Linh Mục Cao Văn Luận
Tại
Nam phần, có mấy lực lượng được coi như không theo ông Diệm, đó là một số đơn
vị quân đội dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tướng Hinh và các thuộc hạ thân
tín, các quân đội giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo và quân đội Bình Xuyên.
Ông
Diệm và ông Nhu khôn khéo tách rời các lực lượng này ra, trước hết ông tìm cách
làm cho hai lực lượng Giáo phái là Cao Đài và Hòa Hảo trở thành trung lập trong
cuộc tranh chấp quyền hành giữa ông và Tâm-Hinh. Tôi không rõ nhờ may mắn hay
nhờ tài giỏi, ông Diệm đã lôi cuốn được một thành phần quân đội Cao Đài dưới
quyền Trịnh Minh Thế. Việc đó được coi như một thành công lớn của ông. Ông yên
tâm hơn, dựa vào những đơn vị quân đội trung thành với ông thanh toán Nguyễn
Văn Hinh, Bình Xuyên và Lữ đoàn Ngự Lâm Quân.
Về
mặt chính trị, ông Diệm cho thành lập tại các Tỉnh những ủy ban nhân dân cách
mạng, và tại trung ương Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ra đời. Nhiệm vụ của tổ
chức này là ủng hộ ông Diệm và hạ bệ Bảo Đại cùng bọn Tâm, Hinh.
Nhờ
có tổ chức và được sự ủng hộ của quần chúng, trong thời gian từ 1955 đến 1956,
ông Diệm có thể nói đã nắm được quần chúng trong lúc những kẻ thù ông dần bị cô
lập và vì làm tay sai cho Pháp một cách quá trâng tráo đã mất hết chính nghĩa,
không có một hậu thuẫn quần chúng nào. Những chuyện đằng sau vụ truất phế Bảo
Đại, đánh đuổi người Pháp, tôi không dám biết đến, và xin nhường cho các nhà
chính trị nghiên cứu và phê phán.
Vả
lại lúc bấy giờ tôi chỉ chú ý đến một vấn đề di cư. Tôi cũng nghe nói đến sự
giúp đỡ của Mỹ đối với ông Diệm trong thời gian này, không những chỉ về phương
diện xã hội, như các khoản trợ giúp dân di cư mà thôi, mà còn nhiều về phương
diện chính trị, ngoại giao quân sự nữa. Có một điều làm tôi ngạc nhiên là quân
đội Pháp lúc bấy giờ đã phản ứng yếu ớt chiếu lệ đối với việc truất phê Bảo Đại
và đuổi họ ra khỏi Việt Nam. Trong cuộc xung đột giữa ông Diệm và Tâm Hinh và
Bình Xuyên, một cách có chừng vậy thôi, không lấy gì làm tích cực cho lắm. Tôi
tin rằng đằng sau việc đó, tại những kinh đô lớn của các cường quốc, đã có một
sự dàn xếp nào đó, hoặc là Pháp đã quá chán ngán chiến tranh Việt Nam và bây
giờ không tha thiết đến việc bảo vệ địa vị của nước Pháp ở phần đất Việt Nam
còn lại nữa.
Nếu
lúc bấy giờ quân đội Pháp chống ông Diệm ra mặt, không biết chuyện gì sẽ xảy
ra, và dù ông Diệm có thắng cũng còn nhiều khó khăn, và còn đổ máu nhiều hơn
nữa. Sau khi quân đội Pháp chấp nhận tập trung vào một vài vùng phái bộ quân sự
Pháp rút lui thì người ta thấy Mỹ tăng cường phái bộ của họ: Do Tướng Harkins
cầm đầu. Vai trò của phái vộ Mỹ càng ngày càng lớn, hoàn toàn thay thế phái bộ
Pháp trong các công tác huấn luyện, cố vấn.
Tôi
phải công nhận rằng ông Diệm là một người có óc độc tôn, nếu chưa phải là độc
tài. Ngay từ đầu ông đã cho rằng chỉ nên có một đảng duy nhất. Có lẽ ông cho
rằng để chống lại cộng sản, thì phe quốc gia không thể rơi vào những hỗn loạn
chính trị do chế độ đa đảng gây ra, cho nên ông không muốn tại miền Nam có trên
hai đảng. Về mặt nổi, ông thành lập Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, và trong bề
sâu của sinh hoạt chính trị ông dựng đảng Cần Lao Nhân Vị.
Cái
tinh thần độc tôn này được biểu lộ rõ rệt trong cách đối phó với các đảng phái
quốc gia, tuy không hoàn toàn ủng hộ ông Diệm và chịu sát nhập vào Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia của ông. Tôi còn nhớ một hôm tôi đang ở trong Dinh, hình như
khoảng đầu năm 1955 thì có một đoàn biểu tình kéo đến trước Dinh. Đoàn biểu
tình này do các cán bộ một đảng khá quan trọng lúc bấy giờ tổ chức, đó là Phòng
Trào Tranh Thủ Tự Do của các ông Vũ Quốc Thúc, Bùi Văn Thinh.
Tôi
tưởng rằng thế nào ông Diệm cũng ra trước Dinh tiếp đại diện của đoàn biểu
tình, nhưng chuyện xảy ra trái với ý nghĩ của tôi. Ông Diệm đã ra lệnh đơn vị
Phòng Vệ Phủ Thủ Tướng canh gác nghiêm mật rồi ông vẫn bình tĩnh ở trong Dinh,
cho đến lúc đoàn biểu tình chán nản tự giải tán. Sau đó ít lâu, Bùi Văn Thinh
đang làm Bộ Trưởng Tư Pháp được cho đi làm Đại Sứ tại Nhật Bản.
Cũng
trong thời gian này, phía bên Công Giáo có một lực lượng chính trị khá quan
trọng, là Tập Đoàn Công Dân Tôn Giáo. Ông Diệm và ông Nhu không bằng lòng cho
lực lượng này hoạt động, nhưng cũng hơi kẹt. Ông không muốn dùng các phương
thức áp lực hay đàn áp. Một hôm ông Diệm nói chuyện với tôi:
-
Nước mình đang có quá nhiều mầm mống hỗn loạn. Theo ý tôi chỉ nên có một Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia, và một đảng chính trị duy nhất là Cần Lao. Bây giờ có
phong trào Tập Đoàn Công Dân do Đức Cha Phạm Ngọc Chi lãnh đạo, tôi sợ rằng như
thế không ích lợi gì. Tôi muốn nhờ Cha nói với Đức Cha Chi cho Tập Đoàn Công
Dân sát nhập vào Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Cha nghĩ sao?
Tôi
ngần ngại, thưa ông:
-
Tôi không biết chắc Tập Đoàn Công Dân có thực sự do Đức Cha Chi lãnh đạo hay
không, bởi vì về mặt công khai chúng ta không thể nói chắc Đức Cha Chi lãnh đạo
Tập Đoàn Công Dân. Trên danh nghĩa, Đức Cha Chi không có chức vụ quan trọng gì
trong tổ chức này cả. Hơn nữa tôi là một Linh Mục, lãnh việc đi thu xếp chuyện
đảng phái cho Cụ e không tiện. Chi bằng nhân dịp nào đó, Cụ gặp Đức Cha Chi thử
nói chuyện này với ngài xem sao? Tôi nghĩ rằng nếu Đức Cha Chi nhận thấy tình
hình chính trị nước ta không nên có nhiều đảng, thì có thể ngài bằng lòng.
Tôi
được biết ít lâu sau, ông Nhu mời Đức Cha Chi vào trong Dinh nói chuyện, nhân
một dịp Đức Cha Chi vào Sài Gòn. Phong Trào Tập Đoàn Công Dân bị giải tán và
người ta thấy phần lớn các cán bộ cao cấp và các tổ chức hạ tầng của phong trào
này gia nhập vào Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và đảng Cần Lao.
Vì
các đảng phái có thể trở thành đối lập bị thanh toán ngay từ đầu, và lại bị
thanh toán bằng sức mạnh của chính quyền, chớ không bằng một cuộc đấu tranh
chính trị nào, cho nên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và đảng Cần Lao không có
cơ hội thử thách để trưởng thành và trở thành một đảng chính trị đúng nghĩa của
nó. Hai tổ chức này, xét kỹ chỉ là một bộ phận lệ thuộc của chính quyền ông
Diệm. Nếu ông Diệm được coi là lãnh tụ đảng thì cũng chỉ vì ông đang là lãnh tụ
quốc gia, chớ không phải vì ông được đảng bầu lân. Lề lối sinh hoạt đảng cũng
được đồng hóa vào lề lối sinh hoạt của guồng máy chính quyền. Những cơ sở huấn
luyện đảng, là những cơ sở chính quyền. Trong hầu hết các trường hợp, viên chức
cao cấp nhất của chính quyền, tại một địa phương, hay một cơ quan nào đồng thời
cũng là lãnh tụ địa phương của đảng. Như thế tổ chức đảng trở thành thừa và vô
ích, cùng lắm nó chỉ có cáo ích lợi là nắm chắc được guồng máy chính quyền, đặt
để hay ép buộc những người của chính quyền và của ông Diệm vào các địa vị then
chốt trong quốc gia mà không gây được cơ sở hạ tầng vững mạnh bền bỉ trong quần
chúng.
Theo
lề lối tổ chức và sinh hoạt như thế, bao giờ ông Diệm còn nắm chính quyền, thì đảng
của ông có vẻ mạnh, nhưng chỉ là cái sức mạnh bề ngoài, sức mạnh lòe được kẻ
non dạ, mù quáng, mà không bịp ai được. Lý Thuyết Nhân Vị được dùng làm nền
móng tinh thần cho Đảng và Phong Trào cũng vấp vào nhiều khuyết điểm không có
sức sinh động mạnh để thu hút quần chúng, những căn bản triết lý của nó cũng
còn quá mập mờ, vá víu, và không bắt nguồn từ những truyền thống sâu xa của dân
tộc Việt Nam. Tôi không dám nói nhiều về chuyện này, và ngay lúc bấy giờ tôi
cũng đã không có ý kiến gì về cái lý thuyết nhân vị, mặc dù khi du học tôi đã
chọn ban triết và cũng đã nghiên cứu đôi chút về triết học. Đôi lúc ông Nhu có
đề cập đến cái lý thuyết nhân vị với tôi, nhưng tôi cố tránh để khỏi có ý kiến.
Riêng ông Diệm thì tôi thấy ông không quan tâm nhiều đến phần lý thuyết chính
trị. Tôi cũng không được nghe ông bàn với tôi một lần nào về lý thuyết nhân vị.
Ông chỉ nói đến những việc làm, những thực hiện cụ thể. Có một điều mà tôi có
thể đồng ý, là một phong trào chính trị muốn vững bền cần phải có một nền móng tinh
thần, và nền móng tinh thần đó nếu được đúc kết lại mạch lạc có thể thành một
lý thuyết chính trị. Cho nên trong lúc tôi không thấy có gì hơn, tôi nghĩ rằng
cái lý thuyết nhân vị, dù sao thì có vẫn hơn không. Ít ra nó giúp cho người
hành động một vài tiêu chuẩn hướng dẫn và một vài cách thức biện hộ. Tôi cố
tránh bình luận, chỉ trích là vì nghĩ như thế.
Tôi
muốn nhắc đến một trường hợp điển hình thứ hai chứng minh tính cách độc tôn của
ông Diệm trong việc dàn xếp với các đảng phái, hoặc trong quan niệm của ông về
sinh hoạt chính trị dân chủ. Trong khoảng thời gian sau 1954, tại Huế nhóm Lê
Trọng Quát muốn thành lập một đảng chính trị lấy tên là đảng Cộng Hòa Xã Hội.
Lê Trọng Quát có nói chuyện với tôi. Chủ ý của Quát là muốn đem đến sinh hoạt
chính trị một sự hào hứng phấn khởi bằng cách tạo ra thế lưỡng đảng và như thế
trong lúc đảng Cần Lao và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia đóng vai đảng nắm quyền
thì đảng Cộng Hòa Xã Hội của Quát đóng vai đảng đối lập.
Tôi
nhận thấy chủ trương như vậy chẳng những rất hay mà còn cần thiết để xây dựng
những lề lối và truyền thống dân chủ trong sinh hoạt chính trị quốc gia, cho
nên tôi thấy có thiện cảm với chủ trương đó. Khi Quát trình bày với tôi, và nhờ
tôi nói với ông Cẩn và ông Diệm cho phép Quát lập đảng và hoạt động công khai,
mặc dù tôi ngại sẽ không được ông Cẩn, ông Diệm đồng ý, nhưng tôi cũng đến
trình bày ý định của Quát cho ông Cẩn trước.
Ông
Cẩn chăm chú nghe, rồi cho tôi biết rằng về vấn đề này, ông Diệm và ông Nhu đã
ra chỉ thị rõ ràng không cho phép bất cứ ai lập thêm đảng phái chính trị.
Ông
Cẩn cũng giải thích rằng chẳng phải là gia đình họ Ngô chủ trương độc tài
chuyên chế, nhưng vì nhận thấy quan niệm đối lập của người Việt Nam mình thật
là thô sơ và sai lạc, khi nói đến đối lập họ chỉ nghĩ đến việc cướp chính quyền
bằng mọi cách, bất chấp hiến pháp luật lệ và những thủ tục dân chủ hợp pháp.
Ông Cẩn đơn cử những trường hợp hoạt động đối lập của Đại Việt, Quốc Dân Đảng.
Hai tổ chức này đã có lúc chống đối bằng võ lực, gây khó khăn cho chính quyền,
chẳng ích lợi gì cho quốc gia dân tộc.
Lúc
bấy giờ tôi nhận thấy những lời giải thích này có phần đúng, vì trình độ ý thức
chính trị của người Việt Nam còn thiếu sót nhiều lắm, các tổ chức chính trị lại
đã quen hoạt động bí mật dưới thời chống Pháp, nên về chủ trương, đường lối cơ
cấu tổ chức đều không thích ứng được với sinh hoạt chính trị công khai. Ông
Diệm cũng còn nghĩ rằng lúc đó phải đối phó với cộng sản là một kẻ thù mạnh và
nguy hiểm, ông không thể nào chịu thêm những hỗn loạn và xáo trộn chính trị
trong nội bộ quốc gia.
Ông
Cẩn có nói với tôi về dùng lời khéo léo trình bày cho Quát, và khuyến khích các
anh em đó nếu muốn tham dự vào sinh hoạt chính trị thì hãy gia nhập đảng Cần
Lao và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia. Về sau hình như một số các anh em trong
nhóm này đã theo lời khuyên đó.
Những
gì đúng cho lúc này không hẳn đúng vĩnh viễn. Cái chủ trương độc đảng của ông
Diệm trong giai đoạn đầu có thể chấp nhận được, nhưng về sau khi đã củng cố
được quyền hành tôi mong ông Diệm mềm dẻo hơn đối với các tổ chức chính trị,
cho phép hoạt động đối lập chính trị công khai và hợp pháp, nhưng đã không có
dịp nào đề cập đến vấn đề này với ông Diệm. Vả lại càng về sau thì quyền hành
thực sự của ông Nhu càng lớn lên mà ông Diệm thì ít chú ý đến, chỉ lưu tâm đến
các vấn đề thiết thực, và một trong vấn đề thiết thực đó là vấn đề văn hóa,
giáo dục.
Trong
năm 1956, lúc tình hình chính trị tương đối ổn định và công cuộc định cư đã
tiến hành đều đặn, tốt đẹp, tôi thu xếp công việc dạy học để đi Mỹ. Trước lúc
đi tôi có vào gặp ông Diệm. Lúc này ông Diệm rất vui vẻ vì mọi việc thành công
ngoài hy vọng của ông. Pháp và Bảo Đại cùng bọn Tâm-Hinh, Bình Xuyên và các
giáo phái vừa bị dẹp xong một cách dễ dàng.
Các
đảng phái cũng đã thuần phục hay rút vào bóng tối, và trước mặt ông Diệm tưởng
như không còn một trở ngại nào.
Ông
Diệm dặn dò tôi:
-
Qua các nơi, Cha nhớ coi các Tòa Đại Sứ mình làm việc ra sao. Nhân tiện Cha dò
xem phản ứng của các nước đối với nước mình như thế nào?
Chuyến
đi này tôi không có mục đích nào nhất định và rõ rệt ngoài việc thăm viếng các
sinh viên mà tôi gửi đi du học. Tôi cũng có ý định tìm hiểu dư luận các quốc
gia đối với Việt Nam bây giờ như thế nào, và nếu có thể được, thì vận động các
nước giúp đỡ công cuộc định cư được thuận tiện hơn.
Ở
Mỹ, dư luận quần chúng, cũng như nhận định của chính giới rất thuận lợi cho
Việt Nam và Tổng Thống Diệm.
Ông
Diệm được coi là một lãnh tụ tài giỏi bậc nhất ở Đông Nam Á, và tình hình Việt
Nam được coi như sáng sủa nhất từ trước đến nay. Quốc Hội Mỹ sẵn sàng phê chuẩn
những yêu cầu của chính phủ nhằm giúp đỡ Việt Nam, cũng như vì dư luận Mỹ thiện
cảm nhiều với Việt Nam và ông Diệm, báo chí Mỹ không chỉ trích chế độ ông Diệm,
hay bôi đen tình hình chính trị Việt Nam như chúng ta thấy những lúc sau này.
Nguyên
nhân của sự kiện này, không phải nhờ ở hoạt động thông tin quốc ngoại hay nhờ ở
Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Mỹ mà phần lớn nhờ phong trào di cư. Phong trào di cư làm
xúc động quần chúng và dư luận Mỹ. Lúc bấy giờ tinh thần chống cộng ở Mỹ lên
cao và tôi nhớ hình như đang có một phong trào tố cáo một dân biểu cộng sản,
hay thân Cộng sản.
Những
phái đoàn báo chí, tôn giáo, chuyên viên Mỹ sang Việt Nam giúp đỡ phong trào di
cư, lúc trở về đã tường thuật những nỗ lực lớn lao của ông Diệm và chính phủ để
định cư hàng triệu đồng bào di cư, làm cho người Mỹ hết sức thán phục và thiện
cảm.
Nhắc
đến Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Mỹ, tôi phải buồn lòng mà nói rằng ở đây họ không có
một hoạt động nào xứng đáng với sự mong đợi của ông Diệm. Họ chỉ làm những công
việc giấy tờ nghi lễ và cũng không có một hoạt động nào gọi là thông tin quốc
ngoại cả.
Sau
khi đi một vòng nhiều quốc gia trở về, tôi được nhân viên Phủ Thủ Tướng đón
tiếp tại Tân Sơn Nhất, và hẹn vào gặp ông Diệm ngay. Tôi chỉ kịp ghé nơi trọ
một lúc rồi theo xe của Phủ Thủ Tướng đã đón sẵn, vào gặp ông Diệm. Ông Diệm có
vẻ nóng nảy muốn biết những nhận xét của tôi về dư luận các nước và về hoạt
động của các Tòa Đại sứ Việt Nam tại các nước.
Tôi
trình bày những nhận xét của tôi về dư luận các nước tôi ghé qua, và ông Diệm
có vẻ vui mừng khi nghe tôi nói rằng dư luận Mỹ và các nước đều hết sức thuận
lợi cho Việt Nam. Nhưng khi tôi nói đến những nhận xét của tôi về Tòa Đại Sứ
Việt Nam, thì ông Diệm từ từ cau mày. Tôi thưa:
-
Thưa Cụ, các Tòa Đại Sứ Việt Nam tại các nước chẳng có nơi nào làm việc như ý
Cụ mong muốn. Nơi nào cũng chỉ làm việc một cách uể oải lấy lệ. Tôi cho rằng sở
dĩ có tình trạng đó là vì hai lẽ. Thứ nhất đa số nhân viên các Sứ Quán Việt Nam
đều là người của thời Bảo Đại còn lại, họ chẳng có tinh thần làm việc, cũng
không thông hiểu đường lối của Cụ và của chính phủ. Họ không phải là những cán
bộ ngoại giao mà là những công chức ngoại giao. Họ không hiểu gì về ngoại giao
cả. Thứ hai là cách bổ nhiệm Đại Sứ của Cụ làm cho những kẻ đi làm ngoại giao
trở thành những kẻ bất mãn, chống lại Cụ một cách tiêu cực.
Ông
Diệm có vẻ không hiểu cái lý do thứ hai, cau mày hỏi lại:
-
Tại làm sao?
-
Thưa Cụ, Cụ đã cử một số người đi làm Đại Sứ, sau khi Cụ không còn dùng họ làm
Bộ Trưởng nữa. Cụ xem trường hợp của hai ông Bùi Văn Thịnh và Nguyễn Đôn Duyến,
mà suy ra thì Cụ có thể hiểu ngay. Ông Thịnh trước được Cụ cho làm Bộ Trưởng Bộ
Tư Pháp, đến lúc Cụ cất chức Bộ Trưởng Tư Pháp của ông rồi, cho ông đi làm Đại
Sứ Tokyo thì chắc chắn là ông ta buồn lắm. Coi như ông ta bị mất sủng ái, bị đi
đày vậy, làm sao ông có thể hăng hái làm việc được. Lại như ông Duyến, trước
làm Thủ Hiến Trung Việt, rồi Cụ lại cất chức Thủ Hiến Trung Việt mà cho đi làm
Đại Sứ Vạn Tượng, thì ông ta cũng nghĩ là ông bị giáng cấp, bị dùng vào một chỗ
không xứng tài ông ta, như vậy chắc chắn ông không cách chi làm hết trách nhiệm
Đại Sứ.
Ông
Diệm hình như vẫn chưa chịu hiểu:
-
Như ông Thịnh, chỉ là một Thẩm Phán, nay được làm Đại Sứ thì cũng là làm to lắm
rồi còn bất mãn cái nỗi gì?
-
Thưa Cụ, trước kia ông làm Thẩm Phán, nhưng chính Cụ cất lên làm Bộ Trưởng Tư
Pháp. Người ta thường chỉ nhớ đến cái địa vị cao nhất, mới nhất mà quên ngày
xưa mình chỉ là bạch diện thư sinh, hay chỉ là Thẩm Phán.
Lúc
bấy giờ ông Diệm mới có vẻ hơi đồng ý với tôi, gật gù:
-
Như vậy Cha tính sao?
Tôi
cũng trầm ngâm một lúc rồi nói:
-
Thưa Cụ, hiện nay nước mình chỉ liên quan nhiều đến một số quốc gia. Tại những
nơi đó, Cụ cần phải chọn lựa được những cán bộ ngoại giao xứng đáng thông hiểu
tinh thần và đường lối của Cụ, đồng thời có tài năng, giỏi tháo vát, hăng say
làm việc. Những nơi đó, theo ý tôi, gần thì có Thái Lan, Cao Miên, Lào. Đó là
những nơi số Việt kiều rầt đông, từ vài trăm ngàn ở Lào và Thái Lan, đến gần
nửa triệu ở Cao Miên. Các Đại Sứ ở ba quốc gia này phải kiêm nhiệm cả công việc
tuyên truyền, tổ chức Việt kiều để lôi cuốn số Việt kiều đông đảo này về với
chính phủ mình, và đừng để cho họ chạy theo cộng sản.
Còn
ở một vài nước xa hiện đang chú ý đến nước mình và có khả năng giúp đỡ nước
mình như Mỹ, Pháp, Anh, Gia Nã Đại, Tây Đức, thì Cụ cần phải chọn những Đại Sứ
và các nhân viên thật giỏi trong việc vận động dư luận để các nước này có thiện
cảm với nước mình mà sẵn lòng giúp đỡ mình.
Tôi
tin rằng ông Diệm rất lưu tâm đến vấn đề ngoại giao, nhưng về sau tôi đi ngoại
quốc không thấy có thay đổi gì nhiều, có lẽ ông không chọn ra người tài, hoặc
là vì cái tinh thần chọn người của ông không được đúng cách.
Về
sau tôi vẫn thấy nhiều người làm Bộ Trưởng hay làm Tướng, làm đại diện chính
phủ Miền rồi khi thôi làm thì lại được ông Diệm cho đi làm Đại Sứ. Do đó dân
chúng lúc bấy giờ đã có câu: Được làm Vua thua làm Đại Sứ.
Trong
mấy năm sau 1956, thỉnh thoảng tôi vô Dinh, nhiều khi làm lễ trong Dinh, dùng
sáng với ông Diệm, soạn hoặc sửa các diễn văn cho ông Diệm. Có khi ông Diệm
trao cho tôi một diễn văn bằng tiếng Pháp do ông Nhu soạn rồi nhờ tôi dịch ra
tiếng Việt.
Tôi
còn nhớ một chi tiết quanh một diễn văn của ông Diệm. Nhân dịp lễ Trung Thu năm
1956, tôi vào Dinh một hai hôm trước. Ông Diệm đang cầm trên tay một diễn văn
đã đánh máy, trao cho tôi đọc, càu nhàu:
-
Cha coi, cái diễn văn này 15 thằng làm mà không ra gì cả.
Võ
Văn Hải lúc đó đứng khúm núm bên cạnh, có vẻ lo sợ lắm.
Ông
Diệm gọi Võ Văn Hải:
-
Nè, mình lại lạy Cha Luận đi, rồi nhờ ngài sửa cho.
Quay
qua tôi, ông Diệm nói:
-
Nhờ Cha qua bên phòng Võ Văn Hải, đọc lại cái diễn văn này, thấy có gì đáng
sửa, đáng thêm bớt thì Cha sửa và thêm bớt giúp.
Tôi
sang phòng Võ Văn Hải, đọc lại diễn văn Trung Thu, thấy cũng chẳng đến nỗi tệ
gì lắm. Tuy nhiên tôi có sửa đổi vài ba câu, thêm bớt mấy chỗ rồi giao cho Võ
Văn Hải cho người đánh máy lại. Ông Diệm chỉ liếc sơ rồi hôm sau lên đọc.
Trong
thời gian này, tôi không nhớ rõ vào lúc nào bà Nhu có đưa ra Dự Luật Gia Đình,
và sắp vận động Quốc Hội biểu quyết.
Điều
chính yếu trong dự luật này là luật một vợ một chồng cấm ly dị. Tôi nhân có dịp
gặp ông Diệm trước khi dự luật được biểu quyết, có thưa với ông Diệm.
-
Thưa Cụ tôi thiết nghĩ là Cụ không nên để bà Nhu đưa ra Quốc Hội cái Dự Luật
Gia Đình đó, vì nước mình không cần phải làm luật cấm đa thê và cấm ly dị.
Những biến chuyển kinh tế, văn hóa dần dà sẽ dẫn xã hội đến tình trạng một vợ
một chồng chớ mình không cầm làm luật cấm đoán người ta làm gì, vả chăng luật
lệ chỉ hợp pháp hóa phong tục trong xã hội, mà không tạo ra phong tục. Còn về
cái điều cấm ly dị thì tôi cũng cho rằng không ích lợi gì mà có thể tạo nên
nhiều phản ứng chống đối bất lợi cho chính phủ. Khi vợ chồng thương yêu nhau
thì bắt buộc họ cũng không ly dị, còn khi họ ghét nhau thì dù luật pháp có bắt
buộc họ sống chung cũng chẳng được. Hơn nữa nước Việt Nam là một nước đa số
theo Thiên Chúa Giáo, cho nên luật cấm đa thê và cấm ly dị không thích hợp lắm.
Các nước Tây phưong, trừ nước Ý dù đa số theo Thiên Chúa Giáo vẫn cho phép ly
dị. Cụ còn nắm quyền thì luật này còn giá trị, nhưng về sau họ không thích thì
họ lại thay đổi ngay.
Ông
Diệm có vẻ đã nuôi sẵn nhiều định kiến về vấn đề này, nên không để ý đến những
lập luận của tôi, ông giải thích:
-
Nước Việt Nam mình phải đóng vai lãnh tụ Á Đông, nhưng lại không thể, hay chưa
thể làm lãnh tụ về các phương diện quân sự, kinh tế, khoa học kỹ nghệ được, vậy
thì phải đóng vai lãnh tụ trong địa hạt gia đình, vì như thế mình chứng minh và
nêu gương tinh thần đạo đức của Việt Nam đối với thế giới Á Đông.
Tôi
hoàn toàn không đồng ý về cái cách làm lãnh tụ Á Đông của ông Diệm. Tôi biện
bác:
-
Thưa Cụ, nói đến Á Đông thì rộng quá, nhưng nói đến Đông Nam Á thì Việt Nam có
thể đóng vai lãnh tụ đúng như ý Cụ muốn. Nhưng có điều là Luật Gia Đình không
thể giúp Việt Nam làm việc đó được, cấm đa thê và cấm ly dị đối với xã hội Á
Đông không phải là một điểm đạo đức lớn, và vi phạm các luật cấm đó không phải
là những tội nặng đối với phong tục và luật pháp các quốc gia Á Đông. Việt Nam
mình có thể làm lãnh tụ Đông Nam Á ở địa hạt khác, chẳng hạn địa hạt văn hóa,
giáo dục.
Lúc
bấy giờ tôi đã lưu tâm đến các công cuộc phát triển văn hóa giáo dục, và nuôi
trong đầu óc một vài ý kiến, nhưng chưa được rõ ràng, nên chưa thể trình bày
với ông Diệm. Đại khái ý kiến của tôi là mở rộng Viện Đại Học Sài Gòn, lập thêm
một vài Đại Học khác ở những nơi đông dân cư như Huế, Đà Lạt v.v…
Tôi
cũng đã nghĩ đến việc trao đổi văn hóa, trao đổi các sinh viên với các quốc gia
Đông Nam Á, cách riêng đối với Cao Miên và Lào, vì tôi nghĩ đến Việt Nam cấp
cho họ một số học bổng chắc chắn là họ sẽ vui mừng mà nhận. Tôi định trình bày
nhiều hơn với ông Diệm về vấn đề này trong một dịp khác, nhưng lúc này thấy ông
Diệm đã có chủ trương cứng rắn đối với luật gia đình, tôi nghĩ dù có nói gì
cũng chẳng ích lợi chi nữa nên thôi.
Ít
lâu sau, Luật Gia Đình của bà Nhu được đưa ra trước Quốc Hội, được biểu quyết
nguyên văn, và được ban hành. Ông Diệm, bà Nhu coi luật này như một tiến bộ lớn
về mặt đạo đức. Trong dân chúng, nhất là ở Huế, tôi nghe được nhiều nguồn dư
luận bất mãn chống đối Luật Gia Đình, nhưng vì mọi người sợ ông Diệm nên chẳng
ai dám nói ra, vả lại trên thực tế luật này chỉ ảnh hưởng đến một thiểu số giàu
sang, phong kiến, còn đa số dân chúng thì chẳng chịu ảnh hưởng gì nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét