Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

HỒI KÝ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA: NHỮNG THÁNG CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN 1954-1975


1      2      3      4      5      6      7      8      9      10

Tỉnh Phước Long thất thủ ngày 7 tháng 1 năm 1975.
 Tỉnh Phước Long ở phía Bắc Đông Bắc Sài Gòn, sát biên giới Việt Nam-Cam Bốt, là một trong những tỉnh được thành lập dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong chiến lược phòng thủ quốc gia. Nơi đây là vùng đất chuyển tiếp của địa hình cao nguyên cuối dãy Trường Sơn xuống đồng bằng miền Nam. Vì vậy mà Phước Long núi không cao, rừng không rậm rạp như rừng già Cao Nguyên. Cư dân hầu hết là người miền núi thuộc nhiều bộ tộc khác nhau. Thời thực dân Pháp cai trị, địa phương này có cái tên mà bất cứ người dân bình thường nào cũng khiếp đảm khi nghe đến, đó là trại tù Bà Rá.
Sự ra đời của tỉnh Phước Long và tỉnh Bình Long trong phạm vi lãnh thổ Quân Đoàn III/ Quân Khu III, do quan niệm của Tổng Thống Diệm chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược của cộng sản miền Bắc dưới tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bởi theo Hiệp Định Đình Chiến mà thực dân Pháp, cộng sản Liên Xô, cộng sản Trung Hoa, và cộng sản Việt Nam ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève, Thụy Sĩ, thì hai năm sau đó -tức năm 1956- sẽ tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chánh thức công bố là không chấp nhận tổng tuyển cử vì chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa không ký vào Hiệp Định đó. Mà thật ra, trong tình hình lúc bấy giờ, nếu tổng tuyển cử thì nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có cơ hội chiến thắng trong cuộc bầu cử đó, có nghĩa là khối Tự Do do Hoa Kỳ lãnh đạo nói chung và Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nói riêng, bị trúng kế của khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Và như vậy, Việt Nam chúng ta từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ bị cộng sản cai trị bằng chế độ độc tài từ đó. Hẳn là Tổng Thống tin rằng nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ bắt đầu chiến tranh xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa, mà bước đầu là một lực lượng lên đến hằng chục ngàn cán bộ do chúng cài lại miền Nam bằng cách sống chen lẫn trong gia đình, hay trong đồng bào nông thôn miền Nam khi chúng tập kết chuyển ra Bắc theo Hiệp Định Đình Chiến qui định. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt gây chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.
Mục tiêu thành lập các tỉnh tại những vùng mà trong cuộc chiến tranh giữa Pháp thực dân với Việt Minh cộng sản 1946-1954 mà quân Pháp không kiểm soát được, để có các cơ quan hành chánh lẫn quân sự hoạt động vừa bảo vệ dân vừa ngăn chận quân cộng sản thiết lập hạ tầng cơ sở cho cuộc chiến tranh ước tính là rất có thể sẽ xảy ra. Một đoạn trên quốc lộ 14 từ thị trấn Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Long, chạy ngang thị trấn Đồng Xoài -tức quận Đôn Luân- thuộc tỉnh Phước Long lên hướng Đông Bắc sẽ đến tỉnh lỵ Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac. Ban Mê Thuột được xem là thủ phủ Cao Nguyên Miền Trung. Từ đây thẳng lên hướng Bắc sẽ đến Plei Ku, và tiếp tục thêm khoảng 40 cây số nữa sẽ đến Kon Tum, tỉnh cuối cùng của quốc lộ 14 trên dãy Trường Sơn. Do vậy mà tỉnh Phước Long có tầm quan trọng  về mặt chiến lược quân sự lẫn chính trị trong chiến tranh chống cộng sản, một loại chiến tranh mà nhà cầm quyền không dễ gì nhận ra địch quân vì chúng sống trà trộn trong đồng bào, thậm chí là chúng có thể chen vào trong các cơ quan nữa.
Từ khi vùng rừng núi này trở thành tỉnh, dân số gia tăng dần lên với số người từ Sài Gòn cũng như các tỉnh khác đến đây khai phá đất ba-dan trồng các loại cây kỹ nghệ, và buôn bán làm ăn với đồng bào sắc tộc. Tuy chưa phải là nhộn nhịp như các tỉnh vùng đồng bằng Cửu Long hay dọc miền duyên hải, nhưng cũng tạo được bộ mặt đầy đủ của một tỉnh lỵ cũng như các thị trấn quận và xã.
Đầu năm 1957, quân cộng sản gài lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa -nhiều nhất là các tỉnh cực Nam đồng bằng Cửu Long- bắt đầu quấy rối trên toàn lãnh thổ. Lúc ấy, tỉnh Phước Long cũng trong tình trạng như vậy. Những năm đầu, hoạt động của cộng sản tập trung vào phạm vi kinh tài và đấu tranh chính trị với những cuộc biểu tình lẻ tẻ ở nông thôn, hoặc vùng ngoại ô các thị trấn hay tỉnh lỵ, phản đối những cuộc hành quân bình định, hoặc yêu sách những tên cộng sản bị bắt. Cuối năm 1960, quân cộng sản bắt đầu hoạt động với lực lượng du kích cấp Trung Đội trang bị thô sơ, và từng bước chúng tiến lên hoạt động cấp Đại Đội.
Trong những năm 60, lực lượng cấp Trung Đoàn, rồi Sư Đoàn, được cộng sản Liên Xô và cộng sản Trung Hoa trang bị nhiều loại dụng cụ chiến tranh được xem là thế hệ mới. Từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía Bắc vĩ tuyến 17, luồn theo dãy Trường Sơn  xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và thực hiện những trận đánh cấp Trung Đoàn vào đầu những năm 70. Cho đến tháng 3 năm 1973, lực lượng cộng sản quanh quẩn trong vùng rừng núi của Phước Long và các tỉnh lân cận lên đến cấp Sư Đoàn, nhưng chưa làm gì được Phước Long. Rồi ngay sau ngày Hiệp Định Paris (tháng 3 năm1973) có hiệu lực, quân cộng sản vẫn tiếp tục chiến tranh, có nghĩa là chúng ngang nhiên vi phạm Hiệp Định này.
Ngày 13 tháng 12 năm 1974, một đơn vị có thể là cấp Tiểu Đoàn trở lên, tấn công quận lỵ Đôn Luân, vị trí án ngữ quốc lộ 14 lên Ban Mê Thuột hay xuống Bình Long, và liên tỉnh lộ 1 lên Phước Long, bị quân trú phòng đẩy lui. Nhưng cuộc tấn công kế tiếp thì Đôn Luân thất thủ. Sau đó, một lực lượng khác của cộng sản đánh chiếm quận Bố Đức (?) với quận Đức Phong (có thể tôi nhớ không chính xác về tên Quận). Một lực lượng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Mưu điều động tăng cường tỉnh lỵ, trong khi yểm trợ hỏa lực không quân được tập trung cho Phước Long, kể cả điều động từ Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ tăng cường.
Cuộc tiếp tế cho các đơn vị hành chánh, quân sự, lẫn đồng bào trong tỉnh lỵ trở nên khó khăn, thậm chí là rất khó khăn vì quân cộng sản sử dụng nhiều lực lượng nhỏ phục kích nhiều ngày mà chúng gọi là “đóng chốt” tại các đoạn đường hiểm trở dọc theo đường liên tỉnh số 1 dẫn lên tỉnh lỵ. Tình trạng này làm cho công tác chuyển vận các loại tiếp liệu bằng đường bộ không sử dụng được, trong khi tiếp tế bằng phi cơ rất hạn chế từ sau khi Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo qui định trong Hiệp Định Paris. Trong cùng thời gian, quân cộng sản pháo kích mạnh vào phi trường Lai Khê -nơi hoạt động rộn rịp của Sư Đoàn 5 Bộ Binh tiếp viện Phước Long- và phi trường Sông Bé, tỉnh lỵ Phước Long.   
Ngày 24 tháng 12 năm 1974, chiếc trực thăng Chinook 47 chở chuyên viên từ Sài Gòn lên tỉnh lỵ Phước Long sửa chữa chiếc phi cơ vận tải C.130 bị hư đang nằm tại phi trường ngoại ô tỉnh lỵ, sau khi chở tiếp tế thực phẩm và nhiên liệu đến nơi. Lượt về, chiếc Chinook 47 đã bị hỏa lực phòng không của quân cộng sản bắn hạ sau khi cất cánh chưa đầy 5 phút. Các phi tuần khu trục phản lực A.37 được điều động từ Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ lên tăng cường yểm trợ hỏa lực cho lực lượng phòng thủ Phước Long, một trong số các phi công phản lực A.37 -Thiếu Tá Trần Quốc Tuấn- đã nói với tôi rằng:
“… Em chưa bao giờ gặp hỏa lực phòng không dày đặc bố trí chung quanh tỉnh lỵ Phước Long. Phải nói rằng, một lưới lửa đỏ cả một vùng rộng lớn đã gây trở ngại đáng kể cho các phi tuần khu trục yểm trợ Phước Long …”         
Ngay ngày đầu năm 1975, quân cộng sản pháo kích khá mạnh vào căn cứ không quân Biên Hòa, để ngăn chận những phi tuần khu trục của Sư Đoàn 3 Không Quân cất cánh yểm trợ Phước Long. Cũng trong những ngày đầu năm 1975, các đơn vị cộng sản gia tăng áp lực chung quanh tỉnh lỵ với lực lượng ghi nhận là cấp Sư Đoàn, đặc biệt sự ghi nhận về lực lượng phòng không của chúng rất mạnh. Đang trong tình hình hết sức nguy hiểm cho lực lượng trú phòng, thì sự bất đồng quan niệm hành quân giải tỏa Phước Long giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu III, với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong phiên họp tại Phủ Tổng Thống, Trung Tướng Đống xin tăng cường lực lượng tổng trừ bị nhưng không được chấp thuận. Xin nói thêm, lực lượng tổng trừ bị dưới quyền điều động của Bộ Tổng Tham Mưu, gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân.
Sự bất đồng quan điểm này, tôi nghĩ, không phải là vấn đề lớn đến nỗi gây bất bình cho Trung Tướng Dư Quốc Đống. Ông từng là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù, từng được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường cho Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, trong những tình hình chiến sự tại đó, chắc ông dễ dàng thông cảm với Bộ Tổng Tham Mưu khi sử dụng lực lượng tổng trừ bị. Về phía Quân Đoàn III, xin thì ông cứ xin, nhưng còn chấp thuận hay không còn phải tùy thuộc tình hình khắp các Quân Đoàn mà chỉ Bộ Tổng Tham Mưu mới nắm vững. Trong thời gian Phước Long bị tấn công gần như toàn tỉnh, thì tình hình tại Quân Đoàn I và Quân Đoàn II cũng không phải là yên tỉnh, và cho dù có yên tỉnh đi nữa thì Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu là cơ quan có trách nhiệm cập nhật hoá “bản nghiên cứu và ước tính tình báo” cung cấp thường xuyên cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng về tình hình tại các vùng lãnh thổ các Quân Đoàn trách nhiệm. Nghĩa là vị Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc nào cũng theo dõi thấu hiểu tình hình quân sự khắp nơi trên lãnh thổ.
Chỉ nhìn từ bên ngoài thôi, lực lượng trú phòng vùng giới tuyến phải luôn luôn trong thế sẳn sàng chống trả những cuộc tấn công của một lực lượng cộng sản nhất thiết là mạnh hơn các vùng lãnh thổ khác, vì bất cứ lúc nào chúng cũng có thể từ bên trên vĩ tuyến 17 xua quân tràn xuống tấn công chúng ta. Có lẽ vì vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường dài hạn cho Quân Đoàn I, cả lực lượng của Sư Đoàn Nhẩy Dù lẫn Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, trong khi Phước Long bị mất một số Quận nhưng vẫn không đưa ra quyết định rút một phần lực lượng tổng trừ bị từ Quân Đoàn I về tăng viện cho Quân Đoàn III, ắt phải có nguyên nhân chính đáng, trừ khi có nguyên nhân sâu xa nào đó đằng sau quyết định của Tổng Thống không chấp thuận đề nghị của Trung Tướng Tư lệnh Quân Đoàn III.    
Theo lời của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu nói lại trong buổi họp tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận, thì Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức ngay trong buổi họp tại Phủ Tổng Thống, nhưng Tổng Thống không chấp thuận. Lý do mà Trung Tướng Đống xin từ chức, theo lời của cựu Đại Tướng Cao Văn Viên thì sau khi trình bày tình hình quân sự tại Phước Long là ông xin từ chức ngay vì ông tự thấy không đủ khả năng.
Vậy, sự thật là Trung Tướng Đống xin từ chức trước khi hay sau khi Tổng Thống không chấp thuận tăng cường lực lượng cho Phước Long theo đề nghị của Trung Tướng Dư Quốc Đống? Nếu Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức trước khi Tổng Thống không chấp thuận tăng cường lực lượng giải tỏa áp lực cộng sản tại Phước Long, thì tại sao ông không từ chức trước khi Phước Long thật sự bị áp lực của quân cộng sản mà chờ đến lúc Phước Long nguy ngập mới xin từ chức với lý do không đủ khả năng giải quyết tình hình trong vùng trách nhiệm? Chẳng lẽ ông sợ chiến trường Phước Long? Còn nếu Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức vì không được Tổng Thống tăng cường lực lượng, tôi nghĩ, cũng không nên. Tại sao? Tại vì có thêm quân thì tiếp tục làm Tư Lệnh, không có thêm quân thì xin nghỉ, mà là xin nghỉ trong khi Phước Long với hằng chục ngàn quân lẫn dân, viên chức lẫn cán bộ các ngành, đang trong tình trạng gần như hấp hối, nỡ lòng nào xin từ chức để không còn trách nhiệm với hằng chục ngàn con người bằng xương bằng thịt mà ít ra trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông đã có đôi ba lần được Họ đón tiếp để nghe ông ban những huấn lệnh!
Xin nhắc lại là tôi rất ngưỡng mộ Trung Tướng Dư Quốc Đống, lúc ông là Chuẩn Tướng, thành viên trong Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt họp ngày 8 và 9 tháng 7 năm 1966 tại Bộ Tổng Tham Mưu, để giải quyết 5 vị Tướng liên quan đến sự kiện khủng hoảng miền Trung từ ngày 9 tháng 3 (1966) đến 15 tháng 5 năm 1966. Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống đã dõng dạc nhận mình là người bỏ phiếu trắng, có nghĩa là riêng ông không chống lại Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi dù ông công nhận Trung Tướng Thi đã có lời phát biểu cũng như những hành động sai trái trong sự kiện khủng hoảng đó. Lý do mà ông trình bày vì ông kính trọng Trung Tướng Thi là bậc Thầy của ông. Đồng thời ông xin Hội Đồng quyết định về chức vụ Tư Lệnh Nhẩy Dù của ông.
Nhưng sao bây giờ lại như vậy? Chẳng lẽ một vị Tướng, lại là vị Tướng trong binh chủng Nhẩy Dù mà sợ trận chiến Phước Long này sao? Hay là đằng sau của lời xin từ chức của ông, có điều gì uẫn khúc?
Tôi nghĩ, cho dù Tổng Thống có chấp thuận hay không chấp thuận về đề nghị của ông xin tăng viện cho Phước Long, ông cũng không nên từ chức. Nói cho cùng, cho dẫu trận chiến Phước Long có đưa ông vào ngõ cụt, ông vẫn phải dấn thân. Đơn giản, vì ông là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, mà một phần lãnh thổ trách nhiệm của ông đang trong tình thế nguy ngập!
Đến ngày 7 tháng 1 năm 1975, toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản!
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là một trong những đơn vị rất tinh nhuệ của quân đội, đã phải băng rừng tháo chạy với tổn thất khá nặng, vì được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường vào lúc tỉnh lỵ lâm nguy nhất. Với lại cho dù thiện chiến đến đâu đi nữa, thì quân số của Liên Đoàn đặc biệt này cũng không sao chống nỗi một địch quân đông vào khoảng 2 Sư Đoàn, cho nên trong trường hợp này sự thất bại trong nhiệm vụ của Liên Đoàn là điều không thể tránh được. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy trưởng, đặc biệt nổi danh trong trận chiến khốc liệt mùa hè 1972 trong nhiệm vụ phòng thủ tỉnh lỵ An Lộc thuộc tỉnh Bình Long. Hồi ấy, báo chí gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” để chỉ 3 mặt trận chính: Đông Hà/Quảng Trị, Tân Cảnh/Kon Tum, Lộc Ninh với An Lộc/Bình Long, và mặt trận phụ là Hà Tiên/Kiên Giang. Cả 3 mặt trận chính đều do những Sư Đoàn quân chính qui của cộng sản từ lãnh thổ nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trên miền Bắc tràn xuống tấn công.
Trận chiến “mùa hè 1972” này làm tôi nhớ lại vào những năm cuối của thập niên 50, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang từ cấp Tiểu Đoàn là cao nhất, được tổ chức lên đến cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, rồi Quân Đoàn. Trang bị thống nhất với toàn bộ dụng cụ chiến tranh do Hoa Kỳ cung cấp. Lúc bấy giờ là năm 1958, sau khi tôi học xong khóa Đại Đội Trưởng tại chi nhánh Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt  trở về Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn Khinh Chiến 12 đồn trú ở Catecka, cách thị xã Plei Ku khoảng 8 cây số về phía Nam. Lại dự khóa huấn luyện bổ túc Đại Đội Trưởng tại Kon Tum do Ban Cố Vấn Sư Đoàn Khinh Chiến 12 tổ chức trong 3 tháng. Xong khóa học, tôi chuyển lên Bộ Chỉ huy Trung Đoàn 35, giữ chức Trưởng Ban 3 kiêm Trưởng Ban 5 Trung Đoàn. Toàn bộ Sư Đoàn Khinh Chiến 12 gồm Trung Đoàn 34, Trung Đoàn 35, và Trung Đoàn 36, cùng các đơn vị yểm trợ đang trong giai đoạn cuối của chương trình huấn luyện, và chuẩn bị vào chương trình hành quân thao dượt để Bộ Tổng Tham Mưu trắc nghiệm kết quả huấn luyện.
Cuộc hành quân thao dượt diễn ra trong phạm vi tỉnh Kon Tum theo quốc lộ 14 xuống Plei Ku, với tình hình giả định là vào thời gian nào đó, quân cộng sản từ bên trên vĩ tuyến 17 mở cuộc tấn công vào Việt Nam Cộng Hòa với 2 mặt trận chính: mặt trận thứ nhất là vượt sông Bến Hải tấn công vào Đông Hà và Quảng Trị, mặt trận thứ hai là từ lãnh thổ Cam Bốt -sườn Tây Việt Nam- tấn công vào Dak To và Kon Tum. Trung Đoàn 34 và Trung Đoàn 35 Bộ Binh, có nhiệm vụ “trì hoản chiến” từ mặt trận Kon Tum xuống Plei Ku trong khi chờ lực lượng tổng trừ bị tăng cường phản công. Còn Trung Đoàn 36 Bộ Binh là lực lượng trừ bị của Sư Đoàn. Lúc ấy, các sĩ quan tham mưu chúng tôi cho rằng, quan niệm về một tình hình giả định như vậy là không thực tế với chiến trường Việt Nam, vì sở trường của quân cộng sản là đánh du kích, có quá lắm là lên đến vận động chiến cấp Trung Đoàn thôi.
Nhưng 14 năm sau, tức năm 1972, chiến trường đã diễn ra gần đúng như tình hình giả định trong cuộc hành quân thao dượt của Sư Đoàn Khinh Chiến 12 vào năm 1958 vậy.
Trở lại tình hình hậu Phước Long! Trong buổi chiều cùng ngày 7 tháng 1 năm 1975, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, mời tất cả các đơn vị trưởng trong phạm vi Quân Trấn Sài Gòn và vùng phụ cận đến câu lạc bộ/Bộ Tổng Tham Mưu, để nghe ông tóm tắt diễn biến tình hình toàn tỉnh Phước Long, và ông nói rằng: sự thất thủ của tỉnh này -Trung Tướng Khuyên không nói là điều may, mà ông nói- là giảm đi cái ung nhọt trên cơ thể, vì với khả năng không vận hiện này mà chiến trường Phước Long cần đến thì Bộ Tổng Tham Mưu không thể thỏa mãn nỗi. Câu kết của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, đã làm cho cả hội trường gần như đồng thanh “ồ” lên một tiếng, và tiếp đến là những âm thanh xì xào mà tôi chắc là các cử tọa đang bất mãn về lời sau cùng của Trung Tướng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Chính bản thân tôi cũng nhận thấy Trung Tướng Khuyên đã không chuẩn bị trước cho buổi họp này, nên đã nói một câu tuy ngắn ngủi nhưng làm đau lòng những chiến sĩ trú phòng cũng như tiếp viện Phước Long còn sống sót, và làm tổn thương vong linh những chiến sĩ đã ngã xuống cho sự sống còn của Phước Long!
Xin nói thêm rằng, ngoài 4 năm phục vụ trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, tôi có gần 7 năm phục vụ dưới quyền trực tiếp của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, thường khi bàn thảo với ông về những quan niệm cùng những kế hoạch cải tiến ngành Tiếp Vận, và qua đó, tôi nhận thấy Trung Tướng Đồng Văn Khuyên là vị Tướng rất có kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực hoạt động của quân đội, và một số lãnh vực về kinh tế. Mỗi khi ông đề cập đến vấn đề nào thì ông diễn đạt được những gì ông nghĩ, nhưng có điều là ông nghĩ đến đâu trình bày đến đó chớ không hoàn toàn tuần tự từ A  đến Z, nói chung là không mạch lạc. Ông vừa có kinh nghiệm và vừa có nét nhìn xa về tương lai của quân đội, nhưng là nghiêng về quản trị con người, quản trị hành chánh, quản trị tiếp vận, hơn là về chiến lược chiến thuật. Chẳng hạn như chương trình cải tổ sâu rộng về tổ chức và điều hành trong toàn ngành Tiếp Vận trong năm 1973-1974, ông đã dám nghĩ và dám làm trong hoàn cảnh vừa tái tổ chức vừa yểm trợ, và bước đầu được đánh giá là thành công. Nét nhìn xa của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên được thể hiện trong Quỹ Tương Trợ Và Tiết Kiệm Quân Nhân, mà tôi trình bày ở một đoạn trong chương bảy.
Vì Trung Tướng Khuyên nghĩ sao thì nói vậy, nói một cách chân thành về những điều mà ông nghĩ, nên tôi và những sĩ quan tham mưu trong Tổng Cục Tiếp Vận có mặt lúc bấy giờ, hiểu và thông cảm về câu nói mà lẽ ra ông không nên nói, cho dẫu điều ông nói có là sự thật đối với khả năng của Bộ Tổng Tham Mưu cũng vậy. Tôi có nghe nói đến “chứng lapsus” và được giải thích rằng, khi người nào có chứng này thì trong những lúc bất chợt “lời nói thường là không đúng như điều đang nghĩ trong đầu”. Không biết có phải Trung Tướng Đồng Văn Khuyên trong trường hợp này vào buổi chiều ngày 7 tháng 1 năm 1975 trong câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu hay không?      
Đúng là khả năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị suy giảm, nhưng không phải suy giảm đơn thuần do tinh thần chiến đấu của Quân Nhân, mà do những nguyên nhân khách quan, trước mắt là khối lượng dụng cụ chiến tranh vào hàng tối tân do 500.000 quân Đồng Minh sử dụng, đã bị Hiệp Định Paris đẩy ra khỏi chiến trường Việt Nam. Đó là khối hỏa lực mà quân cộng sản từng khiếp đảm, bỗng dưng không còn nữa! Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang đánh giặc theo “kiểu nhà giàu” hay ít ra cũng là “dựa hơi nhà giàu”, nay đánh nhau theo “kiểu nhà nghèo” thì ảnh hưởng đến tinh thần Quân Nhân là điều khó tránh khỏi!
Phải chi những vị lãnh đạo của chúng ta -nhất là thời Trung Tướng Nguyễn Khánh 1964- có bản lãnh chính trị vững vàng, biết đâu có thể đã thuyết phục được đồng minh Hoa Kỳ, thay vì đưa quân sang Việt Nam thì họ nhiệt tình giúp chúng ta các loại chiến cụ để chính chúng ta chiến đấu cho đất nước chúng ta, thì chính nghĩa trọn vẹn trong tay chúng ta. Trong trường hợp đó, rất có thể không có cái “Hiệp Định Paris 1973 kỳ cục”, cùng với “sự bảo đảm cũng kỳ cục” của 13 quốc gia và tổ chức Liên Hiệp Quốc, chỉ nhằm hỗ trợ cho quân cộng sản đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Đó là một thứ bảo đảm không công bằng, bởi vì khi quân cộng sản vi phạm Hiệp Định, thậm chí khi chúng xua quân chính qui từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tràn xuống vĩ tuyến 17 đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, cũng chẳng có thành viên nào trong con số 13 thành viên đó phản đối cả!
Sau đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống, trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tháng 12 năm 1974, bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn II cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vì theo Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Trung Tướng Toàn bị tố cáo tham nhũng. Trước đó, trong thời gian giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Ngãi, Trung Tướng Toàn đã bị báo chí nói đến như là một Tướng Lãnh có quá nhiều tai tiếng không tốt. Nhưng sau khi rời khỏi Sư Đoàn 2 Bộ Binh, ông được Tổng Thống cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku. Sau khi bàn giao Quân Đoàn II, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn nhận chức Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng Thiết Giáp. Và tháng 2 năm 1975, từ Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, ông nhận chức Tư lệnh Quân Đoàn III.


*****


Tỉnh Darlac thất thủ
ngày 13 tháng 3 năm 1975.

Tết Nguyên Đán đầu năm 1975, quân nhân và công chức nghỉ chiều Ba Mươi Tết và trọn ngày Mồng Một Tết, thay vì nghỉ 3 ngày rưỡi như mọi năm, vì tình hình nghiêm trọng sau khi toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7 tháng 1 năm 1975.
Trưa Mồng Hai Tết, nếu như ngày thường thì rất đông sĩ quan nhà xa dùng cơm trưa tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng bữa ăn trưa hôm nay, chỉ có Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, tôi -lúc bấy giờ là Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận- và Thiếu Tá Nguyễn Văn Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Khuyên. Vì dù cho tình hình có thế nào đi nữa, trong mái ấm gia đình vẫn còn hương vị ngày Xuân, nên hầu hết các sĩ quan về nhà dùng cơm với gia đình.
Với nét mặt thật buồn, Trung Tướng Khuyên lên tiếng phá tan sự yên ắng trong khoảng không gian trống rỗng của câu lạc bộ:
“Tôi nghĩ, chắc mình mất nước thật quá anh!
“Tại sao Trung Tướng nghĩ vậy? 
“Anh nghĩ coi, có vấn đề hạ tuổi hoãn dịch trong các tôn giáo để có thêm một số thanh niên nhập ngũ, mà Thủ Tướng trình lên Tổng Thống, rồi Tổng Thống đẩy xuống Thủ Tướng, không vị nào dám nhận trách nhiệm vì sợ đụng chạm đến tôn giáo”.
Ngưng một lúc, ông tiếp với giọng thật nhỏ:
“Đã không đặt vấn đề thì không nói làm chi, mà khi đã thành vần đề thì phải thực hiện đến nơi đến chốn vì là vấn đề quốc gia mà, chớ dở dang như vậy chỉ làm mất uy tín của người lãnh đạo thôi”.

Khi nêu câu hỏi với Trung Tướng Khuyên là tôi muốn nghe ông giải thích thêm, chớ thật ra thì trong một chừng mực nhất định, tôi hiểu được câu ông nói. Chuyện như thế này: Nhân lễ Giáng Sinh, tối 24 tháng 12 năm 1974, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tổ chức bữa ăn thật đơn giản ở phòng trên lầu của câu lạc bộ/Bộ Tổng Tham Mưu, với các thực khách sau đây:
Trung Tướng Đồng Văn Khuyên và phu nhân.
Thiếu Tướng Smith, Trưởng Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Thực chất thì cơ quan này thay thế Bộ Tư Lệnh Viện trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) trong một quyền hạn thu hẹp.
Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh.
Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận, và phu nhân.
Đại Tá Pelosky, Phụ Tá của Thiếu Tướng Smith về Tiếp Vận.
Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận.
Và Trung Tá Nguyễn Đình Bá, chánh văn phòng của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên.
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng:
“Bộ Quốc Phòng (Pentagon) Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300.000.000 (300 triệu) mỹ kim để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40.000 sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ”.
Những lời nói ngắn ngủi này của một vị Tướng tuy không có hào quang của một nhân vật quyền lực như Thống Tướng William C. Westmoreland trước đây, nhưng là nhân vật tiêu biểu cho tiếng nói của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam chúng ta lúc ấy. Và lời nói này, tôi nghĩ, không có cách hiểu nào khác, ngoài cách hiểu là cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của chúng ta sắp kết thúc, và kết thúc với ý nghĩa thua trận! Vì nếu không thua trận thì làm gì có kế hoạch di tản sĩ quan và gia đình sang Hoa Kỳ!
Đột ngột quá chăng? Có thể là với Hoa Kỳ, hay nói chung là với thế giới dân chủ tự do lẫn thế giới cộng sản độc tài, thì không có gì đột ngột cả vì họ là người ngoài cuộc. Có tốt lắm thì họ cũng chỉ nói lời thương hại hoặc lời “phân ưu” trong một bài diễn văn nào đó, cho cái dân tộc bất hạnh này mà thỉnh thoảng họ nói Việt Nam Cộng Hòa là tiền đồn trắc nghiệm chiến tranh ý thức hệ, hoặc chúng ta là tiền đồn chống cộng sản cho họ thôi!
Nhưng với tôi quả là đột ngột, dù tôi có nghe những tin loan tãi đáng buồn trên làn sóng đài phát thanh BBC qua chương trình Việt ngữ! Rất có thể là tôi quá chủ quan khi tin rằng, chiến tranh đang trong giai đoạn khốc liệt nhưng phần đất tự do này không thể vào tay chế độ cộng sản độc tài được. Tại sao tôi chủ quan như vậy? Đơn giản chỉ vì tôi tin rằng cuộc chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta là cuộc chiến đấu có chính nghĩa, mà chính nghĩa thì không thể thua được! Lúc bấy giờ, rõ ràng là tôi không thực tế khi tôi là một trong số rất ít cử tọa ngồi nghe “diễn giả Smith” truyền đạt một câu ngắn ngủi trong bữa ăn đêm Giáng Sinh năm 1974, nó chẳng có ý nghĩa gì về tôn giáo, nhưng rất có ý nghĩa về cuộc chiến tranh mà chúng ta buộc phải lâm trận! 
Tôi hỏi:
“Chẳng lẽ đất nước mình đến hồi mạt vận sao! Có lúc nào Trung Tướng nghĩ như vậy không?
“Không đâu anh. Thật ra có lúc tôi cũng nghĩ như anh, nhưng cuối cùng tôi bác bỏ ý nghĩ đó, vì dù sao thì mình cũng có một quân đội chống cộng sản triệt để mà anh”.
Vì ông nghĩ như vậy, nên khi thấy một việc nhỏ tuy rất tế nhị mà Thủ Tướng với Tổng Thống là hai vị lãnh đạo cao nhất nước với đầy quyền lực trong tay, nhưng không vị nào dám nhận trách nhiệm, nên Trung Tướng Khuyên mới thốt lên câu nói như một lời than bất lực của chính ông, và hàm ý cho số phận một quốc gia: Việt Nam Cộng Hòa!
Cũng trong bữa ăn trưa Mồng Hai Tết này, Trung Tướng Khuyên nhắc tôi ráng điều động và đôn đốc Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (đồn trú tại Qui Nhơn), vận chuyển hàng tiếp liệu lên Plei Ku chuẩn bị chống trả cuộc tấn công của quân cộng sản thường khi là vào mùa hè.
Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đang thực hiện kế hoạch vận chuyển các loại hàng tiếp liệu loại 1, loại 3, và loại 5, từ Qui Nhơn lên dự trữ ở Plei Ku và Kon Tum. Các loại hàng tiếp liệu trong quân đội do ngành Tiếp Vận quản trị, chia làm 5 loại:
Loại 1, là lương thực thực phẩm cho người và thú vật (quân khuyển = chó trận)
Loại 2, là quân dụng trang bị cho tất cả các đơn vị quân chủng, binh chủng, binh sở, và các cơ quan phòng sở tham mưu, như: quân xa, vũ khí bắn thẳng, vũ khí bắn vòng cầu, xe tăng thiết giáp, xe đào đất ủi đất, chiến hạm, phi cơ, máy móc văn phòng, bàn ghế, ..v..v.. có ghi trong bảng cấp số của từng đơn vị cũng như cơ quan phòng sở. 
Loại 3, là các loại nhiên liệu và các loại dầu mở bôi trơn.
Loại 4, là những gì thuộc về vật liệu xây dựng và vật liệu phòng thủ.
Và loại 5, là các loại bom đạn và chất nổ.
Số lượng dự trữ dự trù cho 20.000 quân trú phòng Plei Ku và Kon Tum chiến đấu trong 30 ngày không cần tiếp tế. Đó là dự trù cho một tình hình tệ hại là không tái tiếp tế được, chớ thật ra trong kế hoạch của Tổng Cục Tiếp Vận có dự liệu khi chiến trận xảy ra thì từ ngày thứ 3, mà trong tham mưu quân sự gọi là ngày N + 2, bắt đầu tái tiếp tế bằng không vận để bổ sung mực độ dự trữ cho lực lượng phòng thủ.
Khi mất Phước Long, Trung Tướng Khuyên ước tính thời gian quân cộng sản mở cuộc tấn công vào Plei Ku và Kon Tum, có thể sớm hơn ước tính của Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu. Vì vậy mà ông cho tăng cường thêm quân xa ra Qui Nhơn để Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận có thêm khả năng vận chuyển. Hằng ngày, từng đoàn quân xa hằng trăm chiếc hạng nhẹ và hạng trung, lăn bánh trên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Plei Ku - Kon Tum, và ngược lại.     
Những ngày sau đó, tôi thường thảo luận với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên trong những bữa ăn trưa tại câu lạc bộ, và câu chuyện chỉ xoay quanh nguồn tin từ Thiếu Tướng Smith, hòa trong những tin chiến sự ngày càng nghiêm trọng.
Ban Mê Thuột là thủ phủ Cao Nguyên Miền Trung. Từ đây, theo quốc lộ 14 về hướng Bắc khoảng 170 cây số sẽ đến Plei Ku, một thị trấn đất đỏ ba-dan, và tiếp tục hành trình thêm khoảng 40 cây số nữa sẽ đến Kon Tum, một thị trấn toàn cát trắng. Cũng từ Ban Mê Thuột, theo quốc lộ 14 xuôi hướng Tây Nam, sẽ đến thị trấn Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Long rồi theo quốc lộ 13 về đến Sài Gòn. Nếu từ Ban Mê Thuột, theo quốc lộ 21 về hướng Đông vượt đèo M'Drak sẽ xuống quốc lộ 1, rẽ phải sẽ đến Nha Trang và vào Sài Gòn, còn rẽ trái sẽ ra Tuy Hòa, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẳng, rồi Huế, Quảng trị. Ngay trong thành phố Ban Mê Thuột và phi trường Phụng Dực, có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các đơn vị yểm trợ, và Trung Đoàn 53 Bộ Binh đồn trú. Phần còn lại của Sư Đoàn 23 đang bảo vệ Kon Tum và Plei Ku. Ban Mê Thuột trong phạm trách nhiệm yểm trợ của Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, và Bộ Chỉ Huy này đồn trú tại bán đảo Cam Ranh, một bán đảo nổi tiếng trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 khi Hạm Đội của Nga chạy trốn sự truy lùng của Hạm Đội Nhật Bản.
Trưa ngày 9 tháng 3 năm 1975, Đại Úy Chỉ Huy Trưởng Kho Đạn ở ngoại ô Ban Mê Thuột điện thoại tôi:
“Thưa Đại Tá, theo lệnh khẩn cấp của Phòng 4/Quân Đoàn II (đồn trú ở Plei Ku), tôi phải cấp phát giải tỏa toàn bộ số đạn dự trữ trong kho vì tình hình rất nghiêm trọng, và có thể sẽ bị quân cộng sản tấn công trong đêm nay. Chúng tôi sẽ cấp phát tối đa cho các đơn vị đồn trú trong và ngoài thị xã theo khả năng mà họ tiếp nhận được. Xin trình Đại Tá rõ”.
“Anh em cố gắng công tác khẩn cấp này và mong anh em hoàn thành nhiệm vụ”.
Sở dĩ Quân Đoàn II ra lệnh trực tiếp là vì các kho dự trữ của ngành Tiếp Vận tại các địa phương chịu sự chỉ huy của hai hệ thống: Dưới quyền của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận về hành chánh và chuyên môn của ngành, trong khi Quân Đoàn chỉ huy về mặt yểm trợ tác chiến.
Trình Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận xong, tôi liên lạc sang Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu được biết, theo nguồn tin khả tín thì lực lượng cộng sản xuất hiện chung quanh Ban Mê Thuột vào khoảng 2 Sư Đoàn, với một đơn vị Pháo Binh có thể lên đến cấp Sư Đoàn, và chúng có khả năng tấn công trong thời gian sớm nhất, nghĩa là có thể ngay trong đêm nay. Đại Tá Loan và tôi, lo ngại về  các cuộc tấn công của quân cộng sản vào các tỉnh Cao Nguyên trong khi chúng tôi chưa hoàn tất mức độ dự trữ các loại hàng tiếp liệu cho Plei Ku và Kon Tum như lệnh của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ban hành. Trong lúc này, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, được phép của Tổng Thống đã đưa thân phụ của ông sang Tokyo trị ung thư cổ, và Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.
Sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi vào đến văn phòng thì điện thoai reo liên hồi: 
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.  
“Lễ đây anh. Tôi mới nghe nói là Ban Mê Thuột bị mất liên lạc hữu tuyến lẫn vô tuyến từ giữa đêm qua. Đâu anh xem lại có phải vậy không?     
Đó là Đại Tá Trần Văn Lễ, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đồn trú trong căn cứ Long Bình, Biên Hòa.
Tôi gọi khắp các cơ quan phòng sở trong Bộ Tổng Tham Mưu, không cơ quan nào liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Ban Mê Thuột cả. Chợt nhớ ra bên Sở Liên Lạc có căn cứ của đơn vị Lôi Hổ trên đó để hoạt động dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt, có thể còn giữ liên lạc được. Và đúng như vậy, Trung Tá Trần Đắc Trân, điện thoại gọi tôi sang để nói chuyện trực tiếp với nhân viên của Sở Liên Lạc trên đó. Trình Đại Tá Loan xong là tôi chạy sang anh Trân ngay. Tôi hỏi:
“Chào anh. Anh đang ở đâu đó?
“Em đang ẩn trú ở đầu phi trường nhỏ trong thành phố Ban Mê Thuột. Chung quanh em tiếng súng nổ dữ lắm và xe tăng của tụi nó (quân cộng sản) đã vào đến cuối sân bay rồi Đại Tá ơi!
“Theo anh thì tụi nó đã vào trung tâm thành phố chưa?

“Xe tăng của nó tấn công kho đạn đêm qua, và tụi nó tiến vào thành phố rồi. Khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn (23 Bộ Binh) và bên Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đều có tiếng súng dữ lắm. Em chưa rõ lắm, nhưng em nghĩ là bị tụi nó chiếm hết rồi. Bây giờ em phải rút ra ngoại ô. Chào Đại Tá”. 
“Cám ơn anh, và cầu nguyện cho anh cùng các bạn vượt thoát bình an. Chào anh và các bạn”.  
Trở về Tổng Cục Tiếp Vận trình lại Đại Tá Loan. Đại Tá Loan gọi ra Cam Ranh nói chuyện với Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, nhưng không thu thập được tin tức gì khả quan cả. Bên hệ thống Viba của Hành Chánh và Bưu Điện, cũng không liên lạc được với Ban Mê Thuột.
Tôi gọi lên Quân Đoàn II nói chuyện với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, được biết Quân Đoàn II đã cho phi cơ không thám trên không phận ngoại ô Ban Mê Thuột chớ không vào sâu bên trong được vì hỏa lực phòng không của quân cộng sản mạnh lắm, nên những tin tức ghi nhận cũng không giúp được gì cho Quân Đoàn khả dĩ có đủ dữ kiện nhận định tình hình một cách rõ nét, để có phản ứng thích nghi. Trong khi đó, Quân Đoàn II sử dụng phi cơ chiến đấu của Sư Đoàn 2 Không Quân và Sư Đoàn 6 Không Quân, oanh kích dữ dội vào quân cộng sản ven ngoại ô Ban Mê Thuột, nhưng cũng không vào không phận trung tâm thành phố để oanh kích các mục tiêu trong thành phố, do hỏa lực phòng không của địch như những lưới lửa đan chéo cả không phận Ban Mê Thuột.
Sư Đoàn 23 Bộ Binh, có 2 Trung Đoàn hoạt động trên Kon Tum, và 1 Trung Đoàn giữ phi trường Phụng Dực, nên sự chống trả yếu ớt của lực lượng phòng thủ Ban Mê Thuột chỉ gồm những đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và các đơn vị Địa Phương Quân Nghĩa Quân của Tiểu Khu, trong khi lực lượng tăng viện của Quân Đoàn trực thăng vận xuống giải tỏa, nhưng bị hỏa lực phòng không của cộng sản ngăn chận từ bên ngoài thành phố, không chống nỗi quân cộng sản quá đông tràn ngập chiến trường! Những trận đánh riêng lẽ -vì không có vị chỉ huy thống nhất- chẳng thể nào đảo ngược được tình thế, để rồi đến ngày 13 tháng 3 năm 1975, Ban Mê Thuột  và toàn tỉnh Darlac vào tay quân cộng sản!    
Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, hai tỉnh đã vào tay quân cộng sản!
*****

Rút bỏ Cao Nguyên
ngày 17 tháng 3 năm 1975.
Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo quân đội, và vài cấp chỉ huy liên quan đến những phản ứng sau đó, là: (1) Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng). (2) Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng). (3) Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên. (4) Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên ông vắng mặt trong những ngày đầu cuộc rút quân. (5) Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. (6) Tư Lệnh hành quân triệt thoái: Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất. (7) Xử lý thường vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Đại Tá Phạm Kỳ Loan. (8) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương. (9) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý. (10) Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, không biết gì hơn.
Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Có ai ngồi gần anh không?  
“Dạ không, thưa Đại Tướng”.
Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tiếp:
“Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành”.
“Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng”.
“Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? 
“Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng”.
“Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rõ chưa?
“Thưa Đại Tướng, tôi rõ”.
“Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh”.
“Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng”.
Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không ước tính được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !
Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970 khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:
"Theo kế hoạch hành quân đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".
Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vả, nhưng vất vả mà được biết đến vẫn vui lòng hơn.
Đầu tháng 12 năm 1974, trước khi lên Plei Ku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:
“Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh”.
“Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết”.
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn). Trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số, tử vi, và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm  nói với tôi:
“Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu”.
“Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?
“Dạ không. Vì sợ Thiếu Tướng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn”.
“Nghĩ như anh cũng phải”.
(Năm 2004, khi sang Sydney, Australia, tôi có gặp cựu Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm, đang là Giám Đốc một Công Ty của Hoa Kỳ tại Sydney). Tôi với anh thường liên lạc thăm hỏi nhau qua e-mail)
Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng". Thật sự có thích hợp hay không, tôi nghĩ, quí vị đã rõ. 
Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
“Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm”.
“Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu”. Lời của Đại Tá Lý.    
“Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc?  Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?
“Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu kể từ sáng mai (16/3/1975).  Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn”.
“Sao lại là có thể mà không rõ nơi đến?
“Tôi không thể cho anh biết đâu”.
“Vậy thì như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không?
“Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe”.
“Xong. Mình thỏa thuận như vậy”.
Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Tôi cũng nêu thắc mắc với Đại Tá Loan, là tại sao Đại Tá Lý nói “không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sài Gòn, mà không xác định điểm đến một cách rõ ràng”. Điều này hẳn có gì bí ẩn bên trong.
Đại Tá Phạm Kỳ Loan điện thoại hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lê Khắc Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.  
Sáng ngày 16/3/1975, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá”.
“Anh chuyển đến Trưởng phi cơ là hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn II xem tình hình ra sao”.
Gọi Quân Đoàn II, và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
“Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải tỏa sân bay giùm đi. Nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh?
“Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải tỏa, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi”.
“Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải tỏa nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho anh Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe”.
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.
Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cộng sản đã chiếm Ban Mê Thuột, thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II (ở Plei Ku) cũng là điều xảy ra trong quân sự thôi. Nhưng chúng tôi nhầm ...
Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có bóng một sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ”.
“Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh”.
Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sĩ quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành, và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!
Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận ở Qui nhơn, cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải (Qui Nhơn) vẫn còn kẹt trên Plei Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, rồi bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của vị lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người!
Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy.    
Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Khương đây anh Hoa”. Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
“Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưa?
“Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp,  bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và pháo binh 175 ly cơ động xuống hố, gây tổn thất rất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự, nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi!
“Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hòa, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sĩ quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hòa, mỗi toán phụ trách một  công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không?
“Được anh. Để tôi lo”.
“Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương”.
Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.   
Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau khi trình cho anh xong, tôi điện thoại lên văn phòng Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
“Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng”.
“Anh chờ tôi một chút”. 
 “Tôi đây”.
“Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây”.
“Có việc gì vậy?
“Thưa Đại Tướng, cách đây vài phút, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi với Đại Tá Khương đã nói với nhau).
“Anh có chắc là đúng như  vậy không?
“Từ chỗ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng”.
“Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe”.
“Vâng”.
Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, điện thoại tôi:
“Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả?”
“Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng”.
“Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe”.
Cũng lại giấu nhau!
Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955  -lúc bấy giờ tôi là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi từ Vĩnh Long, cùng với Tiểu Đoàn 507 Khinh Quân, và Tiểu Đoàn 527 Khinh Quân từ Trà Vinh, di chuyển lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn 12 Khinh Chiến. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35.
Vì các đơn vị yểm  trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1946-1954 (lúc đó Cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữa.
Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.
Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng, chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn.
Và đây là những tin tức đó:
"... Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đã quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng. Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Với đề nghị của Thiếu Tướng Phú, Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất. Lúc đầu, Tổng Thống không đồng ý, nhưng Thiếu Tướng Phú cố lặp lại đề nghị, và sau cùng thì Tổng Thống chấp thuận. Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn II. Khi mang cấp bậc Chuẩn Tướng, ông được Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn giao phó trách nhiệm Tư Lệnh cuộc hành quân lui binh”.
Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và chiến xa của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta. Với chiến xa M48, nó là loại vũ khí đã cũ, thậm chí là quá cũ đối với Hoa Kỳ, nhưng với chúng ta nó là loại mới!
Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.
Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân cộng sản liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hòa thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v... 
Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17 tháng 3 năm 1975, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, rõ ràng là quân cộng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc!
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đảm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn?
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay ngày 30 tháng 4 năm 1975. Với chiếc xe đạp mới toanh, tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào sáng sớm ngày 2 tháng 5 năm 1975, trước quan tài ông, đứng nghiêm khá lâu, nhìn chung quanh trước khi đưa tay lên ngang trán chào ông đúng tác phong một sĩ quan cấp dưới. Tôi chào tiễn biệt Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tiễn biệt Ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!           
Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự, tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng:
"Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung, người đó sẽ nắm phần chiến thắng".
Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?

*****
Việt Nam Cộng Hòa chúng ta
đã thu ngắn theo chiều Bắc Nam!

Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương, rúng động cả nước Pháp, và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng phải rời khỏi Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào.
Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung  vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!
Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của Quân Đoàn I, và các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh.
Trước ngày cuối tháng 3/1975, từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cộng sản đến!
Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi vùng trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "dự phòng chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đã bị quân cộng sản chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn thất khá nặng, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng  Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.      
“Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng  vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận. Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng  điều ấy mà thôi.
Xin mở ngoặc. Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên mãi nói chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Và đóng ngoặc.
Hai chục năm sau năm 1975. Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Xin mời quí vị lui lại 20 năm trước, và xin quí vị cứ tưởng như chúng ta đang sống lại những ngày cuối tháng 3 năm 1975 tại Đà Nẳng, lúc ấy bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, để nghe anh kể lại một góc nhỏ trong cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẳng:
''Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ chống trả trong thời gian ngắn là Sư Đoàn 3 Bộ Binh rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,  đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Khi đến bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn, có cả ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cùng đi với Thiếu Tướng Lân. Ông Tổng Lãnh Sự có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ, chốc chốc ông ta thông báo vị trí của ông với ai ở đâu đó mà tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng. 
''Khoảng nửa đêm 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Tại bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:
“Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi , tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến”.

''Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay.
''Khoảng 6 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, sĩ quan trực vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:
“Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng”.
''Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
''Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: Thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí kể tiếp:
''Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó, Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Sau đó, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn''.
Đến đây là hết lời kể của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh đại đơn vị tại Quân Đoàn I, từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I nữa, đã nhận được lời khuyên “bảo toàn lực lượng” như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Và không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ “lời khuyên” của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với “lời khuyên” đó đã dẫn đến các vị Tư Lệnh có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng đã vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy!
Bây giờ xin mời quí vị nhìn vào đoàn người đông đảo đã “bỏ của chạy lấy người” được các loại tàu quân sự lẫn tàu hàng hải, tàu của Việt Nam lẫn thương thuyền ngoại quốc thuê mướn, vận chuyển đồng bào từ Huế, Đà Nẳng, và các tỉnh dọc duyên hải xuôi Nam, và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm vắt và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:
“Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được”. Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu. 
“Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh?
“Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm, vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp bằng cách nấu cơm, vắt lại, cho vô thùng và đưa ra phi trường được không? Dĩ nhiên là chúng tôi lo phi cơ”.  
“Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào tụi tui nấu?    
“Ngay hôm nay, để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, ngày mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó mình tính tiếp”.  
“Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay”. 
“Cám ơn Anh rất nhiều”.
“Cái gì mà cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị góp một tay vào trách nhiệm chung chớ!
Trong khi vịnh Cam Ranh bỏ ngỏ, thì tại Biên Hòa, nơi có bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn gấp rút tổ chức Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tình nguyện nhận trách nhiệm chỉ huy Bộ Tư Lệnh này. Ngay sau đó, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương/Quân Đoàn III di chuyển ra Phan Rang, đặt bản doanh ngay trong căn cứ Sư Đoàn 6 Không Quân tại phi trường Bửu Sơn (Phan Rang hay là Ninh Thuận), với nhiệm vụ tổ chức và chỉ huy tuyến phòng thủ tại đây. Phải nhận rằng, sự kiện Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nhận chức vụ này trong một tình hình hết sức nguy hiểm, vì Phan Rang phút chốc trở thành tuyến đầu trước áp lực của quân cộng sản đang trên đà thắng thế, là một hành động xứng đáng được tuyên dương. Trung Tướng Nghi ngang hàng với Trung Tướng Toàn, mà ông chấp nhận dưới quyền Trung Tướng Toàn, quả là ông hành động vì sự lâm nguy của tổ quốc.
Tôi nói “quân cộng sản 0đang trên đà thắng thế”, nhưng không phải chúng thắng thế do thắng trận, mà chúng thắng thế vì các đại đơn vị của chúng ta lần lượt rút bỏ tuyến phòng thủ trước khi quân cộng sản đến. Còn tại sao các đại đơn vị rút bỏ như vậy, tôi nghĩ, chỉ có quí vị Tư Lệnh các đại đơn vị đó mới giải thích được. Nhưng có lẽ không nên loại trừ giả thuyết về nguyên nhân “bảo toàn lực lượng” tương tự như lời của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân -Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến- nói với Đại Tá Nguyễn Thành Trí -Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến- là ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng đã khuyên ông (tức Thiếu Tướng Lân) như vậy.    
Lực lượng dưới quyền Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thật là phức tạp, vì lực lượng còn lại của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhẩy Dù, và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến quá mệt mỏi, trong khi tái trang bị cũng như những nhu cầu tiếp liệu khác chưa hoàn chỉnh. Điển hình là Sư Đoàn 2 Bộ Binh từ Quảng Ngãi, và Sư Đoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn, triệt thoái về Vũng Tàu- Bà Rịa, Tổng Cục Tiếp Vận đưa quân trang quân dụng từ Sài Gòn ra tái trang bị theo tiêu chuẩn: “Mỗi Sư Đoàn tổ chức 2 Trung Đoàn (thay vì 3), mỗi Trung Đoàn tổ chức 2 Tiểu Đoàn (thay vì 3), Pháo Binh Sư Đoàn tổ chức 2 Tiểu Đoàn (thay vì 3), mỗi Tiểu Đoàn Pháo Binh tổ chức 2 Pháo Đội (thay vì 3), mỗi Thiết Đoàn Kỵ Binh tổ chức 2 Chi Đoàn (thay vì 3)”. Tất cả chỉ vì không đủ quân số, cũng không đủ quân trang quân dụng, vì số lượng quân trang quân dụng tồn trữ là dành cho nhu cầu thay thế chớ không dự trù để trang bị cấp đại đơn vị. Chỉ có các đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến là được Sư Đoàn này bổ sung quân số tương đối đầy đủ bằng số tân binh vừa huấn luyện xong.
Sau khi tái tổ chức, tuy vẫn còn danh hiệu Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, Sư Đoàn, nhưng tổ chức đơn vị, trang bị, cộng với tinh thần, phải công nhận là sức chiến đấu các đơn vị chắc chắn sẽ sút giảm nghiêm trọng! Tái tổ chức và trang bị xong, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh tức tốc chuyển quân ra Phan Rang, trong khi Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh chuyển quân theo quốc lộ 4 xuống trấn giữ Tân An. Quốc lộ nối liền Sài Gòn với các tỉnh đồng bằng Cửu Long.         
Và rồi tuyến đầu Phan Rang thất thủ. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh chiến trường, và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân, cùng nhiều sĩ quan trực thuộc bị bắt làm tù binh. Tiếp đó là Đà Lạt, Lâm Đồng, Bình thuận (tức Phan Thiết), và Bình Tuy (tức Hàm Tân), đều bỏ ngỏ, lui về Vũng Tàu và thủ đô Sài Gòn. Sư Đoàn 25 Bộ Binh của Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, từ Tây Ninh cũng lui về căn cứ Củ Chi, sát nách Sài Gòn.
Ngay trước ngày rút bỏ Nha Trang, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, chỉ thị tôi gấp rút nghiên cứu tái tổ chức toàn ngành Tiếp Vận  và phối trí từ vĩ tuyến 13 (trên địa thế là Phan Rang) trở xuống. Với lệnh này, tôi hiểu là lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn lại từ Phan Rang xuống đến Cà Mau, ra Phú Quốc và Côn Sơn! Tôi chỉ kịp trình bản phác thảo kế hoạch thì Phan Rang thất thủ, và nhiệm vụ nghiên cứu  chấm dứt từ đó. Xin nhắc lại là lúc bấy giờ có dư luận về một áp lực từ phía ngoại quốc, buộc Việt Nam Cộng Hòa cắt phần trên vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 17 giao cho tổ chức gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Mặt Trận này là tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam và khai sinh vào cuối năm 1960 trong khu rừng già biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Như vậy, dư luận đó không phải là không có cơ sở.
Lui xuống tuyến Xuân Lộc. Tại đây, Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ chức Tư Lệnh, ước tính khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản mở cuộc tấn công vào Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Rất có thể là chúng cứ tưởng “chẻ tre” như từ sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) xuống đến đây, nhưng chẳng may cho chúng là sức kháng cự mãnh liệt của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, cộng với quyết định sử dụng bom CBU -loại bom hút hết dưỡng khí trong một đường kính nhất định và những ai trong khu vực đó đều không có dưỡng khí để thở- và loại bom 10 tấn dùng khai phá bãi đáp cho trực thăng giữa rừng già, đã gây thiệt hại nặng nề cho quân cộng sản. Thiệt hại đến mức chúng phải rời mục tiêu Sư Đoàn 18 Bộ Binh để vòng xuống tấn công Biên Hòa. Sau đó, Sư Đoàn 18 Bộ Binh được lệnh Quân Đoàn III rút về trấn giữ căn cứ Long Bình.
Về phía Tiếp Vận. Từ sau ngày mất Cao Nguyên đến lúc này, toàn bộ các kho của toàn ngành Tiếp Vận từ Huế vào đến Cam Ranh, hầu như nguyên vẹn khi những đoàn quân triệt thoái, vì Tổng Cục Tiếp Vận không nhận được bất cứ một mệnh lệnh nào phải phá hủy các kho tồn trữ trước khi các đại đơn vị rút lui cả. Mà thật ra nếu có lệnh cũng không chắc là các đơn vị trách nhiệm có đủ thì giờ để phá, vi hầu hết là rút lui trong hỗn loạn chớ có kế hoạch gì đâu mà phá hủy!
1      2      3      4      5      6      7      8      9      10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét