1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
III. Sự
nghiệp đầu tiên (1954–1965)
Năm 1954 tôi trở về Việt Nam làm việc cho Ngân hàng Trung ương [1] Đông
Dương, Lào, Cao Miên, Việt Nam (Institut d'Emission des Etats Associes du Laos,
du Cambodge et du Viêt Nam) dưới quyền của Tổng Giám đốc René Frappart và Chủ tịch
Hội đồng Quản trị Victor Cusin. Nhờ có kiến thức chuyên môn và tận tâm làm việc,
tôi được thăng hạng rất nhanh, vượt qua nhiều người Pháp và tất cả nhân viên
người Việt vào làm việc trước tôi.
Vài tháng sau, lãnh tụ phe quốc gia Ngô Đình Diệm về nước để thành lập chính phủ
đầu tiên. Ông cần một cố vấn tài chánh tín cẩn. Ông sai người phụ tá của ông là
Tôn Thất Cẩn tới Ngân hàng Trung ương Đông Dương, để hỏi ban điều hành, ai có
thể làm cố vấn tài chánh cho ông. Chủ tịch Hội đồng Quản trị Victor Cusin và Tổng
Giám đốc René Frappart đề cử tên tôi. Sau này tôi được nghe kể lại là khi ông
Diệm nhìn thấy tên tôi, ông đã mỉm cười và la Cẩn: “Cậu bé này thường đem hoa
lan tới nhà tôi và tôi thường xoa đầu nó để cám ơn. Làm sao nó làm cố vấn tài
chánh cho tôi được!”. Trong đầu óc ông, tôi vẫn còn là thằng nhỏ thường được
cha sai mang hoa tới ông vào những năm 30 xa xôi ấy. Ông không tin được thằng
nhỏ đó bây giờ đã lớn, học hành thành đạt, ra làm việc và đã hơn 30 tuổi. Những
người bạn ông và một số thành viên nội các biết tôi, khi nghe Tôn Thất Cẩn kể lại,
đã cho ông Diệm hay là thằng nhỏ đó đã trưởng thành và trở nên một thành viên
cao cấp rất có khả năng trong ban giám đốc Ngân hàng Trung ương Đông Dương. Họ
nói với ông thằng nhỏ đó là người tốt nhất mà ông có thể kiếm được.
Vài ngày sau ông cho gọi tôi vào và yêu cầu tôi làm cố vấn tài chánh và kinh tế
cho ông. Theo phong cách riêng của mình xưa nay, ông không ký một sắc lệnh bổ
nhiệm tôi, mà chỉ tuyên bố cho tất cả mọi người biết – các thành viên nội các
chính phủ, đặc biệt là người em đầy uy quyền của ông, Cố vấn Ngô Đình Nhu, và Bộ
trưởng Phủ Tổng thống, Nguyễn Đình Thuần, người luôn luôn làm tấm bình phong với
bất cứ ai muốn gặp ông Diệm, dù Bộ trưởng hay tướng lãnh.
Tôi nghe nói là Nhu và Thuần đều rất khó chịu về việc tôi có thể trực tiếp gặp
Tổng thống Diệm: ông đã ra lệnh cho sĩ quan tuỳ viên đưa tôi vào ngay mỗi lúc
ông ta gọi tôi vào, và cũng vì vậy mà sau này cả hai hay dèm pha và phá rối
công việc của tôi. Việc không có giấy tờ bổ nhiệm chức vụ công khai đã giữ cho
tôi tránh khỏi những rắc rối về sau khi các tướng lãnh lật đổ và giết ông Diệm;
tất cả những thành viên nội các và phụ tá của ông Diệm, như Bộ trưởng Phủ Tổng
thống Nguyễn Đình Thuần và Bộ trưởng Kinh tế Hoàng Khắc Thành chẳng hạn – người
đã thay thế tôi ở Ngân hàng Việt Nam Thương tín và đã thay đổi chính sách ngân
hàng để giúp bà con bè bạn của các ông Nhu, Thục, Cẩn, – tất cả đều bị bắt và bỏ
tù sau cuộc đảo chánh năm 1963. Nhưng việc này cũng gây cho tôi một số phiền
toái khi tôi cầm đầu những cuộc thương thuyết mật với Thủ tướng Antoine Pinay
vì bị Nhu và Thuần phá. Tôi không quan tâm đến việc không được bổ nhiệm chính
thức, cũng không quan tâm đến cấp bậc, danh dự, thăng thưởng vân vân… Tôi chỉ
muốn làm việc và phục vụ đất nước.
Từ đó cho tới năm 1962, khi tôi bất đồng ý kiến mạnh mẽ với ông và từ chức, Tổng
thống Diệm đã hỏi ý kiến tôi trên tất cả các vấn đề kinh tế, tài chánh và tiền
tệ. Là người đại diện cho cá nhân ông, tôi đã cầm đầu những cuộc thương thuyết
với Pháp, Mỹ, Nhật và các nước khác. Trong một vài trường hợp, sau khi tôi đã kết
thúc những cuộc thương lượng bí mật và quan trọng, giải quyết các vấn đề và thu
được những kết quả mong muốn, ông Diệm sẽ bổ nhiệm một phái đoàn chính thức,
nhưng tôi vẫn được yêu cầu luôn luôn ở bên cạnh để can thiệp trong trường hợp
có khó khăn giữa hai phái đoàn. Điều này đã xảy ra trong vụ ký kết thoả ước với
phái đoàn Pháp trong dịp Thủ tướng Pháp Antoine Pinay qua thăm Tổng thống Diệm.
Ông Diệm thường gọi tôi vào Dinh Độc Lập mỗi ngày, có khi rất sớm, khoảng 5 tới
6 giờ sáng, và có khi rất khuya. Ông thường tiếp các Bộ trưởng, các viên chức
cao cấp và các tướng lãnh trong văn phòng riêng của ông. Căn phòng này cũng được
dùng làm phòng ăn và phòng nghỉ trưa, và ông luôn luôn biểu tôi ngồi kế bên phải
ông. Không ai dám hút thuốc trước mặt ông trừ Vũ Văn Thái và tôi. Khi tôi đốt một
điếu thuốc trước mặt ông, thì ông đẩy cái gạt tàn về phía tôi. Ông thường hút
thuốc điếu này nối điếu khác, rồi chỉ sau vài hơi đã dụi đi, nhưng vẫn hút.
Nhắc tới đây, tôi nhớ lại chuyện quyết định bỏ thuốc lá sau nhiều năm “nghiện
ngập”. Ngày 31-12-1965, sau bữa tiệc cuối năm và điếu thuốc cuối cùng, tôi đã liệng
qua cửa sổ tất cả “đồ nghề”, gồm có bật lửa bằng vàng, hộp thuốc lá đắt tiền và
tất cả số thuốc lá còn lại, tự thề không bao giờ cầm lại điếu thuốc nào nữa.
Xong tôi gọi bồi bảo cho hay đừng lượm vào cho tôi. Quả thật là địa ngục, trong
suốt cả tháng trời sau khi bỏ thuốc lá, tôi thèm thuốc lá một cách tệ hại và có
nhiều lần khi đi tiếp tân, có người đưa thuốc mời, tay phải tôi vừa chìa ra định
đón lấy điếu thuốc, thì tự nhiên tay kia kéo tay phải về. Cũng từ đó tôi bỏ thuốc
vĩnh viễn, không bao giờ hút trở lại. Bỏ thuốc lá rất khó, đòi hỏi rất nhiều
nghị lực và can đảm.
Mọi người ai cũng sợ ông Diệm; một vài người không dám xoay lưng lại ông khi đi
ra. Rất thường khi các thành viên nội các và các tướng lãnh phải chờ ở ngoài
văn phòng một lúc lâu, trong lúc viên sĩ quan tuỳ viên lại nhận chỉ thị của ông
phải đưa tôi vào ngay lập tức. Ông Diệm không hề có ý niệm về nghi thức và cũng
không coi trọng nghi thức, và người ta rất khó chịu với tôi về việc tôi được
ông Diệm tiếp đãi đặc biệt như vậy, tuy đó không phải lỗi tôi. Trong đầu óc ông
Diệm, các vấn đề tiền tệ và tài chánh là rất quan trọng, và những thắc mắc của
ông phải được giải đáp ngay tức khắc. Ông sống, làm việc và thường ngủ trong
văn phòng. Đời sống của ông giản dị, có nhiều lần tôi được gọi vào giữa bữa cơm
trưa, món ăn của ông ít, giản dị và hầu như lúc nào cũng là món Huế. Ông không
có chút ý thức về các giá trị vật chất bởi ông chưa bao giờ sống ngoài vòng gia
đình và đám người thân cận, và không bao giờ biết tới đời sống thường nhật của
dân chúng.
Ông Diệm có nhiều nhược điểm, ảnh hưởng rất mạnh đến việc chọn người cộng sự
hay nhân viên chánh phủ. Ông thích được khen, ông thích nghe những lời nịnh bợ.
Ông thích người ta nói đến những công việc của ông làm, nhất là những dự án “ruột”
của ông. Ông không hề biết thực tế bên ngoài, ông không có một ý niệm về đời sống
của dân chúng, nên những người làm việc với ông phần nhiều hay nói láo với ông,
che giấu sự thật, làm cho ông không thấy rõ thực tế ở đời và mất sự xét đoán về
người và về công việc.
Ông không tin người, nên ông hay chọn người làm cho ông trong số những người đồng
hương đồng xứ với ông, bà con bạn bè thân thuộc với ông, hoặc là bà con bạn bè
với những người bạn xa bạn gần của ông.
Ông là người rất mộ đạo Thiên Chúa, nên ông hay chọn người có đạo Thiên Chúa và
ông tin họ hơn những người không có đạo.
Ông tin những người có vào Đảng Cần lao của ông Nhu hơn là người thường, nên
ông hay chọn người là đảng viên Đảng Cần lao.
Khi chọn người để đưa vào chánh phủ hay thăng thưởng công chức ông đặt nặng ba
điều đó hơn là công việc làm hay công tâm. Vấn đề chuyên môn không cần thiết lắm,
vấn đề đạo lý, vấn đề tư cách con người, ông ít để ý đến, mặc dầu ông là người
rất có tư cách, một nhân vật rất có đạo lý, chịu rất nhiều ảnh hưởng Khổng
gíáo. Cho nên chung quanh ông và trong chính phủ, ít có người tài giỏi, và phần
nhiều chỉ có những người bà con thân thuộc của ông, những người có đạo Thiên
Chúa và những người vào Đảng Cần lao, những người mà ông có thể tin được. Những
người này chỉ biết nịnh bợ ông; họ che mắt ông, họ giấu sự thật, làm cho ông mất
hết sự xét đoán, và khó lòng cho ông biết bề trái bề mặt ở đời. Ông cũng biết
đó là những người thường không làm được việc, nên ông đặt bên cạnh họ, những
người chuyên môn để cho công việc chạy suôn sẻ.
Khi ông ở ngoại quốc mới về xứ để lập chánh phủ, ông cần một chuyên gia để giúp
ông; theo lời đề nghị của thượng cấp của tôi, ông mời tôi làm cố vấn cho ông,
và tôi thường có sự đi lại mật thiết với ông; nhưng khác với những người chung
quanh ông, tôi không chịu nịnh bợ ai, không chịu lòn cúi ai, không chịu hạ mình
chiều ai.
Tôi từ chối không vào Đảng Cần lao của ông Nhu, tôi cũng không chịu bỏ “đạo” Khổng
của tôi, để vào đạo Thiên chúa như một số tướng lãnh và nhân viên chính phủ
khác. Tôi cũng không phải chạy theo hầu đức cha Ngô Đình Thục, hay hàng năm ra
Huế “hầu” cậu Cẩn, như một số các bộ trưởng, và tướng lãnh.
Tôi hoàn toàn độc lập, nên tôi chỉ làm việc theo công tâm của tôi, là phục vụ đất
nước và dân chúng. Không ai bắt buộc tôi làm việc gì trái với lương tâm của tôi
được. Vì vậy mà tôi đụng chạm rất nhiều với những người chạy theo nịnh bợ ông
Diệm, ông bà Nhu, ông Thục, ông Cẩn...
Và khi tôi bất đồng ý kiến với ông, tôi không ngần ngại xin từ chức, mặc dầu
ông không muốn tôi ra đi bỏ ông, ông không muốn mất sự cộng tác của tôi, như
năm 1962 khi tôi thấy những người nịnh bợ bao vây ông, làm ông mất hết sự sáng
suốt và ông không còn thấy rõ tình thế đất nước nữa.
Không ai dám từ chối ông Diệm một điều gì. Nhưng tôi đã từ chối lời yêu cầu của
ông Diệm nhờ tôi giúp đỡ công việc làm ăn của đức cha Thục; tôi từ chối vì công
việc của ông này toàn dựa vào sự giúp đỡ của các ngành trong chánh phủ, và cách
làm việc của ông rất bê bối, thiếu trật tự và nền nếp của một công ty thương mại
làm ăn đứng đắn, đúng pháp luật. Nhưng tôi rất phục và kính nể ông Diệm, vì
trong 7 năm làm việc bên cạnh ông, ông chỉ nhờ tôi có một lần đó thôi, mà tôi
đã từ chối và không bao giờ ông can thiệp vào công việc của tôi nữa.
Cha tôi cũng vậy, tuy là bạn “chim”, bạn “hoa” của ông Diệm và ông Khôi, anh
ông Diệm, làm tỉnh trưởng ở Quảng Nam– nhưng không bao giờ cha tôi xin ông Diệm
một điều gì, hay chạy theo ông Thục, ông Diệm để cầu cạnh. Không bao giờ cha tôi
xin gặp ông; Cha tôi chỉ dặn tôi một điều, khi nào gặp ông Diệm, đừng quên thưa
với ông Diệm, cha tôi có lời thăm. Chỉ thế thôi.
Phần nhiều các bộ trưởng, các tướng lãnh hay gọi ông bằng cụ; tôi gọi ông bằng
Tổng thống; ông không già đến đỗi phải gọi ông bằng cụ. Các bộ trưởng, các tướng
lãnh, có khi già hơn ông, cũng hay xưng "con" với ông; tôi xưng
"tôi" với ông, đúng như lễ nghi. Ông không phải là cha tôi, nên tôi
không xưng con với ông được, tôi không phải là đầy tớ của ông để phải xưng con
với ông.
Ông làm việc rất nhiều, cả ngày lẫn đêm, bởi ông chẳng có trò giải trí nào,
không chơi môn thể thao nào, không có món tiêu khiển bất cứ kiểu nào. Môn giải
trí duy nhất của ông là đi thanh tra các dự án xây dựng mới, các vùng kinh tế mới,
các khu định cư mới, những gì mà ông tin rằng ông đã làm vì quyền lợi dân
chúng. Bởi vì ông rất nôn nóng nhìn thấy những việc này tiến triển nhanh chóng,
nên những viên chức có trách nhiệm thường gian lận và nói dối ông. Một ngày nọ,
khi tôi đi thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long, dân chúng trong vùng đã chỉ tôi
xem những cái cây mới mà viên tỉnh trưởng bắt họ trồng trong một dự án tái định
cư để ông Diệm đi thanh sát. Theo lời đề nghị của các bô lão địa phương, người
tài xế của tôi đã nhổ thử một cây lên cho tôi xem: đó là một cành cây mới cắt
được cắm xuống đất ướt! Ở nông thôn người ta biết tôi rất gần gũi với Tổng thống
và tôi dám nói sự thật với ông, vì vậy họ không ngần ngại tiết lộ các trò gian
lận và những cuộc trình diễn dỏm của đám tỉnh trưởng và quận trưởng.
Ông Diệm luôn luôn tự hào là đã được bầu lên trong một cuộc trưng cầu dân ý và
dân chúng vẫn tiếp tục tôn sùng ông vì lòng tận tuỵ của ông đối với đất nước và
nhân dân. Mãi tới ngày cuối cùng ông vẫn tin tưởng rằng mọi người thương yêu
ông, và ông rất được lòng dân. Vì vậy khi ông khởi đầu một dự án cho dân chúng,
ông thường yêu cầu nhân dân tình nguyện. Nhưng nhân dân trong các làng quê thường
rất nghèo, và những người tình nguyện chỉ có thể bỏ công việc đồng áng của mình
một vài ngày thôi. Biết rằng ông Diệm thích nhìn thấy một số lượng lớn người
tình nguyện không đòi tiền công làm việc tại các dự án mới, các viên tỉnh trưởng
thường bắt dân làng làm việc ròng rã hàng tháng trời không tiền, thậm chí không
hỗ trợ thức ăn hay chỗ ở. Thế rồi họ nói dối với Diệm, tâu với ông rằng hàng
trăm người ông nhìn thấy trên công trường đều là dân tình nguyện. Một ngày kia
tôi tới thăm Sóc Trăng nơi đang xây dựng một sân bay địa phương. Khi tới đó vào
giữa buổi trưa, tôi trông thấy mấy trăm người dân đang ngồi ăn bữa cơm trưa đạm
bạc của họ và nghỉ ngơi ở hai vệ đường; họ nằm la lết trên đất, có người có chiếu,
có người không. Tò mò muốn coi tận mắt cái dự án này và nói chuyện với dân
chúng, tôi dừng xe và bước ra ngoài nói chuyện với mấy người nông dân. Một vị
bô lão địa phương đi theo tôi trong chuyến thanh tra này nói với những người
đang đứng quây quanh tôi rằng họ có thể nói thật hết với tôi, vì tôi là cố vấn
của Tổng thống Diệm và tôi luôn luôn báo sự thật cho ông hay. Thế rồi một vài
người nông dân đến bên cạnh tôi, và trong khi mắt đảo quanh coi có mật thám hay
không, ngập ngừng nói với tôi rằng họ bị ép phải tình nguyện làm việc theo lệnh
viên tỉnh trưởng, rằng họ phải bỏ mọi công việc đồng áng, phải rời gia đình, tự
đem theo thức ăn để đến đây làm việc mà không có lấy một xu tiền công, thức ăn
hay chỗ ở, trong thời gian ít nhất là một tháng mỗi lần.
Khi tôi quay trở về Sài Gòn và báo cáo chuyện này với Tổng thống Diệm, ông nổi
trận lôi đình và biểu người phụ tá gọi viên tỉnh trưởng Sóc Trăng ngay lập tức.
Tôi không biết chuyện gì xảy ra sau khi tôi rời Dinh Độc Lập, nhưng ngày hôm
sau khi tôi trở lại, ông Diệm nói với tôi rằng những người nông dân mà tôi gặp
đã nói láo, thật ra mọi người đều sung sướng được tình nguyện xây dựng phi trường
cho tỉnh nhà. Tôi nói gì bây giờ với ông ta? Người của ông nói dối ông và phản
bội ông bởi vì ông thích nghe những câu chuyện êm tai; họ biết rõ điều ấy và sẵn
sàng bịt mắt ông.
Một lần khác tôi tới thăm một vùng kinh tế mới gần Mỹ Tho; tôi nhìn thấy một
dãy hàng cây ăn quả dọc lộ có vẻ như sắp chết héo. Tôi dừng xe lại, bước tới
coi. Một người nông dân tiến tới phía tôi và hỏi nhỏ tôi có muốn coi mấy cây
hay không. Anh ta nhổ lên một cây và đưa cho tôi: đó là một cái cành được cắt
khỏi cây và cắm xuống đất. Anh ta lập tức biến mất, rõ ràng sợ bị nhìn thấy nói
chuyện với người lạ. Sau này tôi được biết là những việc như vậy xảy ra rất thường
xuyên, bởi vì các viên tỉnh trưởng và quận trưởng đều muốn tỏ cho Diệm thấy là
họ đã mở mang các dự án mới một cách mau chóng, họ muốn được ông Diệm đánh giá
cao, muốn “ghi điểm”, và thăng chức. Tôi nghe nói một lần ông đến thăm một dinh
điền mới với một ông trung tá, trách nhiệm về dinh điền này, ông cầm lên xem một
cành cây có trái; bỗng nhiên cành cây rơi xuống đất, ông biết là cành cây mới
được cắm. Ông quay lại nhìn ông trung tá, mặt ông đỏ bừng; ông hét lên, ông cầm
cây ba ton của ông, đánh vào người ông trung tá. Ông này quì xuống lạy xin tha
tội, mặt tái mét và nước mắt rưng rưng; vài ngày sau ông trung tá bị cách chức
và đày đi nước độc.
Ông Diệm rất ngây thơ. Ông dễ tin người, đặc biệt là với những ai biết cách nói
láo khi phụ trách những dự án “cưng” của ông. Ông là một loại thầy tu kín suốt
đời. Ông chỉ ở trong nhà, trong văn phòng, và trước đây là trong tu viện, không
bao giờ ra ngoài trà trộn với người dân. Ông không bao giờ lấy vợ, chỉ sống với
anh em của mình. Ông không biết gì về cuộc sống và cũng không có một ý thức nào
về trị giá tiền bạc. Có một lần, để thưởng cho một người giúp việc đã phục vụ
ông ngày đêm, ông cho phép người này ra phố xả hơi và giải trí. Ông cho anh ta
2 đồng bạc để hớt tóc. Thế nhưng vào lúc ấy, giá hớt tóc cao hơn nhiều.
Một vị bộ trưởng của ông muốn tỏ cho ông thấy là anh ta nghèo khổ và thanh liêm
như thế nào, đã nói với ông rằng anh ta chỉ có 2 cái áo sơ-mi! Diệm tin anh ta!
Vậy nhưng vị bộ trưởng này sau khi thoát khỏi Việt Nam sau cuộc đảo chánh 1963
đã sống một cuộc đời xa hoa suốt 40 năm mà không cần phải làm việc! Chỉ với số
tiền mà anh ta đã tích luỹ được sau mấy năm làm bộ trưởng! Diệm không có ý thức
gì về thực tại. Ai cũng có thể lừa ông nếu biết được điểm yếu của ông, biết ông
thích những gì và muốn nghe những gì. Những chuyện như vậy đã làm cho tôi thất
vọng, làm cho tôi mất dần niềm tin nơi ông và góp phần vào việc tôi từ chức năm
1962 sau này.
Ông Diệm hỏi ý kiến tôi về các vấn đề tài chánh, kinh tế và tiền tệ và chỉ thị
cho tôi giải quyết những việc mà lẽ ra phải do các vị Bộ trưởng Tài chánh, Kinh
tế và Thống đốc Ngân hàng Trung ương giải quyết. Ông hiếm khi thảo luận các vấn
đề kinh tế tài chánh trong các buổi họp nội các. Ông thích thảo luận các vấn đề
quan trọng nhất với tôi trước đã, lấy quyết định rồi sẽ cho ý kiến trong buổi họp
nội các, và chỉ thị các bộ trưởng thi hành những quyết định của ông.
Tôi được bổ nhiệm làm hội viên của Hội đồng Tối cao Tiền tệ, đây là cơ quan thảo
luận và quyết định mọi vấn đề tài chánh, kinh tế và tiền tệ. Mặc dầu Ngân hàng
Trung ương đã có một hội viên là Thống đốc trong hội đồng này. Diệm yêu cầu phó
Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đưa thêm tên tôi vào trong hội đồng bởi vì như ông
nói, ông muốn có một chuyên gia trong hội đồng, các thành viên khác đều là các
chính trị gia được bổ nhiệm. Tiếng nói của tôi rất có ảnh hưởng, và các quan điểm
của tôi thường được chú ý hơn hết, bởi các thành viên hội đồng biết rằng tôi có
kiến thức chuyên môn và tôi luôn luôn cẩn thận nghiên cứu các vấn đề trước khi
vào họp. Mặc dù tôi chỉ là Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng Quản trị của hai
ngân hàng (Ngân hàng Quốc gia và Ngân hàng Thương tín lớn nhất lúc bấy giờ),
tôi vẫn được coi là người có thẩm quyền nhất trong các lãnh vực tài chánh và tiền
tệ. Những quan chức và đại diện của các chính phủ bạn luôn luôn yêu cầu gặp tôi
để bàn những vấn đề quan trọng bởi vì họ biết rằng gặp các bộ trưởng liên quan
sẽ không có kết quả bao nhiêu.
Tôi còn nhớ một hôm tôi được phó Đại sứ Mỹ Palmer mời cơm tối; khi tôi đến, tôi
giật mình thấy ông bà Nhu ở đó, và khi vào bàn ăn, chỉ có mỗi hai ông bà Nhu
thôi. Sau bữa cơm, khi đứng nói chuyện, tôi thấy bà Nhu ghé vào tai ông phó đại
sứ nói nhỏ. Sau khi ông bà Nhu về – về trước chứng tỏ mình là thượng khách –
ông phó đại sứ cho tôi hay, bà Nhu hỏi ông, tôi là ai mà được mời cùng bàn với
bà. Ông nói tôi là Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia và là cố vấn của Tổng thống;
bà hỏi ông tại sao lại mời một ông Tổng Giám đốc ngồi cùng bàn với bà. Ông hơi
khó chịu, ông trả lời với bà rằng tuy tôi chỉ là Tổng Giám đốc, nhưng toà đại sứ
Hoa Kỳ coi trọng hơn là các bộ trưởng. Có lẽ bà đã bực mình nên về sớm.
Tuy tôi là bà con với bà, nhưng không bao giờ tôi nói ra, bà con với bà đối với
tôi là một cái nhục. Trái lại tôi rất thương và kính nể ông bà Trần Văn Chương
là cha mẹ bà Nhu, và hay lui tới thăm viếng họ lúc tôi làm việc ở Washington.
Sau ông bà Chương bị con trai là Trần Văn Khiêm giết chết.
Tôi thường được chiêu đãi và có quan hệ thân thiết với nhiều trưởng phái đoàn của
Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Úc, Trung Hoa… Những người Việt Nam làm việc trong các toà
đại sứ nước ngoài, các ngân hàng và các tổ chức nước ngoài thường hay cho tôi
biết là cấp trên của họ khen ngợi tôi không tiếc lời trong các bản báo cáo gởi
về nước và nhấn mạnh sự cần thiết phải gặp tôi cho các công việc quan trọng.
Tôi được nhiều chính phủ và Ngân hàng Trung ương mời mọc và đãi đằng thịnh soạn
mỗi lần đi công tác nước ngoài. Tuy nhiên tôi lúc nào cũng dốc lòng cho quyền lợi
chung của đất nước và dân chúng. Tôi không bao giờ nghĩ tới việc dùng những vị
trí quan trọng của mình trong chính phủ hay những mối quan hệ hữu hảo với các
quan chức nước ngoài để lo việc riêng hay làm giàu cho bản thân mình. Có một lần
lúc gia đình tôi sinh sống ở nước ngoài, ngân hàng Banque de l’Indochine (Đông
Dương Ngân hàng) đã đề nghị cho tôi vay một khoản tiền để mua cho gia đình một
căn hộ lộng lẫy ở Paris, đại lộ Grande Armée; tôi từ chối. Tôi đã có thể làm
giàu nếu tôi chịu vay tiền mua căn hộ đó, bởi vì nhà cửa ở đại lộ Grande Armée,
gần tháp Eiffel và sát Champs Elysées, thuộc loại danh tiếng và giá trị luôn
luôn tăng với mức làm mình chóng mặt. Tương tự như vậy, tôi cũng thường nhận được
những lời đề nghị hối lộ kín đáo hay trắng trợn; tôi luôn luôn từ chối và thường
phản ứng rất mạnh với những người đề nghị. Về sau, khi tôi bị kẹt về tài chánh
vì những sai lầm của một người trong gia đình, mấy người bạn tôi nói tôi thật
là ngốc khi không chịu dùng ưu thế của mình để kiếm ít tiền để dành phòng những
ngày mưa gió. Vì vậy mà tôi hết sức cay đắng và giận dữ khi những kẻ thù tôi đi
rêu rao là bất cứ khi nào tôi huỷ bỏ hay sửa đổi một quyết định sai lầm mà ai
đó đã làm, thì chắc là tôi có một món tiền “lại quả” ở đâu đó. Họ không thể tin
tôi không giống họ, vẫn có người mà động cơ làm việc không phải chỉ vì tiền.
Vì nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong chính phủ và dám có những quyết định có
lợi cho đất nước mà không để ý tới quyền lợi của các nhóm chính trị hay cá nhân
quyền thế, nhiều khi tôi đã giẫm lên chân của cả bạn bè lẫn kẻ thù và đã tạo
cho mình thêm nhiều kẻ thù. Bị đụng chạm tới quyền lợi riêng hay tới túi tiền của
họ, ngay cả một vài người “bạn” tôi cũng trở mặt và buộc tội sau lưng tôi là
tôi tham nhũng. Vì tôi chống lại quyền lợi của họ thì nhất định là tôi phải được
phe đối nghịch họ mua chuộc! Nhưng nói chung thì một số lớn đều hiểu và đánh
giá cao sự thẳng thắn của tôi; dù họ không thích tôi bởi tôi có tiếng là cứng rắn
và không khoan nhượng, người ta vẫn kính trọng tư cách chính trực của tôi. Các
thành viên và quan sát viên tham dự các buổi họp của Hội đồng Tối cao Tiền tệ
thích nghe tôi phát biểu về nhiều đề tài và đánh giá cao những câu trả lời tuy
thiếu tính ngoại giao nhưng am hiểu tường tận của tôi đối với những câu hỏi của
các bộ trưởng và các thành viên khác trong hội đồng. Còn những nhân viên thâm
niên tham gia buổi họp, xưa nay quen cúi đầu trước các ông sếp thiếu năng lực
nhưng hống hách, thì lặng lẽ vỗ tay tán thưởng mỗi khi tôi đứng lên phản công,
điều mà họ không dám làm làm vì sợ mất việc. Thỉnh thoảng gặp tôi trong hành
lang, họ bước tới khen ngợi và cổ vũ tôi cứ tiếp tục như vậy.
Tháng 7-1954, Việt Nam giành được độc lập từ Pháp. Sau thất bại Điện Biên Phủ
và sau khi đất nước Việt Nam bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc ở vĩ tuyến 17,
quân Pháp rút về miền Nam Việt Nam để lần lượt chờ lên tàu về nước. Quốc trưởng
Việt Nam lúc bấy giờ là Hoàng đế Bảo Đại đã yêu cầu ông Diệm đang lưu vong ở Mỹ
về nước để thành lập chính phủ đầu tiên. Một cuộc trưng cầu dân ý sau đó đã chấm
dứt chế độ Bảo Đại và thành lập nước Việt Nam Cộng hoà, trong lúc miền Bắc trở
thành nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày mồng 1 tháng Giêng 1955, theo một thoả thuận với nước Pháp, Ngân hàng
Trung ương ba nước Đông Dương, Việt Nam-Lào-Cao Miên, được tách ra làm 3 Ngân
hàng Quốc gia Trung ương. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập ngay ngày
hôm ấy bởi một sắc lệnh do Tổng thống Diệm ký. Một viên chức dân sự có nhiều
kinh nghiệm hành chánh nhưng thiếu căn bản ngân hàng được bổ nhiệm làm Thống đốc,
ông Dương Tấn Tài, một viên đốc phủ dưới chế độ Pháp trước kia, một người rất
liêm chính, cần cù, nhưng không được đào tạo hay có kinh nghiệm về ngân hàng.
Ông ta đã mau chóng chứng tỏ mình bất lực. Cùng lúc đó tôi nhận được sắc lệnh
do ông Diệm ký bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia. Khi ký sắc lệnh,
Diệm gọi tôi vào, nói tôi sẽ chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động chuyên
môn, còn để việc quản trị hành chánh của ngân hàng cho Tài. Tài dành thì giờ để
lo toan những chi tiết hành chánh nhỏ nhặt, luôn luôn sợ mất một cây bút chì
hay ai đó chôm mất một xu. Ông ta không bao giờ để ý đến những nhiệm vụ chính của
một Ngân hàng Trung ương, không bao giờ ngó ngàng tới những vấn đề tài chánh và
tiền tệ quan trọng mà đất nước đang đối mặt, việc mà một Ngân hàng Trung ương
và vị Thống đốc phải làm. Ông ta bị thu hút vào những công việc thường lệ và
quên mất các vấn đề tiền tệ và tài chánh cần phải được giải quyết trong buổi
chuyển tiếp từ một nền kinh tế thuộc địa qua nền kinh tế của một quốc gia vừa mới
độc lập. Ông ta phạm nhiều sai lầm mà tôi đã cố gắng lưu ý ông và đề nghị biện
pháp sửa chữa, nhưng ông thường không chịu nghe, có lẽ vì không hiểu. Cuối cùng
tôi bực mình vì sự thiếu năng lực của ông và con đường nguy hiểm mà ngân hàng
đang theo, đến nỗi tôi quyết định viết một luận án ngắn về những vấn đề cấp
bách mà quốc gia phải đương đầu và cho in mấy ngày sau.
Khi Diệm nghe những việc này, ông gọi tôi vào thảo luận rất lâu các vấn đề của
ngân hàng và của quốc gia. Cuối buổi nói chuyện dài đó ông cho biết ông sẽ bổ
nhiệm một Thống đốc mới, tuy nhiên với tư cách là một chuyên gia và một Tổng
Giám đốc, tôi phải đảm nhiệm công việc điều hành. Tôi hiểu là ông sắp sửa bổ
nhiệm một chính trị gia làm vị Thống đốc ngân hàng mới. Vài ngày sau ông chuyển
Tài qua làm cố vấn cho Tổng thống và bổ nhiệm Vũ Quốc Thúc, một người có bằng
thạc sĩ luật khoa, giáo sư môn dân luật làm Thống đốc ngân hàng. Rồi ông lại ký
sắc lệnh tái bổ nhiệm tôi làm Tổng Giám đốc, mặc dù theo đúng điều lệ của ngân
hàng, một chức vụ như vậy phải do một quyết định của hội đồng quản trị ngân
hàng. Trong đầu óc ông, hình như ông cho rằng tôi phải nắm giữ chức vụ quan trọng
của một Tổng Giám đốc điều hành, còn vị Thống đốc kia chỉ là một chính trị gia
bổ nhiệm mang danh nghĩa. Nhưng mọi việc lại vận hành trôi chảy bởi vì Thúc để
cho tôi lo tất cả mọi khía cạnh chuyên môn và bắt tôi đảm nhiệm tất cả các nghiệp
vụ của ngân hàng. Thúc kéo vào ngân hàng một số bạn bè và bà con hầu hết đều xuất
thân trường ốc và không hề có căn bản hay kinh nghiệm ngân hàng. Ông ta rất
sung sướng có tôi làm Tổng Giám đốc điều hành. Với tư cách là Thống đốc, ông là
người chính thức đứng đầu ngân hàng và chỉ bận tâm tới các mối quan hệ với
chính phủ, giao phó tất cả việc chuyên môn cho tôi.
Trong những tháng đầu tiên năm 1955, trong khi rút quân ra khỏi Việt Nam, chính
quyền thực dân Pháp đã cố lật đổ chính phủ Diệm bằng cách võ trang và xúi giục
các giáo phái như Cao Đài, Hoà Hảo và nhóm giang hồ nửa hảo hớn nửa du đãng
Bình Xuyên, cùng với các sĩ quan quân đội bất mãn. Một vài sĩ quan Việt Nam,
trước đây ở trong quân đội Pháp và vẫn còn mang quốc tịch Pháp, không bằng lòng
với việc vua Bảo Đại bị phế truất và việc Diệm nắm quyền lực, đã tìm cách nổi
loạn với sự đồng loã của bộ chỉ huy quân sự Pháp. Một người như vậy là đại tá
Nguyễn Văn Hinh, con của nguyên Thủ tướng thời Pháp thuộc là Nguyễn Văn Tâm, đã
cố làm một cú đảo chánh để loại Diệm nhưng thất bại phải đi lưu vong. Tình trạng
khủng hoảng chính trị và xã hội tiếp sau đó đã tạo nên một sự bất an và rối loạn
trong giới kinh doanh; tất cả các mặt hàng nhập cảng chủ yếu bị dừng lại, đe doạ
nguồn cung cấp còn dễ bị tổn thương của đất nước. Giá cả tăng vọt và chợ đen nở
rộ. Các ngân hàng thương mại hầu hết do người Pháp sở hữu, từ chối không chịu
tài trợ nhập cảng vì muốn phá Diệm hơn là vì những lý do kinh doanh. Những công
ty Pháp đang thống trị thị trường hàng nhập khẩu từ chối không chịu mạo hiểm và
lặng lẽ giao hàng tồn kho cho những tay lái buôn Trung Hoa để đổi lấy những món
lời khổng lồ chuồi dưới mặt bàn.
Bị đánh phá bởi các cuộc nổi loạn vũ trang và bị bao vây bởi các khó khăn kinh
tế, ông Diệm đã phản ứng một cách can đảm. Ông đánh lại các giáo phái và lực lượng
Bình Xuyên rồi tiêu diệt họ trong một chiến dịch ngắn ngày nhưng quyết liệt do
tướng Dương Văn Minh chỉ huy, người sau này lật đổ ông. Trong lãnh vực kinh tế,
Diệm bỏ tù bọn đầu cơ, trừng phạt bọn buôn bán chợ đen và thực hiện những biện
pháp quyết liệt chống lại cộng đồng người Hoa lúc ấy đang thống trị nền kinh tế
và kiểm soát nguồn gạo cùng các mặt hàng thiết yếu khác. Người Hoa vốn nổi tiếng
là những thương gia tài năng, những người đầu cơ khôn khéo, họ điều động thị
trường có lợi cho họ và có hại cho người dân Việt Nam. Với chính sách cổ điển
“chia để trị”, chính quyền thực dân Pháp luôn luôn ưu đãi người Hoa, ngược lại
quyền lợi của người Việt. Người Hoa được phép kiểm soát nền kinh tế địa phương
mà không cần phải quan tâm tới quyền lợi của dân chúng Việt Nam. Những quyền ưu
tiên và những ưu đãi đặc biệt như vậy được dành cho người Hoa trong khi người
Việt thì lại không được phép tham gia các hoạt động kinh tế quan trọng. Người
Việt Nam cũng không được giữ những vị trí cao hơn cấp chánh sự vụ trong ngân
hàng, các kỹ sư Việt Nam tốt nghiệp từ những trường kỹ thuật danh giá nhất của
Pháp cũng không được phép thực thi ngành chuyên môn của họ ở Việt Nam và cũng
không kiếm được việc làm trong ngành dưới chế độ thực dân Pháp.
Ông Diệm cố gắng đảo ngược tất cả những điều này và khi các ngân hàng Pháp từ
chối tài trợ việc nhập cảng các mặt hàng chính yếu từ mùa thu 1955, ông quyết định
thành lập một ngân hàng thương mại Việt Nam. Ông gọi tôi vào và yêu cầu tôi
thành lập nó. Ông giao tôi một sắc luật cho phép Ngân hàng Trung ương cấp một
khoản tín dụng là 200 triệu đồng để thành lập một ngân hàng mới. Cầm mảnh giấy
này trên tay tôi đi tới chi nhánh ngân hàng Banque de l’Indochine, lúc ấy đang
bị đóng cửa và thay thế bởi một chi nhánh mới có tên là Pháp Á Ngân hàng
(Banque Francaise d’Asie) để thương lượng việc mua lại trụ sở của nó và tuyển mộ
một vài nhân viên hạng thấp sắp bị ngân hàng Pháp thải hồi. Ngân hàng Banque de
l’Indochine này, mà tổng hành dinh đặt tại Paris, trước đây gồm cả hai loại
ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại của ba nước Đông Dương – Việt Nam,
Lào, Cao Miên. Chúng tôi tách trụ sở chi nhánh ngân hàng Pháp này ra làm hai phần,
một cho trụ sở chính của Ngân hàng Trung ương Việt Nam, phần kia cho Ngân hàng
Thương mại sắp thành lập. Tôi dùng phần này để xây dựng Ngân hàng Việt Nam
Thương tín. Sau đó tôi từ chức ở Ngân hàng Trung ương để dành toàn bộ thời gian
cho việc phát triển ngân hàng thương mại mới. Tôi được Diệm bổ nhiệm làm Tổng
Giám đốc và Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Tôi tổ chức cơ quan mới này và bắt đầu
mở cửa vào tháng Giêng năm 1956. Một người Pháp tên Roger Becker, nhân vật số
hai ở Ðông Dương Ngân hàng, đã theo tôi về ngân hàng mới và giúp tôi một tay đắc
lực trong việc thiết lập các phương thức hoạt động và điều lệ ngân hàng. Nhiệm
vụ của tôi còn được hỗ trợ rất nhiều bởi ba lần nội trú ở ngân hàng tín dụng
Kredit Bank ở Louvain, Bỉ, năm 1948-1950, trước khi được nhận vào trường H.E.C.
Sau 4 năm làm việc miệt mài tôi đã thành công trong việc biến nó trở thành ngân
hàng thương mại lớn nhất nước.
Trong khi tôi bận rộn tổ chức Ngân hàng Thương mại, thì tháng 9 năm 1956 toàn bộ
hệ thống ngân hàng và cả nước rung chuyển bởi một vụ xì-căng-đan ở Ngân hàng Quốc
gia mà tôi đã rời khỏi trước đó. Người ta khám phá ra rằng những tờ giấy bạc được
đánh dấu để thiêu huỷ đã bị lấy cắp khỏi hầm chứa. Hai trăm năm mươi triệu đồng,
tương đương với tám triệu đô-la lúc đó hoặc vài trăm triệu đô-la hiện nay, được
đánh dấu huỷ, đã biến mất. Người đứng đầu bộ phận kiểm ngân, Vũ Đình Đa, một
chánh sự vụ có quan hệ mật thiết với giới thân cận vị Thống đốc mới, và viên thủ
quỹ chính, một người Pháp tên là André Heurtier, bị bắt và tống giam. Vũ Đình
Đa đã chuẩn bị vụ này trước đây rất lâu, bằng cách cung cấp gái cho Heurtier và
quà cáp cho một số người trong nhóm thân cận ban giám đốc. Y đã mua chuộc được
cảm tình và sự đồng loã bằng các món quà cáp và tặng vật. Vậy là những người có
trách nhiệm đã làm ngơ, còn ông Thống đốc và ban tham mưu của ông thì không hề
có kiến thức chuyên môn để có thể kiểm soát chặt chẽ các hoạt động nên không thể
phát hiện được những sự chuẩn bị của Vũ Đình Đa.
Ông Diệm nổi cơn thịnh nộ. Ông gọi tôi vào và nói rằng cảnh sát mật của ông cho
biết là vị Thống đốc mới có dính líu rất nhiều trong vụ này, cảnh sát cũng báo
cáo là Vũ Đình Đa đã chuẩn bị rời khỏi Việt Nam theo đường Lào cùng với viên Thống
đốc, tình cờ lúc ấy đang dạy ở Đà Lạt, và Đà Lạt thì gần biên giới Lào. Diệm bảo
tôi ông sẽ ra lệnh bắt viên Thống đốc. Tôi khuyên ông khoan hành động vội vã, bởi
vì nếu tin tức cảnh sát không đúng thì một hành động như vậy sẽ rất có hại cho
Ngân hàng Trung ương và cho cả quốc gia. Diệm nói không những là cảnh sát báo
cáo những chuyện này với ông mà cả viên Tổng thanh tra tài chánh Hà Văn Vượng
cũng nói với ông là tay Thống đốc có dính líu tới vụ ăn cắp và vụ chạy trốn.
Tôi bảo ông đừng quá lo sợ và đừng nên nghe những lời báo cáo dựa trên tin đồn
trước khi một cuộc điều tra sâu hơn chứng tỏ là các báo cáo đó chính xác.
Diệm yêu cầu tôi trở về lại Ngân hàng Trung ương để làm một cuộc điều tra sâu rộng
và tổ chức lại toàn bộ ngân hàng để tránh một tai nạn tương tự trong tương lai.
Đoạn ông ký ngay tại chỗ một sắc lệnh bổ nhiệm tôi một lần nữa làm Tổng Giám đốc
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, cùng lúc với chức vụ của tôi ở Việt Nam Thương
tín. Chỉ thị của ông rất rõ ràng: tôi phải xem xét kỹ lưỡng toàn bộ việc này và
xác định trách nhiệm của ban giám đốc trong vụ này về mặt nghề nghiệp, và nếu
có thể thì cả về mặt hình sự, kể cả viên Thống đốc. Tôi phải xem xét lại các
phương thức hoạt động, tìm ra các nhược điểm và tổ chức lại các ban bệ có liên
quan. Tôi phải trực tiếp báo cáo lại với ông – và chỉ với một mình ông – bởi vì
ông ngại rằng những người khác có thể xía vào để kết án ai đó nhằm kiếm điểm và
thăng chức. Diệm biết rằng không có ai trong số những người ông sắp bổ nhiệm để
thay viên Thống đốc hiện nay có kiến thức chuyên môn cần thiết để có thể điều
tra đầy đủ và tổ chức lại ngân hàng.
Hà Văn Vượng, viên tổng thanh tra tài chánh của chính phủ là người chính thức
phụ trách việc kiểm tra tất cả mọi cơ quan tài chánh của chính phủ, nhưng ông
không thể kiểm tra được Ngân hàng Trung ương, vì ông không hề có kiến thức
chuyên môn trong lãnh vực ngân hàng. Ông là một viên quan lại dưới thời thực
dân Pháp, chỉ có một số kiến thức hành chánh. Vượng muốn diệt viên Thống đốc để
giành chức vụ đó cho ông hoặc giành chức Bộ trưởng Tài chánh, vì vậy ông cung cấp
một lô thông tin không chính xác về vụ ăn cắp và về hành động của Thúc. Mỗi lần
như vậy tôi phải cải chính những điều mà ông ta nói về Thúc. Vượng muốn tự mình
viết lấy báo cáo. Nhưng ông không hiểu gì về ngân hàng và các phương thức hoạt
động dẫn tới vụ cắp. Ông tới gặp tôi, nhờ tôi giải thích về toàn bộ vụ việc và
“năn nỉ” xin một bản sao báo cáo của tôi. Tôi từ chối lời yêu cầu của ông và
nói ông ta chỉ có thể có được một bản sao sau khi tôi đã nộp lên cho Tổng thống
Diệm. Ông ta rất tức giận.
Ngang đây, tôi muốn nhân cơ hội đề cập một vấn đề rất nghiêm trọng trong việc bổ
nhiệm nhân viên dân sự ở Việt Nam, cũng như ở các nước đang phát triển trên thế
giới. Các chính phủ, các Tổng thống và các nhà lãnh đạo quốc gia khác thường nhầm
lẫn trong việc đánh giá tư cách của các ứng viên và cuối cùng thì bổ nhiệm một
người chẳng thích hợp gì với công việc, dù anh ta có đưa ra những văn bằng cao
cấp. Thay vì sử dụng năng lực chuyên môn và kiến thức thực tế để đánh giá các ứng
viên, thì thường họ lại chỉ nhìn vào bằng cấp. Nghĩ rằng bằng Ph.D hay thạc sĩ
là văn bằng cao nhất trong lãnh vực giáo dục, họ thường tin rằng một ứng viên
có bằng Ph.D hay thạc sĩ có thể đảm nhiệm bất cứ chức vụ cao nhất nào, ngay cả
trong lãnh vực mà anh ta không hề quen thuộc. Ph.D chỉ xác nhận tư cách để dạy
học và nghiên cứu chứ không phải điều hành, trừ phi người ta phải trở lại học từ
đầu trong lãnh vực điều hành. Những người có bằng Ph.D chỉ có thể dạy học hay
nghiên cứu trong lãnh vực riêng của họ chứ không phải trong những lãnh vực
khác, và nhất là họ không thể đảm nhận công việc trong lãnh vực điều hành. Ở Việt
Nam chúng ta thường thấy loại nhầm lẫn này khi chính phủ chọn một anh Ph.D hay
thạc sĩ ở ngành luật, hay kinh tế, hay cơ khí để điều hành một Ngân hàng Trung
ương. Anh ta không quen thuộc với cơ chế ngân hàng hay tài chánh, và đương
nhiên không biết cách điều hành và quản trị. Bởi vì không có kinh nghiệm hoạt động
thực tiễn, anh ta sẽ bị lạc trong những phương thức rối rắm và do đó không thể
phát hiện ra những chỗ sai lầm của nhân viên. Trong một xã hội đã phát triển
thì thông thường anh ta có thể làm được, bởi thông thường các cơ chế này đã có
sẵn một guồng máy vận hành êm thắm và người có Ph.D chỉ hoạt động một phần rất
nhỏ trong toàn bộ guồng máy. Anh ta có thể hội nhập dần dần vào không mấy khó
khăn nếu anh ta biết học hỏi. Anh ta phải có khả năng hỗ trợ nhân viên dưới quyền
mình, đặc biệt là khi áp dụng những phương thức mới hay những nghiệp vụ mới.
Trong một vài trường hợp, những nhân viên cấp thấp làm việc lâu năm, rành việc
đến tận đầu ngón tay, có thể giăng bẫy xếp của mình (“cho trượt vỏ chuối”) nếu
xếp không am hiểu công việc hay thiếu kinh nghiệm mà lại hách dịch. Tôi đã chứng
kiến nhiều trường hợp như vậy trong các cơ quan mà tôi quản trị. Kinh nghiệm
riêng của tôi là tất cả mọi người, bất luận bằng cấp cao bao nhiêu đi nữa, đều
phải bắt đầu từ bước đầu tiên, nhiều khi phải chấp nhận một công việc rất đơn
giản để khởi sự. Trong sự nghiệp ngân hàng của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi những
nhân viên cán sự mới bắt tay vào việc phải đi một vòng khắp ngân hàng, kinh qua
tất cả các bộ phận, bắt đầu bằng một công việc ở cấp thấp nhất để lần lần tiến
lên những công việc quan trọng hơn.
Bản thân tôi đã có được một lợi thế lớn là đã được nhận vào một khoá thực tập ở
Bỉ với một “chuyến vòng quanh ngân hàng” suốt ba mùa hè trước khi tôi vào học
và tốt nghiệp trường ngân hàng. Tôi rất may mắn. Khi tôi bắt đầu thực tập ở
ngân hàng Kredit Bank, Louvain, Bỉ, tôi được gặp một viên giám đốc ngân hàng kiểu
cũ, ông đã che chở và dìu dắt tôi suốt con đường nghề nghiệp với rất nhiều kiến
thức đầy quyến rũ. Ông dạy tôi cách hoạt động của ngân hàng truyền thống ngày
xưa, và dạy tôi một môn mà sau này tôi không bao giờ thấy có ở các trường ngân
hàng: làm sao đọc được gương mặt khách hàng để đoán được tư cách của họ liên
quan tới khoản tiền vay. Mỗi năm, suốt ba tháng hè, và trong ba năm liên tiếp,
ông đã kiên nhẫn dạy tôi cách xem tướng mặt. Không sách vở, không lý thuyết, chỉ
có một lô ảnh cỡ lớn mà chúng tôi cùng nhau nhìn ngắm. Ông giải thích các loại
nét đặc trưng trên gương mặt người, và khi chúng tôi đi ra ngoài uống cà phê
hay ăn cơm trưa, ông chỉ gương mặt của những người qua đường và của khách hàng,
để đặt câu hỏi cho tôi, rồi ông sẽ đánh giá và giải thích. Ông cũng là một nhà
tâm lý học. Ông cho tôi biết là ông chưa bao giờ lầm, trừ khi đó là một trường
hợp quá phức tạp với nét mặt bị huỷ hoại hay biến dạng vì tai nạn. Lần lần tôi
cũng học được môn này và những phỏng đoán hoặc nhận định của tôi càng ngày càng
chính xác. Nhưng chúng tôi không bao giờ cùng xem chung tướng mặt khách hàng của
ông, bởi vì ông muốn giữ bí mật cho những nhận định riêng của ông. Sau khi tôi
về nước và cầm đầu Ngân hàng Việt Nam Thương tín, tôi bắt đầu áp dụng những lời
dạy của ông, không những đối với khách của ngân hàng mà còn đối với bạn bè và
những người cùng làm việc với tôi, dĩ nhiên là bí mật. Tôi giữ những điều tôi
khám phá được cho riêng mình thôi. Kết hợp cách làm việc cổ điển và hiện đại của
ngân hàng, cùng với hệ thống kiến thức của ông, tôi chưa bao giờ bị mắc vào một
khoản cho vay nào bị hỏng hay bị mất với khách hàng của tôi; nhưng sau khi tôi
rời khỏi nhà băng, ban giám đốc mới đã gặp không ít những chuyện nhức đầu với
các khoản cho vay, nhất là khi họ dành ưu tiên đặc biệt cho các nhà chính trị
hay cho đám bạn bè không đáng tin cậy.
Một ngày nọ, viên giám đốc trách nhiệm sở xuất cảng của ngân hàng, đưa một
khách hàng người Pháp đến gặp tôi; tôi nhìn thấy tức khắc là tôi đang có một
“ca” trước mắt. Nhưng vì đây không phải là chuyện vay tiền mà chỉ là chuyện một
hoá đơn chuyển hàng (bill of lading) nên tôi không từ chối tiếp y. Nhưng khi
người nhân viên của tôi xin lỗi về trước để đi đón con – điều đáng lý không được
làm vì phận sự chưa xong – và đi ra, thì tôi gặp rắc rối với tay Pháp này. Sau
khi tôi giải quyết xong hồ sơ và đặt vào trong cái khay “Đi” thì điện thoại
reo: đó là viên cố vấn kinh tế của toà đại sứ Mỹ, ông ta đề cập lại vấn đề phá
giá. Để dễ bề nói chuyện riêng và mật, tôi đứng dậy bước ra sau ghế ngồi, xây
lưng lại nhìn ra phía cửa sổ. Khi xong câu chuyện tôi quay lại nhìn: tên người
Pháp đã biến mất. Tôi đâm nghi ngờ, nhìn lại cái khay "Đi" thì thấy y
đã đánh cắp tất cả hồ sơ – nếu người nhân viên của tôi không bỏ ra về trước,
thì đâu có xảy ra câu chuyện đó được. Tôi gọi người tuỳ phái vào, biểu anh ta
đuổi theo người Pháp nọ. Nhưng y đã mất hút. Với những giấy tờ có trong tay, y
có thể tránh được các qui định bắt buộc hoán đổi ngoại tệ xuất khẩu, và ôm số
tiền ngoại tệ ra đi! Tôi gọi cảnh sát để truy tìm y nhưng không có kết quả.
Một ngày kia người phụ tá đặc biệt của tôi tới gặp tôi với một khách hàng của
anh, một người Mỹ gốc Hoa tên Bill. Khi nhìn thấy gương mặt Bill, tôi nói nhỏ với
người phụ tá là thằng cha này không tin được và vì vậy tôi không muốn làm gì với
y hết. Bill phải ra đi, và người phụ tá của tôi có vẻ không bằng lòng. Sau này
khi nghe tin người phụ trách văn phòng kinh doanh Trung Hoa của ngân hàng tôi,
ông Lý Long Thân, người mạnh quyền nhất trong cộng đồng người Hoa, đã mua nhiều
khu đất ở Đài Bắc và ở đảo Guam chung với Bill, tôi có cảnh giác Lý về tay này.
Lý là một người rất dễ thương nhưng cũng là một người rất tự cao, ông ta nói
tôi đừng lo, bởi vì ông ta là bậc “đàn anh” còn Bill thì chỉ là thứ em út, chưa
tới cỡ phụ tá của ông, không dám làm gì đâu. Thế nhưng vài năm sau tôi nghe nói
Lý đã mất tất cả số đầu tư bất động sản ở Đài Bắc và ở đảo Guam, còn Bill thì
trở nên rất giàu có và đã chạy qua đất Saudi Arabia.
Vào cuối những năm 50, tôi có một người bạn người Trung Hoa sống ở Đài Loan lớn
tuổi hơn tôi, nhưng rất thân vì ông đã nghe những người đồng hương của ông ở Chợ
Lớn kể nhiều về tôi. Ông có một tập đoàn công ty kỹ nghệ lớn hàng thứ ba Đài
Loan; ông là một người rất dễ thương, tính tình rộng rãi, và chúng tôi thường
đi chơi với nhau mỗi khi tôi tới Đài Bắc. Ông cho tôi hay ông có mở một nhà máy
dệt ở Việt Nam đầu những năm 50, ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập. Để
chứng tỏ là công ty này có phần hùn Việt Nam, ông đưa tiền cho một người Việt gốc
Hoa ở Chợ Lớn mua cổ phần trong công ty Sài Gòn của ông, với sự ngầm hiểu rằng
số cổ phần này thuộc về ông và bất cứ khi nào ông cần, ông sẽ cho anh ta 20%,
chỉ lấy lui 80% của mình. Khi ông tới thăm tôi ở Sài Gòn, ông giới thiệu tôi với
người đàn ông kia. Khi tôi nhìn thấy mặt anh ta, tôi nói với ông bạn tôi cùng
viên Tổng Giám đốc của ông, một người Mỹ gốc Hoa, rằng ông sẽ rất khó mà lấy lại
những cổ phần ấy. Ông không tin. Nhưng sau đó chính ông ta kể tôi nghe là khi
ông ta đòi lại số cổ phần kia để chuyển qua cho viên Tổng Giám đốc thì ông
không thu hồi lại được, dù chỉ đề nghị lấy lại 80%.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Hoàng Khắc Thành, người mà tôi đã ra tay cứu vớt sau
khi bị sa thải ở một ngân hàng khác, tôi đã để ý thấy một nét đặc trưng tương tợ
như vậy trên gương mặt anh ta, giống hệt những gì tôi thấy trên gương mặt Âu
Trường Thanh (Thanh là Tổng trưởng Kinh tế khoảng mấy tháng dưới thời Thủ tướng
– chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương – Nguyễn Cao Kỳ), nó cho tôi biết những
người này có thể dễ dàng phản bạn. Đó là những gì đã xảy ra với tôi, bởi vì tôi
đã cứu người này và bảo đảm cho người kia với Kỳ, nhưng cả hai người không ngần
ngại phá tôi.
Trở lại vấn đề tập việc cho những cán sự mới vào ngân hàng, có một lần, có hai
thành viên có bằng tiến sĩ luật bắt đầu công tác ở Ngân hàng Quốc gia. Giống
như tất cả những người tập sự khác, họ được yêu cầu phải đi một vòng ngân hàng,
bắt đầu ngày làm việc đầu tiên với phòng kế toán Sở Viện trợ Mỹ. Vài giờ sau họ
đến phòng tôi than phiền là họ phải làm việc “tay chân” trong lúc họ có bằng tiến
sĩ. Tôi dẫn họ về lại phòng kế toán, biểu hai người thư ký tránh ra, đặt hai
người tập sự vào đó và nói họ làm việc. Đến cuối ngày họ tới phòng tôi nói là
công việc không xứng với họ, không xứng với bằng cấp họ, và xin từ chức.
Họ không thể làm được công việc họ phải làm. Sau này tôi nghe nói họ tới Bộ Ngoại
giao và được bổ nhiệm làm giám đốc ngay ngày đầu tiên! Kinh nghiệm của tôi, là
mặc dầu mình có những bằng cấp cao nhất, khi mới bắt đầu vào một công việc
chuyên môn, mình phải bắt đầu học hỏi những công việc thấp bé nhất, rồi dần dần
lên đến các công việc khó hơn, ở nấc cao hơn, thì đến khi nhận một chức vị điều
hành ở cương vị cao, mình mới có đủ sự hiểu biết để điều hành công việc một
cách hiệu quả và điều khiển những nhân viên dưới quyền của mình một cách chu
đáo. Nhưng buồn thay, các sinh viên Việt Nam có bằng cao, không bao giờ chịu bắt
đầu với một công việc thấp kém để học hỏi – học nghề – nên khi đảm nhận một chức
vị cao, chỉ vì có bằng cấp cao, họ không thể điều khiển nhân viên của họ và nhiều
khi có thể bị nhân viên cho “trượt vỏ chuối”, và công việc họ làm phần nhiều là
kém phần hữu dụng hay không thành công. Những người “nhảy băng’’ như vậy sẽ
không thể tiến triển được và phần nhiều là phải nhờ thân thế để “thăng quan tiến
chức”. Đó là một tệ nạn tai hại cho đất nước, và là lý do tại sao nước Việt Nam
của ta cứ lẹt đẹt chạy theo các nước láng giềng và thua kém họ 50 năm, 100 năm,
mặc dầu dân ta rất thông minh và học giỏi không thua ai, mà có phần hơn là
khác. Họ cũng hay quên một sự thật rất quan trọng, là khi ra làm việc, những gì
ta đã học ở trường với những bằng cấp của ta, phần lớn ta không cần đến, và ta
cần những kinh nghiệm ta học mỗi ngày trong công việc ta làm. Nhưng nếu chúng
ta thành thật nhìn lại chung quanh chúng ta, thì chúng ta thấy chẳng mấy người
đã chọn hai con đường ở trên! Buồn thay cho đất nước Việt Nam của ta! Trong khi
đó ở các nước đi trước ta như Nhật Bản, Đại Hàn họ rất chú trọng đến vấn đề tập
sự và kinh nghiệm, nhiều hơn ta nhiều. Ngay cả ở nước Mỹ khi sinh viên đã có
BA, BS, muốn vào tiếp tục học Master hay Ph.D, các trường danh tiếng thường đòi
hỏi sinh viên phải có kinh nghiệm đã làm việc. Ngày nay ở Việt Nam, với những bằng
“giả”, bằng “non”, bằng “chính trị”, tiến sĩ và phó tiến sĩ, với sự nhắm mắt của
chính quyền, vấn đề còn tệ hơn nữa và sự tiến triển của đất nước còn khó hơn nữa,
Vì vậy mà tôi không quên được một câu phê bình của người Pháp đối với dân Việt
Nam: trong mỗi người Việt Nam, đều có một ông quan. Bất kỳ người Việt
Nam nào, khi có một mảnh bằng, dầu nhỏ bé đến đâu, cũng chỉ muốn làm quan.
Không có ai chịu làm dân cả. Vì vậy mà ngay cả trong một chính thể xã hội, ta
đã thấy bao nhiêu bằng giả, bằng non, bằng chính trị, bên cạnh một số bằng thật
rất nhỏ.
Tôi có gặp ba trường hợp tương tợ trong đó hai người, một có bằng thạc sĩ ở
Pháp và một có bằng Ph.D từ Mỹ về, và một kỹ sư tốt nghiệp từ một trường danh
tiếng của Pháp, cả ba được bổ nhiệm những chức vụ số một trong các cơ quan
chuyên ngành mà họ không có đủ tiêu chuẩn chuyên môn: cả ba đều không làm được
việc và bị sa thải sau một thời gian. Những người đứng đầu chính phủ và các nhà
lãnh đạo đất nước phải luôn luôn nhớ rằng không thể yêu cầu một người bác sĩ
lái một chiếc tàu thuỷ, hay một sĩ quan tàu ngầm nguyên tử lái máy bay Boeing
747, cũng như nhà kinh tế tài ba nhất không thể quản lý được một chương trình
không gian, trừ phi họ bắt đầu học lại từ đầu.
Sau khi tôi đã nộp bản báo cáo mô tả các chi tiết của vụ cắp và trách nhiệm của
nhiều thành viên cao cấp trong ban điều hành, nhưng không cáo buộc Thúc một lỗi
nào, ngoại trừ sự chểnh mãng và thiếu năng lực, Diệm cách chức anh ta và thay bằng
Trần Hữu Phương, một kỹ sư dân sự không hề có kiến thức căn bản về tiền tệ hay
ngân hàng. Thúc rời ngân hàng cùng với đám bà con bè bạn không một lời chào từ
biệt tôi, rõ ràng anh ta tin rằng vì tôi mà anh ta bị cách chức. Anh ta không
biết rằng chính tôi đã cứu anh ta khỏi ngồi tù. Tôi không bao giờ nói Thúc biết
là tôi đã giữ cái đầu lại cho anh ta và Thúc vẫn luôn luôn giữ ác cảm với tôi
sau khi bị cách chức.
Phương bước vào ngân hàng đem theo mấy người phụ tá, những người này cũng giống
như thủ trưởng của họ, đều trung thực và làm việc tận tâm nhưng hoàn toàn thiếu
kiến thức và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng. Phương hết sức cố gắng để học
cái ngành mới này, và cũng bỏ rất nhiều công sức để làm quen với cách vận hành
của một Ngân hàng Trung ương. Nhưng điều này không phải dễ dàng, vì anh ta
không hề có một cái nền đào tạo nào về tài chánh. Thế là anh ta lo việc quan hệ
với chính phủ và quản lí hành chánh nội bộ, giao việc quản lí chuyên môn về tiền
tệ và ngân hàng cho tôi.
Tôi mất tới sáu tháng làm việc rất dữ cùng một vài quyết định khó khăn mới có
thể hoàn tất việc tổ chức lại Ngân hàng Quốc gia. Và trong khi ấy, tôi phải
cùng một lúc tìm cách mau chóng phát triển Ngân hàng Việt Nam Thương tín mà tôi
đã thành lập và vẫn còn đang phụ trách.
Thế rồi Vượng được bổ nhiệm Bộ trưởng Tài chánh để thay thế Phương; ông ta được
thưởng vì đã tố cáo và buộc tội Thúc đồng loã trong vụ cắp. Các thành viên
trong Hội đồng Tiền tệ Tối cao có nhiều dịp theo dõi một cách thú vị cuộc đối
thoại giữa Vượng và tôi, ông ta thường hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn và tôi phải
giải thích thẳng thừng cho ông ta hiểu về các vấn đề tài chánh tiền tệ sơ đẳng
nhất. Những người ngồi sau lưng các thành viên hội đồng cứ cười thầm vì những
câu hỏi vô nghĩa của ông ta và những câu trả lời châm biếm của tôi.
Vũ Văn Mẫu là Bộ trưởng Ngoại giao và là một giáo sư luật, anh ta đang lo thiết
lập những quan hệ ngoại giao với thế giới thứ ba, chưa bao giờ chịu nhìn thử
vào các vấn đề ngoại tệ và tài chánh hải ngoại của đất nước, có lẽ vì anh ta
chưa bao giờ chạm đến các vấn đề tài chánh tiền tệ. Với một ê-kíp như vậy,
Phương làm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Vượng Bộ trưởng Tài chánh, Mẫu Bộ trưởng
Ngoại giao, cùng với phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phụ trách kinh tế tổng
quát, tất cả đều thiếu kiến thức tài chánh tiền tệ như vậy, tôi phải tự mình nhận
lấy trách nhiệm thiết lập một hệ thống tiền tệ tài chánh mới cho đất nước bằng
cách cắt đứt tất cả những mối quan hệ lâu nay giữa đồng tiền Việt Nam và hệ thống
đồng tiền Pháp, và thương lượng một mối quan hệ tiền tệ mới giữa Pháp và nước
nhà.
Tôi biết rằng đây hầu như là một việc không tài nào thực hiện nổi nếu tự làm một
mình, bởi tôi sẽ không nhận được một sự hỗ trợ nào của các bộ khác trong chính
phủ vì họ mù tịt về vấn đề hoặc vì họ sợ dính líu vào một công việc tế nhị và
gánh lấy những trách nhiệm mà họ không muốn. Tôi phải tự làm lấy một mình.
Không ai nhắc nhở, không ai hỏi thăm, kể cả Tổng thống Diệm. Tôi chỉ biết rằng
ông ta sẽ ủng hộ tôi hoàn toàn nếu tôi làm được điều lớn lao cho đất nước. Tôi
biết rằng nếu tôi thành công thì sẽ không có ai cám ơn, không ai nhớ ơn, mà tất
cả đều ganh tị; còn nếu tôi thất bại, mọi người sẽ nhảy xổ lên tôi. Nhưng tôi
biết là rất nhiều vấn đề cốt tử đang đối mặt với xứ sở, và quyền lợi sống còn của
đất nước đang đặt ở trên bàn cân. Đối với những ai quan tâm sâu xa tới quyền lợi
chung của đất nước như tôi, thì đây là cả một cơ hội lớn để phục vụ; làm sao
tôi cưỡng lại được tiếng gọi phải làm một điều thật sự quan trọng cho đất nước.
Đâu có nhiều người trên thế giới này có cơ hội được giao phó các vấn đề cốt yếu
như vậy ngay bước khởi đầu sự nghiệp – và hầu như một mình một ngựa. Những ý
nghĩ này đã giúp tôi quyết định, bất chấp mọi khó khăn và gánh chịu những nguy
hiểm dính liền với một công cuộc như vậy.
[1]Ngân hàng trung ương là tên chung cho một loại ngân hàng đặc biệt,
của tất cả các nước. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là tên riêng của ngân hàng
trung ương Việt Nam, cũng như Banque de France là tên của ngân hàng trung ương
Pháp và Federal Reserve Bank là ngân hàng trung ương Hoa Kỳ.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét