Một ngày
giông tố và Những kẻ khổ nhục là hai phần của một tập hồi ký thời chiến, được
viết bởi tác giả Tâm Phong, một chứng nhân và cũng là một nạn nhân của chế độ,
thời kỳ Cải cách ruộng đất, xã hội Cộng sản trong cuộc chiến tranh hai miền Bắc
Nam, tù cải tạo và cuối cùng là những năm trước đổi mới.
Ở vị trí
một độc giả, khi tập hồi ký này được chuyển đến tay tôi, tôi vừa đọc, vừa kiểm
nghiệm và ghi nhận những sự kiện thuộc về lịch sử, trong đó có những sự kiện
tôi chưa biết và đã biết; có những sự kiện tôi đã biết nhưng sự thật còn ẩn giấu
ở đâu đó, hoặc mức độ chi tiết của sự kiện chưa, hay hiếm khi, được phản ánh rõ
nét như vậy.
Đất nước
trải qua chiến tranh, nhưng khó hồi phục. Như một cơ thể ốm yếu vừa thoát khỏi
một căn nguyên gây bệnh, nó chưa vực dậy ngay được, mà tiếp tục rơi vào một trạng
thái tiều tuỵ khác, bởi ý chí của chủ nhân của nó đã không dẫn cơ thể phục hồi
theo một cách thức đúng đắn. Sai lầm nảy sinh rồi tiếp nối, xuất phát từ những
chính sách Đảng và Nhà nước áp đặt lên cả một dân tộc. Cải cách ruộng đất là một
thời kỳ kinh hoàng với những màn đấu tố mất nhân tính đến rợn người, là giai cấp
nông dân vùng lên lật đổ địa chủ để trở thành những Ông, Bà cán bộ – giai cấp
tiên phong, là mọi thứ giá trị văn hoá truyền thống bị đảo lộn, là ngu si ngự
trị trí khôn… Những năm tháng trong xã hội Cộng sản với chính sách ngăn sông cấm
chợ, khiến hàng loạt người Nam (lẫn Bắc) tính kế rời Tổ quốc ra đi. Trại cải tạo
là nơi tù đày về thể xác và ý thức, những cơ thể ốm yếu vì thiếu cái ăn dường
như chỉ còn sống theo bản năng của một sinh vật để có thể sinh tồn, những suy
nghĩ bị kìm nén để câm lặng thay vì cất tiếng lên.
Tác giả
đã trải qua những ngày tháng cơ cực và tủi nhục ấy, là nhân chứng cho chính số
phận của mình, và của cả nhiều người xung quanh. Số phận của tác giả, phản ánh
những nét chung và đặc thù của dân tộc thời đó.
Nếu bạn
đã từng đọc Mãi mãi tuổi 20 hay Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, để biết về những tâm tư
và cảm nhận của những con người quả cảm thời chiến, để giàu thêm xúc cảm và biết
yêu thương hơn, thì tôi khuyên bạn hãy đọc tập hồi ký này, ở một góc nhìn khác,
để biết thấm thía nỗi đau của một con người, của những con người, và xa hơn là
cả một dân tộc.
2. TÓM TẮT
HỒI KÝ – KỲ I
Cách đây
sáu năm, tại một địa ngục trần gian trong rừng núi tỉnh Vĩnh phú, bạn tôi vội
vã ra đi, vĩnh biệt kiếp người. Trong giây phút hấp hối, Khoa thều thào ‘…hãy
nhớ và ghi lại cái chết thê thảm này cùng những năm tháng bất hạnh…’
Đó là những
dòng đầu tiên trong tập hồi ký được ghi lại từ những suy tưởng về quá khứ của một
người tù chính trị. Cuộc sống của tác giả và những người cùng cảnh trong những
năm tháng ấy là những chuỗi ngày tháng cực, khổ, nhục và bi…
***
Cuốn hồi
ký trong tay Nam, như một sự tình cờ của số phận. Tình cờ bởi trong một đêm
miên man suy nghĩ về cuộc sống nhiều mất mát sau 20 năm…
Mồ côi
cha mẹ từ thuở nhỏ, Nam được chú Dương đón lên Hà nội chăm sóc anh nhớ quê, nhớ
mái trường xưa và đặc biệt là những kỷ niệm với Bích Hằng.. Năm 1954, trong khi
anh và Bích Hằng đang mong đợi ngày hạnh phúc lứa đôi thì hiệp định Geneva được
kí kết, chú Dương quyết định đi nam vì được tin chính quyền cách mạng sẽ cấm
buôn bán. Nam ở lại Hà Nội. Ngày 10-10, anh hòa vào dòng người cùng cờ hoa rực
rỡ tung bay để chào đón Đảng, bác Hồ, chính phủ và đoàn quân cách mạng rầm rập
tiến quân vào tiếp quản thủ đô. Sau ngày ấy, niềm hân hoan của anh bị gặm nhấm
dần và nỗi buồn liên tiếp đến. Chính quyền cách mạng tịch thu nhà, giao cho một
gia đình cách mạng nông dân. Sau một thời gian ngắn, sống chung đụng khổ sở,
anh bị bắt nửa tháng, bị thu hết sách với tội danh xúc phạm cán bộ, lưu trữ
sách của thực dân phong kiến. Mẹ Bích Hằng mất, năm 1955, gia đình của Bích Hằng,
một gia đình mấy đời dạy học,bị quy thành địa chủ, và bị xử trí, Bích Hằng mất
tích. Hai mươi năm qua, cuộc sống của anh luôn như thế ấy, cứ trôi đi chậm chạp
như một dòng nước đục…
Sau một hồi
miên man, Nam chợt tỉnh dậy, vùng ra ngoài và nhặt được tập hồi ký tố cáo tội
ác của chế độ. Sợ liên luỵ, anh toan vất nó đi , nhưng cuốn hồi ký đã làm anh sửng
sốt vì nhắc đến tên anh và Bích Hằng…
***
Nam dõi
theo từng chi tiết trong tập hồi ký. Từ đó, anh biết được tin về Bích Hằng,
quan sát những số phận con người dưới chế độ Cộng sản, những tội ác của Cộng Sản
trong thời kỳ cải cách ruộng đất, những đầy đọa về tinh thần và vật chất của những
nạn nhân trong lồng sắt lớn (là xã hội Cộng sản) và lồng sắt hẹp (là nhà tù Cộng
sản). Anh tìm gặp và trả lại tập hồi ký cho tác giả. Nam và Tâm, tác giả hồi
ký, kết nghĩa huynh đệ.
Nhớ lại
những chi tiết trong hồi ký, những đoạn về Bích Hằng không khỏi khiến anh quay
cuồng và ám ảnh vì những gì xảy ra với cô như một cơn ác mộng. Rồi lại đến một
sự tình cờ khác.. Trên đường anh về nhà sau khi chia tay Tâm, qua ga, Nam bất
ngờ gặp một người phụ nữ nắm chặt ghi đông xe của anh và gọi tên anh. Người phụ
nữ ấy, trong một vóc dáng tiều tuỵ, sau khi ra từ trại cải tạo nhiều năm, không
ai khác chính là Bích Hằng. Cô ngất đi… Nam mê mẩn như cái xác không hồn, vẫn đứng
trơ trọi giữa đường phố trong cơn giông tố.Đồng hồ ga điểm mười hai tiếng, như
đánh dấu “một ngày giông tố” nơi cõi lòng Nam.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 2 – Bản tóm lược.
Tác giả
sinh ra trong một gia đình phong kiến ăn ở hiền lành. Sau cách mạng, gia đình
đã hết sức mình để làm nghĩa vụ với chính quyền. Chẳng những thế, gia đình có
ba thân nhân bị thực dân Pháp giết hại trong cuộc chiến. Hồi cải cách ruộng đất,
thân phụ tác giả bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu toàn bộ. Tác giả trở
thành một đứa trẻ không cha, không mẹ, không nhà cửa, ăn đói mặc rét, cố gắng vừa
học vừa làm kiếm sống, mong ước có được một nghề để sinh sống sau này. Cả ước
mơ tầm thường phải có cho mọi con người, tác giả cũng bị dập vùi tàn nhẫn: học
bị đuổi, xin việc làm không được vì lý lịch gia đình…(1)
PHẦN 1 –
MỘT NGÀY GIÔNG TỐ
HỒI MỘT –
Quê hương, phản ánh một góc nông thôn Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1945 –
1960.
Đó
là những năm kháng chiến chống Pháp, cuộc sống
của người dân trong cảnh một cổ mấy tròng, “địch”, quân Pháp và “ta”, chính quyền
“cách mạng”. Sự xâm nhập của văn hóa và tư duy “cách mạng”. Thoáng thấy cái gọi
là “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” hay “làm sạch cỏ tận gốc” và cuộc sống của một
gia đình phong kiến và con cái tầng lớp phong kiến trong xã hội Cộng sản.
Để sau
đó, thời kì cải cách ruộng đất, ngọn lửa căm thù của
đấu tranh giai cấp đã thiêu đốt mọi tình cảm giữa con người với con người, làng
xóm, thầy trò và cả tình thân ruột thịt: cha con, anh em, vợ chồng. Sau khi
thân phụ tác giả bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu toàn bộ, với uớc mong được
học hành, tác giả vẫn cố gắng đến trường. Đó là những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục. Gian
nan vì cuộc sống nghèo khổ, ăn đói, mặc rách trong vòng uy hiếp và chèn ép của
chính quyền và bọn vô lại. Tủi nhục vì sự xa cách lạnh lùng của người thân
thích, làng xóm, bạn bè. Mặc dù tác giả thông minh, học giỏi nhưng bị vùi dập,
xin học nghề không xong bởi “Ngoài nghề làm ruộng, anh không có quyền làm
bất cứ nghề gì”. Nhờ người chú nhân tình giấu lý lịch người cha, tác giả
được vào trường trung cấp sư phạm, nhưng rồi bị đuổi, bởi “Quy.ết định đuổi em
không phải của trường mà do uỷ ban nhân dân tỉnh”. Không sống nổi trên mảnh đất
quê hương, tác giả phải lên Hà Nội.
HỒI HAI –
Hà Nội, từ miền nông thôn Cộng sản, tác giả bước vào vùng “đất
thánh”. Nơi đây, bên cạnh những người thân,tác giả lại chứng kiến sự
thay đổi nhân tình của chú, bá và cả chị ruột mình. Từ 1960 – 1965, năm năm nối tiếp là quãng thời gian mưu sinh vất vả, cực nhọc của
những con người bị o ép, bị bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ dưới cơ chế quản
lý Cộng sản – một bức tranh xã hội xám xịt. Vì vậy, năm 1965, tác giả và hai
người bạn cùng nhãn qan, Khoa và Dậu, đã chuẩn bị vượt tuyến vào Nam. Trong lúc
đó, do không “khéo” sống, Khoa, con một gia đình tư sản – một gia đình sau cách
mạng phân thành hai mảnh, một bên ý thức được bản chất Cộng sản, một bên mê muội
vì ý thức hệ Cộng sản – bị bắt tập trung cải tạo. Những trang nhật ký của anh
vô tình đã khiến tác giả và Dậu bị bắt theo.
HỒI BA –
Nhà tù, là những trang viết phản ánh về cuộc sống trong nhà tù của một chế
độ tự xưng là ưu việt.
Sau thời
gian giam cứu tại Hoả Lò , tác giả bị kết án bốn năm tù giam
và ba năm mất quyền công dân. Nhưng trên thực tế, sau thời gian bốn năm, tác giả
bị chuyển sang diện tập trung cải tạo. Mười một năm tù, từ năm 1965 – 1976, tác
giả đã bị chuyển qua nhiều phân trại của trại cải tạo An Thịnh và trại cải tạo Vĩnh Quang
Tác giả
đã ghi lại những trang đời của chính mình và những thân phận tù trong thời gian
đó. Những tù nhân Cộng sản bao gồm tù hình sự và tù phản cách mạng (2). Nhà
tù Cộng Sản được mô tả với hai hình tượng về sự Tàn Bạo và Bịp Bợm.
Tàn Bạo bởi:
Những người
tù bị cho ăn đói, mặc rách đến độ trở nên man rợ.
Họ bị ép
và lừa lao động như trâu ngựa, cấu xé lẫn nhau để lập công, gây nên nỗi đồng cảnh
tương tàn. “Mỗi thằng tù vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, phải chịu bốn vòng
kìm kẹp: vòng ngoài là cai ngục, vòng thứ hai là trật tự, văn hoá trại, vòng thứ
ba là toán trưởng, vòng cuối cùng là cảnh hành hạ lẫn nhau.”
Nhiều người
vì đói và lao động kiệt sức, chết dần mòn. Nhiều người bị giam trong xà lim m
à chết. Nhiều người vì ốm bệnh, vẫn bị ép đi làm, bị đánh đập, không được cấp
thuốc mà lìa bỏ cuộc đời.
Những con
người không chỉ “thân thể ở trong lao”, mà cả tinh thần cũng bị cầm
tù. Đói khổ chưa đủ, những người tù phải bình công chấm điểm, cắn xé, tố
cáo lẫn nhau mới thực hiện được cái gọi là đấu tranh giai cấp trong nhà tù.
Tù hình sự
và tù phản cách mạng bị giam chung, tù hình sự bị tuyên truyền, bị xúi giục
đánh đập, hành hung tù phản cách mạng,…
Bịp Bợm bởi:
Nơi tiếp
đón gia đình các trại viên, “phòng tuyên truyền của địa ngục trần gian”: nơi đã
diễn ra bao cảnh chia ly vĩnh viễn của những cặp vợ chồng còn trẻ, con cái
không tin cha, vợ chẳng hiểu chồng, anh chị oán trách em… Nơi hàng trăm người bỏ
mạng vì ốm đau không có thuốc, không được cứu chữa, vì đói hoặc vì những cực
hình khác được giải thích là: “với chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ,
chúng tôi đã hết lòng cứu chữa và chăm sóc nhưng do bệnh tật hiểm nghèo không
qua khỏi…”
Năm 1975,
Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. Vì vậy đến năm 1976, các tù phản cách mạng trong
trại, trong đó có tác giả được thả ra. Tác giả được cho về ở với người chị gái,
nơi mười sáu năm trước, tác giả đã không sống nổi hai ngày.
Từ lồng sắt
hẹp ra nơi lồng sắt rộng. Từ cuộc sống nơi nhà tù Cộng sản man rợ và đói khát,
tác giả lại nối tiếp những tháng năm cô đơn, vô vọng và tủi nhục trong một xã hội
Cộng sản cũng cơ cực, nghèo túng, mất tự do, và nhất là nhiễm bệnh máu xám huỷ
diệt tình người. Riêng với tội danh một người tù phản cách mạng, “một tội
ghê tởm hơn cả bệnh giang mai, ghẻ lở trong nhãn quan của mọi người?”, càng
thêm bội phần cơ nhục. Cuộc sống khổ nhục đó được phản ánh rõ nét trong Phần 2.
Đây là những
trang nói về cuộc sống cơ nhục mưu sinh, tìm kiếm hạnh phúc của tác giả nơi lồng
sắt khổng lồ. Cũng là một vài phản ánh tiếp theo về xã hội Cộng sản.
Tác giả
làm mộc để mưu sinh. Trong hoàn cảnh sống chung đầy tủi nhục với gia
đình chị và chịu sự giám sát của chính quyền, tác giả vẫn cố gắng viết hồi ký,
để làm tròn trách nhiệm với Khoa, người bạn đã mất trong tù, cũng như cho chính
tác giả, “để thực hiện trách nhiệm lương tâm phơi trần những tội ác trời không
dung, đất không tha của Cộng Sản trước tòa án lịch sử ngàn đời”.
Giữa cuộc
sống cô đơn, tủi nhục, như mọi con người bình thường, tác giả cũng ước mong hạnh
phúc gia đình. Cuộc đời tác giả, “xưa kia, khi còn trai trẻ cũng chỉ dám yêu thầm
nhớ trộm, tuy nhiên tình yêu và gia đình vẫn là khái niệm mơ hồ, xa cách, lạnh
lùng”, giờ đây trước ý thức hệ Cộng Sản, “phải bưng bít, khép kín quá vãng để
tìm một người bạn đời thì đau lòng quá” cho một người đã luôn sống
chân thật với khối óc và con tim mình. “Để có được một cuộc sống tầm thường, khốn
khổ, cũng phải nói phét, bịp bợm, khai tử chữ lương tâm sao?”
Những chi
tiết về hành trình tìm người bạn đời phản ánh rõ thêm nhân sinh quan của con
người Cộng sản. Cộng sản muốn thay cả vai trò của tạo hóa, ông tơ bà nguyệt…
Tính giai cấp xen lẫn cả vào những chuyện yêu đương cá nhân.
Câu chuyện
có một kết thúc được xem như có hậu: tác giả mua được nhà riêng, tìm được người
bạn đời hợp ý, một Đảng viên quay lưng lại với “đấu tranh giai cấp”, trở về bản
chất trung hậu của người nông dân và mong ước hạnh phúc gia đình tầm thường của
mọi con người.
Tóm tắt
cho Phần 1 được trình bày theo các mục của phần đó như sau:
HỒI MỘT –
Quê hương
I Thời kì kháng chiến chống Pháp
II Thời kì cải cách ruộng đất
III. Những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục
HỒI HAI –
Hà Nội
I Những người thân
II Năm năm nối tiếp
HỒI BA –
Nhà tù
I Hoả lò
II Trại cải tạo An Thịnh
III Trại cải tạo Vĩnh quang
HỒI BỐN –
Ngày về
Chú
thích:
(1): Theo
lời kể của tác giả, phần Hồi ba – Nhà tù
(2): Về
tù hình sự và tù phản cách mạng:
- Tù hình
sự (hay tù số chẵn), bao gồm: lưu manh, giết người, trộm cắp, gái làm tiền, hiếp
dâm, tham ô…, những nạn nhân đồng thời là sản phẩm của sự nghèo túng, ăn đói mặc
rét của nền kinh tế Cộng sản và của ý thức hệ Cộng sản.
- Tù phản
cách mạng (hay tù số lẻ), bao gồm:
Diện tập
trung cải tạo, là các đối tượng của chế độ cũ như những người hợp tác với địch,
các trí thức lưu dung,…
Những người
thể hiện tư tưởng không yêu chế độ, đơn giản như viết thư sầu đời, buồn vì hiện
trạng xã hội, phát ngôn ca ngợi đế quốc, phản tuyên truyền, nghe đài “địch”,
hát hay nghe nhạc Sài Gòn…
Tu sĩ,
giáo dân.
Đảng
phái.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 3
Cách đây
sáu năm, tại một địa ngục trần gian trong rừng núi tỉnh Vĩnh phú, bạn tôi vội
vã ra đi, vĩnh biệt kiếp người. Trong giây phút hấp hối, Khoa thều thào “…hãy
nhớ và ghi lại cái chết thê thảm này cùng những năm tháng bất hạnh…”
Tôi vừa
thoát khỏi cái địa ngục trần gian đó nhưng trong cảnh cá chậu chim lồng. Ngoài
việc kiếm sống vất vả, tôi phải làm nghĩa vụ với người bạn quá cố. Nhân thể,
tôi ôn lại cuộc đời mình, gia đình mình và những mảnh đời đã có thời tôi gần
gũi họ.
HỒI MỘT –
Quê hương
I Thời kì
kháng chiến chống Pháp
Tôi lên bảy
tuổi vẫn chưa đi học. Quê tôi, từ ngày đảo chính vẫn chưa có trường. Ai muốn
con em biết chữ phải đưa chúng đến nhà các thầy giáo làng, hoặc những gia đình
giàu có gửi trẻ đi học ở thị xã, các thành phố Hà nội, Hải phòng, Nam định…
Hàng ngày
tôi lêu lổng ra đường, sân đình cùng bọn trẻ chơi khăng, đáo, cù, bi…hoặc bịt mắt
bắt dê, xỉa cá mè…Chiều tối sân đình vui như hội. Thiếu nhi tập hát những bài
hát cách mạng. Các cô, các chú thanh niên hát son đố mì và nhảy với nhau từng
đôi một. Điệu nhảy lạ lùng này được sinh ra ngay sau ngày đảo chính, chỉ tồn tại
mấy năm thì chết yểu. Đó là sự kiện văn hoá mới mẻ quyến rũ tuổi trẻ, ai không
biết hoặc không dám nhảy bị coi là phong kiến, lạc hậu. Tuổi trẻ đua nhau thành
một phong trào rộng lớn nhưng cũng nảy sinh nhiều hiện tượng chẳng lành làm các
cụ già phẫn nộ: chửa hoang nhiều nên mới có câu:
Người ta
hy sinh vì nước vì non
Con tôi lại chết vì son đố mì
Hồi đó,
quê tôi chiến tranh chưa đến nhưng không khí chuẩn bị chiên tranh vô cùng náo
nhiệt, ngoài những cụ già và trẻ nhỏ thu gọn quần áo, đồ dùng chuẩn bị đi sơ
tán, còn lại thanh niên, phụ nữ và tuổi trung niên nô nức tham gia lực lượng tự
vệ, du kích. Họ tập luyện ngày đêm. Chiến tranh đến gần, ngày nào tôi cũng được
nghe nhiều chuyện “giật gân”: Anh họ tôi ra tỉnh chơi không về nữa ; Đang đêm,
bác họ tôi bị bắt ; ông chú họ mẹ tôi cùng cậu con trai mười tuổi bị lôi cổ đi
lúc đang ngủ trên giường… Chuyện như thế diễn ra liên tục ở nhiều nơi. Nghe
đâu, chính quyền cách mạng cho những người này tắm mát ở vụng Đồng xâm – vùng
nước sâu, chảy xiết ở sông Trà lý. Những nạn nhân biến thành mồi cho cá ấy bị
nghi ngờ sẽ theo địch hoặc một vài câu nói không hợp với thính giác của chính
quyền. Trong thời đó những người câm và điếc mới đoán chắc được sống bình an với
cách mạng mà thôi.
Một buổi
tối, tôi ra sân đình không có trò vui như thường lệ. Vài chục du kích trong xã
xếp hàng đôi, mỗi người cầm một thanh mã tấu, vẻ mặt của họ đầy sát khí. Đêm ấy
họ đi chiến đấu, đánh vào nhà thờ CM – “bọn phản động đội lốt thiên chúa giáo”.
Sáng hôm sau, đội du kích ấy lại tập họp ở sân đình. Dưới ánh nắng chói chang,
quần áo, đầu tóc, chân tay và thanh mã tấu của từng người những vết máu còn bám
vào loang lổ. Họ đang nghe người chỉ huy tuyên dương thành tích chiến đấu của họ.
…Đội
chúng ta nhận nhiệm vụ tấn công vào ổ đề kháng mạnh nhất của địch. Chỉ sau mười
lăm phút lực lượng ta đã đè bẹp kẻ thù. Với lòng căm thù sâu sắc, với ý chí chiến
đấu ngoan cường và với lập trường giai cấp vững vàng, chúng ta đã xông lên tiêu
diệt quân thù ngay trong hang ổ của chúng. Tôi thay mặt uỷ ban kháng chiến hành
chính xã và ban chỉ huy xã đội biểu dương chiến công vẻ vang của các đồng chí.
Đặc biệt là chiến công của đồng chí Vương Viễn. Mời đồng chí Viễn lên tường thuật
lại thành tích của mình.
Vương Viễn
dáng người to đậm, cặp mắt lim dim, hum húp, nháy liên hồi. Bố Viễn mất sớm, mẹ
Viễn không nuôi nổi đàn con dại nên Viễn phải đi ở từ nhỏ. Đến tuổi trưởng
thành, được công nhận quyền công dân và được chia ruộng, Viễn về nhà và tham
gia vào du kích. Viễn đứng lên nói:
– Như các
đồng chí đã biết, gia đình tôi nghèo khổ quá, tôi phải đi ở cho bọn nhà giàu, vừa
thoát khỏi cảnh đó mấy tháng nay. Nếu không có cách mạng, nếu không có đảng,
tôi không được quyền giết một con gà. Nay nhờ ơn cách mạng, nhờ ơn đảng, bác,
tôi mới được giết người, giết bọn phản động. Sau khi đè bẹp lực lượng của địch,
tôi xông vào từng nhà chém giết không tha một tên nào. Vũ khí này – Viễn giơ
thanh mã tấu đã quằn lên quá đầu, múa một vòng trên không – khi đã tiêu diệt mười
ba tên địch, tôi xông vào một nhà khác. Thằng chồng hoảng sợ định lẩn trốn, tôi
chém một nhát, đầu y lìa khỏi cổ. Con vợ có thai sắp đẻ quỳ xuống van xin tha
chết, tôi phát ngang thanh mã tấu, mụ ngã xuống giẫy giụa. Cái thai đứt thành
hai đoạn tung ra ngoài bụng mụ. Còn hai đứa con của chúng: thằng con trai khoảng
lên năm, đứa con gái khoảng lên ba, tôi cũng cho mỗi đứa một nhát vào đầu. Tôi
đến nhà cuối cùng, mấy tên giặc trẻ đã bị đền tội ngoài sân. Trong nhà, hai vợ
chồng giặc già đang ngồi trên giường lấm lét đọc kinh. Nhìn thanh mã tấu đã quằn,
tiện chiếc chày giã cua dựa góc nhà tôi giáng cho mỗi đứa một cú vào đầu. Thế
là xong việc. Rất tiếc khí thế chiến đấu đang bốc lên hừng hực thì hết kẻ thù.
– Tiêu diệt
những tên giặc nhỏ – Người chỉ huy hỏi – đồng chí có ý nghĩ gì không?
– Tôi
không nghĩ gì cả – Viễn trả lời – tôi chỉ nhớ lời dặn của cấp trên, bọn phản động
như đám cỏ dại mọc lẫn trong một vườn hoa, muốn làm sạch cỏ phải đào tận gốc.
– Các đồng
chí ạ! – Người chỉ huy tiếp – hai đứa con nhỏ của vợ chồng tên phản động cũng
như đứa con chưa ra đời của chúng giống như mầm cỏ dại mới mọc. Nếu chúng ta
không nhổ tận gốc thì làm sao sạch được cỏ! Còn lưỡng lự, còn thương xót kẻ thù
là lập trường cách mạng chưa vững vàng, chí căm thù chưa sâu sắc, chúng ta
không thể hoàn thành nhiệm vụ đảng giao…
Lúc đó,
chị tôi – chị Hoa gọi tôi về. Từ hôm ấy bố tôi không cho tôi đi chơi nữa. Người
nói:
– Nhỏ tuổi,
cái hay không được học, lại nghe những chuyện chém giết người rồi tính tình con
sẽ ra sao? Từ nay con ở nhà chơi, bố cấm con ra đường.
* *
*
Địch sắp
đến làng, giai đoạn đầu lực lượng vũ trang gài mìn, đào hố đặt bàn chông rồi xuống
hầm bí mật. Nhân dân đi sơ tán, bồng bế con nhỏ, gồng gánh lương thực, quần áo
và một số đồ dùng cần thiết ra các trại ở giữa cánh đồng tránh bom đạn nếu chiến
sự nổ ra.
Bị o ép mạnh,
làng tôi phải lập tề – tề ấm ớ do sự chỉ đạo của chính quyền cách mạng. Địch
thường xuyên đến làng xục xạo vào nhà dân để tìm kiếm việt minh, du kích. Một
hôm thằng quan một thấy mặt chị Hoa – một cô gái có nhan sắc, hắn mê. Từ đó, mỗi
lần hành quân vào làng, hắn lại đến nhà tôi.
Hai đêm
liền, cứ đến canh ba, con chó vàng lại sủa điên cuồng. Nó hướng về bức tường có
cổng ra đường, lồng lộn sủa từng hồi làm cả nhà tỉnh giấc và lo lắng. Nó báo động
một tai hoạ có thể xảy ra. Một buổi sáng, trời còn chạng vạng, Vương Viễn và
hai du kích đến nhà, mỗi đứa cầm một thanh mã tấu. Viễn nói:
– Đã có lệnh
cấm chó, sao nhà mày còn để. Chúng tôi theo lệnh cấp trên chém chết nó ngay.
Con Vàng
hình như nhận được đối thủ của nó trong hai đêm trước, nó xông vào Viễn sủa dữ
dội. Nó không biết chúng giết nó bây giờ. Thương con Vàng tôi định kêu lên:
– Vàng
ơi, mày chạy đi kẻo chết, nhưng chậm rồi. Nói xong Viễn chém đứt một chân trước,
con Vàng kêu oăng oẳng, nó nhìn tôi như muốn cầu cứu. Viễn bồi thêm một nhát
vào đầu, Vàng giẫy giụa và tắt thở. Nó chết vì tội hai lần báo động cứu chủ.
Thương con Vàng quá, tôi ôm lấy nó khóc nức nở. Cả nhà, ai cũng rơi lệ vì
thương tiếc nó. Mười năm qua nó sống trung thành với chủ và khôn hiếm thấy. Ban
ngày, khi có người ở nhà vàng không bao giờ sủa khách. Vàng không cho ai lấy
cái gì nếu chưa qua chủ. Một hôm nghe tiếng pháo nổ gần, cả nhà chạy xuống hầm.
Ngay sau đó bà thím họ sang nhà mượn dần, nia. Bà đến cửa hầm hỏi:
– Bác cho
em mượn cái dần, cái nia. Có lẽ không nghe thấy tiếng người nhà trả lời nên khi
thím mang về, vàng đuổi theo cắn dần, nia lôi lại.
Khi Vương
Viễn còn đi ở, qua ngõ thấy vàng nằm, hắn đá vào mõm vàng rồi bỏ chạy. Vài ngày
sau đó, thấy Viễn đi qua, vàng từ trên tường nhảy chồm vào Viễn. Có lẽ nó định
cắn vào cổ Viễn nhưng hụt, Vàng ngã lộn một vòng và tức khắc chồm lên cắn vào
đùi Viễn.
Có hôm
tôi ra sông tắm, vàng cũng đi theo. Khi về tôi gặp em trai Viễn – thằng Nội lớn
hơn tôi, hắn có khuôn mật hung hãn giống hệt anh. Cậy có anh là con cưng của
chính quyền, Nội ngáng đường tôi và doạ:
– Thằng
Tâm, mày phải chắp tay lạy tao, tao mới cho về. Tôi chưa kịp đối phó thì Vàng từ
xa chạy lại tấn công Nội. May ở sát điếm, Nội kịp trèo lên cái quá giang. Bực
quá, tôi ra lệnh cho vàng nằm coi không cho Nội xuống và tôi về nhà. Đến bữa,
thấy không có vàng, tôi mới sực nhớ ra, vội vã chạy đi gọi nó. Vàng vẫn kiên
trì nằm gác“tù nhân”. Nội không về được vẫn đang ngồi trên chiếc quá giang và
khóc. Vì việc này mà bố tôi bị chính quyền địa phương gọi lên trụ sở hạch sách
một hồi. Họ buộc cho người xúi giục con gây rối an ninh. Khi gia đình đi sơ
tán, vàng cũng đi theo trông nom tài sản.
Buổi chiều
hôm ấy, khi bóng đã ngả dài, ngoài đường có tiếng súng và tiếng la ầm ĩ. Ngay
sau đó, chú rể tôi – chú Nghiệm chạy vào nhà. Đoán biết chú bị truy bắt, bố tôi
vội đưa chú vào buồng, nằm trong cót thóc, lấy cái nong đậy lại và đóng cửa. Vừa
xong thì mấy tên lính ập đến đòi khám xét:
– Có một
tên Việt minh vừa chạy vào xóm này, gia đình cho chúng tôi tìm kiếm.
– Có ai
chạy vào đây đâu? Bố tôi bình tĩnh trả lời.
May có
tên quan một mê chị Hoa cũng đến, hắn nói:
– Bố già
ơi, con đang đuổi bắt một tên Vi –xi, bố có thấy nó chạy vào đây không?
– Tôi
không thấy.
– Thôi được,
gia đình ta có mỹ nhân nên con nể không khám đâu. Nói xong, hắn ra lệnh cho
lính ra khỏi nhà.
Khi hoàng
hôn buông xuống, biết địch đã đi khỏi làng, bố tôi mới đưa chú Nghiệm ra ngoài.
Mặt chú còn tái chưa hết cơn hoảng hốt. Chú nói:
– Bác
không nhanh tay giúp em thì…
Tối hôm
đó, chú Nghiệm ăn cơm và nghỉ tại nhà tôi. Chuông đồng hồ quả lắc thong thả điểm
mười hai tiếng, bố tôi tỉnh giấc, nghe bên ngoài có tiếng động nhẹ. Nhìn qua
khe cửa thấy người nhấp nhô trên tường, người đánh thức chú
Nghiệm dậy
và nói nhỏ:
– Ở ngoài
có người trèo tường, có lẽ họ định giết tôi, nhờ chú giúp.
Chú Nghiệm
ra sân nói:
– Các anh
định làm gì đấy?
– Ông là
ai? – Vương Viễn hỏi.
– Tôi là
Nghiệm, Vũ lăng.
– Chúng
tôi bắt tên quan hệ với địch phải đền tội theo lệnh của cấp trên. – Tèo gấu trả
lời.
– Phải có
chứng cứ rõ ràng, tôi cũng là cấp trên của các anh. Các anh chưa được hành động
nghe chưa?
Nghe chú
Nghiệm nói, bốn tên biệt động bỏ đi.
– Nếu
không có tôi hôm nay thì… – chú nói với bố tôi – từ ngày mai, bác, cháu Quang
và cháu Hoa khi địch đến phải đi nơi khác hoặc ra đồng làm. Nếu để họ nghi ngờ
sẽ không tránh khỏi chết oan. Chú nói thêm:
– Đêm
nay, trong số đó có Tèo gấu. Khi uống rượu say, nó có thể ăn cả thịt người. Thậm
chí, nếu ra lệnh nó dám đâm đầu vào đống lửa.
Vài ngày
sau, ngày mùng mười tháng tư âm lịch – phiên chợ Nụ. Chợ họp từ mờ sáng, người
mua, kẻ bán đi lại tấp nập rợp đường. là phiên chợ lớn của cả vùng, có đủ mọi mặt
hàng trong sinh hoạt miền quê, khách thập phương đến bán hàng và mua sắm. Phiên
chợ hôm ấy lại có một đại đội lính Tây, lính Việt từ bốt Rục dương hành quân đến.
Đột ngột chiến sự nổ ra ác liệt. Bộ đội chủ lực huyện và du kích đánh độn thổ từ
các bụi tre, bờ dứa hai bên đường xông lên chém giết kẻ thù. Nhưng lực lượng của
đối phương mạnh và đông hơn, sau ít phút đã phản công lại. Bộ đội và du kích
tìm đường tháo chạy. Cả hai bên và người đi chợ chết nằm la liệt.
Đến chiều,
mẹ tôi, một anh và một em trai tôi không chịu đi sơ tán. Khổ nỗi, bố tôi, anh
Quang, chị Hoa phải đi khỏi nhà từ mờ sáng thì còn ai bắt được mẹ phải nghe lời.
Bốn chị em tôi vừa ra khỏi làng thì lính các đồn ập đến. Cuộc tàn sát đốt phá
điên cuồng để trả đũa việc chứa chấp Việt minh và tề ấm ớ.
Khi mặt
trời sắp lặn, anh rể tôi – chồng chị cả đến nơi sơ tán báo tin khủng khiếp: Mẹ,
anh Thao, em Dũng bị lôi ra bắn ở ngã ba đường, nhà đang cháy. Trong cảnh vô
cùng đau thương ấy lại lo địch quay lại nên người lớn trong gia đình cùng người
an
h họ vội mai táng cho những thân nhân xấu số. Riêng mẹ tôi có quan tài bằng
cánh cửa nhà đang cháy ghép lại, còn anh và em tôi phải bó chiếu. Một đống người
chết thê thảm không liệm, không có hương hoa, không kèn trống, không có họ hàng
đưa đám. Khốn khổ những kiếp người là nạn nhân của chiến tranh!
Người Việt
nam không bao giờ quên tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp. Lịch sử Việt nam
khắc sâu cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu, đẫm máu của họ năm 1946 – 1954.
Quân đội viễn chinh Pháp cùng lính đánh thuê trút bừa bãi bom đạn xuống đầu người
dân vô tội. Càn quét đến đâu, gặp sự kháng cự của Việt minh, họ thực hiện tam
quang: giết sạch, đốt sạch, phá sạch. Một cuộc chiến tranh xâm lược như vậy thất
bại là điều tất yếu. Thời kì đó, đại đa số người Việt căm thù thực dân Pháp
nhưng họ lại mơ hồ về cộng sản. Với lòng yêu nước, họ đã ủng hộ chính quyền của
ông Hồ để chống lại Pháp. Lịch sử Pháp chịu một vết nhơ không thể rửa sạch: một
cuộc chiến tàn bạo và thất bại.
Chẳng những
thế, sau khi cuốn gói khỏi Đông Dương, người Pháp còn bỏ rơi hàng chục vạn người
đã cộng tác trong cuộc chiến. Họ bị chính quyền CS tù đầy nghiệt ngã và con
cháu của họ cũng bị hắt hủi, phân biệt đối xử có thể trọn đời không lối thoát.
Sau này, trong lúc đã bình thường hoá quan hệ với CS, chính phủ Pháp vẫn làm
ngơ, hoàn toàn vô trách nhiệm với những số phận trên. Điều đó còn chứng tỏ sự
vô đạo lý của chính phủ Pháp.
* *
*
Bố tôi
cao một mét tám mươi, dáng người thanh nhã, khuôn mặt trái xoan, cặp mắt sáng
nhân hậu. Thủa nhỏ người có tên là Trắng, da của người tương xứng với tên gọi
đó. Anh chị em tôi ít mang di truyền của bố, nói chung đều gầy yếu, thấp bé. Thủa
nhỏ, bố tôi thông minh, học giỏi. Tuy nhiên, thủa ấy ở miền quê bố tôi chỉ lấy
được bằng certifica rồi bỏ học. Chữ nho tôi không biết người học đến đâu nhưng
đọc được sách truyện Trung hoa như: lễ giáo Khổng mạnh, Đông chu liệt quốc, Hán
Sở tranh hùng, tam quốc, thuỷ hử…Người vui tính hay kể chuyện. Người được nhiều
người kính nể và dân làng yêu mến. Năm 1942, các chức sắc trong làng đưa bố tôi
lên làm phó lý, lý trưởng, phó tổng và cuối cùng là chánh tổng vào năm 1944 do
ông Vũ quy Mão, tri phủ Kiến Xương tín nhiệm.
Bố tôi đối
xử và làm việc với dân làng lấy lễ giáo làm thước đo. Đương nhiên là lễ giáo
phong kiến, lễ giáo Khổng mạnh, chữ đức của người đàn ông: tam cương, ngũ thường.
Trong mấy năm làm kỳ hào phong kiến, bố tôi không làm điều gì thất đức. Tháng
ba năm ất dậu, nạn đói hoành hành ở quê tôi, nhiều người bỏ mạng sinh ra nạn trộm
cướp nhiều. Bố tôi nói: “Thời nào cũng vậy, phải giữ kỷ cương, phép nước, có an
ninh xã hội, nhưng mất mùa, đói kém mà người giàu không chịu bố thí, người ta
cướp để ăn thì pháp luật cũng đành phải làm ngơ…” Trong thời gian đó, bố tôi đã
bỏ qua nhiều vụ cướp.
Ngày đảo
chính, chính quyền cách mạng vào khám xét nhà tôi – một khu nhà rỗng tuếch, chẳng
có tài sản gì quý; ngoài mảnh vườn, không một thước tư điền. Cuộc sống của gia
đình tôi sau cách mạng bằng hai nghề chính: – Nông nghiệp, cấy hơn một mẫu ruộng
công, không đủ ăn phải lĩnh canh thêm; – Trồng rau nuôi tằm kéo sợi và dệt. Bố
tôi yêu lao động, ngay thời gian còn làm quan phong kiến ngoài ngày giờ lên huyện,
người vẫn ra đồng làm việc như mọi người nông dân. Bố tôi khéo tay làm việc gì
cũng được: kéo tơ dệt vải, cắt may quần áo cho cả nhà, khâu bằng tay chứ không
có máy. Người dạy các con phải siêng lao động, học hành và thường nói: “Cần kiệm
là đức tính quý, ngăn chặn đươc nhiều thói hư, tật xấu”.
Về phương
pháp dạy bảo các con, lúc nhỏ tôi cho rằng bố tôi hà khắc quá. Người luôn nói
câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, muốn thành người trước hết phải có đức. Uốn nắn
cho con từng lời. Anh chị em trong nhà khi nói chuyện với nhau, ai văng ra từ
“mặc hoặc kệ” là bị người trừng phạt. Tuy nhiên, người răn dạy con bằng lời
hơn, lẽ thiệt là chính, ít khi dùng roi vọt. Nhờ cách răn dạy ấy mà sau này,
tôi không bị ảnh hưởng bởi những trận cuồng phong về đạo đức.
Với ước
mong một cuộc sống bình yên để phụng dưỡng cha già và nuôi dạy đàn con nhỏ, người
làm trọn nghĩa vụ công dân với chính quyền cách mạng: tuần lễ vàng, công phiếu
kháng chiến, hũ gạo kháng chiến…và đóng góp thuế nông đầy đủ, thậm chí phải đi
vay nợ để làm nghĩa vụ. Chẳng những vậy, thường có bộ đội đóng quân tại nhà, bố
tôi hết lòng giúp đỡ họ nhiều mặt, có khi nuôi hàng tiểu đội mấy tháng. Nhất là
ngày tết, cả nhà phải bớt ăn để nhường cho bộ đội.
Sau khi bị
nghi ngờ, chết hụt, khi địch đến làng, bố tôi phải ra đồng làm hoặc đi nơi
khác. Người có ý nghĩ “cây ngay không sợ chết đứng”, nhưng lại băn khoăn với
câu sấm trạng:
Trời làm
một hội lăng nhăng
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông
Bao giờ thiên hạ hội đồng
…
Ngày mùng
mười tháng tư âm lịch, tai hoạ khủng khiếp đã đến với gia đình tôi. Nếu ngày ấy
bố tôi không phải đi khỏi nhà từ buổi sáng, chắc chắn người sẽ bắt cả nhà tôi
phải đi sơ tán sau khi chiến sự nổ ra thì tai hoạ khủng khiếp không thể có.
Nhìn ba
thân nhân nằm trên vũng máu, bố tôi khóc thảm thiết và tự trách mình:“vì sợ người
ta giết oan, tôi đã không cứu được vợ con tôi”
Một tuần
trôi qua, nhà lúc nào cũng có người khóc thương những thân nhân vừa bị nạn. Nhà
cháy đổ nát, tro bụi hoang tàn, không ai còn lòng dạ nào thu dọn. Tối hôm ấy, bố
tôi dựa vào chiếc cột hiên nhà ngói không bị đốt, đang than khóc nhìn cảnh vật
tiêu điều thì hai cán bộ địa phương đến, họ ra lệnh:
– Ngày
mai, ông phải mang theo lương thực, quần áo và đồ dùng đi nơi khác học tập ba
tháng.
– Cảnh
nhà tôi đau thương đổ nát thế này, tôi đi sao được – Bố tôi nói – Xin các ông
cho hoãn lại.
– Lẽ ra
ông phải đền tội, nhưng giặc đã…nên chỉ phải học tập thôi,
– Tôi có
tội gì mà phải đền?
– Tội
quan hệ với giặc – Tên cán bộ quát.
– Tôi biết
các ông nghi ngờ, ba lần định giết tôi. Nay địch đã đốt nhà, bắn vợ con tôi
chưa đủ là bằng chứng về sự vô tội của tôi sao?
– Lệnh của
cấp trên, chúng tôi buộc ông phải chấp hành – Một tên cán bộ quát ra lệnh.
– Trời
ơi, người đồng hương sống với nhau còn tình nghĩa gì nữa – Bố tôi than thở.
– Nhân
nghĩa chỉ tồn tại trong chế độ cũ, cách mạng không cần thứ đạo đức cổ hủ ấy.
Chúng tôi hỏi ông có chấp hành không?
Cả nhà
tôi đều khóc như di vỡ tổ. Chị Hoa nghẹn ngào nói với bố:
– Bố ơi,
bố phải theo lệnh của chính quyền bố ạ. Họ bắt người dân làm gì mà chẳng được.
Nếu không thì… Bố thương ông, bố thương chúng con mà nghe theo họ.
Đang
trong cảnh đau thương tang tóc lại chất thêm nỗi buồn da diết của cảnh chia ly.
Sáng sớm hôm sau, bố tôi khăn gói lên đường để tiếng khóc của anh chị em tôi nối
tiếp nhau suốt mùa hè năm ấy.
* *
*
Trời đã
sang thu mát mẻ, buổi tối ngồi trên chiếc giường kê ngoài hiên, bố tôi thổn thức
đan xen tiếng sáo diều du dương trầm bổng khắp trời xanh. Quê tôi khi vắng tiếng
bom đạn nổ lại xuất hiện tiếng sáo diều. Thời bình, nhất là những đêm thu trong
sáng, tiếng sáo diều ngân nga, vi vút như một bản trường ca suốt năm canh.
Như chợt
nhớ ra, bố tôi gọi:
– Tâm đến
đây bố bảo.
– Dạ! Bố
gọi con có việc gì?
– Bố đã
nói với chú Thất, sáng mai con đi học, con lên tám rồi còn gì?
Lúc ấy, bỗng
cất lên tiếng học bài như cuốc kêu của thằng Lê nhà bên cạnh. Bố tôi nói tiếp:
– Thằng Lê
bằng tuổi con, nó đã học chú Thất được hai năm rồi. Bây giờ nó đang học cửu
chương đấy.
– Cửu
chương đến chín thôi hả bố?
– Cửu là
chín,đến chín là hết.
– Thế thì
con đọc được những số cao hơn cơ, con đọc cho bố nghe:
13 lần 1
là 13
13 lần 2 là 26
…
13 lần 13 là 169
– Con đọc
thử số khác – Bố tôi ngạc nhiên hỏi:
17 lần 1
là 17
…
17 lần 17 là 289
– Con học
ai và học từ bao giờ mà lạ lùng thế?
– Con có
học ai đâu, mồm con đọc, óc cộng thêm vào thành một mạch liên tục.
Anh hai
tôi – anh Quang từ trong nhà chạy ra nói:
– Tâm có
năng khiếu đặc biệt đấy bố ạ.
– Tâm
tính nhẩm nhanh, em thử làm bài toán trăm con trâu, trăm bó cỏ nhé?
Anh Quang
đọc đầu bài xong, bố tôi gạt đi:
– Anh học
thành chung năm thứ hai rồi còn chưa giải được huống chi thằng chưa biết chữ. Người
ra lệnh:
– Tâm lên
giường nằm ngủ để ngày mai còn đi học. Tôi vâng lời, nằm im thin thít giả vờ ngủ,
song bài toán cứ lẩn quẩn trong óc tôi. Sau hơn một giờ tôi bật kêu lên:
– Bố ơi,
con tính ra rồi.
Bố tôi nằm
bên cạnh, người quay lại hỏi:
– Con mà tính
được ra à? Kết quả thế nào con nói thử bố nghe?
– Con tìm
được ra ba kết quả – Tôi lần lượt nói với bố tôi. Người ngồi phắt dậy, nói:
– Con đặc
biệt quá! Quang ơi, em nó làm ra rồi đấy, con thua em chưa?
Anh Quang
lại từ trong nhà chạy ra reo lên:
– Kì diệu
quá! Nếu có trường học tử tế và được học hành đầu cuối như ở Paris chẳng hạn,
Tâm có khả năng trở thành một nhà toán học.
Quê tôi hồi
đó dân trí còn thấp lắm, việc nhỏ đó đã có tiếng đồn lan khắp vùng. Sau này tôi
mới biết giải bài toán đó bằng phương trình vô định sẽ tìm được nghiệm trong
vòng vài ba phút.
Sáng hôm
sau, tôi bắt đầu cắp vở đến trường. Gọi là trường cho hay là thế, thực ra trường
là nhà chú Thất, bàn ghế không có phải tháo cánh cửa kê thay bàn học. Học trò
khoảng hơn một chục người, chia ra thành nhiều lớp. Người học trước hai, ba năm
ở lớp cao nhất. Cứ thế thấp dần đến tôi là lớp cuối cùng chưa biết chữ. Chú Thất
– chú họ tôi có lẽ mới chỉ học hết tiểu học, chữ nho biết nhiều hơn. Chú dạy học
theo lối du kích, không có chương trình quy định cho một lớp nào, cả thời gian
cũng không giới hạn. Ai học tiếp thu chậm thì dạy chậm, ai ngu tối thì ôn đi ôn
lại dẫm chân tại chỗ một thời gian, ai học nhanh thì dạy nhanh. Chỉ sau một tuần
tôi đã đánh vần và đọc được. Học bằng óc với tôi sao dễ thế? Dường như chỉ cần
học mấy ngày đã biết chữ. Chị cả tôi – chị Dền không được đi học mà đọc truyện
hay lắm, chỉ không viết được thôi. Nhưng học thì phải tập viết, một công việc nặng
nhọc quá sức với tôi. Thày viết bằng bút chì để tôi tô lại bằng bút mực. Tay
tôi run run, nét chữ lằng ngoằng như đỉa lội, mùa thu mà mồ hôi vã ra như tắm,
mực ở đâu bôi khắp chân tay, mặt mũi, quần áo. Đến nỗi mỗi buổi đi học về, cả
nhà ai trông thấy cũng phải khúc khích cười và kêu lên:
– Thằng hề
đi học đã về.
Có lần bố
tôi hỏi:
– Con viết
thế nào mà bẩn thỉu như người lăn xuống ao bùn vậy?
Tôi xấu hổ
và tủi thân nói:
– Không
biết thế nào mà mực cứ bôi khắp người con?
– Ai nhận
thức nhanh thì bàn tay thường lại vụng – người an ủi – con cứ kiên trì rồi sẽ
làm được.
Mất gần
hai tháng tôi mới vượt qua được công việc nặng nhọc ấy, nhưng bàn tay vụng về của
tôi là kẻ thù nguy hiểm cản trở việc học hành của tôi mãi sau này. Song tư duy
của tôi ví như con ngựa phi nước đại thì bàn tay chậm chạp đuổi theo như con
rùa bò trên bãi cát.
Sáu tháng
sau, tôi đã viết được chính tả thành thạo, làm những bài tập văn đơn giản miêu
tả người và đồ vật. Còn về toán, mặc dù đã làm được bốn phép tính số học và
tính đố nhiều phép tính với thời gian nhanh như máy tính nhưng tôi vẫn tiếc rằng
thày dạy tôi còn chậm quá. Tuy nhiên tôi đã vượt mọi người học trước tôi hai,
ba năm, chỉ đáng buồn là chữ viết còn xấu quá.
Một hôm,
sau buổi học, thày bảo tôi:
– Khả
năng thày dạy con đến đây thôi. Con tìm thày khác mà học cao hơn. Thày mỉm cười
nói nửa đùa, nửa thật: – Con nhớ là đi học chứ không phải đi ăn cướp chữ thày.
Thế là
tôi không được đi học nữa, quay lại những ngày tháng“cấm cung”dạo trước. Sau
đó, anh Quang làm gia sư, anh dạy tôi học toán: đo lường diện tích, thể tích
các hình, chuyển động, tạp số và phân số. Sau hai tháng tôi không chịu bó tay
trước một bài toán số học khó nào của cấp một.
* *
*
Khu vườn
trước cửa nhà tôi, những cây ăn quả lá toả xanh rờn: Na, hồng, chanh, cam, mít…
ra hoa, kết quả đầy cành. Bố tôi ngồi trên chiếc trường kỷ khảm trai, buồn bã
nhìn cảnh vật. Người đang trầm lặng suy tưởng, bỗng cất tiếng ngâm:
Còn trời,
còn đất, còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này?
Thứ âm
thanh được phát ra từ một trái tim bị dồn nén nỗi đau thương, sự lo âu trăn trở
của một một cuộc sống nhọc nhằn, giai điệu não nùng của một tâm hồn mệt mỏi
không lối thoát.
Ngay sau
đó thày Mẫn đến, bố tôi vội vã ra đón thày vào nhà. Thày nói:
– Năm nay
xã mở trường cấp một, ông có cháu nào đi học không?
– Tôi còn
hai cháu phải đến trường. Thày dạy lớp nào?
– Tôi dạy
chương trình lớp bốn, học kỳ hai.
– Tôi muốn
cháu Tâm theo học thày có được không?
– Tôi được
nghe nói cháu Tâm giỏi toán lắm. Năm nay cháu bao nhiêu tuổi, học mấy năm rồi?
– Chẳng
dám nói dối thày, cháu lên chín, đã học chú họ nó và anh nó được tám tháng. Thày
cười nhạt có vẻ mỉa mai:
– Có thể
cháu thông minh hơn người nhưng mới học tám tháng thì theo sao được?
– Bây giờ
thày cứ kiểm tra, nếu cháu theo học được, tôi mới dám nhờ thày. Bố tôi gọi:
– Tâm đến
đây thày hỏi.
– Cháu viết
và đọc nhanh chưa? Thày Mẫn hỏi.
– Thưa
thày, hiện nay cháu đọc nhanh nhưng viết còn chậm và chữ xấu.
– Văn,
toán cháu học đến đâu rồi?
– Cháu đã
biết làm văn tả cảnh, tả người và đồ vật. Còn về toán, cháu mới thành thạo về
phân số.
Thày nhìn
tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
– Cháu giấy
bút làm thử một bài toán nhé. Hai người có 84 đồng. Số tiền người thứ nhất bằng
3 / 4 số tiền người thứ hai. Hỏi số tiền của từng người?
Tức khắc
tôi trả lời:
– Thưa
thày, người thứ nhất có 36 đồng, người thứ hai có 48 đồng.
– Sao
cháu làm nhanh thế? Thày trố mắt nhìn tôi thán phục.
– Thưa
thày, bài toán ấy đơn giản quá.
– Khi
chưa đi học, cháu đã đọc trơn tru thập cửu chương – Bố tôi nói xen vào.
– Nếu
đúng thế – Thày Mẫn hỏi – cháu đọc phép nhân 19 cho thày nghe.
Tôi dõng
dạc đọc:
19 lần 1
là 19
19 lần 19 là 361
Bố tôi
nói thêm:
– Cũng
khi chưa đi học, cháu còn tính nhẩm được bài toán trăm con trâu, trăm bó cỏ.
Thày Mẫn
reo lên:
– Tiếng đồn
quả không ngoa, cháu thông minh xuất chúng. Tôi đồng ý nhận cháu học.
Bố tôi cảm
ơn thày và nói thêm:
– May
quá, tôi có ý định đến nhờ thày đã lâu. Còn cháu Đản xin học lớp vỡ lòng thôi.
Thày Mẫn
dáng người cao, gầy, cặp mắt thông minh, lanh lợi. Thày đã khai hoá cho bao người
ở vùng này hết tối tăm, ngu dốt, nhưng cả đời thày chịu phận nghèo hèn. Bố tôi
ngưỡng mộ thày – một thày giáo có lương tâm, nhân hậu,
dạy giỏi.
Còn thày mến trọng bố tôi về cách sống nền nếp và lòng nhân ái. Hai người quan
hệ với nhau từ khi còn trẻ.
* *
*
Trường học
xã tôi khai giảng giữa mùa hè, một hiện tượng bất thường trong thời chiến. Trường
phân tán nhiều nơi: đình, từ, miếu hoặc những nhà rộng vắng chủ. Bàn ghế không
có, mỗi học sinh tự sắm một cái bàn học gấp lại được như ghế thợ cắt tóc rong.
Khi đi học, khi về phải mang theo. Lớp học tôi ở miếu thôn trong, có hơn bốn chục
học sinh. Người nhiều tuổi nhất đã lấy vợ, đa số là mười ba, mười bốn tuổi,
không có ai bằng tuổi tôi. Buổi khai giảng, mặc dù có tiếng đồn tôi giỏi toán
nhưng thấy tôi ít tuổi lại gầy gò, ẻo lả nên các bạn học không tin, ai cũng coi
thường khinh miệt tôi ra mặt, họ bảo:
– Nào nhóc
con, nào con nít đi chơi chỗ khác để cho các anh học.
Tủi quá,
tôi bưng mặt khóc hoài. Hôm sau mới bắt đầu học, tiết đầu là toán, thày giáo
nói: – Lần đầu, xã có trường công nên các em ở độ tuổi khác nhau, trình độ cũng
chênh lệch nhau nhiều. Hôm nay các em làm bài kiểm tra toán. Nếu em nào yếu quá
không theo được phải xuống lớp ba.
Bài toán
phân số dễ quá, tôi chỉ mất thời gian chép đề và bài giải, không cần động óc một
chút nào. Thế mà hết giờ, nhiều bạn vẫn chưa xong, hoặc làm sai, hoặc đành ngậm
bút. Qua buổi học ấy, thái độ của các bạn đối với tôi thay đổi, từ chỗ khinh miệt
đã nhường chỗ cho những lời khen, khâm phục.
Suốt bốn
tháng học, tôi chiếm ưu thế tuyệt đối về môn toán, không có đối thủ nào đồng
cân đồng lạng. Tuy nhiên vì cái ưu thế đó, cộng thêm tính“ ngựa non háu đá” của
tuổi thơ, tôi làm thày Mẫn nhiều phen khó chịu: cậy mình biết rồi, tôi không
chú ý nghe thày giảng. Đến tiết học tính nhẩm, thày nói xong đầu bài là lập tức
tôi trả lời ngay đáp số. Thày trừng mắt, bảo tôi:
– Thày biết
khả năng của em rồi, từ nay đến tiết tính nhẩm, em ngồi im lặng để các em khác
học.
Một hôm,
thày giải một bài toán mẫu trên bảng, có phép tính 497 x 17 +51. Thày làm theo
phương pháp thông thường nên vẫn chưa ra kết quả. Không kiềm chế được, tôi bật
kêu lên:
– Thưa
thày bằng 8500.
Thày quay
nhìn tôi mắng:
– Em cứ
giữ tính ấy à? Làm thế nào?
– Thưa
thày 51=17 x 3. Do đó (497+3) x17 =
Có lẽ
thày hiểu ngay cách tính ấy nhưng tôi đã xúc phạm đến thày. Thày ra lệnh:
– Từ nay
thày có hỏi em mới được trả lời.
Thực ra
phép tính nhẩm hai số, mỗi số có hai chữ số thường tôi tìm ra kết quả tức thời,
nếu chậm cũng chỉ mất một vài giây.
Năm 1951
phải tính thuế nông nghiệp mà những người cán bộ ở quê tôi cho là phức tạp nên
nhờ một số học sinh tính giúp.
Họ bảo
tôi tính thuế gia đình ông bác họ tôi – một đại địa chủ, đồng thời cho một ông
thạo dùng bàn tính làm cùng với tôi. Họ không ngờ rằng, thời gian tôi tính chỉ
bằng một phần ba thời gian ông kia. Do tính tò mò, có người theo dõi tôi tính
thế nào mà nhanh thế, tôi đã biến hoá từ phép nhân, chia thành cộng hoặc trừ.
Người đó hỏi:
– 123 x
72 làm thế nào nhanh nhất?
Tôi trả lời:
– Cháu lấy 9000 –144 = 8856
Các môn địa
lý, lịch sử, công dân, tôi có trí nhớ nên thường xuyên đạt điểm cao. Còn về
văn, do tuổi còn non dại, tôi chỉ đạt điểm trung bình.
Mùa xuân
năm 1952 có kỳ thi chuyển cấp, bài thi toán, tôi tự cho là hoàn hảo. Còn bài
thi văn lại trùng với bài văn viết thư mà thày Mẫn đã cho làm khi đang học. Tưởng
như đã cầm chắc trong tay kết quả, nào ngờ đâu khi niêm yết danh sách trúng tuyển
lại không có tên tôi. Người ta nói, học tài thi phận, tôi tự hỏi: cái phận của
tôi hay do xã hội? Bố tôi từ vui mừng thành thất vọng, người đến thày Mẫn hỏi,
thày buồn bã trả lời:
– Thấy
cháu họ giỏi quá nên người ta sinh lòng đố kị. Khổ nỗi vì quá khứ của ông làm
cháu Tâm thi trượt. Tôi nghe nói, bài thi của cháu bị huỷ ngay không được chấm.
Với ước
mong con được học hành, bố tôi chạy chọt quay cuồng tuyệt vọng. Năm lần, bảy lượt
dẫn tôi đến ông hiệu trưởng Đỗ Đoàn trường cấp hai của huy�
�n xin học dự thính. Có lẽ
chẳng hiểu gì phần quá khứ của bố tôi, cuối cùng ông Đỗ Đoàn đã nhận lời. Tôi học
được hai ngày êm thấm. Đến ngày thứ ba, thày Hồng dạy sinh vật đưa cho tôi một
bức thư ngắn có nội dung: “ Kính thưa cụ, cháu đã trót nhận em Tâm học dự thính
nhưng nay địa phương họ không đồng ý. Mong cụ thông cảm. Nhà trường chịu sự chỉ
đạo của chính quyền. Đỗ Đoàn”
Người lại
bảo tôi xin học lưu ban lớp bốn. Năm học này, thày Mẫn đã chuyển trường xã
khác. Thày giáo mới – Thày Cường còn trẻ. Đến lớp, tôi lẽ phép chào thày và xin
học. Thật lạ lùng, oán hờn có từ kiếp nào mà thày quắc mắt mắng tôi:
– Mày cút
đi, lớp học này chỉ dành cho con em thành phần lao động.
Tôi
thoáng nghĩ, hắn đã dạy tôi được chữ nào đâu mà phải gọi là thày, tôi nổi
khùng:
– Không
cho học thì thôi, việc gì anh phải tuôn ra những lời lỗ mãng.
Tôi về
nhà tiếp tục những ngày tháng “cấm cung”. Em tôi – em Đản cũng thông minh nhưng
học theo chương trình của nha giáo dục nên mỗi năm cũng chỉ qua một lớp. Tôi có
làm gia sư cho Đản cũng bằng thừa. Đản có nước da trắng, khuôn mặt và hình dáng
mềm yếu như con gái nên thuở nhỏ có tên là cu đĩ. Đản hiền lành lắm. Người ta
nói, lành như bụt, Đản hiền đích thực là như vậy. Trước sự bất bình phản ứng
cao nhất của Đản là tiếng khóc. Có lẽ tạo hoá sinh ra Đản để cam chịu mọi điều
bất hạnh.
* *
*
Bố tôi
lúc nào cũng mang nặng nỗi u buồn. Giữa năm 1952, người lên Hà nội thăm chị mẹ
tôi. Nhân tiện, người ghé thăm ông Vũ quý Mão, khi đó làm đổng lý văn phòng phủ
thủ hiến Bắc việt. Sau một hồi lâu tâm sự, ông Mão nói:
– Tôi biết
anh căm thù người Pháp đã cướp đi mạng sống của vợ con anh nhưng sự điên loạn của
thú tính và tội ác trong cuộc chiến nào mà chẳng diễn ra. Nếu chế độ CS là tốt
đẹp, anh ủng hộ để chống lại Pháp là điều đúng đắn, nhưng anh không chạy sớm,
CS sẽ gây tai hoạ cho anh.
Trên đường
về qua thị xã Thái bình, người đến thăm ông anh họ – bác giáo Tôn. Bác Tôn cũng
khuyên bố tôi tương tự như ông Mão. Bác nói thêm:
– Đúng
hay sai là do lịch sử phán quyết sau này, trước mắt chú hãy tìm đường thoát khỏi
cái miệng hùm, nọc rắn.
Về đến
nhà, sau khi bàn bạc với các con, người có ý định từ giã quê hương. Bố tôi xin
phép ông tôi về việc đó. Ông không ngăn cản nhưng lại nói:
– Số bố
chết chỉ có một gậy chống, hiện nay anh con đau yếu, không biết khi bố về cõi sẽ
ra sao?
Nghe ông
tôi nói, người đành ngậm ngùi không đi đâu nữa. Người thường nói: “dù khổ, dù
phải chết cũng không thể phạm tội bất hiếu”. Định mệnh thật nghiệt ngã: năm
1956, người chống gậy chịu tang ông tôi là bác tôi.
Thời gian
thấm thoát hai năm nữa trôi qua, thêm nhiều phen nguy hiểm và vất vả trong chiến
tranh, hoà bình được lập lại. Tin đó làm mọi người vui mừng khôn xiết. riêng bố
tôi buồn vui xen lẫn. Người nói:
– Chiến
tranh đã kết thúc, mọi sự nghi ngờ của chính quyền cách mạng với gia đình ta chắc
cũng không còn, từ nay bố yên tâm phụng dưỡng ông và nuôi dạy các con.
Người buồn vì chiến tranh đã cướp đi mạng sống của ba thân nhân. Và tương lai vẫn
là một màn sương mờ ảo vì sự thành kiến của chế độ.
Đầu năm
1955, thày Mẫn đến nói với bố tôi:
– Năm nay
có lẽ họ cho cháu Tâm học, ông bảo cháu ôn lại để thi chuyển cấp.
Mùa xuân
năm ấy tôi lại đến trường sau ba năm gián đoạn. Trường cấp hai huyện chưa xây dựng
vẫn học phân tán nhiều địa phương. Tôi đi học gần, ngay ở đình thôn ngoài, bàn
học vẫn tự sắm và mang đi mang về như trước. Gia đình tôi lại có thêm một niềm
vui, sau mười năm lấy vợ, anh Quang đã có con trai. Những tháng sống thanh bình
trong mái ấm tình thương, bố tôi càng thương tiếc những thân nhân đã khuất. Nhiều
đêm tôi tỉnh giấc thường nghe tiếng thở dài não ruột của người. Thứ âm thanh được
xì ra từ một tâm hồn bị dồn nén đau thương, đổ nát trong quá khứ và nỗi lo âu,
nghi hoặc ở tương lai.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 4
HỒI MỘT –
Quê hương
II Thời
kì cải cách ruộng đất.
Chuỗi
ngày vui ngắn ngủi đã trôi qua, tôi nghỉ học kỳ thì đội cải cách ruộng đất về
làng. Ngọn lửa căm thù của đội đã đốt và lan nhanh đến thế! Xưa nay đại bộ phận
dân làng niềm nở, trìu mến bố tôi, đội cải cách về sau một tuần thì hoàn toàn
ngược lại: khi gặp bố tôi ngoài đường, một số người với cặp mắt trợn trừng như
bốc lửa còn lại thì lẩn tránh hoặc ngoảnh mặt đi chỗ khác, không nhìn. Cả với
anh chị em tôi cũng thế, họ sợ hoặc thù ghét như ma quỷ hiện hình.
Nỗi hoảng
sợ không riêng với gia đình tôi mà với mọi nhà. Người đi đường lặng lẽ bước,
không dám cười nói râm ran như trước. Phiên chợ Nụ ngay trong thời chiến cũng vẫn
đông vui mà thời gian ấy lèo tèo, xơ xác. Tối đến, ai nấy đều đi ngủ lúc hoàng
hôn vừa buông xuống. Mấy con chó dữ trong xóm cũng bớt mồm sủa bậy, tiếng sáo
diều cũng ngừng ngân nga, vi vút. Bầu không gian im lìm, ngột ngạt báo hiệu một
trận cuồng phong sắp đến, một trận bão lửa căm thù. Căm thù là một viên ngọc
quý, là phần thưởng đối với người yêu và tham gia vào cuộc cách mạng long trời
lở đất này. Không có căm thù sẽ không thực hiện được cái gọi là đấu tranh giai
cấp – thứ lý thuyết mang thú tính của thời đại.
Đến một
chiều hè chói chang ánh nắng, một đoàn thiếu nhi hàng trăm đứa với sự chỉ đạo của
hai, ba cán bộ cốt cán đến trước cổng nhà tôi. Chúng hò reo ầm ĩ, trống ếch
khua loạn xạ và hô nhiều khẩu hiệu.
– Hoan
nghênh chính sách cải cách ruộng đất của đảng và chính phủ!
– Đả đảo
tên Nguyễn Căn địa chủ, cường hào gian ác đầu sỏ!
– Kiên
quyết đánh đổ tên Căn… !
Sáng hôm
sau, hai bức tường xây bên đường đi của nhà tôi, tổ thông tin tuyên truyền kẻ
nhiều khẩu hiệu về cải cách, đa số là khẩu hiệu kiên quyết đánh đổ và đả đảo bố
tôi. Lúc này ông tôi mới hối hận nói với bố tôi:
– Bố có lỗi
với con, không muốn con đi nên nay mới đến nông nỗi như thế này!
Đây là bước
đầu cải cách, tai hoạ đến đâu chưa ai lường được nhưng cả nhà tôi đều lo buồn,
hoảng hốt đến cực độ.
Nhà tôi
có cái bếp tre nứa mới làm sau khi nhà bị địch đốt năm 1950. Sau bếp là bức tường
xây cũ, cạnh ngõ đi. Từ lâu, tôi đã thấy một hình vẽ khẩu súng ngắn bằng gạch
non, có lẽ do trẻ con nghịch ngợm. Tổ thông tin do sự chỉ đạo của đội trưởng cải
cách Lê Thăng kẻ một khẩu hiệu bên cạnh hình vẽ ấy. Buổi tối hôm ấy, Vương Viễn
đến, tay hắn xách súng dài có cắm lưỡi lê. Hắn đứng giữa sân quát:
– Tên Tâm
và tên Đản ra ngoài cho đội hỏi.
Trời
nóng, hai anh em tôi chỉ mặc quần đùi, nghe Viễn quát, Đản sợ quá ngã lăn ra. Bố
tôi từ trong nhà chạy ra xin hắn:
– Anh cho
các em ăn cơm đã.
– Láo xược
– Viễn quát – mày gọi ai bằng anh, tao là anh mày à? Mày phải xưng con và gọi
ông, bà nông dân nghe chưa? – Hắn ra lệnh.
– Tên Tâm
và tên Đản phải đi ngay!
Thấy Đản
vẫn nằm, hắn cầm tay Đản giật mạnh rồi bỏ xuống. Má Đản quệt vào gạch, máu chảy
ra chan chứa, Đản khóc thất thanh. Cả nhà chạy ra sân nâng Đản dậy và van xin hắn.
Viễn quát tháo một hồi rồi bắt tôi đi. Hắn đi sau, báng súng cắp nách, tay phải
cầm thân súng, ngón tay phải đặt vào cò, chĩa lưỡi lê sát vào lưng tôi, giống
như đưa người ra bãi bắn.
– Đi đâu?
– Tôi hỏi Viễn.
– Xuống
miếu – Hắn trả lời.
Đến nơi,
hắn bẻ hai cánh tay tôi ra sau lưng và lấy thừng trói vào cột miếu.
– Tối nay
tao giam mày ở đây để ngày mai đội sẽ hỏi mày về tội chống phá cải cách của tên
Căn.
Nghe hắn
nói, tôi lạnh người đi vì sợ. Trói tôi xong, hắn khép cửa lại ra hành lang nằm
trên chiếc chõng tre. Một lúc sau, tôi mới thấy Viễn trói tôi đau quá. Muỗi nhiều
như o�ng xâu lại đốt, tôi cởi trần,
tay lại bị trói làm sao mà xua muỗi được? Muỗi hoan hỉ bay loạn xạ, tiếng hò
reo liên tiếp như tiếng sáo diều. Đúng là bữa đại tiệc cho bọn muỗi ở đây, tôi
cựa quậy tuyệt vọng trước sự tấn công của bầy muỗi.
Đêm đã
khuya đội trưởng Lê Thăng mới đến, có lần tôi gặp hắn ngoài đường. Hắn cao khoảng
một mét sáu mươi, lưng hơi gù, da mặt rỗ sù sì như da cóc, người béo thô, đôi
vai u, cặp mắt lác hình như toàn lòng trắng.
Thăng hỏi
Viễn:
– Bắt
chúng nó chưa?
– Mới bắt
một tên Tâm đang trói trong miếu, còn tên Đản bị ngã nên chưa.
– Một tên
Tâm thôi cũng được
– Kỳ này
bắn địa chủ – Viễn nói – em xin anh một tay súng nhé?
– Được lắm,
đồng chí được ưu tiên số một.
– Em đề
nghị anh thế này. Bắn địa chủ nên kéo dài ít nhất mười lăm phút. Sau khi trói kẻ
thù trên giá, phải có sáu xạ thủ đeo biển số thứ tự, mỗi xạ thủ có một băng đạn
năm viên. Cách mục tiêu khoảng năm chục thước, khi nổ súng, người chỉ huy lệnh
cho từng xạ thủ tiến đến gần bắn từng mục tiêu nhỏ. Thí dụ, xạ thủ một bắn vào
chân phải kẻ thù, xạ thủ hai bắn vào chân trái, xạ thủ thứ ba bắn vào tay phải,
thứ tư bắn vào tay trái, thứ năm bắn vào bụng và ngực, thứ sáu bắn vào đầu. Xạ
thủ nào cũng phải bắn hết đạn, làm cho kẻ thù chết dần mới khoái.
– Sáng kiến
của đồng chí hay đấy nhưng phải thỉnh thị cấp trên.
– Cách
hành hình ấy càng chứng tỏ lòng căm thù bốc cao, có gì mà cấp trên không nhất
trí?
– Tớ chỉ
ngại cấp trên bảo là lãng phí đạn thôi. – Thăng nói tiếp:
– Đảng ta
còn nhân đạo đấy, bên Trung quốc, chẳng mất một viên đạn nào. Trói địa chủ vào
giá, bên cạnh là con dao sắc và đĩa muối ớt. Mỗi khổ chủ lên tố xong, xẻo một
miếng thịt rồi xát muối ớt vào. Cứ thế đến khi nó chết thì thôi.
– Anh ơi!
– Viễn nói – Anh bảo em có ngu không mhé? Cách đây bảy năm, em đánh vào nhà thờ
CM. Lúc đó gần kết thúc trận chiến đấu, không còn sức kháng cự của kẻ thù, em cứ
vội vã chém thật lực mỗi tên một nhát, như thế chúng còn biết gì đau đớn nữa.
Giá như bây giờ, em sẽ đâm nhẹ từng chỗ trên cơ thể chúng, rồi tháo khớp chân
tay để xem chúng khóc lóc, đau đớn, chết dần từng bộ phận, liệu trên đời này
còn thú vui nào hơn thế nữa? Em cứ tự oán trác
h mình, cơ hội ngàn năm có một mà cách mạng dành cho đã không tận hưởng.
– Trong
thời gian chiến tranh – Lê Thăng nói – Tớ không có chiến công to như cậu nhưng
thực hiện được một ước mơ đáng giá nghìn vàng.
– Anh kể
cho em nghe với – Viễn nói.
– Cách
đây mới có năm năm, quê tớ có một đứa con gái rất xinh. Gia đình nó có cửa hàng
ở thị trấn, lại giàu có nên nó chỉ ăn diện chẳng phải làm gì nặng nhọc. Năm nó
mười bảy tuổi, bọn thanh niên nhiều nơi biết tiếng kéo đến xem mặt và tán tỉnh,
tấp nập kẻ ra, người vào, nó chẳng ưng ai. Quả thật tớ cũng mê nó quá, đôi khi
nẩy ra mơ ước, nếu được ngủ với nó một đêm rồi chết cũng đáng đời. Bởi vì nhà
mình nghèo, học ít lại xấu trai thì với sao được nó. Nhiều lần gặp ở đường, tớ
cũng bông đùa một vài câu, nó chỉ lặng thinh, không thèm nhìn tớ. Năm 1950,
làng tớ lập tề, bốt giặc đóng ngay bên cạnh. Thấy nó xinh, bọn lính đến nhà nó
thường xuyên. Lúc đó, tớ đã vào biệt động. Thời cơ đã đến, tớ báo cáo lên cấp
trên, bố con nó có dấu hiệu khả nghi. Tớ còn cam đoan nó sắp sửa lấy thằng sếp
bốt. Cách vài ngày sau, tớ và hai người nữa được lệnh nửa đêm lẻn vào nhà, bắt
bố con nó đi, buộc đá quẳng xuống sông Hồng.
Sau khi
thi hành bản án thằng bố, nhìn đứa con gái, cơn thèm khát của tớ bốc lên không
thể nào chịu được. Tớ nẩy ra ý nghĩ, hoa đẹp trong tay, sao không hưởng lạc trước
khi vất nó? May quá, hai đứa cùng làm nhiệm vụ lại là đàn em dễ bảo. Tớ nói ý định
đó, chúng nhất trí ngay. Tớ lột hết quần áo nó, dưới ánh trăng sáng, xác thịt
nó khêu gợi làm sao! Bọn tớ thay nhau hưởng lạc gần đến sáng, mỗi đứa được hai
lần mới cho người đẹp trần truồng xuống sông tắm mát.
Viễn reo
lên:
– Tuyệt
quá, tuyệt quá, sự kiện ấy quả là độc đáo. – Viễn hỏi thêm:
– Xưa
kia, em được cấp trên chỉ thị, bọn phản động như đám cỏ dại mọc lẫn trong vườn
hoa, muốn làm sạch cỏ phải nhổ tận gốc. Vậy ngày nay, chủ trương của đảng đối với
bọn con cái địa chủ thế nào?
– Đảng
coi chúng là kẻ thù nhưng xử lý có khác, tuy không mang ra đấu tố, hành hình
nhưng vùi dập cuộc đời chúng xuống bùn đen.
– Cả như
em, đứa nào là địa chủ cường hào cứ bắt tất cả con cháu trong ba đời băm ra là
xong việc.
– Tớ cũng
nghĩ như cậu, nhưng cả đời bị vùi dập, đoạ đầy còn cực hơn là được chết ngay.
Nghe hai
tên khát máu nói chuyện, tôi rùng mình hoảng sợ. Có lẽ còn rùng rợn hơn những
hình phạt thời trung cổ: đưa lên giàn thiêu, bỏ vào vạc dầu, quẳng cho hổ báo
ăn thịt hoặc cho ngựa xé, voi giày…Mệt quá vì thần kinh căng thẳng, tôi thiếp
đi lúc nào không biết, gần sáng tôi mới tỉnh dậy. Hai cánh tay đau tê dại, cả
người ngứa ngáy.
Nhìn qua
khe cửa, tôi thấy chị Hoa mang cơm đến, đang xin thằng Viễn:
– Ông cho
phép em nó được ăn cơm.
– Phải chờ
lệnh của đội, nếu ngoan cố thì đừng hòng, mày hãy cút về đi.
Chị Hoa
khóc và về.
Trời sáng
rõ, Viễn mở cửa ra, sau ít phút thì Lê Thăng đến, hắn nói:
– Mày có
biết bị bắt đến đây vì tội gì không?
– Thưa
chú, cháu không biết.
– Láo xược,
tao là chú mày à? Là ông đội nghe chưa? – Hắn tiếp:
– Mày muốn
sống phải khai thật tên Căn đã xui mày vẽ súng bắn vào khẩu hiệu như thế nào?
– Thưa
ông đội, hình vẽ súng đã có lâu rồi, cách đây hai ngày mới kẻ khẩu hiệu.
– Mày
ngoan cố phải không? Nếu không khai thật, đội sẽ trói mày cho đến chết.
Nói xong,
hắn bỏ đi và Vương Viễn cũng về. Người thay gác là đứa em gái họ cùng chi với
tôi. Tưởng nó còn tử tế, tôi khát nước quá nên xin: – Cô Mùi ơi, làm ơn cho tôi
xin bát nước. Mùi chồm lên, lấy tay xỉa xói vào mặt tôi, nó lu loa: – Tao là cô
mày à? Cả tên Căn nữa cũng phải gọi tao là bà nghe chưa? Tức đến phát điên
nhưng tôi im lặng, muốn nhổ vào mặt nó.
Một lúc
sau Mùi múc gáo nước lã ghé vào mồm tôi. Tôi cố hết sức kéo cả thừng trói đứng
lên đá gáo nước trên tay nó bắn đi, gáo vỡ, nước tung toé. Mùi gào lên:
– Thằng
láo xược, chống lại ông bà nông dân à?
Tôi lại
ngồi xuống, ngoảnh mặt đi, mặc cho Mùi la ó.
Mãi đến
trưa, Vương Viễn mới đến, Mùi kể lại và tiếp tục lồng lên gào thét.
Thằng Viễn
xông lại thẳng cánh vả vào mồm tôi, máu mồm, máu mũi trào ra chảy như cắt tiết
gà xuống nền miếu. Không hiểu vì sao, lúc đó tôi không cảm thấy đau, cũng không
thấy sợ. Tôi nhắm mắt lại và gục đầu xuống. Mùi khoái chí reo lên, cười hô hố:
– Đáng đời
chưa thằng con địa chủ?
Viễn vừa
bỏ đi thì bố tôi đến, người nói:
– Thưa bà
cháu họ, cho phép tôi được nói chuyện với con tôi một lát.
Mùi trợn
mắt nhìn bố tôi và quát:
– Láo xược,
mày xưng tôi với ai? Trước kia mày là bác họ tao nhưng đến nay ông bà nông dân
đã vùng lên đánh đổ mày. Mày phải xưng với tao là con.
– Thôi được,
bà cho phép con được nói chuyện với Tâm một ít phút thôi.
– Nói gì
thì nhanh lên, chớ có thông đồng chống phá, đội và các ông bà nông dân không
tha tội cho bố con mày đâu.
Tôi ức
quá, lúc này nếu không bị trói tôi sẽ giáng cho nó một trận đòn. Chắc hẳn nó
chưa quên, mới cách đây hai tháng, gia đình tôi đang ăn cơm, nó đến vay gạo. Bố
tôi bảo nó cùng ăn và cho gạo mang về. Người còn bảo:
– Nếu thiếu,
cháu cứ sang đây, bác có bác sẽ cho, việc gì phải vay với mượn.
Nay Mùi
trở mặt như trở bàn tay, không bằng giống chó. Bố tôi lại gần, người lấy vạt áo
lau vết máu trên mặt tôi. Hai dòng lệ rơi lã chã từ khóe mắt, người nói:
–Đội bảo
gì con phải nghe theo, không thì khổ. Người ta định giết bố, muốn buộc tội gì
mà chẳng được. Bố nhắc lại, con phải nghe lời bố. Nói xong, người bỏ về.
Tôi thầm
nhủ, không thể nhận những điều vu khống được, nếu chúng dùng cực hình cao hơn,
tôi cố nghiến răng mà chịu.
Bóng chiều
ngả dài, Lê Thăng và Vương Viễn đến, chúng nói chuyện với nhau:
–Trưa
mai, tớ đi công tác vài ngày.
–Việc ấy
đội định giải quyết thế nào? – Viễn nhìn tôi rồi hỏi.
–Đồng chí
vào cởi trói cho nó ra đây.
Viễn cởi
trói xong, tôi vẫn không biết gì vì hai cánh tay tôi tê dại, không còn cảm
giác. Hắn quát:
– Ra cho
đội hỏi tội, mày định ăn vạ à?
Tôi giật
mình đứng dậy, ra ngoài gặp Lê Thăng.
– Mày có
nhận tội không? Lê Thăng hỏi.
– Thưa
ông đội, cháu không làm, cháu không thể n
hận.
– Thôi được,
đội làm biên bản theo lời khai của mày.
Hắn lấy
giấy bút ra viết. nửa giờ sau, hắn bảo tôi nghe hắn đọc:“Tôi là Lê Thăng, đội
trưởng cải cách làm biên bản hành động chống phá của tên Nguyễn Căn – địa chủ
cường hào gian ác, đầu sỏ. Y đã sai con là Nguyễn Tâm vẽ súng bắn vào khẩu hiệu:
hoan nghênh chính sách cải cách ruộng đất của đảng và chính phủ. Theo lời khai
của tên Tâm, mười ba tuổi: Khẩu hiệu súng đã được vẽ từ lâu, sau đó mới kẻ khẩu
hiệu…”Đến chỗ “khẩu súng đã vẽ từ lâu…”, tôi thấy Thăng đọc ngắc ngứ làm tôi
nghi ngờ. Đọc xong, hắn bảo tôi ký vào biên bản nhưng bàn tay hắn xoà ra che
kín đoạn văn cuối.
– Thưa
ông đội, cho cháu đọc lại rồi cháu ký.
Nghe tôi
nói, hình như biết đã bị lộ, hắn quát:
– Mày có
ký không?
– Không
được đọc, cháu không ký.
Lê Thăng
nhìn tôi, hắn nhếch mép cười nham hiểm:
– Mày
không ký, đội có thể trói mày đến chết nhưng chẳng cần mày ký nữa.
Hắn cầm
bút viết nguệch ngoặc: bị can ký tên: Tâm. Sau đó, hắn đưa tôi tờ biên bản và
nói:
– Đây đọc
đi.
Tôi đọc lại
chỗ nghi ngờ, sự thật hắn đã viết:“Con đã vẽ khẩu súng bắn vào khẩu hiệu: hoan
nghênh… con làm việc này là do bố con sai.”. Đọc xong, tôi toan xé tờ biên bản,
sực nhớ tới lời bố tôi dặn, tôi đành ngậm ngùi trả lại hắn. Lê Thăng đặt tờ
biên bản vào cặp tài liệu, hắn lác mắt nhìn tôi nói:
– Chữ ký
của mày mà đội không làm thay được thì câu nói nhất đội nhì trời còn có ý nghĩa
gì? Bây giờ đội tạm tha mày.
Mỏi mệt,
căm giận, tôi thất thểu bước về. Đến cổng nhà, tôi kiệt sức, hai tay chới với
trên thành tường rồi khuỵu ngã. Đản trong sân nhìn thấy tôi, nó kêu lên:
– Bố ơi,
anh Tâm về.
Người vội
chạy ra ôm tôi bế vào nhà và đặt lên giường. Cả người tôi dộp lên vết muỗi cắn
như bệnh sởi. Vết thừng trói ở cánh tay tím bầm lại.
Người lặng
lẽ dùng dầu xoa bóp cho tôi. Từng giọt lệ ấm tình thương của người rơi xuống cơ
thể tôi làm tôi rùng mình hoảng sợ. Tôi đã đọc được người. Phải chăng trái tim
người đang bão tố và sẽ bão tố suốt những ngày còn lại của cuộc đời? Người đang
hối hận đã bỏ lỡ cơ hội ra đi vì chữ hiếu để cái mỹ từ thiêng liêng ấy cũng dở
dang vì bọn khát máu không cho phép người làm trọn vẹn. Người đang đau xót,
thương đàn con dại – những đứa con côi cút của người sẽ sống ra sao trong sự
vùi dập, đoạ đầy của xã hội?
Đêm ấy,
trận bão mạnh ập đến bất ngờ, không kịp phòng chống, cái bếp nhà tôi bị đổ lấp
mất ngõ đi. Đến sáng, Vương Viễn đứng ở ngoài cổng quát:
– Tên Căn
đâu rồi? Mượn gió bão, mày kéo đổ bếp phá hoại đấy phải không?
– Đời thuở
nào lại kéo đổ nhà mình? – Bố tôi từ trong nhà nói vọng ra.
– Mày muốn
phi tang sai con chống phá cải cách ở bức tường kia.
– Các ông
muốn buộc cho tôi bao nhiêu tội mà chẳng được.
– Láo xược,
mày xưng tôi với ông bà nông dân à? Thấy Lê Thăng đến Viễn phân bua:
– Anh đội
xem, tên Căn kéo đổ tường để phi tang chống phá.
– Đồng
chí cứ yên tâm. Tội của ai là tiếng nói của đội, tiếng nói của bà con nông dân,
cần gì tang chứng. Nó chống phá chỉ tăng thêm cực hình trước khi tắt thở mà
thôi.
Lê Thăng
nói xong cùng đi với Viễn.
Xế chiều
ngày 16 – 5 âm lịch, bố tôi đang xây lại bức tường đổ bằng ao bùn thì Lê Thăng,
Vương Viễn và hàng chục du kích, cốt cán đến nhà. Lê Thăng không cho bố tôi rửa
chân tay, hắn đọc lệnh bắt giam, đọc xong, Vương Viễn cầm cái thừng đay mới, hắn
xô lại bẻ hai cánh tay bố tôi ra sau lưng và dùng hết sức trói chặt người đến nỗi
người không ngồi được, ngã vật ngửa ra. Lê Thăng bảo Viễn:
– Còn giải
nó đi, đồng chí nới ra một chút.
Sau đó,
Viễn cùng một tên nữa đưa bố tôi đi. Trời nóng và nắng như đổ lửa, chị Hoa đang
ngồi khóc vội lấy cái nón đội lên đầu bố. Viễn giằng nón vất đi, nhưng quai nón
mắc vào cổ người, hắn giật mạnh làm quai nón đứt và bố tôi lảo đảo ngã xuống
sân. Bị trói chặt, người không dậy được. Viễn đá liên tiếp vào sườn bố tôi và
quát:
– Mày muốn
chết ngay thì cứ ăn vạ.
– Đồng
chí Viễn – Lê Thăng bảo – ai cho nó chết ngay, chết đơn giản thế! Trước khi kết
liễu kẻ thù, phải cho nó chịu nhiều cực hình chứ!
Chị Hoa
khóc, van xin hắn và nâng người dậy để chúng giải đi. Tôi không biết dùng từ
nào để diễn tả sự hung bạo của thằng Viễn trong lúc đó. Đau lòng và căm giận,
tôi đành bất lực đứng nhìn hành động tàn bạo của bầy lang sói. Tôi không khóc,
cứ đứng trơ trơ như khúc gỗ. Nói đúng ra vì uất ức quá tôi không thể nào khóc
được. Tâm hồn tôi mê mẩn như mình đang trong địa ngục chứng kiến hành động của
lũ quỷ Diêm vương.
Lê Thăng
ra lệnh cho bọn còn lại lục soát nhặt nhạnh đồ dùng, quần áo và thóc gạo dồn cả
vào buồng khoá lại, niêm phong. Tài sản nhà tôi có gì quý đâu, vừa mới thu hoạch
được gần một tấn thóc và đôi hoa tai của chị dâu tôi đang đeo, chúng bắt tháo
ra.
Chiều hôm
ấy, cả nhà không một ai nghĩ đến bữa ăn mà gạo cũng chẳng còn. Đến đêm thằng
Vinh con anh Quang cứ khóc hoài. Nó chưa biết ăn, chị dâu tôi nhịn nên không có
sữa. Bố tôi đã vậy, một nguy cơ nữa đang đến với gia đình, chúng thu hết thóc gạo,
vay mượn ai trong lúc này, chờ chết đói chăng? Chị Hoa bàn với anh Quang:
– Đàng
nào cũng chết, lối thoát duy nhất là liều thôi anh ạ. Em định đào ngạch vào lấy
thóc. Anh Quang nhát gan quá, mặt tái lại, giọng run run:
– Nếu bắt
được, chúng đánh chết ngay. Vả lại lấy thóc thì làm thế nào thành gạo. Nghe thấy
tiếng cối xay, chúng ập vào là hết đường chối cãi.
– Anh
nhát lắm, cho dù chết ngay còn đỡ cực hơn chết đói, cứ lấy thóc gạo giấu đi sẽ
liệu sau.
Nói rồi
chị Hoa hành động ngay. Chị bảo tôi ra ngõ gác, thấy bọn cốt cán đến thì giả vờ
học công thức toán để báo động. Lần đầu chị không dám lấy nhiều, một thúng đầy
thôi rồi chữa lại hàng gạch ngạch nguyên như cũ.
Tôi có
người thím họ chẳng những giàu lòng nhân ái mà còn dũng cảm. Chờ thời cơ bọn cốt
cán sơ hở thím đội thóc do chị Hoa lấy trộm về nhà làm thành gạo, còn mang gạo
về nhà tôi, thím bàn:
– Hiện
nay vườn khoai lang nhà thím lá tốt lắm, cháu cứ vào hái, nếu bọn cốt cán hỏi,
cháu nói là lấy trộm. Lấy rá đựng rau khoai, bên dưới rá để gạo mang v
ề dần. Nhưng chẳng may chúng khám thấy thì nói năng thế nào, thím chưa nghĩ ra?
– Thím cứ
yên tâm, nếu chúng khám thấy gạo, cháu sẽ nhận là lấy trộm của thím để ngoài
sân. Chúng có tra khảo, đánh đập cháu cố chịu đựng.
Thật may
mắn, chị Hoa lấy trộm thóc nhiều lần và nhờ thím họ làm thành gạo để tôi mang về
theo cách trên đều suôn sẻ. Nhờ vậy, gia đình tôi mới sống được gần hai tháng.
Tất nhiên không được ăn no và ăn độn thêm rau khoai.
Chỉ có một
lần, tôi đang gác để chị Hoa lấy thóc thì Vương viễn xồng xộc vào nhà. Tôi vội
đọc công thức toán nhưng sợ chị Hoa chưa kịp ra, lập tức tôi hỏi hắn:
– Anh Viễn
đi đâu đấy?
Hắn quay
lại tát tôi hoa cả mắt và quát:
– Láo xược,
ai bảo mày dám gọi tao là anh?
– Xin lỗi
ông Viễn – tôi vội kêu lên.
– Nếu còn
láo xược nữa, ông sẽ vả gẫy răng mày.
Viễn quát
tiếp và trợn mắt nhìn tôi. Tôi đã kềm chân hắn được vài phút để chị Hoa có đủ
thời gian chui ra khỏi buồng và chữa lại hàng gạch ngạch thì Viễn mới vào đến
nơi.
* *
*
Bắt bố
tôi đi sau một tháng thì chúng đưa về đầu tố ở chợ Nụ. Ai cũng tưởng chúng bắn
người ngay hôm ấy nhưng định mệnh đã kéo dài cuộc sống của bố tôi thêm một tuần
trăng nữa. Nhờ vậy mà tôi tìm thấy chỗ người bị giam, một gian nhà khoảng sáu
mét vuông, tường đất thấp lè tè, lợp rạ. Bố tôi đang nằm trên mảnh vải đi mưa
trải xuống nền đất, chân phải bị cùm bằng gỗ. Tên du kích gác còn trẻ không đến
nỗi bất nhân. Thấy tôi đến, hắn gọi :
– Căn,
con mày đến.
Tôi nhìn
vào buồng giam nâng bố tôi dậy và ôm lấy người. Nhìn người tiều tuỵ, héo hon
như một nắm xương tàn, tôi khóc nức nở. Thấy tôi còn nhỏ, tên du kích coi thường,
hắn lảng ra ngoài tạo cơ hội cho hai bố con được nói chuyện tự do.
– Bố ơi,
người ta buộc cho bố nhiều tội không?
– Nhiều
con ạ! Trong đó có hai tội mà con biết. Thứ nhất, cách đây khoảng ba tháng, việc
con Mùi sang vay gạo, nó vu cho bố không cho nó vay còn hiếp nó. Thứ hai, xui
con chống phá cải cách. Nói chung, mọi việc bố làm ơn nay thành ra oán, cứu sống
người nay thành tội giết người.
Nhìn lên
mặt bố, tôi thấy một vết thương dài khoảng ba phân trên trán và một vết thương
khác tương tự ở yết hầu, áo người loang lổ đầy vết máu. Tôi sửng sốt hỏi:
– Bố ơi,
tại sao có hai vết thương này?
– Vết
thương trên trán là do thằng Tèo gấu, sau khi vu oan, nó nắm tóc bố dập xuống
đâm vào cọc vành móng ngựa.
– Tèo gấu
nó tố bố những gì?
– Con hỏi
nó làm gì? Nó giống như loài thú dữ được cộng thêm trí khôn của loài người và
được kích thích thêm thú tính của thời đại nên mới trở thành một sinh vật độc
ác, nguy hiểm nhất.
Ngừng vài
giây, bố tôi nói tiếp:
– Còn vết
thương thứ hai do bố tự gây ra.
– Tại sao
bố lại làm như vậy?
– Các ông
Chánh Tòng, Chánh Quy, bác Lý Tôn đều bị bắn cả rồi. Biết chắc bọn khát máu
cũng không tha nên bố lấy thanh nứa nhọn đâm vào cổ nhưng tay bị trói đau như
tê liệt, đâm chẳng thấu thành ra chưa chết được. Sau đó lại có hy vọng trước
khi chết may ra được gặp các con.
Nghe người
nói, tôi gục đầu xuống khóc. Bố tôi đã biết rõ số phận của mình.
– Thôi
con ạ, khóc làm gì nữa? Bố chỉ ân hận chưa báo hiều ông trọn vẹn, chết bỏ lại
hai con dại, rồi đây các con sẽ ra sao? Không biết họ giết bố lúc nào nên bố muốn
gặp anh Quang, chị Hoa để dặn lại đôi điều. Cả em Đản và cháu Vinh bố cũng hy vọng
được gặp mặt lần cuối.
Chợt nhớ
ra, bố tôi hỏi:
– À, hiện
nay ở nhà thế nào?
Tôi
thoáng nghĩ, trong thảm trạng này không thể nói thật cho người biết hết nên trả
lời:
– Vẫn
bình thường bố ạ.
– Thế thì
bố yên tâm. Hôm nay là cơ hội bố nói chuyện với con, lẽ ra phải nói từ lâu
nhưng con còn non dại quá. Thôi thì bố đã biết nhưng không lường được nó lại khủng
khiếp điên loạn đến nỗi này. Bố tưởng rằng trong quá khứ, bố chỉ làm điều nhân
đức, sau cách mạng sẽ được sống bình an phụng dưỡng ông và nuôi dạy các con, bố
đã làm đầy đủ mọi nghĩa vụ công dân với chế độ mới. Hơn nữa trong chiến tranh,
gia đình ta có ba người bỏ mạng. Điều đau thương ấy bố cũng cho rằng là cái giá
để đổi lấy sự bình an cho bố và gia đình sau ngày hoà bình lập lại. Cách đây ba
năm, nghe ông Vũ quý Mão và bác giáo Tôn, bố có ý định ra đi nhưng ông con còn
sống, sợ tội bất hiếu nên cơ hội cũng bỏ qua để đến nay bố phạm thêm một tội lỗi
nữa: chết đi bỏ lại đàn con dại trong miệng hùm, nọc rắn. Và cũng đến nay mới
rõ, cái chết thảm thương của mẹ con, anh Thao và em Dũng đã kéo dài cuộc sống của
bố thêm năm năm nữa.
Một hội
có sáu mươi năm, nay mới được mười năm theo như lời sấm trạng mọi sự đều đảo lộn.
Các con phải sống gần hết cuộc đời trong chế độ này nếu tuổi thọ được dài. Một
chế độ chỉ khuyến khích làm điều ác trọng dụng những kẻ vừa ngu vừa ác, những kẻ
tán tận lương tâm đua nhau làm điều ác: Vu khống được nhiều, bịa đặt được nhiều,
ngậm máu phun người thì trở thành những kẻ có công với dân, với nước. Ngược lại,
nhnữg người có đức, có tài bị tàn sát hoặc bị đầy đoạ, dập vùi.
Bố không
cho rằng lễ giáo phong kiến là hoàn hảo, trải qua hàng nghìn năm lịch sử phải
có nhiều điều lạc hậu. Và cũng không nghĩ chế độ phong kiến là tốt đẹp, nó vẫn
tồn tại những điều bất công, vô lý. Các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, bản
tuyên ngôn nhân quyền nổi tiếng của Thomas Jefferson hay các cuộc cách mạng của
Tôn trung Sơn, Nguyễn thái Học… đã chứng minh điều đó. Nhưng lễ giáo phong kiến
không dạy con người bất nhân, bất hiếu, bất nghĩa, vu oan giá hoạ, gắp lửa bỏ
tay người. Sư uống rượu, ăn thịt chó hay hủ hoá là thói xấu của ông sư hổ mang
đó chứ không có trong kinh nhà Phật. Ông quan huyện ăn hối lộ, hà hiếp dân lành
là tính bất nhân của con người đó chứ không phải lễ giáo Khổng mạnh dạy. Sau
ngày đảo chính, lễ giáo Khổng mạnh là kẻ thù của họ. Họ tìm mọi cách để thủ
tiêu và tuyên truyền cái gọi là đạo đức cách mạng, thứ đạo đức loạn luân“ông
con – thằng bố, bà vợ – thằng chồng”kèm theo những điều vu khống, có lẽ còn ghê
tởm hơn thời đại Tần thuỷ hoàng và Néron thuở trước.
Ngừng một
lát, người nói tiếp:
– Đây mới
là thời kỳ đầu của chế độ này, con phải cố g
ắng mà suy ngẫm, con sẽ thấy tội ác chất cao như núi của thời đại. Cái khó là
dù cơ cực đến mấy con cũng không thể bỏ rơi nhân phẩm trên những chặng đường đời
đầy tủi nhục. Tuy nhiên phải hết sức nhẫn nhục, đừng tạo ra một cớ nhỏ nào để
loài thú dữ hại mình…
Tên du
kích về vị trí gác, nó đuổi tôi. Bố tôi dặn với theo:
– Con nhớ
nhé!
– Vâng!
Con sẽ nhớ mãi.
Anh Quang
không dám đến gặp bố vì sợ bọn cốt cán hành. So với các em, anh may mắn nhất,
đã trưởng thành, đã có vợ con. Đám cưới anh năm 1944 linh đình lắm, cỗ bàn suốt
ba ngày, có cả tri phủ đến dự. Gần ba mươi tuổi, anh chưa đền đáp được một chút
công ơn bố mẹ. Nay là cơ hội cuối cùng vì sự hèn nhát anh đã trốn tránh lòng ước
mong của bố. Riêng chị Hoa trong giai đoạn đó, chị là đứa con hiếu thảo tuyệt vời.
Không sợ nguy hiểm, chị lẩn tránh đi các nơi xa vay mượn tiền sắm cho bố những
bữa ăn ngon và thường xuyên đến thăm người. Có lần chị Hoa bế cháu Vinh đi
cùng, đưa ông bế cháu. Thấy lạ mặt, cháu cào vết thương trên trán ông, máu xối
xả chảy ra. Cháu mới mười tháng tuổi biết gì đâu! Mặc cho máu chảy đầy mặt, ông
vẫn âu yếm cháu và bảo:
– Ngày
sau cháu đừng quên ngày giỗ ông đấy nhé!
* *
*
Sáng ngày
17 –7 âm lịch, bầu trời mây đen bao phủ ảm đạm, cả nhà không ai nói với ai một
lời nào nhưng đều linh cảm thấy một sự kiện kinh hoàng sắp đến. Chị Hoa mang
cơm cho bố về, nước mắt còn đọng trên gò má, chị nói:
– Con Mùi
khốn nạn quá, nó không cho chị vào gặp bố và giằng gói cơm trên tay chị, đứng
xa ném vào chỗ bố. Bố nước mắt dòng dòng nhìn chị. Hình như hôm nay bố biết sẽ
chết… nên dặn: – Từ ngày mai, các con không phải đem cơm cho bố nữa.
Con Mùi lấy
báng súng gạt đuổi chị về…Chị Hoa đang nói thì Lê Thăng, Vương Viễn và mấy tên
du kích đến. Chúng ra lệnh cho anh chị em tôi sang một nhà hàng xóm và giam
chân ở đó.
Đến chiều,
nghe tiếng hò reo xen lẫn tiếng trống ếch từ chợ Nụ vọng về, anh chị em tôi ngồi
mỗi người một chỗ trên sân lặng lẽ khóc thầm. Một tên du kích con lão thổi kèn
đám ma bảo chị Hoa về nhà lấy chiếc quần dài của bố tôi đưa cho hắn, có lẽ
chúng dùng để bịt mắt người. Rồi Lê Thăng đến, hắn nói:
– Chúng
mày nghe đội tuyên bố. Tên Căn có tội nợ máu, hôm nay y phải đền tội. Tên Quang
ký vào giấy trả tiền mua quan tài cho bố mày.
Anh Quang
run rẩy vội cầm bút ký ngay. Anh chị em tôi gào khóc. Chị Hoa như điên vừa khóc
vừa vật vã thảm thiết. Khi ấy, ở ngoài pháp trường vang lên từng loạt đạn đều đều,
chậm chạp bốn năm phát một. Tôi thoáng nghĩ, chúng hành hình bố tôi theo cách của
Vương Viễn chăng?
Tôi mê mẩn,
bỗng thấy sầm tối lại, lảo đảo rồi ngã xuống sân. Hình như chúng bắn bố tôi
ngay trước mặt:
– Thằng
thứ nhất chạy lên bắn, chân phải bố tôi co lên giãy giụa.
– Thằng
thứ hai… chân trái người cũng vậy.
– Thằng
thứ ba, thằng thứ tư… hai cánh tay người vẫn không động đậy, có lẽ chúng trói
chặt quá nên không phản ứng được.
– Thằng
thứ năm… Máu ở bụng và ngực bố tôi phun ra như vòi nước tưới rau.
– Thằng
thứ sáu… Đầu người gục xuống. Bỗng tôi hét lên:
– Quân
khát máu, bọn giết người man rợ.
Rất may
lúc đó, chỉ có người nhà hàng xóm tốt bụng, không có một tên mặt người dạ thú
nào.
Nhà cửa
tài sản chúng đã tịch thu hết, anh chị em tôi biết đi đâu? Chúng tôi liều đến
nhà bác ruột. Bác gái ác quá, đứng ngay cổng không cho các cháu vào sân, bác
nói:
– Đi, đi
ngay nhà tao không chứa được. Sau này, trước khi ốm chết bác bị thong manh đến
hàng năm, ăn ở bất nhân có lẽ bị trời trừng phạt.
Cũng
trong khi đó, bà thím họ gọi chúng tôi :
– Các
cháu ơi, vào nhà thím!
Lời nói
ân tình ấm áp làm sao! Tôi khóc oà lên vì cảm động. Tôi không ngờ trong cái xã
hội tàn bạo và ghê tởm này lại có người nhân hậu thế? Phải chăng thím họ tôi là
hiện thân của đấng cứu nhân, độ thế? Nếu không có thím gia đình tôi đã chết đói
rồi. Cả chú họ tôi cũng có đức tính giống vợ về lòng nhân ái và lòng dũng cảm.
Một cặp vợ chồng hoà thuận, nhân hậu hiếm có trên cõi đời này. Chú thím nhường
nhà ở, bát cơm sẻ nửa cho các cháu trong cơn hoạn nạn.
Thời gian
sau, chú thím cho mượn đất vườn, chặt tre ở bụi cho các cháu làm nhà ở. Biết
chuyện, Lê Thăng đến hỏi:
– Ông
giúp đỡ con cái địa chủ à?
– Vâng! –
Chú họ tôi trả lời – Tôi thấy chúng nó côi cút, khổ nên thương.
– Ông có
biết tình thương ấy là phạm tội với đảng
– Nhưng
chúng nó là cháu, cùng một dòng máu không thể làm ngơ được.
– Ông với
chúng nó còn xa lắm, nếu có lập trường cách mạng thì con cũng phải vạch tội ác
của bố nữa là. Từ nay đội cấm ông giúp chúng nếu không chấm dứt chớ trách đội đấy
nhé!
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 5
HỒI MỘT –
Quê hương
III. Những
năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục.
Anh chị
em tôi chia thành hai gia đình nhỏ: Đản ăn với gia đình anh Quang, còn tôi ăn với
chị Hoa. Tôi không muốn thế nhưng còn nhỏ nên chỉ biết ngoan ngoãn phục tùng. Một
gia đình trong lúc đau thương cơ cực mà chia đôi như vậy chỉ làm tăng thêm nỗi
thảm sầu. Bởi lẽ vợ chồng anh Quang với chị Hoa vốn dĩ đã không hoà thuận, anh
Quang tính tình lông bông vô trách nhiệm, còn chị Hoa ích kỷ, hẹp hòi, cố chấp.
Gần đây anh Quang lại biểu hiện một người hèn nhát. Cái mâu thuẫn ấy không thể
nào hàn gắn. Cả nhà tôi vay vốn làm hàng xáo để kiếm ăn qua ngày. Tôi và Đản bắt
đầu lao động: xay thóc, giã gạo, ra đồng mò cua, bắt ốc. Bữa ăn hàng ngày là
cháo ốc hoặc khoai lang luộc, riêng mấy ngày tết được ăn cơm.
Mãi đến đầu
năm 1956, trường mới khai giảng học kỳ hai. Có lẽ vì cải cách nên trường đóng cửa
lâu. Quả thật tôi không còn nghĩ đến việc học hành. Bố mẹ không còn, ở với chị,
lao động kiếm ăn lần hồi từng bữa thì còn học hành gì nữa?
Nhưng chị
Hoa bàn với anh Quang:
– Em phải
cho Tâm tiếp tục đến trường, còn Đản anh cố gắng được không?
– Cô
thông cảm, tôi còn cháu Vinh nên không thể. Vả lại có học cũng chẳng ích gì,
– Anh chị
ạ, hãy cho Đản đến trường, còn em không học nữa – Tôi đề nghị.
Chị Hoa
có vẻ bực mình nói:
– Bố mẹ
không còn, chị nuôi em, cho em đi học. Còn Đản, anh Quang chịu trách nhiệm. Khổ
nỗi, Đản hiền lành quá, trong thời buổi này có đi học đứa khác nó trêu trọc, nó
đánh cho phải chịu.
Thế là cuộc
cải cách bước vào giai đoạn quyết liệt hơn thì tôi lại đến trường. Trường cấp
hai của huyện năm ấy xã Thượng hiền, phân tán nhiều nơi. Đường tôi đi học dài
khoảng sáu cây số, là một con đê giữa cánh đồng lúa và con sông nhỏ.
Tôi còn
nhớ như in trong óc ngày khai giảng học kỳ hai. Sau chín tháng gặp lại, các bạn
tay bắt mặt mừng, họ nói chuyện với nhau nhiều về cải cách, những cuộc đấu tố,
hành hình đầu tiên trong từng xã. Riêng tôi, các bạn không dám đến gần, họ nhìn
tôi với cặp mắt lạnh lùng, xa cách như người ở phương nào đến. Tủi thân quá,
tôi thầm nhủ: các bạn ơi, tôi cũng là người bằng xương, bằng thịt cùng máu đỏ
da vàng, cùng con Hồng, cháu Lạc như các bạn, vì lẽ gì các bạn phải tránh xa
tôi? Phải chăng ngọn lửa căm thù của đội đã thiêu đi tất cả nhân tình, trong đó
có cả tình bạn học cũng thành tro bụi rồi sao?
Vào lớp học,
thày Thông dạy văn – thày chủ nhiệm điểm đến tên tôi, thày giương mắt nhìn, nói
vẻ đay nghiến:
– Em cũng
đi học nữa à? Tôi cứ tưởng…Việc học của em phải chờ ý kiến của ban giám hiệu.
Bây giờ em hãy về, ngày mai đến nghe quyết định.
Tôi lặng
lẽ bước ra khỏi lớp, không biết cũng không muốn chào ai. Ném theo tôi hàng chục
ánh mắt man dại trong bầu không gian im lìm ngột ngạt đến ghê người. Tôi lủi thủi
về nhà, tâm trí lại chìm đắm trong đau thương, tủi nhục.
Sáng hôm
sau, tôi lại đến trường, thày chủ nhiệm bảo:
– Ban
giám hiệu đồng ý cho em học nhưng quyết định cuối cùng là đội cải cách ở xã em.
Tôi tiếc rằng, cơ hội duy nhất để cách mạng giải thoát cho em, em đã bỏ qua. Đó
là vạch mặt tội ác của tên Căn trước giai cấp nông dân.
Nghe thày
nói, tôi rùng mình như lên cơn sốt rét, gai ốc nổi lên khắp cơ thể. Tôi đã có tội
với bố tôi khi phải nghe những lời vô đạo lý này. Mắt tôi mờ đi như nhìn vào
bóng tối. Trước mắt tôi không phải thày giáo nữa mà là kẻ mặt người dạ thú. Ghê
tởm chưa? Lời thày thể hiện thứ đạo đức hoàn toàn ngược lại với nền văn hiến của
dân tộc và có lẽ chưa từng có trong lịch sử loài người. Phải chăng, đó là thứ đạo
đức đảo lộn tất cả mà thày là một kỹ sư tâm hồn, dựa vào bản thiết kế của chế độ
để chế tạo ra những sản phẩm loạn luân? Lúc đó, hình như tiếng nói của bố tôi
văng vẳng bên tai:“… Phải hết sức nhẫn nhục, đừng tạo ra bất cứ cớ nhỏ nào để
loài thú dữ hại mình”, tôi đành ngậm ngùi nuốt giận. Định về ngay nhưng tôi
thoáng nghĩ, không còn cơ hội nào cho phép tôi đến trường lần nào nữa. Vả lại,
tôi không muốn là người thất học. Do vậy, tôi tự an ủi mình hãy nén chịu tất cả
để qua giai đoạn khủng khiếp này.
Cách mấy
ngày sau, tôi đi học vừa ra đến ngõ gặp thằng Vương Viễn, hắn hỏi tôi:
– Mày đi
đâu?
– Đi học
– Tôi trả lời trống không.
– Ai cho
phép, mày đi theo tao? – Nói xong, hắn lại đưa tôi xuống miếu, cho vào buồng
khoá lại. Hắn ra lệnh:
– Mày ở
đây chờ lệnh đội.
– Nếu phải
chờ lệnh đội thì cho về chứ tội gì mà phải giam? – Tôi phản ứng.
– Bà con
nông dân muốn giết mày cũng được nữa là – Nói xong hắn bỏ đi. Đến trưa, hắn đến
mở cửa cho tôi về và nói:
– Tên Căn
và gia đình mày bị xử lý rồi, nay đội tha cho mày đi học.
Sáng hôm
sau, tôi đến lớp, thày chủ nhiệm hằn học bảo:
– Nếu thấy
khó khăn không tiếp tục học được nữa thì nên thôi, em cố đấm ăn xôi chẳng được
lợi lộc gì.
Những năm
tháng đến trường của tôi sau này đầy dãy những gian nan. Buổi sáng đi học sớm,
quá trưa mới về đến nhà, ăn một bữa kham khổ: khoai luộc hoặc cháo rồi phải đi
làm ngay. Buổi tối dầu đèn chẳng có, học theo sách giáo khoa, tôi chẳng có tiền
mua, phải mượn bạn bè. Cũng may, quan hệ giữa tôi và bạn học dần được cải thiện.
Tôi mượn sách giáo khoa của bạn học, chủ yếu là các môn lịch sử, địa lý và sinh
vật. Vì không muốn làm phiền bạn nhiều lần, tôi học thuộc cả chương trình. Môn
lịch sử khi gấp sách lại tôi đọc trôi chảy từ trang đầu đến trang cuối, không
sai một chữ nào. Các môn vật lý, hoá học tôi chỉ nghe thày giảng rồi làm bài tập
không cần học lại ở nhà. Đặc biệt môn toán, tôi thấy quá dễ dàng, tôi có thể tự
đi qua chương trình các lớp trên trong một thời gian ngắn nhưng học nhanh, học
trước để làm gì khi cuộc đời hiện tại và tương lai vẫn chìm trong bóng tối? Giống
như chàng kỵ sĩ trên yên con tuấn mã đang thong thả bước theo đoàn người đi bộ,
anh ta mang theo trong tâm trí nỗi bơ vơ lạc lõng. Chàng kỵ sĩ muốn phi nước đại
để rút ngắn cuộc hành trình nhưng không có nơi hẹn ư
ớc và chờ đón.
Ngược lại,
môn tập làm văn đối với tôi là một nhục hình. Đang thời kỳ cải cách, trường nhiều
ngày đóng cửa để học sinh tham gia những phiên toà đấu tố, xét xử “địa chủ cường
hào gian ác”. Chắc chắn mỗi học sinh sẽ khắc sâu trong ký ức những hình ảnh về
tội ác và những hành động phi đạo lý của cái gọi là “toà án nhân dân đặc biệt”
và bọn cốt cán. Thày dạy văn có nhiều cảm hứng với những cuộc đấu tố trên, đầu
đề những bài luận văn của thày đều hướng vào cải cách.
Trong những
tiết dạy văn, thày hay đọc:
Nông dân
đã nói là làm,
Đã đi là đến, đã bàn là thông,
Đã quyết là quyết một lòng,
Đã phất là động, đã vùng là lên.
Một bài
luận văn có đầu đề:“Em hãy tường thuật lại buổi toà án nhân dân đặc biệt xử bọn
địa chủ cường hào gian ác”, trong hai giờ làm bài, tôi gục đầu xuống bàn, không
viết được một chữ nào. Đầu óc tôi quay cuồng và tưởng tượng buổi bọn khát máu
hành hình bố tôi chắc cũng giống như những cuộc đấu tố bắn giết những người vô
tội khác mà tôi đã thấy. Chẳng những thế, tôi còn được chứng kiến những cảnh tượng
loạn luân:
– Tên
Khuê! Mày có biết ông không? – Thưa ông! Con biết, con là bố của ông…
– Tên
Sang! Mày có biết bà không? – Thưa bà!… Con đã đẻ ra bà…
…
– Tên
Yên! Mày có biết bà không? – Thưa bà!… Con là chồng của bà…
Kết quả
bài luận văn đó tôi được điểm không, kèm theo những lời phỉ báng nặng nề, lẽ ra
không thể có ở cương vị một thày giáo:
– Em phải
biết rằng trường học hiện nay là của con em giai cấp nông dân và người lao động.
Em được ở đây là một đặc ân của đảng, là sự dung thứ của cách mạng. Em muốn trả
lời cho đặc ân và sự dung thứ ấy là bài luận văn tường thuật sự trừng phạt đối
với kẻ thù của giai cấp để giấy trắng phải không? Bánh xe của thời đại đã nghiến
nát những vật cản đường và tiếp tục đè bẹp những kẻ không chịu tuân theo.
Bài luận
văn này, Phan Lung được điểm cao nhất lóp và được đọc cho cả lớp nghe để học tập.
Có đoạn Phan Lung viết:“…Trong đám khổ chủ, một phụ nữ ngoài hai mươi tuổi, eo
người cân đối, da trắng, khuôn mặt nguyệt, mũi dọc dừa. Và đặc biệt là cặp mắt
long lanh như bốc lửa căm thù.
Người đẹp
đứng phắt dậy, bước những bước thật kiêu hùng, cách kẻ thù khoảng một mét, người
đẹp dừng lại, cánh tay phải vung mạnh về phía trước, bàn tay khép kín ngón duỗi
thẳng như thanh mã tấu hướng đâm vào mặt kẻ thù. Cô dõng dạc quát:
– Tên
Sang! Mày có biết bà không?
Kẻ phạm tội
run lên cầm cập, mồm ú ớ mãi mới nói thành lời:
– Thưa
bà! Bà tên là Hạnh, con đã đẻ ra bà.
– Hôm
nay, trước toà án nhân dân đặc biệt và quần chúng nông dân lao động, bà vạch trần
tội ác của mày. Mày hiếp bà bao nhiêu lần mày còn nhớ không? Mày đã cưỡng dâm
nhiều phụ nữ nông dân, mày sai bà đến bốt Vũ lăng báo giặc bắt, giết hại cán bộ
cách mạng, mày bóc lột, áp bức người nghèo…
Tiếng hô
khẩu hiệu lại vang lên như sấm:
– Đả đảo
bọn địa chủ cường hào gian ác!
Đả đảo, đả
đảo, đả đảo!
– Kiên
quyết đánh đổ tên Sang…!
Kiên quyết…!
Khi từng
loạt đạn nổ kết liễu đời kẻ thù giai cấp, tiếng hò reo của Hạnh hoà nhập với
làn sóng âm thanh reo vui của biển người. Với lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo
của đảng và bác Hồ kính mến, với ý thức giác ngộ giai cấp, Hạnh đã đặt quyền lợi
và tình thương yêu của giai cấp cần lao lên trên hết. Cô co chân đạp đổ cái gọi
là tình phụ tử của lễ giáo phong kiến cổ hủ để tự giải phóng mình ra khỏi ảnh
hưởng của tầng lớp áp bức bóc lột…”
Phan Lung
đã viết đúng sự thật về cảnh tượng con tố bố bằng những lời bịa đặt do sức ép của
đội, nhưng bạn ấy có hiểu rằng, đây là một bằng chứng của sự loạn luân không?
Trên đường
đi học, tôi cũng trải qua nhiều nỗi gian nan. Những ngày mưa phùn, gió bấc, cái
rét thấu xương với quần áo vải che thân. Ăn lại đói, cháo hoặc khoai thay cơm.
Trong cảnh ngộ đó mới thấm thía thế nào là hai chữ “cơ hàn”, chúng gắn bó với
nhau như cặp tình nhân chung thuỷ, cùng hiệp sức tàn phá thể xác những người khốn
khổ! Chẳng những thế, đường đi đến trường toàn là đất thịt, gặp cơn mưa phùn đường
lầy lội trơn như đổ mỡ, có đoạn loãng ra như cháo: tôi và nhiều bạn học thay
nhau ngã. Có lần tôi bị nhào xuống sông, rét tím người lại phải lê bước quay về
nhà, nghỉ học.
Cuối năm
học, có một kỳ thi sát hạch, cũng may bài thi văn không liên quan gì đến cải
cách nên tôi được điểm trung bình các môn cao nhất khối. Phát phần thưởng và giấy
khen cho tôi là thày hiệu trưởng Đỗ Đoàn, người đã nhận và đuổi tôi học dự
thính cách đó bốn năm. Có lẽ còn nhớ nên thày nói:
– Em học
giỏi nhưng đời chẳng gặp may!
Giữa năm
1956, quê tôi chia lại ruộng, anh chị em tôi cũng được mấy sào. Nghỉ hè, tôi
cùng chị Hoa ra đồng làm ruộng. Ngoài ra, tôi đi cất vó tôm vừa ăn, vừa bán
dành dụm ít tiền để mua sách vở cho năm học mới và cải thiện bữa ăn cho đỡ khổ.
Niên học
1956 –1957, trường chuyển đến xã Phương công, nơi có thị trấn Cổ rồng, một
quãng đường dài mười bảy cây số. Tôi muốn tiếp tục học phải trọ nhà dân, việc
đó tính sao đây?
Mang tiếng
tôi ở với chị, ăn và học nhưng thực tế chỉ là chỗ dựa, tôi vừa làm để kiếm ăn
và vừa học. Nay trường xa không thể lao động được nữa nếu còn đi học, tôi xin ý
kiến chị Hoa:
– Thưa chị,
trường chuyển xuống Cổ rồng, các bạn em đều phải trọ học. Xa lắm em không thể
đi về được, chị có cho em học nữa không?
– Em cứ
theo các bạn mà tiếp tục. Sắp đến mùa rồi, chị dành thóc làm thành gạo để chủ
nhật em về lấy đi ăn.
Được chị
Hoa đồng ý, tôi sung sướng quá, chạy tung tăng đến các bạn học để khoe. Cuộc sống
của gia đình tôi lúc đó đã khá hơn xưa, ngày ăn hai bữa cơm chứ không ăn khoai
và cháo nữa.
Những
ngày tháng đi học trọ, thức ăn hằng ngày rất đạm bạc phần nhiều là nước mắm,
rau cũng chẳng mấy khi có.
Đến cuối
năm, một tin vừa vui, vừa buồn đến với tôi: Được một người bạn gái giúp đỡ, chị
Hoa có giấy thông hành mang họ tên người ấy, chị lên Hà nội tìm người chồng
chưa cưới. Đó là niềm vui chung của cả gia đình. Đành rằng chị ra đi tìm hạnh
phúc nhưng để lại cho tôi nỗi cô đơ
n, buồn tủi. Từ nay, chỗ dựa và cứu cánh của tôi không còn nữa. Nếu nghĩ rằng,
chị phải hy sinh hạnh phúc riêng vì đứa em côi cút là điều ích kỷ. Tuy nhiên
trong xã hội, do hậu quả của thời kỳ cải cách, nhiều người chị vì tình thương
em đã lãng quên hạnh phúc của đời mình. Nỗi buồn này, tôi trách ai? Nếu trách
tôi cũng có phần nào đúng, tôi thiếu nghị lực và lòng dũng cảm nhưng có ai cảm
thấy vui mừng hoặc bình thường trong các buổi chia ly? Chia ly là nỗi buồn muôn
thủa của con người. Tuy nhiên, lẽ sống vĩnh hằng ấy vẫn có những nghiệm số ngoại
lai trong hệ phương trình nhiều ẩn số. Đứa con trai cô tôi sang Liên xô học bảy
năm, ngày tiễn đưa nó lên đường là ngày vui nhất có một không hai. Có lẽ vì một
ngày mai tươi đẹp, hứa hẹn hạnh phúc tràn đầy đã dập tắt mọi nỗi buồn xa cách
và thua thiệt về tình cảm.
Vả lại, với
tuổi đời mười bốn bị phân biệt đối xử như kẻ thù trong một xã hội quá ư nghèo
khổ đã mấy ai sống nổi một cuộc đời độc lập?
Mùa xuân
1957, đám cưới chị tôi được tổ chức ở quê. Ngày cưới chị –ngày vui nhất đời của
một người thân – đối với tôi là một ngày ảm đạm. Vì từ nay với chân yếu tay mềm,
tôi phải tự mình lái con thuyền cuộc đời về tới bến trong giông tố hãi hùng của
biển cả. Gọi là đám cưới cho thêm phần thi vị, thực ra chỉ có hơn một chục người
của hai họ dẫn dâu trong lúc còn mờ mịt bóng đêm không hoa, không pháo nổ.
* *
*
Năm học lớp
sáu ở thị trấn Cổ rồng nhanh chóng trôi qua, tôi nghỉ hè và chuẩn bị bước vào
năm học mới. Hiện tại, tôi sống với anh Quang, một người vô tích sự, tuy có sức
khoẻ để lao động nhưng sống theo kiểu nước chảy, bèo trôi, hầu như không có trách
nhiệm với các em. Anh thường nói:“ai có phận thì lo”. Chị dâu tôi, một người
đàn bà yếu đuối, ăn tiêu hoang toàng không biết lo liệu.
Phương
ngôn có câu“thế gian được vợ hỏng chồng”nhưng vợ chồng anh tôi thì hỏng cả hai,
kinh tế lúc nào cũng lâm vào cảnh bần cùng. Đản mang tiếng được anh cưu mang, sự
thực em tôi thành người ở không công. Đản làm mọi việc nội trợ như xay thóc giã
gạo, thổi nấu…làm thay cả những việc của đàn bà như dần, sàng thóc gạo và cả việc
ngoài đồng. Thế mà em tôi vẫn ăn đói, mặc rét. Tuy nhiên phải kể đến một nguyên
nhân chủ yếu là anh chị tôi vẫn trong vòng uy hiếp, chèn ép của chính quyền và
bọn vô lại.
Tuy phải
sống với anh nhưng tôi vẫn tạo ra một cuộc sống riêng. Những ngày hè tôi đi kéo
vó tôm vừa ăn, vừa bán mới có tiền may quần áo, mua sách vở để tiếp tục học lớp
bảy nhưng học hết chương trình là một điều nan giải. Cũng may, niên học
1957–1958 trường chuyển về thị trấn Thanh nê, xã Tán thuật, quãng đường đi học
khoảng bảy cây số. Trường được xây dựng đơn sơ bằng tre nứa lá, có bàn ghế học.
Sáng đi học sớm đến quá trưa về nhà, ăn xong tôi phải làm đến tối.
Học được
vài tháng, kinh tế gia đình tôi sa sút quá, lo ăn từng bữa. Chị dâu tôi kêu ca,
phàn nàn nhiều, không muốn cho tôi đi học. Các bạn biết chuyện nói với thày chủ
nhiệm. Thày Chính dạy toán, dáng người cao, gầy nhìn bề ngoài ít có cảm tình
nhưng thày có một tấm lòng nhân ái. Thày nói với tôi:
– Thày biết
em khó khăn sắp phải bỏ học, thày sẽ giúp em học hết năm. Em làm đơn xin trường
cấp học bổng, có chứng nhận của chính quyền địa phương. Thày sẽ thuyết phục hội
đồng giáo viên và đề nghị ban giám hiệu.
– Thưa
thày – tôi nói – trước hết em cảm ơn thày nhưng chính quyền địa phương sẽ không
bao giờ chứng nhận cho em. Có lẽ thày cũng biết, nếu em bỏ học hoặc chết vì đói
rét là mong muốn của họ.
– Tâm ạ,
em cứ làm đơn không cần chứng nhận của địa phương để thày cố gắng xem sao?
Chiều
theo ý thày nhưng tôi cho là việc hão huyền, nếu có chăng chỉ là một tia hy vọng
mong manh. Tuần sau, thày báo cho biết, tôi được cấp học bổng hai phần ba. Thày
nói, nếu được chứng nhận của địa phương sẽ được toàn phần.
Tôi vui mừng
và cảm động quá không cản được dòng nước mắt vì không ngờ tia hy vọng mỏng manh
ấy lại trở thành hiện thực. Một miếng khi đói bằng một gói khi no, một số tiền
học bổng tương đương với năm mươi tư đồng sau khi đổi tiền năm 1958, nhờ có số
tiền nhỏ ấy mà tôi đã học hết chương trình lớp bảy. Tôi phỏng đoán, buổi xét cấp
học bổng cho tôi chắc thày phải đấu tranh gay gắt lắm vì mặc dù là các nhà giáo
trong thời buổi này họ cũng không dễ dàng gì nhất trí để làm điều thiện.
Tôi mạnh
dạn hỏi thày:
– Thưa
thày, em được học bổng có lẽ làm thày chịu nhiều vất vả?
– Đúng thế,
nhưng thày cho rằng, dù phải mất mát và hy sinh để giúp đỡ người trong lúc khó
khăn, hoạn nạn là một nghĩa vụ phải làm, nhất là đối với một nhà giáo.
– Thưa
thày, em nghĩ rằng, nếu mọi người có lòng nhân ái như thày, ngày mai đất nước sẽ
là một vườn hoa.
– Em nói
đúng. Xã hội muốn tiến lên, ngoài sự công bằng và công lý là nền tảng, phải tồn
tại cái cao hơn, quý hơn thế, Đó là tình thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
– Em đoán
rằng, nhiều thày phản đối việc cấp học bổng cho em?
– Tuy có
nhiều nhưng tiếng nói ủng hộ lòng nhân ái vẫn chiếm đa số. Một việc nhỏ nhưng
đáng nói là nó có một không hai ở toàn miền bắc. Em nghĩ xem, còn trường nào
dám cấp học bổng cho con một“địa chủ cường hào”?
– Thưa
thày, em luôn cảm thấy mình lẻ loi, lạc lõng trong xã hội nhưng trước hành động
đáng quý của thày, em cho rằng vẫn còn chỗ đứng của lòng nhân ái tuy vô cùng nhỏ
bé.
– Cách
đây năm sáu năm thày đọc một tờ báo có bài viết hai vợ chồng bác học Hoa kỳ tên
là Rosenberg bị kết án tử hình trên ghế điện về tội bán tài liệu nguyên tử cho
Liên xô. Hai đứa con của họ được tổng thống Truman nhận làm con nuôi. Liên tưởng
đến em, thày nghĩ rằng, bố em bị xử bắn sai hay đúng thày không cần biết, nhưng
em mới lớn lên thông minh, học giỏi, cuộc sống lại khó khăn, vất vả. Với một học
sinh như vậy, nếu nói theo phạm vi rộng, việc giúp đỡ em thành tài là nghĩa vụ
của toàn xã hội. Có làm như vậy, đất nước này mới thay đổi và phát triển. Điều
đáng buồn là nếu tấm gương như trên xuất hiện tương tự ở thời đại ta đang sống
sẽ bị quy thành một tội – mất lập trường giai cấp, thương xót con cái của kẻ
thù.
* *
*
Sang học
kỳ hai, tôi có một người bạn tri tâm
. Lê linh hơn tôi một tuổi, da trắng, dáng người thanh nhã. Năm học lớp bảy
Linh cùng lớp với tôi. Sau khi biết đời học sinh gian nan của tôi, Linh mới gần
gũi và thân thiện. Hai đứa cùng kém về văn – nhất là văn chương cách mạng. Có
bài luận văn đầu đề là em hãy bình giảng câu ca dao:
Nhiễu điều
phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Bài luận
văn này, tôi chỉ viết được lời giảng nghĩa, còn lời bình luận, tôi thấy hai câu
ca dao ấy so với xã hội đương thời hoàn toàn là một điều nghịch lý nên chẳng viết
được chữ nào.
Bài văn của
Linh, có đoạn anh viết:“…ôi, hai câu ca dao ấy thiêng liêng và cao quý biết
bao! Nhưng nó đã bị xã hội ngày nay hiếp dâm để sinh ra những quái thai: tội ác
và hận thù. Nếu nói người trong một nước thì phạm vi ấy còn mênh mông quá, hãy
xem người trong một làng,một xã “phải thương nhau cùng”được biểu hiện đến đâu?
Phải chăng là những cuộc đấu tố, hành hình, cướp giật người lương thiện. Còn
người trong một nhà thì con tố oan cho bố, vợ vu oan cho chồng. Thử hỏi những cảnh
tượng đó là biểu hiện tình thương của con người hay thú tính?
Kết quả
bài luận văn của tôi và Linh đều nhận được điểm một. Sau buổi học, Linh rủ tôi
ra cửa hàng trong thị trấn ăn bánh cuốn và cả buổi chiều hôm ấy, anh nói chuyện
với tôi.
– Tao
chán ngấy loại văn chương này. Bài nghị luận nào cũng phải nhét vào bài vài câu
sáo rỗng: Chủ nghĩa xã hội là mùa xuân của nhân loại. Nếu không thì chủ nghĩa Cộng
Sản là thiên đường…
– Tao có
cảm tưởng, rồi đây học sinh sẽ cạo đầu đi tu theo dòng đạo vô thần, hằng ngày đứng
trước tượng đài ông Marx, ông Lénine để đọc kinh: Chủ nghĩa xã hội là… Chủ
nghĩa Cộng sản là…vì lý tưởng cao đẹp…chúng tôi nguyện đem cuộc đời và hơi thở
để hiến dâng…Đứa nào cũng phải thuộc đoạn“kinh”của Atrôpsky:“Cái quý nhất của
con người là… Người ta chỉ sống có…”
Tao có ý
nghĩ, chủ nghĩa xã hội là mùa hè ở Việt nam, bọn mình biến thành một đàn cuốc
kêu quanh năm, không phải chỉ kêu ở luỹ tre làng mà khắp mọi nơi.
Linh nói
tiếp:
– Môn lịch
sử hiện đại, theo sách giáo khoa chúng ta học: Liên xô đóng vai trò quyết định
trong cuộc đại chiến lần thứ hai. Chiến tranh Triều tiên, Mỹ là kẻ gây chiến và
thất bại nhục nhã… Bố tao bảo bọn mình đã học kịch bản do các nhà sử học CS hư
cấu.
Tao không
muốn biến thành con cuốc kêu theo kịch bản nên hết lớp bảy, tao nghỉ học, làm
thợ may với bố tao.
– Linh ạ,
mình cũng phải nghỉ học để kiếm ăn thôi. Tại sao bài viết vừa rồi Linh dám viết
bạo thế?
– Tao biết
chọn mặt gởi vàng chứ. Thày Hùng phải cho tao điểm một nhưng thày có lương tâm
và thấu hiểu ruột gan của chế độ này. Khi trả bài, thày nói nhỏ với tao, em hãy
đốt đi đừng để cho người khác đọc.
Linh sôi
nổi tiếp lời:
– Mày biết
không, năm kia một ông cán bộ cấp cao về xã tao phát động phong trào hợp tác xã
nông nghiệp toàn tỉnh. Bởi vì xã Tán thuật có anh hùng quân đội Nguyễn thị
Chiên…
– Sách
báo viết về Nguyễn thị Chiên có đúng không?
Tôi hỏi
xen vào:
– Con
Chiên cùng xóm, tao còn lạ gì nó. Tao đọc tập truyện viết về nó, được mấy trang
thấy thối quá, toàn là bịa đặt, tao cho ngay vào bếp lửa.
– Nội
dung ông cán bộ cấp cao nói thế nào?
– Xã Tán
thuật có anh hùng quân đội Nguyễn thị Chiên – một vinh dự cực kỳ lớn, tôi thay
mặt đảng và chính phủ phát động phong trào hợp tác hoá nông nghiệp điển hình
cho toàn tỉnh Thái bình. Xưa kia, bà con nộp sưu thuế cho thực dân phong kiến
là bị chúng bóc lột. Ngày nay bà con đóng thuế cho nhà nước chẳng khác gì túi
trong bỏ ra túi ngoài, túi dưới bỏ lên túi trên. Dưới sự lãnh đạo của đảng, rồi
đây ta nuôi trâu bò kéo để làm nguồn thực phẩm. Có máy cày, máy bừa thay sức
kéo của trâu bò. Bà con nông dân sẽ cơ giới hoá trong sản xuất, điện khí hoá
nông thôn…
Cảm động
và sung sướng quá, đa số nông dân nghe đều sụt sùi khóc. Mấy ông bà già tuổi
ngoài bảy chục khóc nức nở như trẻ bị đòn, thương tiếc thân phận mình tuổi đã
nhiều không thể sống đến ngày quê hương có ánh điện thay đèn dầu, có máy móc
thay sức con người.
Ngược lại
cũng có người chỉ mỉm cười. Riêng bố tao cũng khóc.
– Tại sao
thân phụ Linh lại khóc?
– Bố tao
khóc vì thương xót dân mình nhẹ dạ, dễ bị lừa bịp quá. Nếu họ không có ý lừa
thì cũng là cái ngu, bệnh giáo điều của họ, lời nói chỉ là chuyện hoang đường.
Bố tao bảo, rồi đây xã Tán thuật sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa Cộng
sản. Lúc đó Tán thuật trở thành thiên đường và Nguyễn thị Chiên trở thành“đức
chúa”.
Người nói
thêm, đảng đang chế tạo chiếc đồng hồ và thay thượng đế bắt mặt trời tuân theo
cái đồng hồ đó.
Linh nói
thêm:
– Do khoa
học và kỹ thuật phát triển đưa con người đến chỗ làm ăn tập thể và không có điều
ngược lại. Bởi hàng triệu khối óc của người nông dân cộng lại cũng không thể
thay thế cho khối óc của một nhà bác học. Câu nói đoàn kết lại sức mạnh chỉ nên
áp dụng vào việc chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai…
Ngày thi
chuyển cấp, tôi và Linh không dự. Tôi đến trường lấy học bạ và giấy chứng nhận tốt
nghiệp của bốn năm học (một năm cấp một và ba năm cấp hai). Học bạ cấp hai của
tôi, thày chủ nhiệm nhận xét: học giỏi, thông minh, có năng khiếu đặc biệt về
môn toán hứa hẹn nhiều triển vọng. Cần cố gắng về văn chương cách mạng.
* *
*
Nhà Linh
gần trường, một ngôi nhà gỗ lim. Đồ dùng trong nhà gọn gàng, ngăn nắp. Linh dẫn
tôi về nhà, gặp bố Linh đang may quần áo, ông có dáng người tầm thước, khuôn mặt
thanh nhã như con, tuổi gần năm chục, mái tóc đã lốm đốm điểm sương.
Tôi lễ
phép chào, ông đứng dậy gọi tôi vào ngồi trên chiếc ghế băng. Linh giới thiệu:
– Đây là
Tâm, bạn học của con.
– À, thế
thì bác đã nghe Linh nói chuyện nhiều về cháu. Ngừng một lát, ông hỏi:
– Nay
cháu không không thi chuyển cấp à?
– Vâng,
thưa bác, cháu không đi học nữa.
– Cứ theo
cách giáo dục này không thành tài đâu cháu ạ.
– Thưa
bác, chúng cháu còn ngu dại lắm! Bác cho biết tại sao học cũng không thành tài?
– Bác
không dám khẳng định mà chỉ là một nhận xét thôi. Một hôm bác qua trường đảng ở
thị xã, thấy ông cán bộ tuyên huấn đang giảng bài. Do tính tò mò, bác đứn
g lại nghe trộm. Ông ta nói trên trời dưới biển, nào là phép biện chứng của
Marx, đấu tranh giai cấp, nền chuyên chính vô sản, nào là tính đảng và tính
nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc là quá độ của cách mạng vô sản…Nói một hồi
như vậy không hiểu sao lại nói nguyên tử có proton, electron, neutron…
Bác có ý
nghĩ rằng, Cộng sản tham lam đưa con người vào rừng khoa học rồi bỏ rơi ở đó.
Anh ta tưởng rằng, cái gì mình cũng biết, cũng hiểu, cũng hơn người nhưng kỳ thực
chẳng có kiến thức một cái sự vật gì đến nơi, đến chốn.
Nghề nghiệp
chẳng tinh, chuyên môn thì rỗng tuếch, chỉ nhớ một khối lượng từ khoa học và
chính trị suông. Đà này dẫn đến một giai đoạn loạn thày, ông cán bộ tuyên huấn
xã đứng trước dân không bỏ lỡ cơ hội răn dạy vài từ chính trị rẻ tiền nhưng lại
có mùi mè kinh điển nên ông ta tưởng mình là uyên bác. Bà cán bộ phụ nữ vừa
thoát khỏi lớp y tờ, đi học tập một vài tuần chính trị, bà cố nhớ mớ lý thuyết
trống rỗng ấy để loè quần chúng. Cứ thế, theo cấp bậc từ trên xuống dưới đều là
thày để răn dạy nhau. Còn lại, đám dân cùng đinh là lũ học trò cam chịu bề trên
dạy bảo. Người nào thấy sai mà phản đối bị quy vào tội chống đảng, kẻ thù của
giai cấp.
Bác không
phủ nhận trí tuệ của người Việt nam học ở các nước phương Tây, có rất nhiều người
thành đạt như Nguyễn mạnh Tường, Vũ như Canh, Lê văn Thiêm…chẳng hạn, nhưng ở
xã hội mình hiện nay học khó mà thành tài. Học lên cao, lấy được bằng đại học,
phó tiến sỹ hay tiến sỹ chăng nữa có thể số đông cũng chỉ là đám trí thức ngộ
chữ khua môi múa mép để vinh thân phì da, chẳng giúp được bao nhiêu cho sự nghiệp
phát triển khoa học, kỹ thuật của đất nước.“…Quýt Giang nam đem trồng Giang bắc
hoá chua. Đó là do thổ nghi…”
Phải nói
Cộng sản đã biến đất nước thành thổ nghi cằn cỗi, phát sinh nhiều sâu bọ, không
mấy hạt giống quý có thể nảy mầm và phát triển, nếu có chăng cũng chỉ thành
công trong muôn một.
Người dân
đang đói cơm, rách áo phải có chính sách thiết thực để họ có ăn, có mặc, chứ
không nên đưa con người lên chín tầng mây để tưởng tượng cái thiên đường của
nhân loại. Và xây dựng cái ước mơ huyễn hoặc ấy bằng sự hợp sức của người nông
dân vô học, hợp sức của con trâu, con bò cùng có cái cày, cái cuốc.
Ngừng vài
giây, ông tiếp:
– Cháu ạ,
về kinh tế của nước ta hiện tại rất đáng buồn, nhưng nếu có cơ chế chính trị và
kinh tế phù hợp với quy luật tiến hoá chỉ một vài chục năm là ổn định và phát
triển. Nguy hiểm nhất của thời đại này là vấn đề đạo đức. Sau khi nắm được
chính quyền, họ lần lượt san bằng hoặc thủ tiêu mọi nếp sống văn hoá của dân tộc.
Nếu họ thấy lễ giáo Khổng mạnh có điều nào lạc hậu, vi phạm đến quyền sống của
con người thì bỏ đi cũng là điều cần thiết, nhưng không được loại bỏ hoàn toàn,
phải giữ lại những nét tinh hoa như ngũ thường. Thí dụ, một nhân sinh quan được
thể hiện qua thơ của cụ Nguyễn Du:
Anh hùng
tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Những vần
thơ ấy sẽ sống mãi với thời gian và trở thành một chân lý tuyệt đối.
Sự thật
trên mảnh đất của đạo đức, sau khi san bằng tất cả, họ chỉ xây dựng một toà lâu
đài nguy nga, lộng lẫy với mỹ danh“lòng tin tuyệt đối vào đảng”. Còn lại họ trồng
toàn cỏ dại. Vườn cỏ dại quanh năm xanh tốt vì được vun xới bằng các chất tàn bạo,
lừa bịp, loạn luân, vu oan giá hoạ và được tưới tắm bằng máu và nước mắt của
con người. Toà lâu đài và vườn cỏ dại kia là nội dung cái gọi là “đạo đức cách
mạng”. Chính nó đã gây ra thảm hoạ hồi cải cách ruộng đất mà hậu quả còn kéo
dài nhiều thập kỷ. Sau này, toà lâu đài kia có sụp đổ và vườn cỏ dại kia có lụi
tàn, những hạt giống của lòng trung thực, lòng nhân ái… cũng không dễ dàng gì nẩy
mầm và phát triển trên mảnh đất tanh hôi ấy. Vì muốn phục hưng nền đạo đức của
dân tộc sau khi bị đập phá tan hoang có khi phải kéo dài hàng thế kỷ.
Chia tay
gia đình Linh, tôi ra đường ngắm lại mái trường lần cuối với bao kỷ niệm vừa
thân thương vừa tàn nhẫn và tủi nhục còn mãi mãi ghi sâu trong ký ức.
* *
*
Trên đường
tôi đi học, qua xã Đình phùng, nơi đây có một nữ sinh là Lê thanh Ngân. Cô cùng
học một lớp với tôi, những buổi đi học, về cùng trên một quãng đường dài bốn
cây số.
Ngân bằng
tuổi tôi, da trắng, khuôn mặt trái xoan duyên dáng. Không hiểu vì sao tôi cứ muốn
gần Ngân? Mỗi lần được nhìn em, tôi quên mọi nỗi đắng cay, trái tim tôi đập mạnh.
Phải chăng tôi đã yêu em – một tình yêu đơn phương, thầm lặng?
Thực ra
Ngân chỉ là một thôn nữ có nhan sắc trong một gia đình trung lưu ở vùng quê
nghèo khổ. Trong khi đó, thật tội nghiệp, tôi đang phải sống một kiếp người khốn
khổ: không bố mẹ, không nhà cửa, ăn đói, mặc rét, lại bị xã hội hắt
hủi hất
ra ngoài lề cuộc sống. Đành rằng, trong lịch sử loài người có biết bao cuộc
tình trớ trêu như vậy? Ngoài thiên tình sử đầy máu và nước mắt của nàng Lucia
và chàng lính hầu Patino trong thời bạo chúa Neron, Romeo và Julliete, còn hàng
triệu mối tình oan trái khác:
– Nàng
Eponine khốn khổ vì yêu thầm nhớ trộm đã lấy thân chắn đạn cho chàng nam tước
Marius để cái cái chết của nàng đổi lấy một cái hôn lạnh lùng trên trán.
– Anh học
trò nghèo Chi chịu cái chết thảm thương vì dám yêu cô Nga cành vàng lá ngọc…
Cuối năm
học, nhiều lần tôi đi bên em, cả hai đều im lặng. Từng cơn gió xuân ấm áp thổi
ào ào, mái tóc thề tung bay trước gió như vẫy chào những làn sóng màu xanh mênh
mông của biển lúa hai bên đường. Có khi em nhìn tôi với cặp mắt huyền ngời
sáng, môi em phảng phất nụ cười, khi đó lòng tôi khấp khởi reo vui. Có khi nét
nguyệt em chau lại, đôi môi em phai bớt vẻ hồng làm trái tim tôi tê buốt.
Năm học
qua thì ngày tôi đi bên em không còn nữa. Từ biệt mái trường phổ thông để bước
vào cuộc sống đơn chiếc, nhọc nhằn với một tương lai mù mịt đang chờ đón. Thế
mà tôi lãng quên tất cả, trong tim tôi rung lên một khúc nhạc tình ca.
Những buổi
sáng mùa hè tôi lang thang một chặng đường dài ba cây số đến chợ Nam huân, từ
đó nhìn em thấp thoáng trong sân qua hàng cây phượng hoa đỏ rực rỡ dưới ánh nắng
mặt trời. Có lần tôi gặp em trên đoạn đường vào chợ.
Thấy tôi,
em tươi cười hỏi:
– Anh Tâm
đi đâu đấy?
– Tôi hay
đến chợ này.
– Anh mua
sắm thứ gì?
– Tôi mua
sắm gì đâu, mà vì một điều khó nói.
Hình như
hiểu ý, em tủm tỉm cười và lảng sang chuyện khác:
– Kỳ thi
chuyển cấp anh có đỗ không?
– Vì hoàn
cảnh khó khăn, tôi phải nghỉ học rồi, thi làm gì nữa?
– Học giỏi
mà phải bỏ dở thì tiếc nhỉ?
– Tôi tiếc
lắm chứ nhưng biết sao.
– Còn
Ngân? – Tôi hỏi.
– Ngân
không làm được bài dựng hình nên trượt, có lẽ Ngân đi học trường dân lập ở thị
xã.
– Ngân ạ,
nếu việc học hành suôn sẻ, ba năm cấp ba và bốn hoặc năm năm đại học, lúc đó
cánh cửa của cuộc đời rộng mở, Ngân có quên những bạn học xưa không?
– Chắc chắn
Ngân còn nhớ mãi.
– Cặp mắt
xanh của tiểu thư sẽ để ai lọt vào?
– Có thể
một người ở phương nào đó nhưng mơ ước của Ngân vẫn là người trên mảnh đất quê
hương.
– Hình
như Ngân có ý nghĩ thất thường về tôi thì phải?
– Sao anh
biết?
– Tôi cảm
nhận qua nét mặt của tiểu thư trên đường đi học.
– Khi nào
nghĩ anh thông minh, học giỏi thì khi đó có một tình cảm trìu mến xen lẫn một
mơ ước về đối tượng, nhưng khi nghĩ đến anh là con địa chủ thì sờ sợ.
– Tôi có
hại ai đâu mà sợ?
– Ai chẳng
biết anh không làm gì xấu, do xã hội đặt anh vào một vị trí để mọi người phải
xa lánh, không dám quan hệ, thế thôi.
– Thế ra
xã hội muốn cướp đi của tôi quyền được quan hệ với mọi người và quyền được yêu
thương?
– Anh nói
đúng! Ngân hiểu rằng, anh muốn dành cho Ngân một trái tim trong trắng,
nhưng…xưa kia nhiều mối tình dang dở vì không môn đăng hộ đối, do lực cản của
gia đình. Ngày nay lực cản ấy là toàn xã hội, ảnh hưởng đến tương lai hạnh phúc
của cuộc đời nếu tình yêu không cùng giai cấp.
Ngừng nhiều
giây, vẻ mặt em buồn bã, giọng em nhỏ nhẹ, nghẹn ngào:
– Không
phải riêng Ngân, cả trường nhiều người khâm phục anh thông minh, đức độ nhưng
khâm phục để mà hoài niệm thế thôi. Điều anh mong muốn thì Ngân không dám và
không thể…
Đây là lần
cuối cùng tôi được gặp em. Quả thật tôi yêu em say đắm nhưng với cảnh khốn khổ
của mình, tôi biết nói gì hơn. Kết thúc một mối tình đơn phương cay đắng khắc
sâu trong tim tôi một vết thương lòng cùng bao năm nhớ tiếc và hờn tủi.
…
Lại một
năm nữa nặng nề, u ám trôi qua trong cuộc sống nhọc nhằn, lần hồi kiếm ăn từng
bữa cùng một chuỗi ngày kế tiếp nhau âm thầm, lặng lẽ trong nước mắt và tủi nhục.
Nhiều đêm tôi không ngủ được, ra ngoài sân nhìn khoảng không gian có đêm vắng
bóng chị Hằng. Trước mắt tôi hàng nghìn vì sao lấp lánh như hàng nghìn con mắt
của vũ trụ nhìn tôi thờ ơ, im lặng. Cách đây hàng triệu năm những con mắt của
vũ trụ vẫn nhìn hành tinh này thờ ơ như thế. Thuở xa xưa ấy, những bầy người
nguyên thuỷ biết chung sức lại chống chọi với muôn loài vật để tồn tại và phát
triển. Con người sống với nhau bình đẳng.
Cảm ơn
thượng đế đã ban cho loài người hai chữ trí khôn để trải qua nhiều thiên niên kỷ
đã thiết lập thành xã hội – một cộng đồng của con người có bề trên, kẻ dưới.
Cao nhất là vua chúa, thấp nhất là những kẻ cùng đinh, những tên nô lệ. Từ đó
có áp bức, bóc lột, bất công và tàn bạo. Và cũng từ đó có chiến tranh và các tội
ác khác, con người chém giết con người. Theo janjacques Rousseau:“Loài người
càng văn minh, càng suy tàn về nòi giống”. Ông ca ngợi chủ nghĩa tự nhiên.
Tôi cảm
ơn nền văn minh của nhân loại đã cho tôi biết nói, biết chữ, có quần áo mặc và
phép nhiệm màu của thần Prométhée để nấu chín đồ ăn. Tôi oán trách nền văn minh
ấy đã dẫn con người đến những thời kỳ sống với nhau như lang sói và tôi trở
thành một nạn nhân. Nếu không có kiếp luân hồi nghĩa là không phải kiếp này tôi
bị đầy đoạ để trả nợ kiếp xưa, tôi cũng oán trách tạo hoá không cho tôi đầu
thai cách đây hàng triệu năm trước để tôi được sống giữa quần thể người nguyên
thuỷ, không bị chèn ép, không bị hắt hủi, đoạ đầy cũng như không phải chứng kiến
tội ác kinh hoàng của loài người hiện tại.
Thượng đế
sinh ra muôn loài, loài này tiêu diệt loài khác để tồn tại. Loài người có trí
khôn tiêu diệt được mọi loài và là sinh vật thượng đẳng nhất. Do vậy, con người
chém giết nhau, áp bức, bóc lột con người, âu cũng là một quy luật hài hoà theo
ý của đấng tối cao?
Thằng
Vương Viễn trong thời gian sửa sai đi đâu mất tích, gần đây mới thấy. Một đêm
đã khuya, thấy tôi ngồi ngoài sân, hắn vào hỏi:
– Quá nửa
đêm mà Tâm chưa đi ngủ à?
Khinh bỉ
cái mặt ghê tởm ấy, tôi im lặng, mắt vẫn nhìn lên khoảng không vũ trụ.
Hắn hỏi
tiếp:
– Mày nghỉ
học phải không? Khá lắm, mày hãy học cày, học cuốc làm ra thóc gạo mà ăn, học
chữ làm gì cho vô ích?…
Thằng Viễn
có phần nào nói đúng. Bằng con đường học vấn, xã hội không cho phép kiếm miếng
cơm, manh áo, nhưng học để biết để am hiểu cuộc sống, để thành người. Mặc dù
không được đến trường tôi vẫn học, còn học nữa và học mãi. Dù cùng cực đến mấy,
tôi vẫn không chịu khoanh tay đứng ngoài kho di sản văn hoá của loài người. Ông
Démocrite nói:“Thà rằng, tôi giải thích được sự vật còn hơn được làm vua xứ Ba
Tư.”Dù tính mục đích bị đập vùi tàn nhẫn, tôi vẫn tiếp tục học để phục vụ tính
nguyên nhân.
* *
*
Trước
làng tôi, cách con sông nhỏ, cánh đồng lúa mênh mông đến tận chân trời. Từ màu
xanh mơn mởn đã biến thành tấm thảm màu vàng gợn sóng chào đón vầng dương thức
dậy. Trời xanh bao la, cánh cò chớp trắng, bản hợp xướng của bầy chim chiền chiện
đan xen tiếng sáo vi vút cùng tiếng kêu đều đều, mệt mỏi của chim quyên trong
các luỹ tre.
Một bãi
đá bóng sát bên bờ sông, giữa có một ngôi mộ cao tám mươi phân, mỗi cạnh dài bốn
thước. Tối hôm ấy, có một cuộc mít tinh trọng thể, ngôi mộ biến thành một lễ
đài. Trong ánh sáng chói chang của hai ngọn đèn măng xông, hàng nghìn người
đang nghe ông cán bộ tuyên huấn xã đọc bài diễn văn để kỷ niệm ngày quốc tế lao
động. Tôi cùng mấy bạn học cũ đứng bên đường cạnh bãi đá bóng đang thì thầm nói
chuyện về các ngành trung cấp chuyên nghiệp trong năm ấy. Nghe đến đoạn diễn
văn:“…Hôm nay là ngày giai cấp nông dân đứng lên đánh đổ bọn thực dân, phong kiến
áp bức, bóc lột, giành lấy ruộng đất…”. Một bạn học là anh họ tôi bật kêu lên
và cười giòn rã:
– Khoái
quá chúng mày ơi, nghe đọc diễn văn.
Mấy tên
du kích đứng gần chạy lại quát:
– Các anh
định quấy rối phải không?
– Đừng vu
khống! – Anh họ tôi trả lời.
Trong số
du kích ấy có thằng Vương Viễn, hắn nói:
– Lại thằng
Tâm xúi giục thôi.
Hắn kéo
tôi vào sân đình, lấy dây trói lại. Các bạn học của tôi kéo đến phản đối:
– Nó
không nói gì, anh không được trói, định ăn hiếp người ta à?
– Chúng
mày cút đi, thằng này chủ mưu phá rối. Phải chờ cấp trên giải quyết – Thằng Viễn
trả lời.
Thời gian
sửa sai đã qua, Viễn lại giở trò bạo ngược. Có lẽ ai cũng biết hắn là loại súc
sinh nên chẳng ai nói gì thêm, cùng chờ cho cuộc mít tinh tan.
Hơn một
giờ sau, người kéo đến sân đình đông kín, ông cán bộ tuyên huấn đã làm xong nhiệm
vụ trên lễ đài, có người báo, ông xách đèn măng xông đến chỗ tôi, ông ta hỏi:
– Tại sao
đang lúc mít tinh, anh lại phá rối?
– Ông
nghe báo cáo sai rồi, tôi nói gì, làm gì mà phá rối?
– Có tôi
cười và nói, khoái quá chúng mày ơi… – Anh họ tôi nói.
– Anh phá
rối à? – Ông tuyên huấn hỏi.
– Tôi cười
về sự xuyên tạc lịch sử của các ông.
– Xuyên tạc
chỗ nào?
– Là một
cán bộ tuyên huấn, ông đọc tài liệu nào viết về ngày quốc tế lao động là ngày
nông dân nổi dậy.
– Tôi
không lý sự với anh. Nông dân là lao động, lao động là nông dân cũng là công
nhân.
– Lý sự của
ông cùn lắm. Tôi đề nghị ông phải tha ngay không được trói người vô tội.
Khi đó một
cán bộ của uỷ ban đến, ghé vào tai ông tuyên huấn nói nhỏ điều gì, rồi ông ra lệnh:
– Nay tôi
tạm tha cho các anh, ngày khác uỷ ban sẽ hỏi.
Xảy ra
tai vạ làm tôi nhớ lại cách đây bốn năm, khi đó cũng thằng Vương Viễn trói tôi
vào cột miếu một đêm và một ngày, không cho ăn uống, hai cánh tay tôi bầm tím,
tê dại
thì lần này có thấm vào đâu? Hơn một giờ bị trói, đứng giữa sân đình hưởng gió
mát và hương thơm của lúa nhưng cái khí thế thô bạo, vu oan hồi cải cách vẫn
còn nguyên vẹn.
* *
*
Năm nay,
tôi mười bảy, đủ tuổi để thi vào trung cấp chuyên nghiệp. Trong hồ sơ thi có lý
lịch đóng vai trò quyết định, do vậy tôi có đi thi cũng chẳng kết quả gì. Tuy
nhiên tôi lại nghĩ, mình là kẻ hèn kém nhất trong đám cùng đinh của xã hội, hãy
cố tìm cách nhoai lên may ra kiếm được đôi chút quyền làm người. Nếu bị rơi xuống
cũng hoà, chẳng mất mát gì thêm. Nghĩ vậy, tôi quyết định làm hồ sơ thi vào
trung cấp kĩ thuật hai.
Tôi có
người chú họ làm chủ tịch xã – chú Qua hiểu rõ nỗi oan nghiệt của bố tôi, vì lập
trường cách mạng không cho phép chú công khai làm điều thiện. Tuy thế, chú là
người có lương tâm, tôi muốn nhờ chú chứng nhận lý lịch. Không may thời gian đó
chú lại đi vắng.
Một buổi
chiều tôi đến uỷ ban, gặp phải tên phó chủ tịch người họ Lương, nhìn khuôn mặt
hắn cũng đủ rõ trái tim hắn có dòng máu của loài lang sói. bước vào phòng làm
việc, tôi định quay ra nhưng đã muộn. Hắn hỏi tôi:
– Anh Tâm
cần gì?
– Thưa
bác, cháu xin học nghề. Nơi nhận, họ cần biết cháu bao nhiêu tuổi nên đến xin uỷ
ban…
– Tôi
thay mặt chính quyền xã – Hắn cắt ngang – tuyên bố để anh rõ, anh không được đi
đâu cả. Ngoài nghề làm ruộng, anh không có quyền làm bất cứ nghề gì. Nhân tiện
hôm nay, tôi cảnh cáo anh về hành động phá rối trong cuộc mít tinh ngày quốc tế
lao động.
– Bác
nghe báo cáo sai rồi, cháu có làm gì đâu mà phá rối?
– Bề
ngoài tưởng là thế, thực chất anh là kẻ xúi giục.
Hắn nói
tiếp, giọng hắn gằn từng tiếng réo lên độc địa:
– Chúng
tôi có thể lập hồ sơ để truy tố anh, hãy coi chừng – Hắn liếc nhìn tôi như muốn
bắn ra những tia chớp lửa thiêu tôi thành tro bụi.
Trở về
nhà với tâm trạng căm hờn, tủi nhục, tôi tự hỏi, tại sao tạo hoá sinh ra tôi phải
chịu số phận nghiệt ngã đến thế này? Đứng chỗ thấp nhất trong cái đáy của xã hội
vẫn không được yên? Ôi, quê cha, đất tổ ngày nay sao trở thành đất dữ, đã nhuộm
máu của bao người lương thiện còn muốn giết dần mòn những kẻ khốn cùng? Liệu
tìm đường mà cao chạy, xa bay.
* *
*
Tháng 9 –
1959, ở thị xã Thái bình mở trường trung cấp sư phạm, tôi quyết định chơi một
canh bạc mới. Đến chú Qua – ông chủ tịch xã, nhờ chú đóng dấu, ký tên vào lý lịch
và nộp hồ sơ dự thi. Tháng mười năm ấy, tôi vào trường sư phạm. Tôi học về tự
nhiên nên nhanh chóng chiếm được cảm tình và sự yêu mến của các thày cô và các
bạn học. Tuy nhiên, do năng khiếu của tôi xuất hiện ở trường cũng nhanh chóng
trở thành một nguy cơ đang đe doạ tôi ở địa phương –quê tôi. Sau bữa liên hoan,
thày và trò chia tay về quê ăn tết nguyên đán, không ngờ tết năm ấy tôi đón
xuân bằng một tâm hồn ủ rũ như cánh hoa tàn. Cả làng xôn xao bàn tán về tôi:
– Không
biết thân, biết phận người ta đang ghen ghét đố kỵ, cứ học giỏi cơ mới khổ.
– Thằng
Tâm nếu khôn ngoan thì học trung bình thôi, vô thưởng, vô phạt chẳng ai để ý đến
lại là một điều may cho nó.
Anh Quang
cũng trách tôi học giỏi ở trường sư phạm nên mới có nguy cơ bị đuổi khỏi trường.
Thằng Vương Viễn đang làm trong ban chỉ huy xã đội, hắn nói với anh Quang:
– Thằng
Tâm muốn ngóc đầu dậy phải không? Về đây để nông dân dạy cho học cày, bừa chứ
không phải học chữ để ăn bám xã hội.
Gặp tôi,
chú Thất nói:
– Thời
gian chú dạy cháu, chú vừa mắng, vừa lo cho cháu. Mừng vì cháu thông minh hơn
người, lo vì hoàn cảnh gia đình cháu không phù hợp với chế độ này. Cháu học giỏi
chẳng những không có tiền đồ mà còn trở thành điểm sáng để người ta để ý, kích
thích tính đố kỵ và sự hận thù. Hồi sửa sai họ không nói gì đến bố cháu, như thế
gia đình cháu vẫn là đối tượng của cách mạng. Do vậy, cách sống tối ưu của cháu
là sự im lặng, tai giả điếc, mắt giả mù, miệng giả câm, óc giả đần độn để những
kẻ bất nhân ghen ăn, tức ở không lưu ý gì đến cháu. Làm như vậy, cháu mới tồn tại
được. Câu ngu si hưởng thái bình không bao giờ hữu hiệu như hiện nay.
– Theo ý
chú, sau cải cách cháu không nên đi học nữa?
– Lúc đó
thì đã hơi muộn, hay hơn cả là cháu không biết chữ hoặc biết chút ít thôi. Nếu
cháu được nghe câu sấm trạng:“…ông hoá ra thằng…”, cháu phải hiểu rằng, cháu đã
hoá ra thằng của thời đại. Một thằng không cam chịu chỗ đứng cứ tìm cách nhoai
lên vị trí cao hơn, tức là đã phạm vào cái trật tự xã hội đương thời quy định,
cháu bị trù dập đã đành, còn chịu thêm nhục hình là đáng lắm.
Kẻ có quyền
từ xã đến huyện sôi sục chuẩn bị hồ sơ thêm cả những điều bịa đặt, gửi lên trên
đề nghị đuổi tôi ra khỏi trường sư phạm.
Mùa hè
năm 1960, thày giáo dạy vật lý – thày chủ nhiệm Phạm trung Thu, qua một bài kiểm
tra khen tôi thông minh xuất chúng. Thày đang nói thì một nhân viên phòng tổ chức
đưa cho thày một giấy báo, thày chuyển giấy cho tôi, nội
dung:
Nguyễn Tâm lớp 1B tự nhiên đến phòng tổ chức chiều ngày 21–6–1960 để nhận quyết
định. Tôi không nói với ai nhưng hiểu rằng, canh bạc tôi chơi ở trường sư phạm
đến đây đã tàn. Đã là canh bạc phải có thua, có được. Riêng tôi, chơi bạc với
cuộc đời có thua cũng chẳng mất mát gì thêm, trở lại với vị trí xã hội đã dành
cho: một người khốn khổ.
Đến chiều
tôi đến phòng tổ chức đưa giấy báo cho ông trưởng phòng. Cầm giấy không cần xem
lại, hắn trừng mắt quát tôi ngay:
– Ai bảo
mày man khai lý lịch để lọt vào đây?
– Thưa
ông, tôi không man khai một điều nào.
– Mày
ngoan cố à? Tại sao tên Căn bị xử trí, mày không viết?
– Như thế
là còn thiếu chứ không phải man khai.
– Với
chính sách nhân đạo của đảng để cho mày được sống là may lắm rồi, nhưng phải nhớ
rằng, không có một vị trí nào dành cho mày trong xã hội.
Nói xong
hắn đưa cho tôi một tờ giấy đánh máy là quyết định đuổi tôi. Tôi chưa ra khỏi
phòng thì thày hiệu trưởng Phạm Lăng đến, thày nói:
– Quyết định
đuổi em không phải của trường mà do uỷ ban nhân dân tỉnh. Tôi cho phép em ở lại
trường một tuần để làm đơn khiếu nại.
Nghe thày
hiệu trưởng, chiều hôm đó tôi đến uỷ ban. Phòng thường trực đông người chờ đợi,tên
nhân viên cầm bản quyết định của tôi xem lướt qua rồi hắn nói to:
– Bà con
hãy lắng nghe tôi đọc:“… Sau khi phòng công an huyện Kiến xương và công an tỉnh
Thái bình hoàn chỉnh hồ sơ để gửi lên bộ giáo dục. Bộ uỷ nhiệm cho uỷ ban nhân
dân tỉnh Thái bình. Nay quyết định:
Điều một,
đuổi tên Nguyễn Tâm con tên địa chủ cường hào gian ác, đầu sỏ Nguyễn Căn ra khỏi
trường sư phạm.
Điều hai,
bắt tên Nguyễn Tâm phải bồi thường học bổng trong thời gian học tập. Tên Nguyễn
Căn có nhiều nợ máu với nông dân. Trước khi chết, y còn dặn con nên nhớ lấy
ngày này…”
Lúc đó,
nhiều kẻ lơ láo nhìn tôi. Mấy tên vô lại là khách đến xin giấy tờ, hô đả đảo ầm
ĩ như bọn loạn thần kinh.
Không tự
chủ được mình, từ phòng thường trực tôi lao ra đường. Đằng sau tôi vang lên một
hồi két, két, két… Tôi ngoái lại, đầu chiếc ô tô tải gần sát lưng tôi. Người
lái xe trong cabine văng ra hàng tràng chửi tục.
– Thằng
khốn nạn, mày muốn chết à?
– Đ..mẹ
mày, ông không nhanh chân tay thì mày về với Diêm Vương rồi con ạ!
Chẳng
quan tâm đến những lời chửi rủa của gã lái xe, tôi chạy một mạch về làng Lạc đạo.
Lúc đó, mặt trời sắp lặn, tôi về đến nhà trọ, các bạn cùng lớp đã đến đông,
thày chủ nhiệm cũng có mặt, thày nói:
– Chiều
hôm nay, thày triệu tập các em đến đây để thông báo tin buồn của em Tâm. Qua
tám tháng học tập và chung sống với các em, thày có nhận xét rằng, em Tâm thông
minh xuất chúng, học giỏi, khiêm tốn, và giúp đỡ các bạn trong học tập, ngoan
ngoãn lễ độ với các thày. Hôm nay em Tâm phải chia tay với chúng ta là do lý lịch
của gia đình. Đây là nỗi buồn chung. Thày mất một người trò giỏi, các em mất một
người bạn tốt. Thày mong các em hãy thông cảm và cùng chia sẻ nỗi buồn với em
Tâm.
Nghe thày
nói, tất cả đều im lặng, nhìn tôi với một ánh mắt và vẻ mặt u buồn, nhiều bạn
rưng rưng lệ. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm để chào từ biệt một số bạn thân và đến
chào thày chủ nhiệm. Thấy tôi đến, thày dắt tay tôi vào trên chiếc giường cá
nhân của thày. Tôi nói:
– Thưa
thày, bây giờ em về quê, em đến để chào thày.
– Đêm qua
– thày nói – nghĩ về em làm thày thao thức mãi, thày muốn giúp em nhưng hoàn
toàn bất lực. Đáng buồn là thời buổi này, làm điều ác thì dễ lắm, còn làm điều
thiện thì không thể…
Thày nói
tiếp:
– Tâm ạ,
nỗi buồn của em hôm nay là nỗi buồn chung của dân tộc mai sau. Người ta vừa vùi
dập những tài năng đang phát triển, vừa gạt bỏ và đầy đoạ những nhân tài, thử hỏi
đến bao giờ đất nước này mới thoát khỏi cảnh bần cùng, lạc hậu?
Chào từ
biệt thày Thu, tôi ra đường gặp thày dạy toán – thày Quý. Tôi chào thày và muốn
nói với thày đôi lời trong lúc chia tay. Thật lạ lùng, để đáp lại lời chào lễ
phép của tôi, thày nhìn tôi với ánh mắt hận thù rồi quay đi hướng khác.
Có lẽ vì
lý thuyết đấu tranh giai cấp làm thày thay đổi thất thường?
Trên đường
về quê, tôi đi theo quán tính, tâm trí chìm đắm trong những ý nghĩ miên man,
quanh quẩn không lối thoát. Đến lúc này, ở quê tôi trở thành mục tiêu hấp dẫn để
họ hành hạ. Vốn dĩ tôi vẫn phải cúi đầu xuống bùn ao, ngày nay họ sẽ dìm đầu
tôi xuống thấp hơn, tôi sẽ chết dần mòn. Tôi tự hỏi còn ván bài nào khác trong
bước đi của cuộc đời? Tôi có ý định lên Hà nội với chị Hoa nhưng biết đâu tình
cảm của chị với tôi đã thay đổi, bị cuốn theo những trận cuồng phong về đạo đức?
Chẳng những thế, cái miệng hùm, nọc rắn đâu phải chỉ có ở quê tôi mà tồn tại khắp
nửa giang sơn đất nước này.
Thôi hãy
coi đây là canh bạc mới, cứ từ bỏ quê hương đi nơi khác xem sao?
Đến đầu cầu
Kìm tôi gặp chú Qua. Nhìn thấy tôi trước, chú gọi:
– Tâm! Họ
đuổi cháu chưa?
– Thưa
chú, họ đuổi cháu hôm qua. Bây giờ cháu về quê.
– Vì chữ
ký trong bản lý lịch của cháu, dăm bữa nữa chú cũng bị tước quyền chủ tịch.
– Việc đã
qua, cháu cũng chẳng có lỗi gì. Không lẽ mưu cầu tiến bộ, mưu cầu hạnh phúc
cũng là một tội?
Tôi nói
tiếp:
– Chú có
thể giúp cháu một việc nữa được không?
– Việc
gì? – Chú hỏi.
– Cháu phải
từ biệt quê hương thôi chú ạ. Cháu nhờ chú giúp giấy tờ di chuyển?
– Được,
chú còn đủ thời gian giúp cháu – chú Qua nói tiếp – Cứ lù đù như người khác, họ
chẳng để ý đến. Ngược lại, từ nhỏ tới bây giờ cháu có tiếng thông minh, học giỏi
mà lý lịch gia đình lại xấu nên trở thành cái bia hứng chịu những viên đạn của
tính đố kỵ và lòng ghen ghét.
– Giấy tờ
qua huyện thế nào, chú?
– Họ chẳng
để ý đâu, nhưng không khéo để họ biết được lý lịch thì khổ đấy. Họ giữ lại để
hành, biến thành một trò vui.
– Làm điều
ác mà coi là một trò vui à, chú?
– Việc xã
hội, cháu còn ngây thơ lắm. Bố cháu bị chết oan, ai mà chẳng biết. Buổi người
ta bắn bố cháu, dân làng nô nức kéo nhau để xem. Nếu bán vé, chắc còn đông gấp
nhiều lần xem chiếu bóng hay xem hát. Đó là một trò vui. Tâm lý của con người
như ngựa vô cương, trâu vô sừng sẹo. Xưa kia khoa luân lý học như dây cương hướng
con người đến cái chân, cái thiện, ngăn chặn những hành vi xấu của tâm lý. Ngày
nay, ngoài sợi dây ràng buộc với đảng, con người không bị vướng mắc nào về mặt
đạo đức. Thế thì thú tính và tội ác biến thành sở thích, thú vui chứ sao? Chú
đơn cử một hiện tượng, cách đây ba năm, việc trốn khỏi quê hương của anh em thằng
Núi. Gia đình nó còn nhẹ cân hơn gia đình cháu, anh em nó học hành chẳng ra gì.
Thế mà chính quyền địa phương điên cuồng lắm tìm kiếm từ ấy đến nay. Vì họ bỏ xổng
một con mồi, mất một trò vui trong việc họ hành hạ, vùi dập.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 6
HỒI HAI –
Hà nội
Quãng đường
dài mười lăm cây số từ quê tôi đi bộ đến bến ô tô thị xã lúc chín giờ. Chưa đến
giờ xe chạy nên tôi đến trước cổng trường Hoàng văn Thụ để gặp anh Nguyễn ngọc
Minh, bạn cùng lớp, xin anh một món nợ năm đồng, tôi mượn anh để thêm tiền may
chiếc áo sơ mi bằng popeline trắng Trung quốc. Món nợ chẳng đáng là bao, tương
đương với giá trị một thước vải kaki Nam định, nhưng hiện thời tôi không có để
trả anh. Tiếc rằng giờ ra chơi giữa hai tiết học không thấy anh ra ngoài, tôi
trở lại bến ô tô để đi Hà nội. Để mười sáu năm qua, mỗi khi nhớ đến, lương tâm
tôi lại lên án: tôi là kẻ lừa đảo. Vì muốn trả anh qua bưu điện, tôi không biết
địa chỉ thôn xã của anh mà chỉ nhớ quê anh ở huyện Hưng nhân. Muốn gửi đến trường
lại sợ ảnh hưởng xấu đến anh là quan hệ với con cái kẻ thù giai cấp.
I Những
người thân
Bóng chiều
đã ngả dài, chuyến xe khách từ thị xã Thái bình mới cập bến Kim liên. Tôi đi bộ
qua phố Khâm thiên đến ô chợ dừa và hỏi thăm nhà chị Hoa. Lúc đó, tôi sực nhớ
ra, cháu Lập – con trai đầu của chị đã lên hai, muốn mua cho cháu gói kẹo nhưng
trong túi tôi chỉ còn hai hào. Thật hổ thẹn, lần đầu gặp cháu mà cậu chẳng có một
thứ quà nào.
Tôi đến
nhà, anh Hoàng và chị Hoa đi làm chưa về. Gian nhà lá của gia đình chị khoảng
hơn một chục thước vuông. Đồ dùng trong nhà đơn sơ: hai cái giường rẻ quạt ọp ẹp,
vài ba chiếc xoong nồi và bát đũa rẻ tiền làm tôi ngao ngán. Mặc dù trước khi
đi, tôi đã biết, anh Hoàng là cán bộ kỹ thuật nhà máy trong quy mô với mức
lương mười đồng một tháng, chị Hoa đan len cả ngày và buổi tối cũng chỉ được
trung bình hàng tháng vài chục đồng. Tổng số tiền thu nhập ấy làm sao nuôi được
năm người sống cho đầy đủ? Mẹ chồng chị Hoa – một người đàn bà hiền lành, phúc
hậu. Thấy tôi đến bà ân cần, cởi mở:
– Cậu lên
đây cứ yên tâm ở với anh chị và các cháu, có gì ăn nấy, đừng lo ngại gì.
Bà nấu
cơm xong thì chị Hoa về. Sau ba năm xa cách chị thay đổi nhiều làm tôi khó nhận
ra: già đi nhiều và gầy yếu. Riêng anh Hoàng vẫn như xưa. Có lẽ vì sự có mặt của
tôi làm anh khó chịu, anh lạnh lùng chẳng nói gì. Sau này tôi mới biết anh còn
là bậc thày của Appagon. Đến bữa ăn, chẳng chào hỏi ai, anh nói:
– Lương
ít, một đống người ăn sống làm sao được?
Quả thật
trên đường đi, không có tiền ăn quà nên tôi đang đói. Mới ăn được một bát, nghe
anh rể nói, tôi hổ thẹn quá, không ăn nữa.
– Sao cậu
ăn ít thế? – Bà mẹ chồng chị Hoa hỏi.
– Thưa
bà, cháu mệt – Tôi trả lời.
Thái độ của
chị Hoa đối với tôi cũng thờ ơ, lạnh nhạt. Hiện tại, chị đã thay đổi nhân tình.
Ngoài thời gian cải cách, tình thương của chị đối với các em chỉ xuất hiện
trong khoảnh khắc như bong bóng xà phòng.
Sau này,
năm năm ở Hà thành, chị không biết em ở đâu và sống ra sao. Tuy vậy, về mặt
kinh tế chị đáng thương chứ không đáng trách. Chị không thể bớt xén miếng ăn của
chồng con để chia sẻ cho tôi.
Đêm ấy
tôi thức trắng, lởn vởn những ý nghĩ tuyệt vọng:“Bây giờ ta đi đâu? Lại về quê
chăng? Không ổn, về quê lúc này là tự sát. Bọn bất nhân sẽ điên cuồng hành hạ
ta chết dần mòn. Than ôi! Canh bạc này ta mới chỉ bắt đầu mà đã vội vàng kết
thúc rồi sao?…”
Sáng hôm
sau, tôi nói với chị Hoa:
– Bây giờ
em đến thăm cô và bá rồi đi… Em không thể chịu nhục ở đây, dù chỉ một tuần.
– Cậu định
đi đâu?
– Em cũng
chưa biết nữa.
– Tuỳ cậu
– Lời nói của chị lạnh lùng, vô trách nhiệm như người dưng nước lã.
* *
*
Tôi đi xe
điện lên bờ hồ Hoàn kiếm và từ đó đi bộ đến phố hàng Rươi thăm cô tôi. Chồng cô
– ông tổng cục trưởng, ngoài việc đến thăm, tôi có ý định nhờ ông xin việc. Do
vậy tôi nói với cô để thăm dò trước. Gần mười hai giờ trưa, ông tổng cục trưởng
– chú Nghiệm mới về. Bữa cơm trưa, tôi ngồi bên chú. Hơi cơm gạo tám xoan bốc
lên thơm phức, một mâm đầy những món ăn hảo hạng: nem thịt gà, lạp xường, thịt
nạc áp chảo, thịt bò xào hành tây… hai bát nước mắm loại đặc biệt và một đĩa
dưa cải củ. Đầu bữa tôi gắp dưa chấm nước mắm, chẳng hiểu sao chú Nghiệm cầm
bát nước mắm ấy đổ vào bát kia và bảo cháu gái lấy chai rót nước mắm khác? Cô vội
bảo:
– Chú
không quen ăn dưa!
Tôi
thoáng nghĩ, xưa kia còn ở thuở hàn vi, một lần chú ăn cơm nhà tôi. Bữa ăn có
dưa cải nén và nhiều món khác, chú ăn dưa suốt bữa và khen ngon, tại sao đến
nay chú lại không quen? Có lẽ vì cuộc sống vinh hoa đã làm chú phải xa lạ với
món ăn dân tộc rẻ tiền này. Tôi liên tưởng đến truyện Hán sở tranh hùng: Lưu
Bang vào Hàm dương, truyện Tam quốc: Lưu Bị sang Đông ngô cũng vì cuộc sống
vinh hoa mà lãng quên sự nghiệp. Những người CS ngày nay có lẽ cũng đã quên cái
sự nghiệp vì dân, làm cách mạng phục vụ nhân dân như ông Hồ đã nói. Họ không cần
đếm xỉa đến cuộc sống cơ cực của người dân để đi đến sự nghiệp cách mạng phục vụ
chính bản thân mình. Nhất là những người có quyền, có chức, có trong tay cuộc sống
xa hoa, tại sao không tận hưởng để bù đắp lại những tháng năm trong lao tù của
thực dân Pháp và thời kỳ chui rúc trong hang núi ở các chiến khu? Điều đó âu
cũng là lẽ sống vĩnh hằng của nhân loại, nhưng bác nói:“Người cán bộ cách mạng
là đầy tớ trung thành của người dân”. Lời lời châu ngọc khiêm nhường êm dịu quá
khiến linh hồn của Molière phải hổ thẹn về Tartuffe của mình còn kém tài năng,
và vua hài Charlot nếu ở Việt nam phải bạt vía siêu hồn. Tôi không bình luận gì
thêm về những lời châu ngọc đó, quả là không tiền khoáng hậu, cười ra máu hoà
trong nước mắt.
Tôi đến
thăm cô lần đầu ở Hà nội, thế mà con dâu cô ghi vào sổ tạm trú cho ở một ngày.
Đêm đó tôi cũng không ngủ được, nghe cô tôi nói chuyện với đức ông chồng:
– Cháu
Tâm đến đây muốn nhờ ông xin việc?
– Với người
khác thì dễ chứ cháu bà, tôi chịu.
– Tại
sao, ông?
– Tôi nói
bà cũng chẳng hiểu gì. Nước ta đang bước vào giai đoạn xây dựng xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh giai cấp quyết liệt lắm. Tôi xin việc cho cháu bà chưa chắc đã
được, nếu họ biết lý lịch của anh bà, tôi không những mất quyền, mất chức mà
còn bị khai trừ ra khỏi đảng, đuổi về quê. Giả dụ, tôi tự ý giải tán một công
ty để hàng trăm người mất việc, điều đó chỉ là một khuyết điểm, nhưng nếu giúp
đỡ con cái địa chủ, tư sản là một trọng tội.
– Thời kỳ
ông đi vắng, anh tôi giúp đỡ vợ con ông, ông quên à?
– Một người
cộng sản còn nghĩ đền ơn với nghĩa, sao nhãng lập trường thì làm cách mạng thế
nào? Vả lại, trả ơn, trả nghĩa theo ý nông cạn của bà trong giai đoạn hiện nay
là con đường dẫn cả nhà xuống vực.
Sau đó,
cô tôi khóc thút thít. Tôi vẫn nằm im nghĩ đến nhân tình thế thái. Chồng cô –
chú Nghiệm xuất thân từ một gia đình khá giả, người rất xấu, cao lêu đêu, gầy yếu,
da sạm, mặt lưỡi cày. Chú học dốt quá, chưa hết tiểu học thì bỏ dở. Khi lấy cô
tôi, được một đứa con trai, chú đi đâu không ai biết, vài năm sau mới được tin
chú tham gia vào đảng Cộng sản Đông dương, bị bắt tù ở Côn đảo. Đến năm 1936,
nhờ có mặt trận bình dân Pháp ra đời, chú mới được trả tự do. Về nhà chú đẻ
thêm một đứa con gái nữa rồi tham gia mặt trận Việt minh vào chiến khu chống thực
dân Pháp.
Thương
người em gái xa chồng, một mình phụng dưỡng bố mẹ chồng, bố tôi hết lòng giúp đỡ
cô và hai cháu. Ông tổng cục trưởng phủi sạch công ơn đó ngày nay cũng là lẽ
thường tình nếu không lấy oán trả ân. Vả lại, họ thường tuyên truyền chủ nghĩa
xã hội là mùa xuân của nhân loại, mặc dù công cuộc ấy mới bắt đầu nhưng cuộc sống
của ông tổng cục trưởng đang nở hoa như một mùa xuân. Với cương vị cán bộ trung
cao cấp, được nâng đỡ và ưu tiên tuyệt đối về bằng cấp, ông mới đang học bổ túc
văn hoá lớp bốn. Do vậy chức tổng cục trưởng của ông là chứng chỉ những năm
tháng gian nan làm cách mạng chứ không phải do trình độ chuyên môn và văn hoá.
Ông tự biết rằng nếu không có đảng, đời ông không thể được vinh hoa như thế. Là
tổng cục trưởng cục thực phẩm, ngoài những đặc quyền đặc lợi khác, ông có quyền
mãn nguyện về vật chất bao gồm những thứ cao lương, mỹ vị. Đây là một bằng chứng
về sự đổi đời của thiên hạ, không nhầm với câu sấm trạng.
* *
*
Sáng hôm
sau, tôi đến hàng Bạc thăm bá (quê tôi gọi chị mẹ là bá). Năm ấy, bá đã năm
mươi bảy tuổi. Mẹ tôi và bá là hai chị em cùng cha cùng mẹ nhưng dáng người,
khuôn mặt và tính tình không có nét nào giống nhau. Mẹ tôi đầy đặn, phúc hậu, mặt
tươi như hoa. Còn bá thì gầy yếu, nét mặt buồn mếu máo. Bá lưu lạc quê hương từ
hồi còn trẻ, lấy làm vợ hai một người buôn bè vùng Thường tín. Sau khi được bốn
người con thì ông chồng về cõi, bá một mình nuôi đàn con dại chẳng được học
hành gì. Năm 1954, các con đã trưởng thành, trai có vợ, gái đã có chồng. Gia
đình bá học được nghề làm và kinh doanh giỏ, làm ăn phát đạt. Anh con trai từ
chỗ nghèo hèn nay kinh tế gia đình sung túc, anh thả sức ăn chơi phá phách theo
cách của kẻ vũ phu, vô học. Người chị cả theo chồng vào Nam, còn lại hai em gái
mới có chút tí của đã tỏ ra khinh người như rác, cái mặt cứ vênh lên.
Nhà bá
bên trong ngõ hẹp, một gian nhà thước thợ sâu thẳm, tối om, mái lợp tôn. Về mùa
hè, trong nhà nóng như hun. Những đêm mưa rào, hạt mưa rơi xuống mái tôn kêu lốp
bốp, rầm rầm như sắp đổ cửa, đổ nhà. Bên trong nhà chất đầy rơm, dẻ vụn và vỏ ấm
giỏ.
Tôi đến,
bá đang khâu nắp ấm, hai người đàn bà lạ mặt đang nhồi rơm vào vỏ ấm. Một người
làm thuê cơm nuôi, mỗi tháng hai mươi đồng, còn người kia là cháu họ. Sau khi
tôi tự giới thiệu mình, bá hỏi tôi với thái độ lạnh lùng:
– Mày đến
nhà con Hoa và ông Nghiệm chưa?
– Thưa bá
cháu đã đến nhà chị cháu hôm kia, hôm qua đến nhà chú cháu.
– Ông Nghiệm
xin việc cho mày làm chứ?
– Chú
cháu bảo hiện nay không xin được.
Bá cười,
mặt bá lại càng mếu máo thảm thương hơn:
– Tưởng
xin cho mày làm cán bộ có quyền hành mới khó, chứ một nhân viên làm công ăn
lương thì ông Nghiệm dễ như trở bàn tay.
– Thưa
bá, cháu cũng chỉ mong có được một việc làm để kiếm sống, dù việc gì cũng được
nhưng chú cháu từ chối vì…
– Tao biết
rồi – Bá ngắt lời – ông Nghiệm từ chối vì sợ lý lịch của bố mày. Thời nay, những
người như mày người ta phải vùi xuống bùn đen, chẳng ai thương, chẳng ai dám
giúp đỡ để mắc tội liên quan mất quyền, mất chức như chơi.
Bá nói
thêm vẫn với vẻ lạnh lùng:
– Nói thật
nhà tao hiện nay có việc, mày muốn làm thì ở lại đây?
– Vâng,
được bá giúp, cháu không bao giờ dám quên ơn – Tôi vui mừng trả lời bá.
Ngay sau
đó, tôi bắt tay vào làm việc, trong lòng thấy yên tâm, nhẹ nhõm, nhưng sự đời đến
với tôi đâu có dễ dàng, êm đẹp? Người con trai của bá – anh Tuân nếu coi tôi
như người làm thuê cũng là điều may mắn. Ngược lại, anh đối xử với tôi như một
tên nô lệ. Anh quy định giờ làm việc từ bốn giờ sáng đến mười giờ đêm, ăn xong
bữa phải làm ngay, còn tiền công thì không nói đến. Anh chẳng làm gì cả, đêm diện
hết bộ này đến bộ khác đi chơi gái, ban ngày nằm ngủ. Bà mẹ lại tham công tiếc
việc không điều khiển nổi con, quay ra hành cháu. Có hôm tôi sốt suốt đêm, đến
bốn giờ sáng bá vẫn dựng dậy làm, bá nói:
– Tâm ơi,
mày không làm, con tao nó nói tao.
– Hôm
nay, cháu bị sốt, cháu xin được nghỉ.
– Mày phải
biết thời thế đã thay đổi rồi“con vua thất thế phải ra quét chùa”. Mày không
làm tao không dám chứa mày đâu.
Tôi tự nhủ
đành phục tùng số phận. Tôi lóp ngóp bò dậy đi làm, cái mệt mỏi do bệnh cộng
thêm nỗi buồn vì những lời nói và hành động“ân tình”của bá. Đúng là sự đời“giậu
đổ bìm leo”.
Bữa cơm
nhà bá hàng ngày là những món ăn theo quy luật tuần hoàn: cá mè nấu củ cải hoặc
xu hào, lòng trâu, lòng bò xào hoặc thịt lợn thủ kho mặn. Bá mua những thực phẩm
đó ở chợ hàng Bè vào buổi chiều, phần lớn đã ôi thiu nên rẻ tiền. Đó là cách
tiêu tiền của một người phải chịu cuộc sống nghèo khổ kéo dài lê thê nhiều năm
trong qua khứ đã biến thành một thói quen, một bản năng. Hiện tại, kinh tế rất
khấm khá nhưng có lẽ chưa bao giờ bá nghĩ đến hoặc dám mất tiền mua một món ăn
ngon. Trái lại, anh con trai tha hồ phung phí, một đêm đi chơi gái có thể bằng
một tháng ăn tiêu của cả gia đình.
Từ cuộc sống
nhà bá làm tôi nhớ lại thời
kỳ cải cách, nhiều người bị quy là địa chủ, bị nhục hình và bị cướp hết tài sản.
Những người đó cũng tham công tiếc việc, thức khuya dậy sớm, quanh năm chân lấm,
tay bùn, quần nâu, áo vải, không dám ăn no, dành dụm ki cóp từng hào để làm
giàu. Có người trong số họ không biết đến hương vị một bát phở, một tách cà
phê, cả đời quanh quẩn với mảnh ruộng, với luỹ tre làng, không biết thế nào là
thị trấn hay thị xã. Có lẽ từ khi hình thành xã hội loài người đến nay mới xuất
hiện những con người lương thiện chỉ biết cần và kiệm trở thành nạn nhân đáng
thương như vậy.
Một hôm
tôi đang làm, một em học sinh hàng xóm sang chơi, nó cầm quyển truyện, xem đầu
đề, tôi thích nên hỏi mượn. Nó đồng ý cho mượn nhưng hai ngày phải trả. Tôi
nghĩ, cả ngày phải làm suốt đến mười giờ đêm, thời gian đâu mà đọc? Tôi quyết định
đọc phần đêm còn lại.
Đêm hôm
đó, đến hai giờ anh Tuân đi chơi về, anh hỏi:
– Chú đọc
gì đấy?
– Em đọc“Con
đường sấm sét”của Abraham, nhà văn Nam phi.
Anh cười
mỉa mai và nói:
– Cuộc đời
chú cũng là con đường sấm sét, việc gì phải đọc nữa? Cứ ôn lại quá khứ và nghĩ
đến tương lai của chú có thể còn ly kỳ hơn nhiều.
– Em biết
cuộc đời em là một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn nhưng em đọc xem văn viết có hay
không?
– Chú còn
nghĩ đến văn chương nữa cơ à? – Anh nói vẻ chua chát, châm biếm – Theo tôi, chú
nên nghĩ đến miếng cơm, manh áo. Văn chương chẳng giúp gì được chú. Trong xã hội
hiện nay, có mấy người văn hay chữ tốt được sung sướng đâu, chỉ là những kẻ làm
thuê với đồng lương rẻ mạt. Ngược lại bọn có quyền, có chức, có cuộc sống xa
hoa như ông Nghiệm người nhà chú chẳng hạn, có mấy ai học rộng, tài cao? Người
dân thường thì chẳng cần biết chữ nghĩa gì, nếu biết xoay xở thì có cuộc sống
đàng hoàng. Như tôi, học hành chẳng ra gì, chưa thoát khỏi đại học chữ to, thế
mà cuộc đời tôi hơn nhiều nhà trí thức. Ra đường, giữa tôi và họ, ai được tôn
trọng hơn ai? Tiền là trên hết, tiền mới thực sự là đức chúa đáng kính của con
người. Nếu những ai không tôn thờ đồng tiền, không nghĩ cách làm tiền, dù rằng
bất cứ cách gì, tôi cho là một lũ ngu hết chỗ nói. Đứa con gái bán trôn nuôi miệng
còn là một thực tế đáng nể hơn những người rỗi hơi như chú. Vả lại, chú có giỏi
như ông Nguyễn mạnh Tường thời này cũng bị vùi sâu xuống dòng sông Tô lịch, muốn
làm culi cũng chẳng ai chấp nhận.
Lúc đó bá
tỉnh dậy. Bá nổi cơn tam bành:
– Tâm,
mày đọc truyện có gặm chữ ra mà ăn không? Mày phải chịu thương, chịu khó mà
lam, mà làm, thân lươn bao quản lấm đầu, không thể bắt chước người ta được. Khổ
chưa? Không biết thân, biết phận mà còn đọc truyện với trò, chữ với nghĩa. Đứa
nào thích chữ nghĩa không ở nhà này được. Tuỳ mày! – Bá gầm lên vì tức giận.
Nghe anh
Tuân và bá xỉ vả, tôi tủi nhục lên giường nằm, hôm sau trả truyện. Đêm đó, tôi
thức trắng, nghĩ miên man. Trời ơi, sao lại có sự ngẫu nhiên kỳ lạ thế? Đang đọc
truyện Con đường sấm sét thì sấm sét dội lên đầu. Nếu cuộc sống cứ thế này, tôi
thực sự trở thành một tên nô lệ, không được đọc sách, không biết đường xá, phố
phường. Cả bầu trời tôi cũng chỉ được ngắm một mảnh nhỏ con con. Năm 1633,
Galiléo bị cầm cố chung thân trong ngục tối vì cái tội bảo quả đất quay tròn,
ngày nay, tôi bị cầm cố trong ngôi nhà thước thợ tối om, sâu thẳm vì cái tội
gì? Chỉ có làm và làm một ngày mười tám giờ để có bữa ăn mà tồn tại. Cuộc đời
thế đấy, biết làm sao?
Tôi thích
đọc sách từ khi còn nhỏ. Năm ấy, tôi lên chín tuổi, chị cả tôi đi chợ huyện mua
được quyển Chiêu quân cống Hồ, tôi say mê đọc, đến bữa không muốn ăn, đêm không
ngủ. Tâm hồn tôi bị cuốn hút theo cảnh chia ly sầu thảm của nàng Chiêu quân.
Thương cảm nàng như chính tôi là người đang trong cuộc, không biết tôi đã khóc
từ lúc nào? Bố tôi nhìn thấy, người nói:
– Con hay
đa sầu, đa cảm, đời con rồi chỉ khổ thôi!
Đây là lần
đầu tôi đọc truyện.
* *
*
Một buổi
chiều, sau khi giao hàng xong, bá đi đâu vắng. Một lúc bá tất tưởi chạy về và hỏi
tôi:
– Mày có
cầm túi tiền của tao không?
– Thưa
bá, cháu không biết.
– Mày lấy
túi tiền của tao rồi, giấu đâu phải trả ngay. Nếu không tao báo công an.
Đột ngột
bị vu khống, không tự chủ được mình, tôi nói:
– Cháu
không ngờ, bá tàn nhẫn quá!
– Vừa ăn
cướp, vừa la làng à? Quân khốn nạn!
Không chịu
đựng nổi, tôi đứng phắt dậy, lao ra đường. Rẽ sang phố Đinh liệt, tôi ra ngồi
bên bờ hồ Hoàn kiếm, lòng đau đớn, nhục nhã. Tôi tự hỏi:“Ta đi đâu bây giờ? Trở
về quê, chúng hành mình cũng chết. Còn ở đây, với việc quản lý ngặt nghèo qua sổ
hộ tịch và tem lương thực, ngoài những thân nhân, ai dám cho ta ở nhờ và làm việc?
Tôi lơ đãng nhìn những lá vàng trôi bồng bềnh trên mặt nước mà lòng thấy xót xa
như dao cắt. Lá vàng rời khỏi cành rồi huỷ hoại, đó là quy luật. Còn tôi mới mười
tám tuổi cũng lênh đênh trôi nổi như số phận những chiếc lá vàng trên mặt hồ, rồi
rẽ dạt vào đâu?
Khi đó,
anh Tuân đi xe đạp qua, thấy tôi anh gọi:
– Tâm! Tại
sao chú không làm mà ra đây ngồi?
Tôi kể lại
đầu đuôi sự việc, anh Tuân nói:
– Bà hay
đãng trí và thiếu bình tĩnh, chú cứ về nhà, anh sẽ liệu.
Tôi theo
anh Tuân về, bá lại đi đâu vắng. Anh Tuân mở nắp mấy ấm giỏ xếp bên trên, thì
ra bá quẳng túi tiền vào một chiếc, đậy nắp lại rồi quên, thế là vội trút nỗi
oan lên đầu cháu. vừa tìm thấy túi tiền thì bá cũng về, đi cùng với công an hộ
tịch. Anh Tuân vội chạy ra sân mắng mẹ:
– Bà cứ
giữ cái tính ấy còn làm khổ con cháu.
– Nó
không lấy thì còn ai nữa?
– Ai cho
túi tiền vào đây? – Anh Tuân bưng cả chiếc ấm giỏ đưa cho mẹ.
– Chết rồi,
tao bỏ vào rồi quên – Bá mừng quá, bật một nụ cười thêm mếu máo.
– Thưa
bà, việc thế là xong chứ ạ? – Công an hỏi.
– Xin lỗi
anh, tôi đã nhầm.
Thật lạ
lùng, làm phiền một người thì xin lỗi, làm nhục cháu thì cứ dửng dưng. Sự việc
diễn ra làm tôi nhớ đến lời của Loan bố:“Khốn cùng mà không nhục đến thân, nhụt
mất chí thì không phải là người…”. Tôi tự an ủi mình, cố nhẫn nhục chịu đựng.
Đêm đó,
tưởng tôi đã ngủ, hai mẹ con anh Tuân nói chuyện với nhau:
– Bà lẩn
thẩn lắm, thuê người khác phái ai trả công tử tế, nếu đưa nó ra chính quyền là
phiền toái. Hiện nay, bà có biết không, họ cấm thuê người làm để bóc lột sức
lao động. Còn thằng Tâm, cứ nói nó là cháu, bà làm thế nào nó cũng chịu. Hôm
nay bà đổ vạ cho nó, nếu nó bỏ đi, bà mất người làm.
– Không
có nó, tao thuê người khác.
– Ừ, thì
thuê người khác như con Hồng chẳng hạn, bà có bắt nó làm việc cả ngày lẫn đêm
được không? Hết tháng, bà có dám quỵt tiền công của nó không? Muốn được lợi, bà
phải khôn khéo, lại được tiếng cháu thất cơ sống nhờ vào bá…
Thế đấy,
tôi không cần nói gì thêm cái“hảo tâm”của gia đình này.
Vài tuần
sau, chú Nghiệm đến, chú niềm nở đưa cho tôi giấy báo tựu trường và nói:
– Trường
sư phạm lại gọi cháu về học.
Tôi biết,
đây là sự nhầm lẫn của phòng giáo vụ. Không bao giờ họ có thiện chí ấy. Cuộc
tàn sát người vô tội đến kinh thiên động địa, kèm theo những hành động cướp giật
hồi cải cách họ cũng chỉ xoa dịu dư luận bằng nước bọt. Còn biết bao dân thường
bỏ mạng hoặc tan cửa, nát nhà vì sự tình nghi liên quan với địch trong chiến
tranh, chính họ là thủ phạm gây tội ác nhưng họ đã bước qua những đau thương ấy
không cần nhìn lại. Thế thì tại sao tôi có thể tin loài thú dữ lại có trái tim
người? Tuy nhiên, tôi muốn giấy báo tựu trường này thành một màn kịch để xem những
thân nhân của tôi tỏ thái độ gì?
Được tin
đó, bá niềm nở nói:
– Về trường
học, cháu sẽ trở thành thày giáo.
– Thưa
bá, giáo dục cũng là một nghề để kiếm sống thôi, có cao sang gì?
– Bá và
các anh, chị mừng cho cháu. Sau này đừng quên đến thăm bá nhé!
Thái độ của
anh Tuân cũng thay đổi khác thường, anh nói:
– Chú về
học gặp nhiều may mắn, chúc chú thành đạt.
– Bá muốn
thằng em cháu lên đây với bá, cứ ở quê thì khổ lắm – Bá nói.
Tôi
thoáng nghĩ, bá chỉ cần người làm không công để kiếm lời, có thương ai đâu?
Nhưng Đản ở quê thì khổ thật, làm vất vả ngày đêm mà vẫn đói rét. Tuy giống như
ngục tù cả nhưng nơi cầm cố này còn được bữa ăn no. Tôi quyết định viết thư bảo
em tôi lên Hà nội.
Bá cho
tôi năm đồng để mua vé ô tô về thị xã và ăn uống trên đường. Số tiền này có lẽ
là tiền công của tôi trong ba tháng.
Trước khi
ra bến Kim liên, sáng sớm tôi đến nhà chị Hoa để chào anh chị. Anh Hoàng và chị
Hoa cũng tỏ ra mừng rỡ. Chị ra cửa hàng bách hoá đầu ô mua cho tôi một mảnh vải
kaki Nam định. Xem ra lúc này ai cũng tay bắt, mặt mừng. Câu nói khi vui thì vỗ
tay vào là như thế.
Đến bến ô
tô thị xã, tôi gặp Lê đình Nhai, bạn cùng lớp, Nhai hỏi:
– Mày đi
đâu đấy?
– Từ Hà nội
về, tao nhận được một giấy báo tựu trường. Có lẽ đây là sự nhầm lẫn.
– Nhầm rồi
– Nhai nói – hôm qua khai giảng, ông hiệu phó còn hằn học nói đến mày bị đuổi.
Màn kịch
nhanh chóng hạ màn. Tôi chào Nhai lại lên ô tô về Hà nội, mãi đến mười giờ đêm
mới tới nhà chị Hoa. Không còn tiền ăn đường, tôi phải một phen đói hoa cả mắt.
Nghe tôi
thuật lại, chị Hoa, anh Hoàng im lặng tỏ thái độ hững hờ, lạnh lùng như trước.
Sáng hôm sau, tôi trở lại hàng Bạc để lại mảnh vải ka ki ở nhà chị.
Ba ngày
sau, vào buổi tối Đản đến. Thấy em tôi xanh xao, gầy yếu, chiếc áo sơ mi phin
trắng Nam định cài lệch khuy, tôi vật ra giường nằm khóc như đứa trẻ, thương số
phận em tàn nhẫn quá. Đành rằng, ở quê anh Quang đang bị chính quyền địa phương
vùi dập, hắt hủi nhưng sao anh thiếu quan tâm đến đứa em côi cút, hiền lành chỉ
biết cam chịu và phục tùng mọi nỗi đời tủi nhục?
Đản là đứa
cháu – một tên nô lệ làm việc tận tuỵ trung thành cho bá cho đến ngày tận số (bị
bom bi Mỹ ở hàng Bạc năm 1967). Bảy năm sống ở Hà thành, ngoài miếng cơm, manh
áo, em không bao giờ được thưởng thức một đêm vui, một trò chơi giải trí. Và có
lẽ chưa một lần bước đến rạp chiếu phim, nhà hát hay một quán cà phê.
Đản thông
minh, mới học dở lớp ba, thế mà mấy năm tự học toán với thời gian hạn hẹp vào
ban đêm, em đã giải được những bài khảo sát hàm số và phương trình lượng giác của
lớp mười.
Cũng may,
sau này Đản không bị cấm kỵ đọc sách như tôi. Tội nghiệp một kiếp người đầu
thai lầm thời đại.
* *
*
Cuối năm
1960, có người ngoài bốn chục, họ hàng với gia đình bá, ông đến thăm và nói sắp
sửa thành lập tổ hợp tác đóng thùng nước mắm gia công cho xưởng Phú viên. Địa
điểm chùa Đức vua, dốc hàng Than. Tôi xin làm ở đó, bá không muốn nhưng bề
ngoài miễn cưỡng phải bằng lòng. Góp cổ phần hai mươi đồng, cô tôi cho mười đồng,
còn thiếu mười đồng, tôi đến chị Hoa lấy lại mảnh vải ka ki Nam định bán đi là
đủ. Nhưng mảnh vải chị đã bán rồi, thật bực mình, chị đã cho em còn đòi lại.
Tôi nghĩ, lúc này không mềm dẻo là hỏng việc, tôi nhún mình xin chị:
– Vì thiếu
chị phải bán đi nhưng nay em cần số tiền tương đương thế để có việc làm, em xin
lại chị.
Chị Hoa
đưa tôi mười đồng và nói:
– Tôi tưởng
cậu trở về học ở trường sư phạm, nếu không thì… Mấy tháng làm, bá không cho tiền
à?
– Sáu
tháng làm không công, em xin tiền góp cổ phần bá bảo không có.
Tôi đi
làm, ăn ở đó, tối về hàng Bạc ngủ nhờ. Anh Tuân nói với mẹ, vào quán trọ phải mất
tiền, nó muốn về đây ngủ, mỗi buổi tối phải làm một tiếng, nếu làm hơn, bà trả
công cho nó.
Lần đầu
tôi làm việc nặng nhọc, cầm cái bào khum khum lưỡi hến bào lòng nan thùng nước
mắm. Lúc đó, các ngón và bàn tay phồng lên, sau đó toét ra bóc đi từng mảng,
tôi lấy vải quấn vào tay lại tiếp tục làm. Gần sơn, tôi bị lở, ngứa ngáy khó chịu
như bệnh ghẻ. Giờ làm việc không quy định, từ sớm đến tối hẳn mới thu dọn nghỉ.
Sau đó, muốn được ngủ nhờ, tôi phải làm thêm ấm giỏ ở nhà bá thêm một hai giờ nữa.
Gần đến tết,
đường phố tấp nập người đi mua sắm, tôi vẫn lủi thủi đi làm với tâm trạng chán
chường, mệt mỏi. Buổi tối, tôi muốn dạo chơi cho thanh thản nhưng nếu không làm
thêm cho bá chắc cái quán trọ kia sẽ đóng cưả lại, không cho tôi vào nữa.
Tết năm ấy,
tôi và Đản về quê. Khi ấy, tôi đã có mấy chục đồng tiền công ở tổ hợp tác, mỗi
công được một đồng. Đến mười hai tháng giêng, hai anh em tôi mới lên Hà nội.
Cậu tôi –
cậu Gạch cũng mới lên thăm chị, cậu nói:
– Cậu lên
thăm bá, được tin hai anh em cháu ở đây,
cậu mừng. Dù rằng, nơi đây vẫn trong cái đất nước đau thương và tội ác này
nhưng tránh được bọn mặt người dạ thú ở quê hương ít nhiều cũng là một điều may
cháu ạ. Nhân tiện, cậu nói chuyện với cháu dài một chút. Ở quê, cậu được nghe
nhiều người khen cháu, tiếc rằng, không hợp thời hợp thế cũng đành phải chịu. Cậu
nghe bá và anh Tuân nói, bao giờ cũng thấy cháu buồn. Cuộc đời như cháu buồn là
phải, nhưng cháu có biết rằng, buồn cũng là một tội của xã hội này không?
Ngừng một
lát, cậu tiếp:
– Ở nông
thôn hiện nay phải vào hợp tác. Trước mắt làm theo điều khiển. Rồi đây có thể
phải ăn chung ở các nhà ăn tập thể, tiến tới ăn theo điều khiển. Thành phố cũng
vậy, chế độ tem phiếu hiện nay, nhà nước cho ăn gì phải ăn thế, phải xếp hàng
mua không được lựa chọn. Miếng ăn được điều khiển cho từng người về số lượng và
chất lượng theo vị trí đứng trong xã hội. Ngoài cấp lãnh đạo được làm mưa làm
gió, đảng muốn mọi người biến thành những cái máy, chỉ khác ở chỗ không ăn dầu
mỡ cơ khí, mà ăn cơm gạo. Như thế trái tim và khối óc của từng người là thừa đối
với trật tự của xã hội. Buồn, thương, nhớ tiếc là biểu hiện của trái tim và khối
óc, ai cho phép trái tim và khối óc của những kẻ dưới mức cùng đinh như cháu được
can thiệp vào trật tự của xã hội. Đảng bắt mọi người phải sống theo khuôn khổ,
cụ thể là đảng bảo vui phải cười, đảng bảo hoan hô phải vỗ tay, đảng bảo phản đối
là phải hô đả đảo, đảng bảo căm thù, cặp mắt phải bừng bừng như bốc lửa, đảng bảo
làm là phải vận hành như máy, đảng bảo tiến lên phải như mũi tên bay về phía
trước. Đảng đã nói, phải tin tuyệt đối. Đảng không muốn đám dân đen có trái tim
và khối óc. Do vậy, đảng cấm mọi nỗi sầu thương, nhớ tiếc. Đảng dạy người dân
phải có khí thế hào hùng cách mạng, ai không hưởng ứng là kẻ thù của đảng.
Phương ngôn có câu“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, đảng muốn thay đổi lại:“Cha
mẹ sinh con, đảng sinh tính”. Nhưng tính đảng chỉ có một từ đó suy ra, để phù hợp
với hoàn cảnh, mọi người có chung một tính đó là tính đảng, ý chí của đảng thay
mọi con tim, khối óc. Tiếng nói của đảng là lời phát ngôn duy nhất. Muốn được sống
bình yên, mỗi người phải biến thành hai cái máy, một máy ghi và phát lại âm
thanh của đảng, sao cho người nước ngoài đến đất nước này chỉ thấy cái chung và
lịch sử, không tìm thấy một cá nhân nào.
Cậu châm
thuốc hút, xả khói mù mịt rồi cậu tiếp:
– Cụ Gia
cát lượng đã nói:“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, việc làm của họ trái với
lòng người phản lại quy luật phát triển của lịch sử sao mà thành công được! Tuy
nhiên dân tộc đã đang phải gánh chịu những hậu quả trời không dung, đất không
tha chưa thể lường hết.
Sau nhiều
giây im lặng như sực nhớ ra một sự kiện, cậu lại nói:
– Hiện
nay, một vấn đề nóng bỏng được dư luận quan tâm đến nhiều, đó là lệnh tập trung
cải tạo. Thực chất của lệnh này, cậu cho là một biện pháp giết hoặc đầy đoạ người
kiểu mới.
Nói đến
đây, mắt cậu sáng lên như phát hiện ra một điều mới mẻ rồi nhoà dần ảm đạm
trong nỗi buồn. Cậu nói với tôi, thực ra cậu đang nói với chính mình. Cậu là
người trong cuộc, không có phương kế nào cứu cậu ra khỏi vòng tập trung cải tạo.
Đến cuối năm, cậu khăn gói lên đường mười hai năm. Cậu không một nét nào giống
mẹ tôi và bá, cao to, cặp mắt tinh nhanh. Tuổi trẻ cậu bôn ba từng trải nhiều
nơi, cậu thường ngâm nga:
Làm trai
cho đáng nên trai
Phú xuân cũng trải, Đồng nai cũng từng.
Thời
kháng Pháp, cậu cộng tác với đối phương đeo lon trung uý. Năm 1951, cậu về
làng, thành lập địa phương quân, xây đồn chống Cộng. Cuối năm 1952, cậu tình
nguyện dâng đồn cho Vẹm, lúc đó được coi là người lập công chuộc tội. Lập trường
thay đổi, bấp bênh của cậu là cái giá phải trả sau này. Hồi cải cách, cậu bị bắt
giam và bị đưa ra đấu tố. Cũng may là đợt cuối cùng, đoàn sửa sai về kịp, cậu mới
thoát khỏi cảnh làm đồ đệ của Diêm vương.
Cậu hạ thấp
giọng biểu hiện sự căm hờn và rên xiết:
– Một con
bò còn sức kéo nếu mổ ăn thịt là không kinh tế. Một con người có tội (theo quan
điểm của họ là có tội), nếu đem hành quyết chỗ đông người vừa mang tiếng là tàn
bạo, vừa không kinh tế. Với khẩu hiệu bắt nhầm còn hơn bỏ sót, hãy đưa kẻ phạm
tội vào rừng núi, biến thành thân trâu ngựa làm ra của cải vật chất. Để từng thớ
thịt trong cơ bắp nó teo dần, từng tế bào thần kinh cũng huỷ hoại dần, cứ thế một
vài chục năm sẽ tự nó dẫn thân về địa ngục. Khi thấy cần phải làm ngay mục đích
sẽ cho nó lặng lẽ yên nghỉ nơi vực thẳm. Nếu ai may mắn được tha về cũng thân
tàn chờ ngày…
Nếu như hồi
cải cách, bọn quỷ đỏ vừa giết người vừa hò la, gào thét thì nay với gọi là “lệnh
tập trung cải tạo”, sau khi uống máu người, chúng lau mồm bằng khăn sực nước
hoa.
Lệnh tập
trung cải tạo bắt những người không có hành vi phạm pháp, mà bắt vì tư tưởng.
Do đó, họ có thể bắt bất cứ ai nếu họ thấy nghi ngờ. Hồi cải cách, cái gọi là
“toà án nhân dân đặc biệt”, đặc biệt ở chỗ không cần chứng cớ thì lệnh tập
trung cải tạo cũng đặc biệt như vậy. Cậu nhắc lại rằng, buồn bã, chán đời cũng
là một tội – tội không yêu cuộc đời, không yêu chế độ, nếu không ghi trong bộ
“luật rừng”thì rơi vào diện tập trung cải tạo. Bởi vì luật pháp của họ không cần
công minh hay công lý mà chỉ là một công cụ của nền chuyên chính vô sản…
Nghe cậu
nói đến đây, bá xen vào:
– Nói làm
gì nữa, nó bướng lắm. Cứ ở đây, nó phải đi cải tạo, tôi mắc tội liên quan cũng
khổ nhục. Tâm ạ, mày đi chỗ khác mà ở.
– Em xin
chị – Cậu nói – hãy thương lấy cháu, đừng làm thế.
– Nó ở
đây, tôi chẳng được lợi lộc gì, mà còn có hại. Tôi không chứa nó nữa.
Tôi
thoáng nghĩ ở chùa Đức vua, những người Hà vĩ ra tạm trú để làm, ta đến nói với
anh Cương xin ở nhờ vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét