Kỳ 5
Ông Minh
tù ở trại Vĩnh quang, được về năm 1974. Năm 1963 ông lên đường vào trại, gia
đình bị cưỡng bức đi kinh tế miền núi. Năm 1969, gia đình ông cũng như hàng vạn
gia đình khác liều lĩnh về Hà nội, đang trong tình trạng chiến tranh nên đảng
khoan nhượng. Ông có tám người con, khi ông vắng nhà, vợ đi ngoại tình và ly dị.
Chẳng phải riêng ông, phần lớn những người đi tù đều rơi vào cảnh vợ bỏ, con
hư. Đầu năm 1976, vợ ông vào Nam. Bốn đứa con ra ga tiễn mẹ, chúng thấy bà
khoác vai một gã kém tuổi đứa con trai cả của bà. Gã này đã có thời là con rể
tương lai. Cả bốn đứa đứng xa khóc nhìn mẹ rồi bỏ về.
Tám người
con của ông đều hư hỏng, bội bạc. Với tuổi gấn sáu chục, biết không thể trông cậy
vào con, ông mở nhiều cuộc công du để tìm người bạn đời khác trên miền đất lạ.
Ròng rã nhiều năm, ông lui tới miền quê tỉnh Nam hà nhưng đều xôi hỏng, bỏng
không. Ông lại tiếp tục mở những cuộc hành trình lên miền thượng du, cuối cùng
ông đã thực hiện được mục đích. Người tình của ông ở Mù cang chải, sinh được một
bé gái mấy tháng thì ông về cõi. Ông làm nghề mộc, năm 1974 anh Thư được về
cùng làm mộc với ông. Tháng tám năm 1976, ông ký hợp đồng làm nhà tạm cho công
ty vận tải cấp một với danh nghĩa là tổ trưởng mộc của hợp tác xã 307. Đương
nhiên, ông là cai của mười một người, trong đó có tôi và anh Thư. Sau đó, tổ mộc
làm cho ông Lã văn đồng theo giá khoán thoả thuận. Tôi nói với ông Minh:
– Khi bác
nhận công trình của cơ quan, bác là cai, cháu làm thuê. Còn hiện tại đều làm
thuê cho ông Đồng, vậy tiền công phải được chia công bằng, sòng phẳng.
Ông Minh
đồng ý. Khi làm việc, tôi có thói quen theo dõi nhân công (nhớ chứ không ghi)
và kết quả công việc để tiên liệu hiệu quả lao động. Qua ba công trình liên tiếp,
ông Minh thanh toán tiền công rất thấp so với sự tính toán của tôi, buộc tôi phải
tìm ra số liệu xác thực qua ông Lã văn Đồng. Thì ra ông Minh tăng số công lên
và bớt khối lượng công việc đã làm để ăn chặn với những bằng chứng ông Minh
không thể chối cãi. Tôi quyết định không làm với ông Minh nữa. Người chống lại
tôi quyết liệt là anh Thư. Anh nói:
– Quả thực
ông Minh có bớt lại một số tiền để mua hàng hối lộ kiếm việc làm.
– Hối lộ
cho ông Đồng hay ông cai nào? – Tôi biết anh Thư cũng chẳng xơ múi gì, chỉ vì
nghe những lời đường mật mà anh Thư bênh vực cái sai “gà què ăn quẹn cối xay”.
– Cậu nói
khôi hài quá, việc gì phải hối lộ cai? Ông Minh hối lộ cán bộ nhà nước để có
công trình.
– Nếu thế
ông Minh sẽ là cai. Thử hỏi, công trình nhà tạm ở công ty vận tải, em được bảy
đồng một công, trong khi đó ông Minh có thể được hàng trăm đồng một ngày, ông
có chia cho ai không?
– Không cần
nói dài dòng, tôi quyết định cậu phải làm ở hội mộc này. Nếu cậu ly khai, cậu sẽ
chịu hậu quả.
– Sao anh
lại có quyết định sai trái ấy?
– Nếu cậu
không nghe tôi, thành phố Hà nội không phải là nơi cậu dung thân. Tôi sẽ làm bất
cứ giá nào để ngăn chặn việc làm của cậu.
– Tuỳ anh
– Vì chịu ơn anh nên tôi không có lời phản ứng cứng rắn, Khi làm một việc gì,
tôi suy tính rất kĩ càng và khi đã quyết thì thực hiện đến cùng.
Tổ mộc
chia thành hai nhóm. Nhóm ông Minh có anh Thư, ba đứa con trai của ông ấy và
hai người nữa. Nhóm của tôi có ba thanh niên mới học nghề nhưng có sức khoẻ và
nhiệt tình. Anh Thư đến nói với ông Đồng:
– Chúng
tôi thương thằng Tâm, thực sự nó chưa đảm nhận được việc gì. Nếu ông giao việc
cho nó là hoàn toàn hỏng, bán nhà cửa để đền có ngày.
– Tôi xin
lỗi bác. Chú Tâm đến với tôi bằng trái tim. Vì vậy tôi cũng đón tiếp chú ấy bằng
một tấm lòng chân thực. Tôi nghĩ rằng, quan hệ với nhau lấy nhân tình làm gốc sẽ
không bao giờ có hại.
– Không
biết làm dẫn đến bê bối thì sao?
– Mộc xây
dựng là một nghề đơn giản, tôi không tin là chú Tâm chịu bó tay. Nếu gặp khó
khăn chúng tôi sẽ mau chóng tìm ra lối thoát. Các bác là những nạn nhân của sự
bất công, tại sao lại cư xử bất công với những người đồng cảnh của mình? Nếu
không giúp đỡ, thương yêu nhau được nên để mỗi người một nẻo đường kiếm sống.
Sau một
thời gian anh Thư tìm mọi cách để bôi nhọ uy tín của tôi không có kết quả gì,
anh viết một bức thư gửi chị Hoa với nội dung như sau: “Kính gửi anh Tâm. Anh
làm ơn cho tôi xin lại bộ đồ mộc để tôi kiếm ăn. Tôi lưu ý anh phải trả ngay,
không được chậm trễ. ”
Không biết
cá tính của anh Thư, chị Hoa cứ trách tôi, tôi đành ngậm ngùi im lặng, không
dám nói với chị về sự đổ vỡ này. Còn bộ đồ mộc anh Thư cho tôi, tôi dùng đến thời
điểm đó đã hỏng gần hết. Tôi có thể trả lại anh Thư những đồ tôi mới sắm nhưng
trước hết tôi phải nghỉ việc vì thiếu đồ dùng. Tối hôm ấy, tôi đến nhà anh Thư
để thương thảo. Thật lạ lùng, anh Thư lại vô cùng niềm nở. Anh nói:
– Từ nay,
chúng ta khép kín quá khứ lại, mở đầu những trang quan hệ tốt đẹp mới. Tôi lại
cộng tác làm ăn với cậu.
– Còn ông
Minh?
– Để ông ấy
đi con đường riêng. Không làm với cậu tôi thấy buồn và nhớ lắm.
Nói xong
anh Thư siết chặt tay tôi. Từ hồi đó, quan hệ giữa hai người không có gì nổi
sóng. Anh Thư dành cho tôi một tình cảm thân ái. Tuy nhiên do tính khí thất thường
về cách đối xử của anh với người khác và công việc có những chặng thời gian anh
Thư xa tôi.
* *
*
Ba ngày
liền, khi tôi đi làm thì ở nhà chị có người đến hỏi tôi, họ nói là cán bộ sở
công an. Ngày thứ tư tôi nhận được giấy gọi với nội dung sau: “… Đúng hai giờ
chiều ngày 3 – 12, Nguyễn Tâm có mặt ở 87 Trần hưng Đạo. Nếu sai phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm… ”
Chiều hôm
ấy, tôi đến cổng gác công an thành phố đã có người đợi sẵn, hắn khoảng năm mươi
tuổi, tiếng nói lơ lớ miền Trung.
– Anh là
Nguyễn Tâm?
– Vâng,
thưa ông!
– Anh
theo tôi – Hắn ra lệnh.
Hắn dẫn
tôi đến phòng số chín, có hai người ngồi chờ. Một người khoảng bốn mươi tuổi, mắt
xếch, khuôn mặt hung dữ tợn, một thanh niên khoảng hai mươi nhăm tuổi, có thể
gã này đã nhiều lần đến nhà chị tôi. Gã mắt xếch đi đóng kín các cửa lại, bật
hai đèn ống, và ra lệnh cho tôi ngồi xuống đối diện với ba người của gã. Gã miền
trung nói mở đầu:
– Từ ngày
anh được về đến nay, chúng tôi thường xuyên cử người đến thăm hỏi, tìm hiểu cuộc
sống của anh. Được biết anh có việc làm, sinh hoạt hàng ngày ổn định, sở có phần
yên tâm. Vậy hôm nay, chúng tôi gọi anh đến đây để nghe anh trình bày, cho rõ
ràng hơn.
– Cảm ơn
ông, từ ngày tôi về cuộc sống cũng bình thường như nhận xét của ông…
– Anh hãy
im – Gã mắt xếch trừng trừng nhìn thẳng vào mặt tôi quát – Bình thường cái gì?
Chúng tôi muốn anh phải trình bày cho rõ. Từ ngày được về đến nay, anh đã quan
hệ với những phần tử nào nói xấu chế độ ra sao, viết lách những gì đề chống đảng?
– Tôi vô
cùng ngạc nhiên về câu hỏi nặng nề của ông – Tôi bình tĩnh trả lời – Nếu tôi có
sai phạm gì xin ông cho biết?
– Chúng
tôi muốn sự thành khẩn của anh. Nếu ngoan cố, pháp luật tiếp tục thẳng tay trị
tội. Anh quan hệ với tên Thư thế nào?
– Cùng
làm mộc ở hợp tác xã 307, chỉ có thế thôi, thưa ông.
– Còn
ngoan cố à? Hai tên phản cách mạng làm việc với nhau hàng ngày mà không nói xấu
chế độ?
– Cùng ở
một nhà tù ra, cái gì tôi biết thì anh Thư cũng chẳng lạ gì. Thưa ông, chẳng
còn gì để nói với nhau.
– Trong
tù, hai anh thân nhau, hay nói chuyện với nhau à? – Gã miền Trung ôn tồn hỏi.
– Thưa
ông, trong tù chúng tôi đều có thể trao đổi, chuyện trò, không cứ gì anh Thư.
– Các anh
có hay nói xấu chế độ không?
– Không,
chúng tôi không nói xấu chế độ, mà chỉ nói sự thật.
– Anh cho
một ví dụ?
– Thời thực
dân phong kiến, người bị áp bức có thể tha phương, cầu thực. Còn thời nay không
thể, bị trói lại, bịt mắt, bịt mồm để đánh.
– Như thế
mà không phải nói xấu chế độ à?
– Thưa
ông, đó là sự thật chứ không phải nói xấu.
– Tôi hỏi
anh, ai bị áp bức? – Gã mắt xếch lại quát.
– Chúng
tôi, thưa ông!
– Anh bị
áp bức thế nào? – Gã thanh niên ngồi giữa làm thư ký cũng hỏi xen vào.
– Thưa
ông, tôi đi học thì bị đuổi, khi trưởng thành không xin được việc làm để kiếm sống
vì lý lịch gia đình. Như thế có phải là bị áp bức không?
– Cách mạng
chỉ mang lại quyền lợi cho nhân dân lao động. Các anh thuộc thành phần đối lập
phải chịu thiệt thòi – Gã miền Trung giải thích.
– Chúng
tôi bị áp bức, bị vùi dập đã đành. Còn người dân mới được hưởng những lời hứa tốt
đẹp của đảng mà thôi.
– Mày phủ
nhận tính ưu việt của chế độ đối với người lao động à? – Gã mắt xếch quát to và
lấy tay đập mạnh xuống bàn.
– Tôi xin
ông hãy bình tâm. Ông có to tiếng trấn áp tôi thì cũng chỉ làm cho ông mệt. Với
tôi đã quen rồi.
– Còn gì
nữa, anh nói tiếp đi? – Gã miền Trung hỏi.
– Tôi cho
rằng, hiện tại quyền lợi là của đảng, còn tương lai là của nhân dân…
– Đảng
đã, đang mang lại quyền lợi cho người lao động. Do vậy nhân dân ta tin tưởng
tuyệt đối vào đảng, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Điều đó đã được minh chứng
bằng công cuộc chống Mỹ, cứu nước thu được thắng lợi hoàn toàn. Anh nghĩ gì về
sự kiện trọng đại này? – Gã miền Trung hỏi.
– Thưa
ông, chiến thắng quân sự không có sức thuyết phục về tính ưu việt của chế độ.
Những chiến tích của quân Nguyên, Macédoine, Napolêon, Hitler… không minh chứng
được rằng các thể chế đó là được lòng dân.
– Theo
anh, sự nghiệp của đảng rồi cũng sụp đổ như các đế quốc đó chăng?
– Thưa
ông, đúng thế.
– Mày đừng
có mơ tưởng hão huyền. – Gã mắt xếch lại quát – không bao giờ cách mạng mất cảnh
giác để bọn phản cách mạng trỗi dậy, nghe chưa?
– Thưa ông,
chính học thuyết Marx cũng viết “mọi sự vật đều biến đổi phát sinh, phát triển
và diệt vong”. Với sức tàn, lực kiệt, chúng tôi không có hy vọng gì cuộc đời
mình nữa. Và có thể trọn
đời phải sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên mọi thể chế tất yếu phải
có ngày cáo chung. Chỉ có thời gian và vũ trụ là vĩnh tồn.
– Hàng chục
năm tù, mày vẫn chưa chịu cải tạo?
– Thưa
ông, bạo lực không thể ép buộc con người nhận thức sai một chân lý. Thời gian
tù tội làm cho con người yếu sức đi, cơ thể bị tàn phế. Và từ đó có thể làm cho
người đó hoảng sợ trước hình phạt mà thôi. Đương nhiên, tôi cũng hiểu rằng chân
lý thuộc về kẻ mạnh.
– Lời nói
và thái độ ngoan cố của mày trước cơ quan pháp luật là chứng cớ để tiếp tục đưa
mày vào trại – Gã mắt xếch lại nặng lời.
– Thưa
ông, nếu tôi nói trước đám đông hoặc rải truyền đơn, các ông mới có thể buộc tội
phản tuyên truyền. Còn hiện tại các ông hỏi, tôi phải nói thật những ý nghĩ của
mình. Chả lẽ đảng không muốn nghe những lời nói thật? Còn những kẻ trước các
ông tỏ thái độ khúm núm, vâng dạ thì đó chỉ là những cử chỉ và lời giả dối. Xin
lỗi, tôi vốn tin vào số mệnh, nếu có một biến cố nào lại đến với tôi để chấm dứt
hoặc rút ngắn cuộc đời khổ nhục, vô vọng, biết đâu cũng là một điều may? Thưa
các ông, con vật khi bị đánh còn được kêu, huống chi con người khi bị đòn đau,
đảng cũng nên ân xá cho tội khóc than.
– Chúng
tôi gọi anh đến đây để xem xét thái độ của anh với cách mạng. Còn trại tập
trung hiện nay phải dành cho bọn ngụy quyền Sài gòn. Tất nhiên kẻ nào vẫn ngoan
cố chống lại thì cánh cửa nhà tù sẽ mở rộng để đón vào – Gã miền Trung nói.
– Thưa
ông, pháp luật của nhà nước giờ đây có thay đổi gì không? Như xưa kia, các trại
tập trung tiếp tục xây dựng thêm mới chứa hết người, mà thực tế có mấy người
dám chống lại đảng đâu.
– Chính
sách của đảng trước sau như một. Những kẻ có tư tưởng không phù hợp với chế độ
xã hội chủ nghĩa tức là chống lại, tức là kẻ thù của đảng – Gã mắt xếch nói – một
xã hội còn giai cấp đối lập, còn tồn tại các tôn giáo là còn kẻ thù của đảng.
Thế giới còn các thế lực đế quốc phản động cho các giai cấp đối lập thì những
người Cộng sản phải phát động những cuộc chiến tranh cách mạng để tiêu diệt
chúng.
– Chúng
tôi thay mặt sở yêu cầu anh thực hiện hai vấn đề. Thứ nhất anh phải kịp thời tố
cáo những sai phạm của kẻ khác, thứ hai anh phải tạo điều kiện xây dựng gia
đình. Làm được việc này, cuộc sống của anh sẽ ổn định và chúng tôi cũng bớt phần
phải chú ý đến anh. – Gã miền Trung nói.
– Thưa
ông, tôi xin trả lời vấn đề thứ nhất, tôi cũng như mọi người đi tù về ngày đêm
phải lo kế sinh nhai không còn thời gian nào để quan tâm đến viêc khác. Vả lại,
đất nước đã thống nhất, vũ khí tuyên truyền sắc bén trong tay đảng nên chẳng ai
dại gì gây tai vạ vào thân. Vấn đề thứ hai, chúng tôi cũng đang mong ước thế
nhưng thực hiện được xem ra còn xa lắm. Các ông chẳng lạ gì, do sự tuyên truyền
của đảng, đại đa số người dân coi chúng tôi như những bệnh lậu, giang mai, ghẻ
lở… liệu có người đàn bà nào dám lấy? Mặt khác, muốn xây dựng gia đình thì phải
có nhà riêng, trong lúc tay làm hàm nhai còn chật vật, lấy tiền đâu ra mua sắm?
– Muốn có
tương lai, anh phải cố gắng dành dụm tự tạo ra phương tiện. Còn đối tượng, nếu
anh xác định được vị trí của mình thì chẳng khó khăn gì lắm. Xưa kia các cụ có
câu: môn đăng hộ đối, ngày nay cũng thế thôi. Anh có vết đen với đảng thì nhiều
người đàn bà có vết nhơ với xã hội. Chẳng hạn gái làm tiền, lừa đảo, buôn gian,
bán lậu phải đi cải tạo về. Thực ra, xếp hạng thứ trong xã hội họ còn cao hơn
anh đấy. Vết nhơ của họ được đảng dễ dàng tha thứ hơn vết đen của các anh nhiều
– Gã miền Trung trả lời.
– Tôi cảm
ơn lời nói chí tình của ông. Chúng tôi cũng biết rõ vị trí của mình.
Từ đầu đến
cuối buổi thẩm vấn, trấn áp, gã thanh niên chỉ hỏi một lần, thời gian còn lại,
gã cắm đầu viết liên tiếp. Viết xong, gã bảo tôi kí vào biên bản, kí vào lề từng
trang, cuối cùng ghi rõ họ tên.
– Các anh
gọi tôi đến đây như một buổi hỏi cung?
– Tội phản
cách mạng, một vết đen khắc sâu vào cuộc đời mày. – Gã mắt xếch quát – Nay đảng
tạm tha nhưng vết đen còn đó. Bất cứ lúc nào sở cũng có thẩm quyền gọi mày đến
hỏi tội.
Tôi lặng
lẽ bước ra khỏi phòng, gã miền Trung dẫn tôi ra cổng gác. Gã ôn tồn nói:
– Anh
chưa trực tiếp đứng trong hàng ngũ đối phương cấm súng chống lại cách mạng, tôi
khuyên anh hãy sống lương thiện và lập gia đình. Chắc chắn thành kiến của xã hội
đối với anh sẽ mờ dần.
– Tôi cảm
ơn ông.
Tôi thất
thểu đi bộ về nhà chị, tâm hồn chìm đắm trong nỗi suy tư. Có thể sắp đến đại hội
đảng, chúng gọi tôi đến sở để uy hiếp tinh thần. Tôi đang sống những tháng năm
vô vọng, khổ nhục, quá khứ, tương lai vẫn triền miên như thế. Không tìm thấy một
nguồn an ủi, không hẹn một niềm vui, tôi sẽ chết dần mòn trong cảnh cô đơn, tủi
nhục vò xé.
Bóng chiều
chạng vạng tôi mới đến nhà chị. Cả nhà im lặng nhìn tôi. Chị Hoa lạnh lùng hỏi:
– Họ hỏi
cậu chuyện gì?
– Chuyện
cũng bình thường thôi chị ạ.
– Công an
sở gọi hỏi tội mà chuyện bình thường à? – Lập nhìn tôi, mỉm cười chế giễu, hỏi.
– Đối với
tôi, khổ nhục, tù tội là chuyện bình thường. Nếu được sống bình yên mới là chuyện
bất thường…
– Cháu
chào cô chú, anh chào các em – Thằng Vinh con anh Q
uang đến.
– Cháu ở
đâu về? – Chị Hoa hỏi.
– Cháu
vào Nam chiến đầu đã ba năm. Từ thị xã Kontum, cháu ra nghỉ phép. – Vinh trả lời.
– Cháu biết
ai đây không? – Chị Hoa chỉ vào tôi hỏi.
– Không,
cháu hoàn toàn không biết.
– Thế ra
bố cháu không nói với anh là còn chú Tâm – chú ruột anh nữa à?
– Không,
thưa cô! Bố cháu bảo ở Hà nội, chỉ có cô và chú Đản đã chết vì bom bi Mỹ năm
1967, thế thôi.
– Bố mẹ
anh vô tâm đến thế là cùng. Đây là chú Tâm, em ruột bố anh.
– Ra thế!
Đến nay cháu mới biết có chú.
– Trí nhớ
của anh tồi đấy. Khi tôi xa quê hương, anh đã lên sáu. Năm 1963, bố con anh lên
chơi Hà nội, chính tôi dẫn đến thăm gia đình ông Nghiệm ở phố hàng Vôi. Qua hồ
Gươm, tôi mua kem cho anh ăn.
– Bác
Quang không nói gì cho anh Vinh là đúng lắm. – Lập nói vẻ hồ hởi – không ai muốn
có một người nhà như cậu. Cậu chỉ mang lại nỗi nhục hoặc ảnh hưởng xấu đến gia
đình.
– Sao lại
ảnh hưởng xấu? – Vinh hỏi Lập.
– Mắc tội
chuẩn bị vượt tuyến vào Nam theo địch phải đi cải tạo hàng chục năm. Như thế có
ảnh hưởng xấu đến người nhà không?
Nghe Lập
nói, mặt Vinh hơi biến sắc. Vinh ngồi lùi xa tôi hơn. Nó nói:
– Nguy hiểm
thế cơ à? Bố cháu không nói có phần sai, cũng có phần đúng. Sai là về tình cảm.
Đúng là nếu địa phương cháu biết chú đi tù, chúng cháu sẽ bị vùi dập. Trước mắt
đường tiến thân của cháu – vào đại học và kết nạp đảng – sẽ bị ngăn cản.
Nghe Vinh
nói, tôi rùng mình hoảng sợ. Ghê tởm chưa, đường tiến thân của cháu tôi là gia
nhập một tổ chức tội phạm đã thiết lập nên một chế độ tàn baọ dã man nhất trong
lịch sử?
Được mệnh
danh là một con người, ít ra nó không thể quên mối hận thù ai đã bắn ông nội
nó, ai đã dồn ông ngoại nó đến chỗ phải tự kết liễu cuộc đời, ai đã cướp hết
tài sản gia đình nó, ai đã áp bức bố mẹ nó phải từ bỏ quê hương đi đến một cuộc
sống khắc khoải ở nơi rừng thiêng, nước độc.
Đến nay
nó phủi sạch nỗi đau thương, nhục nhã ấy để muốn đi cùng đường với lũ vô thần,
khát máu.
Hơn ba thập
kỷ đàn áp và bịp bợm, có lẽ Cộng sản đã thành công trong sự nghiệp thuần hoá một
dân tộc để con người lẫn lộn trắng đen, lẫn lộn giữa cái vinh và cái nhục, phủ
nhận ông cha, coi chúng là thiêng liêng, tuyệt đối về chân lý và sức mạnh:
Thuở anh
chưa ra đời,
Trái đất
còn nức nở,
Nhân loại
chưa thành người,
Đêm ngàn
năm man rợ.
Thấy tôi
im lặng, Vinh nói tiếp:
– Cháu
cũng biết thế hệ bố cháu và chú bị vùi dập nhưng tại sao chú lại hành động điên
rồ như vậy? Tại sao chú không cam tâm chịu đựng như hàng triệu người cùng số phận
để mặc cảm của xã hội đối với gia đình mình được phai nhạt, tạo cho con cháu bớt
phần tủi hổ.
Cũng may
là mỗi người sống một địa phương nên bản lý lịch của cháu coi như không có chú.
Nhưng nếu họ điều tra thấy thì số phận anh em cháu sẽ ra sao? Tất nhiên là bị
đuổi học, bị cản trở mọi đường tiến thân.
– Vâng,
tôi sai, xin lỗi các anh – Tôi nghẹn ngào trả lời cho qua chuyện. Vì tôi có giải
thích về xã hội hoặc phản ứng trong lúc này chẳng những vô ích như mang đàn gẩy
tai trâu mà còn bị tra tấn bằng những lời nhục mạ nặng nề hơn.
– Cháu kể
cho chú nghe chuyện một người cùng đơn vị cháu. Hoàn cảnh gia đình anh ấy cũng
giống như chú. Hồi cải cách, bố bị bắn, mẹ bị bức tử, tài sản bị tịch thu toàn
bộ. Anh ấy ở nhờ chị gái đang học sư phạm sơ cấp thì bị đuổi. Muốn bỏ trốn khỏi
quê hương không được, anh ấy bị chính quyền địa phương hành hạ, chèn ép, sống
vô cùng khổ nhục. Năm 1973 nhận được giấy báo nhập ngũ, anh ấy sung sướng như
người chết đi sống lại, cho rằng đây là bước ngoặt trọng đại trong cuộc đời
mình. Thời gian chiến đấu ở miền Nam, anh ta lúc nào cũng tỏ rõ tinh thần ngoan
cường và dũng cảm. Nhiều đồng đội hỏi về động cơ của tinh thần đó thì anh ta trả
lời: “các anh chiến đấu vì sự nghiệp thống nhất tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lý
tưởng Cộng sản. Riêng tôi, chẳng những thế mà còn để rửa nỗi nhục về tính giai
cấp của ông cha tôi để lại… ”. Đến năm 1974, trong một trận đánh chống bọn nguỵ
quyền Sài gòn lấn chiếm, anh ấy bị thương nặng. Trước khi tắt thở, anh ấy yêu cầu
người chỉ huy: “Cuộc đời tôi đã hy sinh cho cách mạng, đảng cho phép tôi được
có tên trong tầng lớp nhân dân lao động”. Tuy không được kết nạp đảng nhưng anh
ấy được tuyên dương danh hiệu chiến sĩ quyết thắng. Từ tấm gương của một người
biết chết để đổi lấy danh dự, xoá bỏ mặc cảm của xã hội, cháu mong chú hãy
nghiêm khắc với lỗi lầm của mình.
– Xin lỗi,
anh dạy tôi thế đủ rồi. – Tôi muốn hét lên mày và cả thằng ấy nữa là những con
vật biết nói tiếng người, may mà kiềm chế được.
– Cháu
góp cho cậu một ý kiến thôi. – Thằng Lập nói – nếu cậu không dám chết, không biết
chết như tấm gương trên ít ra cậu cũng phải biết sống thế nào để con cháu và họ
hàng khỏi oán trách mình.
– Vâng,
tôi đã sai, xin các anh tha lỗi – Nói xong, tôi bỏ ra ngoài đường và ngẫm nghĩ,
đúng là một thời đại loạn lăng nhăng, châ
n lý bị đảo lộn.
Lần tới,
mời các bạn đón đọc: Những kẻ khổ nhục – Kỳ 6
NHỮNG KẺ
KHỔ NHỤC – Unfortunate people
NHỮNG KẺ
KHỔ NHỤC – Kỳ 6
Tôi đi
làm không có xe đạp, gần thì đi bộ, xa thì nhờ Quang, Thắng, hai phó nhỏ đèo.
Tôi không đi ô tô được từ khi ra khỏi nhà tù, chỉ ngồi trên ô tô vài cây số là
tôi bị say, đầu óc quay cuồng nôn mửa. Chiều hai mươi nhăm tết, chúng thu đồ
dùng từ xí nghiệp sứ Bát tràng về Hà nội. Tối hôm ấy, tôi đến nhà ông Đồng lấy
tiền công cho cả nhóm. Mãi đến chín giờ ông Đồng mới về, theo chân ông là một
thanh niên phụ nề. Hồi tháng sáu, khi còn xây dựng nhà kho cho xí nghiệp Nam
thái, gã ăn cắp vặt bị bảo vệ bắt được và yêu cầu ông Đồng phải đuổi.
– Mày đến
đây làm hay là để ăn cắp? – Ông Đồng quát gã – Từ nay tao không cho mày làm nữa
– Nói xong ông Đồng thanh toán tiền công cho gã và quát – Cút
Khi gã ra
đường, ông đuổi theo gã, nói:
– Ở đây,
xí nghiệp họ không cho cháu làm nữa, cháu vui lòng vậy. Chú cho cháu thêm mười
đồng và chờ công trình khác chú lại gọi cháu đi làm.
Tháng sau
đến làm nơi khác, gã vẫn không bỏ tính gian tham, lần này ông Đồng đuổi hẳn.
Nay gã biết ông Đồng lấy tiền qua ngân hàng nên đến hỏi vay:
– Chú cho
cháu mượn hai chục đến sát tết cháu xin trả.
– Một đồng
cũng không cho mày vay. Tao chỉ có thể cho mày hai chục, thế thôi và từ nay mày
đừng đến nhà tao nữa – Nói xong ông đưa cho gã hai tờ đỏ và nói tiếp:
– Đi ngay
cho tao làm việc.
Gã cầm tiền
cười tít mắt lại, chẳng chào hỏi ai.
Để bọn trẻ
mừng, ngay đêm hôm ấy tôi mang tiền đến nhà từng đứa: Quang ở Phan đình Phùng,
Tiến ở Yên phụ, Thắng ở dốc Tam đa. Tôi mượn chị Hoa cái xe đạp đi cho chóng
vánh. Đây là lần đầu tiên tôi phiền chị nhưng vừa dắt lên đường thì anh Hoàng gọi
tôi lại và bảo:
– Nhà này
chỉ có hai cái chân, không may cậu bẻ gẫy một thì treo niêu à?
Tôi lặng
lẽ dắt xe quay lại trả chị và đi bộ đến nhà Quang. Từ đó, Quang đèo tôi đến nhà
Thắng, Tiến và về nhà chị. Trên đường Quang nói:
– Chú cứ
đi bộ thì vất lắm. Trước mắt chú nên quên cái tết, vay mượn thêm để mua cái xe
tòng tọc đi lại cho đỡ khổ?
– Tao có
ước mơ từ ngày về, cố gắng dành dụm cả tiền công đợt này được khoảng sáu trăm.
Nếu số tiền đó mua được cái xe cọc cạch thì tết này tao sẵn sàng nhịn đói.
– Sáu
trăm thì yên tâm rồi, có thể mua được chiếc phượng hoàng cũ.
– Ngày
mai mày mua giúp tao nhé!
– Chiều
mai cháu gặp chú ở chợ giời.
Thế là
ngày hai mươi sáu tết, tôi có xe đi. Cái xe giúp tôi bớt phần vất vả, không ngờ
lại gây cho tôi một vấn đề rắc rối. Buổi tối ngày đầu mua xe, tôi dắt vào nhà
thì anh Hoàng cản lại và bảo:
– Nhà này
chứa cậu đã quá tải, còn chứa cái xe nữa sao được?
Tôi chưa
biết xử sự ra sao thì chị Hoa nói:
– Buổi tối,
cậu để xe ngoài sân khoá lại, khoảng mười giờ hãy cho vào nhà.
– Không hẳn
là mười giờ, cứ người nhà đi ngủ hết mới được cho vào, đến năm, sáu giờ sáng phải
đưa ra – Anh Hoàng ra lệnh.
Từ hôm
đó, tôi cố gắng giữ gìn, tránh những lời nặng nề vì cái xe nhưng người ta cố
tình gây sự thì không thể…
Một ngày
chủ nhật vào khoảng bốn giờ sáng, tôi đang ngủ thì thằng Lập quát:
– Ông Tâm
dậy mau. Ông để xe thế này ai mà lấy xe khác được? Ông mang xe ra ngoài sân
mau.
– Ngày
nào cũng vậy, tôi dắt xe vào nhà sau cùng thì phải để ngoài cùng – Tôi tỉnh dậy
trả lời – Anh đi đâu cứ dùng xe tôi.
– Ông im
đi, dậy dắt xe ra ngoài – Nó ra lệnh.
Chỉ có việc
dắt xe vào nhà và đưa ra, tôi cũng không biết làm sao cho vừa ý những người
trong gia đình chị. Buổi tối dắt xe vào nhà sớm bị ngăn cấm đã đành nhưng muộn
cũng chẳng yên, bị kêu la cà làm mất ngủ. Buổi sáng không biết có người đi đâu
sớm đột xuất lúc mấy giờ mà dậy dắt xe?
Một cái tết
cô đơn, buồn tẻ đã đến. Nghe tiếng pháo nổ dồn báo hiệu năm cũ qua, mùa xuân đến
làm tôi thêm tê tái. Mùa xuân – mùa hoa nở, mùa hy vọng và ước mơ đối với tôi
là mùa tàn héo, mùa hiu quạnh và tủi nhục. Mấy ngày tết sao dài thế, thời gian
cứ như đứng ỳ ra không muốn bước?
Tôi mong
tết qua nhanh để tôi và bọn trẻ lại sang Bát tràng làm việc. Thứ nhất tôi tránh
nơi tủi nhục là gia đình chị được ngày nào hay ngày ấy. Thứ hai, việc lao động
nặng nhọc sẽ giúp tôi vợi bớt nỗi buồn. Phương ngôn có câu “Vạn sự bất như
nhàn” với tôi thì ngược lại, thời gian nhàn rỗi là nguy hiểm – Thời gian dìm
tôi vào trong đau thương, khổ nhục của cuộc đời cũng là thời gian buộc tôi phải
nghĩ đến một tương lai đen tối và vô vọng.
Chiều
mùng bốn tết, một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi dẫn một bé gái hơn chục tuổi
đến nhà chị. Người đàn ông tự giới thiệu mình là em chồng chị cả, và bé gái là
cháu Diệu. Chú đưa cháu lên Điện biên với anh ruột nó là thằng Báu. Lần đầu hai
cậu cháu gặp nhau làm tôi vô cùng xúc động. Trong khi đó thật lạ lùng, lần đầu
cháu đến nhà dì và cũng là lần đầu hai dì cháu biết mặt nhau, chị Hoa cứ dửng
dưng như người xa lạ. Khi chưa gặp mặt, dì tỏ ra thương
cháu lắm. Nào là nó mồ côi mẹ lúc năm tuổi, phải sống trong cảnh dì ghẻ con chồng.
Lên tám tuổi, nó mồ côi bố phải ở với chú thím bữa rau, bữa cháo. Nào là chị rất
thương cháu, chị và cả cậu nữa phải có trách nhiệm giúp đỡ cháu. Đến nay, cháu
đến thăm dì, tình thương của dì biến đâu mất cả. Thì ra, tình thương máu mủ dì
dành cho cháu bằng ba tấc lưỡi, khi chưa biết mặt.
Sự hiện
diện của cháu làm lưỡi dì xơ cứng lại, không một lời chào hỏi ân cần. Phải
chăng tâm hồn dì đã nhiễm bệnh máu xám của thời đại?
Chú Tiền
– chú ruột của cháu Diệu nói:
– Tôi đưa
cháu lên ở với anh nó, không may bị nhỡ xe vậy đến đây để nhờ gia đình vài
ngày.
Chị Hoa
và anh Hoàng đều im lặng. Anh Hoàng nét mặt cau có, gọi tôi ra ngoài sân, anh
nói:
– Đây là
người nhà cậu, cậu phải có trách nhiệm, chúng tôi không biết.
– Sao anh
nói lạ lùng thế? Con Diệu gọi em là cậu thì gọi chị ấy là dì. Vả lại, em cũng
đang ở nhờ anh. Nếu không đồng ý, anh cứ nói thẳng với người ta.
– Tôi
không có trách nhiệm việc gì tôi phải nói – Anh Hoàng đùng đùng nổi giận – Mặc
cậu.
Anh trốn
tránh làm điều thiện, chị phớt lờ trách nhiệm, tất cả muốn dồn tội bất lương
lên đầu tôi phải chịu.
Tối hôm ấy,
cả nhà ăn một bữa cơm đạm bạc trong bầu không khí ngột ngạt lạnh lùng. Khách mời
chủ nhà, cháu mời dì, mời chú ăn cơm, được trả lời bằng những nét mặt giận dỗi
và im lặng.
Có lẽ do
đi xe mệt, khách đặt mình xuống giường là ngủ. Tôi nằm thao thức mãi, tôi xót
thương cháu bé bỏng, gầy yếu, côi cút nhưng hoàn toàn bất lực. Chỉ những ai sớm
mất cha, mất mẹ – thiếu vắng nguồn tình cảm thiêng liêng cao quý nhất không có
gì thay thế hoặc bù đắp mối đồng cảm với nỗi đau của cháu.
Sáng hôm
sau, dì dậy sớm đi làm, cháu cũng dậy nhìn dì với ánh mắt len lét cầu xin, dì
chỉ trả vài cái nhìn thờ ơ, ghẻ lạnh. Không một chút vấn vương, dì im lặng dắt
xe ra đường, cháu thất vọng nhìn theo dì với hai dòng lệ tuôn rơi. Một giờ sau
dì về, tưởng như ngọn lửa tình thương vừa được bốc trong tâm hồn dì bằng cái
nhìn thường trực và ánh mắt như dán vào từng cử chỉ của người ruột thịt. Dì chỉ
nhìn cháu lướt qua một lần và nói trống không:
– Tao
quên mang phiếu vải nên phải về lấy.
Dì mở tủ
lấy phiếu mua hàng rồi đi thẳng. Hy vọng hoá thành thất vọng, cháu sững sờ nhìn
theo hình ảnh người cùng máu mủ lần cuối.
Trước giờ
đi làm, anh Hoàng lại cau có bắt vạ:
– Tôi
không muốn thấy người nhà của cậu ở đây nữa. Cậu phải giải quyết.
Tôi thầm
nhủ, đến cơ sự này, mình phải làm trọng tài thôi. Tôi nói với chú Tiến và cháu:
– Từ chiều
hôm qua đến sáng nay, có lẽ anh và cháu đã cảm nhận được “lòng hiếu khách và
tình máu mủ” của gia đình này. Về phần mình, tôi cũng là người đi ở nhờ phải chịu
trăm cay nghìn đắng. Tôi vô cùng đau xót vì không giúp đỡ anh và cháu được, mặc
dù chỉ là việc nhỏ.
– Cậu cứ
yên tâm. Chúng tôi quê mùa nhưng cũng biết điều hay dở. Không may nhỡ tàu xe,
tưởng rằng dì Hoa là chỗ thân quen nhất ở Hà nội nên mới đến đây nhờ vả để chờ
đợi vài ngày – Nói xong, chú Tiền và cháu mang hành lý ra đường. Tôi theo chân
hai người và hỏi:
– Bây giờ
hai chú cháu định đi đâu?
– Chúng
tôi đến phố Mai hắc đế, nhờ một người đồng hương ở đó.
– Bà Nghiệm
– cô tôi ở phố hàng Chiếu, chú cháu đến đó, tôi chắc rằng mọi việc đều ổn thoả.
– Bà Nghiệm
sống với ai? – Chú Tiền hỏi.
– Dạo trước
cô tôi ở với con dâu. Nàng dâu có quyền có chức trong thời buổi này lại đảo ngược
cảnh mẹ chồng nàng dâu thời phong kiến. Hiện nay cô tôi ở với vợ chồng người
con gái. Tuổi già phúc đức cho cô tôi là được người con rể rất hiếu thảo và
giàu lòng nhân ái. Chú cháu không may nhỡ bước, tôi tin rằng gia đình đó sẽ hết
lòng giúp đỡ.
– Ngoài
chồng con, xem ra dì Hoa rất hẹp hòi với những người thân?
– Vâng,
chị tôi sống ích kỷ nhưng không biết ích kỷ.
– Tại
sao? – Chú Tiền ngơ ngác hỏi.
– Mở rộng
cánh cửa tâm hồn, sẵn lòng giúp đỡ mọi người, trước mắt tưởng như chịu thiệt
nhưng về lâu, về dài người đó nhận được những phần thưởng tương xứng. Sau khi về
cõi còn để lại tiếng thơm. Ai xem việc yêu thương, giúp đỡ nhau là một nghĩa vụ
thiêng liêng đáng làm và phải làm, người đó sẽ nhận được nhiều quyền lợi cao
quý sau này.
Trước khi
chia tay chú Tiền và cháu Diệu lên tàu điện, tôi cho cháu Diệu mười đồng và
nói:
– Cậu chỉ
còn thế này, cậu cho cháu. Chúc chú cháu sẽ gặp nhiều may mắn.
Từ ngày ấy,
chị Hoa không nhắc đến cháu Diệu một lần nào nữa. Đã mười bảy năm tôi không biết
cuộc sống của Diệu ra sao?
Sáng hôm
sau, tôi sang Bát tràng làm việc. Quang, Thắng, Tiến đã sang từ ngày hôm trước.
Bữa trưa hôm ấy, đồng bọn ăn bánh chưng thay cơm. Quang hỏi:
– Chú ăn
bánh chưng có nóng ruột không?
– Tao ăn
thấy ngon miệng lắm.
– Chú bảo
không thích ăn đồ nếp cơ mà?
– Không
ăn được thường xuyên nhưng thỉnh thoảng thì tuyệt vời.
– Nhà bà
chị chú không gói bánh chưng à? – Thắng hỏi.
– Gói hai
chục cái, nhưng…
– Cháu
đoán ra rồi – Quang nói – Ông thày Appagon lại chơi trò bẩn.
Tôi im lặng
nhưng thoáng nghĩ thằng Quang nói đúng. Miếng bánh chưng ngày tết anh Hoàng
cũng tìm mọi cách đối phó với tôi.
– Appagon
là ai? – Thắng ngơ ngác hỏi.
– Trí nhớ
của mày tẩm quá – Quang nhanh nhảu trả lời – Trước tết chú Tâm kể chuyện Lão hà
tiện của Molière cho chúng mình nghe là gì?
– À, à,
tao nhớ ra rồi – Thắng vỗ tay vào đùi, nói – Rồi đi đến nhận xét anh rể của chú
Tâm là bậc thày của lão hà tiện chứ gì – Thắng hỏi tôi.
– Có phải
chú ăn bữa bánh chưng này là lần đầu trong dịp tết này không?
– Đúng thế.
– Biết vậy,
cháu đã mang thêm mấy chiếc để chú ăn cho bõ giận.
– Nói thật
là hành động ti tiện chỉ làm tao khinh bỉ chứ chẳng giận hờn gì. Mặt khác, theo
quan niệm của một nhà xã hội học thì anh rể tao đáng thương nhiều hơn đáng
trách – Một nạn nhân của chính sách bần cùng hoá để đảng dễ bề cai trị. Khi đói
khổ con người dễ tối mắt lại để miếng ăn điều khiển.
– Cháu tưởng
là đói ăn vụng, túng làm liều chứ?
– Mày ngu
quá – Quang lên giọng – Câu nói đó chỉ đúng trong quan hệ giữa con người với
nhau thôi. Kho lương thực và thực phẩm của nhà nước đầy ra đấy, ngoài cán bộ và
nhân viên cửa hàng, đứa dân đen nào dám vào mà ăn vụng. Khi đói, mọi người đều
có chung một ý nghĩ là được ăn, nhưng thức ăn trong tay đảng. Đảng lại có guồng
máy vũ trang khổng lồ bảo vệ. Kẻ nào ngoan đảng cho ăn đủ sống, chính sách kiểm
soát bao tử của đảng cực kỳ hữu hiệu, đến mức cha chết không đau buồn bằng mất
sổ lương thực…
Ngày đầu về
nhà chị, tôi đã tự oán trách mình vội có ý nghĩ không tốt về gia đình chị và hy
vọng coi đây là một gia đình, sẽ làm hết mình để duy trì tổ ấm gia đình ấy.
Nhưng cuộc sống không như mong đợi, diễn biến mỗi ngày một xấu hơn. Gia đình chị
thực sự đã trở thành nơi ngục tù mới. Được làm việc với bọn trẻ, tôi vợi bớt nỗi
tủi buồn. Quang, Thắng, Tiến rất mến tôi. Khi đi làm trong nội thành chúng nói:
– Chú
không phải ăn bánh mỳ hoặc không phải lo gì bữa cơm trưa nữa, chúng cháu có
trách nhiệm
Những lời
chất phác bộc trực nhưng đượm tình người làm tôi vô cùng cảm động. Rừng không
bao giờ sạch lá, CS không thể thú tính hoá hoàn toàn xã hội, tình người vẫn tồn
tại.
Cuối
tháng giêng âm lịch, bọn trẻ làm xong công việc ở Bát tràng. Chiều hôm ấy,
chúng tôi tắm giặt, thu đồ về Hà nội. Giữa đường tôi thấy mệt mỏi, đầu choáng
váng.
Khi đến
vườn hoa hàng Đậu, Quang đi sau nhìn thấy tôi đạp xe loạng choạng, Quang hỏi:
– Chú làm
sao thế?
– Có lẽ
tao bị sốt.
– Chú cố
gắng đến nhà cháu, rồi cháu sẽ đèo về.
– Không cần
đâu, tao có thể đi về được – Nói thế, nhưng tôi nửa tỉnh, nửa mê, không còn tự
chủ được mình. Tôi định xuống xe, đi bộ.
– Chú đi
xe lảo đảo lắm, không an toàn đâu. Cháu phải đưa chú về.
– Thôi được,
mày giúp tao với.
Quang đèo
tôi về nhà chị, tôi gục vào lưng Quang, mê man. Đến đầu phố hàng Bột, Quang
phanh gấp để tránh ô tô làm tôi bừng tỉnh. Trước mặt tôi, dòng người xuôi ngược
trên đường, hàng cây trên hè phố, nhà cửa… đều đảo lộn, quay cuồng. Sực nhớ ra,
tôi nói:
– Khi đến
cửa hàng thuốc, mày dừng lại để tao vào mua nhé.
Tôi vào cửa
hàng, mua thuốc cảm cúm, không có thuốc gì ngoài khung chỉ, tôi buộc phải mua
nhưng thoáng nghĩ, rồi lại nhục với anh Hoàng khi uống loại thuốc này.
Khi đến
nhà chị, Quang dắt xe cho tôi xuống sân rồi đi bộ về nhà. Lúc đó, tôi quên khuấy
mất là bảo Quang đi xe đạp của tôi, tránh được nỗi bận tâm khi tôi đang ốm. Tôi
vào nhà lấy thuốc ra ngoài sân uống thuốc. Chị Hoa nhìn thấy hỏi:
– Cậu bị ốm
à?
– Vâng,
em bị sốt.
– Tại sao
không uống thuốc trong nhà?
– Chị
không nhớ lời của anh ấy à?
– Chị nhớ
nhưng anh Hoàng đi làm đã về đâu?
– Nhỡ
đang uống, anh ấy về thì phiền lắm.
– Thôi cậu
vào giường mà nằm.
Tôi đặt
mình xuống giường là mê man thiếp đi ngay.
– Tâm điếc
ơi, mày ăn vạ nhà tao đấy à? Mày phải dậy ngay, không được ăn vạ nhà tao nữa.
Tôi tỉnh
lại, nghe tiếng nói của thằng Biển. Tôi im lặng và tự hỏi, thẳng Biển vẫn có
tình cảm với tôi. Tháng bảy năm 1975, nó theo chị Hoa đến thăm tôi ở trại Vĩnh
quang. Khi tôi về, nhiều lần nó đèo tôi đi làm ở 16 Trần bình Trọng. Tại sao
nay nó vô lễ thế? Có lẽ nó nghe lời anh Hoàng và thằng Lập để gây sự với tôi.
– Quân mất
dạy, mày gọi cậu thế à? – Chị Hoa quát thằng Biển.
Thực ra
trong cuộc chiến cốt nhục tương tàn này, chị Hoa không phải là người trung gian
hoà giải, chị đứng về phía chồng con, chị đã thờ ơ lạnh nhạt với tôi. Tuy nhiên
lời nói vô lễ của thằng Biển gián tiếp xúc phạm đến chị. Hàng xóm, láng giềng
biết chuyện thì uy tín của chị cũng bị tổn thương.
– Tâm điếc
ơi, tại sao mày ăn vạ nhà tao? – Bỏ ngoài tai lời chị Hoa quát mắng, thằng Biển
đứng ở đầu giường tôi, tiếp tục tuôn ra những lời thô bỉ, nó muốn chọc tức chị
Hoa thêm nữa.
– Đồ mất
dạy, mất dạy. – Chị Hoa gào lên.
Lúc đó
anh Hoàng và thằng Lập cùng về, chị Hoa chạy ra sân phân bua:
– Con anh
mất dạy quá! Cậu Tâm đi làm về bị sốt, nó cứ đứng ở đầu giường, chửi bới cậu.
– Bà im
đi, đừng bênh em bà nữa – Lập quát mẹ.
Anh Hoàng
im lặng, trợn mắt nhìn chị Hoa. Dắt xe vào đến cửa, anh vội chạy ra ngoài sân,
kêu toáng lên:
– Không
chịu nổi, không chịu nổi. Đã bảo khi uống thuốc phải ra ngoài.
– Nó uống
ở ngoài sân đấy, có dám uống ở trong nhà anh đâu?
– Làm sao
thì làm, đừng để tôi phải ngửi mùi khó chịu này.
– Nó đang
sốt nặng, tôi xin anh.
– Không
được, từ nay nó ốm đau phải đi chỗ khác.
– Tôi xin
anh tha cho nó – Nói xong, chị Hoa cũng đi nằm.
Tôi tỉnh
dậy, chứng kiến cơn điên loạn của gia đình chị, sau đó lại thiếp đi. Có lẽ đến
nửa đêm, tôi tỉnh giấc, đầu đau như búa bổ. Tôi sực nhớ ra, xe để ngoài sân.
Tôi gắng sức bò dậy, lảo đảo ra ngoài khoá xe, đây là tài sản duy nhất, tôi
dành dụm, chắt chiu từ ngày về, để ngoài sân ban đêm còn hay mất là do may rủi
chứ chẳng an toàn.
Khốn nỗi,
nếu tôi mang xe vào nhà lúc đó sẽ chịu một trận lôi đình nữa. Tôi lại vào giường
nằm, trong khoảng khắc lại rơi vào một cơn ác mộng:
– Tâm điếc
ơi, mày ăn vạ nhà tao đấy à? Mày phải dậy ngay, không được ăn vạ nhà tao nữa.
– Bà im
đi, đừng bênh em bà nữa.
– Không
được, từ nay nó ốm đau phải đi chỗ khác…
Thình
lình tôi bừng tỉnh bởi tiếng quát của thằng Lập:
– Ông Tâm
dậy mau! Ông xem đây, vì ông mà gia đình tôi tan nát.
Tôi ngồi
nhổm dậy thấy anh Hoàng và thằng Biển đang ôm chặt lấy chị Hoa.
– Ông thấy
chưa? Nó đập phá nhà tôi – Thằng Lập càng quát to hơn – Nó đập phá nhà tôi, ông
phải chịu, ông phải chịu.
– Lập ơi,
mẹ mang nặng đẻ đau, con gọi ai là nó? – Chị Hoa vừa nói vừa khóc nức nở.
– Chính
bà, bà là nó. Bà đập phá nhà tôi vì thằng em bà.
Tôi vùng
dậy, loạng choạng chạy ra ngoài, dắt xe lên đường và ngồi lên yên, đạp. Trước mắt
tôi mọi cảnh vật, con người đều quay cuồng, đảo lộn, bên tai vẫn văng vẳng tiếng
quát, nó đập phá, ông phải chịu, ông phải chịu.
Bầu trời
mây đen bao phủ ảm đạm, mưa xuân mù mịt, đường thưa thớt người qua lại. Qua ô
chợ dừa, tôi rẽ sang phố Khâm thiên. Tôi không có ý định đi đâu cả. Như một bản
năng, tôi chạy trốn khỏi nơi tủi nhục.
– Ơ, ơ,
cái anh này đi thế à?
Tôi bàng
hoàng bừng tỉnh nhận ra, xe tôi suýt nữa đâm vào xe một cô gái đi bên trái.
– Xin lỗi
– Biết mình không tự chủ được nữa, tôi xuống xe dắt bộ. Mệt và đau đầu quá, tôi
muốn gục ngay xuống đường. Nửa mê, nửa tỉnh, tôi loạng choạng bước như đang
chơi vơi trong không khí. Đến cửa rạp Dân chủ, tôi khoá xe, ngồi thu lu lại, đầu
gục xuống hai đầu gối. Có lẽ chỉ khoảng khắc tôi lại thiếp đi.
– Bốp! một
cái tát mạnh vào má bên trái làm tôi hoảng hốt tỉnh lại. Đứng trước mắt tôi một
người đàn ông hơn bốn mươi tuổi. Thấy tôi mở mắt ngẩng đầu lên, ông ta nở một nụ
cười đôn hậu và liền hỏi:
– Anh bạn
ngồi đây mà ngủ à?
Tôi ngơ
ngác chưa biết ra sao thì ba thanh niên cách xa mươi bước chạy lại, một đứa
quát:
– Đánh bỏ
mẹ thằng kia đi, chúng mày ơi, nó làm mình hỏng ăn rồi.
Người đàn
ông vội chạy vào ngõ Thổ quan. Thấy thế, tôi mở khóa dắt xe đi. Một em bé trai
hơn chục tuổi, chạy theo tôi, nói:
– Chú
không biết bọn bụi định lấy xe của chú à?
– Không!
– Bác vừa
giờ đến đánh chú là để báo động cho chú đấy.
– Cảm ơn
cháu, vừa rồi chú mới hiểu ra.
Như trong
cõi mộng, tôi dắt xe đi mà không biết mình đang đi đâu nữa? Một phụ nữ đi qua,
dừng xe tới hỏi:
– Anh này
say rượu à?
– Tôi bị
sốt – Tôi giật mình trả lời.
– Bước đi
lảo đảo, nghiêng ngả ngã dễ như chơi, tại sao anh không lên xích lô mà về nhà.
– Tôi cảm
ơn chị – Tôi muốn kêu lên, tôi có nhà đâu. Vì vô gia cư, tôi mới đến nông nỗi
này.
Đi hết phố
Khâm thiên đến phố Nguyễn thượng Hiền, tôi thấy trong chòi
gác chỉ đường, một cảnh sát giao thông đang ngồi ở đó. Tôi thoáng nghĩ, chỗ này
có thế an toàn.
Tôi dắt
xe đến vỉa hè bên chòi gác, khoá xe và ngồi dựa lưng vào một bức tường. Có lẽ
cũng chỉ trong khoảnh khắc, tôi lại rơi vào một cơn ác mộng:
– Tâm điếc
ơi, mày ăn vạ nhà tao đấy à?
– … Ông
xem đây, vì ông mà gia đình tôi tan nát. Nó đập phá, ông phải chịu, ông phải chịu.
Một bàn
tay đặt trên đầu tôi, lắc làm tôi chợt tỉnh.
– Khoá xe
của mày đâu? – Một thanh niên mặt rỗ, hung tợn, tay nắm ngực áo tôi, tay kia
lăm lăm con dao nhọn, hỏi.
– Ơ, ơ!
Anh làm gì tôi? – Tôi hoảng hốt kêu lên. Và nhìn chòi gác chẳng thấy cảnh sát nữa.
– Im
ngay! Ông đâm chết bây giờ.
– Phải
đưa chìa khoá xe đây mày mới được an toàn – Một gã nữa vừa doạ, vừa móc túi áo,
túi quần tôi. Không thấy chìa khoá xe, gã nói:
– Mày giấu
đâu?
– Có thể
tôi bỏ rơi rồi. – Tôi trả lời và thoáng nghĩ mất chìa khoá là may trong lúc
này.
– Nó có
tiền không? – Gã cầm dao nhọn, hỏi.
– Có mấy
đồng thôi – Gã kia móc ở túi áo tôi ra và nói – mình thu để nốc một chầu bia.
Ta phá khoá chăng?
– Tay
không phá thế nào được, phải có búa.
– Gọi
xích lô chở xe đi.
– Phải đấy!
Xích lô – Gã gọi bác xích lô đang đi trên đường Nam bộ. Bác xích lô vô tình tiến
lại gần, khi nhìn thấy rõ, bác vội vã đạp xe bỏ chạy và kêu to:
– Cướp,
cướp!
Có lẽ
nghe thấy tiếng kêu, tên cảnh sát giao thông lúc nãy mới từ nhà dân gần đó
thong thả đi ra. Thấy bóng công an, hai gã trấn lột buông tôi, đi rảo bước rẽ
sang phố Yết kiêu. Khi đó, trời đã tạnh mưa, hửng nắng, xe đi lại như mắc cửi
trên đường. Trên vỉa hè, người đi bộ qua lại tấp nập. Ai thấy cảnh tượng trấn lột
này đều hoảng sợ bước cho nhanh, từ xa ngoái cổ nhìn lại rồi đi thẳng. Riêng
bác xích lô vừa rồi lại đến, bác nói:
– Thế là
anh gặp may rồi.
– Vâng,
thưa bác. Nhờ có tiếng kêu của bác đấy. Cháu xin cảm ơn.
– Anh thấy
đau lòng chưa? Cướp giật giữa nơi đông người, trong lúc thanh thiên, bạch nhật
mà không có một khí phách anh hùng nào xuất hiện để bênh vực kẻ yếu.
– Bác nói
đúng lắm.
– Xã hội
này đảo lộn rồi anh ạ – Bác già phấn chấn nói tiếp – Trong nhà con cái mất dạy,
bố mẹ sợ con, ngoài đường, người ngay sợ kẻ gian, sợ lũ côn đồ. Một xã hội tham
lam ích kỷ. Từ thằng tai to mặt lớn đến đám dân đen ai cũng chỉ cuốc vào lòng.
Cũng đúng thôi, đảng dạy phải có lòng tin yêu đảng, đảng không muốn người dân
thương yêu giúp đỡ nhau. Xích mích, cắn xé nhau là thực hiện đấu tranh giai cấp,
có thế đảng mới dễ bề cai trị.
– Lời bác
nói thật là chí lý.
Nhìn vào
chiếc xe của tôi, bác nói tiếp:
– Tàng
tàng thế này mà một công nhân làm hàng năm, nhịn ăn chưa chắc đã đủ tiền mua, may
mà chúng không tìm thấy chìa khoá.
– Chìa
khoá mất rồi bác ạ.
– May quá
nhưng bây giờ phá khoá à?
– Khoá xe
của cháu chỉ chiếu lệ thôi. Bác xem đây – Tôi giật mạnh điểm mở khoá, lập tức
càng cua bật ra.
– Thế là
số anh chưa mất của – Bác xích lô mỉm cười, nói.
– Bác làm
nghề xích lô lâu chưa? – Tôi hỏi. Đến lúc này tôi hoàn toàn tỉnh táo nhưng rất
mệt.
– Tôi bị
xích lô hoá hơn một chục năm rồi. Chẳng giấu gì anh, xưa kia tôi dạy học. Sau
thời kỳ tiếp quản, tôi là giáo viên lưu dung. Như quả chanh vắt hết nước, tôi bị
sa thải, cũng may là không phải đi cải tạo.
– Nghề của
bác kiếm ăn có khá không?
– Xã hội
này làm nghề gì cũng vậy nếu cứ thật thà thì khá sao được? Thật thà ăn cháo, lếu
láo ăn cơm, lôm côm ăn thịt. Biết thế đấy nhưng tôi không thể sống trái với
lương tâm.
– Thôi
chào anh bạn nhé – Nói xong, bác xích lô đạp xe đi.
Tôi muốn
tạ ơn bác và nói chuyện với bác nhiều hơn nữa nhưng mệt quá. Vả lại, tôi cũng
chẳng còn tiền, địa chỉ của bác, tôi quên không hỏi.
Chợt nhớ
tới người anh họ ở khu tập thể nhà máy cơ khí nông nghiệp, tôi đạp xe đến đó. Vợ
chồng người anh họ tuy nghèo nhưng có lòng nhân ái. Buổi trưa tôi ăn cơm và nghỉ
ngơi ở đó. Đến chiều tôi đến nhà ông Đồng.
– Chú bị ốm
hay sao mà mặt tái nhợt? – Ông Đồng ân cần hỏi.
– Vâng,
em bị sốt từ chiều hôm qua.
– Công việc
bên Bát tràng đến đâu rồi?
– Xong rồi,
bác ạ.
– Nhanh
thế cơ à? Anh tưởng chưa xong nên chưa chuẩn bị tiền thanh toán cho chú.
– Thong
thả cũng được ạ. Em có một việc hệ trọng đến hỏi ý kiến bác.
– Việc
gì, chú nói đi?
– Em
không còn đủ tính kiên nhẫn vào nơi em ở nhờ nữa. Em xin bác một lời khuyên.
– Khó đấy
chú Tâm ạ. Đối với anh, không riêng gì chú là chỗ thân tình, anh luôn mở rộng cửa
bốn phương, tám hướng của tâm hồn đón nhận mọi người trong lúc thất cơ lỡ vận
nhưng cơ quan an ninh không để cho chú được quyền lựa chọn, chú bị người nhà hắt
hủi là ước mong của họ. Chú đi ở nhờ chỗ khác dài nhất cũng chỉ được một vài tuần,
công an sẽ tìm kiếm thấy và bắt chú phải về nơi ở cũ. Khi đó thêm một cái cớ để
gia đình hành hạ chú. Theo anh, phương kế tốt nhất là chú cắn răng mà chịu nhục
thêm một thời gian nữa. Chú cố gắng dành dụm lấy một số tiền và anh hứa sẽ giúp
đỡ chú thêm để có thể sắm một gian nhà lá hay một túp lều thôi, có chủ quyền
cũng giảm bớt cho mình một phần khổ nhục.
Đêm khuya
tôi mới về nhà chị. Chị Hoa đi làm, cả nhà đã đi ngủ, còn thằng Lập đang học
bài. Thấy tôi, nó hỏi:
– Tưởng
ông không về đây nữa?
Tôi im lặng,
gượng nhẹ dắt xe vào nhà.
Lần tới,
mời các bạn đón đọc: Những kẻ khổ nhục – Kỳ 7
NHỮNG KẺ
KHỔ NHỤC – Unfortunate people
NHỮNG KẺ
KHỔ NHỤC – Kỳ 7
Tối mùa
xuân năm 1977, một buổi chiều chủ nhật, tôi gặp Nga đang sánh bước với một người
đàn ông bên bờ hồ Hoàn kiếm. Thấy tôi, Nga đon đả chào:
– Em chào
anh Tâm.
– Nga dạo
chơi à?
– Vâng,
em giới thiệu đây là anh Hiển – chồng em. Xưa kia anh Hiển cũng ở trại An Thịnh,
anh có biết không?
– Anh ở
bên số lẻ – Hiển nói – còn em bên số chẵn, chưa chắc anh đã biết.
Lục lọi
trong trí nhớ một hồi, tôi chợt nhớ và hỏi:
– Có phải
Hiển trốn tù bị bắn vào đùi không?
– Vâng,
ngoài ra còn nhiều sự cố khác.
– Tôi nhớ
ra rồi.
– Gia
đình anh và gia đình em có nét tương đồng nhưng cách sống của mỗi người đi theo
một nẻo.
– Tôi biết
– Tôi trả lời và chìm trong nỗi suy tư về con người vừa đáng thương vừa tội lỗi
này.
Hồi cải
cách ruộng đất, bố Hiển bị bắn, nhà cửa bị tịch thu. Hiển còn nhỏ, ở với chị, học
ở Hà nội nên thoát nạn. Bà chị thương em, cho Hiển học đến nơi đến chốn. Hết phổ
thông, Hiển vào đại học. Năm cuối cùng nhà trường thẩm tra lại lý lịch để cấp bằng
tốt nghiệp mới phát hiện ra hoàn cảnh của gia đình Hiển. Trường quyết định đuổi
Hiển và bắt bồi thường học bổng. Sau đó, Hiển không xin được việc làm kiếm sống,
anh chán ghét xã hội đến cực độ và buông thả mình vào con đường tội lỗi: ăn cắp,
ăn trộm, trai gái đĩ bợm.
Hiển bị
sa lưới nhiều lần nhưng trong túi có tiền – bùa hộ mệnh – giải thoát cho anh.
Mùa thu năm 1966, Hiển bị bắt, lần này không có bùa hộ mệnh, anh bị tống giam
vào Hoả lò hai tháng rồi đưa đi trại An Thịnh. Những năm tháng tù, Hiển chịu
nhiều hình phạt. Chẳng những thế, do không đủ nghị lực chịu đói, anh nhiều phen
điêu đứng.
Một buổi
sáng chủ nhật, nhà bếp gánh lá xu hào luộc lên nhà ăn chia, Hiển lẻn vào ăn vụng
không may bị bắt quả tang, anh bị trật tự đánh cho một trận khá nặng nề: gẫy một
răng, máu mồm, máu mũi trào ra và ngất lịm. Vào một buổi sáng chủ nhật khác, trại
cho tù ăn chè sắn nấu với mật, Hiển nói với toán trưởng xuống nhà bếp – khiêng
thùng chè lên chia và xin được vét thùng. Chia xong Hiển dùng bàn tay vét chè
ăn, bốn đứa khác cũng đến vét tranh với Hiển. Nhanh như máy, Hiển rứt hết khuy
để cởi áo ra, ném vào thùng chè lau thật sạch. Bọn kia không chịu bỏ cuộc,
chúng giằng xé áo của Hiển, áo rách tung, mỗi đứa được một mảnh liếm chè dính.
Một cuộc chiến diễn ra do Hiển phát động, rốt cuộc Hiển bị một trận đòn đau và
vào nhà kỷ luật hai tuần. Từ một chàng trai cao, lớn đến mùa xuân năm 1967, Hiển
lọm khọm như một ông già, da bọc lấy xương. Hiển quyết định một trò mạo hiểm:
trốn tù, từ chiều ngày hôm trước đến sáng hôm sau, Hiển bị một viên đạn xuyên qua
đùi và bị bắt lại. không được băng bó gì vết thương, Hiển bị xích chân còn lại
trước cổng trại, triển lãm cho tất cả các tù nhân xem: máu ra nhiều, Hiển bị ngất
đi, cai ngục mới đưa Hiển vào xà lim cùm ba tháng.
Sau khi
được tha kỷ luật, sức Hiển cạn kiệt, lúc mê, lúc tỉnh, do vậy, Hiển được nằm trạm
xá. Một buổi chiều mùa hè, tên y tá trại báo cáo với cai ngục là Hiển đã tắt thở.
Không cần kiểm tra lại, cai ngục ra lệnh bốn tù nhân tự giác cho xác Hiển vào
quan tài mang chôn ngay. Thời gian đó đang trong vụ bội thu của tử thần, có
ngày thiếu gỗ đóng quan tài nên cai ngục cho thợ đóng dự trữ. Bốn thằng tù
khiêng quan tài Hiển lên đồi A1, đào lỗ và hạ huyệt xong, họ bảo nhau nghỉ ngơi
cho đỡ mệt rồi hãy lấp đất. Mươi phút sau, thấy quan tài có tiếng động, hai người
nhát gan bỏ chạy, còn hai người bạo gan hơn, lấy lưỡi mai cậy nắp quan tài. Lập
tức Hiển ngồi nhổm dậy và kêu khát nước. Nước trên đồi cao lấy đâu ra, bốn thằng
tù thay phiên cõng Hiển xuống suối uống nước và cõng Hiển về trại. Cũng trong
thời gian đó, để hạn chế tù chết đói hàng loạt, bộ công an cho tù ăn thêm sáu
cân ngô mỗi tháng, và chuyển trại sang một khu rừng khác. Nhờ vậy, Hiển thoát
khỏi bàn tay của tử thần.
Năm 1968,
Lê Tâm, người Hải phòng trốn trại, bị bắt lại. Tối hôm ấy, sân trại treo hai
cây đèn măng xông sáng như ban ngày, mười vũ trang lực lưỡng quần đùi, áo may ô
dẫn Lê Tâm vào giữa sân đánh biểu diễn cho tù coi. Những cú đấm, cú đá liên tiếp
từ mọi phía vào mặt, vào người kẻ phạm tội không kịp đo ván. Một vài phút đầu,
Tâm còn ú ớ kêu, sau đó các võ sĩ như luyện tập nghề nghiệp vào cái xác chết.
Hiển ở trong buồng giam nhìn ra, không kiềm chế nổi, bật kêu lên:
– Tàn bạo
quá!
Không may
hai thằng tù nằm bên nghe thấy, chúng đặt điều kiện với Hiển:
– Ngày
mai, mày phải ép rệp, dành cho bọn tao. Nếu không, sẽ tố cáo.
Hiển van
xin mãi không xuôi, cuối cùng phải nhận lời. Ngày trước nhịn đói, ngày hôm sau
đi lao động, Hiển mệt quá không làm được lại bị vũ trang giáng cho mươi báng
súng.
Cuối năm
1968, Lê Tâm lại chơi canh bạc mới. Lần này, giám thị thiếu tá Phạm ngọc Ky
phán quyết số mệnh của Tâm. Trên một quả đồi bị bao vây, Lê Tâm đang lẩn trốn
thì thượng sĩ Dương nhìn thấy, gọi:
– Anh
Tâm! Chạy đi đâu nữa, quay lại tôi bảo.
Biết
không thoát, Tâm đến chỗ Dương, chịu bị bắt. Cách xa khoảng ba mét, mục tiên là
ngực Tâm, Dương khai hoả. Tâm trúng đạn gục ngã, Dương tiến sát lại bắn hết một
loạt đạn AK vào ngực Tâm.
Người đi
chôn Lê Tâm về kể lại, tim phổi Tâm nát bét chẳng còn hình thù gì nữa.
Nghe
xong, Hiển nói:
– Lần
này, ông không hở d. ’…để một vài thằng cắn đâu.
Hai thằng
lợi dụng cơ hội cướp cơm của Hiển dạo trước lại nghe được câu nói ấy, chúng bảo
nhau báo cáo với quản giáo toán. Hiển phải vào nhà kỷ luật hai tuần.
Một buổi
sáng, tù đi làm thì gặp nhà bếp gánh ngô thối về kho để chuẩn bị bữa trưa. Mọi
người đều bịt mũi, Hiển và vài người khạc nhổ. Không may, Hiển khạc nhổ vào
chân tên vũ trang áp giải,
hắn liền giáng cho Hiển mấy báng súng. Sáng hôm ấy, tại nơi lao động phát
hoang, Hiển báo cáo quản giáo toán, xin đi đại tiện. Tên quản giáo chỉ Hiển đi
về phía chân đồi, nhưng tên vũ trang lại rúc còi, bắt Hiển phải đi về phía bờ
suối.
Không biết
chấp hành lệnh của ai, Hiển nói:
– Chỉ có
việc xin đi ngoài cũng có hai lệnh ngược chiều nhau, tôi biết theo lệnh ông nào
để không mang tội?
Tên vũ
trang gọi Hiển lại chỗ hắn, dùng báng súng đánh Hiển túi bụi và quát:
– Láo xược
này, láo xược này!
Hiển đau
quá, nằm lăn lộn, ỉa tung toé ra quần, hắn mới buông tha.
Đấy là
chưa kể đến chuyện thường xuyên bị đánh đập vì tội vi phạm nội quy: bắt cóc
nhái nướng ăn, nhặt rau rừng, lấy cắp hoa màu, đun nấu ngoài đồng. Và nhiều lần
bị khoá tay vào song cửa suốt đêm vì tội đun nấu trong phòng…
– Anh
đang suy nghĩ gì mà vẻ mặt đăm chiêu thế? – Hiển hỏi.
– Tôi
đang hồi tưởng lại trang đời buồn đau của cậu.
– Thế ra
anh cũng biết và nhớ em?
– Bên số
chẵn, tôi nhớ tỉ mỉ một số người, trong đó có Hiển.
– Anh nhớ
để khinh bỉ? – Nga hỏi.
– Tôi
không dám khinh ai. Số lẻ hay số chẵn cũng chỉ đáng thương thôi, đều là những nạn
nhân.
– Anh thấy
chúng em có môn đăng hộ đối không?
– Rất xứng
đôi. Hai người thành hôn lâu chưa?
– Được gần
một tháng. Và thời gian chúng em tìm hiểu cũng rất nhanh. Nói thật là có mặt
anh vẫn theo vết đường mòn của Cộng sản.
– Mặt
nào?
– Chúng
ta đều là những nạn nhân của sự phân chia giai cấp. Thế thì tại sao giữa chúng
mình, mặt nào đó, anh cũng dựng nên một hàng rào?
– Mỗi con
người ngoài phần tư tưởng dành cho cộng đồng, phải có cái riêng, đó là cá tính
và sở thích khác nhau. Cộng sản muốn tiêu diệt cái riêng của con người và áp đặt
khuôn mẫu Marx – Lénine vào mọi tâm hồn để tính đảng thay thế tính người. Hay
nói cách khác, CS muốn con người có bộ óc xơ cứng và trái tim băng giá, trở
thành cái máy để đảng điều khiển. Nga nên hiểu rằng, hàng rào giữa chúng ta là
cá tính và sở thích, không phải là cách phân chia giai cấp và kích thích đấu
tranh của Cộng sản.
– Cải
cách ruộng đất đẫm máu, anh có nghĩ là ông Hồ đã thực hiện một phần chính sách
của Việt vương Câu tiễn không?
– Một ý
kiến mới mẻ quá, tôi chưa nghĩ đến.
– Vì ước
mơ độc lập, tự do, gia đình em tận tâm, tận lực dành cho cách mạng. Năm 1946, bố
em lên đường nhập ngũ. Sau chiến tranh chống Pháp, người làm bí thư đảng bộ xã.
Hồi cải cách gia đình em bị quy lên địa chủ, còn bố em bị buộc tội một tên quốc
dân đảng, chui vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Người bị bắn, tài sản bị tịch
thu. Đến sửa sai họ có minh oan và trả lại một phần nhà cửa, em cứ tưởng nỗi
đau thương của gia đình như thế đã lùi về dĩ vãng. Khi bị đuổi học, em mới chợt
hiểu rằng, những gia đình bị xử trí oan, đảng vẫn coi là đối tượng của cách mạng.
Suy cho cùng, không phải đảng mắc sai lầm mà là chủ trương của ông Hồ. Ông ta
đã lợi dụng lòng yêu nước, không quản ngại hy sinh xương máu và tài sản của
toàn dân để chống lại thực dân Pháp. Nhưng cách mạng giải phóng dân tộc chỉ là
bước quá độ của cái gọi là cách mạng vô sản. Khi bước quá độ đó giành được thắng
lợi, với cái gọi là đấu tranh giai cấp, ông ta đã ra lệnh tàn sát hàng nghìn
người yêu nước cùng chung chiến tuyến. “Khi rừng hết thú quý thì chó săn và
cung tên cũng bỏ đi” tương tự như khi vắng bóng thực dân xâm lược trên nửa nước
thì nhiều người có công với cách mạng thành những kẻ tử tội.
– Nếu
không giỏi lừa, ông ta không thể dựng lên một chính quyền độc tài, tàn bạo hiện
nay.
– Anh được
trả tự do lâu chưa?
– Chế độ
CS làm gì có tự do mà trả? Họ tha cho tôi cuối tháng hai năm ngoái. Còn Hiển?
– Cuối
năm 1975, anh ạ. Anh sống có dễ chịu không?
– Tôi ở
nhờ nhà chị nhục lắm, có thể còn nhục hơn trong tù.
– Em cũng
thế thôi.
– Chị cậu
tốt lắm cơ mà?
– Ngoài
chị ra, còn anh rể và các cháu. Chẳng riêng gì anh em, đại bộ phận người đi tù
về đều điêu đứng cả, mất vợ, mất anh em, đều trong cảnh cốt nhục tương tàn. Anh
nói nhục hơn trong tù là đúng. Trong tù, khi bị nhục, mình có thể trả giá để bảo
vệ danh dự. Còn người nhà làm nhục, mình đành ngậm đắng nuốt cay. Từ khi em lấy
Nga thì thoát khỏi cảnh nhục đó.
– Hiện
nay cô, cậu ở đâu?
– Ở nhà
em – Nga nhanh nhảu trả lời – Anh Hưng sống cô đơn, anh ấy muốn chúng em ở một
nhà cho vui.
– Anh
Hưng tẩy sạch mùi Bol chưa?
– À, sạch
lâu rồi. Cả nhà đau thương tan nát vì Bol, con người chứ con vật đâu mà còn Bol
nữa. Đáng buồn là từ một người cuồng tín đến nay anh ấy không còn niềm tin nữa,
thậm chí không tin cả chính mình. Em hỏi, anh nghĩ gì về tương lai? Anh ấy trả
lời, bây giờ anh đang tồn tại, chưa biết cuối ngày và ngày mai sẽ ra sao? Xưa
kia em ghét anh ấy bao nhiêu, đến nay em thương anh ấy bấy nhiêu.
– Dù sao,
anh Hưng đã sớm tỉnh ngộ. Tôi ước mong nhiều người Việt nam sẽ như anh ấy. Được
như vậy, cơn hôn mê của lịch sử dân tộc sớm được chữa trị.
– Anh có
tin vào tương lai không? – Hiển hỏi.
– Với cuộc
đời mình thì không nhưng tương lai dân tộc tất nhiên là có. Bóng tối của bạo lực,
gian manh, xảo trá rồi sẽ được xua tan.
– Nghĩa
là trọn đời chúng mình cứ thế này?
– Đúng thế!
Vài ba thập kỉ đối với lịch sử là thời gian ngắn ngủi nhưng đối với chúng ta lại
quá dài. Đến khi lịch sử sang trang, có thể chúng ta đã về nơi yên nghỉ, cũng
có thể đang trong buổi hoàng hôn của cuộc đời.
– Em cho
rằng, một thời gian ngắn nữa chủ nghĩa CS sẽ lỗi thời.
– Tôi phản
đối khái niệm lỗi thời của Hiển. Nếu nói chế độ quân chủ chuyên chế đã lỗi thời
là đúng. Còn chủ nghĩa CS cũng như chủ nghĩa phát xít là những thực thể gây tội
á
c và thảm hoạ không có thời nào hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại.
Thế thì làm gì có lỗi thời? Dần dần nhân loại nhận thức được chân lý đó và ném
thứ chủ nghĩa ma quỷ ấy ra bãi rác của lịch sử.
– Hiện
nay, anh làm gì để sống?
– Thợ mộc.
Còn vợ chồng Hiển?
– Chúng
em làm mọi việc. Chẳng giấu gì anh, chủ yếu là buôn gian, bán lậu. Trót sinh ra
trong một xã hội nhiễu nhương, điên loạn, mình cũng phải làm sao hoà nhập với cộng
đồng. Sống thật thà, lương thiện lúc này là con đường tự sát, chẳng những thiệt
thòi về vật chất, mà còn về nhân cách, người ta xem mình là một thằng ngốc, một
thằng ngơ ngẩn. Chúng em tuân theo lẽ sống của một thời đại đi bằng đầu.
– Còn
anh, chúng em biết, không có mẫu số chung với xã hội, cũng không thể quy đồng –
Nga nói.
Khi chia
tay, Nga lùi lại hỏi nhỏ tôi:
– Em đã
sang sông, anh có hối tiếc không?
– Không,
anh mừng cho em.
– Có lẽ
khối bê tông này còn trường tồn mãi – Nga nói với giọng mỉa mai – Nỗi cô đơn sẽ
tiếp tục gặm nhấm cuộc đời anh cho đến ngày về với cát bụi.
* *
*
Cuối năm
1977, tôi đến thăm gia đình người anh họ. (anh em thúc bá) ở một tập thể nhà
máy cơ khí nông nghiệp I, chị dâu tôi hỏi:
– Chú có
ý định xây dựng gia đình chưa?
Tôi cười
chua chát hỏi lại:
– Chị
không giễu cợt em đấy chứ?
– Chị hỏi
thật đấy.
– Nhưng
chị có thể giúp em không?
– Chị muốn
giới thiệu cho chú một cô nên tham khảo ý kiến chú trước.
– Cảm ơn
chị. Em biết thân phận chẳng ai yêu nên chưa nghĩ tới.
– Đành rằng
hoàn cảnh chú thì cực khó nhưng chẳng lẽ chịu à? Nếu phương pháp chính quy chắc
chắn thất bại, ta dùng phương pháp du kích vậy.
– Em
không hiểu chị định nói gì?
– Thế này
nhé, với lý lịch của chú, nếu cứ thật thà không giấu giếm quá khứ, không đứa
nào dám lấy chú đâu. Người ta có hỏi, cứ trả lời chung chung vì nghèo khổ, ít
quan hệ nên chưa có gia đình. Sau này, khi mọi việc đã xong xuôi, người ta có biết
thì đã muộn. Bỏ chồng không phải dễ như thay chiếc áo.
– Nhưng
giả dối để lấy vợ sau này không thể sống hoà thuận, mình phải trả giá đắt.
– Tất
nhiên là phải chịu hậu quả, song với hoàn cảnh của chú, không còn cách nào
khác. Chả lẽ chú sống độc thân trọn đời sao?
– Theo
em, cách tốt nhất là nói toạc móng heo ra, người ta không ưng thuận thì đành.
– Không ổn,
chưa nói đến đứa con gái bình thường mà ngay một con điếm chắc gì nó đã ưng? Thời
đại này coi tội phản cách mạng nặng nề hơn bất cứ một tội trạng nào.
Tôi
thoáng nghĩ, chị nói phần nào có lý. Trái tim tôi đang băng giá, coi tình yêu
là việc của người, mình không có quyền can dự. Xưa kia, khi còn trai trẻ tôi
cũng chỉ dám yêu thầm nhớ trộm, xem việc tỏ tình với lòng tôi thấy xôn xang,
tuy nhiên tình yêu và gia đình đối với tôi vẫn là khái niệm mơ hồ, xa cách, lạnh
lùng. Giờ đây phải bưng bít, khép kín quá vãng để tìm một người bạn đời thì đau
lòng quá – một quá vãng không phạm gì đến lương tâm, đạo đức. Đúng như lời của
Nghệ: “cuộc đời là sự bịp bợm”, muốn có một cuộc sống tầm thường, khốn khổ,
mình cũng phải tuân theo logic đó chăng?
Tôi đang
miên man trong suy tư thì chị lại hỏi:
– Chú nhất
trí với chị chứ?
– Vâng!
Em sợ sau này người ta trách cả chị nữa.
– Tất
nhiên, nhưng tôi dễ biện bạch thôi. Cứ nói là lấy anh ấy mới được mấy năm nên
chưa hiểu rõ người trong họ nhà chồng.
– Chị cho
em biết qua tiểu sử gia đình và bản thân cô ấy.
– Họ và
tên cô ấy là Chu thị Mật, người Đan phượng, bố chết sớm, mẹ tái giá. Cô ấy có
hai anh em. Người anh sống với bà cô ở Hà nội, còn Mật sống với mẹ và chú dượng,
đến tuổi trưởng thành đi thanh niên xung phong chống Mỹ. Cách đây mươi năm, Mật
được chuyển về Hà nội làm thợ phay tại nhà máy này. Năm nay, Mật khoảng ba mươi
tuổi, với chú là đẹp đôi vừa lứa.
– Tại sao
cô ấy vẫn cô đơn?
– Nói
chung, người ta cho là duyên số, nhiều người theo đuổi cô ấy nhưng chẳng thành.
Nói riêng, cô ấy hơi lạnh tính, quan hệ rất dè dặt và thận trọng nên phái mày
râu chàng nào thiếu kiên trì là bỏ cuộc. Có thế chị mới giới thiệu cho chú. Thời
buổi này, con gái dễ yêu nhưng lại dễ bỏ chồng. Hơn nữa, hiện nay chú phải ở nhờ
chịu khổ nhục, nếu cô Mật và chú thành gia thất, chú sẽ về đây ở tập thể nhà
máy tránh được một nỗi đau cắn xé hằng ngày. – Chị nói đến đây làm tôi như được
cởi lòng cởi dạ. Ngày đêm tôi hằng mong ước được thoát khỏi cái trại giam vô
hình đầy đoạ tinh thần là nơi tôi đang sống nhờ nhà chị ruột. Trong tâm hồn tôi
loé lên một tia hy vọng mong manh.
– Bao giờ
em có thể được gặp cô ấy?
– Tối thứ
bảy này, khoảng tám giờ, chú đến đây. Tối hôm ấy, tôi gọi Mật đến nhà chơi, coi
như tình cờ hai người giáp mặt.
Thời gian
như ngừng lại, tôi chờ mong tính từng ngày mãi mới đến thứ bảy. Cũng dễ hiểu
thôi, trước đây tôi sống những ngày vô vọng nên thời gian cứ vùn vụt trôi qua
không cần biết đến. Còn nay, tôi đang nâng niu một tia hy vọng mong manh nên tưởng
như quy luật vận động của vũ trụ cũng mắc những sai lầm. Ngày hôm ấy sao dài thế?
Cứ nặng nề chậm chạp trôi đi từng giây, từng phút, một ngày như dài hàng thập kỷ.
Buổi tối tôi đến nhà anh họ đúng giờ đã thấy cô Mật ngồi trên giường đang nói
chuyện với chị dâu tôi.
– Chào
anh chị, chào cả nhà – Tôi nói.
– Chú đến
chơi đấy à? – Chị dâu mau mồm mau miệng:
– Đây là
cô Mật cùng làm việc với chị. Và đây là chú Tâm, anh em thúc bá với anh Giang.
– Rất hân
hạnh được làm quen với cô – Tôi nói.
– Em chào
anh!
Sau mấy lời
giao tiếp mọi người đều im lặng. Quả thật lúc đó, lưỡi tôi xơ cứng lại, chẳng
biết nói gì thêm. Cô Mật
bỏ về ngay. Nhác trông khuôn mặt và nhìn theo dáng dấp người đàn bà này tuy đã
hàng chục năm thoát ly nhưng chưa xoá được hình ảnh của cội nguồn – một cô gái
nông dân ít học.
– Cô ấy
như thế đấy, chú có ưng không?
– Em như
người sắp chết đuối vớ được cọc, cọc nào mà chẳng tuyệt vời. Chị hãy dành cho
cô Mật câu hỏi ấy.
– Thôi được
rồi, tôi sẽ liệu. Dù sao việc trăm năm chú cũng nên suy tính kỹ.
– Thế này
chị ạ, chưa bao giờ em dám nghĩ một tình yêu đến với mình, chỉ ước ao thoát khỏi
cảnh ở nhờ. Một thằng vô gia cư, một thằng cha căng chú kiết, một tên phản cách
mạng làm gì có quyền lựa chọn ai trên xứ sở này?
– Tối mai
chú đến đây. Đừng quên là phải giấu kín quá khứ đấy, để lộ là hỏng việc.
Trên đường
về, lòng tôi tràn ngập nỗi ưu tư: “Cả dân tộc là nạn nhân của sự bịp bợm. Hơn nữa,
ta còn là nạn nhân của sự tàn bạo, của cái gọi là đấu tranh giai cấp. Thế rồi kẻ
khốn khổ đó muốn có một cuộc sống tầm thường, khổ nhục cũng trở thành kẻ lừa dối
cuộc đời. Ngày đêm ta thường nguyền rủa, hờn căm cái guồng máy tuyên truyền bịp
bợm khổng lồ, đến nay không có gan sống thật thà để chịu đựng thêm khổ nhục, ta
lại bước vào vết đường mòn của thời đại, thật đau lòng quá! Nếu ta tin có kiếp
luân hồi, chắc rằng ta tìm ra lối thoát.
Những
tháng năm bệnh đói kinh niên vò xé trong tù chưa bao giờ ta chịu bỏ cái tôi – một
cái tôi ngay thẳng, thật thà. Ngày nay để mưu cầu một cuộc sống tầm thường, khốn
khổ, ta phải từ bỏ cái tôi mãi mãi chăng? Nghĩa là ta bị cuốn theo trận cuồng
phong của ý thức hệ giáo điều, phi nhân ấy, chống lại cái tôi để hoà đồng với sự
u mê, tăm tối, bịp bợm mà thời đại đang đầu độc… ”
Y hẹn, tối
hôm sau tôi lại đến, chị dâu bảo:
– Cô Mật
đồng ý gặp chú ở nhà chị Lý ngay tối nay. Chị nhắc lại là chú phải nói năng cho
khéo, đừng để lòi đuôi quá khứ đấy.
Tôi thoáng
nghĩ, thật khôi hài, nói chuyện với một cô gái nông dân mà phải chuẩn bị đối
phó như cung khai trước toà án.
Tôi đến
nhà chị Lý, cô Mật đã ở đấy. Sau khi chào hỏi xã giao, gia đình chị Lý vào nhà
trong xem vô tuyến để gian nhà ngoài chúng tôi tự do nói chuyện. Ngồi đối diện
nhau qua cái bàn nước nhỏ, tôi hồi hộp lúng túng mãi mới vận hành được cái lưỡi
như bị xơ cứng.
– Đây là
lần đầu trong đời tôi có vinh hạnh được nói chuyện với một phụ nữ với hy vọng sẽ
trở thành người bạn trăm năm…
– Anh nói
gì lạ thế? – Mật cướp lời – Chả lẽ anh chưa yêu bao giờ sao?
– Yêu thì
có đấy nhưng tôi chỉ yêu vụng, nhớ thầm chưa bao giờ dám thổ lộ tâm tình với một
người nào.
– Em
không tin anh. Đến như em, một đứa quê mùa cũng đã được nhiều chàng trai để tâm
đến. Có như con gái đâu, đàn ông các anh có quyền được bầy tỏ kia mà.
– Cái
chung tôi không phản đối. Tuy nhiên, do thân phận mình nghèo hèn nên thấy mình
nhỏ bé quá, bầy tỏ tình cảm với một phụ nữ có thể người ta cho là điều phạm thượng.
– Theo
cách nghĩ của anh, những người nghèo khổ phải sống độc thân à? Thực tế không phải
thế, dù ở cương vị nào cũng theo luật tạo hoá là trai có vợ, gái có chồng. Phải
sống độc thân là con số nhỏ.
– Xưa kia
thì thế, còn hiện tại tôi đang nói chuyện với cô. Và hy vọng giữa chúng ta có một
quan hệ tốt đẹp.
– Để trả
lời sự mong muốn của anh, em cần phải có thời gian suy nghĩ. Tuổi em ở quê thuộc
diện ế chồng rồi, tuy vậy việc trăm năm cũng không thể giải quyết một sớm một
chiều.
– Hiện tại
cô có cảm nhận gì về tôi. ?
– Điều đó
lẽ ra em chưa nên nói nhưng anh hỏi, em cũng xin trả lời thành thật. Nghe chị
Bích kể lại, em thắc mắc là tại sao anh không làm việc ở một cơ quan nhà nước?
Và qua tiếp xúc, em thấy anh là người hoạt bát, tại sao anh chưa có gia đình?
– Có gì
đâu, tôi thích làm nghề tự do, chẳng phải lệ thuộc một người nào. Còn chưa có
gia đình, như đã nói, do nghèo khổ, không nhà cửa.
– Chắc
anh cũng biết, nếu không phải là công nhân biên chế, sau này con cái sẽ bị thiệt
thòi. Với lý lịch bố làm nghề tự do hoặc hợp tác chẳng tốt đẹp gì cho chúng.
Còn việc anh chưa xây dựng gia đình có thể vì nguyên nhân nào khác hoặc anh
chưa muốn chứ đàn ông ngày nay lấy vợ có khó khăn gì? Sau thời chiến, đàn bà
nhiều, đàn ông ít nên nhiều người tuyên bố vơ tay trái cũng được dăm cô. Anh
nói, anh nghèo khổ, không nhà cửa cũng chẳng quan trọng lắm. Ngày nay, trai về ở
nhà vợ cũng là chuyện bình thường.
– Cô nói
đúng nhưng hoàn cảnh mỗi người một khác. Có thể do điều kiện làm việc, tôi ít
có cơ hội được gần gũi nữ giới, có thể do tính tự ti, mặc cảm mà tôi không dám
tìm kiếm mối quan hệ với người khác giới. Cô quan tâm nhiều đến chỗ đứng trong
xã hội làm tôi có cảm tưởng rằng cô là một đảng viên?
– Em hằng
mong ước điều đó nhưng chưa có cơ hội. Em muốn biết anh có ý nghĩ gì về một đảng
viên?
– Tôi ấy
à? – Tôi bối rối vì câu hỏi đột ngột của cô ấy – Đảng viên là người đang phấn đấu
xây dựng chủ nghĩa CS có phải thế không?
– Đấy là
định nghĩa, em hỏi anh quan niệm vị trí của một đảng viên trong xã hội cơ?
– À, với
chế độ này thì đảng viên có địa vị cao nhất chứ gì?
– Sao lại
với chế độ này? Anh không biết sau này cả thế giới chỉ có một chế độ là chủ
nghĩa CS hay sao?
– Nói thật
là trí khôn của tôi ngắn ngủi, chỉ biết hiện tại mà thôi, còn cái thiên đường
CS xa vời quá tôi chẳng hiểu gì về nó.
– Xem ra
về chính trị anh còn mơ hồ lắm. Nó đến nơi rồi, chậm nhất là đời con cháu mình
thôi. Vì thế, những người thức thời phải biết làm gì cho con cháu mình được hưởng.
Nếu là một đảng viên mà con muốn vào đại học thì có gì đảm bảo hơn thế nữa.
Công nhân biên chế là loại hai, người làm hợp tác là loại ba, làm nghề tự do
như anh là loại bốn, người phạm pháp khi hết hạn tù là loại năm.
– Cô nói
còn chưa đủ đâu.
– Vâng,
em cũng biết là còn thiếu. Những người thuộc giai cấp đối lập và những phần tử
phản cách mạng không được coi là những công dân.
– Chính
trị cô khá lắm!
– So với
người khác, em đã ra gì. Ngày nay công nhân được học tập nhiều nên giác ngộ
cách mạng rất cao…
– Cô có sợ
những người chống lại đảng không? – Tôi hỏi nhưng giật mình vì sợ hớ hênh.
– Ai mà
chẳng sợ.
– Sợ cái
gì ở họ?
– Sợ liên
quan đến họ sẽ bị xã hội vùi dập lây, lãnh đạo cơ quan có ấn tượng xấu, chặn hết
mọi đường phấn đấu – Ngừng một lát, như phát hiện ra điều gì mới, Mật hỏi –
Quái lạ, những người đó có quan hệ gì với anh mà hỏi nhiều thế?
– Hỏi thế
thôi, tôi chẳng có quan hệ gì với những người như thế. Tuy nhiên, ai mà chẳng
có người nhà hoặc họ hàng là đối tượng của cách mạng như thành phần tư sản hoặc
địa chủ…
– Còn
anh, có sợ họ không?
– Tôi ấy
à? Chỉ thương họ thôi.
– Anh có
thương thì để trong lòng, nếu không đảng sẽ quy anh vào tội mất lập trường cách
mạng. Như em, nếu chỉ sợ họ thôi cũng chưa đủ nếu muốn phấn đấu trở thành một đảng
viên, thì phải coi họ là bọn phản động, phản quốc hại dân…
Cô ấy nói
đến đây làm tôi rùng mình hoảng sợ. Tôi muốn giải thích cho cô ta điều ngược lại
nhưng chắc chắn không thể đưa ánh sáng vào khối óc u mê này và để lại cho cô ta
một sự hoài nghi về quá khứ của tôi. Tôi nói lảng sang chuyện khác:
– Mật
cùng làm với chị Bích à?
– Vâng,
em là thợ phay, chị ấy là thợ cưa.
– Hiện
nay, cô hưởng lương bậc mấy? Bao nhiêu tiền một tháng?
– Bậc ba,
sáu mươi đồng một tháng. Lương công nhân của em chỉ bằng anh làm ngoài chưa đến
một tuần.
– Nhưng
được nhà nước bán cung cấp nhiều mặt hàng thiết yếu, ốm đau được điều trị miễn
phí.
– Điều
quan trọng nhất là được đảng tin tưởng về chính trị bảo đảm tương lai cho con
cái sau này. Em phấn đấu trở thành công nhân loại một sẽ có nhiều quyền lợi
hơn.
– Tôi tưởng
cô phấn đấu thành công nhân giỏi thì hay hơn chứ, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh
mà.
– Em xin
lỗi, hình như anh có phần lạc hậu với xã hội hiện nay thì phải. Bác đã dạy “…Vừa
hồng, vừa chuyên”, trước hết công nhân phải có phẩm chất cách mạng sau đó mới đến
tay nghề. Chỉ là công nhân bậc ba mà có đảng sẽ đứng trong hàng ngũ lãnh đạo,
quyền lợi lâu dài sẽ cao hơn công nhân bậc bảy ngoài đảng. Ngay kĩ sư, bác sĩ
mà không có đảng suốt đời cũng chỉ là những nhân viên: chức trưởng, phó phòng,
phân xưởng trưởng, chủ nhiệm khoa dù có giỏi chuyên môn cũng đừng có mà mơ tưởng.
– Hay lắm,
cô nói như một cán bộ tuyên huấn vậy.
– Em cứ
nghĩ là sự hiểu biết đơn sơ đó thì ai mà chẳng rõ. Anh không quan tâm đến xã hội
à?
– Có thể
thế. Và cũng có thể là một trong những nguyên nhân làm tôi ế vợ.
– Điều đó
có gì khó khăn đâu, chỉ quan tâm đến là hiểu biết ngay thôi. Đã là công nhân ai
chẳng giác ngộ tính giai cấp của mình đối với cách mạng.
Thật ngán
ngẩm, trai gái nói chuyện riêng với nhau toàn những lý thuyết giáo điều trống rỗng.
Nếu coi CS là một tôn giáo, nó đã sản sinh ra hàng triệu tín đồ như cô gái nông
dân ít học này. Thứ tôn giáo không dạy lòng nhân ái, lòng bao dung, độ lượng
như kitô giáo, phật giáo, khổng giáo… mà tiêm nhiễm vào đầu óc con người tính
kì thị, sự hận thù, chia rẽ…
– Sao anh
im lặng thế?
– Ồ, tôi
vẫn nghe cô nói đấy chứ. Hàng chục năm được đảng dạy dỗ, đào tạo xem ra cô tiến
bộ lắm!
– Em đã
đi đến đâu. Nhiều người văn hóa cao họ còn tiến bộ hơn em nhiều – Mắt cô gái
long lanh, nở một nụ cười tươi tắn vì được tôi khen ngợi. Tôi cũng biết cái bí
quyết chiếm được cảm tình nhanh với một phụ nữ là những lời khen, tâng bốc, nhất
là về sắc đẹp.
Tuy vậy,
tôi không thể kiếm đâu ra chất men kích thích tôi làm việc đó. Tôi đã khen em
ư? Đâu phải, đó chỉ là những lời chế giễu chua cay!
– Hơn mười
giờ rồi, ta về thôi anh ạ!
– Thứ bảy
tới, mình lại gặp nhau chứ?
– Vâng!
– Lần sau
không nên làm phiền gia đình chị Lý nữa mà gặp nhau ở chỗ khác, trên đường Kim
Liên chẳng hạn?
– Thứ bảy
tới anh cứ đến đây rồi sẽ liệu.
Trên đường
về, tôi đi theo quán tính, đầu óc triền miên suy tưởng: “Thế là buổi nói chuyện
đầu ta đã thành công trong việc bưng bít quá vãng của mình. Cứ như tối nay, ta
thành kẻ dối trá, bịp bợm có lẽ không khó khăn gì lắm. Giả thiết mọi việc đều
suôn sẻ, sau này ta chịu đựng lời nói của tín đồ vô thần đó được bao lâu? Chắc
chắn đến một thời điểm nào ta sẽ phát điên lên và quát: Mày là đứa u mê, đồ con
lợn, tao đã chịu hết nổi rồi. Và mỗi đứa xéo đi một nẻo… ” Đến đây tôi chợt nhớ
đến Nga và hối tiếc: “Chỉ có em biết rõ quá khứ của ta. Em thông cảm và cầu xin
ta dang cánh tay bao dung ra đón nhận em một người bạn đời. Không, không thể được,
chỉ sau lần đầu ân ái, trái tim ta sẽ bị vò xé, đau đớn về sự mất mát không có
gì thay thế hoặc bù đắp. Ta sẽ hành hạ, ruồng bỏ em. Ta hiểu ta hơn ai hết, hiểu
rằng ta là kẻ cực đoan số một về ái tình… ”
Rẽ qua
nhà chị dâu, tôi phàn nàn:
– Chị ạ,
xem ra cô ấy Bol lắm. Buổi nói chuyện đầu gặt hái được một mớ lý thuyết sặc mùi
Bol.
– Con gái
thời này thế đấy, chẳng riêng gì ai – Chị nói – ngay trẻ em cũng thế nữa là.
Yêu biết
mấy mẹ nghe con học nói
Tiếng đầu
lòng con gọi Staline
Cháu Hùng
nhà chị đang học vỡ lòng, lúc nào học bài cũng thấy cháu đọc đến bác Hồ, ông
Lénine.
– Thường
thường những cô gái nhiều tuổi chưa chồng nếu không phải do ngoại hình xấu xí
thì có những cá tính kỳ dị phải không chị?
– Chú nói
đúng đấy, đòi hỏi chú phải kiên trì mới được.
– Hình
như em chẳng còn gì để mặc cả với cuộc đời này nữa. Em coi tình yêu giống như
canh bạc, một trò chơi nếu thua cũng chẳng mất mát gì.
Tạm biệt
gia đình người anh họ, đạp xe chầm chậm trên Kim liên, bỗng tôi rơi vào thế giới
cô đơn, lạc lõng. Nhìn những người đi trên đường tôi thấy hãi hùng, có thể họ đều
là những tín đồ ngoan đạo của lũ vô thần như cô Mật. Một mớ lý thuyết giáo điều,
lộn xộn, không có đầu, không có cuối bám rễ sâu vào khối óc tối tăm của họ. Sự
ngu dốt, tối tăm mà họ tưởng là ánh sáng. Nhục nhã chưa, giờ đây muốn có một tổ
ấm tầm thường, khốn khổ tôi phải giấu kín cái dĩ vãng tâm hồn tôi hằng hướng về
ánh sáng, hướng về thế giới tự do. Tôi lẻ loi, đơn chiếc giữa một thế giới u
mê, tăm tối, mọi người đều chống lại tôi, đều dối trá, đều lẫn lộn giữa cái ác
và cái thiện.
Ngày xưa,
Bruno là kẻ thù của giáo hội và có thể của cả loài người lúc đó. Bởi vì họ chưa
ý thức được chân lý trái đất xoay quanh mình nó và xoay quanh mặt trời. Ngày nay,
khoảng một phần ba nhân loại đang nghẹt thở trong thế giới của lũ vô thần, còn
lại ánh sáng của nền văn minh vẫn đang toả chiếu. Như thế, tôi đâu đến nỗi cô
đơn, tuyệt vọng như nhà bác học.
Không,
cái tôi ơi, lập luận như thế là lí sự cùn rồi, Bruno bị thiêu trên giàn lửa
nhưng thân thế và sự nghiệp của người ngời sáng ngàn thu, còn anh bạn chỉ là một
nạn nhân vô danh tiểu tốt sống nhục, chết âm thầm, lặng lẽ với thời gian vô
tri, vô giác.
Tối thứ bảy
tôi đến đã thấy Mật đợi trên đường rẽ vào khu tập thể.
– Em gặp
anh ít phút thôi, sau đó em phải về nhà máy làm đêm để hoàn thành kế hoạch năm.
– Cô có
suy nghĩ hay quyết định gì chưa?
– Sao mà
quyết định nhanh thế được? Em và cả anh nữa, muộn thì đã muộn rồi; Còn suy nghĩ
thì có đấy. Thật ra em chẳng dám chê anh điều gì, không chê già trước tuổi cũng
chẳng chê dáng người, cứ băn khoăn là tại sao anh không làm việc trong cơ quan
nhà nước. Thôi thì anh nhiều tuổi rồi chẳng cần nghĩ đến bước tiến trong tương
lai nữa nhưng ít ra phải lo cho con cái sau này.
– Vì lẽ
đó, cô không muốn quan hệ với tôi nữa.
– Không
phải thế – Mật cướp lời – Chúng ta cứ quan hệ bình thường để em có thời gian
suy nghĩ.
– Bao giờ
cô gặp lại tôi?
– Tháng
này em phải làm việc ngày đêm hoàn thành kế hoạch. Muốn nói với em điều gì, anh
hãy viết thư gửi nhà chị Lý.
Ngừng một
lát, cô ta hỏi:
– Anh có
nhiều bạn không?
– Rất ít,
nếu có chỉ là những người cộng tác làm ăn thôi.
– Gần đây
anh có quen với ai không?
– Trên đường
đê la thành gần đầu ngõ chợ có ông Đồng, tôi thường nhận công trình làm việc
qua bác ấy.
– Bác Đồng
là cai đầu dài à?
– Về danh
nghĩa thì đúng thế nhưng bác ấy là người quân tử, giàu lòng nhân ái.
– Chào
anh nhé, hy vọng đến năm mới em gặp lại.
Trên đường
về, tôi chợt nghĩ, cô ấy muốn tôi viết thư và hỏi bạn bè có lẽ cũng là cách để
tìm hiểu tôi đây. Thôi được tôi sẽ viết nhưng viết cái gì trong khi cô ta chỉ
gây cho tôi những ấn tượng bực mình. Xem ra cô ta cũng có duyên nhưng sặc mùi
Bol sáo rỗng làm trái tim tôi không mảy may rung cảm, vẫn im lìm băng giá. Dù
sao buổi đầu nói chuyện tôi đã thành công trong việc bưng bít dối trá. Tôi sẽ
viết một bức thư na ná thế xem cuộc chơi diễn biến đến đâu.
Ngày 4 –
12 – 1977.
Mật em!
Khi bóng đời đã ngả, với trái tim vốn dĩ cô đơn, lạnh lẽo thì nay anh có vinh hạnh
được gặp em. Ôi, tình yêu hai chữ ngọt ngào đã thiếu vắng trọn tuổi thanh xuân
nghèo khổ, bỗng nó đến gõ cửa trái tim hiu quạnh làm tâm hồn anh xao xuyến, bồi
hồi.
Anh tự hỏi:
“Nó đến để cùng ta xây tổ ấm hay nó chỉ vuốt ve, mơn trớn rồi lại bỏ đi để trái
tim cô quạnh của ta dồn nén thêm đau khổ?” Dù sao, anh và em có nhiều điểm
tương đồng. Em cũng như anh mồ côi cha từ thuở nhỏ. Em xuất thân từ luỹ tre
làng thoát ly tìm cuộc sống mới, anh giã từ tiếng sáo diều êm ả của miền quê,
tha hương tìm hạnh phúc. Lẽ nào hai trái tim cô đơn ấy không cùng nhịp đập. Qua
hai buổi tâm tình, anh đã yêu em. Và khi được em đáp lại, anh sẽ hiến dâng em một
trái tim trong trắng, thuỷ chung. Những ngày tạm xa nhau, anh cầu mong đôi lần
em nhớ đến anh, nhớ chứ chưa phải là yêu đâu nhé – Nhớ một người đàn ông nghèo
khổ chưa từng được ai yêu, người đó đang yêu say đắm mình. Em nhớ anh thôi với
anh cũng là một nguồn an ủi, một niềm hạnh phúc. Anh đang mỏi mắt trông chờ
ngày gặp lại. Ngày ấy, như em nói, hết tháng này nhưng với anh sao mà dài thế?
Một tháng đợi chờ xa vời vợi tưởng chừng một thập kỷ ngóng trông.
Gửi đến
em những lời chân thành, trân trọng. Chúc em luôn vui mạnh, mở rộng cánh cửa
tâm hồn để đón nhận một mối tình chung thuỷ.
Người cô
đơn: Tâm.
Sau một
thời gian gửi thư cho cô Mật, tôi đến nhà chị dâu, chị hỏi:
– Chú viết
thư cho cô Mật đấy à?
– Vâng,
sao chị biết?
– Mật
nói, thư của chú dồi dào tình cảm lắm, song có vẻ lạc hậu thế nào ấy. Thấy lạ,
cô ấy đưa thư cho anh ruột đọc. Ông anh la lên, thư viết thế này mà bảo nó chưa
yêu ai bao giờ à? Hoàn toàn vô lý. Đến như tao trước khi lấy vợ cũng đã yêu
hàng tá đàn bà, viết hàng trăm lá thư tình mà không viết được những lời ngọt
ngào, êm đềm như nó. Hơn nữa, thư của nó còn pha trộn cái chất tiểu tư sản lỗi
thời. Coi chừng mày gặp phải một thằng đại bợm.
– Anh cô
Mật kỳ quặc quá nếu không nói là chẳng hiểu biết gì. Cứ yêu nhiều sẽ có những bức
thư hay vậy thì ai muốn trở thành nhà văn cũng dễ dàng như thế chắc?
– Chị cho
rằng, anh cô Mật chẳng có lỗi gì, lỗi là do chú. Công nhân họ chỉ thích đơn giản
dễ hiểu, chú viết văn vẻ làm gì có thể là một trò cười cho thiên hạ. Vả lại, muốn
chiếm được cảm tình cô Mật, sao chú không ca ngợi vai trò của giai cấp công
nhân đối với cách mạng thì hay biết mấy? Thời buổi này, người ta viết thư cho
người yêu thường thăm hỏi sắp được kết n�
�p đảng chưa hoặc sắp được
lên bậc lương chưa? Và thường chúc nhau học tập, công tác tiến bộ. Học tập ở
đây phải hiểu là tiếp thu và thấm nhuần những lời răn dạy hay chủ trương, chính
sách của đảng ban hành. Thư của chú mang màu sắc lãng mạn tiểu tư sản là hỏng
bét. Người ta có bằng chứng để kết tội chú là một phần tử lạc hậu, chậm tiến của
xã hội.
– Thư để
báo tin và bầy tỏ tình cảm với nhau. Chả lẽ đảng muốn chính trị hoá cả tình cảm
của con người?
– Lâu rồi
chứ, nó đã thành một thói quen, một nếp sống văn hoá của xã hội. Chỉ vì hàng chục
năm cách biệt với xã hội nên chú không biết mà thôi.
Tôi
thoáng nghĩ, thế thì tôi xin chịu thua rồi, chịu tiếng là lạc hậu, chậm tiến chứ
a dua kiểu ấy tôi không thể uốn cong ngòi bút.
– Chú nên
viết cho cô Mật một bức thư khác theo ý chị. Nếu không thì người ta có ấn tượng
xấu về chú đấy. Chẳng những thế mà còn bị thiên hạ chê cười chị có một đứa em họ
lạc hậu, chậm tiến thậm chí quay lưng lại với thời đại mới. Trong lúc mọi người,
nhất là lớp trẻ đang học tập, rèn luyện không ngừng để xây dựng chủ nghĩa xã hội
lại có kẻ hoài vọng dĩ vãng xa xưa, hoài vọng cái thủa văn chương lãng mạn, lỗi
thời.
– Nói thật
là em chẳng hoài vọng gì quá khứ vì dân tộc xưa nay vẫn sống lầm than cơ cực.
Hàng nghìn năm Bắc thuộc, gần một trăm năm Pháp thuộc rồi mấy thập kỷ qua, đất
nước này đã biết gì đến hương vị tự do, dân chủ. Học tập, rèn luyện và phấn đấu
cái gì trong khi miếng cơm chưa đủ no, manh áo chưa ấm vẫn lệ thuộc vào sự ban
ơn của đảng? Còn hoài vọng văn chương lãng mạn thì có đấy. Thứ văn chương man
mác tình người, giải phóng con người khỏi sự ràng buộc, bất công vô lý của ý thức
hệ phong kiến. Nó khác loại văn chương đơn đặt hàng, vô hồn phục vụ cho quyền lực
của đảng hiện nay. Theo ý chị, để đạt được mục đích, phải nói dối đôi chút em
có thể làm được, còn cầm bút mà uốn cong ngòi, đối lập với cái tâm của mình thì
không thể.
– Có điều
là cô Mật đã nhiều tuổi, không biết cô ấy nghĩ thế nào, cứ như lá thư chú viết
cho cô ấy theo chị thì khó thành lắm.
– Cũng đành
thôi chị ạ! Em cũng biết mình khó hoà nhập với xã hội này.
– Tuỳ
chú, nếu lần này thất bại, chú nên rút kinh nghiệm kẻo gặp người khác cũng thế
thì…
Trên đường
đê La Thành về Ô chợ dừa, tôi ghé thăm bác Đồng. Bác siết chặt tay tôi và nói:
– Chú có
tin vui, anh mừng cho chú.
– Có tin
gì đâu, bác? – Tôi ngơ ngác hỏi.
– Chú còn
giấu anh à? – Bác Đồng vỗ vào lưng tôi cười và nói – Anh biết bồ của chú rồi.
– Nói thật
là chưa đâu vào đâu cả. Cô ấy đến đây à?
– Phải, mới
đến tối qua. Anh hỏi, cô ấy trả lời là vừa quen chú. Có lẽ đi tìm hiểu anh về
chú mà cứ như công an thẩm tra lý lịch vậy.
– Bác có
nhận xét gì cô ấy?
– Một cô
nông dân chất phác được pha trộn mớ hổ lốn lý thuyết giáo điếu thành một người
đàn bà nhố nhăng một cách đáng thương.
– Nếu cô
ta đồng ý lấy em, bác thấy thế nào?
– Trước hết
phải xác định rằng chú lấy được vợ cho dù ai chăng nữa cũng là điều may mắn.
Tuy nhiên với cô ấy, chưa nói đến hạnh phúc, chú khó tìm được nguồn an ủi. Từ
cuộc sống cô đơn, vô vọng của chú hiện nay sẽ trở thành một cuộc sống chất đầy
những nỗi u uất. Nói cho cùng, nỗi cô đơn trống trải chưa phải đã hoàn toàn bất
hạnh vì nó có chứa vùng yên lặng. Từ vùng đó, chú vẫn có những giây phút êm đềm,
thanh thản sau những giờ lao động kiếm ăn vất vả.
– Theo ý
bác, em nên trốn chạy một cuộc tình duyên như thế?
– Không
phải thế, anh không khuyên chú từ bỏ cô ta mà chỉ tiên liệu thế thôi. Nếu chú
cho rằng cuộc đời không còn gì để mất nữa thì hãy coi đây là một canh bạc đỏ
đen. Phải nói thẳng ra rằng, thời đại đã dập tắt mọi hy vọng, ước mơ, ý nguyện
của chú rồi. Chú chỉ có quyền thay đổi từ bất hạnh này sang bất hạnh khác mà
thôi.
– Vâng,
em hoàn toàn nhất trí. Em vẫn cho rằng nỗi bất hạnh đến với em là chuyện bình
thường, chỉ có được sống bình yên mới là khác thường thôi.
– Ai cũng
biết, một thời đại chỉ gieo rắc đói nghèo, lạc hậu, một thời đại phi nhân gây
ra bao thảm hoạ cho dân tộc thì nó không thể tồn tại lâu dài nhưng biết đến bao
giờ, trong khi đó cuộc đời của một người lại quá ngắn ngủi so với lịch sử?
– Ngẫm
nghĩ đời mình, em không còn đủ can đảm nhìn về tương lai nữa. Quá khứ, hiện tại,
tương lai chìm đắm trong bóng đêm vô tận. Bác ạ, ai cũng sợ cái chết song nó có
thể là cách tối ưu đối với những cuộc đời bất hạnh. Cái chết trước sau sẽ đến
khi biết chắc sống thêm một ngày là thêm một nỗi đau. Thế thì tại sao không đủ
can đảm ra đi sớm để rút ngắn những tháng năm bất hạnh.
– Ý kiến ấy
không ổn rồi chú Tâm ạ. Tự sát có thể được coi là can đảm, cũng có thể coi là
hành động cùng đường của những người hèn nhát không đủ nghị lực để chịu những
cơn đau về mặt tinh thần. Những người khổ nhục, nếu có thể, hãy cố gắng quên
cái tôi chắc sẽ làm được nhiều điều bổ ích cho mình và cho xã hội. – Ngừng vài
giây, bác Đồng nói tiếp – Mặc dù tuổi của chú đã nhiều nhưng hoàn cảnh lại chưa
cho phép, chú định tìm một tổ ấm lúc này có thể vội vã quá chăng?
– Thực
ra, em đã dám nghĩ đến đâu, em vẫn coi tình yêu là mặt hàng xa xỉ. Chả là gần
đây, bà chị dâu họ chạnh lòng thương xót em phải đi ở nhờ nhà chị ruột nên giới
thiệu cô Mật, nếu thành gia thất thì em thoát khỏi một nỗi nhục ở nhờ đang hành
hạ. Đúng như bác nói có nên chăng cũng chỉ thấy nỗi bất hạnh mà thôi.
Nếu thế,
giải pháp của chú không có lối thoát rồi. Phải khẳng định là chú và cô Mật
không thể sống với nhau lâu dài. Chẳng hạn được nửa năm đã chia tay, lúc đó chú
đi đâu, về đâu? Còn hiện nay chú ở nhờ vẫn là điều hợp pháp, cơ quan an ninh
không gây phiền hà cho chú về phương diện đó. Theo ý anh, chú lấy vợ để bớt phần
nhòm ngó của cá chìm, trước hết và bằng mọi cách chú hãy sắm
một nơi chui ra, chui vào đã. Như đã hứa, anh sẽ góp phần nhỏ bé.
NHỮNG KẺ
KHỔ NHỤC – Unfortunate people
NHỮNG KẺ
KHỔ NHỤC – Kỳ 8
Mùa đông
rồi mùa xuân năm 1978 lặng lẽ trôi qua. Quan hệ hững hờ giữa tôi và cô Mật đã
lùi về dĩ vãng, chúng tôi không gặp nhau một lần nào nữa. Chị dâu tôi bảo, anh
cô ấy và nhiều người trong nhà máy khuyên Mật rằng, có ế cũng không nên lấy một
người không có tương lai cho con cái.
Cũng từ đầu
năm 1978 việc làm chẳng có, tôi phải chơi dài hết tháng này qua tháng khác. Thất
nghiệp ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo đã đành, tôi lại chịu thêm một nỗi nhục.
Ban ngày nghỉ ở nhà chị không yên, anh rể và các cháu sẽ tạo ra cớ để hành hạ,
để làm nhục. Tôi đi lang thang, vạ vật từ phố này sang phố khác, nay ngồi vườn
hoa này mai đến công viên khác. Tâm hồn tôi mông lung, buồn da diết.
Một hôm
ngồi ở công viên Cột cờ, tôi lơ đãng nhìn dòng người qua lại, cõi lòng đang
chìm đắm trong nỗi suy tư thì một người đàn ông đến ngồi bên cạnh. Anh ta trạc
tuổi tôi, vóc người dong dỏng cao, khuôn mặt trái xoan thanh nhã nhưng đượm vẻ
trầm tư. Cả hai đều im lặng nhìn nhau trong khoảng khắc, tôi đưa mắt nhìn đàn
chim nhỏ đang ríu rít trên cành cây gần đó.
– Anh bạn
có vẻ buồn lắm phải không? – Anh ta hỏi.
– Bình
thường thôi, sao anh hỏi thế? – Tôi hỏi lại.
– Tôi thấy
nét mặt anh buồn rười rượi. Nói thật là tôi cũng chẳng vui gì, hỏi anh thế cho
khuây khoả đôi chút.
Ngừng một
lát anh ta nhìn thẳng vào mặt tôi, nói tiếp:
– Mà biết
đâu gặp được người cùng hội cùng thuyền.
– Anh nhầm
rồi. Đất nước này chỉ có hội những người gọi nhau là đồng chí và những nạn nhân
của họ. Dưới chế độ chuyên chính vô sản không thể tồn tại những người cùng hội
cùng thuyền.
– Nói cho
vui – Anh ta vỗ vào vai tôi, thì thầm – Cùng hội để thành trâu ngựa ở miền rừng
thiêng nước độc à? Tuy nhiên cùng thuyền thì có chứ, cùng thuyền trên sông nước,
cùng thuyền ra khơi đánh cá… cũng có thể cùng thuyền để chịu đựng những cơn
giông tố hung bạo của biển cả. Đó là những người cùng cảnh ngộ – những nạn
nhân.
– Anh biết
cơm cân không? – Tôi hỏi.
– Sơ sơ
năm năm thôi.
– Anh họ
hàng gì?
– Tôi
dòng họ Bulùm, chắc anh cũng thế?
– Vâng,
tôi mười một mùa lá rụng, cùng họ với anh. Nom anh ít tuổi, chưa phải thế hệ xỏ
giày nhầm. Tại sao anh phải chịu cảnh ngộ ấy?
– Lý do
đơn giản lắm, không chịu biến thành chú cá Ngầm để hại bạn bè. Còn anh?
Anh ta
nói đến đây làm tôi sửng sốt:
– Tôi ấy
à? Chuẩn bị vượt tuyến vào Nam chống cộng. Có phải anh là Long ở phố Chu văn
an?
– Đúng rồi.
Và có thể anh cùng vụ với Khoa phố Nguyễn thái Học – Long cũng sửng sốt trả lời
và hỏi.
– Rất mừng
được gặp anh – Tôi siết chặt tay Long và nói tiếp – Do trời xui đất khiến tôi mới
gặp anh để thanh minh cho Khoa – một người đã quá cố.
– Tôi vẫn
cho là Khoa phản bội bạn bè, sự thể thế nào anh cho biết?
– Cái lỗi
của Khoa là viết nhật ký những lần gặp anh hồi ấy chưa kịp cất giấu thì công an
đến bắt khám nhà. Từ đó dẫn đến sự kiện tủi nhục của anh. Khoa không hề rắp tâm
hại bạn bè.
– Cảm ơn
anh đã giải thoát cho tôi một ý nghĩ sai lầm. Khoa học với tôi từ lớp một đến
khi Khoa bỏ học. Có điều khó hiểu là khi còn ở trường Khoa rất yêu đời, say mê
với bầu trời, trăng gió, với cỏ cây hoa lá. Đến tuổi trưởng thành Khoa hoá ra một
người xa lạ với chính mình lúc thiếu thời ít nói, nỗi buồn thường trực trên nét
mặt. Nhiều lần tôi hỏi nguyên nhân, Khoa chỉ im lặng, duy có một lần Khoa đã trả
lời: Tạo hoá sinh ra tao để yêu đời sau đó CS đã biến tao thành kẻ chán đời.
Nói gì đến tao – một hạt cát trong hoang mạc, nếp sống văn hoá của dân tộc cũng
hoàn toàn bị đảo lộn nữa là. – Nghĩa là một xã hội toàn những ngịch lý? – Đúng
thế, một xã hội người ngay sợ kẻ gian, kẻ ngu làm thày người sáng, thằng vô học
răn dạy người trí thức. Một nhóm người vừa ác, vừa giàu thủ đoạn cấm bó đuốc
ngoại lai dẫn đường bắt cả dân tộc phải đi theo. Chẳng phải tao buồn cho tương
lai cuộc đời mình mù mịt, điều đáng buồn là một dân tộc có truyền thống chống
ngoại xâm với những trang sử vàng chói lọi mà nay u mê, tăm tối, bất lực trước
sự xâm lược tàn bạo của ý thức hệ Marx – Lénine. Sau lần nói chuyện đó, tôi thấy
sờ sợ, có khi một vài năm mới đến nhà Khoa một lần. Và chỉ gặp nhau mấy phút rồi
lại chia tay.
– Ông
thân sinh ra anh là công chức cũ?
– Sao anh
biết? – Long ngạc nhiên hỏi lại.
– Tôi đọc
nhật ký của Khoa năm 1961.
– Thật khốn
khổ cho bố tôi, một người cúc cung tận tuỵ cho chế độ này. Sau khi được chấp nhận
mức lương thấp như những cán bộ cách mạng, ông vẫn mơ tưởng một cuộc sống bình
yên. Tháng tám năm 1964, bố tôi khăn gói lên đường vào trại, hai năm sau bỏ xác
ở rừng núi Lào cai. Thế đấy, có ngoan ngoãn, có hèn, thậm chí có cắn cỏ lạy
ông, đảng vẫn không tha. Thứ pháp luật dựa vào quá khứ để suy diễn tư tưởng mà
kết tội con người thật là độc ác chưa từng thấy trong lịch sử.
Sau vài
giây im lặng, Long nói tiếp:
– À này,
một sự kiện cực kỳ quan trọng có thể giáng vào đầu chúng ta, anh có biết không?
– Không,
tôi chẳng biết gì cả. Tôi cho rằng mình ở cái đáy của xã hội không thể rơi đi
đâu được nữa nên chẳng quan tâm gì thời sự.
– Thế mà
mình vẫn còn cái để mất đấy. Anh có biết người ta gọi Hà nội là đất thánh
không?
– Chuyện ấy
thì tôi biết nhưng sao?
– Hiện
nay đảng chủ trương thực hiện câu nói của ông Hồ năm 1964 “làm Hà nội trong
sáng như pha lê” nghĩa là diện chúng ta, họ sẽ quét sạch trên vùng đất thánh
này.
– Nay tôi
mới nghe anh nói.
– Năm
ngoái, trung ương đảng chọn một trong hai người làm bí thư thành uỷ. Từ đó có
câu:
Kiệt mà
không kiệt!
Lương mà
bất lương!
Kiệt mà
không kiệt thì chưa chắc nhưng lương mà bất lương thì đúng quá rồi. Lê văn
Lương sẽ thực hiện triệt để câu nói của ông Hồ. Chúng ta đang ở đáy của đất
thánh, có thể thời gian tới mình lại bị đẩy đến cái đáy của một miền hoang vu
nào đó. Theo tôi, chỉ có chết mới không còn cái gì để mất, nếu còn sống thì còn
nỗi cơ nhục làm gì có giới hạn, nhất là với một chế độ coi việc hành hạ, tiêu
diệt con người là một biện pháp tất yếu của lịch sử.
Nghe Long
nói, tôi rùng mình hoảng sợ và tự hỏi, cuộc đời bị đầy đoạ đến thế này vẫn chưa
phải là giới hạn cuối cùng sao?
Mấy ngày
sau, tôi đến nhà Đăng một người cùng làm mộc ở ngõ chợ Khâm thiên. Đăng cũng
nói như lời của Long và thêm:
– Em đi
tù vì phạm pháp hình sự. Mặt khác em thuộc gia đình cán bộ đảng viên, tuy có nhẹ
cân hơn anh nhiều nhưng nếu không mau chóng chui vào cơ quan nhà nước nào đó
cũng sẽ bị tống đi. Anh cũng nên xin vào một cơ quan để thực hiện kế hoãn binh.
Năm 1963 – 1964 những người vội vàng đi trước là chịu thiệt. Đến năm 1965, Mỹ bắn
phá miền bắc ác liệt, kế hoạch giải toả đô thành phải dừng lại. Lần này biết
đâu cũng tương tự thế.
– Nhưng
cơ quan nào họ nhận tôi.
– Có đấy,
công trường hoặc ngành xây dựng. Cái khó là công nhân ngành này phần lớn văn
hoá thấp, ăn nói lỗ mãng, liệu anh có chịu nổi, nhịn nhục được không? Đấy là
chưa kể những khó khăn trong năm đầu: tem phiếu chưa được phát, tất cả cuộc sống
trông vào mấy đồng lương chết đói. Chẳng những thế, do lý lịch mình xấu nên dễ
bị bọn lãnh đạo từ tổ trưởng sản xuất, công đoàn trở lên lợi dụng đánh đập, hắt
hủi.
– Nếu
không có biến cố về chính trị, trước sau mình cũng phải đi thì chui vào cơ quan
làm gì cho thêm nhục.
– Anh nói
đúng nhưng mình làm ngoài sẽ bị tống đi ngay đợt đầu, nhất là những người thân
cô, thế cô như anh. Chui vào cơ quan nhà nước để họ tống mình đi muộn hơn, biết
đâu đến lúc đó lại xảy ra một biến cố quan trọng buộc họ phải dừng lại hoặc huỷ
bỏ. Vì thế em mới nói là vào cơ quan để thực hiện kế hoãn binh.
Nghe Đăng
nói có lý, tôi cũng đành cựa quậy để duy trì cuộc sống khốn khổ ở mức này,
nghĩa là vẫn được tồn tại ở miền đất thánh.
Thắng có
ông chú ruột làm trưởng phòng tài vụ tại xí nghiệp sửa chữa nhà cửa quận Hai
bà, nó rủ tôi vào cơ quan đó. Ông giám đốc xí nghiệp là người đồng hương với
ông Lý (chủ nhiệm hợp tác xã 307). Nhờ vậy, xí nghiệp đã nhận tôi qua sự giúp đỡ
của ông chú Thắng và ông Lý. Ông giám đốc nói với ông Lý, nể anh, tôi nhận anh ấy
nhưng chỉ làm hợp đồng dài hạn. Ông Lý cũng nói, người ta cũng chỉ cần thế
thôi, biên hay không chẳng hệ trọng gì. Thủ tục, giấy tờ đưa tôi vào xí nghiệp
không gặp trở ngại gì đáng kể, chỉ mất một trăm đồng làm bữa tiệc để mời ban
giám đốc, bí thư chi bộ, phòng tổ chức tại nhà Thắng. Tưởng như nơi dung thân tạm
sẽ gặp may nhưng nỗi nhục đang chờ tôi phía trước. Ngày 4 – 5 đài Bắc kinh loan
tin phản đối “nhà cầm quyền Hà nội xua đuổi bài xích người Việt gốc Hoa”, nghĩa
là mâu thuẫn giữa hai nước CS này đã công khai và bút chiến quyết liệt. Nhờ biến
cố đó, kế hoạch “làm Hà nội trong sáng như pha lê” của Lê văn Lương chưa mở đầu
mà đã vội vàng kết thúc. Mới làm được mấy ngày, tôi định bỏ ngay xí nghiệp
nhưng do mâu thuẫn Việt, hoa, cơ quan an ninh ráo riết theo dõi, thẩm vấn những
đối tượng của cách mạng nên tôi chưa dám quyết. Gặp tôi, Đăng nói, do đối ngoại
căng thẳng nên việc giải toả đô thành họ tạm thời bỏ để giảm bớt mâu thuẫn nội
bộ. Biết đâu, sau một thời gian nữa họ lại bắt đầu, anh nên kiên trì, nhẫn nhục
để tránh một tai hoạ có thể đến.
* *
*
Tôi đi
làm, sửa chữa nhà cửa của dân thuê nhà nước. Người cùng nhóm mộc có ba thanh
niên tuổi từ mười tám đến hai mươi. Sau một vài tuần, có tình cảm với tôi,
chúng nói:
– Bọn em
còn trẻ, lêu lổng ở ngoài không yên với khối phố nên phải đâm đầu vào xí nghiệp
này. Tuổi anh thì tội gì phải chui vào đây cho thêm khổ nhục?
– Mỗi người
một cảnh, sau này các em sẽ biết – Tôi trả lời chung chung như thế, nhưng một
hôm gã tổ trưởng sản xuất đến, gọi tôi ra chỗ vắng, Ngạn bảo:
– Ông
Sang (đội trưởng) cử anh làm nhóm trưởng nhóm mộc. Anh đôn đốc bọn trẻ làm. Đứa
nào đi muộn, về sớm, lấy cắp vật tư, lao động chây lười, anh phải báo cho tôi.
– Tôi chỉ
biết làm, không có khả năng phân công, chỉ bảo ai, anh hãy cử người khác.
– Không
được, phòng tổ chức cho tôi biết, anh mới đi cải tạo về, xí nghiệp độ lượng nhận
nhưng anh phải tỏ ra gương mẫu, chấp hành tốt hơn các đồng chí công nhân khác.
Xí nghiệp ta có một số người từ trại cải tạo về nhưng đều là người phạm pháp
hình sự, độc nhất anh là tội phản cách mạng. Nói thật là ban giám đốc, phòng tổ
chức, ban chỉ huy đội giao cho chúng tôi giám sát chặt chẽ anh. Sẽ còn nhiều thử
thách, anh phải quyết tâm, kiên trì mới được.
Tôi
thoáng nghĩ, có thể mình lại tự dẫn thân vào một nhà tù kiểu khác rồi đây. Để
giảm bớt sự chú ý của bọn lãnh đạo, tôi đóng vai một người ít nói, ngây ngô.
Vai trò này tôi đã thành đạt, sau mấy tháng, ngay cả ông giám đốc và trưởng
phòng tổ chức cũng nói với tôi: “Anh có vẻ hơi hâm hấp”. Đến nhà dân, bọn trẻ
cùng làm thường nói với mọi người tôi chưa vợ. Thấy tôi ít nói, hiền lành nhiều
người tỏ ra thương cảm hỏi: Tại sao anh vẫn cô đơn? Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là
do nghèo khổ, vô gia cư. Họ còn nghĩ rằng tôi là kẻ đần độn, dở hơi nên đã làm
mối cho tôi nhiều cô gái nhiều tuổi chưa chồng vì ngoại hình xấu xí
– Cô Rá ở
làng Kim liên vóc người to như hậu pháp, bước đi nặng nề như bước chân voi,
khuôn mặt to bành bạnh trông dễ sợ. Bà mẹ cô ta nói với người làm mối nếu anh ấy
đồng ý, chúng tôi sẽ lo liệu hoàn toàn lễ cưới và xây nhà cho ở. Cô Rá cũng
khoe vốn liếng gần một cây vàng và một xe Phượng hoàng mới. Chỉ một lần gặp cô
ta tôi đã thấy tủi hổ cho thân phận của mình;
– Cô Màng
ở dệt kim Đông xuân, thấp lè tè, cổ rụt. Từ vai đổ xuống béo tròn trùng trục
như một khối thịt di động, hai bầu vú to như hai quả dừa đeo trên ngực. Bầu vú
lắc lư đánh nhịp theo bước chân đi. Cô ta từ giữa sân nhà máy ra cổng để gặp
tôi. Khi còn cách khoảng ba mét, như một bản năng tự vệ, tôi ngồi lên yên xe đạp
thật nhanh bỏ chạy, bỏ rơi luôn cả người làm mối;
– Cô Hồi ở
làng Khương thượng, bố mất sớm, cô ta là đứa con duy nhất của gia đình. Hai mẹ
con ở một ngôi nhà ngói ba gian, vườn tược rộng rãi. Cô ta còn trẻ khoảng hai
mươi nhăm tuổi, dáng người nhỏ bé, quắt queo. Đáng buồn nhất là cô ta bị chột.
Nhiều người nói hoàn cảnh khốn khổ của tôi hiện nay được gặp cô Hồi là một ước
mơ đã thành hiện thực nhưng tôi thấy xót xa, tủi hổ và chỉ một lần tiếp xúc
trong im lặng rồi thôi;
– Cô Lệ
nhà ở vườn hoa Cửa nam. Nghe nói, hơn mười năm trước, cô ta yêu con trai ông chủ
tịch khu Hoàn kiếm nhưng vì gia đình có hai anh ruột xỏ nhầm giầy nên mối tình
đó không thành. Trong một xã hội sự phân chia giai cấp đã trở thành quốc sách
thì mối tình đó tan vỡ là điều tất yếu. Cô Lệ chán chường đến tột đỉnh và thề
trọn đời sẽ sống độc thân nhưng không phải là nhà tu kín mà giữa nơi phồn hoa
đô hội, làm sao cô ta chịu được cảnh chăn đơn, gối chiếc trọn đời? Người làm
cũng cơ quan với cô ta đồng thời cũng là người làm mối nói với tôi, tôi dẫn chú
đến nhà xem mặt, nếu chú đồng ý thì chẳng phải lo gì nữa từ cưới xin đến nhà ở.
Đúng là cơm no bò cưỡi.
Buổi đón
tiếp tôi khá chu đáo, cô ta nhờ đứa cháu gái đến pha trà, pha nước chanh đá để
mời khách. Một gian nhà hai tầng rộng rãi mặt phố Tràng thi, công trình phụ:
nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, máy nước đầy đủ. Gia đình chỉ có cô ta và bà nội
gần tám chục tuổi. Đúng là nơi cư trú lý tưởng cho tầng lớp trung lưu thành phố,
còn đối với tôi thì quả thật là ngoài mơ ước. Nói đến đây có lẽ nhiều bạn đọc mừng
cho tôi lắm nhưng đó mới là phương tiện của cuộc đời. Của cải, tiền tài, địa vị
là những phương tiện chứ đâu phải bản chất của tình yêu. Mưu cầu cuộc sống hạnh
phúc là công việc của khối óc còn tình yêu phải lệ thuộc vào sự rung cảm của
trái tim mình. Vốn dĩ trái tim bao giờ cũng chân thật, không ngả nghiêng, không
giả dối trước bất kỳ một thứ uy lực nào chi phối.
Tuổi cô
ta ngang tuổi tôi, khuôn mặt gẫy gập, trán và gò má như tạo thành một góc nhị
diện.
– Mời bác
Sắc và anh xơi nước – Giọng cô ta khàn khàn vịt đực, thứ âm thanh khác lạ của
phái yếu đến tai làm tôi khẽ rùng mình sờ sợ. Ông mối ra sức tán tỉnh, vun vào:
– Chú Tâm
thấy chưa, nhà cửa, tiện nghi thế này thì hết ý rồi, chẳng tội gì phải đi ở nhờ
nữa? Tôi sống ở Hà nội đã hơn ba mươi năm mà vẫn chui rúc trong ngõ ngách như
hang chuột. Mùa hè, cả đêm xếp hàng lấy nước có khi mang thùng về không, trời
nóng như hun, mất điện thường xuyên, khi có mưa rào cho mát lại sợ mưa to ngập
ngõ thành một con mương, phân, rác rưởi nổi lên lềnh bềnh trôi dạt cả vào nhà.
Mùa xuân, đường đi lại trong ngõ lầy lội như dưới ao bùn. Chẳng những thế, còn
bí đái, bí ỉa, hàng nghìn người chỉ có một nhà vệ sinh công cộng, khi đi đại tiện
phải xếp hàng dài. Nay do trời xui đất khiến, phúc của chú còn lớn lắm nên mới
gặp cô Lệ.
Sau một hồi
huyên thiên, ông mới bỏ ra ngoài để tôi với cô Lệ tâm tình. Giống như gặp những
cô gái khác, lưỡi tôi líu lại như câm, có lẽ thời gian im lặng nặng nề trôi qua
hàng chục phút. Cô Lệ cúi mặt xuống còn tôi vờ vĩnh đưa mắt nhìn trần nhà và
nhìn ra ngoài đường phố, đầu óc rối mù chẳng biết xử trí ra sao.
Đến nay
tôi mới biết, chỉ khi nào trái tim rung cảm, đài tiếng nói của tình yêu mới
phát sóng. Thời trai trẻ, tôi đã yêu thầm vụng hai cô gái họ Lê, Lê thanh Ngân
và Lê minh Nguyệt. Mỗi lần giáp mặt em, trái tim tôi đập rộn ràng, đài ái tình
khi được em thỏ thẻ đã hoạt động hết công suất, chẳng cần bài bản, chẳng cần kí
giả, phóng viên.
Tôi đang
theo dòng tư duy về quá khứ thì mất điện, gian phòng chìm trong bóng tối.
– Không
sao, cô chú cứ nói chuyện đi, sao mà mặc niệm mãi thế? – Ông mối ở ngoài sân
nói:
– Cháu thắp
cho cô cái đèn – Cô Lệ sai cháu, giọng vẻ khàn hơn trước – Chỗ nhà anh ở có hay
bị cúp điện không?
– Thường
xuyên chị ạ!
– Chú này
lạ nhỉ? – Ông mối từ ngoài sân chạy vào nói – Sao không gọi là em hay ít ra
cũng phải gọi là cô. Gọi một người bạn trăm năm tương lai là chị thì khó nghe lắm.
– Em xin
lỗi bác – Tôi nói.
– Chú có
lỗi gì với tôi đâu? Chú xin lỗi cô Lệ ấy chứ.
– Vâng!
Hiện nay cô làm việc ở đâu? – Tôi lẩn tránh lời xin lỗi theo yêu cầu của ông mối
nhưng lại bật ra một câu hỏi vô duyên quá.
– Em tưởng
bác Sắc đã nói cho anh biết về em rồi chứ? Em làm ở xí nghiệp dược cùng cơ quan
với bác Sắc.
– Phải,
tôi đã nghe bác Sắc nói – Sau đó tôi nói với ông mối:
– Ta về
thôi bác Sắc ạ.
– Bây giờ
mới có chín giờ – Cô Lệ nói.
– Nói thật
là nếu tôi về muộn, ảnh hưởng đến giấc ngủ của gia đình chị tôi thì phiền lắm.
– Bác đã
dạy: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” – Ông mối nói – Khi chú về đây có đi
sớm về muộn cũng chẳng ai dám chạm đến lông chân mình.
– Vâng
thuần tuý câu nói ấy là một chân lý nhưng em chỉ sợ… (người ta đã đội lốt chân
lý để hành động điều ngược lại) – Tôi vô ý buột ra nhưng đã kịp thời ngừng lại.
– Chú sợ
gì nào?
– Em sợ ước
muốn như thế là vội vàng quá.
– Cái chú
này nhiêu khê thật, buổi đầu gặp nhau chưa nói được điều nào hay đã tuôn ra điều
gở. Vội vàng gì nữa, coi như việc đã quyết rồi phải không cô Lệ?
– Vâng,
em thì thế nào cũng xong, còn tuỳ vào anh ấy chứ.
Nghe cô ấy
nói tôi cũng mủi lòng thương nhưng…
– Nói thật
là người ta bảo tôi thuộc vào người cám hấp, cô hãy cân nhắc kĩ càng.
– Chính
anh nói ra điều đó thì em không sợ. Bởi vì người mắc bệnh dở hơi không bao giờ
biết mình như thế.
– Ngoài
ra, biết đâu tôi có một quá khứ chẳng tốt đẹp gì.
– Nếu
không liên quan đến đạo đức cũng chẳng hệ trọng gì.
– Có liên
quan đấy cô Lệ ạ! Đạo đức cách mạng!
– Em xin
anh đừng bàn đến phương diện ấy.
– Bây giờ
khuya rồi, tôi phải về. Chân thành cám ơn sự đón tiếp nồng hậu của cô – Tôi đứng
dậy chào ông mối rồi bước nhanh ra khỏi nhà, đạp xe về ô chợ dừa.
Người ta
làm mối cho tôi hàng chục cô gái dị dạng như trên. Tôi cũng buồn thương họ và
trách tạo hoá đã chẳng công bằng nhưng biết sao khi trái tim không phục tùng mệnh
lệnh của lý trí. Trái tim có thể mãi mãi cô đơn nhưng khi có cơ hội, nó sẽ tự
chọn ý trung nhân. Tôi trách trái tim mình hẹp hòi quá, giá mà nó cũng độ lượng,
bao dung như trái tim Tô vũ thì…
Tạo hoá
thật bất công, sinh ra kẻ đẹp người xấu, tật nguyền; Kẻ khoẻ mạnh, người ốm
đau, bệnh hoạn, kẻ thông minh, người đần độn, kẻ thiện, người ác… Chủ nghĩa CS
muốn giành thắng lợi cuối cùng như trong học thuyết Marx “làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu” thì trước hết phải chiến thắng tạo hoá, bắt nó phải tuân theo lẽ
công bằng. Nếu không, chỉ là thứ chủ nghĩa hoang tưởng, nửa vời và gây thảm hoạ
triền miên cho nhân loại mà thôi.
Ngược lại,
khi gặp những cô gái đẹp trái tim tôi rung cảm mãnh liệt, như thế chắc cũng
không khôi hài chứ? Theo Marximgorky thì con người bẩm sinh là nghệ sĩ cơ mà?
Không hiểu sao, tôi chỉ yêu say đắm những sản phẩm tuyệt vời của thiên nhiên và
tạo hoá, còn những sản phẩm nhân tạo nếu có yêu chăng cũng chỉ trên phương diện
lý trí mà thôi. Bởi vì tôi quan niệm những thành tựu khoa học thường là những
con dao hai lưỡi. Và nền văn minh tăng tốc của nhân loại hiện nay sẽ góp phần
không nhỏ vào sự huỷ diệt sự sống trên hành tinh này sớm hơn thời điểm thượng đế
đã an bài. Cuối năm 1978, tôi sửa chữa cửa ở khu tập thể Tân mai, một chị chủ
nhà có tấm lòng nhân hậu và cởi mở, hỏi tôi:
– Này chú
Tâm, nghe các chú thợ trẻ nói, chú chưa có vợ phải không?
– Vâng! –
tôi trả lời.
– Tại sao
lại muộn mằn thế?
– Đơn giản
là em nghèo, vô gia cư, phải ở nhờ nhà chị ruột.
– Nếu chú
yêu cầu, tôi sẽ giúp.
– Vâng,
trước hết em cảm ơn hảo tâm của chị.
– Tôi làm
ở nhà máy 8 – 3. Nhà máy này có nhiều cô gái quá lứa đang sống ở khu tập thể.
Tôi sẽ giới thiệu cho chú một cô.
– Chị cho
em biết qua đối tượng?
– Cô ấy
tên là Mây, hai mươi tám tuổi, quê ở Hà nam. Đó là một cô gái đẹp người, đẹp nết.
– Tại sao
cô ấy vẫn cô đơn?
– Nguyên
do là người yêu cô ấy đi chiến trường B, biền biệt tăm hơi, đến năm 1975 mới có
giấy báo tử. Bố mẹ ở quê lại ốm đau bệnh tật, năm 76 bố chết, năm sau mẹ qua đời.
Một khoảng thời gian dài vừa chờ đợi, vừa tang thương. Mặt khác cô ấy lại ít
quan hệ với bên ngoài nên chưa có cơ hội để yêu lần nữa.
– Thế thì
chắc gì cô ấy đã yêu em vừa nghèo, vừa không nhà cửa.
– Nhà ở
không lo, nếu cô Mây đồng ý lấy chú đã có nhà tập thể. Còn nghèo thì cả xã hội
chứ riêng gì chú. Thành vợ thành chồng là do duyên số, có câu trả lời nào đúng
cho trái tim đâu?
– Có đấy
chị ạ, trái tim thường chỉ rung cảm trước tiền tài, địa vị, anh ấy có phải là
cán bộ đảng viên không, chức vụ gì, trưởng phòng hay giám đốc? Nếu anh ấy công
tác tại ngành thương nghiệp thì tuyệt vời.
– Nhưng
không phải hầu hết phụ nữ đều như thế.
– Vâng nếu
có ngoại lệ cũng chỉ là con số nhỏ nhoi.
– Chú cứ
thử xem, biết đâu cô Mây trong số nhỏ nhoi ấy?
– Em nghe
theo ý chị. Bao giờ em có thể gặp cô ấy?
– Chú còn
làm ở đây hết tuần chứ gì? Có thể chiều mai hoặc ngày kia.
Sáng hôm
sau, chị Hòa cho biết:
– Cô ấy đồng
ý chiều nay đến nhà gặp chú.
Bao lần
thất vọng nên lần này tâm hồn tôi chẳng thấy rạo rực, bồi hồi. Chiều hôm ấy tôi
đang mải mê làm việc thì chị Hoà gọi:
– Chú Tâm
ơi, nghỉ tay vào uống nước.
Lúc đó
tôi mới nhớ ra buổi hẹn hò này, không mong mỏi, chẳng đợi chờ tâm tâm niệm niệm
như buổi đầu gặp cô Mật năm qua.
Tôi bước
chân vào nhà, nhác trông thấy một cô gái nét mặt tươi như hoa đang hướng cặp mắt
bồ câu ngời sáng vào tôi. Bỗng tôi run lên, trống ngực đập thình thình. Tự tin,
hổ thẹn trước sắc đẹp của đối tượng, tôi không dám nhìn em nữa. Vâng, em là
bông hoa tuyệt vời trong vườn ngự uyển, chẳng những tôi không có quyền được hái
mà còn… Đối với em, tôi muôn trùng xa cách tựa hằng nga trên cung quảng lạc. Em
xuống thăm để trêu ghẹo, mơn trớn trái tim tôi – một trái tim cô đơn, giá lạnh
bỗng rung lên đến cực đại tần số và biên độ – rồi em vội vã ra đi để lại cho
tâm hồn tôi nỗi tủi hận mênh mang. Tôi trách tạo hoá sinh ra tôi nhầm thời đại
để thành kẻ không tài, không tiền, không lực…
– Chị giới
thiệu với Mây, đây là chú Tâm công nhân xí nghiệp sửa chữa nhà cửa quận Hai bà.
Còn đây là cô Mây cùng làm việc với tôi, chú Tâm ạ. Bây giờ tôi bận ra ngoài một
lúc, cô chú nói chuyện với nhau vui vẻ nhé – Nói xong chị Hoà đi đâu đó.
– Em chào
anh – Lời cô gái ngọt ngào trìu mến.
– Tôi hân
hạnh được gặp cô – Tôi đáp lời và liếc nhìn người đẹp.
– Anh làm
ở xí nghiệp đã lâu chưa?
– Tôi mới
vào thôi nhưng làm nghề mộc đã lâu rồi.
– Xưa kia
bố em cũng làm nghề thợ mộc. Người bảo, nghề mộc là nghề lương thiện cả ý nghĩ
lẫn việc làm.
– Tôi tưởng
người có lương tâm thì làm nghề nào chẳng lương thiện.
– Em cũng
thắc mắc như anh thì được bố em giải thích, chẳng hạn nghề thày thuốc muốn phát
đạt phải có nhiều bệnh nhân. Chữa bệnh là lương thiện nhưng ý nghĩ có nhiều bệnh
nhân là không lương thiện. Ông thợ chữa xe đạp cười khi thấy người mếu máo dắt
chiếc xe cong vành đến. Càng nhiều xe hỏng thì ông thợ càng vui. Còn nghề mộc
cũng như nghề nông đều phù hợp với xã hội phồn vinh hay mưa thuận gió hoà. Hai
nghề đó lương thiện cả ý nghĩ và việc làm. Em nói thế có đúng không, anh?
– Mây giải
thích thật tuyệt vời, giá mà cô là cán bộ đảng, đoàn thì phải?
– Anh
khen em quá lời rồi. Nghề của em là thợ dệt cơ mà, có diễm phúc được làm cán bộ
đâu.
Nhìn dung
nhan và nghe giọng nói, tôi thầm nhủ, cô ta được cả sắc và ngôn, tôi buột miệng:
– Có bao
giờ Mây nghe nói đến tứ đức không?
– Có phải
là công dung ngôn hạnh không, anh?
– Đúng thế,
hiện nay có trường nào dạy đâu mà Mây biết?
– Xưa kia
nghe bố em nói. Thuở nhỏ, bố em học chữ nho.
– Thế là
Mây được cả tứ đức rồi nhé, chẳng phải tôi nịnh đầm đâu.
– Anh lại
đưa em lên chín tầng mây –Cặp mắt bồ câu của em long lanh ngời sáng.
– Mây có
phản đối gì tứ đức không?
– Nhiều
người phản đối hai chữ: dung, ngôn nhưng em lại cho là đúng. Phương ngôn có câu
“… con lợn béo cỗ lòng mới ngon” chẳng sai bao nhiêu đâu anh ạ.
– Còn tam
tòng?
– Tam
tòng thì khắc nghiệt, bất công quá, giam hãm người đàn bà trong cuộc đời nô lệ,
tuy nhiên cũng không phải hoàn toàn là dở. Thời nay phụ nữ lợi dụng tự do hôn
nhân để đi quá trớn, bỏ chồng dễ như trở bàn tay. Cũng vì điều này mà em phải một
phen điêu đứng.
– Sự việc
diễn ra như thế nào?
– Đang
lúc làm việc, một anh ở gần chỗ em, nói mọi cái đều theo mệnh lệnh, theo khuôn
khổ, việc xe duyên có nhiều trường hợp đảng cũng thay ông tơ, bà nguyệt; Dân
mình chỉ có một quyền tự do cho phái yếu Mây có biết không? Em im lặng. Anh ấy
tự trả lời, đó là quyền tự do bỏ chồng. à quên, còn nhiều quyền nữa chứ, chẳng
hạn quyền tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng, quyền căm thù
qiặc Mỹ xâm lược, bọn phản động bá quyền Trung nam hải, quyền lao động hết
mình, quyền xếp hàng mua sắm… vv và vv…
Bảo vệ
nghe thấy, bắt anh ta lên phòng tổ chức lập biên bản và sau đó mấy ngày thì đuổi
khỏi nhà máy. Còn em bị cấp uỷ kiểm điểm nghiêm khắc vì lỗi nghe giọng lưỡi phản
động mà không lên tiếng phản đối hoặc tố cáo ngay.
– Thế ra
Mây là một đảng viên? – Nghe cô ấy nói đến đây, tôi như bị dội gáo nước lạnh
vào đầu. Lòng tôi đang tưng bừng, rạo rực bỗng thấy bàng hoàng.
– Vâng!
Anh sợ đảng viên à?
– Không,
sao lại sợ. Tôi mừng cho Mây ấy chứ.
– Em thấy
mặt anh tái đi, vẻ buồn lộ rõ.
– Thế à,
có thể tôi vui mừng quá thành xúc động. Không ngờ tôi đang nói chuyện với một
phụ nữ tuyệt vời, một người đang phấn đấu cho lý tưởng CS.
– Đừng
cho em đi tàu bay giấy nữa. Lý tưởng cái gì ở em, đứa con gái quê mùa ra thành
phố, trí khôn ngắn ngủi không đầy gang tấc. Khổng Tử nói, lòng từ thiện trong
nhà đi ra. Tương tự thế, em thì lòng từ thiện xuất phát từ bản thân mình, phấn
đấu vì mình. Đó mới là lý tưởng thực sự của đời thường…
Tôi lơ
đãng nghe những âm thanh ngọt ngào, trìu mến, nhìn cặp môi hồng xinh xinh duyên
dáng, đầu óc tôi quay cuồng đuổi theo một dòng tư duy khác: “Ngay giây phút đầu
nhìn thấy em, ta đã linh cảm em muôn trùng xa cách. Em đứng trên cao quá, ta
không thể nào với tới. Ngồi đối diện với em, ta thấy mình nhỏ bé, tầm thường.
Giờ đây lại xuất hiện một bức ngăn vô hình – em là một đảng viên. Giả dụ, vâng,
chỉ là giả dụ thôi, giả dụ rằng em sẽ yêu ta, khi đó bằng cách nào ta vượt qua
được vách ngăn vô hình ấy là tính đảng? Một giả thiết khác là em từ bỏ đảng để
đi theo tiếng gọi của tình yêu, nhưng ta là ai mà em hy sinh lớn thế? Không, ta
chẳng là ai ở địa vị thường dân, ta là kẻ khốn khổ, không nhà cửa, ta là đứa dưới
mức cùng đinh đang tồn tại dưới cái đáy của xã hội. trong khi đó, đối với em đảng
là vĩ đại là mặt trời chân lý. Chẳng phải riêng em mà nhiều người là nạn nhân của
đảng: gia đình tan nát, cuộc đời tù tội, đoạ đầy, vẫn coi đảng là là thiêng
liêng và tuyệt đối. Ta biết trước cuộc tình éo le nghịch cảnh này sẽ tan tành
xác pháo, ta hãy chào từ biệt sớm để bớt phần nước mắt và tủi nhục. Cuộc tình mới
bắt đầu nhưng đã bước vào hồi vui. Em là tên xâm lược tàn bạo, tên lính lê
dương hung hãn xông vào xoá đi, đuổi đi, tàn phá những kỷ niệm êm đềm và đặt
ách thống trị lên trái tim ta. Nhà văn nào đó viết “trong một buổi liên hoan,
khi vui nhất thì nên đi về”. Giờ đây đang bước vào hồi vui nhất, ta hãy ra đi để
em và cả ta nữa khắc sâu vào ký ức mình những kỷ niệm ngọt ngào pha lẫn vị đắng
cay. Có lẽ từ nay hình ảnh Lê thanh Ngân và Lê minh Nguyệt sẽ bị chôn vùi trong
dĩ vãng. Và em là ánh hào quang rực rỡ, là yêu thương, là buồn nhớ, là nuối tiếc,
là tủi hận, là tiếng cười hoà trong nước mắt của cõi lòng ta. Vâng, em là bà
hoàng sắc đẹp và tình yêu… ”
– Anh
nghĩ gì mà im lặng thế? Nói chuyện cho vui chứ?
– Anh vẫn
nghe em nói – Như trong giấc mơ, tôi sực tỉnh và vội vã trả lời. Có lẽ do trái
tim ra lệnh, tôi bắt đầu gọi cô ấy là em – Đảng thay ông tơ, bà Nguyệt thế nào,
em cho anh biết với?
– Những đảng
viên như em khi định lấy ai thì người đó phải khai lý lịch đưa cho đảng bộ nhà
máy xét. Tổ chức có nhất trí mới thành vợ thành chồng. Nếu bản thân hoặc gia
đình người đó là đối tượng của cách mạng thì đành phải chia tay.
– Nếu họ
cứ lấy nhau?
– Người
là đảng viên sẽ bị khai trừ, từ đồng chí trở thành kẻ thù của đảng – Em đăm đăm
nhìn tôi với cặp mắt long lanh – Anh quan tâm đến chuyện đó làm gì, ta chuyển
sang đề tài khác thôi anh Tâm ạ?
– Xin chiều
người đẹp. Nghe chị Hoà nói, em ít quan hệ với người ngoài nhà máy, vậy thời
gian rảnh rỗi làm gì?
– Em
không làm gì cả cũng chẳng đi đâu, chỉ đọc sách thôi. Người ta bảo em là con mọt
sách.
– Mây hay
đọc sách nào?
– Em
thích đọc những tác phẩm dịch của nước ngoài. Nếu mượn được thì đọc tự lực văn
đoàn hay thơ lãng mạn.
– Anh
mong ngày thế kỷ đầu râu bạc
Anh đuổi
em qua từng thành phố
Anh hôn
em trong bầu trời sương đục Luân đôn.
Em có biết
những vẫn thơ ấy của ai không?
– Của
Maiacovsky chứ gì, em học kỹ lắm.
– Em học
trường nào thế? – Tôi ngạc nhiên hỏi.
– Học ở
trường đại học tổng hợp văn. Maiacovsky là nhà văn hiện thực XHCN.
– Lạ nhỉ,
tổng hợp văn mà làm thợ dệt à?
– Đời là
cuộc bể dâu, người ta lên voi xuống chó cũng là chuyện bình thường huống chi sự
thay đổi của em.
– Nguyên
nhân nào dẫn Mây đến sự thay đổi ấy?
– Thực ra
đó là chuyện buồn nhưng có thể bị pha trộn tính hài hước, anh Tâm ạ. Khi học ở
phổ thông, em có năng khiếu về văn rồi nâng niu một ước mơ trở thành một nhà
văn hay một nhà thơ. Anh đừng cười em đấy nhé, vì ước mơ bao giờ cũng xa với hiện
thực. Năm 1968, hết phổ thông em vào đại học. Tưởng như ước mơ lãng mạn của
mình đã có đường thênh thang đến đích nào ngờ đâu tai biến ập đến: Bố em ốm nặng
nằm viện. Là đứa con gái duy nhất, em phải nghỉ học để trông nom chăm sóc người
đằng đẵng hết mùa hè và mùa thu năm 1969. Thời gian sau đó, bố mẹ cứ ốm đau
luôn, người yêu đi chiến trường B lại tuyệt vô âm tín. Vì hoàn cảnh éo le, vì
buồn em bỏ lỡ cơ hội quay lại trường đại học. Và giữa năm 1970, em xin học nghề
tại nhà máy này. Thế là ước mơ một writer hay một poet biến thành mây khói
nhưng không hiểu sao cái thú văn chương em không thể nào từ bỏ.
– Nếu Mây
quyết tâm, ước mơ vẫn còn nhiều cơ may chứ. Nhà văn, nhà thơ không phải ai cũng
được học thành tài.
– Vâng,
em cũng biết thế và cũng hiểu rằng văn chương thuộc về thiên chức chứ không phải
nghề nghiệp. Nhưng do buồn quá nên em chẳng đủ nghị lực làm nổi việc gì khác với
đời thường.
– Anh phản
đối! Việc em phấn đấu vào đảng có phải là một hành động khác thường không?
– Giai cấp
công – nông, ai muốn phấn đấu vào đảng đều được cả, sao anh nghĩ đó là hành động
khác thường? Đơn giản em chỉ cho đó là giấy thông hành đỏ của cuộc đời thôi. Những
người có học muốn leo cao hoặc đi xa trên con đường mưu cầu công danh, địa vị
thì giấy thông hành đỏ mới có giá trị đích thực. Còn những người mà kiến thức
gom góp lại vừa qua khỏi Spell thì vào đảng làm gì? Con số này không nhỏ. Nếu một
đất nước có hai triệu đảng viên, như anh nói nghĩa là hai triệu con người phấn
đấu cho một lý tưởng cao đẹp thì đất nước ấy phải biến thành một vườn cây đầy
hoa thơm, trái ngọt chứ không nghèo nàn, lạc hậu như hiện nay.
– Cứ cho
là có hai triệu người vì dân, vì nước nhưng những người lãnh đạo họ có đi theo
quy luật phát triển của lịch sử không hay ngược lại?
– Vâng! Yếu
tố đó là quyết định. Tuy nhiên, do trí khôn ngắn ngủi của mình nên không có khả
năng phán xét. Ô hay! – Mắt em chớp chớp nhìn tôi, nở một nụ cười hoa ghen,
nguyệt thẹn – Em và anh đang đóng vai hề trên sân khấu chính trị, mình vô duyên
quá!
– Ta đi
lang thang một chút đã sao. Anh phỏng vấn Mây thêm một câu thôi nhé?
– Em đồng
ý, song lưu ý anh, ta không nên biến buổi gặp này thành một cuộc hội thảo về
chính trị.
– Anh
tuân lệnh. Và đây là câu hỏi cuối cùng: Xem ra em không thần thánh đảng như nhiều
người khác?
– Vâng! Nhưng
mình chỉ là hạt cát trên sa mạc, gió chiều nào phải bay theo chiều đó dù ngọn
gió lành hay gió độc. Em vào đảng cũng là để tuân theo cái logic ấy.
– Mây có
phát hiện thấy không, người ta bảo anh là người dở hơi đấy?
– Thế thì
hay quá? Em không ngờ lại có buổi tương ngộ của hai tâm hồn cũng từ một nồi cám
hấp mà ra.
– Sao lại
thế? – Tôi ngạc nhiên.
– Một con
lập dị – Công nhân nhà máy bàn tán về em – tuổi đã nhiều, không đi đây đi đó để
bắt bồ, bắt bịch, lúc nào cũng ru rú ở nhà đâm đầu vào cuốn truyện, nay Puskin,
mai Victorhugo, ngày kia lại WalterSott. Có thể anh cũng thế chăng, ăn cơm gạo
hẩm độn bảy mươi phần trăm mỳ sợi, ngày đêm quan tâm đến hoà bình thế giới?
– Em nói
thật chí lý.
– Người
ta ước mơ Honda, tủ lạnh, cassette Sony chứ cần gì Balzac, Bernard Show, Homer
hay Nguyễn Du cơ chứ. Anh Tâm ạ, ta phải biết mình lạc lõng với cộng đồng. Họ bảo
mình, dở hơi, cám hấp là đáng lắm. Nhưng điều này em nói vụng với anh thôi nhé,
trong số hàng nghìn hoặc hàng vạn kẻ dở hơi sẽ xuất hiện một danh nhân. Nghe
đâu vua hề Charlot và nhà bác học Albert Einstein cũng từ một nồi cám hấp mà
ra.
– Em có
nhiều bạn không?
– Cho đến
lúc này, anh tự biết.
– Có thể
giống như anh, em cũng ít bạn bè?
– Đúng thế,
có một vài người bạn cùng nghề, đồng nhiều, hoà ít.
– Anh cứ
tưởng một phụ nữ mười phân vẹn chín như em phải có hàng tá vệ tinh?
– Vệ tinh
thì nhiều đấy nhưng không có lực hướng tâm nên chỉ sau một thời gian ngắn vệ
tinh rơi vào khoảng không vũ trụ – Ngừng một lát, em mỉm cười thỏ thẻ –… Hôm
nay, em được gặp anh khác nào tiếng đàn Bá Nha đã có Chung tử Kỳ nghe.
– Anh vô
cùng cảm động và vinh hạnh khi em có nhã ý dành cho anh một nhận xét tuyệt vời.
Tuy nhiên ai đó đã nói, khi tìm được tri kỷ thì chết. Có thể chúng ta gặp nhau
không bi quan như thế, song biết đâu mình đến với nhau rồi vội vã xa nhau?
– Sao kết
cục lại buồn thế, anh? – Em khẽ rùng mình, nét mặt bỗng trở nên ủ rũ, đầu cúi
xuống.
– Anh
linh cảm thế thôi.
– Ít ra,
anh coi em như người bạn gái?
– Chỉ chừng
ấy thôi đối với anh cũng là một vinh hạnh lớn, có thể chỉ là một mơ ước hão huyền.
Vốn dĩ anh sinh ra để chịu đựng đau thương, khổ nhục chứ không phải để hưởng những
niềm vui. Nếu anh có em là bạn – một người bạn tri tâm – niềm hạnh phúc ấy ngược
với số phận bất hạnh của anh mà thượng đế đã an bài sẽ bị người ta băm vằm, xâu
xé. Hôm nay, anh có diễm phúc được gặp em, một lần và chỉ một lần tương ngộ này
thôi cũng đã để lại cho anh một niềm vui to lớn. Mai ngày đôi ta mỗi người một
ngả, anh sẽ khắc sâu hình ảnh tuyệt vời của em trong ký ức. Khi vui, khi buồn,
khi vất vả, khi tủi nhục, trong giấc mơ lúc nào cũng có em ở bên để cùng chia sẻ.
Từ nay, anh không lủi thủi một mình một bóng mà một mình hai bóng, bóng anh và
bóng em. Bóng em như bóng mây hồng che mát cho anh trong những ngày nắng hạ, tạo
ra nguồn sinh lực để anh vượt qua chặng đường cuối đầy gian nan, khổ ải ở thế
gian này…
– Thôi,
em không muốn nghe anh nói nữa đâu – Mây nhìn thẳng vào mặt tôi, khoé mắt rưng
rưng lệ biểu thị nỗi bất bình, em nói nhỏ nhưng không kém phần gay gắt – Anh
tàn ác lắm, em căm ghét anh! Đã thế anh bày ra buổi hẹn này làm gì?
– Mây, em
bình tâm lại để anh giãi bầy bầu tâm sự. Anh hẹn gặp em với ước mong tìm một
người bạn đời môn đăng hộ đối với hoàn cảnh nghèo khổ của mình, nào biết em cao
quá, anh không thể nào
với tới? Anh giả dụ rằng, xuất phát từ tình thương mà em hạ cố yêu anh, cuộc
tình duyên lãng mạn và nghịch cảnh ấy, em biết phía trước có bao nhiêu kẻ thù
không? Là ý thức hệ thời đại, là những người mệnh danh khuôn vàng, thước ngọc,
là điều o�ng, tiếng
ve của xã hội, là sự túng thiếu, đói rách… Bằng ấy thứ kẻ thù súm lại băm vằm,
xâu xé – Ngừng vài giây tôi nói tiếp – Ngày xưa dựng xong vương nghiệp cho Lưu
Bang, Trương Lương từ bỏ công danh phú quý, lên núi tu tiên để trốn chạy sự
ghen tuông, đố kỵ của người đời. Ngày nay, nếu có phép nhiệm màu biến xứ sở này
thành một hòn đảo hoang vu, anh mới dám mong em là của anh mãi mãi, mới dám
mong một tổ ấm trường tồn. Được như vậy, anh sẽ mở rộng cửa bốn phương, tám hướng
của tâm hồn nghênh đón tình yêu của em, nghênh đón em – hoàng đế của trái tim
anh.
– Em sợ lắm
rồi, anh Tâm ạ. Hồn ma Pessorine đã nhập vào anh.
– Em nhầm
rồi, khác với Pessorine, anh chỉ là người khốn khổ cả vật chất lẫn tinh thần.
Thuở xưa, khi anh còn trẻ, lý trí đã mách bảo anh rằng: “Mi là kẻ khốn cùng, mi
hãy quên, hãy đào sâu, chôn chặt cái ái tình dưới nấm mồ vĩnh cửu để đời mi bớt
đắng cay” Cũng từ thời buổi đó, anh không dám nghĩ đến tình yêu nữa, cho đó là
việc của người, mình không có quyền can dự, tuy có yêu thầm, nhớ trộm – một thứ
tình yêu đơn phương, câm lặng. Ngày nay khi bóng đời đã ngả, anh chỉ tìm người
sửa túi nâng khăn chứ đâu dám nhờ cậy Cupidon che chở. Giờ đây, anh có vinh hạnh
được gặp em – một giấc mơ yêu tuyệt đẹp đến với anh. Một hạnh phúc lớn quá mà
anh lại nhỏ bé tầm thường bất tài, bất lực trước những trận cuồng phong của cuộc
đời, không bảo vệ được chính mình thì hạnh phúc đến có chăng cũng chỉ như làn
gió mát thoảng qua. Anh coi em như làn gió mát, tuy nhiên vẫn đọng lại trong
anh một kỷ niệm yêu thương sâu sắc nhất và cũng từ nay em toàn quyền thống trị…
– Xin đủ
rồi, gửi anh lời chào từ biệt – Nói xong, Mây đứng dậy rảo bước ra ngoài và đạp
xe về.
Tôi bàng
hoàng nửa tỉnh nửa mê như trong cõi mộng, bỗng vang lên những âm thanh từ băng
cassete nhà bên:
Không phải
tại em cũng không phải tại anh
Tại đời
đen trắng nên chúng mình xa nhau…
Những âm
thanh ấy làm tôi bừng tỉnh. Như một bản năng, tôi lao ra ngoài đuổi theo người
đẹp nhưng hình bóng em đã mất hút trong ánh tịch dương mờ ảo. Tôi lặng lẽ dắt
xe ra ngoài cổng lại chợt nhớ ra gia đình chủ đi vắng nên tôi quay lại. Một lúc
sau, khi màn đêm buông xuống, bóng tối trùm lên dầy đặc mới thấy chị chủ nhà về
và vội hỏi:
– Chú nói
gì mà cô Mây buồn bực thế?
– Em tôn
trọng, hơn thế nữa có thể em đã tôn thờ cô ấy.
– Lúc
nãy, tôi gặp Mây trên đường về, nét mặt cô ấy rất buồn, tôi hỏi: Buổi nói chuyện
đi đến đâu rồi? Cô ấy trả lời, chán lắm chị ơi, biết thế này thì em đã… Đã sao?
– Tôi hỏi. Em đã chẳng nhận lời gặp anh ấy. Bây giờ em phải về, để thư thả em sẽ
nói chuyện với chị sau. Trả lời xong, cô ấy phóng xe thật nhanh, không để tôi hỏi
thêm một câu nào nữa. Chú nói có vẻ mâu thuẫn lắm, tôn trọng mà cô ấy buồn bực
thế à?
– Sự thật
là em tôn trọng Mây. Có điều chị giới thiệu cho em một đối tượng quá cao, mình
không đủ tài, đủ lực để sánh đôi.
– Chú
cũng nói với cô ấy thế?
– Vâng, đằng
nào cũng không thành hoặc tan vỡ nên chia tay sớm thì hơn.
– Nếu cô
Mây yêu chú?
– Em chắc
rằng, hiện thời cô ấy đã yêu em nhưng thế giới này đâu chỉ có hai người, còn
nhiều thế lực cản trở, dèm pha. Thà cuộc tình duyên không thành còn hơn để sau
này tan vỡ, em đành phận nhưng Mây phải chịu những nỗi buồn lẽ ra không có.
– Chú muốn
gặp lại cô Mây không?
– Nếu cô
Mây coi buổi tái ngộ như là để đọc nốt những trang tiểu thuyết còn bỏ dở thì em
đồng ý.
Chiều hôm
sau, chị Hoà đi làm về, nói:
– Suốt ca
làm việc, Mây buồn bã chẳng nói một lời nào. Thấy vậy, cậu thanh niên đứng máy
bên trêu, Mây thất tình hay sao mà tẻ ngắt?
Gió mưa
là bệnh của trời
Tương tư
là bệnh của tôi yêu chàng.
Có đúng
thế không Mây? Cô ấy vẫn làm thinh. Một cô cùng phòng với Mây kể lại, suốt chiều
qua chị ấy đi đâu vắng, đến tối mới về. Thấy chị ấy như kẻ mất hồn, chúng em hỏi
nguyên do, chị ấy chỉ trả lời chung chung thương cha, nhớ mẹ.
Tôi cũng
muốn gặp cô ấy nhưng trước tình cảnh ấy thôi cũng đành im lặng chờ đợi. Mình thật
vô duyên quá, làm ơn hoá oán cũng nên.
– Một lần
nữa em xin cảm ơn chị, biết ơn thiện chí của chị. Em nghĩ rằng cô Mây cũng thế
mới phải. Vì xét cho cùng chẳng có ai có lỗi gì?
– Chú
khôi hài thật đấy. Người ta trốn chạy bất hạnh chứ có ai từ chối hạnh phúc bao
giờ?
– Em
không sai đâu chị ạ, một hạnh phúc đến xét thấy mình không có khả năng bảo vệ
thì trước sau nó cũng ra đi để mình phải gánh nỗi bất hạnh.
– Chú đi
tìm vợ có phải đi tìm hạnh phúc không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét