, miệt thứ[7],
U Minh (Rạch Giá) hoặc Thới Bình (Cà Mau), kinh Gãy (Đồng Tháp Mười)... Vì đất
sình lầy, trơn, đâu đâu cũng có đỉa, muỗi, vắt; có khi phải vạch lau sậy mà đi
trong đêm tối.
Nhưng mùa nắng mà đi do dọc theo những lộ và rạch miền Sa Đéc,
Cần Thơ thì tuyệt thú; không sao quên được ánh trăng vằng vặc trên rạch Cái
Răng, Bình Thủy, không khí mát mẻ, hiu hiu gió, thoang thoảng hương sao, hương
bưởi, hương mù u…, và tiếng đàn kìm não nùng văng vẳng gảy bản vọng cổ. Miền
này quả là nhiều trăng, nước, hương và nhạc.
Một thú nữa là được dời chỗ hoài, mỗi ngày ăn chợ một nơi, hôm
trước ở Long Xuyên thì hôm sau đã tới Tầm Bót. Làm xong “ca” sau, sáu giờ sáng,
thì chợ đã họp đông rồi, tôi lại mua những thức ăn đặc biệt miền Nam như bánh
ú, bánh da lợn, bánh bò, dà châu quẩy[8](bánh
củ cải chiên), bánh cam với ít trái cây tùy mùa: soài, xa pô ti, mảng cầu
Xiêm... để ăn điểm tâm (tôi không thích hủ tiếu, cà phê; phở Bắc không có).
NGƯỜI NAM
Tôi làm quen được với nhiều người. Tới tỉnh nào cũng gặp được
những bạn đồng sự, họ thường lớn tuổi, giàu có; người nào cũng mỗi năm thu lúa
ruộng được ngàn giạ là ít, theo giá thời đó như vậy là họ có thêm mỗi tháng
khoảng 100 đồng, bằng lương của họ; ngoài ra họ còn những nguồn lợi khác. Họ
hiếu khách, đối với bọn trẻ chúng tôi rất rộng rãi, lái xe hơi đưa đi chơi,
tiệc tùng liên miên ở tửu lâu: như vậy đỡ bận cho vợ con mà lại tự do hơn.
Rồi tới các điền chủ hạng “bự” (giàu lớn) mà già, dinh cơ đồ sộ
hơn ông phủ Nghĩa ở Đốc Vàng (Long Xuyên) nhiều, thì tôi “viễn chi”; nhưng các
con họ, các công tử, các “cậu” đã đi học ở Sài Gòn hay Hà Nội hay bên Pháp ít
năm, chẳng được bằng cấp gì, về nhà coi ruộng cho cha, gặp chúng tôi mừng lắm
vì có người để “nói chuyện”. Đa số sống lêu bêu suốt ngày không làm một việc
gì, bày ra ăn uống rồi đàn ca, coi đá gà, đá cá, kiếm gái, hút xách... Đời họ
sao buồn thế! Tôi gặp một lần cho biết thôi, không trở lại.
Một hạng người mà tôi tò mò muốn biết hơn: hạng cư sĩ. Thời
1933-1938, phong trào tôn giáo ở Nam đương lên: chỗ nào cũng có những
đàn cầu cơ của đạo Cao Đài; thuyết pháp của Phật giáo; thị trấn nào cũng có một
nhóm trí thức theo Thông thiên học (Théosophie). Về tôn giáo, ở trường ra tôi
mù tịt. Tôi mượn sách báo của họ đọc cho biết, khen sư Thiện Chiếu lí luận rành
rẽ; ghét cuốn Đạo giao (không nhớ của ai) chỉ nói về tà thuật
chứ không giảng về triết lí; tìm hiểu thuyết luân hồi theo Thông thiên học;
nhưng vẫn cho rằng đạo Khổng thiết thực hơn cả.
Tôi vào thăm một nhà cách mạng, cụ Võ Hoành, trong Nam gọi là cụ
cử Võ, bạn của bác Ba tôi ở Đông Kinh nghĩa thục, lúc đó đang bị an trí ở Sa
Đéc. Tôi đã chép cuộc tiếp xúc với cụ trong phụ lục cuốn Đông Kinh
nghĩa thục.
Tôi đã thấy đời sống của những nông dân cất vội một cái chòi mỗi
chiều chừng ba thước trên một bờ kinh để “làm” một khoảnh đất mới, thất bại thì
dỡ nhà, chở nồi niêu, chén bát, đồ đạc với con heo xuống một chiếc xuồng ba lá
chèo đi kiếm đất khác. Đời họ rất vất vả nhưng không bao giờ đói vì có cá, tôm,
rùa đem đổi lấy gạo được. Cá Đồng Tháp nhiều vô kể, chỉ thua cá Biển Hồ (Cao
Miên), mà Đồng Tháp chính là một biển hồ thứ nhì thông với biển hồ thứ nhất
bằng sông Cửu Long và sông Tonlé Sap.
Tôi đã có lần được một bạn rủ đi nghe một cuộc đàn ca trên bờ
rạch Bình Thủy. Một căn nhà lá nhỏ cất trên một khu đất vừa mới phát, còn gốc
lau sậy. Ngoài sân phơi nhiều quần áo của hạng phụ nữ sang mà trong nhà đồ đạc
rất sơ sài: một cái bàn con, vài cái ghế, một bộ ván trải chiếu. Trên vách treo
một cây đàn kìm. Năm sáu cành sậy xuyên qua vách lá hở, đâm tua tủa vào một góc
phòng. Người chồng trẻ, dáng dấp một thư sinh, bận bộ bà ba lụa đen, đun nước
pha trà Thiết Quan Âm tiếp chúng tôi. Vợ bận áo dài, nhỏ nhắn, nước da trắng
mịn, vẻ mặt thanh tú, dịu dàng, hỏi thăm chúng tôi vài câu, rồi anh bạn tôi lên
dây cây đàn kìm, gảy khúc Phụng cầu hoàng, nàng cất tiếng họa theo.
Ngón đàn của anh mùi, mà giọng nàng thanh, ấm. Nàng ngước cặp mắt long lanh lên
ca, cặp mắt bồ câu tuyệt đẹp, hai bàn tay búp măng đặt lên dùi, móng tay hồng
hồng; lúc này tôi mới thấy nét mặt nàng phảng phất buồn. Bạn tôi vừa đàn vừa
đăm đăm nhìn nàng và mỗi khi xuống một nhịp nào, giọng đàn, giọng ca thật hòa
hợp nhau, thì hai người cùng mỉm cười ngó nhau và người chồng ngồi bên cũng mỉm
cười. Sự hân hoan tương đắc đó, chỉ hạng nghệ sĩ mới cảm được. Tôi tự thấy lúc
đó là người ngoại cuộc, mà chính họ cũng chẳng để ý gì đến tôi.
Đàn được vài bản, bạn tôi treo đàn trả lại chỗ cũ, rồi từ biệt
chủ nhân ra về. Vợ chồng đó là một cặp nghệ sĩ, mê nhau rồi bỏ nhà ra đi, sống
cuộc đời giang hồ; vì có tài mà lại đứng đắn, lễ độ, nên được nhiều người mến,
thương tình giúp đỡ; và họ biết giữ tư cách của họ. Người vợ sau bị giặc Pháp
giết, người chồng theo kháng chiến. Truyện họ tôi đã kể rõ trong tập Con
đường thiên lí[9].
Tôi đã vào những nhà sàn ba gian lợp ngói hay lá thấp lè tè, tối
om om và thấy nhà nào căn đẹp nhất cũng dành cho việc thờ phụng tổ tiên mà
những đồ quí nhất cũng là đồ thờ; bên cạnh bàn thờ, tôi lại thường thấy treo
hình các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Chủ nhân để búi tóc, bận bà ba đen,
luôn luôn nhã nhận tiếp tôi, và khi thấy tôi chăm chú nhìn các đôi câu đối,
đoán rằng tôi biết chút ít chữ Hán thì không e dè gì cả, đọc cho tôi nghe thơ
văn của các nhà cách mạng hoặc hỏi tôi truyện Mã Chí Ni, Gia Lí Ba Đích (tức
Mazzini và Garibaldi, hai nhà yêu nước người Ý) trong bộ Ẩm Băng thất của
Lương Khải Siêu. Các nhà Nho đó rất nghiêm khắc trong việc dạy con, rất trọng
cổ tục, được dân làng kính nể. Và tôi cho rằng sinh lực miền Nam này dào dạt ở
thôn quê, trên bờ những con rạch mát rượi bóng dừa, trên những cánh đồng bát
ngát bông sen và bông súng, trong những căn nhà sàn vách ván này, chứ không
phải trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, trên đường Catinat
hay Tổng đốc Phương[10].
CẢNH NAM
Hai năm lênh đênh trên sông rạch, tôi được biết gần khắp miền
Tây, mấy năm sau nhờ đi kinh lí khi bằng xe hơi, khi bằng tàu thủy của sở, tôi lại
biết thêm được ít nhiều về miền Đông nữa và tôi nhận thấy Nam Việt không bằng
phẳng, đơn điệu, buồn tẻ như ta tưởng lầm khi nhìn bản đồ in trong các sách địa
lí. Nó chỉ rộng bằng nửa Bắc Việt mà có rất nhiều miền khác nhau về địa hình,
phong cảnh, phong tục, lối sống, nhìn bề ngoài không nhận ra dược.
Miền Tây, từ vịnh Thái Lan vô, có đất Hà Tiên, quê hương của thi
sĩ Đông Hồ, mà chính thi sĩ đã giới thiệu với chúng ta như sau, trong cuốn Văn
học Hà Tiên:
“Ở đó kì thú thay, như gồm hầu đủ hết.
Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá
chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của Ninh Bình, một ít thạch
thất sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít
chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có
một ít Nha Trang, Long Hải.
Ở đây không có một cảnh nào to lớn, đầy đủ; ở đây chỉ nhỏ nhắn,
xinh xinh, mà cảnh nào cũng có”.
Hồi xưa nó là một tiểu vũ trụ biệt lập, rất hợp cho kẻ nào có
chí vẫy vùng, muốn nghênh ngang một cõi như Mạc Cửu.
Tiến vô trong - về phía Đông - xa xa vài chục cây số, xưa là
cánh đồng lầy, ta gặp dãy núi Thất Sơn dài 30 cây số, rộng 17 cây số mà Nguyễn
Văn Hầu đã tả trong cuốn Nửa tháng trong miền Thất Sơn. Một khu núi
đá có đất, ngọn cao nhất 716 thước, cây cối xanh tốt, leo lên ta gặp những
hang, động của các tu sĩ sống cô liêu, làm bạn với chồn, khỉ, hàng tháng không
xuống tới chân núi; không tiếp xúc với ai, họ âm thầm, lầm lì sống với một bình
nước mưa hay nước suối, một nhúm gạo, vài trái cây rừng. Lâu lâu ta gặp một
người, ta nhìn kĩ mới nhận ra là phụ nữ, vì họ búi tóc, bận một bộ bà ba vải
đen, đi chân không, vai đeo một cái đãy, ngực bó lại cho khỏi lộ[11];
họ mạnh dạn bước như đàn ông, chỉ trong nét mặt là để lộ một chút nữ tính mà
người tính mắt mới thấy. Ta có cảm tưởng họ đăng sơn để đem một tin tức cho sư
phụ. Miền này xưa kia có nhiều nhà chân tu ái quốc, đệ tử của Phật Thầy Tây An
trong phái Bửu Sơn kì hương, một số ở làng Ba Chúc, một làng có rất nhiều chùa
nền đá, tường gạch mà mái lá; đàn ông, đàn bà ăn mặc y như nhau, rất trọng
hiếu, nghĩa.
Dưới chân núi, khắp trong vùng này có nhiều ông “đạo” kì cục:
ông thì nằm suốt năm, người ta gọi là Đạo Nằm; ông thì chỉ ăn ớt, gọi là Đạo
Ớt; ông thì nói gì cũng chỉ “ừ”, gọi là Đạo Ừ... ông nào cũng có một số nông
dân chất phác theo, cung phụng đủ thứ.
Núi cuối cùng là núi Sam, lẻ loi, khá cao, nhưng ít cây cối,
cách thị xã Châu Đốc năm cây số. Năm nào lụt lớn, cả miền bị ngập, thì núi Sam
nổi lên như một hòn giữa biển, và tối đến, lưng núi lốm đốm những ngọn đèn đỏ,
khiến ta nhớ cảnh Hương Cảng in trong các tập quảng cáo du lịch.
Xuôi dòng sông Hậu, tới Long Xuyên. Cả miền này năm nào cũng
ngập nước một hai tháng, xưa chỉ trồng lúa sạ; nhà toàn là nhà sàn. Cá tôm rất
nhiều, nhất là cá linh, ngon như cá mòi, có nơi ăn không hết, làm nước mắm cũng
không hết, phải dùng làm phân bón. Nửa thế kỉ trước, mùa nước rút, có những
rạch lúc nhúc cá linh, người ta chỉ việc xuống xúc cơ man cá.
Xuôi xuống nữa tới Cần Thơ, Sóc Trăng, vựa lúa của miền Tây mà
cũng là của Nam Kì. Mùa nước lớn miền này không bị ngập, đất tốt, dân đông,
vườn tược xum xuê, trái cây nhiều, đời sống rất dễ dàng, vui vẻ, đúng với câu
“gạo trắng, nước trong”. Tuy cùng một miền mà Sóc Trăng có nhiều người Việt gốc
Miên, cho nên phong tục và phong cảnh hơi khác. Thỉnh thoảng ta gặp những chùa
Miên ở trên một giồng trồng toàn sao.
Giáp Cần Thơ, phía tây là Rạch Giá với cảnh rừng bần ở bờ biển,
rừng tràm ở U Minh. Dân U Minh sống bằng nghề “ăn” ong, đốn tràm, bầy chim (xưa
còn bắt sấu nữa), trồng khóm, lúa. Không biết những “sân chim” nay còn không?
Phía nam Sóc Trăng là Bạc Liêu, miền nước mặn. Một cánh đồng lúa
bát ngát, bờ biển có ruộng muối, vườn nhãn. Miền này có nhiều điền chủ lớn, như
hội đồng Trần Trinh Trạch; và nổi tiếng vì một hạng công tử tiêu tiền của cha
mẹ như rác, ngông tới nổi ngồi trong rạp hát, đốt một tấm giấy xăng (100 đồng
thời trước 1930) cho bạn tìm một tấm giấy năm đồng! Cảnh Bạc Liêu thật tẻ: bằng
phẳng quá, trơ trọi quá; đường xe hơi và con kinh chạy theo sát nó thẳng tắp và
chói lòa ánh nắng; đường thì nhiều cát mà kinh thì nhiều cá chốt.
Cuối cùng là Cà Mau với những rừng đước âm u, những rạch nước đỏ
như nước trà đậm, do lá cây mục. Sản phẩm chỉ có cá, tôm, cua và than đước.
Đó là phía sông Hậu. Phía sông Tiền, hữu ngạn là miền của Phật
giáo Hoà Hảo, ở quận Tân Châu[12],
tín đồ mặc toàn đồ đen, đàn ông để tóc xõa xuống vai; tả ngạn là cánh đồng Tháp
Mười rộng ba chục cây số, lên tới biên giới Miên, dài năm sáu chục cây số, từ
Hồng Ngự tới Tân An, mới khai thác được một dải năm mười cây số từ bờ sông Tiền
vào, còn thì hầu hết là cỏ lát, từ phi cơ nhìn xuống chỉ thấy một tấm thảm xanh
đậm với những đường ngang, đường dọc lấp lánh như bạc, tức những con kinh đào
thông ra sông Tiền. Đời sống ở đây khác hẳn ở Cần Thơ, Sa Đéc. Dân tứ xứ tụ làm
ăn, người nghèo chỉ có một cái xuồng, lựa được miếng đất nào thì tấp vào, cất
tạm cái chòi bằng lá rồi bắt đầu khai phá, khá thì ở lâu, không khá thì dời đi
nơi khác. Miền này có thể gọi là miền “Far West” (cực Tây) của Nam Kì.
Chỉ một miền Tây mà gồm bấy nhiêu khu vực khác nhau xa như vậy.
Miền Đông cũng rất thay đổi, nhưng tôi chỉ đi ngang qua, không ở lâu. Cảnh Biên
Hòa gợi cho tôi nhớ cảnh quê Bắc: cũng ít sông rạch, nhiều đường đất; trên
đường thỉnh thoảng gặp những chiếc xe bò và một người gánh đồ như ở Bắc; làng
xóm không trải ra theo các bờ rạch mà tụ lại, có hàng rào. Thủ Dầu Một có nhiều
vườn cao su tối tăm, lạnh lẽo, khiến tôi nhớ cuốn Bão rừng của
Nguyễn Văn Xuân và thương cảnh dân Bắc vào dây kiếm ăn mà họ bảo là “đi Tân thế
giới”.
Rồi có cánh núi Tây Ninh, núi Bà Rá với những thánh thất Cao Đài
(kiến trúc tựa như nhà thờ Notre Dame de Paris), những tín đồ mặc toàn đồ
trắng, khác hẳn với Hoà Hảo; có cảnh biển Phước Hải, Long Hải, Gò Công. Tôi
quên chưa kể những tỉnh Mĩ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, mỗi tỉnh có một
vẻ riêng, có thế coi như một miền nhỏ được.
Phong tục những nơi có nhiều người Việt gốc Miên như Xà Tón (Tri
Tôn) khác xa phong tục nơi có người Chà Và gốc Mã Lai như ở Châu Giang - ngang
Châu Đốc - mà ngay những người Việt gốc Hoa cũng mỗi nơi một khác: Bạc Liêu có
nhiều người Triều Châu, Chợ Lớn có nhiều người Quảng Đông, ngôn ngữ khác nhau
mà cách ăn uống cũng khác nhau.
Nam Việt quả thực là nhiều vẻ, có đi nhiều mới biết được, và có
ở lâu mới thấy thích.
Nhưng xét chung thì Nam Việt đẹp nhờ trăng và nước. Ở đây nhiều
sông rạch hơn Hàng Châu, gần xích đạo hơn Hàng Châu và Venise, mà càng gần xích
đạo thì trăng càng tỏ. Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn sau đám mây, nửa mờ
nửa tỏ; tôi cho rằng trăng vằng vặc trên dòng nước mới đẹp.
Trăng ở đây tỏ nhất vào giữa tháng giêng và tháng hai âm lịch.
Vào những khoảng đó, nếu làm việc ở miệt vườn như Long Xuyên, Cần Thơ, mà lại
nhằm ngày rằm, làng nào cũng cúng đình thì thế nào tôi cũng dạo trên bờ rạch để
ngắm cảnh.
Dưới rạch thỉnh thoảng có một hai chiếc tam bản hoặc ghe hầu
lặng lẽ xuôi dòng đưa các ông già bà cả đi lễ đình, có thiếu nữ theo hầu. Trên
đường đất theo bờ rạch, nam thanh nữ tú dập dìu chơi xuân, lúc ẩn lúc hiện dưới
bóng rặng dừa, rặng xoài hay bằng lăng. Trong gió mát thoang thoảng hương xoài,
hương mù u. Và chỗ nào cũng nghe thấy tiếng đàn kìm từ trong nhà sàn bên đường
đưa ra các điệu Vọng cổ. Tây Thi, Tứ Đại Oán... cứ tiếng đàn ở sau lưng nhỏ lần
thì đã văng vẳng tiếng đàn ở phía trước. Trời trong, nước trong. Trăng nhấp nhô
trên mặt nước, lấp lánh trên đường cát, nhảy múa trên tàu dừa, chảy trên tóc,
trên vai thiếu nữ. Trong lòng tôi thấy rạo rực và tôi hiểu được tại sao người
Trung Hoa đã cho Lí Bạch chết vì muốn ôm trăng trên dòng nước. Trong sân đình đông
nghẹt người. Các bà già và thiếu nữ đi xem kết quả của cuộc thi nữ công - thực
ra chỉ là thi bánh mứt - còn bọn trai làng thì cốt ngắm các cô dự thi. Mười một
giờ khuya buổi lễ mới vãn, trăng lúc này mới thật đẹp. Tôi đi một mình xuôi ra
ngoài vàm, nghe tiếng lá xào xạc trong cảnh tĩnh mịch, tiếng nước bập bềnh vỗ
vào bờ. Trong một bụi chuối cách dường vài chục thước có những cặp tình tự với
nhau. Xa xa vẳng lên một khúc Xuân tình.
ĐỌC SÁCH, VIẾT HỒI KÍ
Làm việc ban đêm ở ngoài trời, chúng tôi được tự do, tự chủ,
không bị viên phó kĩ sư Pháp dòm ngó một cách khó chịu như ở bàn giấy.
Lại có rất nhiều thì giờ rảnh. Nếu làm kíp đầu hôm thì hôm sau
không biết làm gì cho hết ngày. Ở gần một châu thành, có thể dạo phố, vào một
tiệm sách xem có báo, sách mới không, hay ghé thăm một người quen, rủ nhau đi
coi cảnh chùa, thánh thất Cao Đài, chụp hình... Nhưng ở giữa đồng, gập hồi mưa
gió liên tiếp cả tuần thì buồn ơi là buồn! Phải nằm co trong chiếc ghe hầu, cửa
đóng kín mít, đậu trên những kính Xa No, Phụng Hiệp, xa chợ, xa bạn, xa nhà!
Những lúc đó phải kiếm cái gì để đọc, đọc bậy bạ, hỗn độn: Ngày
nay, Phổ thông bán nguyệt san, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn –
chỉ có tiểu thuyết Lê Văn Trương, các thầy họa đồ trong bọn tôi rầt mê, là tôi
đọc không nổi – phóng sự của Maurice Decobra, truyện trinh thám của Conan
Doyle, La
Sonate à Kreutzer của Tolstoi của một anh bạn ở Bạc Liêu cho mượn, các sách Phật học,
Thông thiên học… Vẫn không sao hết được bảy tám giờ một ngày. Lại chỉ có cách học chữ Hán như năm
1934 là phương thuốc thần hiệu hơn hết.
Bác tôi đưa cho tôi bộ Mạnh Tử,
một bộ Ẩm Băng Thất của Lương Khải Siêu. Ẩm Băng Thất là một
trong những bút hiệu của Lương, có
nghĩa là ông phải uống nước đá (băng) nếu không thì lòng ông cuồng nhiệt về
việc cứu nước cứu dân, nóng quá không chịu nổi.
Không có tự vị Hán Việt để tra, còn tự vị Hán như Từ Nguyên, Từ
Hải cũng chưa mua được, cho nên gặp chữ nào, câu nào không hiểu,
tôi gom lại, chép gởi về bác tôi nhờ người giảng. Cách đó bất tiện cho cả hai bác cháu, nhưng cứ mót từng chút
như vậy, lần lần cũng biết thêm mà vỡ nghĩa.
Hồi đi đo ở Cần Thơ, thấy một Hoa kiều ngồi
lề đường bán bộ Văn tâm điêu long[13] mà
tôi muốn biết từ hồi học với bác Hai tôi ở Phương Khê, tôi mua liền, về ghe lật
ra coi, đọc không nổi. Bộ đó của Lưu Hiệp (thế kỉ thứ
VI) viết theo thể biền ngẫu, là bộ phê bình văn học đầu tiên của Trung Hoa.
Tôi thường kiếm những bộ có dịch ra Bạch thoại và chú thích kĩ như bộ Cổ văn quan chỉ[14](tuyển
những bài cổ văn hay nhất từ thời Chiến Quốc đến đời Minh), vì chỗ nào đọc cổ văn không hiểu thì
tôi coi bản Bạch thoại. Một hôm, vào đụt mưa trong một tiệm tạp hoá ở Bạc
Liêu, tôi mua được bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim để lẫn lộn
với các đèn cầy: bộ đó cũng có
lợi cho tôi vì tác giả khi trích dẫn, chép cả nguyên văn chữ Hán rồi phiên âm
và dịch.
Học chữ Hán cũng vẫn không hết thì giờ, tôi
xoay ra viết hồi kí, nhật kí. Viết hồi kí để cho vơi lòng nhớ quê, nhớ gió bấc mưa phùn, nhớ mặt nước xanh rêu
của Hồ Gươm, nhớ con đê thăm thẳm của sông Nhị, nhớ người thân còn sống và đã
khuất.
Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản
nhạc của cố hương và dĩ vãng.
Viết hồi kí để
ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật kí để
ghi lại cái vui hiện tại: cái vui những đêm trăng rạo rực, thả thuyền trên rạch
Cái Răng hay Bình Thuỷ mà nghe tiếng đàn tranh, đàn nguyệt văng vẳng bất tuyệt
trên bờ; cái vui nhìn mặt trời đỏ như than hồng, lớn như chiếc mân, từ từ hạ
xuống cánh đồng mênh mông phẳng lì, mờ mờ khói toả ở Bạc Liêu hay Rạch Giá; rồi những cảnh âm u trong rừng
đước, rừng vẹt ở Cà Mau, cảnh phồn thịnh, vườn tượcxum xuê Cần Thơ, Sa Đéc…
Tôi cứ nhớ đâu chép đó, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng chẳng
sửa, viết có khi quên giờ giấc, đặt cây bút xuống nhìn lên bờ thì làng xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng.
Viết xong tôi không coi lại, cất đi, có dịp
về Tân Thạnh sẽ đưa bác tôi coi. Mỗi tháng trung bình tôi viết cho bác tôi một
bức thư, cũng để kể những
việc hàng ngày: cảm tưởng sau khiđi thăm ai, khi vào một thánh thất, nghe người giữ thánh
thất gọi tôi bằng “anh”, tức coi tôi như người đồng đạo; hoặc khi vào một chùa
ở Rạch Giá thấy một
vị hoà thượng thản nhiên ngồi như Phật trên toà cho Phật tử sụp xuống lạy, bên
cạnh là một bàn đầy những trái ngon nhất, quí nhất
với bức tượng bán thân bằng thạch
cao của
Napoléon I. Bác
tôi thường khen là viết hay,
khuyến khích tôi.
Quả là cái may cho tôi được bổ vào làm việc ở Nam Việt, tại miền
Hậu Giang gần làng bác tôi. Nếu không có cuộc đoàn tụ giữa bác cháu đó thì đời
tôi tất khác hẳn.
Tóm lại, hai năm đo đường ở Hậu Giang là
những năm vui nhất trong đời tôi, mà
cũng có ích nhất: vui vì thấy những cảnh mới, gặp được bạn mới, nhất là được ở
gần bác; có ích vì nhãn quan, kiến thức được mở mang. Và cũng vì thế để dành được một số tiền: lương của tôi kể
cả phụ cấp được khoảng tám chục đồng (80 đồng), tiêu chưa tới ba chục, còn dư được năm chục.
[1] Ý nói áo bà ba. Trong Bảy ngày
trong Đồng Tháp Mười, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “…cách ăn mặc của phụ nữ ở đây
(tức Sài Gòn) cũng không được nhã: áo dài thì ngắn quá, mầu thì lòe loẹt quá,
ra đường thì nhiều cô chỉ mặc áo bà ba, không quen mắt như tôi, thấy trơ trẽn
lắm”. (Goldfish).
[2] Cách tạo từ này đặc biệt của miền Nam,
nơi có nhiều sông rạch: đò đã mấy ý sơ nghĩa là thuyền, chỉ
còn nghĩa là đưa khách.
[5] Tức Đốc Binh Vàng, người có công dẹp
giặc Xiêm và Miên với Chưởng binh Lễ năm 1937, có đề thờ ở làng Tân Thạnh. Coi Bảy
ngày trong Đồng Tháp Mười (Theo một số liệu mới phát hiện gần đây thì
niên đại này chưa chính xác lắm (BT).
[7] Miền này ở Rạch Giá, đào nhiều kinh song
song nhau để khai phá, mỗi kinh gọi bằng một con số: kinh thứ 7, kinh thứ 8… do
đó có tên là miệt thứ.
[8] Theo Wikipedia thì: “món 油炸鬼 (Phiên âm Hán
Việt: Du tạc quỷ, tiếng Việt đọc theo giọng Quảng Châu thành giò
cháo quẩy hoặc dầu cháo quẩy) có nghĩa là quỷ sứ
bị rán bằng dầu. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì cái tên này bắt nguồn từ
câu chuyện Nhạc Phi bị vợ chồng Tần Cối và Vương thị hãm hại. Để nguyền rủa hai
vợ chồng Tần Cối, người Trung Quốc làm một món ăn gồm hai viên bột dài giống
hình người được rán kỹ trong dầu, tượng trưng cho hình tượng vợ chồng Tần Cối
là hai quỷ sứ bị rán trong vạc dầu ở địa ngục”. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A9y).
(Goldfish).
[13] Văn là
văn chương, tâm là lòng, điêu là
chạm, long là rồng. Sở dĩ gọi là văn tâm vì
có câu: “Ta hồ! Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ”. Nghĩa là: Than ôi! Cái
việc văn chương, một tấc lòng mà để ngàn năm. (Theo bài Tựa bộ Đại
cương Văn học sử Trung Quốc của NHL). (Goldfish).
[14] Quan chỉ có
nghĩa là coi (quan) bộ đó rồi thì có thể ngừng (chỉ), không coi
cổ văn nào khác nữa vì bao nhiêu tinh tuý của cổ văn ở cả trong đó rồi (theo ĐVVCT, trang 31). (Goldfish).
Chương XI
ĐỜI CÔNG CHỨC Ở SÀI GÒN
XUÂN NHẬT TẦM PHƯƠNG
Vì làm việc quanh quẩn ở miền Tây, nên mỗi năm tôi có dịp về Tân
Thạnh thăm bác tôi ít nhất là hai lần, mỗi lần độ hai ngày, không kể lần Tết
lâu hơn, được ba bốn ngày. Lần nào mới tới nhà, bác tôi cũng hỏi ngay ở chơi
được mấy hôm. Thời giờ ngắn quá, hai bác cháu nói chuyện gần như trọn ngày mà
vẫn chưa thỏa: chuyện tổ tiên, quê hương, chuyện tương lai, chuyện cách mạng,
văn chương, phong tục miền Nam... Nhưng lần nào bác cũng bỏ ra một buổi
dắt tôi đi thăm một vài điền chủ quen trong làng.
Có lần người giới thiệu cho tôi một thầy giáo già ở Cái Sơn,
ngoài châu thành Long Xuyên và một cô giáo trẻ dạy trường Nữ Long Xuyên, cô
Nguyễn Thị Liệp[1],
chính thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh đậu bằng Cao đẳng tiểu học mà tôi đã nói ở
trên. Khi nào đi làm ở gần châu thành Long Xuyên, tôi cũng ghé lại thăm cô,
hoặc nhờ giúp một vài việc như mướn giùm cho tôi cho một chiếc ghe. Thân phụ
cô, ông Nguyễn Đình Huỳnh, là một nhà Nho làm đông y, có một số ruộng, vào hạng
hơi phong lưu; thân mẫu cô, bà Ngô Thị Lựu, là vợ thứ, ông cha ở Huế vô cũng là
nhà Nho. Cô mới được ba tuổi thì mồ côi cha, ở với người anh cả cùng cha khác
mẹ; bà mẹ cũng vì cảnh con chồng đối xử không đẹp, khẳng khái dắt cô qua Long
Xuyên ở nhờ một người em - y như cảnh bà ngoại tôi vậy - và vừa may thuê vá
mướn, vừa làm thuốc tễ đem bán ở các chợ trong miền để nuôi con ăn học.
Cô học khá mà lại nhỏ tuổi nhất trong trường, nên được bà hiệu
trưởng, người Pháp, giúp đỡ cho, chỉ cách thức thì vô trường nữ trung học Gia
Long ở Sài Gòn. Cô may mắn thi đậu: khóa đó là khóa thứ tư của trường, chỉ có
mười mấy nữ sinh. Được học bổng, ở nội trú, nhưng mỗi tháng mẹ cũng cấp thêm
cho ba đồng. Bốn năm thi ra, đậu, được bổ về dạy lớp ba (élémentaire) trường nữ
Long Xuyên, tức trường cũ của cô.
Lương hồi đó, năm 1928, sáu chục đồng một tháng, thêm phụ cấp sư
phạm hai chục đồng nữa, mà đi chợ mỗi ngày chỉ mất có một cắc cho ba bốn người
ăn. Tính rất cần kiệm, giản dị, mặc toàn đồ vải. Tiền lương đưa mẹ hết, mẹ may
cho cái gì thì mặc cái đó. Trong làng, trong họ ai cũng khen bà mẹ có đức và cô
con có hiếu. Cô có tình họ hàng gần với bác gái tôi. Mới tiếp xúc lần đầu, tôi
thấy nét mặt cô dễ coi nhờ có chút duyên thầm; mà tính tình cũng rất dễ thương
vì tự nhiên, giản dị, nhũn nhặn, thành thực.
Khoảng cuối năm 1935 bác tôi bảo tôi: “Thím tư - tức mẹ tôi -
nghĩ cháu đã lớn tuổi rồi, muốn nhờ bác thay thím kiếm một nơi nào cho cháu”.
Tôi thấy còn sớm quá, mới ra làm chưa được một năm, nên chỉ “dạ” rồi thôi. Ít
tháng sau, nhân dịp về chơi nhà, bác tôi dắt tôi đi thăm một ông Hội đồng tỉnh,
vào hạng điền chủ lớn thứ nhì trong làng, có độ ba trăm héc ta ruộng, ba bốn
người con gái mà người lớn nhất đã gả cho một giáo sư tốt nghiệp trường Cao
đẳng sư phạm Hà Nội. Nhà đó hiền lương, có nền nếp, con gái người nào cũng giỏi
nữ công, nhưng học may lắm thì hết tiểu học. Chỗ đó xứng đáng, nếu bác tôi hỏi
thì được liền, nhưng thấy tôi không sốt sắng, nên bỏ qua.
Sau đó ít lâu, một người bạn tôi mới quen ở Rạch Giá, cũng do
bác tôi giới thiệu, đưa tôi đi coi mặt một thiếu nữ, con một ông phủ ở Giồng
Giềng[2] nhân
một bữa tiệc buổi tối. Chỗ này sang trọng nhưng quan liêu. Đi coi về, tôi viết
thư cho bác tôi, giọng hơi dí dỏm, bảo “trong ánh đèn măng sông (manchon) chỉ
thấy một làn xanh xanh rực rỡ và thơm phức xẹt qua như một vì sao đổi ngôi”.
Bác tôi hiểu ý, và có lẽ vì lấy số tử vi cho tôi, thấy cung thê
của tôi có các văn tinh xương, khúc, hóa khoa, đoán rằng vợ phải là người có
học, nên lại giới thiệu cho tôi một chỗ khác: một cô giáo mới ở trường Gia Long
ra, tên là H., dạy trường Nữ Long Xuyên. Nhà cô chỉ đủ ăn, cha người Trung (hay
Bắc), làm Đông y. Bác tôi bảo tôi nhờ cô Liệp giới thiệu cho.
Cô mỉm cười nhận lời liền, sai đứa cháu đem một bức thư hỏi ý cô
bạn trước rồi rất nhặm lẹ, bận thêm chiếc áo dài thâm, đưa tôi đi. Hai nhà chỉ
cách nhau vài trăm thước, cô đi song song với tôi, mỗi người một lề đường, cách
nhau cả mặt đường. Cô H. trắng trẻo, nhỏ nhắn, thanh tú, có vẻ thông minh và
hiền từ, tôi không có gì để chê cả. Nhưng khi kể lại cuộc “Xuân nhật tầm
phương” đó với bác, tôi lại muốn hỏi cô Liệp, xin ý kiến bác. Chắc bác tôi hơi
ngạc nhiên, hồi âm cho tôi, bảo “dì Năm - cô Liệp thứ năm - về đức hạnh thì
đáng quí, nhưng nhà nghèo và lớn tuổi hơn cháu”. Như vậy là bác tôi để tôi tự ý
quyết định.
Độ một tháng sau tôi lại thăm cô Liệp, trước khi ra về, trao cô
một bức thư cầu hôn. Cô không trả lời thẳng cho tôi mà viết thư cho bác tôi,
đại ý rằng: cô cảm động về bức thư của tôi, nhưng nhà chỉ có một mẹ và một con,
nên muốn được ở vậy phụng dưỡng mẹ và xin “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”.
Tính tôi khẳng khái, cô đã nói vậy thì tôi cũng không nói thêm
nữa. Nhưng từ đó chúng tôi vẫn thỉnh thoảng thư từ với nhau và có dịp, tôi vẫn
ghé nhà cô. Bà thân cô rất ít nói, có vẻ nghiêm khắc, nhưng cũng coi tôi như
các bạn đồng sự của cô ở Long Xuyên. Sau cô mới cho hay rằng cô ngại tôi còn mẹ
già ở Bắc, nếu mẹ tôi muốn cho tôi về làm việc ngoài đó thì khó xử cho cả hai
bên: cô không thể bỏ mẹ mà theo tôi ra ngoài đó, tôi cũng không thể bỏ mẹ mà ở
với cô trong này. Giá cô nói thẳng như vậy từ trước thì việc đó dễ giải quyết:
mẹ tôi đã muốn tôi ở hẳn trong Nam, mà từ đời sống đến tính tình, mẹ tôi
đều hợp với bà thân của cô, người sẽ vui vẻ chứ không thấy trở ngại gì cả.
Phương Đông ta có chuyện ông Tơ bà Nguyệt, chuyện duyên nợ ba
sinh, không biết các dân tộc khác có không, nhưng tôi tin chắc rằng không dân
tộc nào không tin rằng hôn nhân là chuyện may rủi, bất ngờ như có tiền định.
Lần đó, đối với tôi là rủi; bây giờ ngẫm lại thì cơ hồ lại là may; dù may dù
rủi thì theo các nhà lí số cũng là tiền định rồi, rất hợp với số tử vi của tôi.
Từ đó tôi không nghĩ đến việc tìm vợ nữa, cứ thủng thẳng có cơ
hội rồi sẽ tính. Bác tôi thâm ý muốn cho tôi làm rể một điền chủ lương thiện,
vào hạng trung phú, để khi về hưu có được vài chục héc ta ruộng, chứ liêm khiết
như nếp nhà tôi, gánh gia đình lại nặng, chỉ trông vào số lương thì không sao
khá được. Nhưng thấy tôi lơ là với mấy điền chủ đã giới thiệu, bác tôi từ đó để
mặc tôi.
HỌ TRỊNH - LỄ CƯỚI
Mùa thu năm 1936, tôi đi đo ở vùng Bạc Liêu, nhiều nhất là trên
đường Bạc Liêu xuống Cà Mau, mấy lần đi ngang qua Giá Rai, một quận cách Bạc
Liêu chừng 30 cây số, rất buồn, dưới kinh là nước mặn và cá chốt, trên bờ mươi
tiệm Triều Châu nối nhau thành một dãy phố duy nhất dài độ hai trăm thước, sau
lưng toàn là ruộng lúa. Có nhiều điền chủ giàu, nhưng đa số ở trong làng Long
Điền xa xa, hoặc trên đường Bạc Liêu - Cà Mau.
Ở Giá Rai có một tiểu khu của sở Thủy lợi do một ông đốc công
già gốc Bắc chỉ huy, ông Trịnh Đình Huyến. Ông ở trường Công chánh Hà Nội ra
trước tôi non hai chục năm, tính tình ngay thẳng, vui vẻ, hiền lương, được các
bạn trong sở quí trọng.
Ông thuộc giới sang trọng, có tiếng tăm ở Hà Nội: nhà có bốn anh
em, ông là cả, tới người em trai thứ cũng ở sở Công chánh ra như ông; người em
trai kế đó là luật sư Trịnh Đình Thảo, có tiếng ở Sài Gòn, đậu tiến sĩ luật ở
Pháp về; người em gái út gả cho một luật sư nữa, có cử nhân luật ở Hà Nội. Bà
vợ là em ruột của ông Vũ Văn An, người Việt đầu tiên được bằng cấp kĩ sư Hóa
học ở Paris, ngành nhuộm, có một cửa hàng tơ lụa nhập cảng lớn ở Hà Nội.
Nhà bảy tám người con, nên mặc dầu bà khéo làm ăn mà cũng phải
tiết kiệm mới đủ. Nhưng lối sống vẫn là lối của giới sang trọng ngoài Bắc, khác
lối sống của tôi.
Mới gặp tôi vài lần, ông bà có lòng mến tôi rồi, và bà nhờ người
đánh tiếng muốn gả trưởng nữ là cô Trịnh Thị Tuệ cho tôi. Tôi quí tính tình của
ông, lại được biết cô Tuệ học giỏi, sớm đậu tiểu học, học tới năm thứ ba Cao
đẳng tiểu học rồi thôi, về giúp việc nhà, nữ công khéo, biết săn sóc các em,
được cả nhà mến, các em nể, nghe lời, nên tôi có ý muốn nhận lời, viết thư hỏi
bác tô rồi thưa với mẹ tôi.
Lễ cưới định vào hồi lễ Phục sinh năm sau - 1937. Rất đơn giản.
Mẹ tôi ở Hà Nội vào, cưới xong, ở chơi Giá Rai một hai ngày, rồi cùng với vợ
chồng tôi về Tân Thạnh làm lễ tổ tiên. Ít bữa sau, vợ chồng tôi lên Sài Gòn
trước, để tìm nhà, mua sắm đồ đạc; mẹ tôi ở lại Tân Thạnh chơi với hai bác tôi,
sẽ lên sau.
Lần đó là lần đầu tiên mẹ tôi vào Nam, có lẽ vui nhất là
được nhắc lại chuyện cũ với bác tôi, sau trên hai chục năm xa cách. Nhà cửa thu
xếp xong, tôi mời mẹ tôi lên. Người ở chơi ít ngày rồi
về Hà Nội.
ĐỔI VỀ SÀI GÒN - MẸ
TÔI VÔ THĂM CHÁU NỘI
Tôi cưới vợ đúng vào lúc làm xong hai năm tập sự, được vào chính
ngạch và đổi về Sài Gòn làm ở phòng giấy. Từ đây chấm dứt đời sống tự do giữa
thiên nhiên, cây cỏ, mây nước mà bước vào cuộc đời “sáng vác ô đi, tối vác về”.
Chúng tôi thuê nhà ở Khánh Hội, cách sở độ một cây số, trong một
khu yên tĩnh. Nhà tôi siêng năng coi sóc việc nhà, biết tiết kiệm vừa phải, mỗi
tháng cũng để dành được chút ít. Tôi ít giao du, lâu lâu chúng tôi đi thăm bà
con như ông Trịnh Đình Thảo, ông Nguyễn Khắc Tín, em dị bào của mẹ tôi, làm
việc tại Phủ Toàn quyền và vài bạn học của tôi.
Lại chỉ đọc sách để tiêu khiển. Tôi vào Chợ Lớn mua một cuốn tự
điển Bạch thoại, vài bộ truyện Tàu: Tam Quốc chí, Thủy hử… (bằng
chữ Hán), một tập Văn tuyển của Hồ Thích... Mỗi năm nhà tôi về
thăm gia đình ở Giá Rai vài lần và cùng với tôi về Tân Thạnh một lần.
Năm 1938 (âm lịch ngày 11 tháng hai năm Mậu Dần[3],
giờ Thân)[4],
nhà tôi sanh con trai (sanh hơi khó), đặt tên là Nguyễn Nhật Đức. Nó rất dễ
thương, trắng trẻo, tương đối mạnh, có vẻ lanh lợi, hiền lành. Cả gia đình
ngoại đều cưng nó. Nhà tôi săn sóc nó rất kĩ: ăn ngủ đều có giờ, nửa đêm dậy
cho nó tiểu; nó đau yếu lặt vặt thì chỉ giữ cho nó khỏi lạnh, giảm bú đi, cho
uống nhiều nước ấm, chứ ít cho uống thuốc. Nấu nước rồi lọc kĩ bằng bông gòn
rồi mới cho no uống. Không bồng bế nó suốt ngày như nhiều gia đình khác, không
ru nó, cứ tới giờ đặt nó vô chiếc giường xinh xinh của nó, mặc cho nó ngủ. Nhờ
vậy nó không quấy, nhèo nhẹo như đa số trẻ khác. Ngủ đẫy giấc thì nó tỉnh dậy,
quẫy chân, đập tay, “e, e” vài tiếng để gọi, chúng tôi chạy lại nhìn cặp mắt
đen lánh, mấy sợi tóc lơ thơ của nó, mắng nó: “chó con”, nó toét miệng ra cười,
đưa tay đòi bồng ra khỏi giường.
Tôi khen nhà tôi giỏi nuôi con và tin rằng trẻ mà khỏe mạnh,
khéo nuôi thì đa số đều dễ thương cả. Nó nhõng nhẽo hoặc bướng bỉnh, hỗn láo là
tại cha mẹ. Khi nó đã bắt đầu hiểu biết một chút (một, hai tuổi) chúng tôi cho
nó tự do trong những giới hạn nào đó, hễ nó vượt khỏi giới hạn thì ôn tồn chặn
lại, giảng cho nó hiểu tại sao. Rồi tùy sự phát triển tinh thần, tâm lí của nó,
mở rộng lần lần giới hạn ra, cho hợp với nhu cầu của nó. Phải tốn công theo dõi
nó trong những bước đầu, sau nó thành nếp, mà trở thành yêu tự do, mà biết tự
chủ. Chúng tôi dạy con theo nguyên tắc đó. Con tôi chưa chắc biết rằng nó được
hướng phúc của cha mẹ.
Khi nó phúc đầy tuổi tôi, mẹ tôi vô thăm nó, mang cho nó một hộp
bánh. Lần này người vui hơn lần trước. Nó chưa biết nói, mới biết ngồi. Nó
không bụ sữa mà cũng không gầy, bụng lép xẹp, vui vẻ suốt ngày. Tôi không bao
giờ quên cảnh bà cháu ngồi trên giường, bà têm trầu, nhai bỏm bẻm, nhìn cháu ở
trước mặt, ngồi tròn như con ốc, mân mê đồ chơi. Một lần tôi đi xóm về, gần tới
nhà, thấy mẹ tôi đứng ở cửa, tôi bồng nó đưa lên cao, nó đưa hai tay ngã mình
ra trước đòi bà bế, mẹ tôi thích lắm. Lần đó mẹ tôi ở chơi độ một tuần, về Tân
Thạnh thăm hai bác tôi bốn năm ngày rồi lại về Bắc để buôn bán.
Trong tập Làm con nên nhớ (Lá Bối – 1970) tôi
viết:
“Má tôi ít học nhưng có tình thương con thì là có lương tri, mà
có lương tri thì còn hơn là có học: người đã để tôi tự ý định đoạt lấy cuộc đời
của tôi, không can thiệp vào sự lựa nghề, lập gia đình của tôi. Hồi trẻ tôi cho
vậy là tự nhiên; phải tới ngày nay, hai thứ tóc rồi, tôi mới hiểu rằng người đã
hi sinh cho tôi. Không hi sinh mà tôi là con trưởng, lại để sống xa người tới
hai ngàn cây số! Không hi sinh mà nhà tôi trước sau làm dâu không đây một
tháng! Không hi sinh mà người phải đi về bốn ngàn cây số để bồng cháu nội trong
tay có bảy ngày!
“Nhưng giả sử hồi đó người có “can thiệp” vào đời sống của tôi
thì bây giờ tôi cũng hiểu được rằng người không phải là ích kỉ. Người chỉ tìm
hạnh phúc cho con người theo quan niệm của người, thế thôi (...). Khi quan niệm
của cha mẹ không hợp với ý muốn của ta thì ta bảo rằng cha mẹ không sáng suốt.
Lạ thật! Chỉ tại “nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược” như tục ngữ
nói”.
Ông Đông Hồ khi đọc câu cuối đó rớt nước mắt. Chính tôi khi viết
nó (1970) cũng rớt nước mắt. Tôi viết nó khi mẹ tôi đã mất 25 năm, cha tôi mất
đúng 45 năm rồi! Muốn tỏ lòng với cha mẹ thì cha mẹ đã không còn.
CON TÔI HỌC VẦN QUỐC
NGỮ
Nhà tôi nuôi con rất kĩ mà dạy con cũng rất kĩ.
Khi nó được độ ba chục tháng, nhà tôi mua cho nó một hộp vần
Quốc ngữ của nhà Mai Lĩnh, trong chứa độ hai chục miếng gỗ vuông, mỗi chiều bốn
năm phân, dày nửa phân, hai mặt dán giấy màu in các chữ cái với một hình loài
vật, trái cây, đồ dùng, ví dụ chữ Đ thì vẽ cái đu, chữ Ô thì vẽ cái ô (dù), chữ
G thì vẽ con gà… Nó dùng những miếng gỗ đó để cất nhà mà đồng thời để học chữ
cái. Khi nó thuộc mặt chữ rồi, chúng tôi dạy nó đánh vần. Buổi tối nằm chơi với
nó trên giường, hoặc trên ghế bố, dưới gốc cây trước nhà, chúng tôi nói b-a-ba,
b-á-bá, b-ơ-bơ… nó đọc theo; hết vần xuôi tới vần ngược: a-n-an, a-i-ai,
a-c-ac… (đó là lối dạy thời trước); chỉ ít tuần nó quen miệng, ghép vần được
gần hết. Trong thời gian đó chúng tôi cho nó tập viết chữ bằng phần trên bảng
đen, công việc đó dễ, vì nó đã thuộc mặt chữ từ trước. Quen tay rồi mới cho nó
viết bằng bút chì trên giấy.
Chúng tôi lại mua cho nó một bàn toán nhỏ (cho con nít chơi) cho
nó tập đếm.
Vừa chơi vừa học như vậy trong mươi tháng, khi nó đúng bốn mươi
tháng thì nó đã viết, đọc được chữ Quốc ngữ, làm toán cộng, toán trừ được 2 số,
và ít lâu sau thuộc bảng cửu chương.
Nó thích coi hình máy bay và xe hơi trong bộ Larousse
Universel, nhưng chưa học vần Tây nên chưa biết tra, chỉ tìm được số trang
thôi. Một hôm tôi thấy một miếng giấy trên đó nó viết:
Mục lục
máy bay...[5]
xe hơi...[6]
Tôi mỉm cười, hỏi:
- Mục lục là gì?
Nó đáp: Con không biết.
Tôi xoa đầu nó, nghĩ bụng: “thằng này học được”.
Nó thấy tôi tra mục lục một cuốn Quốc văn để lựa bài cho nó đọc
nên nó làm theo, lập bảng mục lục để dễ tìm những trang có hình máy bay, xe
hơi. Tôi mua sách báo nhi đồng cho nó đọc. Rồi xin cho nó vô lớp vỡ lòng tiếng
Pháp của trường Bà Phước tại nhà thờ Tân Định, rất gần nhà tôi vì lúc đó chúng
tôi đã dời nhà lại đường Monceau (Huỳnh Tịnh Của).
“Buổi sáng hôm đó, nhà tôi và tôi dắt nó tới trường, nó đi giữa,
mỗi đứa chúng tôi nắm một tay còn cập sách thì tôi cầm. Trường nằm dưới bóng
một hàng sao cao vút đưa lên nền trời xanh dịu. Khi nó rời chúng tôi để vào lớp
thì nó òa lên khóc một chút. Lúc ấy tôi thấy mặn mặn ở cuống họng. Cảnh hai
mươi mấy năm trước, ngày cha tôi đưa tôi vào học trường Yên Phụ lại diễn ra:
đến giờ ra chơi, chúng tôi cũng đợi cháu ở góc sân; đến giờ về lại đợi cháu ở
cửa và cháu cũng lại hỏi:
– Ba má đợi con có lâu không?
Chúng tôi cũng hỏi lại:
- Ngồi trong lớp con có ngoan không? Bà Phước có hỏi gì con
không?...”.
Tôi cho rằng trẻ thời đó cho học vỡ lòng bằng tiếng Việt, khi nó
biết đọc biết viết rồi, cho học tiếng Pháp, có lợi hơn là học toàn tiếng Pháp
từ hồi vỡ lòng, vì trong hai, ba năm đầu học tiếng Pháp, chưa đọc được sách
Pháp, nó có thể đọc sách Việt, mở mang trí óc hơn, và hết ban tiểu học Pháp, nó
có thế thi cả bằng Tiểu học Việt được.
Năm sau tôi xin cho con tôi vào lớp tư (Préparatoire) ở trường
Tân Định, cách nhà tôi vài chục thước. Nó theo nổi, mặc dầu không đủ tuổi.
Nhưng chưa học hết nửa niên khóa thì nó phải tản cư với má nó về nhà một người
em rể của nhà tôi ở Long Điền, quận Giá Rai.
Lúc đó ông nhạc tôi đã đổi ra Tuy Hoà, không ở Giá Rai nữa.
*
Chủ ý tôi là viết về
gía đình và đời viết văn của tôi, nhưng không thề bỏ qua thời đại được, cho nên
phải xen vài chương ngắn về chiến tranh độc lập và tình hình xã hội. Trong
chương này và chương sau tôi sẽ ghi vài nét chính về chiến tranh thứ nhì của
dân tộc mình, tức chiến tranh Việt-Mĩ. Về chiến tranh Việt-Pháp tôi có được tạm
đủ tài liệu (đã kê ở cuối chương XIX), về chiến tranh Việt-Mĩ, trái lại tôi chỉ
có ba cuốn:
- Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)
- Indochine - dix ans d'indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)
- La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)
Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.
A- Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mĩ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).
Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mĩ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mĩ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi kí hiệp định Genève, Mĩ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.
Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như tổng trưởng nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương cảng, Mĩ, Pháp, rồi lại qua Mĩ ở khá lâu, được một số chính khách Mĩ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mĩ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, giám mục ở Vĩnh long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.
Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là "một người mới", sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự". Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.
Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quuyền vào hàng bộ trưởng, ông ta đáp:
- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.
Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.
Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày kí hìệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, tráí lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn", hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.
Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa tbuận ngầm giửa Mĩ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?
Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mĩ tung Mĩ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.
Thế là trật tự lập lại, Nam việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.
Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mĩ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mĩ gạt ra ngoài nữa.
Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.
*
Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng vớì 98% số phiếu, (Mĩ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.
Vậy là Mĩ đã thắng Pháp, người của Mĩ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mĩ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.
Chính sách nhà Ngô
Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là
• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không kí vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mĩ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt nam”. Sự thực thì Mĩ không kí vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.
• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không thco kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.
Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng nam, Quảng ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải li dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các kí giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn độ, Gia nã đại, Ba lan) và ủy ban không làm được gì cả.
Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mĩ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh truởng.
Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.
Ngô Đình Nhu lập đảng Dân chủ và đảng Cần lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ liên đới, "bà lớn" nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phảỉ nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. (1)
Những ngườí theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. (2)
Diệm-Nhu theo chính sách "ba Đ": Đảng (Cần lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công gỉáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.
Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.
Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.
Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.
Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.
Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ đuợc thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.
Dân nổi dậy chống đối
Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.
- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà mau, Đồng tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.
- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu bộ trưởng của Diệm) kí một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.
Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.
Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mĩ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.
Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc
Năm 1962, Mĩ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mĩ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mĩ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.
Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ tho). Ngày 2-1 Mĩ-Diệm thấy 2 trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm 3 đại đội, sáu trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.
Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.
Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kì thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo qui như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.
Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.
Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.
Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào tòa Đại sứ Mĩ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.
Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm bộ trưởng Công dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.
Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.
Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mĩ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.
Tướng Duơng văn Minh lên làm quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống thời Diệm, làm thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng hai bà Trưng ở đầu đuờng Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.
Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.
Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964,
Bài thứ nhất:
Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.
Bài thứ nhì:
Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Ngé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đuờng luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mĩ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mĩ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.
- Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)
- Indochine - dix ans d'indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)
- La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)
Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.
A- Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mĩ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).
Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mĩ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mĩ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi kí hiệp định Genève, Mĩ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.
Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như tổng trưởng nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương cảng, Mĩ, Pháp, rồi lại qua Mĩ ở khá lâu, được một số chính khách Mĩ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mĩ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, giám mục ở Vĩnh long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.
Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là "một người mới", sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự". Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.
Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quuyền vào hàng bộ trưởng, ông ta đáp:
- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.
Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.
Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày kí hìệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, tráí lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn", hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.
Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa tbuận ngầm giửa Mĩ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?
Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mĩ tung Mĩ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.
Thế là trật tự lập lại, Nam việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.
Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mĩ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mĩ gạt ra ngoài nữa.
Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.
*
Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng vớì 98% số phiếu, (Mĩ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.
Vậy là Mĩ đã thắng Pháp, người của Mĩ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mĩ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.
Chính sách nhà Ngô
Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là
• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không kí vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mĩ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt nam”. Sự thực thì Mĩ không kí vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.
• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không thco kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.
Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng nam, Quảng ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải li dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các kí giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn độ, Gia nã đại, Ba lan) và ủy ban không làm được gì cả.
Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mĩ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh truởng.
Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.
Ngô Đình Nhu lập đảng Dân chủ và đảng Cần lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ liên đới, "bà lớn" nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phảỉ nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. (1)
Những ngườí theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. (2)
Diệm-Nhu theo chính sách "ba Đ": Đảng (Cần lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công gỉáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.
Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.
Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.
Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.
Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.
Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ đuợc thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.
Dân nổi dậy chống đối
Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.
- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà mau, Đồng tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.
- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu bộ trưởng của Diệm) kí một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.
Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.
Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mĩ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.
Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc
Năm 1962, Mĩ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mĩ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mĩ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.
Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ tho). Ngày 2-1 Mĩ-Diệm thấy 2 trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm 3 đại đội, sáu trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.
Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.
Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kì thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo qui như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.
Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.
Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.
Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào tòa Đại sứ Mĩ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.
Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm bộ trưởng Công dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.
Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.
Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mĩ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.
Tướng Duơng văn Minh lên làm quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống thời Diệm, làm thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng hai bà Trưng ở đầu đuờng Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.
Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.
Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964,
Bài thứ nhất:
Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.
Bài thứ nhì:
Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Ngé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đuờng luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mĩ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mĩ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.
B- Miền Bắc
Pháp mất hết quyền lợi
Chiều ngày 10-10-54 ở Hà nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long biên để xuống Hải phòng.
Ngay từ khi kí hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa nhân dân Việt nam đã gởi cho thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kĩ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.
Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...
Sainteny được Hồ Chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:
• Chính phủ Mĩ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mĩ.
• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ti lớn nhất của Pháp là công ti than Bắc việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc việt.
• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mĩ viện trợ trong những năm 1954-56.
Ngày 13-5-55, hết kì hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.
Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kĩ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kĩ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. (3)
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ti Pháp, các nhà buôn Trung hoa, Việt nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trử đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phảỉ lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.
Vì chính sách “hồng hơn chuyên", sự quản lí xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.
Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.
Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lí dở quá, cũng lỗ, hụt.
Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng gai và xi măng Hải phòng mà hãng xi măng Hải phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lí dở quá, còn than Hồng gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).
Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những ngườỉ Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ." Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh lưu
Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lí nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kĩ thuật của Mao Trạch Đông.
• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.
• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...
• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.
Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung hoa, Nga, Mĩ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.
Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.
Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.
Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. (4)
Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...
Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh lưu, Nghệ an (quê hương Hồ Chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kì thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trong Les deux Việt nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.
Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả nbững người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.
Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng" (5), cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn "xét lại" đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...
Nhà cầm quyền Bắc việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh lưu. nên bảy tháng sau mới cho "trăm hoa đua nở". Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).
Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lí luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...
Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh kí một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoa, Đất mới, Giaì phẩm đều tự đình bản.
Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi "học tập lao động", trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sỉ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.
Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật", chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với nhừng người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợỉ dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".
Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi kí kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.
Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông âu là vụ Poznan ở Ba lan, vụ Budapest ở Hung gia lợi; ở Đông Á là Trung hoa, Việt nam.
Kinh tế phát triển rất chậm
Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa đuợc hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ đuợc giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nuớc một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôỉ heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!
Về kĩ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lí kém quá, nên không sản xuất được nhiều.
Dân chỉ đuợc bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mĩ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.
Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:
• tôn trọng hiệp ước Geneve. Mĩ rút các cố vấn về, không gửi vủ khí qua miền Nam nữa,
• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,
• thi hành tự do dân chủ,
• thả tất cả tù nhân chính trị,
• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kì nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,
• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông dương, gồm Nam việt, Cao miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.
Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.
Bắc việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mĩ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung hoa thúc Bắc việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mĩ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.
Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá..., những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một "cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài" mà lại có lợi hơn.
Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mĩ thay Pháp ở Đông dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mĩ ồ ạt đổ quân lên Nam việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.
Pháp mất hết quyền lợi
Chiều ngày 10-10-54 ở Hà nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long biên để xuống Hải phòng.
Ngay từ khi kí hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa nhân dân Việt nam đã gởi cho thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kĩ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.
Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...
Sainteny được Hồ Chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:
• Chính phủ Mĩ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mĩ.
• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ti lớn nhất của Pháp là công ti than Bắc việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc việt.
• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mĩ viện trợ trong những năm 1954-56.
Ngày 13-5-55, hết kì hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.
Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kĩ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kĩ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. (3)
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ti Pháp, các nhà buôn Trung hoa, Việt nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trử đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phảỉ lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.
Vì chính sách “hồng hơn chuyên", sự quản lí xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.
Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.
Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lí dở quá, cũng lỗ, hụt.
Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng gai và xi măng Hải phòng mà hãng xi măng Hải phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lí dở quá, còn than Hồng gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).
Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những ngườỉ Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ." Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh lưu
Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lí nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kĩ thuật của Mao Trạch Đông.
• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.
• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...
• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.
Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung hoa, Nga, Mĩ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.
Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.
Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.
Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. (4)
Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...
Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh lưu, Nghệ an (quê hương Hồ Chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kì thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trong Les deux Việt nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.
Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả nbững người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.
Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng" (5), cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn "xét lại" đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...
Nhà cầm quyền Bắc việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh lưu. nên bảy tháng sau mới cho "trăm hoa đua nở". Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).
Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lí luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...
Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh kí một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoa, Đất mới, Giaì phẩm đều tự đình bản.
Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi "học tập lao động", trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sỉ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.
Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật", chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với nhừng người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợỉ dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".
Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi kí kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.
Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông âu là vụ Poznan ở Ba lan, vụ Budapest ở Hung gia lợi; ở Đông Á là Trung hoa, Việt nam.
Kinh tế phát triển rất chậm
Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa đuợc hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ đuợc giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nuớc một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôỉ heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!
Về kĩ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lí kém quá, nên không sản xuất được nhiều.
Dân chỉ đuợc bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mĩ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.
Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:
• tôn trọng hiệp ước Geneve. Mĩ rút các cố vấn về, không gửi vủ khí qua miền Nam nữa,
• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,
• thi hành tự do dân chủ,
• thả tất cả tù nhân chính trị,
• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kì nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,
• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông dương, gồm Nam việt, Cao miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.
Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.
Bắc việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mĩ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung hoa thúc Bắc việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mĩ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.
Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá..., những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một "cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài" mà lại có lợi hơn.
Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mĩ thay Pháp ở Đông dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mĩ ồ ạt đổ quân lên Nam việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.
Chú thích
[1] Một linh mục đăng báo bảo Trung Hoa sở dĩ thành Cộng sản vì theo đạo Nho vì Nho trọng dân mà khinh vua, xúi dân nghèo lật đổ chính quyền.
[2] Theo G. Chaffard trong Indochine, dix ans d’indépendance, thì bộ Thông tin của Trần Chánh Thành in một tài liệu cho biết kết quả từ 1954 đến 1960 như sau:
- có 893.291 buổi dậy thuyết Duy Linh, 18.759.111 người theo học, nhờ vậy mà bắt được 516 cán bộ cộng sản nguy hiểm, thu phục được 3.250 cán bộ khác.
- Công an, cảnh sát bắt được 25.700 cán bộ cộng sản, Bảo an đoàn bắt được 22.500 cán bộ khác.
[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại là một chuyện.
[4] Năm 1981, ông được bầu làm chủ tịch nhà nước.
[5] Chữ Hán là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, một câu mà học giả đời Hán đặt ra để ca tụng cổ học thời Đông Chu.
[1] Một linh mục đăng báo bảo Trung Hoa sở dĩ thành Cộng sản vì theo đạo Nho vì Nho trọng dân mà khinh vua, xúi dân nghèo lật đổ chính quyền.
[2] Theo G. Chaffard trong Indochine, dix ans d’indépendance, thì bộ Thông tin của Trần Chánh Thành in một tài liệu cho biết kết quả từ 1954 đến 1960 như sau:
- có 893.291 buổi dậy thuyết Duy Linh, 18.759.111 người theo học, nhờ vậy mà bắt được 516 cán bộ cộng sản nguy hiểm, thu phục được 3.250 cán bộ khác.
- Công an, cảnh sát bắt được 25.700 cán bộ cộng sản, Bảo an đoàn bắt được 22.500 cán bộ khác.
[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại là một chuyện.
[4] Năm 1981, ông được bầu làm chủ tịch nhà nước.
[5] Chữ Hán là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, một câu mà học giả đời Hán đặt ra để ca tụng cổ học thời Đông Chu.
Chương XII
BA LẦN RA BẮC
CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH PHƯƠNG
ĐÔNG
Dân tộc mình theo chế độ gia tộc của Trung Hoa mà chế độ này có
từ đời Văn vương nhà Chu, thế kỉ XII trước Tây lịch, tới nay đã trên ba ngàn
năm.
Theo lệ nhà Thương, khi vua chết thì truyền ngôi cho em, không
có em mới truyền cho con; người em lên ngôi, khi chết lại truyền cho con của
vua - anh trước, do đó mà gây nhiều vụ chú cháu tranh giành ngôi báu. Văn vương
bỏ lệ đó, truyền ngôi cho con là Võ vương mặc dầu ông có mấy người em, từ đó về
sau, chỉ đích tử mới được nối nghiệp cha, làm chủ cả thiên hạ. Chế độ đó người
Trung Hoa gọi là “tôn pháp”, chẳng những được áp dụng trong hoàng tộc, mà cả
trong gia đình các khanh, đại phu, sĩ, thứ nhân nữa, khiến cho gia tộc Trung
Hoa có nhiều nét đặc biệt.
Vua (thiên tử hay chư hầu) lựa một người con mà truyền ngôi cho
– theo nguyên tắc là con trưởng, tức đích tử - chỉ người con đó được làm thiên
tử hay vương, còn những người khác thì lãnh tước nhỏ hơn, hoặc làm chư hầu,
hoặc làm khanh, đại phu. (Nếu đích tử chết sớm mà có con trai, thì người con
trai lớn, gọi là đích tôn, được kế nghiệp).
Người con (hay cháu) kế vị gọi là tự vương hay tự quân (tự là
nối), làm chủ tể trong tôn miếu, các người con khác chỉ làm bồi tế.
Các gia đình đại phu cũng vậy: người con kế nghiệp làm chủ tế
gọi là “đại tôn”, các người khác làm bồi tế gọi là “tiểu tôn”. Có những thể chế
qui định từng chi tiết trong các cuộc tế: đại tôn, tiểu tôn đứng chỗ nào, làm
những việc gì… không được việt vị.
Trong gia đình thường dân, luôn luôn người con trưởng được hưởng
gia tài, giữ việc hương khói. Địa vị người con đó quan trọng nhất nhưng trách
nhiệm cũng lớn nhất: lo cho mọi người đủ ăn đủ mặc, dạy dỗ người dưới, chịu sự
chê trách của gia tộc và xã hội nếu trong gia đình có kẻ nghèo đói hoặc hư
hỏng, bị tội, làm nhục tổ tiên.
Ngược lại, người đó và cả vợ nữa được người trên nể, người dưới
nghe lời. Khi em còn nhỏ, ở chung nhà thì anh có quyền thay cha đã mất - quyền
huynh thế phụ -; em lớn rồi ra ở riêng, may mà giàu có, sang trọng hơn anh thì
về nhà vẫn phải lễ phép với anh chị và có bổn phận phải giúp đỡ anh chị mà
không được khoe giàu sang trước mặt anh chị.
Con gái không được quyền kế thừa, ra ở riêng rồi thì không còn
địa vị gì trong nhà nữa - nữ nhân ngoại tộc - thành người gia đình bên chồng,
của một họ khác[1].
Tổ chức gia đình đó thích hợp với chế độ nông nghiệp, để cho đất
đai của gia đình bớt bị phân tán, vào tay người ngoài, và để cho sự khai thác
chung được dễ dàng, sự tiêu xài đỡ tốn kém. Nó lại tạo nên tinh thần gia tộc:
giúp đỡ lẫn nhau, giữ danh dự chung cho nhau.
Tới ngày giỗ cha mẹ, ông bà, em nào ở gần thì phải về nhà người
anh trưởng làm giỗ. Nếu là ngày giỗ tổ họ thì mỗi chi phải đem đồ lễ (thường là
một mâm xôi, một con gà luộc) lại người tộc trưởng để cúng. Nếu là ngày giỗ tổ
chi thì cũng vậy, mỗi gia đình trong chi đem đồ lễ tới nhà chi trưởng để cúng.
Người nào trong họ đỗ đạt, có danh tiếng hay làm ăn thịnh vượng, thường tự cho
là một vinh dự được cúng vào nhà thờ họ một bức hoành phi, một đôi câu đối sơn
son thiếp vàng; có khi xây lại nhà thờ cho họ nữa, hoặc cúng họ một hai mẫu,
dăm ba sào ruộng làm “nghĩa điền” hay “học điền”. Ruộng đó do người trưởng tộc
quản lí, thu hoạch được bao nhiêu thì giữ một phần nhỏ để bù công khai thác,
còn bao nhiêu cho vào một quĩ riêng để giúp đỡ những gia đình nghèo trong họ
(nghĩa điền), hoặc trợ cấp cho những thanh niên tuấn tú trong họ để có phương
tiện học đến nơi đến chốn (học điền).
Muốn cho chế độ được vững, đời Chu tạo ra chữ hiếu và
đề cao hiếu đễ: con phải hiếu với cha mẹ, kẻ nhỏ phải tôn trọng, vâng lời người
trên. Ai cũng nhận rằng dân tộc Trung Hoa là dân tộc trọng chữ hiếu nhất. Vì
trọng chữ hiếu, nên họ cũng rất chú trọng đến tang lễ, tế tự. Người Pháp xưa
cũng có quyền trưởng tử (droit d'ainesse) nhưng người con trưởng Pháp có quyền
hưởng gia tài chứ không chắc có những bổn phận như người con trưởng Trung Hoa.
Trong một gia đình, người con trưởng có tư cách và khả năng thì
các em được nhờ; nếu con trưởng kém nhưng các em khá thì cũng đỡ.
BỔN PHẬN CON TRƯỞNG
Chế độ gia đình, chế độ tôn pháp đó nay đã lỗi thời, nhưng bốn
chục năm trước, nhiều nhà còn giữ, trong đó có gia đình tôi[2].
Tôi là con trưởng, nên từ hồi 15, 16 tuổi ta, gặp những ngày giỗ
ngày tết, tôi cũng ăn mặc chĩnh tề, lên gối xuống gối, làm lễ trước bàn thờ. Và
khi đã học chữ Hán hết một vụ hè với bác Hai tôi thì người thảo cho tôi vài bài
văn bằng chữ Hán để tôi khấn trong mỗi trường hợp hoặc giỗ hoặc tết. Bác tôi
còn giữ cổ tục quá, lớn lên tôi bỏ lệ đó, khấn bằng tiếng Việt, vì nghĩ bà
ngoại tôi, mẹ tôi đâu có biết chữ Hán, mà thưa với người bằng chữ Hán.
Dĩ nhiên, tôi tự cho tôi có bổn phận với các em tôi, mà các em
tôi cũng tự cho có quyền buộc tôi phải bao bọc.
Vợ tôi tuy cha mẹ còn cả mà lại là phận gái, nhưng vì là chị cả,
nên cũng có bổn phận trông nom các em, dù đã ra ở riêng rồi. Do đó, gánh của
chúng tôi khá nặng; tiền lương của tôi ít, mà vợ tôi lại không buôn bán, làm ăn
gì, phải khéo thu vén lắm mới đủ tiêu.
Tôi làm việc ở Sài Gòn được một hai năm thì xin cho em trai tôi,
Nguyễn Hữu Hùng làm họa viên dưới quyền tôi, thế là đỡ được một phần cho mẹ
tôi. Cũng vào khoảng đó, hai người em vợ tôi lên Sài Gòn học, ở nhà chúng tôi,
tôi phải giảng bài thêm cho một người để thi vô trường Trung học Gia Long. Nhà
hẹp, bấy nhiêu người đã thấy chật rồi; sau khi mẹ tôi qui tiên, hai em gái tôi
vào ở với chúng tôi, nhà còn chật nữa, tiêu pha tốn hơn nữa.
RA BẮC LẦN THỨ NHẤT –
MẸ TÔI MẤT
Sau khi Hùng, em trai tôi vào làm việc ở Sài Gòn, mẹ tôi mướn
một căn phố nhỏ ở Vĩnh Yên đưa hai em gái tôi lên ở trên đó để tập cho chúng
buôn bán mà người đỡ phải đi đi về về trên đường Hà Nội, Vĩnh Yên, vì người đã
già rồi.
Năm 1939 người vào thăm vợ chồng tôi và cháu thì năm sau (tháng
hai âm lịch năm Canh Thân) người đau nặng, ngất đi, em tôi đánh điện vào gọi
tôi ra. Được tin tôi cho em trai tôi (Hùng) mang một số tiền ra ngay; mặt khác
tôi đánh điện cho bà nhạc tôi lúc đó ở Hà Nội, nhờ lên thăm mẹ tôi và có chuyện
gì gấp thì trông nom giùm. Tôi phải thu xếp việc nhà, việc sở, sẽ ra sau vài
ngày.
Lúc đó đương có chiến tranh ở châu Âu, các công sở hạn chế cho
nghỉ phép, tôi chỉ được nghỉ nửa tháng. Vợ chồng tôi cùng ra, cháu mới đủ hai
tuổi, chúng tôi để ở Sài Gòn giao cho anh Nguyễn Xuân Thiếp, con bác tôi, và
chị giúp việc nhà.
Tới Vĩnh Yên thì mẹ tôi vẫn còn tỉnh, nhưng rất yếu, nằm suốt
ngày, chỉ ăn cháo và đi sông mỗi ngày mấy lần, phân rất xấu mà ít. Tôi cho là
đau ruột, có người bảo là lao ruột. Trong khi đau có hai em gái tôi và hai
người cháu, một ở Phương Khê và một ở hàng Đường (Hà Nội tên là Ba Cương), thay
phiên săn sóc. Mẹ tôi không chịu uống thuốc Tây mà uống thuốc Bắc của một ông
lang Hà Nội. Ông này trị không bớt. Khi tôi ra thì chân người đã phù.
Thấy cả vợ chồng tôi cùng ra, vậy là đủ mặt bốn con và một nàng
dâu, người vui lắm, chỉ hận rằng vắng cháu nội. Mẹ tôi kể cho chúng tôi nghe
rằng bà nhạc tôi được điện tín của tôi, ngay chiều tối, mướn một chiếc xe hơi
và cùng với một ông anh ruột, ông Loan, lên thăm mẹ tôi, thấy bệnh có thế trị
được, chưa nguy, nên dặn dò hai em tôi ít lời rồi quay về Hà nội. Mẹ tôi bảo vợ
chồng tôi rằng quí tình sốt sắng của bà nhạc tôi lắm. Tôi ra được hai ngày thì
mẹ tôi biết bệnh khó qua được, gọi riêng tôi vào nói chuyện, cho biết tình hình
tài chánh: bạc mặt còn 300 đồng, tiền họ[3] đã
đóng được ba trăm đồng, các món nợ có thể đòi được là 150 đồng, trà hột để bán
còn 70 đồng (giá vàng hồi đó khoảng 200 đồng một lượng). Như vậy là người đã
dành dụm, chuẩn bị hết, nên số tiền tôi gởi ra chưa dùng tới. Người không muốn
phiền con cái chút nào cả. Ngày nay tôi cũng giữ được tính đó của người.
Sau năm năm vào Nam, lần này là lần đầu tiên tôi về Bắc,
cho nên tôi xin phép người đi thăm mồ mả tổ tiên và họ hàng ở Phương Khê, Hà
Nội. Chúng tôi cứ đi một hai ngày thì lại về Vĩnh Yên một ngày.
Nhà Phương Khê thật hoang tàn: nhà khách và nhà bếp đã bán, hàng
rào tre cũng sắp bán, cỏ mọc đầy vườn, nhà thờ tuy còn vững nhưng gần như trống
không, bàn thờ chỉ còn mối một cái bát cắm nhang.
Nhà thờ bên ngoại ở số 4 ngõ Phất Lộc, một người cháu ngoại bà
cả Tiệm cũng bán rồi, và lấy ra một phần tiền mua một cái nhà khác nhỏ hơn
trong một ngõ hẻm khu Khâm Thiên, còn bao nhiêu bỏ túi.
Nhà số 2, phần của cha tôi thì vẫn còn và mỗi tháng mẹ tôi vẫn
thu được ít tiền nhà.
Tôi thấy khi mà con cháu hư hỏng thì không có cách gì cấm chúng
bán sản nghiệp tổ tiên. Tôi nghe nói có trường hợp cha mẹ cấm ngặt con không
được bán nhà và vườn; nó không bán nhưng cho thuê chín mươi chín năm và thu
tiền một lúc thì cũng như bán. Lại như bác Hai tôi cấm con cả bán phần hương
hỏa nếu không có thỏa thuận của ba người em; có ngờ đâu cả bốn anh em đều đồng
tình bán.
Ở Hà Nội chúng tôi đi thăm tất cả bà con bên nhà tôi; đặt biệt
là ông Phương (em ruột ông nhạc tôi), ông Loan (anh ruột bà nhạc tôi) và cụ
Bang, bà ngoại nhà tôi. Cụ hồi trẻ, một tay làm nên cơ đồ cho chồng, sau giận
chồng vì chồng mê mấy nàng hầu, cụ để lại tất cả sản nghiệp cho chồng, ra đi,
nhất quyết không trở lại.
Tay không mà sau mười năm lại gây dựng một cơ đồ trị giá cả
vạn nữa. Chồng mất, con trai cả về lạy cụ, khóc lóc, cụ mới chịu về đưa ma
chồng, nhưng không khóc mà cũng chẳng lễ. Bảy cô nàng hầu lạy cụ, cụ chỉ cười.
Trên bảy chục tuổi, cụ ở một mình một căn nhà năm gian giữa một trại
rộng 5, 6 mẫu ta ở làng Khương Hạ (Hà Đông), trồng, na, nhãn. Có bao nhiêu tiền
cụ chỉ mua quà cho các con cháu, và cho trẻ con trong xóm. Năm nào cũng phơi cả
chục kí nhãn nhục làm quà cho người quen. Hễ có con cháu về chơi thì cụ đích
thân nấu nướng để đãi, ăn không hết. Có khi mổ lợn phân phát cho dân nghèo
trong làng. Bà nhạc tôi hỏi: “Sao cụ phung phí thế?”. Cụ đáp: “Các ông các bà
khá giả hết, tôi để của lại làm gì?” Đúng lắm. Mà con không khá thì để của cho
chúng cũng vô ích.
Gần đến ngày trở về Sài Gòn, vợ chồng tôi vào từ biệt mẹ tôi.
Người bảo: “Vợ chồng con cũng tử tế, hầu hạ mẹ trong mấy ngày như vậy cũng đủ
rồi, vào trong đó mà làm ăn và trông nom cháu bé... Có sự nào thì mẹ mất ba cái
gậy” (vợ chồng tôi và cháu). Tối rưng rưng nước mắt. Về Sài Gòn được ít ngày
thì có điện tín mẹ tôi đã qua đời ngày rằm tháng ba âm lịch, thọ 55 tuổi. Một
đời lao lực, tận tụy cho mẹ, chồng và con, khi mất không tiêu của con một đồng
nào mà còn để lại dư tiền để làm ma. Người còn hận một điều là em trai tôi và
em Oanh chưa thành gia thất[4].
Theo người dặn, các em tôi tạm chôn người ở nghĩa trang Phúc
Yên, đợi hết tang sẽ cải táng về gần mộ bà ngoại tôi ở Hạ Đình (Hà Đông) để mẹ
con được gần nhau mà chúng tôi mỗi lần đi thăm mộ mẹ thì không quên mộ bà
ngoại. Đám tang có đủ đại diện họ bên người, họ bên chồng, bà nhạc tôi cũng đi
đưa, bạn bè của người ở Vĩnh Yên cũng khá đông.
Chôn cất xong, em trai tôi ở lại ít ngày rồi trở vào Sài Gòn làm
việc. Hai em gái tôi ở lại khoảng một tháng nữa, thu tiền nợ, tiền họ, bán hết
hàng hóa; ai cũng quí mẹ tôi, nên không ai thiếu cả. Nhờ vậy mà trang trải được
tất cả phí tổn thuốc men, chôn cất, lại còn dư 300 đồng nữa. Tôi chia cho mỗi
em một trăm làm vốn, chỉ giữ lại mỗi đôi hoa tai kiểu cổ của mẹ tôi. Nhưng rồi
cũng không giữ được lâu. Năm 1945, nhà tôi tản cư ở Long Điền, chôn xuống đất,
bị bọn Miên đào lấy hết.
RA BẮC LẦN THỨ NHÌ -
ĐÁM CƯỚI EM TÔI – XÂY MỘ TỔ TIÊN
Ba năm sau (1943), nhờ bà nhạc tôi làm mai, cô em út của tôi
(Mùi) được ông bà Tô Đình Huy hỏi cho người con trưởng Tô Đình Huân. Họ Tô là
một nhà có học và danh giá ở Hà Nội. Ông Huy làm thông dịch viên tòa án, sau
làm làm thư kí (clerc) cho một luật sư, biết chữ Hán. Bà Huy có họ với bà nhạc
tôi. Cậu Huân vì đau yếu chỉ học xong tiểu học rồi làm thư kí. Có mấy người em
học y khoa và dược khoa. Gia pháp nhà đó khá nghiêm.
Nhà trai xin cưới vào mùa xuân ở Hà Nội. Vậy vợ chồng tôi phải
đưa cô em ra ngoài đó. Năm đó thế chiến đương gay go, đường giao thông có thể
bị trắc trở; mà cũng đã mãn tang mẹ tôi rồi, đến lúc bốc mộ người đưa về Hạ
Đình; tôi lại muốn xây cất tất cả các mộ bên nội bên ngoại cho xong, e sau này
khó có dịp về Bắc; nên lần này, tiền bạc để dành được bao nhiêu tôi đem tiêu
hết, dắt cả gia đình (vợ chồng tôi, con tôi, ba người em) để làm bốn công việc:
gả em gái, bốc mộ mẹ, xây mộ bà ngoại và mẹ tôi ở Hạ Đình; xây mộ các cụ ở
Phương Khê; tìm mộ hai cụ ngoại tôi ở Đan Loan (Hải Dương) và xây luôn.
Tưởng như vậy mồ mả sẽ giữ được, ít gì cũng hết đời tôi; nhưng
năm 1975, sau ngày Giảng phóng, tôi được một đứa cháu ở Phương Khê cho hay rằng
mộ của các cụ đều phải bạt nấm hết để khỏi cản trở công việc canh tác, mà mộ
của cha tôi phải dời lại Gò Dai, nghĩa địa chung cho cả làng. Rồi năm 1979,
cháu tôi, Tô Lệ Hằng, con gái lớn của cô Mùi, ở Pháp về, nhân dịp ra Hà Nội
công tác ít bửa với cơ quan nguyên tử lực Việt Nam, bỏ ra một buổi về làng Hạ
Đình tìm mộ bà ngoại và mẹ tôi mà không thấy. Họ hàng mẹ tôi ở hàng Đường và
làng Hạ Đình cũng không ai nhớ: người già thì chết lần, người trẻ thì không
quan tâm đến mồ mả, mà làng mạc, đồng ruộng đã thay đổi nhiều rồi.
Tôi bùi ngùi nhớ đến hai câu của cổ nhân:
----”Vị qui tam xích thổ, nan bảo bách niên thân,
----Kí qui tam xích thổ, nan bảo bách niên phần”.
Nghĩa là:
----Chưa về ba thước đất thì khó giữ được thấm thân trăm năm,
----Đã về ba thước đất rồi thì khó giữ được nấm mồ trăm năm.
Bà ngoại tôi mất năm nay được đúng năm mươi năm, mẹ tôi mất mới
bốn chục năm mà mộ đã thất lạc. Cha tôi mất được sáu mươi năm, mộ tuy còn nhưng
phải dời đi; mà đứa cháu ở Phương Khê mới cho tôi hay nghĩa địa chung ở Gò Dai
sẽ phải dời đi nơi khác nữa. Tất là sẽ dời đi xa, vì trong làng hết đất rồi, mà
dời đi xa thì mấy đứa cháu ở làng sẽ không đi thăm được, cũng kể như mộ thất
lạc luôn.
Tôi chỉ làm hết bổn phận với tổ tiên, còn những sự thay đổi
trong đời người, trong xã hội thì ngay cả trong thời đại ổn định là thời đại
nông nghiệp, mà cổ nhân đã phải than thở như trên, huống hồ là thời đại bất ổn,
thế giới xáo trộn rất nhanh như thời đại chúng ta ngày nay.
Khi làm xong các việc rồi, tôi trở về Sài Gòn thì em Oanh tôi –
chị của cô Mùi – xin phép ở lại Hà Nội với một bà dì em dị bào với mẹ tôi. Tôi
bằng lòng và bảo lấy tiền cho thuê nhà số 2 ở Phất Lộc, mà chi tiêu. Ít năm
sau, cô ấy có chồng, chồng là con trai bà dì, tên Nguyễn Văn Quí, mới đầu dạy
học, sau đổi qua làm sở Quan thuế.
Em trai tôi năm sau cũng được bác tôi kiếm vợ cho ở làng Tân
Thạnh, con một điền chủ nhỏ, làm hương chức.
Thế là nguyện vọng của mẹ tôi được thoả mãn, mà bổn phận đối với
gia đình tôi đã làm xong.
RA BẮC LẦN THỨ BA –
THI KĨ SƯ
Tháng giêng âm lịch năm Giáp Thân (1944) tôi còn ra Bắc lần nữa
để thi vấn đáp và thực tập vào ngạch kĩ sư. Số người lấy đậu cho toàn quốc đã
hạn định. Bài viết tôi khá, nhưng thực tập kém nên rớt.
Trong khi nhắm máy vẽ bản đồ ở núi Trầm (thuộc tỉnh Hà Đông,
cách Hà Nội hai chục cây số), tôi làm việc ngay ở dưới chân chùa Vô Vi, một
ngôi chùa nhỏ bằng gạch, cất trên một ngọn núi đá lởm chởm cao độ dăm chục
thước, trồng nhiều cây đại cổ thụ và nhìn xuống một cánh đồng chiêm xanh mởn.
Vừa nhắm máy tôi vừa ước ao một ngày kia đi dạo những cảnh chùa như Nguyễn Công
Trứ, đàm đạo với một vị hòa thượng trước một chén trà lão mai, và ngâm câu thơ:
-----Hương đắc phù sinh bán nhật nhàn.
Lần này tôi không về Phương Khê vì nhà thờ đã bán rồi, tôi không
biết ghé đâu. Vả lại chiến tranh đã tới lúc quyết liệt. Phi cơ Đồng minh ngày
nào cũng bay qua Hà Nội, dội bom các đường xe lửa, cầu cống, mấy lần tôi phải
núp dưới hầm. Lại nghe tin đường xe lửa Hà Nội - Sài Gòn bị dứt thêm vài chỗ,
cho nên thi xong tôi vội vã về Sài Gòn liền.
Tôi nhớ trong lần ra Bắc này gặp hai anh bạn cũ trường Yên Phụ:
anh Vũ Đình Hòe và anh Lê Huy Vân ở tòa soạn Thanh Nghị. Hòe làm
chủ nhiệm kiêm chủ bút, hôm đó dạy học ở trường Thăng Long (?) về, đi bộ nói
chuyện với tôi một quãng, cho chiếc xe nhà lững thững theo sau. Anh bảo tôi
chính quyền Pháp muốn trợ cấp cho tờ báo nhưng anh không nhận. Tôi đưa anh coi
một tập tùy bút, anh cho là chưa đăng được; tôi cũng nhận rằng loại tùy bút đó
không hợp thời, mà càng không hợp với tờ Thanh Nghị. Anh nhờ tôi
viết phóng sự về miền Nam, tôi suy nghĩ một chút rồi đáp sẽ viết về Đồng Tháp
Mười. Anh hẹn với tôi một buổi đi ăn cơm tiệm với anh và anh Vân để nói chuyện
được nhiều hơn; nhưng tôi ít thì giờ, không nhận lời được.
Chuyến về thật vất vả. Có mấy cây cầu sập. Cầu Quảng Trị bị một
trái bom vào đúng khúc giữa, hai nhịp cầu gẫy gục xuống thành một chữ V rất đều
đặn. Tôi nhớ đêm đầu tiên, xe lửa tới miền Thanh Hóa gặp một chiếc cầu sập,
phải xách đồ đạc xuống, qua phà sang bờ bên kia lên xe khác. Chiếc phà đã đậu
sẵn ở bờ. Hành khách vì mệt hoặc lo buồn, lủi thủi, lặng lẽ xuống phà. Chỉ nghe
thấy tiếng nước vỗ vào be phà, tiếng kéo sợi xích sắt loảng xoảng, rồi chiếc
phà rời bến. Dòng nước lừ đừ, gợn sóng vàng vì trăng mới ló. Không khí lạnh
lẽo, ai cũng kéo áo lên che cổ. Bờ bên kia chỉ thấy lù lù chuyến tàu xam xám
với một ngọn đèn le lói. Cảnh thê lương lạ lùng. Có tiếng lịch kịch phà chạm
bờ, rồi tiếng xích sắt loảng xoảng nữa. Hành khách lại lủi thủi kéo nhau lên bờ
và sau cùng chuyến xe cũng lủi thủi, âm thầm chuyển bánh từ từ, không một tiếng
còi. Tôi có cảm tưởng như qua một chuyến đò ngang ở âm ti, trên Suối vàng, còn
chúng tôi thì như những bóng ma đi tới đâu không biết, tới điện Diêm vương hay
vào thẳng ngay Địa ngục?
CẢNH BỜ BIỂN TRUNG
VIỆT - ĐÈO CẢ, ĐÈO ẢI VÂN, THÀNH PHỐ NHA TRANG
Mấy chuyến về Bắc đó, tôi được thấy những cảnh đẹp mê hồn ở bờ
biển Trung Việt, mà bây giờ nhớ lại tôi vẫn cho là những lúc ngắn ngủi nhưng
thú nhất trong đời tôi.
Hai cảnh đẹp nhất là đèo Cả và đèo Ải Vân (cũng gọi là Hải Vân).
Năm 1941, trong một dịp ra chơi Nha Trang, Tuy Hòa (nơi ông nhạc tôi làm việc)
và Qui Nhơn, tôi đã được ngắm cảnh đèo Cả.
Xe lửa từ Nha Trang ra, vừa qua một trái núi thì tới bãi biển
Đại Lãnh dài khoảng hai cây số, như một cánh cung ba mặt là núi, một mặt là
biển. Một rặng dương (filaos) vi vu bên đường Quốc lộ số 1 ngăn bãi cát vàng ở
bờ biển với đồng lúa xanh ở chân núi. Chỉ trong một khoảng không đầy hai cây số
vuông mà có đủ cả cảnh núi cao, rừng rậm, có thác, có suối, với một nhịp cầu
bắc ngang; có cảnh đồng ruộng thôn quê, cảnh phố xá ở trước ga, cả một xóm chài
nữa với những chiếc lưới đong đưa trước gió.
Ra khỏi ga Đại Lãnh độ dăm trăm thước, ở bên đường xe lửa hiện
lên một tấm biển đề chữ Varella. Tôi gọi nhà tôi lại: “Tới đèo Cả rồi!”. Đồng
thời một lính lê dương cũng la lên: Varella! Hành khách đổ xô lại cửa để ngắm
cảnh.
Xe chạy chậm lại, độ mười cây số một giờ vì đường dốc mà nguy
hiểm. Đèo dài 11 cây số, từ ga Đại Lãnh đến ga Hảo Sơn. Núi ở bên trái rất cao
và có nhiều cây lớn, và những tảng đá phẳng như bàn cờ bên những dòng thác và
suối. Xe chạy sát một vách núi dựng đứng, nhìn xuống biển thấy ngợp. Mũi La,
cao ngất đâm thẳng ra mặt biển mênh mông, thấp thoáng vài cánh buồm xa xa. Cảnh
thật hùng vĩ.
Cái đặc sắc nhất ở đây là màu ngọc thạch của nước biển, trong lạ
lùng, đứng trên xe lửa nhìn xuống mà cũng thấy rõ những tảng đá ở đáy, gần bờ.
Màu đó càng lan xa càng biến đổi lần lần, đục lại thành màu xám, tới ngoài khơi
thì thành màu lơ đặc, đặc tới nỗi tôi tưởng nó là mực Waterman.
Đường xe lửa ngòng ngoèo qua sáu cái hầm rất ngắn, trừ hầm cuối
cùng dài non hai cây số. Trong hầm tối như đêm và nghe tiếng xe chạy rầm rầm
như bao nhiêu tảng đá đổ trên đầu.
Trong chuyến ra Bắc lần thứ nhì, tôi được ngắm cảnh đèo Cả ban
đêm mà tôi đã ghi lại trong tập Hoa đào năm trước (Lá Bối -
1970):
“Đêm đó tôi đương ngắm cảnh biển mênh mông nhấp nhô dưới ánh
trăng thì xe lửa lượn vào một khúc quẹo và những làn sóng bạc bỗng biến đâu mất
mà trước mặt tôi hiện lên một dãy núi đen tím với một cái vũng lốm đốm mươi
ngọn đèn chài đỏ như than hồng trên một làn nước phẳng lặng: cảnh biến đổi thật
huyền ảo và trong một phút tôi có cảm giác là mọc cánh mà lên tiên”.
*
Hôm sau, ra khỏi Tourane[5],
gặp trời nắng, tôi được ngắm cảnh đèo Ải Vân nữa, một thứ đèo Cả nhưng cao hơn,
dài hơn gấp ba gấp bốn, thay đổi nhiều hơn. Ở đây xe lửa chạy theo bờ biển 30,
40 cây số; non ba giờ liền, tôi được nhìn một cuốn phim chụp cảnh thiên nhiên,
quay chầm chậm trong một không gian đầy âm nhạc là gió rừng và sóng biển.
Vì đèo rất cao, một đầu máy kéo không nổi
chuyến xe, nên phải móc thêm một đầu máy ở phía sau để đẩy tiếp. Cả hai đầu máy
phì phì nhả khói, nặng nhọc lắm mới lên nổi đèo và chuyến xe như con rắn khổng
lồ uốn khúc, đứng ở giữ thấy cả hai đầu máy ở hai đầu. Ở đây cũng như ở đèo Cả, xe chạy ở
giữa, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là biển thẳm mênh mông.
Nhưng cảnh ở đây thay đổi luôn luôn, nhiều
vẻ đẹp hơn đèo Cả;
chỗ thì cây cối thưa thớt, thoải mái mà chỉnh tề; chỗ thì chen chúc nhau, cố
bám lấy nhau trên một sườn núi cho khỏi tuột xuống thung lũng. Có nơi rừng bị
một giống dây leo lá tròn trùm kín hàng mấy chục mẫu trông xa như một tấm màn
xanh phơi trên sườn núi, có cột chống ở dưới.
Thỉnh thoảng xe qua những chiếc cầu nho nhỏ
bắc qua suối. Dòng nước trong leo lẻo xô đẩy nhau trên những phiến đá nhẵn rồi chui vào một cửa tò vò chuối màu xanh
non, sau cùng thoát ra tại một bãi cát vàng ở xa xa. Đẹp nhất là những thảm cỏ
có điểm hoa tím và vàng
rung rinh như cánh bướm.
Xe phì phì uốn khúc gắng lên kịp con đường
Quốc lộ số 1[6] nó đã vờn mây ở dãy núi bên kia. Xe chui vào hầm
– quãng này có bảy tám cái
hầm – và mỗi lần ở hầm ra thì cả
một cảnh trời cao biển rộng hiện ra trước mắt: trời xanh lơ, biển xanh màu ngọc
thạch như ở đèo Cả (Tôi nghe nói từ Huế trở ra biển mới đục, mất màu thần tiên
đó). Biển ôm những cù lao ở ngoài khơi, liếm những bãi cát vàng cánh cung ở bờ,
vỗ vào những gốc si bám vào chân vách đá. Nó gần tới bờ lại lùi ra, để lại một
viền bọt trắng.
Xe vẫn phì phì lên, cảnh vẫn thay đổi; có
khi xe lùi vào trong để cho ta ngắm những vùng nho nhỏ có dăm nóc nhà ngói đỏ
giữa vài thửa ruộng, sau một bãi cát; có
khi nó lượn bên một bãi cỏ rộng lưa thưa vài gốc dương đương hoà nhạc với sóng
biển: đây hẳn là chỗ hẹn hò của những con nai vàng trong đêm trăng, và xe như hữu tình cũng chạy chậm
lại.
Nó vẫn phì phì leo dốc. Càng lên, núi càng cao, ngọn núi càng xích lại
gần nhau. Núi đã mờ mờ. Xe đã chui vào mây. Lạ thay, tôi có cảm giác biển cũng dâng lên để
được gần trời. Mây lờn vờn ở ngoài khơi, bóng mây làm cho mặt biển lốm đốm như
mai con đồi mồi.
Xe vẫn uốn khúc, nặng nề leo mà không theo
kịp Quốc lộ số 1
nó đã khuất trong mây rồi. Chung quanh chỉ thấy biển và mây (gọi đèo này là Hải Vân, phải quá), đương giữa trưa mà có sương mai.
Tôi nhìn về phía sau: đầu máy thứ nhì đã
rời chuyến xe quay trở về lúc nào rồi. Xe đã lên đỉnh đèo. Tôi tiếc ngơ ngẩn.
Quốc lộ 1 và đường xe lửa lại cùng nhau xuống, một đường chạy sát bờ biển như
mê cảnh biển, một đường lùi vào trong như không muốn rời núi mây.
Nhưng đến Lăng Cô (một ga nhỏ) thì hai
đường gặp nhau như cùng nhận rằng có thể không ngắm mây, chứ không thể không ngắm Lăng Cô.
Có người cho rằng Lăng Cô là cảnh đẹp nhất
trên đường Tourane – Huế. Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt như một bức tranh
thuỷ mạc của Trung Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ biển, bằng phẳng, trồng toàn dương, có nhà, có
chùa, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với
bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm
ra khơi, hay trong những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới
một đảo ở chân trời, ngồi ở gốc dương đầu cầu cảnh thì ai mà không mơ tới
cảnh Bồng Lai ở cuối con đường sáng đó?
Trên hai giờ liên tiếp được thưởng cảnh
thần tiên như vậy, tâm hồn tôi nhẹ nhàng lên, tươi trẻ lại. Trên ba mươi lăm
năm nay không được thấy lại cảnh đó, nay
không biết ra sao. Nonsông Việt Nam sao
mà đẹp thế! Đăng buồn là nơi nào
cảnh đẹp nhất thì dân thường nghèo nhất.
Cảnh Trung Việt còn đặc điểm
này nữa: hầu hết thành phố nào cũng ở cửa hoặc gần cửa
một con sông nhỏ. Dãy Trường Sơn ở gần biển,
nên sông đều ngắn và hạ du cũng hẹp có hình mẫu tự delta Hi Lạp (cho nên từ delta của Pháp ta dịch là Tam
giác châu) mà đáy
và chiều cao chỉ dài vài chục
cây số. Muốn coi toàn cảnh những hạ du đó,
chỉ cần leo lên chỗ nào cao nhất trong thành phố.
Một lần tôi
đã leo lên gác chuông nhà thờ công
giáo Nha Trang, lần khác leo lên núi Khỉ ởTuy Hòa (núi có
tên như vậy vì có nhiều khỉ) thấy cảnh đại khái như nhau.
Cảnh ở Nha Trang đẹp
hơn, điển
hình hơn.
Cánh đồng Nha Trang từ trên
cao nhìn xuống rõ là một hình tam giác: đỉnh A hướng
về dãy núi Trường Sơn;
hai cạnh AB, AC màu xám nhạt là hai dãy núi chạy dài ra tới biển; đáy BC
là bờ biển, một đầu là Hải học viện, một đầu
là nhà tu Công giáo. Sông
Nha Trang lấp lánh uốn khúc từ
A ra tới bờ biển, qua một cánh
đồng xanh mơn mởn nằm từ cạnh này đến cạnh kia, rồi qua một dãi cát trắng rộng độ hai cây số sát
bờ biển. Ở giữa dãi cát đó, tại cửa sông là thành phố gồm hai khu vực: khu nhà
lá thưa thớt, màu xám ở bên mặt (khi nhìn ra biển), và khu công sở, biệt thự ở
bên trái, y như bàn cờ mà quân cờ tròn là những dám cây xanh xen với những nóc
đỏ tường vàng như những mảnh giấy màu hình chữ nhật. Đây đó nhô lên vài ngọn
đồi đá trên có một ngôi chùa cổ, và vài hòn nhỏ ở ngoài cửa biển như những đốm
đen trên mặt nước xanh biếc. Dưới mắt ta đủ cả cảnh rừng núi, sông biển, đồng
ruộng, bãi cát, thành thị, thôn quê, với đủ các màu sắc thiên nhiên rực rỡ không nơi nào bằng.
[1] Tôi chỉ ghi lại vài nét chính, chế độ
đời Chu phiền phức hơn nhiều. Coi cuốn coi cuốnWang dao ou la Voie
royale (Tome I) của Léon Vandermeersch (EFEO, Paris 1977).
[2] Nửa thế kỉ trước trong Nam còn một số
gia đình theo tục này: cùng mang tên họ, Ngô hay Trần chẳng hạn thì dù một
người ở Bắc, một người ở Nam, gặp nhau cũng có thể nhận là cùng họ, tuỳ tuổi
tác mà gọi nhau như bà con, và không được gã con cho nhau. Tục đó từ đờiChu truyền
lại.
Chương XIII
TÔI TẬP VIẾT
ĐỌC SÁCH ĐỂ TIÊU KHIỂN
VÀ HỌC THÊM
Trong một chương trên tôi đã nói hồi học trường Bưởi, có lần
ngồi trên đường Cổ Ngư ngắm mây nước hồ Tây với bạn, tôi cao hứng ngâm câu:
“Nhập thế cục bất khả vô văn tự”. Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua, nhiều
lắm thì cũng chỉ như một mơ mộng ngông của chung các thanh niên khi nhớ một áng
văn hay đứng trước một cảnh đẹp. Chưa gọi là một ý muốn, một quyết tâm được.
Tổ tiên tôi, bên nội cũng như bên ngoại không có ai viết sách
cả. Bác Hai tôi còn muốn tôi đừng học văn thơ nữa mà chuyên tâm vào khoa học.
Và tôi đã lựa một ngành kĩ thuật thuộc về khoa học. Tôi cũng không được một
giáo sư nào khuyến khích viết văn như hai bạn Võ Phiến, Nguyễn Hữu Ngư. Và ở
trường Công chánh ra, tôi đã quên từ lâu câu: “Nhập thế cục bất khả vô văn tự”
rồi.
Hai năm lênh đênh trên sông rạch miền Tây,
sở dĩ tôi chép hồi kí và nhật kí chỉ
là để giải muộn, tiêu cho hết 24 giờ mỗi ngày, cho
nên chép xong rồi bỏ, không hề đọc lại.
Từ năm 1938, về Sài Gòn làm
việc, tôi không được rãnh như hồi đi đo mực đất nữa,
nhưng việc nhà chẳng có gì, nên mỗi
ngày có cả một buổi tối và mỗi tuần cả một ngày chủ nhật ở
không. Tôi không có khiếu về âm nhạc, học đờn ít tháng rồi bỏ, không
thích đánh cờ, rất ghét đánh bài, cũng không ưa họp bạn tán chuyện, nhậu nhẹt
hoặc rủ nhau nhảy đầm – thời đó có phong trào nhảy đầm, nay gọi là vũ, nhưng theo tôi
vũ và nhảy đầm khác nhau xa. Rốt cuộc, chỉ còn có cách
là đọc sách, học thêm. Cho nên, một anh bạn trường Công
chánh, sau
bốn năm xa cách, gặp tôi ở Sài Gòn, thấy tôi dịch Hán
văn, ngạc nhiên hỏi: “Anh học chữ Hán hồi nào vậy”, tôi đáp: “Học
trong khi các anh nhảy đầm”. Anh ta cười.
Nhiều người, từ bạn bè đến độc
giả bảo tôi sống như một nhà tu khổ hạnh. Tôi không
biếtcác nhà tu khổ
hạnh có thấy khổ hay không khi họ nhịn ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, tự quất vào
thân cho
đến rớm máu, hoặc khi họ tĩnh toạ cả chục năm quay mặt vào
tường, nắm chặt bàn tay tới nỗi móng tay mọc dài xuyên
thấu lòng bàn tay (?) (chắc phải có người đút
cho họ ăn, đổ nước vào miệng cho họ uống?); chứ riêng tôi, chẳng tu hành gì cả,
không thấy lối sống của tôi với sách vở là
khổ.
Năm 1946 hay 1947[1],
tôi làm đôi câu đối:
------Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung
hữu hữu,
------Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại
không không.
mà một ông bạn dịch là:
------Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong
sách chi chi cũng có,
------Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài
đạo thảy thảy đều không.
“Thư trung hữu hữu”.
Trong sách có nhiều cái thú lắm chứ.
Trong cuốn Tự học, một
nhu cầu của thời đại, tôi đã trích nhiều danh ngôn về thú đọc sách, như:
“Sự tiếp xúc với sách an ủi tôi trong cảnh
già và cảnh cô độc (...) Những nỗi đau khổ nhờ nó mà bớt nhói. Muốn tiêu khiển,
tôi chỉ có cách đọc sách” (Montage).
“Sự học đối với tôi là phương thuốc công
hiệu nhất để trị những cái tởm ở đời, vì tôi chưa lần nào buồn rầu đến nỗi đọc
sách một giờ mà không hết buồn” (Montesquieu).
“Sự học trang hoàng đời sống và làm cho ta
mến đời hơn. Nó là một thú vui không khi nào giảm” (J.
Viênnt).
Còn Khổng tử
thì suốt đời “học bất yếm” (học không chán) và “triêu văn
đạo, tịch tử khả hỉ (Sáng được nghe đạo lí, tối chết cũng không hận).
Tôi cũng như Montaigne, muốn tiêu
khiển chỉ có cách đọc sách và cũng như Khổng Tử,học bất yếm.
Etiemble, tác giả cuốn Confucius (Gallimard – 1966),
bảo đã mang ơn Khổngtử ngang với Montaigne, chắc cũng là hạng
ham đọc sách. Bác Hai tôi từ hồi tôi 16-17 tuổi, bảo rằng tôi “đam thư” nghĩa
là mê sách. Chữ đam đó dùng theo nghĩa gốc là “quá
mức”,ham quá mức.
Đó là một tính bẩm sinh có lẽ do di truyền của ông nội, bà nội tôi. Tôi nghĩ
không có gì đáng khen cả, ở đời thiếu gì người mê sách.
Về Sài Gòn dễ kiếm sách báo để đọc. Sách
báo Việt thời đó không có bao nhiêu, tôi lựa mua hết thảy những gì đáng đọc
được: báo Ngày Nay, Thanh Nghị,
Tri Tân, Tao Đàn,
Phụ nữ Tân văn;
sách của Tự lực Văn đoàn, nhà Tân Dân, nhóm
Hàn Thuyên…
Sách Pháp, vì ít tiền, tôi chỉ mua một số
nhỏ còn thì mượn của Thư viện thành phố. Chính ởThư
viện này, tại phòng cho mượn sách, tôi thường gặp ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã
quen ở Rạch Giá, hồi ông còn làm tri huyện. Cùng mắc một bệnh đọc sách
nên chúng tôi lần lần thân với nhau, nhưng chỉ
thân trong tình sách vở thôi.
Sách Trung Hoa thì mỗi tháng độ một lần, tôi
vào Chợ Lớn, đường “Thuỷ Binh” (rue
de Marins nay
là đường Đồng Khánh, sau 30-4 đổi là Trần Hưng Đạo) mua.
Muốn tiết kiệm, tôi mua những sách rẻ tiền, in mờ,
nhiều lỗi, hoặc không có chú thích. Đó là
một lầm lớn: vừa tốn tiền, vừa mất thì giờ đọc. Cũng có một vài
nhà xuất bản đứng đắn, in những sách hay, không lỗi, có chú
thích, mà
tương đối rẻ tiền như Thương vụ ấn thư quán ở Thượng
Hải, nhưng thời đó tôi chưa biết. Tôi cũng không biết viết thư xin mục sách của
các nhà xuất bản lớn ở Trung Hoa, Pháp.
Tóm lại trên con đường tự học, tôi chẳng có chút hiểu
biết, kinh nghiệm nào cả, phương tiệnthật thiếu thốn,
tốn công nhiều mà kết quả rất ít. Vì nghĩ vậy mà sau
này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau sửa chữa, đổi nhan
đề là Tự học, một nhu cầu của thời đại) để hướng dẫn thanh niên
tránh những lỗi
lầm của tôi.
Khi thế chiến xảy ra, sách ngoại quốc không
vô được nữa, mỗi chủ nhật tôi lại một tiệm sách cũ ở đường Gia Long[2] và
mấy quán sách cũ ở trước Nhà hát Thành phố, thỉnh thoảng kiếm được một cuốn lí thú, như
cuốn Le Roman russe của E.M Vogué; nhưng không có sách Trung
Hoa. Ở những nơi đó gặp nhiều người ham đọc sách, nhưng tôi chỉ biết mặt họ chứkhông tìm cách làm
quen. Đó
cũng là một sở đoản của tôi: vì ít giao du nên
không học được kinh nghiệm của người.
Tôi vào hạng đọc sách chứ không chơi sách, không
mua những sách đẹp, quí, hiếm[3], muốn mua cũng không đủ
tiền, chỉ lựa những cuốn có ích hoặc tôi thích
thôi. Sau này, vào khoảng 1960, tôi thấy lối chơi sách khá đặc biệt: một độc
giả lại thăm tôi bảo bất kì tác phẩm nào của tôi ông cũng mua,
chẳng những vậy, cuốn nào tái bản mà tôi có thêm bớt, sửa chữa dù ít, cũng mua
đủ; như
vậy phải đọc các báo, phải đều đều lại tiệm sách để theo dõi sự xuất bản sách
của tôi. Dĩ
nhiên ông ấy để sách tôi vào một chỗ và không
cho ai mượn. Tôi lấy làm hân hạnh lắm nhưng nghĩ bụng có những cuốn tầm thường
thì giữ làm gì. Ông ấy chỉ lại chỗ tôi một lần đó thôi. Trong nước không biết
có được ba người như ông không. Từ đó tôi không gặp lại
ông, cũng không nhận được bức thư nào của ông. Tôi cũng vô tình không hỏi tính
danh, địa chỉ của ông nữa. Không biết hiện nay ông ở đâu mà tủ
sách của ông còn không?
Sách nào mua về, tôi
cũng đọc hết,
dù chán tôi cũng rán, để biết qua nội dung. Tôi biết nhiều người mua về, lật
coi qua rồi để đó, rất ít khi đọc, rồi lần sau lại mua thêm nữa,
số sách mỗi ngày một nhiều, số sách chưa đọc mỗi người một tăng
tới lúc quên không biết mình có những cuốn gì nữa. Đặc biệt nhất là một ông bạn
tôi, cử nhân luật, cứ ít tháng lại gởi mua một chồng sách ở Pháp, nhận
được sách ông xếp thật ngay ngắn trên một cái bàn gần đầu giường,rồi
ngắm nghía, một lát thiu thiu ngủ. Ngày nào cũng vậy, mà
không hề đọc
được mười trang. Mỗi cuốn ông chỉ coi cái bìa, trang có nhan đề và
bảng mục lục. Hễ gói sau ở Pháp tới, ông dẹp chồng sách cũ
đi mà bắt đầu
ngắm chồng sách mới.
Kiểu chơi sách này thật kỳ cục.
Tôi coi sách chỉ là một phương tiện để học,
để tra cứu. Khi đọc tôi luôn luôn có một câyviết chì để đánh dấu
những chỗ đáng nhớ, hoặc có thể dùng tới sau này; cuốn
nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng cùng số trang lên
mấy trang trắng (page de garde) ở đầu sách.
Trước năm 1950, tôi không có ý chuyên viết
sách, sống về nghề văn, càng không có ý khảo cứu, mà số sách trong
nhà lại ít, độ năm trăm cuốn trở lại, cho nên
tôi thấy không cần phải làm thẻ cho mỗi cuốn, cũng không cần đóng tủ riêng để
chứa. Tôi chỉ có mỗi cái tủ nhỏ cao độ một thước, bề ngang độ nửa
thước, bề sâu độ bốn tấc, với một cái giỏ
mây lớn bằng cái rương, mua ở Chợ Cũ. Những sách có giá trị tôi sắp vào trong
tủ, còn bao nhiêu cho cả vào trong giỏ mây. Về sau sách mỗi ngày mỗi nhiều, tới
ba ngàn cuốn, mới thấy bất tiện vì không có thẻ cho mỗi cuốn; nhưng
lúc đó tôi bận công việc viết lách, không thể bỏ ra vài ba tháng để làm thẻ, mà
cũng không thể nhờ ai được, nên đành để như cũ. Tuy nhiên, sách
nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng loại, không cho ai mượn cả; vợ
con muốn coi cũng phải hỏi tôi. Có những cuốn cả năm tôi không dùng tới, nhưng
bất thần tôi chỉ cần tra trong mươi phút thôi mà kiếm không ra thì bực lắm; có
cuốn mất rồi, không sao mua được nữa, dù có cả ngànvàng[4]. Như
vậy sách đối với tôi hơn cái cày đối với người làm ruộng, cái búa cái đe đối
với thợ rèn, cho nên không cho mượn được. Tôi
phải nhắc đi nhắc lại với người nhà như vậy, và
phải nhiều năm họ mới hiểu được.
Những sách tôi đã đọc rồi mà cho là không
quan trọng, hoặc không dùng tới nữa thì tôi để riêng, nhưng cũng sắp sơ sơ vào từng loại.
MUỐN HIỂU RÕ MỘT NGOẠI
NGỮ THÌ PHẢI DỊCH
Đó là việc về sau, chứ trước năm 1945, tôi không có chương trình
vì chưa có chủ đích viết sách, chưa có hướng đi.
Như trên tôi đã viết,
tôi đọc sách chỉ để tiêu khiển và vì tò mò, nhân đó mà học thêm. Môn tôi muốn
học thêm làm môn chữ Hán, đạo Khổng và văn thơ Trung Hoa. Năm 1938-1939, tôi đã
lem nhem đọc được vài cuốn cổ văn dễ dễ và vài cuốn Bạch
thoại, mười phần hiểu được sáu bảy. Học một ngoại ngữ, khi còn “ba chớp ba
nhoáng” như người miền Nam nói, thì đọc sách ai cũng mắc cái lỗi tưởng mình
hiểu rồi mà thực ra là chưa hiểu. Muốn kiểm soát sự hiểu biết của mình, muốn
hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt. Khi dịch, bắt buộc ta phải tra tự
điển; câu nào dịch rồi mà ý nghĩa không xuôi, có điểm nào vô lí hoặc
mâu thuẫn với một số câu ở trên thì bắt buộc
ta phải soát lại xem mình dịch sai ở chỗ nào, phải tra tự điển lại,
suy nghĩ, lí luận,
tìm xem
dịch sai ở đâu. Dù cẩn thận tới mấy cũng
có chỗ saisót, vì
mình không ngờ. Cái khổ tâm của người tự học là ở
đó. Tục ngữ có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Tôi không có thầy - vì
không ở gần bác tôi mà hỏi thường được - lại
không có sách hướng dẫn, toàn là tự mò lấy, cho nên mệt sức
lắm mà sở học có nhiều khuyết điểm.
Để học Bạch thoại, tôi
tập dịch Nam du tạp ức và bài Tam bất hủ trong tập Văn
tuyển, cả hai đều của Hồ Thích. Văn Hồ Thích
giản dị, minh bạch, nên tôi dịch không sai lắm. Tập trên
chép những điều Hồ Thích mắt thấy tai nghe khi ông đi từ Thượng Hải xuống chơi
Quảng Tây theo lời mời của các nhà cầm quyền Quảng Tây: Lí Tôn
Nhan, Bạch Sùng
Hi…
Hồ khen cảnh thịnh trị của Quảng Tây, trên dưới thân với nhau,
trên làm gương cho dưới, cần kiệm và giản dị, dưới kính
yêu trên; Hồ lại tả phong cảnh rất đẹp ở Quảng Tây, chép
một số bài dân ca nữa. Bản dịch đó tôi còn giữ.
Bài Tam bất hủ là một áng
văn hay của Hồ Thích,
sau đó tôi cho in vào phần Phụ lục cuốnNghệ thuật nói trước công chúng.
Trong tập Hồ Thích văn tuyển, ngoài bài đó ra còn haitruyện
ngắn nhưng không hay, kém xa truyện ngắn của Lỗ Tấn nên tôi không dịch.
Đọc cổ văn Trung Quốc tôi dùng bộ Cổ
văn quan chỉ. Nhờ có lời chú thích và
bản dịch ra bạch thoại nên tôi mò lần cũng ra. Và tôi cũng dịch độ một trăm bài
ra tiếng Việt, không phải để tập dịch mà để học, cho nên bản dịch
đó sau này bỏ,
không dùng. Công việc thật mệt, mỗi ngày tôi dịch được một bài thôi.
Nhờ dịch mà tôi thấy được cái hay của cổ văn: bài nào bố cục cũng kĩ,
mở thường đột ngột mà kết thường gọn, mạnh; ý nhiều khi khoáng đạt, có chút
triết lí mà
lời thì
gọn, hàm súc, du dương. Sau này mỗi khi muốn có
cái cảm giác nhẹ nhàng của người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên
ngọn đồi thì cứ phải lật bộ cổ văn ra, chứ không tìm được
trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Cho tới bây giờ, tôi
vẫn cho những bài Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, Hĩ vũ
đình kí của
Tô Đông Pha, Tuý ông đình kí của Âu Dương
Tu, Lan Đình tập tự của
Vương Hi Chi, Nhạc
Dương lâu kí của Phạm Trọng Yêm… là những viên
ngọc nhỏ trong văn học Trung Hoa.
Tôi thích quá, mua
một bộ tặng ông bạn Pháp lai, Paul Schneider[5], lúc
đó mới bắt đầu học chữ Hán; và mới rồi ở Pháp ông viết
thư cho tôi bảo thỉnh thoảng vẫn mở bộ đó ra
đọc lại. Ông đã dịch một số thơ Việt Nam ra
tiếng Pháp và đương
nghiên cứu về chữ Nôm, hiện đã xuất bản được vài cuốn có giá trị về
thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ở trung học tôi không được học cách luyện
văn, viết một bài luận cho có nghệ thuật; đọc cổ văn tôi mới tìm được nghệ
thuật của cổ nhân, và tôi bất giác bắt chước các viết của cổ nhân.Trong
mấy năm đầu thế chiến, tôi tập viết mười bài tuỳ bút, và
trên mười bài luận về cácnhân vật lịch sử như: Hồ
Quý Li,
Trần Danh Án, Anh em Tây Sơn… Một số bài được bác
Ba tôi bảo đáng được “bình”, riêng bài Hương và Sắc, bác tôi phê
“ưu” với hàng chữ: “Hạ bút thành văn, bút cũng thơm”. Bài này
tôi đã cho in vào tập Hương sắc trong vườn văn(1961). Đa
số những bài khác gần đây đọc lại tôi không vừa ý vì lí luận
thiên lệch, quá bất công với cổ nhân, có
giọng một hủ Nho, không chịu hiểu hoàn cảnh, tâm lí người
xưa mà cứ
đưa đạo lí ra
để bắt bẻ. Tật đó tôi lây của cổ nhân nhưng đã biết sớm bỏ.
Về Triết học Trung
Quốc, tôi chỉ đọc được bộ Tứ thư, Chu Hi chú
giải; tôi không có bản dịch ra Việt văn và bộ giúp tôi nhiều
nhất là bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim. Tôi cũng mua những
cuốn Lão Tử, Mặc Tử của Ngô Tất Tố (Mai Lĩnh xuất
bản).
Tôi mừng khi kiếm được những cuốn về Văn
học sử Trung Quốc như: Trung Quốc văn nghệ tư trào
sử lược của Chu Duy Chi, Trung Quốc
văn học sử đại cương của Dương Triệu Tổ[6], Tân
trứ Trung
Quốc văn học sử của Hồ Vân
Dực[7], Bạch
thoại văn học sử của Hồ Thích, Histoire de la litérature
chinoise của Margouliès, La Littérature chinoise của
O.Kaltenmark Ghéquier.
Nhờ những cuốn đó mà tôi thoả mãn được lòng
tò mò của tôi khi học chữ Hán với bác Hai tôi vì
sách Việt chưa có cuốn nào viết về văn học Trung Quốc cả, trừ cuốn Hán
văn khảoquá sơ lược của Phan Kế Bính.
Đọc những sách chữ Hán kể trên, mới đầu tôi
hiểu được ít thôi vì sách không có chú thích; mà
đọc hai cuốn chữ Pháp thì không cuốn nào in chữ Hán,
chỉ phiên âm ra tiếng Pháp, lối này tôi chưa quen, không sao nhận
ra được tên người và tên tác phẩm chữ Hán, nên hết hứng thú.
Nhưng lần lần rồi cũng quen và hiểu được gần hết.
DỊCH SÁCH
Cũng vào khoảng đầu thế chiến, một
số nhà văn ở Hà Nội đã bàn đến giáo dục như Vũ Đình Hoè trên tờ Thanh
Nghị, Thái Phỉ trong cuốn Một nền giáo dục
Việt Nam mới.
Tôi quan tâm ngay đến vấn đề đó vì hồi ấy con
tôi đã được
vài tuổi. Một người bạn cho tôi mượn cuốn L’Éducation des sentiment của
P. Félix Thomas, được giải thưởng của Học viện Luân lí -
Chính trị ở Pháp.
Khi phân tích một tình cảm nào, tác giả
cũng xét qua lại hết thảy những thuyết của
các triết gia cổ kim, rồi dùng những kinh nghiệm, những hiểu
biết của ông về trẻ em – ông là một nhà giáo dục – để xét những thuyết đó chỗ
nào sai, chỗ nào đúng, rồi bày tỏ chủ trương của mình, chủ trương này có tính
cách trung dung, không quá thiên về trí dục – và khuyên ta cách thực hành ra
sao trong sự giáo dục trẻ.
Lòng yêu trẻ của ông thật nồng nàn, nên văn
ông có nhiều chỗ cảm động, chỗ nào cũng sáng sủa, có khi hoa mĩ,
đọc rất thú. Cho nên tôi hăng hái dịch ngay, chỉ lược
dịch thôi, có chỗ tóm tắt đại ý, chỉ cốt sao không phản ý tác giả là được. Tuy
nhiên, những
đoạn hay tôi đều dịch sát, không bỏ một câu, cốt lột được nghệ thuật viết của
tác giả. Nhờ vậy bản dịch đầu tay đó[8] được
anh em trong nhà đều khen là trôi chảy, sáng sủa mà có văn chương.
Về sau tôi giữ lối đó khi dịch những sách trong loại Học làm người.
Tôi còn dịch một chương trong cuốn Un
Art de vivre của A. Maurois nhưng không nhớ chương nào vì không giữ
được bản thảo.
Năm 1944, tôi không thoả mãn về cuốn Một
nền giáo dục Việt Nam mới của Thái Phỉ nên viết một cuốn
khác dày khoảng trăm rưỡi trang đánh máy, mới đưa cho bác Ba tôi
và thi sĩ Việt Châu (con trai thứ của bác tôi) coi, rồi sau thất
lạc trong Đồng Tháp Mười, hồi tản cư năm 1946. Tôi không nhớ tên tác phẩm đó nữa.
Thời đó tôi viết bản nháp trong những vở học trò 100 trang, xong rồi mới sửa
lại và chép tay trên giấy đánh máy, chép một mặt thôi mà cũng chỉ chép một bản
vì khan giấy. Thời chiến tranh, các nhà máy giấy trong nước chỉ sản xuất được một
thứ giấy rất xấu, đen, dày, một mặt láng, một mặt nhám; rồi sau thứ giấy đó
cũng hiếm, các nhà xuất bản phải dùng thứ giấy bản của làng Bưởi (gần Hà Nội).
*
Làm ở sở Thuỷ lợi, tôi có dịp đi kinh lí nhiều
nơi, được biết, thác Khône ở Lào, Đồng Tháp Mười, Long Hải, thác Trị
An, Đế Thiên Đế Thích (1943). Thấy cảnh nào đẹp
tôi đều chép
vào nhật kí hay
du kí.
Tôi tiếc không giữ được nhật kí thác
Khône, nay chỉ nhớ đại khái. Sở phái tôi đi lên đó để đo lưu lượng
(débit) sông Cửu Long cuối mùa nắng, lúc mực nước thấp nhất. Từ Sài Gòn, chúng tôi
đi xe hơi của sở hai ngày mới tới, làm việc ba ngày rồi về.
Không phải chỉ có một cái thác mà có
tới sáu
bảy cái nằm ngang một dãy. Ở đó lòng sông toàn
đá nổi lên ngăn dòng nước, nước sông ứ lại ở phía trên rồi trút xuống thành
thác, cái cao nhất có thể tới chục thước. Vì là mùa cạn nên nước không chảy
xiết lắm,
nhưng tiếngnước ầm
ầm dội cũng rất xa. Bên bờ sông là những ngọn núi cao, đầy
cổ thụ, cảnh thật hoang du. Có một đường xe lửa nhỏ dài bảy cây số nối quãng
trên với quãng dưới thác. Tàu thuỷ Luang Prabang xuống phải ngừng ở quãng trên,
chuyển hành khách và hàng hoá lên xe lửa để xuống quãng dưới, từ
đây có tàu khác đón để đưa xuống Nam Vang.
Khône có một nhà bưu điện và một nhà
thương, một sở Hiến binh, vài biệt thự cho công chức, còn
toàn là nhà sàn bằng gỗ, lá của người Lào. Có mỗi một cái quán của Hoa kiều[9]bán
sữa, cà phê và vài thứ bánh ngọt. Cảnh rất buồn.
Một nhân viên công chánh ở đó, coi
đường xe lửa mời tôi về nhà thầy ta ở và tổ chức một buổi nhạc của người Lào
cho tôi xem. Có hơn một chục người Lào lại nghe, họ ngồi xổm cả xuống sàn, bà
già cũng nhai trầu như mình, thiếu nữ thì không. Họ gầy, yếu, đen đủi, y phục
xấu xí - không
có chiếc xà rông nào rực rỡ cả - khác xa hình ảnh các phù sảo xinh
tươi, tình tứ trong các tiểu thuyết Pháp tả xứ Lào. Chủ nhà bảo tôi muốn thấy mĩ nhân
Lào thì phải lên phía Bắc, ở Vientiane, Luang Prabang. Tiếng khèn (một thứ sáo
có nhiều ống) không réo rắt mà cứ đều đều một điệu buồn buồn, giọng hát cũng
không hay, tôi chỉ nghe một lát là chán.
Tối hôm sau, chủ nhân dắt tôi đi
coi “bun” ở một ngôi chùa. Chùa nhỏ, rất ít tượng Phật. Một ông Lục
ngồi trên cao, độ hai chục thanh niên nam nữ Lào tay cầm cây nến đỏ nhỏ, nối
nhau chạy theo một vòng tròn trước mặt ông Lục. Ông như nhập định,
không hề nhúc nhích. Đứng coi độ mười phút rồi tôi ra về. Tôi nghĩ mỗi năm lên
bờ thác Khône độ vài tháng viết sách thì thú, ở lâu chắc chịu
không nổi.
Khi về Sài Gòn, ngoài cảnh thác hùng vĩ,
tôi chỉ còn giữ
được vài hình ảnh này: một đám thiếu nữ Lào để
cả xà rông tắm, lội trên dòng sông, khi tà dương gần
tắt chỉ còn ít
ánh vàng trên ngọn cây rừng.
Như trên tôi đã nói, bác Ba tôi từ năm 1913 hay 1914,
phải lẻn về làng Tân Thạnh ở ven
Đồng Tháp Mười để tránh bọn mật thám Sài Gòn, rồi sau lập nghiệp ở
đón nên biết được cảnh hoang vu của Đồng
Tháp hồi đầu thế kỉ, kể cho tôi nghe nhiều chuyện về dân
tình, lối sống, thổ sản miền đó; sau tôi lại đi đo trong Đồng Tháp một thời
gian, rồi đi kinh lí nhiều lần từ Hồng Ngự tới Tân
An; về Sài Gòn tôi đọc thêm được nhiều tài liệu của sở Thuỷ lợi, mua được
cuốn La Plaine des Jonc[10] của
V. Delahaye, nhờ vậy tôi biết được khá nhiều về Đồng Tháp.
Sau khi nhận lời anh Vũ Đình Hoè viết giúp
tờ Thanh Nghị, tôi khảo cứu thêm
các cuốn sử, địa phương chí, các số báo Courrier de Saigon năm
1865-1866,
đọc tất cả những gì liên quan đến Đồng Tháp để viết cuốn Bảy ngày trong
Đồng Tháp Mười, nhưng sau sáu bảy tháng viết xong
thì sở Bưu Điện Sài Gòn không còn nhận
đồ bảo đảm ra Hà Nội nữa vì đường giao thông trắc trở, tôi đành cất bản thảo đi,
đợi một cơ
hội khác. Cuốn đó tôi viết công phu, nhưng sau bản thảo mất
ngay trong Đồng Tháp Mười hồi tôi tản cư về đó, năm
1946. Tôi rất tiếc, và tám năm sau tôi phải viết lại. Tôi
sẽ trở lại việc này trong một chươngkhác.
Nhưng thích nhất là cuộc du lịch Đế Thiên Đế
Thích. Năm 1943, viên kĩ sư thấy tôi làm việc đắc lực, tạo cơ
hội cho tôi đi kinh lí ở ngay trong vùng có những cổ
tích hoang tàn của Cao Miên đó mà có người gọi là “kì quan
thứ tám của thế giới”.
Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi
lên xe đò đi Nam Vang. Ở Nam Vang một ngày coichùa Vàng, chùa
Bạc, làm vài việc cỏn con cho sở rồi năm giờ chiều lên xe đi Siemreap, khoảng
hai giờ khuya tới Siemreap. Hồi đó vào hạ tuần tháng giêng dương lịch
năm 1943, mùa tốt nhất để đi coi cảnh Đế Thiên Đế Thích vì trời rất trong,
không mưa và hơi có gió bấc, không khí không nóng lắm, đêm hơi lạnh.
Ở Siemreap, tôi ghé nhà anh Hách – anh đã
đổi lên trên đó
để xây một cái đập cho công cuộc thuỷ nông – và anh và hai bạn công
chánh nữa[11] đưa
tôi đi thăm các di tích hoang tàn.
Trong hai ngày, chúng tôi đi coi thành phố
Siemreap và một khu rừng chu vi trên ba chục cây số, chỗ nào cũng có phế tích. Không
thể đi coi hết được, chúng tôi chỉ thăm độ 15 ngôi đền lớn, nhỏ, kiến
trúc đẹp nhất và ba cái hồ, mà lại coi
vội vì không có đủ
thì giờ.
Trong suốt cuộc du
lịch đó, lòng tôi lúc nào cũng phơi phới, nhẹ nhàng, như
nghe một bản nhạc êm đềm. Cảnh thật thanh tĩnh, nên thơ, gây biết bao nỗi hoài
cảm. Tôi thích cảnh stung (sông) Siemreap dưới trăng với những cầu gỗ khom khom
có tay vịn, như
cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm nhưng dài hơn. Trăng vằng vặc[12] chiếu
qua cành lá thưa, lấp lánh trên một dòng nước con con - mùa
này nước stung cạn – thỉnh thoảng có mùi hương
dịu và tí tách có tiếng nước nhỏ giọt từ các guồng nước – thứ
guồng dùng ở Quảng Nam – cứ đều đều, chậm chạp quay, như gạn từng giọt nước pha
lê vào những máng nước dài đưa vào vườn hoa củacác biệt thự trên bờ.
Tôi mê cảnh đền Bayon mà Doudart de Lagrée
bảo là “thần tiên lạ lùng”, với 50 ngọntháp[13],
43 đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt, mặt nào cũng có nụ cười hiền từ, khoan hoà, bí
mật.
Đền Angkor Vat dưới ánh nắng tà dương làm
tôi xúc động mạnh. Khi qua cái hào rộng trên 200 thước mà
lục bình như muốn giữ mây chiều lại, vừa bước tới cửa Tây
thì đền hiện lên, đè nặng lên tâm hồn tôi. Tôi thấy ngộp gấp mấy lần khi đi thăm đền Hùng
ở Phú Thọ. Ở đây, kiến trúc Miên đã đạt tới tuyệt đỉnh: hàng
triệu phiến đá hợp thành một khối cân đối, rất hài hoà để diễn
một ý tưởng vừa hùng vừa diễm.
Nhưng hợp với tâm hồn tôi nhất là đền Ta
Phrom, kiến trúc khác hẳn các đền kia, không cao, không đồ sộ mà trải rộng ra
trong một khu rừng, và ở sâu trong rừng, có một lối đi
lát đá dài 500 thước đưa vào. Chỉ riêng đền này còn giữ vẻ hoang vu. Trường
Viễn Đông Bác Cổ đã có sáng kiến lựa nơi đây mà bảo tồn cảnh thiên nhiên để ta
được hưởng cái cảm giác rùng rợn của các nhà thám hiểm thời trước.
“Ở đây mới thực
là cảnh hoang tàn. Ở đây ta mới thấy sự chiến đấu giữa cây và đá, giữa loài
người và hoá công. Có những rễ cây lớn mấy tấc, dài hàng chục thước, uốn khúc
ôm lấy bệ của toà đền và nổi gân lên như muốn vặn cho nó đổ mới chịu được.
Có cây lại ngạo nghễngồi xếp bằng trên một
toà khác, ung dung thả hàng trăm rễ xuống, như hàng trăm tay của loài bạch
tuộc, ghì chặt lấy mồi của mình, không cho nó cựa rồi hút dần tinh tuý của nó,
cho thịt nó rã, xương nó tan, mà hiện nay ngôi đền cũng đã gần tan
gần rã. Có cây độc ác hơn, đâm một rễ lớn từ đỉnh đền xuống như cắm lưỡi gươm
vào đầu quân thù”.
Mấy chục năm nay, tôi vẫn ao ước chiến
tranh trên bán đảo chữ S này chấm dứt, sẽ đi thăm lại Đế Thiên Đế Thích, cũng
như tất cả cảnh đẹp ở Việt Nam, nhưng nay không còn hy vọng gì nữa.
Về Sài Gòn, tôi chép ngay lại cảm tưởng khi
du lịch, sợ
để lâu quên mất, và trong khi viết tôi được sống lại những
lúc vui đã qua, như được du lịch lần thứ hai. Khoảng giữa tháng hai năm 1943,
tôi hoàn thành tập du kí Đế Thiên Đế Thích.
Tập này viết cũng rất kĩ.
Ngoài những cuộc kinh lí kể
trên, tôi còn thường xin nghỉ mỗi năm nửa tháng hay một tháng để về thăm quê
hương hoặc đi thăm ông nhạc tôi ở Tuy Hoà, nhân tiện ghé thăm Nha Trang, Quy
Nhơn. Chính trong những chuyến nghỉ đó mà tôi được thấy cảnh đẹp mê hồn của
miền duyên hải Trung Việt. Và lần nào về nhà tôi cũng ghi vội lại,
định cứ mỗi năm đi tiếp một quãng: Quy Nhơn – Tourane, Tourane – Huế, Huế -
Nghệ An, Nghệ An – Thái Bình[14],
khi nào đi hết bờ biển Trung Việt sẽ viết một cuốn nhan đề là Trên con
đường thiên lí tả những cảnh đẹp, những cổ tích,
phong tục trên dãy đất đó của Việt Nam; cuốn đó sẽ là cuốn tôi
viết say mê nhất và sẽ là tác phẩm chính của tôi. Nhưng tôi chỉ mới ra được tới
Quy Nhơn thì thế chiến đã nổ, không có dịp tiếp tục đi nốt những
chặng sau; và tôi chỉ ghi vội được bốn tập -mỗi tập ba bốn chục trang
nhỏ: Về Bắc lần đầu, Về Bắc lần nhì, Về Bắc lần
ba và Nha
Trang – Tuy Hoà – Quy Nhơn.
Cũng may mà các tập
đó không thất lạc và tôi đã trích được ít đoạn tả
cảnh đèo Cả, đèo Hải
Vân, Đại Lãnh, Lăng Cô,
toàn thể thành phố Nha Trang, sửa lại rồi đưa vào chương trên.
Viết xong tập nào tôi cũng đưa
bác Ba tôi đọc.
Bác tôi rất khen tập Bảy ngày trong Đồng
Tháp Mười, Đế Thiên
Đế Thích và
tập trong đó tôi đưa ra một chính
sách giáo
dục cho nước
nhà, khen
tôi có tài viết văn và văn của tôi hơi chịu ảnh hưởng
của cổ văn Trung Quốc. Người cho tôi hai
câu đối:
----“Sơn thủy kì tung du thị học,
----Văn chương diệu phẩm thực nhi hoa”.
Nghĩa:
----Những nơi sơn thủy kì dị, đi chơi tức là học đấy,
----Văn chương diệu phẩm thì thành thực mà hoa mĩ.
--- “Học bản tu thân, thân tức quốc,
----Nhân năng bạt tục, tục nhi tiên”.
Nghĩa:
----Học gốc ở tu thân, thân mình tức là nước,
----Có tư cách bạt tục, tuy tục mà tiên.
Tôi cũng đưa ba tập đó cho thi sĩ Việt Châu coi - lúc đó anh giữ
mục phụ trương văn thơ của một tờ nhật báo (tôi quên tên) do Bùi Thế Mĩ làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút. Việt Châu bảo tôi nên xuất bản hoặc đăng báo đi; tôi đáp:
“Để thủng thẳng, gấp gì”.
Tôi tin rằng ba tác phẩm đó với bản dịch cuốn Huấn luyện
tình cảm không kém một tác phẩm nào đã xuất bản trong loại của chúng,
nên lúc nào in cũng được, đợi chiến tranh kết thúc rồi, kinh tế thịnh vượng
lên, in sẽ có lợi hơn.
BẢN THẢO VIẾT TỪ NĂM
1937 ĐẾN NĂM 1945
Tính lại thì trong những năm ở Sài Gòn - từ
1937 đến 1945 - tôi đã tự học mà biết thêm một ít chữ
Hán, một ít văn học và triết học Trung Quốc; và đã viết được trên ngàn trang,
mục đích chỉ là để tiêu khiển, tự học, chưa có ý xuất bản, tuyệt nhiên không
phải vì lợi hay vì danh. Viết để tiêu khiển thì tất nhiên chưa có chủ trương,
đường lối rõ rệt, thích cái gì viết cái đó, tuỳ hứng. Tuy nhiên cũng đã có xu
hướng: tôi không làm thơ, không viết tiểu thuyết mà thích loại kí (du
kí,
hồi kí),
nghị luận, cảo luận, tuỳ bút, và chú ý tới các vấn đề giáo dụcvà văn
học. Nhưng
chưa có ý bước vào khu vực biên khảo. Hồi đó tôi trên dưới ba mươi tuổi, sự
hiểu biết còn hẹp, lí luận chưa vững, nhưng nhận định không
đến nỗi hời hợt, mà bút pháp đã định rồi: văn cần sáng sủa, bình dị, nếu hơi
hoa mĩ thì
càng quí,
cần nhất là xúc cảm phải chân thành; những
nét đó sau này tôi vẫn giữ, nhờ vậy mà độc giả thích tác phẩm của tôi.
Đến năm 1945, tôi đã có được khoảng chục
bản thảo.
Không kể những tập Hồi kí tuổi
xuân (viết từ hồi đi đo đất ở Hậu
Giang), Ba lần về Bắc(năm 1940, 1943, 1944),
tập Du Kí Nha Trang – Qui Nhơn,
tập dịch Cổ văn Trung Quốc, tập Tuỳ bút, Cảo
luận, tất cả đều viết xong rồi
không sửa lại, chỉ coi như những tài
liệu; còn
sáu tập nữa:
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (mất)
- Đế Thiên Đế Thích
- Bàn về giáo dục (mất)
- Huấn luyện tình cảm,
dịch P. F. Thomas
- Nam du tạp ức,
dịch Hồ Thích
- Dịch văn nước ngoài, dịch
A. Maurois và bài Tam bất hủ của Hồ Thích tôi đều
sửa chữakĩ lưỡng định
sau sẽ in, nhưng bản thảo Đồng Tháp Mười, bàn về giáo
dục, dịch A.
Maurois đã thất lạc trong hồi tản cư.
Trong số những bản còn lại, năm 191, nhà xuất bản P.
Văn Tươi in tập Huấn luyện tình cảm, năm 1968 nhà Thời Mới in
tập Đế Thiên Đế Thích; bài Tam bất hủ của Hồ Thích tôi
cho vô phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng (P. Văn
Tươi, 1951),
tập Nam du tạp ức để lâu quá, mất thời gian tính, tôi bỏ không dùng;
còn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tới năm
1954 tôi phải viết lại và xuất bản ngay năm
đó.
Hồi đó tôi nghĩ rằng sẽ làm công chức tới khi về hưu, rãnh và có
hứng thì viết, nếu về già góp với đời được độ mươi cuốn cũng là nhiều rồi.
Nhưng rồi do thời cuộc biến chuyển, mùa thu năm 1945 tôi bỏ luôn nghề công
chánh mà sống về nghề cầm bút và số tác phẩm ba chục năm sau gấp mười số tôi dự
tính. Điều đó mẹ tôi, các bác tôi và chính tôi nữa cũng không sao ngờ được. Tới
nay tôi cũng không biết cuộc đời của tôi, mấy phần do tôi quyết định, mấy phần
do hoàn cành, thời thế xui khiến. Tôi cho rằng dù cho thời thế đưa đẩy thì vẫn
phải có ý chí của con người.
[1] Cuối chương XV và trong chương XVI, cụ Nguyễn Hiến Lê cho
biết: ngày 10.10.1945 (tức ngày mùng 5 tháng 9 năm Ất
Dậu), cụ NHL rời căn nhà số 50 đường Morceau Sài Gòn tản cư về Tân Thạnh. Cụ ở
Tân Thạnh khoảng một năm rưỡi, trải qua hai cái Tết: Tết Bính Tuất (1946) và
Tết Đinh Hợi (1947). Cụ bảo: “Tết trước, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui, làm
đôi câu đối này: Trị ái thư…”. Ta có thể suy ra rằng: “Tết trước,
mới về Tân Thạnh” là Tết năm Bính Tuất, và nếu cụ làm đối câu đối đó vào ngày
mồng một Tết thì ngày dương lịch là 2.2.1946. (Goldfish).
[3] Trong ĐVVCT, trang 38, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: Tôi
vào hạng đọc sách chứ không chơi sách như ông Vương Hồng Sển: không
mua những sách đẹp, quí, hiếm…”. (Goldfish).
[7] Trong ĐVVCT, tr.44, in là: Hồ Văn Dực. Trong Đại
cương văn học sử Trung Quốc(Nxb Trẻ - 1997) chỗ thì in Hồ Văn Dực,
chỗ thì in Hồ Vân Dực. Theo bác Vvn thì tác giả cuốn Tân
trước Trung Quốc văn học sử 新著中国文学史 (Bắc Tân thư cục ấn hành tháng 8-1936)
là Hồ Vân Dực 胡云翼. (Goldfish).
[8] Bản dịch có nhan đề là Luyện tình cảm (Nxb
Nguyễn Hiến Lê, năm 1951). Cụ NHL cho biết: “Cuốn này là cuốn tôi dịch trước
hết, từ năm 1941, mười năm sau mới in” (Theo NHL,Mười câu chuyện văn chương).
(Goldfish).
[9] Trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cụ NHL
cho biết người “Huê kiều” đó là người Triều Châu. (Goldfish).
[10] Tức Đồng cỏ lác. Theo cụ NHL thì, ở Đồng Tháp,
“Đất chỗ nào có nhiều phèn thì chỉ thấy mọc nhiều năng, bàng, lác và đưng, tức
những loại cỏ mà người Pháp gọi là Joncs, cho nên cánh đồng này mới có tên là
Plaine des Joncs” (trích Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười).
(Goldfish).
[11] Trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL cho
biết hai người bạn này là “anh Th.” và “anh T.”. Lúc ở Siemreap cụ “vào hỏi mua
cuốn Guide Groslier mà không có, đành mượn của anh T.”. Tôi
không hiểu tại sao cụ NHL đã “mang theo cuốn Guide Groslier rồi
lên xe đò đi Nam Vang” mà còn tìm mua cuốn đó, và khi mua không được thì đành
mượn của anh T.? Phải chăng khi cụ viết bộ Hồi Kí này cụ đã
nhớ lầm? (Goldfish).
[12] Trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL cho biết
rời Sài Gòn ngày 21.1.1943. Tính ra ngày âm lịch là ngày 16 tháng chạp năm Nhâm
Ngọ. (Goldfish).
Chương XIV
VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ ĐẾN THẾ CHIẾN THỨ NHÌ
Trong chương này tôi ghi lại sơ lược những
biến cố lớn và tình hình xã hội Việt Nam. Tôi không bao giờ có ý viết sử
nên không thu thập tài liệu; lại thêm một số sách rất ít ỏi tôi có được thì
trong mấy năm nay, do thời cuộc phải dời chỗ hoài, gởi người này, tặng người
khác, thất lạc gần hết, bây giờ có muốn tìm lại để tra cứu cũng không được. Vì
vậy tôi đành nhớ tới đâu, chép tới đấy, chắc chắn là còn thiếu sót, lầm lẫn
nhiều, nhưng về xu hướng và những nét chính thì may ra không đến nỗi sai lắm.
*
A. CHÍNH TRỊ
PHONG TRÀO CHỐNG PHÁP
Đầu cuốn Đông Kinh nghĩa thục, tôi
đã nói cuối thế kỉ trước, các cuộc khởi nghĩa nối nhau tan rã gần hết.
Năm 1887, nghĩa quân ở Bình Định, Phú Yên bị
Trần Bá Lộc dẹp, Mai Xuân Thưởng bị hành hình. Tám năm sau Phan Đình Phùng bị
bệnh lị mất ở Hà Tĩnh; Nguyễn Thân đem hỏa thiêu thây của người, trộn với tro
vào thuốc súng bắn ra biển. Hai năm sau nữa, tiếng súng im hẳn ở Bãi Sậy,
Nguyễn Thiện Thuật lẻn qua Trung Hoa. Đầu năm sau nữa, Đề Thám trá hàng ở Nhã Nam.
Nhưng cứ lớp trước tàn thì lớp sau lại dậy, tinh thần bất khuất của dân tộc ta
không khi nào tắt. Năm 1903 hay 1904, Phan Bội Châu viết cuốn Lưu Cầu
huyết lệ tân thư, tả cái nhục mất nước và tuyên bố phải mở mang dân khí làm
nền tảng cứu quốc, rồi thành lập hội Duy Tân. Chủ trương của cụ đã
hơi khác các nhà cách mạng trước: không tự lực hoạt động trong khu vực nhỏ,
muốn thống nhất các hoạt động rời rạc, gây một phong trào toàn dân và sự viện
trợ của ngoại quốc để hoặc động cho đắc lực.
Cuối năm 1904, ba cụ Phan Chu Trinh, Trần Quí
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau chu du mấy tỉnh miền Nam Trung Việt để cảnh tỉnh
đồng bào. Trong dịp đó, cụ Phan Chu Trinh làm bài thơ bất hủ Chí thành
thông thánh.
Phong trào Duy tân nổi lên mạnh mẽ những năm
1906- 1908. Có ảnh hướng lớn nhất là phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Bắc do
cụ Lương Văn Can khởi xướng. Nghĩa thục bị Pháp đóng cửa sau một năm hoạt động
(1907), một số nhà cách mạng bị đày Côn đảo, rồi bị an trí ở Nam việt (cụ Lương
bị an trí ở Nam Vang); nhưng chỉ trong một năm đó, các cụ đã gây được tiếng
vang khắp nước, đâu đâu cũng nghe thấy trẻ ê a vần Quốc ngữ và các bà mẹ ru con
bằng những bài ca ái quốc của nghĩa thục; hai chữ “khoa cử” bị các cụ “mài bỏ”
và rất nhiều nơi mở tiệm buôn, thành lập các công ti khuếch trương nông nghiệp,
công kĩ nghệ.
Cuối năm 1911, cụ Sào Nam (Phan Bội Châu) qua
Trung Hoa, năm sau thành lập Việt Nam quang phục hội ở Quảng Châu, phát hành
thông dụng phiếu và quân dụng phiếu để mua khí giới định tấn công Pháp. Thế
chiến thứ nhất nổ, Đức giúp cho hội được một số tiền nhỏ. Các cụ vội vã hoạt
động liền, tấn công vài đồn nhỏ ở miền Lạng Sơn, thất bại.
Năm 1917, lại có cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên
do Lương Ngọc Quyến (con cụ Lương văn Can) và Trịnh Cấn (tức Đội Cấn) chỉ huy.
Cụ Lương Ngọc Quyến lúc đó bị giam trong ngục Thái Nguyên, bị Pháp dùi bàn chân
để buộc xích sắt, nên liệt hẳn một chân; mặc dầu vậy cụ vẫn liên lạc với viên
đội khố xanh Trịnh Cấn, bày mưu cho Trịnh Cấn khởi nghĩa, phá ngục chiếm đồn.
Nghĩa binh làm chủ được tỉnh lị Thái Nguyên dược một tuần (từ 30-8 đến 5-9),
dùng lá cờ năm ngôi sao làm quốc kì, đặt quốc hiệu là Đại Hùng đế quốc, công bố
hai bài tuyên ngôn với quốc dân; sau không chống nổi với Pháp, phải rút lui;
nhưng còn chống cự được tới cuối năm. Lương Ngọc Quyến vì liệt một chân, yêu
cầu Đội Cấn bắn một phát vào giữa ngực mình ngay ở Thái Nguyên (5-9); Đội Cấn
bị vây và bị thương ở Pháo Sơn, chung quanh chỉ còn bốn thủ hạ, tự bắn vào bụng
mà chết. Trong lịch sử cách mạng của dân tộc ta, hai cái chết đó cảm động và
oanh liệt vào bực nhất. Mà cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên cũng là cuộc duy nhất
trong thế chiến thứ nhất khiến Pháp phải lo ngại.
HAI CỤ PHAN
Cụ Tây Hồ (Phan Châu Trinh) qua Pháp từ năm
1911, chủ trương bất bạo động mà tranh đấu một cách công khai - bằng báo chí,
diễn thuyết - đòi Pháp thay đổi chính sách cai trị. Năm 1914, đầu thế chiến, cụ
bị Pháp giam, năm sau được thả. Năm 1922, khi Khải Định qua Pháp dự cuộc đấu
xảo quốc tế, cụ gởi cho ông ta một bức thư trách ông ta bảy điều, lời rất
nghiêm khắc nhưng xác đáng, mà hai điều quan trọng nhất là làm nhục quốc thể,
có điều ám muội trong việc bang giao với Pháp.
Năm 1925 cụ về nước, hăng hái diễn thuyết hô
hào dân chủ, mở mang dân trí, nhưng không được bao lâu thì mất vì bệnh ở Sài
Gòn (1926). Học sinh các trường trung học có tiếng Bắc, Trung, Nam để tang cụ,
có nơi bị đàn áp, gây ra vụ bãi khóa như ở trường Bưởi; nhiều người bị đuổi.
Năm 1924, nhà cách mạng Phạm Hồng Thái ném bom
giết hụt Toàn quyền Đông Dương Merlin ở Sa Điện (Quảng Châu) - rồi tự trầm ở
Châu Giang để khỏi bị địch bắt. Pháp căm tức, dò biết rằng vụ đó do đảng viên
Việt Nam quang phục hội nhúng tay vào, nên kết án Phan Bội Châu tử
hình vắng mặt và tìm mọi cách bắt cụ. Tháng 7 năm 1925 cụ bị bắt ở Trung Hoa,
giải về Hà Nội, xử cụ tội tử hình trong phiên tòa 23-11-1925. Nhưng khắp trong
nước, các đoàn thể, báo chí đều nổi lên mãnh liệt đòi ân xá cho cụ, và Toàn
quyền Pháp là Varenne khôn ngoan nhượng bộ, chỉ giam lỏng cụ tại Huế, xóm Bến
Ngự, bên bờ sông Hương. Từ đó cụ không hoạt động gì nữa rồi mất ngày 29-
11-1940. Trước khi mất cụ làm một bài thơ tự hỏi hoạt hoạt động của cụ trong
mấy chục năm là công hay tội. Để trả lời câu đó tôi viết bài Cụ Phan và
lòng dân in trong tập Kỉ niệm 100 năm năm sinh Phan Bội Châu (Trình
Bày, 12-1967) mà dưới đây tôi xin trích một đoạn:
“Tết năm đó, vào tháng giêng hay tháng hai
dương lịch 1926[1],
tin cụ Phan bị bắt ở Trung Hoa, giải về giam ở Hỏa Lò Hà Nội, bị kết án tử hình
rồi toàn dân sôi nổi đòi ân xá cho cụ, dân làng tôi đều biết hết. Chắc chắn họ
không đọc báo; có người nào đó xuống phủ, xuống tỉnh, nghe đồn rồi về làng kể
lại. Điều đó không có gì lạ. Điểm thích thú là trong mấy ngày Tết, lại nhà nào
cũng nghe la lớn: “Cụ Phan” rồi tiếp theo là một tràng những tiếng cười ròn rã
như tiếng pháo. Từ xóm Đình đến xóm Chùa, xóm Giếng tới xóm Đồng Đỗ, đâu đâu
cũng vang lên hai tiếng “Cụ Phan”.
Có gì đâu. Tết thì nhà nào ở quê Bắc chẳng
đánh tam cúc, và dân làng tôi gọi quân tướng điều là “Cụ Phan”. Một vài nhà hơi
có học phân biệt tướng điều là cụ Phan Bội Châu, tướng đen là cụ Phan Chu
Trinh, nhưng đại đa số chỉ gọi tướng điều là “Cụ Phan”.
Tôi không biết mấy làng bên cạnh có gọi như
vậy không (...), nhưng tôi đoán rằng đó không phải là sáng kiến của riêng làng
tôi, chắc nó phải đồng thời xuất hiện ở nhiều nơi, vì còn gì tự nhiên cho bằng
dùng con bài quí nhất, vô địch trong cỗ tam cúc để chỉ cụ Phan. Nó tự nhiên quá
nên rất phổ biến, tới nỗi ngay các tổng lí cũng vui vẻ, hãnh diện có được một
“Cụ Phan”. Và tôi nghĩ hồi đó giá có một tên “trành” nào bán nước mà ngồi vào
chiếu tam cúc, khi hạ quân tướng điều xuống chiếu thì tất cũng vỗ đùi một cái
mà cười ha hả: “Cụ Phan”.
Những ván bài tam cúc đó quả là vui, vui nhất
trong đời sống làng tôi”.
CÁC ĐẢNG PHÁI MỚI: VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG - ĐÔNG DƯƠNG
CỘNG SẢN ĐẢNG.
Từ 1925 trở về trước, hai cụ Phan tiêu biểu
cho tinh thần ái quốc Việt Nam. Từ 1925 trở đi, xuất hiện thêm nhiều đảng
phái mà người thành lập hầu hết ở trong giới tân học.
- Năm 1925 là đảng Tân Việt ở Trung Việt, đảng
viên phần đông là công chức và tiểu tư sản. Đảng chưa hoạt động được gì thì
phải giải tán.
- Hai năm sau, 1927, Nguyễn Thái Học, sinh
viên trường Cao đẳng Thương mãi Hà Nội, lập Việt Nam Quốc dân đảng ở Bắc. Đường
lối của đảng là dùng võ lực giành lại chủ quyền rồi thành lập chính thể Cộng
hòa. Đảng được nhiều giới gia nhập: công chức, tiểu tư sản, công nhân, thương
nhân, quân nhân, cả tổng lí, học sinh nữa[2];
lập được nhiều chi bộ, thâu nạp được nhiều đồng chí, rất có tiếng trong nước.
Đảng mới thực hành được vài vụ ám sát, như vụ
ám sát Pháp kiều Bazin, giám đốc sở mộ phu cho các đồn điền cao su Nam Việt và
Tân thế giới (Nouvelle Calédonie), thì do một tên phản đảng mà mật thám biết
được nhiều bí mật của đảng, thẳng tay đàn áp, truy nã.
Từ đó Nguyễn Thái Học càng phải hoạt động gấp,
mở cuộc tổng khởi nghĩa cùng một ngày ở nhiều nơi; nhưng vì tổ chức vội, có
nhiều nơi nhận được tin trễ hoặc chuẩn bị không kịp, thành thử thất bại. Trong
đêm 9, rạng ngày 10-2-1930, nghĩa quân chỉ tấn công được một đồn Yên Bái, giết
được khoảng mươi sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Sáng hôm sau, liệng được ít trái
tạc đạn ở Hà Nội.
Pháp phản ứng kịp và rất mạnh, dùng phi cơ
liệng bom xuống đồn Yên Bái, bắn liên thanh xuống thành phố và các làng chung
quanh; rồi 1ại thả bom san phẳng làng Cổ Am, cả ngàn người chết.
Nguyễn Thái Học lẩn tránh một thời gian, sau
bị bắt ở Hải Dương, bị kêu án tử hình và ngày 17-6-1930, tại Yên Bái, ông cùng
12 đồng chí yếu viên của đảng hiên ngang bước lên đoạn đầu đài, người nào cũng
hô lớn “Việt Nam” trước khi chết; khiến toàn dân vừa khâm phục, vừa xúc động,
có tiếng vang rất lớn ở Pháp.
- Đầu năm 1930, ông Nguyễn Ái Quốc thành lập ở
Hương Cảng một đảng nữa, đảng Cộng sản Đông Dương, và ngay mùa hè năm đó, mấy
ngàn bần nông Nghệ An nổi dậy, chiếm ruộng của điền chủ, chia nhau. Tới tháng
chín, sáu ngàn nông dân vì đói mà nổi dậy, tiến ra Vinh. Pháp đàn áp tàn nhẫn,
dùng phi cơ dội bom vào đám biểu tình, khiến một nữ kí giả Pháp, Andrée Viollis
phải phẫn uất, ghê tởm, về Pháp viết cuốn Indochine S.O.S.
Từ đó đảng Cộng sản thỉnh thoảng lại gây được
những cuộc biểu tình nhỏ, những cuộc đình công ở nhiều nơi trong nước: Hà Nội,
Hải Phòng, Hòn Gai, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cao Lãnh...
Về lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, và nhất là
vai trò của ông Nguyễn Ái Quốc (tên hồi trẻ là Nguyễn Tất Thành, và tên sau này
là Hồ Chí Minh), nhiều sách đã viết. Ai cũng biết không nhiều thì ít, ở đây tôi
không cần kể lại, chỉ xin nhấn rằng tất cả trong các cuộc cách mạng Việt Nam,
đảng Cộng sản có tổ chức chặt chẽ nhất, có đường lối, có chương trình hành động
rõ rệt, có nhà lãnh tụ sáng suốt, nhiều kinh nghiệm, được khắp thế giới biết
tiếng, nhờ vậy mà sau này thành công lớn.
Ngoài các đảng hoạt động bí mật kể trên, còn
những nhóm, đảng hoạt động công khai, nhóm được dân tín nhiệm nhất là nhóm La
Lutte (Tranh đấu) ở Nam Việt, mà ba kiện tướng là Tạ Thu Thâu, Nguyễn
An Ninh, Phan văn Hùm.
Họ đều đã du học ở Pháp, trong khi du học đã
hoạt động chính trị, sách động sinh viên Việt Nam biểu tình bênh vực cụ Phan
Bội Châu, phản đối vụ hành hình ở Yên Bái, rồi về nước hoạt động công khai, đòi
quyền lợi cho thợ thuyền, chống đế quốc thực dân, nhiều lần bị bắt giam. Nam
Việt là thuộc địa của Pháp, dân chúng được tự do hơn hai xứ Bắc và Trung; chế
độ báo chí cũng rộng rãi, nhất là các báo tiếng Pháp. Tạ Thu Thâu sáng lập tờ La
Lutte(Tranh đấu), Nguyễn An Ninh sáng lập tờ La Cloche Fêlée (Chuông
rạn) gây được nhiều cảm tình trong dân chúng. Đầu thế chiến thứ nhì, Nguyễn An
Ninh, Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm đều bị đày ra Côn Đảo; Nguyễn An Ninh mất
ngoài đó năm 1943, còn Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm mãi đến khi Nhật đảo chánh
Pháp mới được thả.
Về giới chính khách thân Pháp, hợp tác với
Pháp, chỉ đòi cải thiện chính thể, trước 1945 chúng ta thấy hai chủ trương:
- Chủ trương quân chủ lập hiến, do Phạm Quỳnh
đề xướng trên tờ Nam Phong; ở Nam, Bùi Quang Chiêu cũng lập một
đảng Lập hiến; tôi không rõ đường lối ra sao, có lẽ muốn có một chế độ dân chủ
với một hiến pháp.
- Chủ trương xin Pháp cho Việt Nam tự
trị, bỏ chế độ bảo hộ đi, mà ba kì sát nhập với nhau thành một thuộc địa của
Pháp. Chủ trương này do Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra, rất ít người theo.
Trong khoảng 1925-1930 ở Nam Việt xuất hiện
hai giáo phái: Cao Đài do Lê Văn Trung, một viên hội đồng quản hạt, thành lập ở
Tây Ninh; và Hòa Hảo do một nông dân, Huỳnh Phú Sổ thành lập ở làng Hòa Hảo,
quận Tân Châu, Châu Đốc, nhưng hai giáo phái đó đến đầu thế chiến thứ nhì mới
hoạt động về chánh trị, nên tôi sẽ xét trong
chương sau.
*
B. KINH TẾ
XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI TRƯỚC
Sau thế chiến thứ nhì, một số nhà kinh tế học
phương Tây như Clark, Myrdal, Fourastié, Rostow nghiên cứu về sự phát
triển kinh tế cho rằng có năm giai đoạn như sau:
1. Xã hội cổ: các hoạt động sản xuất rất hạn
chế, mà theo phương pháp truyền thống, thiếu tính cách khoa học;
2. Giai đoạn dự bị, tức giai đoạn ở cuối thế
kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII lại phương Tây: người Âu bắt đầu có ý thức về sự tiến
bộ kinh tế nhờ nhiều phát minh lớn về khoa học (xe lửa chạy bằng hơi nước, điện
lực...); một nhóm người có tinh thần kinh doanh đã nghĩ tới việc phát triển
kinh tế để đầu tư…
3. Giai đoạn bắt đầu phát triển mạnh: đầu tư
nhiều, mở mang mọi ngành, tức giai đoạn ở hậu bán thế kỉ trước tại châu Âu;
4. Giai đoạn thành thục, tức giai đoạn của
châu Âu đầu thế kỉ này;
5. Giai đoạn đại chúng tiêu thụ mạnh mẽ, tức
giai đoạn của châu Âu và Nhật bản hiện nay, của Mĩ từ hai ba chục năm trước.
Giai đoạn này cũng gọi là hậu kĩ nghệ (post industrielle, do Daniel Bell đặt
ra), mọi người chỉ lo hưởng thụ cho nhiều để có thể sản xuất cho nhiều; sản
xuất thừa thãi quá rồi, người ta ít ham cạnh tranh, thành công nữa; ý thức về
quốc gia, giai cấp nhạt đi, có thể tinh thần nhân bản và sự giáo dục được tôn
trọng hơn trước.
Cho tới khi người Pháp qua, xã hội Việt Nam là
xã hội cổ của nền văn minh nông nghiệp, như xã hội thời Trung cổ của phương
Tây. Trong cả ngàn năm nông nghiệp không tiến bộ được bao nhiêu, đất đai tuy mở
mang được nhiều nhờ cuộc Nam tiến, nhưng đồng thời dân số cũng tăng lên, thành
thử mức sống không cải thiện được. Theo Luro, do Paul Mus dẫn trong cuốn Việt
Nam, sociologie d’une guerre (Seuil - 1952) thì thời xưa (tôi đoán là
thời Minh Mạng hay Tự Đức) “cả nước Việt Nam chỉ có một lợi tức là bốn chục
triệu (triệu quan tiền của ta hay triệu quan của Pháp, Luro và Mus đều không
nói rõ), lương quan lại rất thấp, lính tráng gần như không được lãnh lương, mọi
công việc xây cất, đào kinh, đắp đường, đắp đê... đều bắt dân làm xâu cả”.
Lời đó đúng. Trong một chương trên tôi đã kể
cảnh nghèo của các cụ nghè liêm khiết, làm những chức lớn như quan tham tụng Lê
Anh Tuấn, làng Thanh Mai (Sơn Tây) thời chúa Trịnh; quan Tế tửu ở Quốc tử giám
(Hà Nội), nhà ở làng Hạ Đình (Hà Đông) thời Tự Đức.
Xã hội xưa đúng là cảnh bùn lầy nước đọng,
không sao tiến được; chính quyền chỉ lo sao cho dân khỏi đói mà cũng không
xong; và khi cuộc Nam tiến phải ngừng lại - vì Pháp chiếm hết Đông Dương - thì
từ vua tới dân dành bó tay chịu sự đào thải thiên nhiên: dân số tăng lên quá,
ruộng đất không đủ nuôi, thì những tai họa như lụt, hạn hán, bệnh dịch, chiến
tranh... làm giảm số dân xuống cho có một sự thăng bằng tạm thời giữa sự sản
xuất và dân số.
Bi đát thay, tới ngày nay mà tình cảnh nghèo
khổ đó vẫn chưa được cải thiện: lương cán bộ, công nhân viên cũng không đủ sống
như thời xưa, mà rất nhiều công trình xây dựng vẫn do chính sách làm xâu - nay
gọi là lao động mà thực hiện được! Còn lợi tức trung bình hàng năm mỗi đầu
người chỉ có 50 Mĩ kim, vào hạng thấp nhất thế giới, trong khi ở Pháp là
3.000-4.000, ở Hoa Kì là 5.000-6.000 Mĩ kim.
PHÁP KHAI THÁC VIỆN NAM, GIỚI TƯ BẢN VÀ ĐIỀN CHỦ XUẤT HIỆN
Năm 1867, Pháp chiếm trọn sáu tỉnh Nam Việt.
Năm 1884 triều đình Huế kí Hòa ước Patenôtre, nhận cho Pháp bảo hộ cả Bắc và
Trung kì.
Vào khoảng 1880, Pháp bắt đầu khai thác Nam kì.
Mới đầu các dinh và công sở của họ ở Sài Gòn còn là nhà sàn bằng gỗ; năm 1887
mới đặt viên đá đầu tiên để xây cất nhà thờ Đức Bà ở trước Sở Bưu điện chính.
Ở Bắc sự khai thác trễ hơn: năm
1892 Hải Phòng còn là một xóm bùn lầy toàn nhà lá.
Pháp xây vài thành phố lớn đồng thời với vài
đường giao thông chính, như đường lộ và xe lửa Sài Gòn-Mĩ Tho, Hà Nội-Hải Phòng...;
rồi mở những tiệm buôn.
Sản phẩm chính của Nam kì là lúa,
sau mới thêm cao su. Trung kì có cây rừng và cá biển. Bắc kì có nhiều mỏ. Cao
nguyên có gỗ, cà phê. Vì vậy bọn tư bản Pháp lập nhiều đồn điền, nhà máy gạo,
nhà máy chế biến mủ cao su ở Nam; đồn điền cà phê ở cao nguyên; họ khai thác mỏ
than, mỏ đồng, mỏ thiếc, lập các xưởng xi măng, xưởng dệt, nhà máy giấy... ở
Bắc; miền Trung chưa kịp thai thác được bao nhiêu, chỉ có nhà máy diêm, xưởng
đóng tàu ở Vinh, vì con đường xe lửa xuyên Đông Dương mãi đến 1937 mới hoàn
thành, mà năm 1939 đã có thế chiến thứ nhì rồi; cả nguồn lợi cá biển ở Trung họ
chưa nghĩ tới.
Sự khai thác đó đưa xã hội Việt Nam vào giai
đoạn hai của tiến trình phát triển kinh tế, tức giai đoạn ở cuối thế kỉ 17, đầu
thế kỉ 18 tại phương Tây như trên tôi đã nói. Một số người Việt có óc kinh
doanh bắt đầu tin ở sự tiến bộ kinh tế, hùn vốn lập hội, lập xưởng, nhà máy,
như công ti Bạch Thái Bưởi ở Hà Nội, tranh việc chuyên chở trên sông với ngoại
nhân; công ti Liên Thành sản xuất nước mắm ở Phan Thiết; Trương Văn Bền ở Sài
Gòn lập xưởng làm xà bông... Họ chỉ là những nhà tư bản nhỏ, không so sánh được
với bọn tư bản Pháp, Trung Hoa.
Riêng ở Nam Việt, xuất hiện một số đại điền
chủ miền Tây vào khoảng 1920-1930. Trong xã hội cũ, Việt Nam không có
giới điền chủ lớn. Đời Trần, một số hoàng thân được ban cho một khu đất rộng để
khai phá, có gia thần (bề tôi riêng), nhiều nô tì, cả một số lính nữa, và khi
quân Nguyên qua xâm lăng, các vị “vương” đó đem quân của mình ra chống cự như
quân của triều đình. Chế độ đó có thể ví với chế độ phong kiến thời cổ ở Trung
Hoa, hoặc chế độ Latifundia ở La Mã. Nhưng qua đời Lê, chế độ đó không còn; và
tới đầu thế kỉ chúng ta, người giàu nhất làng tôi chỉ có sáu mẫu, khoảng hai
héc ta, không đáng kể là tiểu điền chủ nữa. Hai héc ta mà nhà có độ mươi miệng
ăn thì làm lấy chỉ đủ cơm ăn, áo mặc. Tại vài làng khác trong tổng, có vài
người được hai chục mẫu thì cũng chỉ bằng bảy héc ta, vào hạng nông dân đủ ăn ở
trong Nam. Tôi nghe nói vào khoảng 1930, có vài đồn điền của người Việt ở
miền trung du như Phú Thọ, Bắc Cạn rộng một hai trăm mẫu, nhưng một phần lớn là
đồi, chỉ một phần nhỏ cày cấy được, như vậy cũng chưa bằng một tiểu điền chủ ở
miền Tây Nam Việt.
Sở dĩ miền Tây Nam Việt (suốt một dải từ Châu
Đốc tới Cà Mau bên kia Hậu Giang, và từ Hồng Ngự xuống đến Tân An bên Tiền
Giang) có nhiều điền chủ lớn là vì miền đó còn hoang vu khi người Pháp tới. Nó
hoang vu vì đất có nhiều phèn, phải đào kinh thật nhiều, rửa phèn trong vài ba
năm rồi mới tạm trồng lúa được. Chánh quyền Pháp bán những đất hoang đó hoặc
cho khẩn một cách dễ dãi. Bọn tư bản Pháp lựa những miếng lớn và tốt hơn cả, có
những đồn điền cả chục ngàn héc ta như đồn điền Gressier (?) dài vài chục cây
số, rộng vài ba cây số trên hai bờ kinh Xà No ở Cần Thơ và Rạch Giá; một số
người Việt khá đông chia nhau những miếng nhỏ vài ba trăm héc ta, may mà trúng
được hai vụ liên tiếp thì lại khẩn thêm, tậu thêm, chỉ trong mươi năm thành đại
điền chủ với cả ngàn héc ta ruộng.
Cũng có trường hợp dân nghèo rủ nhau khai thác
một miền đất hoang, hi vọng hễ thành điền rồi thì xin nộp thuế cho chính phủ và
sẽ được làm chủ ruộng. Mỗi gia đình chỉ làm độ mươi héc ta là nhiều. Vài chục
gia đình làm được vài trăm héc ta. Lúc đó mới có một tên tư bản gian manh cướp
công họ, chiếm đất, đuổi họ đi viện lẽ đã xin khẩn từ mấy năm trước rồi, trên
địa bộ họ đứng tên rồi. Những vụ như vậy thường xảy ra, có vụ đổ máu như vụ
đồng Nọc Nạn ở Bạc Liêu.
Chủ điền không thể khai thác lấy được, chia
cho tá điền; nhiều tá điền quá thì phải dùng “cặp rằn” (do tiếng Pháp caporal)
cai quản tá điền. Từ đó sinh ra nạn bóc lột, ở nông thôn phân ra hai giai cấp
tư bản (điền chủ) và vô sản (tá điền) đấu tranh với nhau. Nhưng tôi nhắc lại,
tình trạng đó chỉ xảy ra ở miền Tây Nam Việt, mà số điền chủ tàn bạo quá tới
nỗi nông dân phải nổi loạn, không phải đâu đâu cũng có. Chẳng hạn tổng Phong
Thạnh Thượng, chỗ bác Ba tôi ở, không xảy ra vụ nào cả.
Trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp
Mười tôi đã kể một lần vào thăm một trại ruộng lớn có máy cày (năm đó
vào khoảng 1936-37). Chủ trại giữ tôi ở lại ăn cơm. Trại ở giữa một cánh đồng
mênh mông, hoang vu, xa sông Tiền, xa chợ Hồng Ngự, vậy mà chỉ trong một hai
giờ mà trên bàn đã có sáu bảy món ăn (thời đó chưa có tủ lạnh) với rượu quí,
trái cây, bánh ngọt. Đĩa chén toàn là đồ Limoges, li bằng pha lê. Chủ nhân
có 600 héc ta đất, phàn nàn đã lỡ mua non một vạn đồng bạc máy cày (lương tôi
hồi đó, kể cả phụ cấp chỉ được 80 đồng) mà mới dùng được vài tháng đã phải bỏ
vì không khí ẩm thấp, thợ chuyên môn không có, máy mau hư mà mỗi lần hư phải gở
từng bộ phận đem qua Châu Đốc, có khi xuống tận Cần Thơ để sửa. Hạng bị phá sản
không phải là ít, nhất là trong hồi kinh tế khủng hoảng:
1930-1934.
SỰ BÓC LỘT VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP THỜI PHÁP THUỘC
Chỉ hạng tư bản Pháp, chủ đồn điền cao su là
làm ăn thịnh vượng nhất và bóc lột công nhân một cách tàn nhẫn, có tổ chức
nhất, gây biết bao nỗi bi thảm mà một số bài báo và truyệnBão rừng của
Nguyễn Văn Xuân đã tả, nhưng vẫn còn sơ lược. Bị chủ bóc lột một lớp rồi lại bị
cai bóc lột một lớp nữa, nên mười người dân quê Bắc vào làm phu đồn điền cao su
ở Nam (họ gọi là đi Tân thế giới) thì may ra có một người khôn lanh, có nghị
lực, khi hết hạn giao kèo, trở về Bắc được với một số tiền nhỏ; còn chín người
kia phải gởi xương trong rừng cao su, hoặc thoát ra được thì cũng bệnh tật,
lang thang kiếm ăn qua ngày ở các thị trấn miền Nam.
Sự bóc lột tàn nhẫn, nhưng sự tranh đấu trong
các đồn điền cao su không mạnh vì nơi đó là lãnh địa riêng của bọn tư bản Pháp;
phu cao su gần như bị giam lỏng, khó tiếp xúc với ngoài.
Công việc tuyên truyền và huấn luyện của đảng
Cộng sản có hiệu quả nhất ở các mỏ như mỏ than Hồng Gai, các nhà máy như nhà
máy sợi Nam Định, các xưởng như xưởng Ba Son (Arsenal – xưởng đóng tàu) ở Sài
Gòn... Thợ thuyền những nơi đó giác ngộ hơn, đoàn kết hơn, có tinh thần tranh
đấu hơn, có thể gọi là gần họp thành một giai cấp đúng với nghĩa của Karl Marx;
tôi nói gần vì trước thế chiến vừa rồi, số thợ đó còn ít quá,
một hai vạn và đối tượng tranh đấu của họ là tư bản Pháp vì chủ của họ toàn là
người Pháp; còn một số nhà tư bản Việt làm ăn nhỏ quả, chỉ mướn dăm chục hay
cùng lắm là một trăm thợ, nếu thợ thấy bị bóc lột thì bỏ di, kiếm việc nơi
khác, đấu tranh làm gì; hoặc nếu có đấu tranh thì chủ và thợ cũng dễ thỏa thuận
với nhau, như người trong nhà.
Tóm lại, ta có thể kết luận rằng trước 1945,
chỉ có vài vụ giai cấp đấu tranh giữa chủ điền và tá điền Việt mà không có sự
đấu tranh giữa chủ và thợ thuyền Việt, chỉ có đấu tranh giữa chủ Pháp và thợ
Việt thôi; và sau khi Sài Gòn được Giải phóng, điền chủ Việt mất hết đất, tư
bản Pháp phải cuốn gói về Pháp, thì toàn quốc không còn đấu tranh giai cấp nữa,
hiểu theo định nghĩa của Karl Marx.
Lịch sử giai cấp đấu tranh của ta quả thật là
ngắn ngủi.
*
C. XÃ HỘI
GIỚI “BOURGOIS” LỚP ĐẦU
Để cai trị và khai thác Việt Nam, Pháp
phải đào tạo một số tay sai: thư kí, thông dịch viên, com-mi, phủ, huyện, cán
sự thấp và trung trong mọi ngành. Họ mở những trường tiểu học ở mỗi châu thành,
mỗi phủ, quận; rồi năm sáu trường trung học ở các châu thành lớn (tất cả những
trường đó, tiểu và trung, đều là trường Pháp Việt, dùng tiếng Pháp làm chuyển
ngữ); năm 1907 mới mở ở Hà Nội một trường đại học cho toàn cõi Đông Dương, một
hai năm sau đóng cửa[3],
năm 1910 hay 1912 mở lại, nhưng mới đầu không đủ các ngành, chỉ đào tạo những
cán sự chuyên môn, mãi đến năm 1930 mới mở vài ngành luật khoa, khoa học, và
buộc sinh viên phải có bằng Tú tài, từ đó đại học Hà Nội mới xứng với tên đại
học mà cũng chỉ bằng một đại học nhỏ nhất của Pháp.
Trước thế chiến thứ nhất, ở Bắc người Việt nào
học vài ba năm tiếng Pháp, bập bẹ được ít câu, làm được bốn phép tính, cũng
được tuyển dụng làm thầy kí, lương mười, mười lăm đồng một tháng. Làm ít năm,
lương tăng, được mười tám, hai mươi đồng. Nếu thông minh và siêng năng, chỉ
trong mươi năm thành ông Phán, lương bốn năm chục đồng. Bốn năm chục đồng vào
khoảng 1920 là một số tiền lớn; họ có thể sắm một chiếc xe kéo gọng đồng, mướn
một anh “xe” vừa kéo xe vừa làm việc nhà, một chị vú, một chị sen. Tốn kém gì
đâu: hạng đó ở nhà quê mò cua bắt ốc, những ngày giáp hạt may lắm được củ
khoai, bát ngô, nay được đủ cơm mỗi bữa, dù là cơm thừa canh cặn, cũng vẫn là
sướng, huống hồ mỗi tháng được chủ trả cho năm hào hay một đồng, cuối năm lại
được một bộ quần áo vải.
Hạng công chức đầu tiên đó sống an nhàn, sung
sướng. Người nào chí thú thì chủ nhật họp nhau đánh chén, rồi đánh vài hội tài
bàn, tổ tôm; kẻ chơi bời thì rủ nhau đi cô đầu “tom chát”, hút xách “đi mây về
gió”.
Có bổng ngoại ít nhiều mà cần kiệm thì tậu
nhà, mua ruộng, thành một nhà tư bản nho nhỏ, cho con học trường Tây, sau thành
quan huyện, quan đốc.
Học hành chỉ được một nhúm chữ mà họ sướng gấp
chục lần giới sĩ phu, các cụ cử, cụ nghè thời trước. Đúng như thơ Tú Xương:
-----”Thôi có ra gì cái chữ Nho,
-----Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co.
-----Sao bằng đi học làm thầy Phán,
-----Tối rượu Sam banh sáng sữa bò”.
Họ làm cho vợ con hưởng. Vợ họ ăn trắng mặc
trơn, nói là coi sóc việc nhà nhưng chẳng phải mó tay vào việc gì cả, ngồi trên
sập gụ chỉ tay năm ngón, tô điểm nhan sắc, phây phây ra, mất hết đức cần cù,
nhẫn nại, hi sinh của các cụ bà lớp trước, như cụ bà Tú Xương chẳng hạn. Kẻ hư
thì đánh bài, kẻ “đảm đang” thì chơi họ, cho vay lãi, kiếm thêm tiền, có khi
nhiều hơn số lương của chồng nữa.
Những năm 1925-1928, kinh tế Việt Nam thịnh
nhất, họ làm ăn dễ dàng, nên Tết tiêu pha lớn: may áo gấm, áo đoạn cho họ và
cho cả các con cái, mua những cành đào lớn, những chậu quất, thược dược, cả
chục giò thủy tiên để bày và tặng nhau; pháo đốt cả chục bánh toàn hồng, còn
bánh, thịt thì ê hề, ăn đến ngày mùng bảy mới hết.
Tới thời kinh tế khủng hoảng (1930-1935) bọn
tư bản càng lớn càng mau sạt nghiệp, bọn bần dân điêu đứng (công nhật chỉ có
một hai hào), thì họ vẫn sung sướng vì lương chồng họ không bị giảm bao nhiêu
mà vật giá sụt nhiều.
Đó là giới tiểu tư sản (bourgeois) đầu tiên ở
Bắc và Trung do văn minh tạo thành. Ở miềnNam, giới đó xuất hiện sớm hơn và đọc
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chúng ta biết được đời sống của họ ra sao. Xét chung,
họ là những người hiền lành, thân Pháp, an phận, thỏa mãn, và vẫn trọng các nhà
Nho, cha chú họ. Có người chê phụ nữ trong giới đó có tật xấu là biếng nhác,
chỉ ham hướng thụ, đài các, thích danh vọng hão huyền. Tại hoàn cảnh xui nên
như vậy. Sau này, trong thời loạn lạc, tôi thấy nhiều phụ nữ vào hạng trung lưu
có tinh thần hi sinh cao, tháo vát, giỏi chịu cực khổ, lại giữ được truyền
thống dân tộc mình sau những cuộc thử thách lớn lao, ngốc đầu lên được phần lớn
là nhờ họ. Phụ nữ Tây phương không bằng họ được.
Tuy nhiên trong giới tiểu tư sản đầu tiên đó
cũng có một số vượt hẳn lên; có kẻ gian hùng bực nhất như Trần Bá Lộc ở Nam
(tôi không kể Nguyễn Thân ở Trung, Hoàng Cao Khải ở Bắc vì họ xuất thân cựu
học); có người thành học giả như Huỳnh Tịnh Của, Pétrus Ký ở Nam; Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim ở Bắc; có người mạo hiểm kinh
doanh, tranh đấu với ngoại nhân như Bạch Thái Bưởi ở Bắc.
LỚP SAU TIẾN BỘ HƠN, TẠO NÊN NƯỚC VIỆT NAM MỚI
Tới thế hệ sau, giới tiểu tư sản đông hơn,
tiến bộ hơn, hiểu biết hơn tuy đa số vẫn ham hưởng thụ, có kẻ sa đọa hơn trước,
nhưng một số có tư cách, chí khí, theo Tây học mà không vong bản, giữ được
truyền thống, nên đóng những vai trò quan trọng, có thể nói là chính họ đã tạo
nên nước Việt Nam mới.
Thành lập các hội kín, gây các phong trào cách
mạng, phất cờ khởi nghĩa, nêu gương hi sinh cho quốc dân là họ. Viết báo, viết
sách đả đảo thực dân, cảnh tỉnh đồng bào, đưa ra các đề nghị để cái cách xã hội
hầu tiến kịp thời đại, là họ. Mài ngọn bút, luyện cho Việt ngữ thành lợi khí để
truyền bá tư tưởng, diễn đạt tình cảm, tạo được một nền văn xuôi gọn, sáng, mỗi
ngày mỗi thêm phong phú, tinh xác, là họ. Lập các nhà buôn, nhà máy để kiến
thiết quốc gia, cũng là họ; về phương diện này họ chưa thành công nhiều vì ít
vốn, ít kinh nghiệm, khó cạnh tranh với ngoại nhân, nhưng họ đã tin ở sự tiến
bộ, tin ở sự phát triển kinh tế. Làm những công việc xã hội để giúp người
nghèo, bênh vực quyền lợi của giới cần lao, hi sinh cho lí tướng bình đẳng, bác
ái, tự do, cũng là họ.
Chúng ta cứ xét nội một điều này: từ thế kỷ
XVIII đến nay, tất cả các vĩ nhân trong mọi hoạt động xã hội, chính trị, văn hóa,
khoa học, mĩ thuật ở phương Tây hầu hết đều thuộc giới “bourgeois” cả, ngay đến
Karl Marx, Lénine cũng vậy. Ở nước ta, trong giới lãnh đạo đảng Cộng sản, có
đến ba phần tư hay hơn nữa ở trong thành phần tiểu tư sản. Là vì từ trước tới
nay, chỉ tiểu tư sản mới được học nhiều hơn cả, có thì giờ để suy tư, sáng tạo
hơn cả. Có thể nói thế giới ngày nay do giới tiểu tư sản tạo nên.
Tóm lại, trong khoảng nửa đầu thế kỉ, nhất là
từ sau thế chiến thứ nhất trở đi, xã hội ViệtNam bắt đầu Âu hóa, có thêm
giới trí thức tiểu tư sản, giới này lần lần thay thế giới sĩ phu thời trước mà
lãnh đạo quốc gia. Sự biến chuyển đó lớn lao nhất trong lịch sử, nhưng so với
Nhật Bản vẫn là nhỏ và trễ: Nhật đã Âu hóa từ 1870 và năm 1905 đã thắng được
một dân tộc da trắng là Nga trong khi ta vẫn thiêm thiếp ngủ, phải nhờ tiếng
súng của họ ở eo biển Đối Mã mới bừng tỉnh.
Mà sự biến chuyển đó chỉ mới phát ở các châu
thành chưa lan sâu vào nông thôn vì sự kiềm chế của Pháp. Năm 1915 mới bỏ khoa
thi hương ở Bắc, ba năm sau bỏ ở Trung. Nhưng ở làng nào cũng vẫn còn những
trường học của các ông đồ; mãi đến 1925, mỗi làng ở Bắc, Trung mới có được một
trường Sơ học chuyên dạy tiếng Việt tới lớp ba (lớp sơ đẳng – cours
élémentaire).
Ở Nam, kinh tế phát triển hơn, trường học
nhiều hơn, nhưng năm 1935, về miền Tây, tôi vẫn thấy dân quê giữ được nhiều
truyền thống cũ, nhiều cổ tục. Có những cụ già để búi tóc mà đội nón Tây
(casque), ngồi ca nô, xe hơi mà thích truyện Tàu, thuộc Minh tâm bửu
giám, dạy con rất nghiêm: con đã đậu tri huyện rồi mà còn nọc ra đánh, đậu
kĩ sư rồi mà bắt đi chăn trâu trong khi đợi bổ, và khi các cụ khuyên bảo điều
gì thì dân làng răm rắp tuân theo, hơn là tuân chủ quận.
Và giới trí thức tiểu tư sản vì còn mới quá mà
ít tiếp xúc với nông dân, chưa làm được gì cho họ nên chưa gây được uy tín lớn
lao như giới sĩ phu thời xưa; trừ một số như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu....
miền Nam, còn hầu hết cho tới năm 1945 vẫn còn bị dân quê nghi kị, có khi mỉa mai nữa là khác.
*
D. VĂN HÓA
CHỮ QUỐC NGỮ
Xã hội tiến mau được, chủ yếu là nhờ sự giác
ngộ của đại chúng; có những nhà lãnh đạo tài giỏi, có cả một giới thượng lưu
trí thức đông đảo mà đại chúng mù chữ, lạc hậu thì cũng chẳng làm được gì, cũng
như có tướng mà không có quân. Một kí giả phương Tây bảo trong mấy cuộc chiến
tranh giữa Do Thái và Ả Rập, Do Thái thắng một phần là nhờ quân sĩ của họ có
trình độ văn hóa cao, ra trận biết có sáng kiến, chẳng những biết sử dụng mà
còn biết sửa chữa những khí giới tối tân. Trong sự chiến đấu còn vậy, huống hồ
là trong sự phát triển kinh tế.
Muốn cho đại chúng mau giác ngộ thì phải mở
nhiều trường, in nhiều sách báo; mà muốn cho họ mau đọc được sách báo thì chữ
viết phải tiện lợi, không tốn công nhiều quá để học. Hai chục năm trước, một
người Anh nói với chính khách Việt: “Dân tộc ông sẽ tiến mau hơn Trung Hoa,
Thái Lan, vì các ông dùng tự mẫu La-tinh, bất kì người nào, chỉ học vài tháng
là đọc được, viết được”.
Đúng vậy, Chữ Nôm của ta xuất hiện trễ lắm là
vào đời Lí Cao Tông thế kỉ XII[4].
Giá thời đó vua chúa của ta biết bỏ chữ Hán mà dùng chữ Nôm làm quốc tự, trong
vài thế kỉ, cải thiện được nó, qui định lối viết, lối đọc cho toàn quốc, giản
dị hoá nó, bắt ai cũng phải học, thì nó thành một phương tiện truyền bá tư
tưởng có hệ thống, không đến nỗi luộm thuộm, mỗi thời đọc, viết một khác, mỗi
miền đọc viết một khác; thậm chí mỗi người đọc viết một khác nữa; mà văn hoá,
văn thơ của ta nhờ đó phát triển được kha khá, và bây giờ các học giả khỏi phải
bù đầu phiên âm tìm nghĩa một số khá nhiều chữ Nôm đời Lí, đời Lê; cãi nhau mấy
chục năm nay mà vẫn chưa đọc được hai chữ Nôm mỗi
người đưa ra một thuyết, chẳng thuyết nào thắng nổi thuyết nào.
Nhưng dù biết dùng chữ Nôm từ đời Lí mà không
dám cải cách mạnh, vẫn dựa vào chữ Hán thì học nó cũng mệt lắm; ít nhất cũng
phải biết vài nghìn chữ Hán, đọc lõm bõm được chữ Hán rồi mới đọc viết chữ Nôm.
Như vậy một người tư chất trung bình phải mất bốn năm năm.
Và tới thế kỉ XVII, người Âu qua nước mình,
tất phải dùng chữ Nôm đó, không đặt ra vần Quốc ngữ (dùng mẫu tự La tinh để
phiên âm tiếng Việt) hoặc có đặt ra thì cũng chỉ để họ dùng với nhau, viết
sách, viết thư cho nhau thôi; và Việt Nam ngày nay cũng sẽ ở tình trạng bối rối
như Trung Hoa, Nhật Bản, muốn bỏ quốc tự lắm để dùng mẫu tự La tinh mà có nhiều
điều trở ngại quá, hơn nửa thế kỉ rồi, chưa quyết tâm được. Thật là bỏ thì
thương, vương thì tội. Thành thử dân tộc ta là dân tộc duy nhất ở Đông Á, được
cái may mắn chỉ học vài tháng chứ không phải mất ba bốn năm để biết đọc biết viết.
Đỡ tốn công biết bao.
VĂN XUÔI CỦA TA MỘT THẾ KỈ NAY
Do lẽ cổ nhân không trọng chữ Nôm (nôm na là
cha mách qué), không dùng nó để thảo chiếu, biểu, văn thư, để viết sách, dạy
học, chỉ coi nó là một thứ chữ phụ để ghi những điều không quan trọng, những
tình cảm riêng tư... cho nên có tình trạng kì dị này mà tôi đã phân tích trong
bài Tựa cuốn Luyện văn II (1956):
“... Thơ Nôm của ta đã có từ ngàn năm trước,
phát triển từ ca dao đến các điệu hát rồi đạt tới một mức rất cao trong truyện Kiều,
còn văn xuôi Nôm của chúng ta thì mới xuất hiện chưa đầy một thế kỉ nay. Vì bạn
thử xét từ giữa thế kỉ XIX trở về trước, chúng ta có những tác phẩm nào là văn
xuôi Nôm? Các bộ Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Truyền
kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tản văn Hán chứ không phải Nôm. Các bài
phú, kinh nghĩa Nôm của Lê Quí Đôn, Nguyễn Công Trứ ư? Cũng không nữa. Những
bài ấy tuy viết bằng tiếng Nôm, song toàn theo thể biền ngẫu, một thể có đối,
có vần, có luật chặt chẽ, gần thi ca hơn là gần văn xuôi. Rốt cuộc chỉ còn
những bài biểu, chiếu dưới triều Quang Trung (có lẽ cả trong thời Hồ Quí Li)
mới thực là văn xuôi Nôm, song những bài đó ít quá (vua Quang Trung cầm quyền
không được lâu, công cuộc cách mạng của ông chưa kịp hoàn thành) và viết rất
vụng về, đầy những thành ngữ Hán, không có chút giá trị gì cả.
Vậy thực ra văn xuôi Nôm mới xuất
hiện từ hồi Trương Vĩnh Ký viết cuốn Chuyện đời xưa(1866), nghĩa là
cách đây (1956) chín chục năm. Nhưng trong hậu bán thế kỉ trước, lời xướng của
ông được ít người họa; phải đợi đến đầu thế kỉ này, từ khi nhóm Đông
Dương tạp chí ra đời (1913), văn xuôi Nôm mới phát triển đều đều và
phát triển rất mạnh. Mặc dầu bị tiếng Pháp lấn áp trong mọi khu vực, mặc dầu bị
đa số quốc dân thờ ơ, bị nhiều nhà giáo coi thường (...), mặc dầu gặp những
nghịch cảnh đó mà văn xuôi của chúng ta trong nửa thế kỉ đã tiến những bước rất
dài. So sánh văn của nhóm Đông Dương tạp chí với văn thời nay,
ta tưởng có sự cách biệt hằng mấy thế kỉ, cách biệt hơn văn thế kỉ XVII với thế
kỉ XX của Pháp, hoặc văn thế kỉ thứ VIII (đời Đường) với thế kỉ XIX (cuối
Thanh) của Trung hoa.
Sự đột tiến đó do công lao của các nhà cầm bút
tự tìm chữ, đặt chữ, áp dụng các cách hành văn của ngoại quốc rồi thí nghiệm
trong tác phẩm của mình mà rán dung hòa cho văn được hợp với tính cách của Việt
ngữ và không cách biệt quá với lời nói thông thường trong dân chúng”.
Hiện nay chúng ta có thể coi văn xuôi của ta
đã trưởng thành rồi, nhưng Việt ngữ còn nghèo nàn, ngữ pháp còn kém uyển
chuyển, chưa diễn hết được những tư tưởng mới, cảm xúc mới của phương Tây. Các
nhà cầm bút còn phải tìm tòi, thí nghiệm trong một thời gian lâu nữa - vài ba
chục năm - mà thành công mau hay chậm còn do trình độ kiến thức của họ và của
dân chúng sớm bắt kịp được trào lưu thế giới hay không.
Trước thế chiến thứ nhì, các tạp chí của ta
tiến đều đều từ hình thức đến nội dung: Nam Phong phong phú
hơn Đông Dương tạp chí; Tri Tân có tính cách
chuyên ôn cố; Phong Hóa, Ngày Nay trái lại có bộ
mặt và xu hướng mới, muốn thực hiện một cuộc cải cách tiểu tư sản, đả phá hủ
tục, đại gia đình mà giải phóng cá nhân, đề cao tự do; Thanh Nghị (vàThanh
niên ở Nam) nghiêm trang hơn, phổ biến những tư tưởng dân chủ, kinh
tế, giáo dục... Lại có riêng một tạp chí cho phụ nữ, khá có giá trị, tờ Phụ
nữ Tân văn. Nhờ Hoàng Tích Chu (Hà Thành ngọ báo 1927) văn viết
báo gọn hơn, mạnh hơn, có giọng chiến đấu hơn, không còn những bài xã luận lôi
thôi, nhạt nhẽo nữa. Nhưng nổi tiếng nhất và ảnh hướng lớn nhất thì phải kể
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, có công về dịch thuật, biên khảo; lớp sau cóPhong
Hóa: Khái Hưng, Nhất Linh... sẽ xét ở dưới.
TIỂU THUYẾT TỪ 1925 ĐẾN NAY
Tiểu thuyết phát triển rất mạnh, mở đầu bằng
phong trào lãng mạn, phát dương chủ nghĩa cá nhân.
Khi Tuyết hồng lệ sử của Từ
Trẩm Á được dịch ra Việt ngữ, thanh niên nam nữ đua nhau đọc và có một số thiếu
nữ vì tình duyên, đâm đầu xuống hồ Trúc Bạch (Hà Nội), làm xôn xao dư luận gần
như thời Goethe xuất bản cuốn Werther. Truyện bi thảm hơn Werther nhiều,
đầy nước mắt, chắc đã gây hại lớn cho thanh niên Trung Hoa nên về sau Từ Trẩm Á
ân hận, tự trách mình:
-----”Nhi nữ hà quan thiên hạ sự,
-----Bất như thu lệ khấp thương sinh”.
----- (Tình của) Nhi nữ quan hệ gì tới
việc thiên hạ?
-----Sao bằng gom lệ lại để khóc nhân dân.
Có thể Tương Phố và Đông Hồ cũng bị lôi cuốn
trong đó mà viết những bài Giọt lệ thu,Linh Phượng kí.
Năm 1925 xuất hiện hai tiểu thuyết có giá trị: Tố
Tâm và Quả dưa đỏ. Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách cũng là một truyện tình bi thảm, cũng nhiều câu sáo, thảnh thót, du
dương, dễ câm, đáng được lưu lại vì đánh dấu một thời đại, ghi được phong tục,
cách ăn mặc, ngôn ngữ, tình cảm của thanh niên nam nữ khi mới chịu ảnh hưởng
của phương Tây. Quả dưa đỏcủa nhà nho Nguyễn Trọng Thuật dựa vào
một truyện trong Lĩnh Nam trích quái, có phong vị cổ, có
ý răn đời, bố cục chặt chẽ, mà lạ thay cũng có vài đoạn tư tưởng rất lãng mạn.
Trong khi đó thì ở Nam, Hồ Biểu Chánh
viết toàn những tiểu thuyết tả chân giới tư sản và nông dân, và có tính cách
luân lí.
Bẵng đi bảy năm, tới khi tờ Phong Hoá ra
đời (1932), tiểu thuyết lãng mạn tái hiện, lần này có hình thức mới hơn, nội
dung cũng mới hơn, đầm đìa giọt lệ như Tố Tâm mà mơ mộng, đôi
khi nên thơ. Tôi nhớ những năm đó các bạn nội trú của tôi ở trường Công chánh
chuyền tay nhau đọc say mê những truyện Nửa chừng xuân, Hồn
bướm mơ tiên… trong tờ Phong Hoá. Văn của Khái Hưng, Nhất Linh
mới mẻ, tự nhiên, nhẹ nhàng, tươi sáng hơn văn của Hoàng Ngọc Phách; cảm xúc,
tư tưởng của họ cũng hợp với chúng tôi; họ tả cảnh, tả tình gọn mà khéo khiến
độc giả - đa số thanh niên có tân học – mê những thiếu nữ thuỳ mị trong truyện,
những cảnh nên thơ ở đồng quê, nhất là ở miền trung du như Vĩnh Yên, Phú Thọ và
ghét những thói đài các rởm của giới quan quyền cũ, thói ỷ lại vào cha mẹ,
tranh nhau hương hoả của tổ tiên, thói hiếp đáp nàng dâu, thói ham “đào mỏ” mà
ép duyên trẻ… Họ nhắm một mục đích rõ rệt là đề cao tự do cá nhân, nhất là trong
hôn nhân, đả phá chế độ đại gia đình; đó là một xu hướng của xã hội từ nông
nghiệp chuyển qua kĩ nghệ, là tâm lí của thanh niên đã rời bỏ nông thôn mà ra
thành thị học hành sinh sống. Lần lần tiểu thuyết của Nhất Linh có tính cách
luận đề, ngày nay ít ai đọc, nhưng xét chung, nhóm Tự lực văn đoàn đã có công
lưu lại cho ta những nét rất đúng, sâu sắc mà linh động về xã hội phong kiến và
trưởng giả ở thời đó. Những truyện Gia đình, Thừa tự…
là những tiểu thuyết phong tục rất có giá trị.
Họ còn gây được phong trào vui vẻ, trẻ trung:
đổi mới y phục cho đẹp hơn, gọn hơn, tươi hơn (áo dài Lemur); yêu nghệ thuật,
ca nhạc, nhảy đầm, thích các cuộc hội họp nam nữ, thanh niên hóa ra thành thực
hơn, bạo dạn, hoạt bát, mạo hiểm, quan tâm tới những công tác xã hội, không tự
giam trong phạm vi gia đình nữa. Phong trào đó cũng hợp với sự tiến hóa của xã
hội, dĩ nhiên không tránh được cái hại thiếu kỉ luật, phóng túng. Cái gì quá mà
chẳng hại, và huy chương nào chẳng có mặt trái? Năm 1952 hay 1953, một nhà văn
khá có tên tuổi ở Sài Gòn viết báo mạt sát nhóm Tự Lực, tôi viết thư hỏi họ: ở
vào giai đoạn 1930-1940, không qua giai đoạn cải cách tiểu tư sản đó thì làm
sao bây giờ các ông hô hào tiến tới giai đoạn xã hội chủ nghĩa được. Họ ta
không đáp.
Vào khoảng 1937, xuất hiện những tiểu thuyết
có giá trị về nông dân của Trần Tiêu, Nam Cao, Bùi Hiển, Ngô Tất Tố... mà trong
chương VII tôi đã nói qua. Những tiểu thuyết đó xuất hiện sau những tiểu thuyết
về giới phong kiến, tiểu tư sản của nhóm Tự Lực là điều dễ hiểu: muốn viết về nông
dân thì phải sống ở nông thôn; mà từ thượng cổ tới nay, thành thị vẫn dẫn đầu,
dắt đường cho nông thôn; các tiểu thuyết gia tiểu tư sản ở thành thị viết về
thành thị để mở đường rồi, những thanh niên có tài ở nông thôn như Nam Cao, Tô
Hoài, Bùi Hiển mới noi theo mà tả phong tục nông thôn, tâm lí nông dân.
Cũng vào khoảng cuối những năm 1930, nổi lên
phong trào phản kháng, tranh đấu của nhóm Hàn Thuyên (Trương Tửu. Nguyễn Đức
Quỳnh) và vài nhà như Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Tam Lang, Nguyên Hồng. Họ bênh vực
giới vô sản: Cơm thầy cơm cô, Tôi kéo xe, Lầm than, Bỉ vỏ… Những
tác phẩm này viết không đều, nhiều cuốn hời hợt, vì tác giả - trừ Nguyên Hồng -
không sống với giới vô sản, không hiểu sâu họ được.
Như vậy là đủ các giới trong xã hội đã xuất
hiện trên tiểu thuyết trong khoảng 15 năm (1925-39). Tất cả những tiểu thuyết
đó dù mang nhãn hiệu khác nhau: tâm lí, phong tục, trào phúng, tranh đấu, luận
đề, lãng mạn, tả chân... đều ghi lại cho ta một cách trung thực nhiều hay ít,
bề phải và bề trái của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời từ chế độ nông
nghiệp tiến lên chế độ tư bản; và đều đáng lưu lại cho hậu thế vì không có
những tiểu thuyết đó thì con cháu chúng ta nhìn lui lại về đầu thế kỉ này sẽ
như nhìn vào bóng tối, không biết cha ông họ sống ra sao, cảm xúc ra sao, suy
nghĩ ra sao, hành động ra sao, chiến đấu ra sao, có công với hậu thế ra sao, đã truyền lại được gì?
THƠ MỚI
Đời sống và tập quán đã thay đổi: người ta học
chữ Tây, ở nhà Tây, mặc áo Tây, dùng vải Tây, kim Tây, ô Tây (thay cái nón quai
thao), khăn tua đen (thay khăn mỏ quạ), đi xe sắt (xe kéo bánh sắt), xe lửa,
rồi bỏ kiểu áo tứ thân mà theo mốt Lemur, xem hát bóng, nhảy đầm, không ngâm
Kiều, hát lí giao duyên nữa mà hát điệu Tây: “J'ai deux amours, mon pays et
Paris”..., nếp suy tư, cảm xúc cũng thay đổi theo mà cách phô diễn cũng
khác. Lưu Trọng Lư bảo: “... các cụ ta ưa nhìn màu đỏ choét; ta lại ưa màu xanh
nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà gáy
đúng ngọ. Nhìn các cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều
tội lỗi; ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình
của các cụ chỉ là hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình
say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình xa xôi... cái tình trong giây phút, cái
tình ngàn thu...”
Lời nói “liều lĩnh” đó chỉ đúng một phần: cảm
xúc của các cụ không khác chúng ta bao nhiêu, cũng nao nao vì tiếng gà gáy đúng
ngọ, cũng thích nhìn các cô gái xinh xắn, ngây thơ, mà tình của các cụ cũng
nhiều thứ lắm: tình duyên, tình hiệp, tình tự, tình câm, tình hóa, tình trinh,
tình hào, tình linh, tình lụy, tình si, tình oán, tình ảo, tình nghi.... cứ coi tình
sử của Trung hoa thì biết; mà phương Tây có bộ nào như bộ Liêu
trai của phương Đông chưa? Khác nhất là ở điểm cảm xúc của các cụ tuy
thâm mà trầm; các cụ quí sự trung hòa, nén lòng xuống, không cho nó bồng bột
quá, và khi diễn thành thơ văn, các cụ dùng nghệ thuật ý tại ngôn ngoại, kín
đáo mà hàm súc; lời phải tô chuốt, cô đọng, không trơn tuột như lời nói thường
được.
Thanh niên giữa hai thế chiến chịu ảnh hưởng
phương Tây, không ưa lối diễn tả đó, không chịu bó buộc, muốn phá tung luật thơ
cổ, khuôn khổ thơ cổ, bắt chước lối phô diễn của phương Tây, cho rằng chỉ có
lối đó mới tả được hết nỗi lòng của họ, phát triển được hết suy tư, ước vọng
của họ. Do đó mà có phong trào thơ mới mà Hoài Thanh đã phân tích trong cuốn Thi
nhân Việt Nam (1941). Phong trào đó là biến cố lớn nhất
trong lịch sử văn học Việt Nam từ trên một thế kỉ nay. Chuyện
đời xưa của Trương Vĩnh Kí chỉ đánh dấu sự thay đổi chữ viết (bỏ chữ
Nôm mà dùng chữ Quốc ngữ); thơ mới đánh dấu sự thay đổi lối phô diển, tức cả
cảm quan và mĩ quan nữa.
Muốn thấy sự biến chuyển sâu xa đó trong tâm
hồn thanh niên, tôi cho không gì bằng so sánh ba bài thơ cùng vịnh thu dưới
đây:
-------------------THU
-----Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
-----Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
-----Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
-----Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
-----------------THU ĐIẾU
-----Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
-----Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
-----Sóng biếc theo làn hơi gợn tí.
-----Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
-----Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
-----Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
-----Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
-----Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
-------------ĐÂY MÙA THU TỚI
-----Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
-----Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
-----Đây mùa thu tới - mùa thu tới
-----Với áo mơ phai dệt lá vàng.
-----Hơn một loài hoa đã rụng cành
-----Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.
-----Những luồng run rẩy rung rinh lá...
-----Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
-----Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
-----Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
-----Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
-----Đã vắng người sang những chuyến đò...
-----Mây vẩn từng không chim bay đi,
-----Khí trời u uất hận chia li.
-----Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
-----Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Bài đầu của bà Ngô Chi Lan, một nữ sĩ nổi
tiếng giỏi thi ca, từ khúc, được Lê Thánh Tôn triệu vào cung dạy cung nhân, chỉ
có 4 câu, 28 chữ mà tả đủ cả trời, nước, gió, chim (nhạn), hoa (sen), lá
(phong), cả tiếng lá rụng nữa. Nhưng những nét đó toàn là những nét “ước định”
(conventionnel) của Trung Hoa thời xưa, có nét không hợp với thu Việt Nam như
“rừng phong lá rụng”, vì nước mình không có cây phong, cho nên chỉ có thể bảo
thu đó là thu của Trung Hoa, không phải của Việt Nam. Hơn nữa, không thấy ý
nghĩ, cảm xúc của tác giả vì ba chữ “cảnh tiêu sơ” cũng chỉ là một nét ước định
thôi; thu thì cảnh bao giờ cũng tiêu sơ, ai tả thu bao giờ cũng ghi nét đó; nếu
bảo đó là cảm xúc thì chỉ là cảm xúc chung của mọi người, không phải riêng của
tác giả. Đã vậy, tác giả dùng những tiếng rất sáo như: gió vàng, giếng ngọc.
Tóm lại tác giả lẩn tránh, không để mình hiện trong thơ. Không có cá nhân tác giả.
Bài giữa của Nguyễn Khuyến dùng 8 câu, tả
nhiều chi tiết hơn mà chi tiết nào cũng có tính cách Việt Nam, nhất là hai câu
5-6: rõ ràng là thu ở nông thôn Bắc, không thể ở rừng núi, ở thành thị, cũng
không thể ở nông thôn Nam được: vì mùa thu trong Nam là mùa mưa, mùa nước lụt,
trời thường u ám mà nước luôn luôn đục. Tôi còn ngờ rằng cảnh cá đớp động dưới
chân bèo ở Trung Hoa cũng không có.
Tác giả dùng toàn những tiếng Việt mà dùng rất
đắc thế: nước trong veo, bé tẻo teo, hơi gợntí,
sẽ đưa vèo, vắng teo. Ta lại thấy tác giả ngồi tựa gối
buông (có sách chép là ôm) cần trong chiếc thuyền bé tẻo teo nữa. Thấy cả tính
tình tác giả: kín đáo, ung dung, nhàn tản, đi câu mà không cốt được cá, chỉ cốt
ngắm cảnh, (một cảnh thật đẹp, không tiêu sơ, vì ở quê ông, miền hạ du Bắc
Việt, thu không tiêu sơ như ở Trung Hoa); có thể ông đương mong khách tới chơi
nữa (ngõ trúc quanh co khách vắng teo).
Không có một chữ nào sáo hay cầu kì, toàn là
tiếng Nôm cả. Tôi cho bài đó là bài vịnh thu hay nhất của mình thời trước.
Bài cuối của Xuân Diệu, không phải là bài tả
thu hay nhất trong thơ mới. Tôi sở dĩ lựa, vì Xuân Diệu rất thiết tha, rạo rực,
say đắm, đại biểu cho thanh niên thời đại của ông: không nhà thơ nào chịu ảnh
hưởng đậm của thơ Pháp như ông.
Trong mắt các nhà thơ cũ thì bài Đây
mùa thu tới rườm quá, nhiều chữ trùng điệp (điều đó kị trong thơ) như
câu đầu đã “đứng chịu tang” thì tất buồn rồi, chữ “buồn” trong câu nhì hóa dư;
câu ba tại sao lặp lại “mùa thu tới”? Rồi đã “nhành khô gầy”, lại “xương mong
manh”. Ngoài ra có những chỗ Tây quá, các cụ cho là ngây ngô như “hơn một loài
hoa”, “sắc đỏ rủa màu xanh”... Nhưng chính những chỗ đó, thanh niên thời
1935-1940 lại rất thích vì mới mẻ. Ba tiếng “chim bay đi”, các cụ chê là lời
đàn bà, con nít, mà lại không ngâm được, tác giả không thuộc luật bằng trắc;
nhưng phái mới lại khen ba âm bình bổng đó đi liền nhau gợi hình ảnh một đàn
chim bay thành hàng trên trời mà Xuân Diệu không phải là không thuộc luật, ông
đã dụng ý phá luật, chứng cứ là toàn bài, trừ ba chữ đó ra, còn đều giữ đúng
luật cả.
Ta phải nhận rằng Xuân Diệu có những ý mới,
hình ảnh lạ, những nhận xét đúng, như “Đã nghe rét mướt luồn trong gió, đã vắng
người sang những chuyến đò”; và bốn câu sau thật buồn, riêng hai câu cuối vừa
đẹp, vừa diễn tả một nỗi bâng khuâng, buồn vơ vẩn, không hề thấy trong thơ cũ.
Sau một thời gian bút chiến giữa hai phái thơ
cũ và thơ mới, thơ mới thắng; phái mới hồn thơ dào dạt, đa số có tài, mỗi nhà
một vẻ như Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thế Lữ, Vũ Hoàng
Chương, Thâm Tâm, Bàng Bá Lân... làm cho thơ Việt rất thịnh một thời, như trăm
hoa đua nở, chỉ trong mươi năm đuổi kịp được một trăm năm thơ Pháp, từ Lãng mạn
đến Thi sơn (Parnasse), Tượng trưng. Nhưng khi Xuân Xanh bắt trước Mallarmé thì
độc giả không theo nổi, chê là thơ “hủ nút”. Người ta lại càng chán hạng bất
tài “vô bệnh thân ngâm”, chuyên làm thơ ủy mị “anh anh, em em”.
*
Kịch của phương Tây cũng được một số văn thi
sĩ thí nghiệm, thành công ít nhiều như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng
Chương... nhưng ngành này không thịnh, chỉ có chút ảnh hưởng ở vài thành phố ngoài Bắc.
BIÊN KHẢO TRƯỚC NĂM 1945
Về ngành biên khảo dịch thuật, phái tân học
cũng góp công được nhiều. Thời Nam Phong, phái cựu học nhận nhiệm vụ “bàn giao”
cổ học lại cho phái tân học, dịch được Mạnh tử,Luận ngữ, ít
thiên Liệt tử, Mặc tử, ít thơ văn Trung Hoa: cổ văn, Tình
sử; giới thiệu Chiến Quốc sách, Tư Mã Quang; dịch vài bộ sách
cổ của ta như Vũ trung tuỳ bút, Lĩnh Nam dật sử… Chỉ có
Phan Kế Bính là soạn được một tập biên khảo: Việt Hán văn khảo nhưng
sơ sài quá. Nên kể thêm các truyện Tàu như Đông Châu liệt quốc, Tam
Quốc chí, Thuỷ hử…
Thật là một điều đáng ngạc nhiên: chính một
nhà tân học, Trần Trọng Kim, lại âm thầm tiếp tục làm công việc bàn giao mà các
nhà cựu học bỏ dở: bộ Nho giáo của ông (cuốn đầu xuất bản năm
1930) rất đầy đủ, chép lịch sử đạo Nho từ đời thượng cổ đến nhà Thanh (thêm một
chương về Nho giáo ở Việt nam), được các nhà cựu học khen là rất quí, sáng sủa,
tinh tế, ngay Phan Khôi cũng phải nhận là các nhà Nho không sao viết nổi.
Bộ sử Việt Nam đầu tiên bằng tiếng
Việt cũng của Trần Trọng Kim; bộ văn phạm Việt Namđầu tiên bằng tiếng Việt
cũng do ông soạn. Người dịch nhiều thơ Đường nhất cũng lại là ông trong khi ông
lánh mặt ở Singapore. Ông là học giả đáng làm gương cho lớp sau, là nhà
biên khảo có công nhất, có uy tín nhất trong nửa đầu thế kỉ. Cùng với ông, có
thể kể thêm Bùi Kỉ, người soạn cuốn Quốc văn cụ thể và hiệu
đính, chú thích một số truyện bằng thơ Nôm của ta: Kiều, Trê cóc...
Khi thế chiến thứ nhì nổ ở châu Âu, văn học
của ta chuyển hướng.
Không ai bảo ai, người đọc đều chán loại báo
vui vẻ, trẻ trung, loại tiểu thuyết tình ái lãng mạn; mà người viết cũng chán
không muốn viết các loại đó nữa.
Các báo có tính cách khảo cứu, phổ thông kiến
thức, giáo dục như: Thanh Nghị, Tri Tân, Khoa Học, dù khô khan cũng
bán khá chạy; và những nhà xuất bản Hàn Thuyên, Mai Lĩnh, Tân Việt cho ra những
cuốn phổ thông kiến thức về sử (lịch sử thế giới), triết Tây (Bergson của
Nguyễn Chí Thiệp), triết Đông (Lão tử, Mặc tử của Ngô Tất Tố), về thực nghiệp
(của Lê văn Siêu).
Ai cũng hóa ra đăm chiêu, tự hỏi tương lai thế
giới sẽ ra sao, nước nhà sẽ ra sao, và mỗi người phải làm gì, chuẩn bị ra
sao...
Vậy là phong trào báo chỉ mới, tiểu thuyết và
thơ mới thực sự chỉ phát triển mạnh trong khoảng tám chín năm, từ 1932 đến 1939
(không kể truyện Tố Tâm xuất hiện lẻ loi năm 1925) rồi ngưng
lại, lùi bước; nhưng nó đã ồ ạt xâm chiếm tâm hồn thanh niên ở thành thị, thay
đổi một xã hội, hào quang của nó rực rỡ, ảnh hướng của nó sâu, nó đánh dấu một
giai đoạn chuyển mình của dân tộc.
PHONG HÓA
Trong hai tiết Tiểu thuyết từ 1925...
và Thơ mới, tôi đã kể nhiều sự thay đổi trong nếp sống từ khi ta
tiếp xúc với văn minh phương Tây. Sự thay đổi đó bắt đầu từ thập niên 20
(1920-1929), nhưng qua thập niên sau, từ khi có phong trào vui vẻ trẻ trung của
nhóm Tự Lực, nó mới tiến nhanh, mà cũng chỉ thấy rõ ở các thành thị thôi, còn ở
thôn quê thì người dân vẫn giữ cổ tục.
Thay đổi nhiều nhất là giới thanh niên nam nữ.
Họ thích chủ nghĩa cá nhân, muốn thoát li gia đình, tự do sống theo ý mình, tự
do kết hôn v.v... Nhưng vì tổ chức xã hội, tình hình kinh tế nước mình, họ vẫn
phải sống nhờ gia đình, nên họ chỉ muốn tới mức nào đó thôi. Còn bậc cha mẹ
hoặc vì thương con, hoặc vì tự xét không chống lại được trào lưu, nên cởi mở
lần cho con, sau cùng cũng tự thay đổi một chút cho khỏi lạc hậu. Xã hội đó
không bị xáo trộn lắm.
Trước kia, trong những gia đình nề nếp, con
gái chỉ được học vài năm, biết đọc biết viết thì thôi, rồi lo việc bếp nước,
may vá, săn sóc các em, chăm nom việc nhà; họ ít khi được ra ngoài một mình; y
phục thì dài, rộng, che hết các đường cong của thân thể, màu sắc không lòe
loẹt, quần chỉ dùng màu đen, răng nhuộm đen, tóc vấn khăn, để đuôi gà. Việc hôn
nhân thì cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy.
Từ thập niên 30, đã nhiều gia đình cho con gái
học nghề cô giáo, cô mụ, kĩ sư, dược sĩ, bác sĩ...; họ hội họp thường với bạn
trai, đi xe đạp, rồi lái xe hơi, tập thể thao, chơi quần vợt, bơi ở hồ tắm, học
đàn, ca, “nhảy đầm”. Y phục thì bó sát người, áo màu, quần trắng, răng trắng,
tóc vấn tròn, sau cắt ngắn; họ đi coi hát bóng, cải lương, kịch, đá banh, đi
một mình hay với bạn gái hoặc trai. Về hôn nhân, họ được phép tự quyết định,
cha mẹ chỉ góp ý thôi.
Báo chí thỉnh thoảng cũng đăng tin một cặp nam
nữ thất vọng về tình duyên, cùng nhau tự tử, tin con gái bỏ nhà theo trai, tin
vợ xin li dị chồng, hoặc giết chồng... những chuyện đó thời xưa cũng có, và
thời nào cũng ít, không đủ để kết tội một xã hội là “cương thường đã đảo
ngược”. Xét chung, bọn chúng tôi thời đó ít người lố lăng, đa số đứng đắn, lễ
độ, biết trọng cha mẹ, thầy học; một số có tư cách, lí tưởng nữa, và chế độ gia
đình vẫn vững, xã hội vẫn ổn định. Phái nữ cũng đáng khen, lanh lẹn, tháo vát
và tiến bộ hơn xưa: khi lập gia đình rồi thì biết hi sinh cho chồng con, nhất
là trong cơn hoạn nạn.
Tóm lại, một số tục cổ đã bỏ, nhưng tinh thần
đạo đức phương Đông còn giữ được; ảnh hưởng của Nho giáo vẫn ngấm ngầm tác
động, để đến khi xã hội biến chuyển hoặc quốc gia lâm nguy thì nó dậy lên để cứu vớt dân tộc.
[2] Trong một chương trên tôi đã nói năm 1930, chỉ một lớp ở
trường Bưởi đã có hai bạn tôi là đảng viên.
[3] Trong bài “Sự ra đời của Đại học Đông Dương qua tài liệu
lưu trữ”, Đ.T.D cho rằng trường Đại học Đông Dương được thành lập ngày
16/5/1906, tổ chức lễ khai giảng đầu tiên cuối tháng 11/1907; nhưng sau năm học
đầu tiên kết thúc, trường đột ngột đóng cửa… (http://news.vnu.edu.vn:8080/BTDHQGHN/Vietnamese/
C1787/2006/03/N7403/). (Goldfish).
Chương XV
THẾ CHIẾN THỨ NHÌ
ĐỨC MẠNH LÊN – PHÁP
THUA
Đầu năm 1938, khi nhà tôi có mang được bảy tám tháng, vợ chồng
tôi không hiểu sao tin chắc sẽ sinh con trai và bàn tính với nhau đặt tên cho
nó là Nhật Đức. Nhật Đức có nghĩa là đức của mặt trời và còn một nghĩa nữa là
Nhật và Đức, hai dân tộc có tinh thần quật cường mạnh nhất thời đó.
Nhật chỉ sau 35 năm duy tân đã theo kịp Âu, Mĩ và năm 1905 đã
thắng Nga, một nước lớn ở Âu châu, rửa nhục cho các giống da vàng bị giống da
trắng ức hiếp, xâm chiếm đất đai, bóc lột; và các quốc gia lớn nhỏ từ Ấn Độ đến
Phi Luật Tân có cảm tình ngay với Nhật, hăng hái muốn noi gương Nhật.
Còn Đức thì sau thế chiến thứ nhất, phải ký hiệp ước Versailles
rất khắt khe: mất một phần thổ địa, mất hết các thuộc địa; không được phép có
không quân; lục quân và hải quân bị rút xuống chỉ còn là lực lượng cảnh bị
trong nước; lại phải bồi thường chiến phí rất nặng, tưởng không sao ngóc đầu
lên nổi. Vậy mà từ năm 1925, Hitler khéo lợi dụng lòng phẫn uất của dân chúng,
táo bạo đưa ra một đường lối cứu quốc để phục hồi địa vị đại cường của Đức ở
châu Âu và trên thế giới (trong cuốn Mein Kampf: cuộc chiến đấu của
tôi), được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt, do đó nắm được chính quyền, xé bỏ hiệp
ước Versailles, tổ chức lại quân đội, vừa tuyên truyền, dọa dẫm, vừa dùng ngoại
giao, khiến Đức tới năm 1938, lại có cái khí thế lấn át các nước Trung Âu và cả
Pháp ở Tây Âu nữa.
Lỗi ở các nước đồng minh ức hiếp dân tộc Đức quá trong hiệp ước
Versailles; ở các nhà cầm quyền Pháp không đoàn kết, nhu nhược, không biết lo
xa; nhưng cũng ở các nhà cầm quyền Anh nữa, làm ngơ cho Đức tổ chức lại quân
đội, nhất là hải quân vì truyền thống ngoại giao của họ là giữ sự quân bình lực
lượng ở lục địa Tây Âu, không muốn cho Đức yếu quá, sợ Pháp sẽ nuốt Đức mà hóa
vô địch châu Âu. Anh cũng không muốn cho Đức mạnh quá, nhưng khi đã lỡ cho Đức
lập lại quân đội, thì lực lượng, quân số, võ khí của họ tiến rất mau, ngăn họ
lại không kịp.
Vậy khi Đức đã chiếm được Áo, muốn nuốt luôn Tiệp Khắc, Anh và
Pháp nhượng bộ Đức, bỏ rơi Tiệp, tưởng như vậy Hitler sẽ thỏa mãn mà châu Âu
được yên ổn. Không ngờ năm 1939, Đức kí với Nga một hiệp ước không xâm phạm lẫn
nhau; rồi đem quân vô chiếm Ba Lan. Lần này Anh Pháp không nhượng bộ nữa, thế
chiến thứ nhì nổ (tháng 9 năm 1939).
Hết thảy gia đình bên tôi và bên nhà tôi (mà tôi đoán đa số giới
trí thức Việt Nam cũng vậy) thấy Đức mạnh lên thì mừng vì Đức là kẻ thù của
Pháp; và khi Anh, Pháp tuyên chiến với Đức thì ai cũng thầm mong cho Đức thắng,
nhưng chưa dám chắc vì Đức chỉ có một mình; các cường quốc Nga, Mĩ, Ý, Nhật đều
đứng ngoài coi. Chúng tôi còn hơi lo nữa: vật giá đã lần lần tăng lên, đời sống
sẽ khó khăn. Tôi còn nhớ, sau khi chiến tranh nổ được độ nửa tháng, một buổi
chiều đi lang thang ở chợ cũ, thấy giá các đồ nhập cảng đã tăng lên gấp rưỡi
hay gấp hai, tôi mua một con dao nhíp (canif) - trong Nam gọi là con dao con
chó – lưỡi thép, vỏ đồng, để gọt bút chì, rọc và xén giấy mà người Huê kiều chủ
quán bảo là của Đức. Con dao đó là vật duy nhất tôi còn giữ được, sau bốn chục
năm, nay lưỡi đó đã mòn gần hết.
Pháp rất tin rằng chiến lũy Maginot ở phía Bắc ngăn được Đức,
nên đưa quân lên đó, không ngờ chờ hoài không thấy gì cả; và thình lình tháng
5-1940, Đức không kể gì đến sự trung lập của Hòa Lan, Bỉ, đi vòng chiến lũy, ồ
ạt xâm lấn hai nước trên rồi tiến như vũ như bão vào đất Pháp, chọc thủng
Sedan, vượt sông Meuse. Liên quân Anh Pháp không cự nổi, rút lui.
Lúc này chúng tôi mừng rỡ: Pháp sẽ thua. Một hôm viên kĩ sư sở
tôi bảo một họa viên phóng lại một bản đồ phía Bắc nước Pháp tới ngang Reims,
tôi bảo ông ta: “Cũng một công, sao ông không bảo phóng thêm xuống khởi Paris đi?”
Ông ta ngó tôi, đáp: “Chúng không tớiParis được đâu”. Tôi nghĩ bụng: “Để
coi”.
Ngày 14 tháng 6 Paris bỏ ngỏ cho Đức vô. Dân Paris tản
cư trong cảnh hỗn độn không thể tả. Chưa bao giờ Pháp thua một cách mau chóng,
nhục nhã như vậy. Paul Reynaud từ chức, thống chế Pétain năm đó đã 84 tuổi,
đứng ra lập nội các mới, ngày 17-6 xin đình chiến. Nước Pháp bị chia đôi, miền
Bắc bị Đức chiếm, miền Nam gọi là “miền tự do” do Pétain làm quốc
trưởng, thành lập chính phủ Vichy.
Ngay ngày hôm sau 18 tháng 6, tướng De Gaulle ở Londres hô hào
dân Pháp tiếp tục cuộc kháng chiến; và lần lần thành lập được “nước Pháp tự
do”.
ĐÔNG DƯƠNG TRONG ĐẦU
CHIẾN TRANH
Pháp thua, những người Việt yêu nước mừng lắm và hi vọng lần này
có thể gỡ ách của Pháp được. Một nhật báo ở Sài Gòn đăng tin không biết có phải
là trào phúng không: ở một tỉnh nọ miền Hậu Giang, một buổi tối, vài ba thanh niên
lái xe đạp đi chơi, khi xuống một dốc cầu, một thanh niên bỗng la lớn: “Đức
thắng rồi, tụi bay ơi!”' Một tên lính gác cầu bắt lại; thanh niên đó ngạc nhiên
hỏi: “Tôi làm gì mà bắt tôi?”
- “Tại anh la Đức thắng”
- “Thì thắng của tôi đức đây nè.”
Tên lính cúi xuống coi cái thắng (cái “phanh” để hãm xe), thấy
nó đứt thật, tẽn (mắc cỡ) lính gác cho thanh niên đó đi. Một ít tay sai của
Pháp còn quyến luyến với chủ như chú lính đó.
Ảnh hướng thứ nhất tới Việt Nam là Nhật, ngay từ ngày 19 tháng 6
đã đưa tối hậu thư cho chính quyền Pháp ở Đông Dương buộc phải đóng cửa biên
giới Việt Nam-Trung Hoa, không cho chở xăng và một số dụng cụ bằng đường xe lửa
qua Trung Hoa nữa. Lúc đó Nhật đương đánh nhau với Trung Hoa và đã chiếm được
gần hết các thành phố lớn ở duyên hải từ Bắc tới Nam Trung Hoa. Tướng Catroux,
toàn quyền Đông Dương chịu đóng biên giới nhưng đòi phải có một thỏa hiệp rõ
ràng giữa Pháp và Nhật; và trong khi chờ đợi, ông ta vẫn liên lạc với Anh ở
Singapour, hi vọng nhận được khí giới của Anh, Mĩ. Chính phủ Vichy cách chức
ông, đưa Hải quân Đề đốc Decoux lên thay, và ít bữa sau Pháp kí hoà ước với
Nhật.
Hai bên thương thuyết với nhau: Nhật chịu nhận chủ quyền của
Pháp ở Đông Dương, mà Pháp chịu cho Nhật được nhiều dễ dàng về quân sự ở Bắc
Việt để Nhật giải quyết cho xong chiến tranh với Trung Hoa. Không đợi kết quả
cuộc thương thuyết, quân đội Nhật trong đó có một số nhà yêu nước Việt Nam,
đánh phá Lạng sơn và một số đồn ở biên giới. Cả hai bên tổn thất nặng (tháng
9-1940). Hiệp ước Pháp Nhật kí rồi, việc đó êm.
Cũng vào khoảng đó,
Thái Lan tấn công để đòi lại vài tỉnh: Battambang, Siemreap... Pháp đưa quân
lên chống cự. Thái được Nhật ủng hộ, Pháp phải nhượng cho Thái ba tỉnh ở Miên
và hai tỉnh ở Lào[1].
Ở Nam Việt đảng Cộng sản nổi lên nhiều nơi như Tam Bình, Vũng Liêm, Xoài Hột...
bị Pháp đàn áp tàn nhẫn.
Tháng 7 năm sau (1941)
Nhật lại buộc Pháp phải để cho họ dùng một số sân bay, đổ bộ ở Sài Gòn, Cam
Ranh. Pháp phải nhượng bộ nữa. Lúc đó tôi nghỉ phép, đi thăm cảnh Nha Trang -
Tuy Hòa - Qui Nhơn, vừa về tới nhà ở Khánh Hội thì được lệnh phải dọn đi ở chỗ
khác nội trong 48 giờ, vì gần trọn khu bến tàu ở Khánh Hội để cho quân Nhật
đóng. Gia đình tôi phải đi ở nhờ một người bà con một hai ngày mới kiếm được
một căn phố chật hẹp ở đường Monceau (sau đổi là Huỳnh Tịnh Của)
Ngày 7-12-1941, Nhật thình lình tấn công Pearl Harbour (Trân
Châu cảng), ở quần đảo Hawai; Mĩ bị thiệt hại nặng[2].
Ba ngày sau, Nhật lại đánh đắm hai hàng không mẫu hạm lớn nhất của Anh ở ngoài
khơi Mã Lai. Tin đó làm cho người Việt nào cũng phấn khởi, ảnh hưởng lớn hơn vụ
Nhật thắng hải quân Nga năm 1905 nhiều. Lần này Nhật thắng được hai cường quốc
bực nhất Mĩ, Anh; chỉ trong một tháng lần lần chiếm hết các quần đảo lớn nhỏ ở
Thái Bình Dương (trừ Úc), Thái Lan, Miến Điện, ngấp nghé cả Ấn Độ nữa. Đông
Dương tuy còn thuộc Pháp nhưng đã ở trong tay họ rồi. Chương trình Đại Đông Á
của họ đã gần thực hiện được.
Họ đặt nhiều cơ sở ở
Việt Nam, nhiều người Việt học tiếng Nhật, làm việc cho họ - hai người anh con
bác Ba tôi, Tân Phương và Việt Châu, làm sở Thông tin Domei của họ. Lính họ đi
nghênh ngang ngoài đường, lùn tịt mà gươm dài sát đất. Pháp phải cung cấp cho
họ đủ thứ: thực phẩm, than đá, xi măng... Và nhân dân thì chịu thiếu đủ thứ,
nhất là vải và thuốc men. Năm 1944, một số nông dân ở Rạch Giá phải ở trần, chỉ
có mỗi chiếc quần cụt bằng bố tời. Thuốc Tây thì kí ninh cũng thiếu, mà thuốc
Bắc thì những vị hoàng cầm, hoàng bá đều là thuốc giả. Giấy báo và giấy viết
như tôi đã nói, vừa đen vừa xấu, in sách phải dùng giấy bản làng Bưởi. Miền Nam may
mắn có đủ gạo ăn, miền Bắc đầu năm 1945 có hàng triệu người chết đói vì chính
sách thu lúa tàn nhẫn của Pháp và Nhật, và vì đường giao thông nghẽn, không chở
gạo trong Nam ra cứu đồng bào ngoài đó được.
Năm 1939, một lượng
vàng giá khoảng 160 đồng, đầu năm 1945 giá trên 1.000 đồng; đồng bạc bị phá giá
gấp 6 lần; đời sống rất khó khăn. Vậy là từ năm 1930 tới năm 1945, trong 15, 16
năm, hết nạn kinh tế khủng hoảng, dân mới dễ thở được độ 5 năm (1935-1939) thì
lại bị nạn chiến tranh. Công việc kiến thiết, khai hoang, phát triển công
nghiệp, từ 1920 đến 1945 mới bắt đầu thực hiện được trong khoảng 15 năm (từ
1920 đến 1930, từ 1935 đến 1939) đã hai lần bị ngưng trệ, mỗi lần khoảng 5 năm.
NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC –
CÁC GIÁO PHÁI Ở NAM
Phải thú thực rằng thời đó chúng tôi cũng như hầu hết mọi người,
không biết gì về tình hình thế giới cả. Trong nước có lẽ chỉ các tổ chức cách
mạng là có máy thâu thanh, còn thường dân nếu có - số này hiếm lắm, cả sở tôi
không người nào có - thì cũng phải nộp cho chính quyền Pháp, hoặc cất giấu đi,
không dám dùng, thành thử ai cũng chỉ biết những tin tức mà Nhật và Pháp muốn
cho biết thôi. Tất nhiên Nhật chỉ loan những tin lợi cho Nhật, Pháp cũng chỉ
thông báo những tin của chính phủ Vichy; tất cả những tin đó đều một
chiều, thiếu thốn, nếu không sai.
Vì vậy chúng tôi không biết Hitler tàn sát hằng triệu dân Do
Thái ra sao, Mĩ mạnh ra sao và từ cuối 1942, Đức yếu ra sao.
Chúng tôi được nghe nói Nhật rất tàn nhẫn với thuộc địa của họ
(Triều Tiên, Mông Cổ, Mãn Châu), chẳng hạn biết ba nhà phải dùng chung một con
dao phay (sợ dân thuộc địa dùng dao mà nổi loạn chăng?). Một nhà văn Việt Nam –
Nguyễn Vĩ - viết cuốn Kẻ thù là Nhật Bản, nhưng cuốn đó không được
phổ biến trong thời chiến tranh, nên nhiều người không được đọc.
Mà chúng tôi cũng không hề tính xa: hết chiến tranh, nếu Nhật
Bản, Đức mà thắng thì họ có cho dân tộc mình được chút nào hay không, hay chính
sách thực dân của họ còn tàn khốc hơn của Anh, Pháp nữa?
Chúng tôi chỉ biết mỗi một điều là họ thù địch với Pháp nên mong
nhờ họ gỡ cho cái ách của Pháp đã, rồi ra sao thì sau sẽ hay. Tôi không làm
chính trị, chỉ có lòng yêu nước, không muốn một nước nào chiếm giang sơn của
mình, tước hết chủ quyền của mình, bắt mình làm nô lệ:
“Nam quốc sơn hà” thì phải “Nam tộc cư”.
Đó là tâm lí của mọi người Việt Nam, trừ một số Việt gian,
bất kì trong giới nào. “Dù bị đô hộ một trăm năm, một ngàn năm, dân Việt Nam vẫn
còn tinh thần Việt Nam, vẫn không chịu thừa nhận chính quyền ngoại nhân.
Chính quyền ngoại nhân bao giờ cũng chỉ như một miếng da “cấy” vào một cơ thế
khác, thế nào rồi cũng bị đẩy ra (...). Cứ xét các ông vua triều Nguyễn được
Pháp đưa lên thì biết: ông nào có tư cách cũng chỉ ít thăng là chống lại họ,
còn ông nào ngồi lâu được thì dân không thèm biết tới”. (Cụ Phan và lòng dân –
Bài đã dẫn).
Nước nước nào giúp chúng tôi lật đổ Pháp, đuổi Pháp đi là chúng
tôi mang ơn, mặc dầu chúng tôi biết rằng nhờ một thực dân đuổi một thực dân thì
không khác gì “tiền môn cự hổ, hậu môn tiến lang”[3] (của
trước đuổi con cọp mà cửa sau rước con chó sói vào) như cụ Phan Chu Trinh và
các cụ trong Đông Kinh nghĩa thục nói; biết rằng trên thế giới không có một
chính phủ nào nhân từ cả, chỉ có cá nhân tốt thôi, mà người nào dù tốt mà làm
chính trị thì cũng phải bỏ lòng công bằng, nhân ái đi mà chỉ nghĩ cái lợi cho
quốc gia. Khi cái lợi của quốc gia bắt buộc thì họ cũng phải nuốt ngay lời hứa
mà phản bạn như Nhật tháng 9 năm 1940 sau khi kí hiệp ước với Pháp, được Pháp
nhường cho một chút quyền lợi ở Đông Dương rồi, liền để cho Pháp tàn sát các
nhà cách mạng Việt Nam đã nghe lời họ, theo họ đánh phá các đồn ở Lạng Sơn.
Chính sách của Nhật lúc đó là cho Pháp tạm nắm chủ quyền ở Đông
Dương, miễn Decoux ngoan ngoãn nghe lời, Nhật đòi gì cũng sẵn sàng cung cấp;
như vậy Nhật được rảnh tay đối phó với Mĩ, Anh ở Thái Bình Dương. Cho nên khi
Pháp thẳng tay đàn áp đảng Cộng sản Đông Dương, họ làm thinh, còn thích là khác
nữa.
Đối với Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Phục quốc hội của Cường
Để, họ cũng không giúp đỡ gì, và cứ hẹn lần, bắt phải chờ thời. Khi thế chiến
phát, ở Nam, hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cũng nổi lên làm chính trị.
Mới đầu Cao Đài do Lê Văn Trung, một
viên Hội đồng quản hạt thành lập, chỉ hoạt động về tôn giáo, thờ chung Phật,
Lão, Khổng, Ki tô, thêm cả Lí Bạch, Victor Hugo nữa, chỉ thiếu Mohamad. Họ dùng
cách cầu cơ để truyền bá tín ngưỡng, khéo tổ chức, đặt ra các chức sắc, có lễ
phục riêng, xây cất được nhiều thánh thất cùng một kiểu kiến trúc. Thánh thất
chính ở Tây Ninh. Sau một viên đốc phủ sứ ở Bến Tre lập một giáo phái riêng,
gọi là Cao Đài Bến Tre, nhưng không phát triển bằng Cao Đài Tây Ninh.
Năm 1934, Phạm Công Tắc lên thay Lê Văn Trung lúc đó đã chết và
hướng về chính trị; tới năm 1939, Cao Đài thành một đảng chính trị mạnh có
khoảng nửa triệu tín đồ và mỗi ngày mỗi thân Nhật hơn, ủng hộ Cường Để.
Hòa Hảo xuất hiện sau Cao Đài. Mới đầu Huỳnh Phú Sổ cũng chỉ là
một ông “đạo” như người ta thường thấy ở miền Tây, nhưng thông minh hơn, có tư
cách hơn. Chỉ là một nông dân học hết lớp ba ở trường làng Hòa Hảo (quận Tân
Châu - Châu Đốc) mà năm 1939 (21 tuổi ta) bỗng trị bệnh bằng nước lã, lá cây,
được nhiều người tin, lại thêm có tài làm thơ lục bát, giọng rất mộc mạc, ý
nghĩa không sâu sắc, nhưng làm rất mau. Bài thơ nào cũng có ý răn dời, khuyên
hiếu nghĩa, kính Phật; nhiều người xa lại xem, rất phục. Rồi lại làm những bài
“Sấm giảng” có giọng chính trị, tiên tri, báo trước rằng sắp “đổi đời” và sẽ có
một vị “vương” toàn đức toàn trí ra đời ở miền Thất Sơn làm vua ở Việt Nam, và
đưa dân tộc tới vinh quang. Việt Nam sẽ thành một nước văn minh nhất
thế giới. Tiếng tăm của ông lần lần lan khắp các tỉnh miền Tây, nơi mà tín đồ
nhiều nhất, rồi tới những tỉnh khác ở Nam, có lẽ cũng đông gần bằng tín đồ Cao
Đài. Người ta đoán phỏng được 500.000 người theo hẳn, còn số có cảm tình thì
tới cả triệu.
Giáo phái đó trước 1950 không có tổ chức gì cả (sau năm 1964 mới
tổ chức mạnh), không có một “thánh thất” như Cao Đài, ai theo thì cứ tu tại
nhà, tụng “giảng” của “Thầy” tức những bài thơ lục bát của Huỳnh Phú Sổ, và có
thể căng một tấm vải rộng màu nâu, gọi là “trần điều” gần nóc nhà, trên bàn thờ
Phật. Họ theo đạo Phật mà giản dị hóa cách tu, tụng niệm, ăn chay, chú trọng
đến đạo làm người, nhất là đạo Hiếu, Nghĩa.
Không có chức sắc, chung quanh giáo chủ chỉ có một số tín đồ
thân tín, mới đầu là nông dân, sau thêm một số người có học: một luật sư, vài
kinh lí, kĩ sư, bác sĩ. Những người này rất phục Huỳnh Phú Sổ mà họ gọi là
“Thầy” (Thầy Tư) vì họ tin rằng thầy là hậu thân của Phật Thầy Tây An ở Châu
Đốc thời xưa (Phật Thầy có tiên là Đoàn Minh Huyên, hiện còn mộ ở Núi Sam),
hoặc được một thần linh nào nhập vào nên không học mà xuất khẩu thành thi.
Nhà thầy ở làng Hòa Hảo, nhưng từ khi nổi danh, thầy thường đi
nơi này nơi khác thuyết giáo và được đệ tử đưa đón long trọng, mời về nhà để
hầu hạ.
Thầy không có một đường lối, một chương trình chính trị, mà đệ
tử cũng không có ai là chính khách, lập nổi một chương trình hoạt động. Không
gọi là một tổ chức chính trị được. Nhưng cũng như mọi người có tinh thần quốc
gia, thầy muốn đuổi Tây, mà tín đồ của thầy đông, coi thầy như thần thánh, thầy
bảo gì cũng nghe, nên người Nhật để ý tới giáo phái Hòa Hảo có phần hơn giáo
phái Cao Đài vì giáo phái Hòa Hảo có tính cách nông dân cuồng tín.
Dĩ nhiên chính quyền Pháp thấy hai giáo phái đó có thể gây rối,
nên năm 1941, bắt Phạm Công Tắc đày đi quần đảo Comores thuộc Madagascar trên
Ấn Độ Dương.
Còn Huỳnh Phú Sổ thì cũng năm đó, họ cho vào nhà thương điên ở
Chợ Quán, gọi thầy là “bonze fou” (nhà sư điên), sau đưa xuống an trí ở Bạc
Liêu. Ở đây thầy lại có cơ hội thu hút một số đông tín đồ nữa. Năm 1942, Pháp
thấy vậy tính đày thầy qua Lào để thầy hết thuyết giáo được vì khác ngôn ngữ,
nhưng chưa kịp thi hành thì hiến binh Nhật bắt cóc thầy đem về Sài Gòn, cho
thầy ở một biệt thự gần Sở Hiến binh của họ, Pháp phản kháng nhưng vô hiệu.
Nhật cũng cứu vài người khác có tinh thần quốc gia bị Pháp nghi
ngờ như Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc ở Bắc, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân ở Nam đưa
qua Singapour mà họ gọi là Chiêu Nam đảo, tính sau này có dịp thì sẽ dùng. Còn
các nhà cách mạng trong nhóm Đệ tứ quốc tế như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu,
Phan Văn Hùm đã bị nhốt ở Côn Đảo từ đầu thế chiến.
Qua năm 1944, Đức không ngóc đầu lên được nữa; tháng 6 năm 1944
Đồng minh đổ bộ lên bờ biển Normandie của Pháp, rồi Paris được giải phóng, De
Gaulle trở về Pháp.
Tháng 5 năm 1945 Hitler tự tử. Chiến tranh kết liễu ở châu Âu.
Ở Thái Bình Dương, Nhật rất lúng túng, lo lắng. Chính phủ Vichy
đã không còn, Pháp tự do đã đứng về phe thắng, Anh, Mĩ đã tấn công lấy lại các
đảo trên Thái Bình Dương, cả Phi Luật Tân nữa, thế nào Đồng minh cũng đổ bộ lên
Đông Dương, và người Pháp ở Đông Dương cũng đương tổ chức kháng chiến để tiếp
ứng quân Đồng minh. Nhật thấy tình thế nguy kịch rồi, phải lật Decoux, đánh
Pháp để nắm hết quyền ở Đông Dương mà chống cự với Đồng Minh, do đó có cuộc đảo
chính chớp nhoáng đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945.
NHẬT LẬT ĐỔ PHÁP ĐÊM
9-3-1945
Ở Sài Gòn, biến cố xảy ra thật đột ngột, chính người Pháp cũng
không ngờ. Tối hôm đó, đường tôi ở cũng yên tĩnh như mọi ngày; sáng hôm sau
dậy, trên đường lại sở, không thấy có gì khác - hoặc giả có mà không quan
trọng, lâu quá, tôi quên rồi chăng - tới sở mới biết là Nhật đã đảo chánh. Ai
cũng ngạc nhiên, nở nụ cười, nhưng vui tưng bừng thì hình như không. Tại cuộc
đảo chánh đó đợi lâu quá rồi, bây giờ đã quá trễ? Tôi đoán được tình hình Nhật
đã nguy mà mình sẽ bị họ lôi cuốn vào chiến tranh lúc gần tàn rồi chăng? Ai
cũng tự hỏi tương lai sẽ ra sao?
Báo chí cho hay 8 giờ tối hôm 9-3, đại sứ Nhật ở Sài Gòn đưa tối
hậu thư cho Decoux buộc Pháp phải đặt lực lượng quân sự Pháp ở Đông Dương dưới
sự chỉ huy của họ; Decoux trả lời có ý “hoãn binh”, Nhật ra tay liền. Nhờ tổ
chức tỉ mỉ từ trước, họ làm chủ tình hình Nam Kì rất mau. Ô Huế, Hà Nội, Pháp
chống cự được vài giờ rồi cũng phải đầu hàng. Ở Lạng Sơn, họ chống cự được mấy
ngày, sau bị Nhật tàn sát.
Tóm lại, chỉ trong không đầy 24 giờ, phần lớn quân đội Pháp bị
loại, các tướng bị bắt làm tù binh. Ở Nam và Trung có một ít quân
Pháp trốn được qua Lào, ở Bắc vài ngàn quân Pháp rút được qua Trung Hoa. Thường
dân Pháp được yên ổn. Nhật muốn gây xáo trộn càng ít càng tốt, vì họ đương gặp
nhiều khó khăn ở Thái Bình Dương, nên cho phép các nhà chuyên môn Pháp được
tiếp tục làm việc, nhưng công chức Việt không muốn. Cả sở Thủy lợi của chúng
tôi không còn người Pháp nào; một viên kĩ sư Nhật tạm nói được tiếng Pháp tới
điều khiển sở, nhưng công việc ở trong tay chúng tôi hết, ông ta chỉ biết kí
tên. Vả lại công việc cũng chẳng có gì.
Một vài kĩ sư Pháp mon men tới sớ, bị đánh. Tôi thấy trong cả
khu công chánh gồm nhiều sở ở đường Pellerin[4],
nơi tôi làm việc, chỉ có hai trường hợp hành hung công chức Pháp. Một kĩ sư có
tiếng là gắt gao bị một nhân viên – hình như theo đạo Cao Đài - quất bằng gân
bò, té, gãy xương sườn; và viên kĩ sư coi cả miền Nam từ phòng giấy xuống cầu
thang, bị khoảng hai chục nhân viên chặn ở chân cầu thang; vài người nhảy tới
thoi vào đầu, vào ngực; hắn can đảm, giữ được bình tĩnh, không chống đỡ, lách
ra cửa, và anh em chúng tôi thấy vậy không nỡ đánh nữa. Nếu hắn chống cự lại,
chắc bị đòn nặng hơn nhiều.
Còn ở ngoài đường thì tôi chỉ thấy mỗi một người Pháp già bị một
thanh niên đánh, té nhào xuống đường. Tôi hơi thương hại.
Sau tôi nghe nói một số người Pháp ở miền Tây trốn vào bưng,
không bị dân chúng đánh đập, giam giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ lương thực
cho họ nữa. Ở Nam này như vậy, mà có lẽ ở Bắc và Trung cũng không
khác mấy. Người Việt chúng ta chỉ muốn họ cút đi thôi, họ không chịu đi, để cho
người Nhật tống cổ họ thì chúng ta lại thương hại họ. Có người bảo người Việt
nào cũng có một ông Phật ở trong lòng, câu ấy đúng.
NỘI CÁC TRẦN TRỌNG KIM
– NHẬT ĐẦU HÀNG – VIỆT MINH ĐẢO CHÍNH - BẢO ĐẠI THOÁI VỊ
Thời cuộc biến chuyển rất mau, không ai ngờ nổi.
Chiều tối ngày 9-3, Bảo Đại đi săn về, bị Nhật giữ lại vì họ
đương tấn công Pháp, và sáng hôm sau mới thả cho về cung và cho biết Việt Nam đã
độc lập rồi. Trước kia ai cũng tưởng Nhật sẽ dùng Cường Để, nhưng Nhật có óc
thực tế, không muốn gây nhiều xáo trộn lúc đó, nên dùng Bảo Đại.
Bảo Đại liền tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng kể từ ngày
11-3, hiệp ước bảo hộ kí với Pháp bị hủy bỏ; Việt Nam lấy lại quyền độc lập và
hợp tác với Nhật để xây dựng cho Đại Đông Á được thịnh vượng.
Cơ mật viện, đứng đầu là Phạm Quỳnh đồng loạt từ chức.
Lúc đó Dương Bá Trạc đã chết vì bệnh ở Singapour, xác được hỏa
táng; Trần Trọng Kim đã qua Băng Cốc (Vọng Các), Nhật phái người đưa ông về Huế
để gặp Bảo Đại.
Trong cuốn Một cơn gió bụi (Vĩnh Sơn - 1969),
ông viết:
“Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế nào. Vì
trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ
săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7 tháng tư, tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang
nghiêm và nói những điều rất đứng đắn”.
Bảo Đại yêu cầu ông lập chính phủ. Ông chỉ muốn yên thân để
dưỡng già, từ chối vì bệnh tật, không có đảng phái và không hoạt động về chính
trị, đề nghị nên dùng Ngô Đình Diệm. Nhưng Ngô Đình Diệm từ chối – hay vì do gì
không biết - nên Bảo Đại cố nài ông vì nghĩa vụ mà lo việc nước và ngày 17-4
ông đành đứng ra lập nội các gồm toàn các kĩ thuật gia đứng đắn, có tinh thần
quốc gia như Trần Đình Nam, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Hồ Tá Khanh,
Vũ Ngọc Các, Trịnh Đình Thảo (Lưu Văn Lang không nhận). Trần Trọng Kim làm thủ
tướng.
Nội các bắt tay ngay vào việc, sửa soạn một hiến pháp, thay đổi
chính sách thuế khóa, lập các đoàn thanh niên tiền phong, đưa tiếng Pháp xuống
hàng ngoại ngữ, ân xá các chính trị phạm không phải cộng sản, và tranh đấu để
thống nhất ba kì, đòi quyền nội trị về mình... Nhật có lẽ thấy nguy tới nơi nên
không làm khó gì nhiều, lần lần trả lại hết.
Khó khăn nhất là nạn đói ở Bắc do Pháp (trước kia) và Nhật thu
lúa của nhân dân nhiều quá. Có cả triệu người chết đói, cảnh hỗn loạn lan tràn.
Lợi dụng tình thế, đảng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, có tổ chức rất chu
mật, có tinh thần hi sinh cao, giỏi tuyên truyền, khéo gợi lòng ái quốc của dân
và lôi cuốn được nhiều nông dân, nắm được quyền nhiều làng ở Bắc Việt, nhất là
miền thượng du. Ở Trung, Nam đảng đó cũng hoạt động kín đáo và mạnh.
Ai cũng biết Nhật cứ lùi hoài, mất hết đảo này tới đảo khác thì
thế nào cũng thua. Anh, Mĩ lúc đó khí thế rất hăng, nhưng mọi người - và chính
nội các Trần Trọng Kim cũng vậy - hi vọng rằng Nhật cầm cự được mươi tháng, một
năm đủ cho mình lập lại được trật tự trong nước, thi hành được một số cải cách,
cải thiện kinh tế, lập được một đạo quân phòng vệ. Tóm lại là dựng được một cơ
sở cho nền độc lập, rồi khi Nhật thua, đồng minh tới thì mình cũng dễ ăn nói;
Đồng minh vẫn tuyên bố cho tự do, không lẽ lại cướp nền độc lập của mình, lúc
đó đã thành “sự đã rồi”, mà bắt mình nô lệ trở lại. Mà nếu như vậy chăng nữa
thì có một chút khí giới, có một số quân đội đã luyện tập, toàn dân sẽ nổi dậy
chống cự, chết thì chết.
Ngờ đâu nội các Trần Trọng Kim hoạt động chưa được bốn tháng thì
ngày 6 tháng 8, Mĩ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima, ba ngày sau
thì trái bom thứ nhì xuống Nagasaki, chỉ trong một phút, cả một thành phố thành
bình địa, non 100.000 người chết, khoảng 100.000 người bị thương, 200.000 người
không có chỗ trú vì trong một vòng tròn bán kính là 15 km không còn một ngôi nhà
nào đứng vững.
Ngày 15 tháng 8 Nhật phải đầu hàng không điều kiện.
Hai ngày sau, Bảo Đại ban chiếu “thiết tha hiệu triệu những nhà
ái quốc hữu danh và ẩn danh (...) mau mau ra giúp trẫm để đối phó với thời
cuộc”, còn riêng ông ta thì “ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước
nô lệ”.
Cũng ngày đó (17-8), ở Hà Nội 20.000 người biểu tình trước Nhà
hát Tây và các nhà lãnh đạo Việt Minh xuất hiện lần đầu tiên trước quần chúng,
cờ đỏ sao vàng bay phấp phới khắp thành phố. Ngày 20 tháng 8, Việt Minh chiếm
được hết các cơ quan hành chánh ở Hà Nội. Ngày 21 tháng 8, Tổng hội sinh viên
“đại biểu mọi đảng phái, mọi tầng lớp dân chúng” đưa kiến nghị, đánh điện tín
yêu cầu Bảo Đại thoái vị để thành lập chính thể cộng hòa. Nội các Trần Trọng
Kim tự xét không đương nổi đại sự, tự ý rút lui.
Ngày 25 tháng 8, ba đại diện của Việt Minh là Nguyễn Lương Bằng,
Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tới Huế; Bảo Đại ban chiếu thoái vị, “khuyên tất cả
các giai cấp, các đảng phải, cho đến cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp
nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ”, rồi giao bảo ấn cho đại diện Việt
Minh.
Nhà Nguyễn chấm dứt sau non bốn thế kỉ, kể từ khi Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ ở Thuận Hóa, và từ hôm đó, hoàng đế Bảo Đại thành công dân Vĩnh
Thụy.
Ở Nam, Việt Minh do Trần Văn Giàu cầm đầu, tiếp xúc với các đảng
quốc gia như đảng Việt Nam độc lập của Hồ Văn Ngà, Thanh niên Tiền phong, một
số trí thức, một số Cao Đài, Hòa Hảo, cả nhóm “Trốt kít”, La Lutte, tổ chức một
cuộc biểu tình lớn ở Sài Gòn ngày 25 tháng 8.
Ngày 2-9 chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố ở Hà Nội Việt Nam độc
lập, là một nước Cộng hòa dân chủ, và thành lập chính phủ lâm thời gồm: Chủ
tịch Hồ Chí Minh và hơn một chục bộ trưởng: Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Cù
Huy Cận, Phạm Văn Đồng, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Tố...
Thế là lịch sử Việt Nam đã qua một chương khác.
VỢ CON TÔI TẢN CƯ -
HUỲNH PHÚ SỔ VÀ VIỆT CHÂU
Trong một chương trên tôi đã nói đầu năm 1944, Hải Phòng thường
bị phi cơ Đồng minh dội bom, cả một khu tan tành, đường xuyên Đông Dương bị cắt
nhiều nơi. Mùa hè năm đó Sài Gòn bị bom ở gần chợ Bến Thành, gần Sở thú... Trận
khủng khiếp nhất xảy ra tôi không nhớ vào tháng nào, trong khi tôi đi kinh lí
miền Tây bằng một chiếc tàu của sở. Mười hai giờ trưa tàu mới rời bến, tối tới
Mĩ Tho thì hay tin Sài Gòn bị bom, nhiều nơi cháy, từ Mĩ Tho nhìn về phía Sài
Gòn thấy hừng hừng một góc trời. Tôi cho tàu đậu lại, sáng hôm sau đi chuyến xe
lửa đầu tiên, tới Sài Gòn vào khoảng bảy giờ, hay tin khu Tân Định tôi ở không
sao. Tôi ghé thăm nhà: vợ con vẫn bình tĩnh, rồi tới sở hỏi viên kĩ sư có nên
tiếp tục cuộc kinh lí nữa không. Ông ta đáp: Thôi, để tàu dùng vào việc khác.
Lần đó có lẽ giang cảng Sài Gòn bị thiệt hại khá nhiều.
Dân chúng Sài Gòn bắt đầu tản cư, và tôi cho vợ con mang theo
tất cả những giấy tờ quan trọng xuống làng Long Điền, quận Giá Rai, Bạc Liêu,
tạm lánh ở nhà người em gái có chồng làm điền chủ và xã trưởng Long Điền (Lúc
đó ông nhạc tôi đã ra làm việc ở Tuy Hòa, không còn ở Giá Rai nữa).
Tôi ở lại nhà đường Huỳnh Tịnh Của với hai người anh, con bác Ba
tôi: Tân Phương và Việt Châu, em trai tôi và một đứa nhỏ giúp việc.
Vậy là cháu Nhật Đức mới vào học được mấy tháng ở trường tiểu
học Tân Định, đã phải nghỉ học một thời gian.
Cả hai anh tôi đều thông minh, có khiếu về văn: Tân Phương học ở
Cần Thơ, rớt Tú tài Pháp I, rớt vì dở toán quá, nghỉ học vài năm rồi qua Hương
Cảng. Thượng Hải chuyên học tiếng Anh hai năm, lúc đó làm thông dịch viên tiếng
Anh cho sở Thông tin Domei của Nhật; rồi giới thiệu cho em là Việt Châu vô làm.
Việt Châu chỉ có bằng tiểu học rồi về nhà học chữ Hán và Đông y.
Hai anh đều như tôi, rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sài Gòn, mong
Nhật đuổi Pháp đi, nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân Phương
không làm chính trị; Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do một cơ
hội nào được nghe thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành thi, lấy
làm lạ, nhất là thấy thầy như có một ma lực gì kì dị, thu phục được rất nhiều
người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ, xin được giáp mặt thầy. Tiếp xúc
vài lần, hai bên đều quí nhau: thầy Tư khen thơ Việt Châu hay nhưng ủy mị, Việt
Châu không khen thơ thầy Tư hay nhưng nhận là làm rất mau và có ý nghĩa răn
đời. Mới đầu giao tình chỉ có tính cách vì thơ văn
như vậy.
Tháng 7 năm 1945, Nhật nhờ thầy Tư đi khuyến nông ở khắp miền
Tây. Thầy rủ Việt Châu đi theo. Đi khoảng một tuần về, Việt Châu bảo tôi: “Con
người đó thật kì dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai
ba nơi, mỗi nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai ba giờ, ở giữa trời, trước
một dám nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời một,
có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, thầy Tư vẫn nói
mà dân chúng vẫn nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi nơi
khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ
chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế. Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà
mạnh thế”.
Tôi cũng rất ngạc nhiên, cho là một dị nhân, và tôi bỗng nhờ tới
Raspoutine thời Nicolas II ở đầu thế kỉ, nhưng không nói ra. Raspoutine cũng có
sức mạnh phi thường, cũng có tài thôi miên, nhưng đời sống bê bối, hình dáng
ghê tởm, rõ là một nhân vật bất tường, còn Huỳnh Phú Sổ thì ai cũng khen là
nghiêm trang, đạo đức.
Từ đó Việt Châu theo thầy Tư và trong nhóm trí thức chung quanh
thầy, thầy quí Việt Châu hơn cả, vì anh tuy ít học nhưng văn nhã, hoạt bát,
trong sạch, có nhiều lương tri. Họ thành một cặp tri kỉ.
Khoảng giữa tháng 8, thầy phái anh ra Hà Nội xem tình hình ngoài
đó và tìm hiểu thực lực của Việt minh. Anh ra tới Huế, yết kiến Trần Trọng Kim
cho biết tình hình trong Nam, rồi tiếp tục ra Bắc, mới tới Nghệ An (?) thì gặp
Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận từ Hà Nội vào để nhận ấn của Bảo
Đại, anh theo họ trở vô Huế, rồi về Sài Gòn.
Tôi biết vậy thôi, chứ con đường của ai người ấy đi, mà mọi việc
anh thường quyết định rồi mới cho tôi hay.
Từ khi Nhật đảo chánh, việc sở không có gì, tôi vẫn tiếp tục
viết lách, dịch thuật, nhìn xem Nhật hành động ra sao.
TỜ TÂN VIỆT NAM
Tháng 5 hay 6-1945, ông giám đốc nhà Tín Đức thư xã cho ra tờ
tuần báo Tân Việt Nam, mời ông Nguyễn Văn Nho làm chủ bút. Ông Nho
thuộc lớp sau Nguyễn Văn Tố, nổi tiếng học giỏi trong tỉnh Bắc Ninh, ở trường
Cao đẳng Sư phạm Hà Nội ra, đã viết ít bài đăng báo Pháp, và lúc đó dạy Việt
ngữ ở trường Pétrus Ký, có tiếng hơn giáo sư Phạm Thiều, được giáo giới quí,
học sinh trọng.
Tờ Tân Việt Nam 16 trang,
khổ như tờ Tri Tân[5],
có tính cách chính trị (số nào cũng có một bài xã luận lời già giặn của Nguyễn
Văn Nho), bán không chạy bằng tờ Thanh niên của Huỳnh Tấn Phát
vì hơi đạo mạo, có ít cây viết trẻ, phần văn nghệ kém.
Tôi nghĩ nước nhà đã đi vào vận hội mới nên
gởi ông Nho vài bài tuỳ bút, tiểu luận đã viết từ trước, ông đăng và mời tôi
lại nhà nói chuyện ở đường Boresse[6] (?).
Từ cửa bước vào là một phòng hẹp với một bàn viết, mấy cái ghế, cái tủ. Sách vở
giấy tờ ngổn ngang trên mặt bàn, dưới chân bàn, thật lộn xộn. Ông Nho khoảng 50
tuổi, lúc đó có lẽ đã bắt đầu bệnh cùi, mặt có vết đỏ hơi sần sùi, nhất là ở
tai. Ông thông minh, hoạt bát, cởi mở, hiểu đời và nhiều nhiệt tâm.
Tôi nhớ ông viết một bài về việc cứu đói ở Bắc Việt, đại ý bảo những kẻ yếu quá
rồi thì đành hy sinh họ đi, chỉ cứu những người còn còn có sức một chút,
vì không thể nào cứu hết được mà nếu chia đều cho mỗi người thì
rốt cuộc chẳng cứu được ai cả. Tôi phụcông
có óc làm chính trị.
Một hôm, ông ngỏ ý muốn giao nhiệm vụ chủ
bút cho tôi vì ông mắc nhiều công chuyệnchính trị. Tôi còn suy nghĩ chưa
kịp trả lời thì báo đình bản. Trước sau tôi đăng được 4-5 bài[7].
Đó là lần đầu tiên tôi ra mắt độc giả.
NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM
1945 Ở SÀI GÒN – PHÁP TRỞ LẠI SÀI GÒN
Nhật đầu hàng rồi, Đồng minh để cho Anh giải giới Nhật từ vĩ
tuyến 16 trở vô (dưới Tourane một chút), Trung Hoa giải giới từ vĩ tuyến đó trở
ra, như vậy là Mĩ, Nga, hai cường quốc lớn nhất không có ý muốn cho Pháp trở
lại Việt Nam, nhưng De Gaulle vẫn muốn bám lấy cái thuộc địa cũ. Ngày 24-3-45
sẽ cắt Việt Nam làm ba nước: Bắc, Trung, Nam; hợp với Lào,
Miên thành một liên hiệp Đông Dương mà người cầm đầu là một viên toàn quyền
Pháp, ở dưới có một số bộ trưởng Pháp và bản xứ. Liên hiệp đó có một quốc hội
cũng gồm Pháp và bản xứ; quốc hội chỉ có quyền bàn ngân sách và góp ý kiến về
các đạo luật. Nghĩa là chưa được tự trị chứ đừng nói là độc lập; vẫn là chế độ
cũ “cải thiện” được một chút xíu.
Cuối tháng 8, Pháp cho Sainteny nhảy dù xuống Bắc Việt, Cédile
xuống Nam Việt; Cédile bị dân chúng bắt giam. Sau được thả, nhờ Nhật can thiệp.
Ngày 2-9 làm lễ tuyên ngôn độc lập, có một cuộc biểu tình rất
lớn từ 2 giờ trưa ở Sài Gòn, sau nhà thờ Đức Bà, gồm 200.000 người, có đủ các
đảng phái tham dự. Sự tổ chức kĩ lưỡng, mới đầu rất có trật tự, sau có vài phát
súng ở gần nhà thờ bắn vào đám biểu tình, không trúng ai. Thanh niên Tiền phong
túa ra lục xét những nhà tình nghi. Từ đó đoàn biểu tình hoá hỗn độn, mặc dù
vẫn tiếp tục được một đoạn đường nữa rồi mới giải tán. Một ông bạn tôi sợ quá,
run lẩy bẩy, tôi phải dìu ông về nhà. Nghe nói hôm đó có mấy người Pháp bị bắt
hay giết. Vậy là kiều dân Pháp gây hấn trước.
Ngày 6 tháng 9, tướng Anh Gracey tới Sài Gòn để giải giới quân
Nhật. Pháp mới nhờ Mĩ, Anh mà ngóc đầu lên khỏi gót sắt của Đức thì De Gaulle
đã cho một trung đội quân viễn chinh núp sau lưng quân Anh để đổ bộ lên Sài
Gòn, mưu tính giày xéo non sông ta. Gracey thả hết các tù binh Pháp (và Anh,
Hòa Lan, Úc) ra. Cờ Tam tài lại hiện trên nóc Dinh Toàn quyền cũ.
Ngày 10 tháng 9, Trần Văn Giàu thấy tình hình khó khăn, lập một
Ủy ban chấp hành gồm nhiều đảng phái: Cao Đài, Hòa Hảo, Đệ tứ Quốc tế v.v...
Chủ tịch là Phạm Văn Bạch.
Cédile muốn hòa đàm, đưa ra đề nghị đúng như lời tuyên bố 24-3
của De Gaulle. Đại diện phái đoàn mình mỉm cười: “Hiện thời chúng tôi đã có
nhiều hơn vậy rồi”.
Ngày 17 tháng 9, tờ Dân Chúng đăng lệnh tổng
đình công của Ủy ban chấp hành để bao vây kinh tế Sài Gòn, lại dọa đốt Sài Gòn
nữa.
Đêm 22 rạng 23 tháng 9, quân đội Pháp chiếm lại các công sở;
thường dân Pháp thấy dễ dàng quá, càng khiêu khích thêm. Người mình phản ứng
lại mạnh. Hằng trăm người, tối 24 tháng 9 bao vây khu Hérault của Pháp kiều ở
Tân Định, giết 150 người Pháp, bắt đi 300 người khác, theo Philippe Devillers
trong Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952.
Hai bên giao tranh một trận nhỏ, ngừng rồi lại đánh nữa. Không
khí Sài Gòn thật khó thở. Khu tôi ở, nhà nào cũng đóng cửa và cũng có một cây
tầm vông vạt nhọn. Pháp kiều, Ấn kiều không dám ló mặt ra.
Chúng tôi phải tích trữ gạo, một ít mè, hột vịt muối; rau cũng
thiếu, phải đi nhổ rau càng cua ở bất kì chỗ nào: chân tường, lề đường, trên
ống máng. Một vài người mạo hiểm ra ngoại ô mua được ít thịt, rau.
TÔI TỰ HỌC TIẾNG ANH
Trong thời gian non hai mươi ngày nằm nhà, để qua thì giờ, tôi
nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi học tiếng Anh trong cuốn L’Anglais en
100 leçons (tôi không nhớ tên tác giả) mà tôi đã mua từ 1931, đã bắt
đầu học được ít bài, rồi sau đó bỏ vì đậu vào trường Công chánh.
Loại sách đó thời tiền chiến rất thịnh
hành, giúp những người tự học muốn thi Tú tài Pháp. Mỗi bài có độ ba chục từ
mới, có chỉ cách đọc, sau mỗi bài học có một bài tập ngắn: dịch Anh ra Pháp
hoặc ngược lại; cuối sách có bài Corrigé (sửa lại) của người làm
sách, để người học coi mà tự sửa lấy bài của
mình. Học như vậy chỉ ba bốn tháng có thể viết được ít câu tiếng Anh thông
thường, ngắn, đọc được những loại dễ (loại cho trẻ em), nhưng nói thì người Anh
không hiểu vì sai giọng; mà nghe người
Anh nói mình cũng không hiểu. Vì vậy tôi chỉ nhờ anh
Tân Phương chỉ cho tôi các đọc cho đúng giọng thôi.
Ngày nay phương pháp học đó đã lỗi thời. Học ngoại ngữ cốt nhất
là nói được, cho nên ởÂu, Mĩ,
người ta dùng phương pháp thính thị (audio-visuelle), chỉ sáu tháng là tạm nghe
được, nói được, viết được một ngoại ngữ.
Trong đời tôi, đã hai lần rồi (1934 và 1945), hễ phải ở không
trong một thời lâu thì tôi học ngoại ngữ. Cách đó là cách tốt nhất mà cũng ích
lợi nhất để khỏi buồn. Và lần nào tôi học cũng chỉ cốt đọc được sách, không cần
nói. Những môn tôi tự học để tiêu khiển đó, sau này giúp cho tôi rất nhiều
trong việc viết sách. Một người nào đó đã nói: “Ai cũng biết sự ích lợi của
những cái hữu ích mà không biết sự ích lợi của những cái vô ích”. Lời đó nhiều
khi đúng.
GẶP HUỲNH PHÚ SỔ VÀ CỤ
VÕ HOÀNH
Một hôm tôi nói với Việt Châu: “Hòa Hảo có một lực lượng khá
lớn, nhưng thiếu tổ chức, thiếu chương trình hoạt động”. Chắc anh kể lại chuyện
đó với thầy Tư Hoà Hảo, và ít ngày sau bảo tôi: “Chú có muốn gặp thầy Tư xem
con người đó ra sao không? Nếu muốn thì hôm nào tôi dắt chú lại”. Tôi đáp: “Đi
thì đi, cho biết”.
Và một buổi chiều, tôi theo Việt Châu lại chỗ thầy Tư ở, tại
đường Michel[8].
Một biệt thự lầu mát mẻ, rộng rãi, có vườn. Tôi không nhớ có người gác không,
nếu có thì cũng kín đáo. Chúng tôi đi thẳng vào phòng ngoài. Thầy Tư ngồi trên
một cái sập giữa phòng, chúng tôi ngồi ghế, bên cái bàn kê ngay phía trước.
Rõ ràng là một thư sinh (lần đi thăm này trước khi Việt Châu đi
Huế) trắng trẻo, mảnh khảnh, yếu đuối, xanh xao (Thầy bị di tinh, không sao trị
được). Nét mặt đều đặn, cử chỉ, ngôn ngữ nhã nhặn. Nét đặc biệt nhất là cổ nhỏ,
cao “ba ngấn”, với mớ tóc đen, mượt, lật ngược, xõa xuống vai.
Thầy bình tĩnh, ôn tồn hỏi tôi vài câu xã giao, cho tôi biết
tình hình thời cuộc rồi bảo Việt Châu đưa tôi lên lầu, coi phòng người bắt tin
ngoại quốc bằng máy một thu thanh. Tôi thấy trong nhà chỉ có vài đệ tử âm thầm
đi đi lại lại để thầy sai bảo vặt. Thật tĩnh mịch.
Khi ra về, Việt Châu hỏi cảm tưởng của tôi, tôi đáp, cứ thực mà
đáp: “Thành thực, nhã nhặn, hiền lành; không thấy được nhờ đâu mà thầy lôi
cuốn, cảm hóa được quần chúng mạnh như anh và rất nhiều người nói. Biệt thự có
vẻ của một cư sĩ, chứ không phải là trụ sở của một đảng cách mạng... Tôi thấy
tướng thầy có vẻ yểu”.
Khoảng giữa tháng 9 hay đầu tháng 10, một hôm giữa trưa, Việt
Châu về bảo tôi: “Tôi phải đi gấp bây giờ. Ở Cần Thơ có vụ lộn xộn giữa tín đồ
Hòa Hảo và Việt Minh. Ủy ban nhân dân tỉnh đã bắt vài người trong đạo. Thầy Tư
phái tôi xuống dưới đó dàn xếp”.
Tôi cho không là có gì quan trọng mà anh ấy đi thì tất dàn xếp
xong vì được thầy Tư tin, tín đồ trọng, lại quen vài người Việt Minh (tháng
trước anh đã ra Huế, gặp Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận; bạn thi sĩ của anh có vài
người theo Việt Minh từ lâu như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm ở Hà Nội), mà anh
khéo ăn khéo nói, bình tĩnh nữa.
Anh hẹn ba bốn ngày thì về. Bốn năm ngày sau vẫn chưa về. Rồi
một hôm tôi hay tin đương đêm có người đến bao vây chỗ ở của thầy Tư Hòa Hảo,
thầy leo tường trốn thoát. Tôi nghĩ bụng vụ Cần Thơ không êm rồi, Việt Châu
không biết ra sao đây.
Cũng vào khoảng đó, một buổi sáng đi lang thang ở khu Nguyễn Du
hay Duy Tân ngày nay, tôi thấy cụ Võ Hoành ở trong một biệt thự bước ra, có mấy
thanh niên đi hai bên hộ vệ. Cụ có vẻ đã yếu nhiều, không quắc thước như hồi
Việt Châu và tôi lại thăm ở Sa Đéc khoảng mười năm trước (việc này tôi đã chép
trong phụ lục III cuốn Đông Kinh nghĩa thục, in lần thứ ba). Tôi
bùi ngùi: chí hướng của cụ và các đồng chí non bốn chục năm trước bây giờ mới
đạt, nhưng cụ Huấn Quyền đã mất ở Bến Tre, cụ Dương Bá Trạc cũng đã mất ở
Singapour, di hài hỏa thiêu đem về Sài Gòn làm lễ truy điệu ở vườn Tao Đàn, do
Cao Đài tổ chức mấy tuần trước, chỉ còn cụ (Võ Hoành), cụ Phương Sơn, bác tôi,
và cụ Nguyễn Hải Thần đều quá già rồi, hoạt động gì được nữa, mà nói gì chắc
cũng chẳng ai nghe. Cụ lên một chiếc xe hơi với mấy thanh niên, tôi nhìn theo
tới khi xe khuất ở góc đường.
Mấy năm sau tôi hay tin cụ tản cư vào đồng Tháp Mười và mất
trong đó, không hiểu vì bệnh hay vì nguyên do gì khác. Rồi tới khoảng 1972, một
bạn văn cho tôi hay có gặp một người con trai của cụ làm thợ nề ở Sài Gòn, nhà
rất nghèo, tôi bảo dắt tôi lại chơi để tôi hỏi rõ về cái chết của cụ; bạn đó
hứa rồi quên mất. Con cái các nhà Nho cách mạng hầu hết đều cực khổ cả.
Cuối tháng 9, một số dân Sài Gòn đã bắt đầu tản cư. Ngày 5-10
tướng Leclerc tới Sài Gòn để chỉ huy quân đội Pháp, chiếm lại miền Nam sau khi
Gracey làm xong nhiệm vụ giải giới Nhật, rút quân về Anh. Tân Phương, em trai
tôi và tôi cũng tính tản cư về Tân Thạnh, nhà bác Ba tôi.
Báo đăng tin Pháp đã thả bom xuống một cựu thuộc địa Pháp ở bán
đảo Ả Rập (Syrie), trúng quốc hội, mấy trăm người chết. Như vậy thì Việt Nam
không sao thoát nạn binh lửa, nhưng lúc đó tôi vẫn ngây thơ tin rằng Mĩ, Anh,
Nga không để cho Pháp tái chiếm Việt Nam và chỉ trong một tháng là sẽ có hòa
đàm. Cho nên chúng tôi cứ để nguyên đồ đạc, chỉ mang theo mỗi người một chiếc
va li chứa ít quần áo thường, vài bản thảo, vài cuốn sách. Sáng ngày 10 tháng
10, chúng tôi khóa cửa lại, nhờ hàng xóm coi chừng giùm, rồi cùng nhau lên đường.
*
* *
[2] Có sách nói tổng thống Roosevelt biết trước vụ
đó nhưng chịu hi sinh trọn hạm đội ở Pearl Habour để cho dân chúng phẩn uất,
chịu cho ông đem quân qua châu Âu giúp Anh, Pháp (De Gaulle) chống với Đức, Ý.
[7] Có lẽ tất cả các bài đó hoặc một vài bài trong số đó, cụ
NHL dùng bút hiệu Lộc Đình. Năm 1980, khi ông Lê Phương Chi hỏi về bút hiệu
này, cụ NHL cho biết: “(…) Bây giờ thì anh đã thấy bút danh Lộc Đình tôi dùng
ký dưới một vài bài văn ngắn từ hồi trẻ…” (trích trong bài Tâm tình học
giả Nguyễn Hiến Lê của Lê Phương Chi). (Goldfish).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét