Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

HỒI KÝ MỘT NGÀY GIÔNG TỐ CỦA TÂM PHONG - KỲ 2

Nhà Giam Hỏa Lò Hà Nội
1      2      3      4 
Kỳ 7
HỒI HAI – Hà nội
II Năm năm nối tiếp
Lúc đó, tôi đến nơi làm việc. Gần nửa đêm, cổng chùa đã đóng, bên trong mọi người đã tắt đèn đi ngủ, tôi đứng bên ngoài gọi:
– Anh Cương ơi, mở cổng cho em.
Gọi lần thứ hai, anh Cương ra mở cổng và hỏi:
– Chắc chú không ở được hàng Bạc nữa phải không?
– Vâng, sao anh biết?
– Nghe ông Thanh nói, bà hàng Bạc ghét chú lắm. Bà bảo một đứa ngang ngược không chịu ngoan ngoãn theo thời thế.
– Còn anh?
– Qua tám tháng làm việc ở đây, tôi thấy chú thông minh, trung thực, có một cuộc sống nội tâm mãnh liệt.
– Em đến để nhờ anh!
– Không phải nhờ, anh coi chú như em, cầu Chúa ban phước lành cho chú.
Nghe câu nói ân tình ấy, cảm động quá tôi không ngăn cản nổi dòng nước mắt. Tình thương của người dưng nước lã này hơn hẳn anh chị, cô, bá tôi.
– Tại sao chú khóc? – Anh Cương hỏi.
– Em khóc vì lòng nhân ái của anh.
– Thế thì chú hãy khóc nữa đi, khóc sẽ giải thoát được một phần đau khổ.
– Em không bao giờ khóc hoặc van xin trước uy quyền và bạo lực, còn với tình thương và lòng nhân ái thì… – Tôi nghẹn ngào nói.
Anh Cương người nhỏ nhắn, cuộc đời ly hương từ thời trai trẻ. Quê anh ở Vĩnh bảo, Kiến an. Hồi cải cách, thân phụ anh bị đi tù, tài sản gia đình bị cướp sạch. Khi đó, thật may mắn, anh không có mặt ở quê hương nên thoát nạn. Anh có lòng thương người và độ lượng. Thời gian trước, anh buôn thuốc lào ở Thường tín, có một ông hàng xóm thường xuyên đến chơi, một hôm anh đi vắng, gửi nhà ông ta trông giúp.
Khi về thấy ông hàng xóm đang mở tráp lấy trộm tiền, anh lặng lẽ đi chỗ khác để ông ta tự do hành động. Tối hôm đó, anh giết gà làm cơm, mua rượu mời ông hàng xóm. Cuộc vui sắp tàn anh nói, sống bên cạnh mà tôi không biết khó khăn của bác thì thật là không tốt, tôi xin lỗi bác. Nay tôi biếu bác một số tiền nhỏ mọn. Nói xong, anh đưa cho ông ta năm chục. Ông hàng xóm sực hiểu ra, khóc và nói, tôi mới là kẻ xấu, đã làm một việc bỉ ổi. Ông không dám cầm tiền nhưng với lòng độ lượng, anh Cương đã thuyết phục ông phải nhận. Hình ảnh ngài giám mục Mirielle xuất hiện ở Việt nam trong thời đại mà sự hận thù và thú tính đang ngự trị xã hội. Tuy nhiên, trước roi vọt của pháp luật rừng, anh không có gan chịu đựng.
Anh dẫn tôi đến giường nằm. Gọi là giường cho hay là thế, thực ra là những tấm ván ghép lại trên nền nhà. Anh lại nói:
– Người công giáo chúng tôi có đức tin vào Chúa nên tư tưởng đấu tranh giai cấp của đảng khó tiêm nhiễm vào tâm hồn những con chiên ngoan đạo. Trái tim họ vẫn rung cảm trước chân lý, thương yêu, cứu vớt những người hoạn nạn.
Bốn đối tượng của cách mạng hiện nay thì đối tượng thứ hai:“chống bọn phản động đội lốt thiên chúa giáo”, thực chất nhằm vào những ngài linh mục, những tu sĩ và những giáo dân ngoan đạo.

* *
*
Tổ hợp tác làm thùng nước mắm có tên gọi 19–5 do ông Thanh làm tổ trưởng, sau khi ổn định sản xuất thì ông ta có hành động xoay xở, lấy cắp sơn, gian lận giấy tờ để tham ô dẫn đến mâu thuẫn, lủng củng.
Tổ ngừng sản xuất để thanh lý và giải tán. Trong chùa, tổ hợp tác chỉ còn lại anh Cương và tôi. Anh cư xử với tôi thân tình. Trong khối phố, kể cả ban đại biểu và bảo vệ, nếu không xem sổ hộ tịch, tưởng tôi là em ruột của anh Cương.
Anh chuyển sang nghề buôn giang ở chợ Bắc qua. Còn tôi, sau khi tìm kiếm nhiều nơi, anh xin cho tôi làm trong tổ hợp tác kim khí phố hàng Buồm, đóng cổ phần ba trăm đồng. Tổ hợp tác này, ông tổ trưởng hiền lành, nhu nhược, cách quản lý ông chẳng hiểu gì, mặc cho xã viên làm được chăng hay chớ. Còn lại, đại bộ phận là các bà, các chị, các cô không nghề nghiệp. Trước đây họ buôn thùng, bán mẹt, bán hàng rong. Theo chính sách cải tạo tiểu thương của đảng, bắt họ phải bỏ nghề buôn bán tự kiếm việc làm để sinh sống. Tổ sản xuất đồ chơi trẻ em cho công ty ngũ Kim cấp một thường bán tại cửa hàng mậu dịch thiếu nhi bờ hồ Hoàm kiếm.
Buổi đầu tôi đến làm, một bầu không khí buồn tẻ trùm lên phòng làm việc, ngoài những tiếng búa, tiếng đập xen lẫn tiếng máy đột dập bằng tay xình xình mệt mỏi, thỉnh thoảng lại xuất hiện tiếng thở dài não ruột. Hình như chẳng ai muốn nói với ai một lời nào. Tôi được phân công cùng làm với một thanh niên, ít hơn tôi một tuổi – Khoa có nước da trắng, dáng người khoẻ mạnh nhưng yểu điệu như con gái. Cặp mắt một mí của anh lúc nào cũng như mơ màng, trĩu nặng nỗi ưu tư. Tôi hỏi:
– Bạn vào làm ở đây lâu chưa?
– Mới được vài tháng – Khoa lạnh lùng trả lời.
– Tình hình làm ăn thế nào mà có vẻ không vui?
– Làm không ra sản phẩm, không có lương, mỗi công tạm ứng năm hào ăn cầm hơi.
Tôi nảy ra ý nghĩ, sản phẩm đồ chơi này đơn giản, ngoài khuôn mẫu, chẳng cần chuyên môn, nghề nghiệp gì cao, chỉ cần khéo tay và biết xếp đặt hợp lý là có hiệu quả. Tôi nói.
– Tay nghề công việc này không quan trọng lắm, chủ yếu là khâu phân công việc cho từng người và quản lý, chống cách làm việc nước chảy, bèo trôi.
– Ông Khuê tổ trưởng bất lực lắm, rồi đến mất cả vốn góp cổ phần và giải tán.
Tôi nghĩ phải bàn cách làm ăn với ông tổ trưởng. Nếu cứ thế này, tôi xin rút vốn. Ngay tối hôm đó, tôi đến nhà ông Khuê ở phố Đồng xuân. Tôi yêu cầu ông phải làm và hưởng lương theo sản phẩm. Một sản phẩm chia ra nhiều chi tiết, tính giá khoán cho từng chi tiết. Tiền lương hàng tháng tính theo khối lượng và chất lượng sản phẩm cho từng người.
Ông Khuê nói:
– Làm như vậy tính toán rất phức tạp. Mỗi lần làm lương phải tính hàng nghìn phép nhân và cộng, kế toán không chịu nghe đâu.
– Tổ phải trả cho ông kế toán bao nhiêu một tháng?
– Bốn mươi nhăm đồng.
– Nếu bác đồng ý, cho ông kế toán nghỉ việc, cháu sẽ làm tất cả, chỉ xin của tổ mười lăm đồng một tháng.
– Số tiền ấy cậu sống thế nào?
– Một tháng cháu chỉ làm sổ sách, tiền lương ba ngày, còn lại trực tiếp sản xuất.
– Tính theo sản phẩm, cậu có làm cả tháng chưa chắc đã xuôi, cậu nói ba ngày sao cho được?
– Bác cứ yên tâm, ba ngày đối với cháu là còn thời gian ngồi chơi, xơi nước chứ chẳng vội gì. Cháu tin rằng, cách thức làm việc này sẽ có hiệu quả, mau ổn định và lương sẽ tăng dần.
Ông Khuê đồng ý, cách làm và hưởng theo sản phẩm được tiến hành ngay. Ngày đầu, hết giờ làm việc, hơn hai chục người khai số lượng chi tiết sản phẩm với tôi, không thấy tôi ghi chép, họ thắc mắc:
– Anh không ghi vào sổ theo dõi sản phẩm là thế nào?
– Các bác, các chị không lo, cháu đã ghi vào đầu còn chắc hơn ghi vào sổ.
Nhiều người không tin:
– Của người nào người ấy nhớ còn khó, anh làm sao nhớ nổi sản phẩm của mấy chục người ngày này qua ngày khác.
– Nếu cháu nhầm của ai cứ xin của bụt mất một đền mười.
Đến kỳ giao hàng, tính lương, tôi nói số lượng sản phẩm của từng người làm trong ngày và tổng số. Lúc đó họ mới tần ngần hỏi tại sao tôi có trí nhớ kỳ diệu thế? Điều đó tôi cũng không hiểu nổi, chỉ đơn giản là những gì cần nhớ hay học thì nhớ mãi.
Sau hai tháng, từ chỗ không lương đã đạt tới mức lương trung bình bảy mươi đồng một tháng. Không khí làm việc đã thay đổi, mọi người vừa làm, vừa nói chuyện râm ran, vui vẻ. Họ cởi mở, mỗi buổi đến chỗ làm tay bắt, mặt mừng, không còn cảnh đưa đám như trước nữa. Từ đó, tôi chiếm được sự ưu ái của nhiều người.
– Tôi không ngờ cậu có khả năng như vậy – Ông Khuê nói.
– Thưa bác, công việc đó cũng bình thường thôi. Rất tiếc cháu là loại người cùng đinh không được làm những công việc lớn.
– Nếu không có cậu, có lẽ tổ phải giải tán.

* *
*
Người thân với tôi sớm nhất là Khoa. Bà ngoại anh là tư sản, hàng chục ngôi nhà bị nhà nước quản lý. Sau này kinh doanh thua lỗ vì thuế cao nên cửa hàng nhà anh đóng cửa, kinh tế sa sút mau chóng. Bố mẹ Khoa không hoà thuận.
Do nhạy cảm, thức thời, ông chán ghét chế độ mới, còn bà lại tin tưởng hão huyền. Như mặt trăng với mặt trời không thể tồn tại cùng một nơi, thân phụ Khoa về quê ở Bắc giang sống một mình. Khoa hợp tính bố, thông minh nên sớm nhận biết những bất công, tội ác của chế độ. Từ đó anh và thân mẫu cũng trở nên xung khắc. Thân mẫu Khoa, một người đàn bà lắm điều hay chấp vặt. Chị Khoa hiền lành nhưng em gái sát Khoa nghe theo mẹ, Mai phấn đấu trở thành đoàn viên thanh niên lao động. Do vậy, gia đình Khoa chẳng mấy lúc yên vui. Anh học hết cấp hai, do kinh tế gia đình khó khăn phải bỏ học để đi kiếm sống. Khoa có tâm hồn thơ từ thuở nhỏ, năm mười hai tuổi.
Lần đầu, rủ tôi ra cửa hàng Thuỷ tạ uống cà phê, Khoa hỏi:
– Mày có nhận xét gì về tao?
– Lạnh lùng với mọi người, có lẽ mày nhìn cuộc đời u ám lắm?
– Mày nhầm rồi! Không phải thị lực tao kém nhìn màu hồng hoá màu đen mà sự thực cái xã hội này là u ám. Tsernưsheski nói:“Cái đẹp là cuộc sống”, xưa kia tao tán thành quan điểm ấy, nếu không có cuộc sống thì còn gì là cái đẹp?
Tao yêu cuộc đời hơn ai hết, yêu mọi người, yêu thiên nhiên: bầu trời, trăng, gió và hoa.
Tao thường vào làng Ngọc hà để ngắm hoa và mơ ước cuộc đời cũng đẹp như những bông hoa đang nở. Có một lần, tao mua được mấy bông hoa đẹp nhất trong một vườn, mang về cắm vào bình đặt trên bàn để chiêm ngưỡng. Bố tao ra phố về nhìn thấy, người quay mặt đi và thở dài. Lạ lùng chưa, người nhìn hoa không thấy vui mà buồn? Tao hỏi:
– Bố không yêu hoa à?
– Có chứ, hoa là sản phẩm của thiên nhiên bao giờ cũng đẹp luôn quyến rũ lòng người.
– Thế thì tại sao thấy hoa, bố lại thở dài?
– Nhìn hoa đẹp, bố lại chạnh thương đến các con. Bố linh cảm thấy tương lai của các con không đẹp mà xấu lắm.
– Tại sao vậy bố?
– Con còn non dại, rồi sẽ biết. Bố không muốn con biết sớm. Biết nhiều, biết sớm là buồn trước tuổi đấy con ạ!
– Con chỉ muốn biết qua loa thôi?
– Ngày nay, người ta yêu máu và nước mắt hơn yêu hoa. Thậm chí có những kẻ sung sướng trên máu và nước mắt của con người. Thôi nhé, con đừng hỏi thêm bố nữa. – Người ra lệnh.
Tao đành im lặng, nhưng cũng từ đó tao băn khoăn lo lắng. Mùa xuân năm 1956, người đưa tao về quê bằng xe đạp. Hôm ấy là ngày mười rằm tháng giêng âm lịch. Bóng chiều ngả dài mới đến đầu làng, tao thấy một biển người trên một bãi rộng đang hò hét, hoan nghênh và đả đảo ầm ầm. Bố tao bảo, họ đang đấu tố và sắp hành hình“địa chủ cường hào gian ác”. Một cô gái trẻ đẹp để gánh hoa bên đường, toàn là hoa đẹp: những bông hồng đỏ tươi rực rỡ, glaieulle trắng muốt, cúc vàng…không ai thèm ngó tới. Bố tao hỏi cô hàng hoa:
– Cháu không bán được à?
– Nay là tết Nguyên tiêu, cháu tưởng…, không ngờ, người ta đi xem bắn người nên hoa cháu ế. Cô hàng hoa buồn thỉu trả lời.
– Thế đấy cháu ạ, xem máu chảy, nước mắt rơi còn thích hơn ngắm hoa chứ – Nói rồi người mua mở hàng mỗi thứ một bông.
Thời gian sau đó, cửa hàng nhà tao đóng cửa. Bố mẹ tao thường xuyên nặng lời: một mặt vì kinh tế gia đình sa sút, mặt khác vì quan điểm xã hội đối lập. Ngày về quê ở, người bảo tao: – Xa các con, bố thương nhớ lắm nhưng ở đây không chịu nổi. Con nhớ thỉnh thoảng về thăm bố. Mỗi năm người cũng ra chơi vài lần nhưng chỉ một vài ngày lại về quê. Hoàn cảnh gia đình lại khó khăn, li tán thì vui sao được. Và cũng từ đó tao phải quan sát cái xã hội này thận trọng, rồi đi đến nhận xét: Hegel có lý khi cho rằng, cái đẹp chỉ tồn tại ở thế giới bên kia.
Đến nhà, Khoa cho tôi xem tập thơ đầu của anh, trang đầu tựa mấy vần:

Ta là thi sĩ hoài phong
Là người cùng khổ trong lòng Hugo
Đường đời gai góc gió mưa
Hoa tàn, lá rụng xác xơ tơi bời.
Chân vững bước, mắt sáng ngời
Tâm hồn thâu cả đất trời thành thơ.
Kế tiếp là những bài thơ yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp của núi non hùng vĩ, yêu dòng sông Thương… Đến những bài thơ buồn da diết trong cảnh chia ly. Nỗi buồn không lối thoát của một chàng trai đầy mộng ước nhưng phải sống trong một xã hội như ngục tù. Cái đẹp của cuộc đời là máu hay hoa?
Cuối tập thơ là những bài về tình yêu và nước mắt, nổi bật nhất là bài đôi trai gái chia tay nhau vì giai cấp tính và sự ép buộc của xã hội để chàng trai bất hạnh mang trái tim chứa đầy máu nóng xuống tuyền đài.
Sau đây là những trang nhật ký của Khoa năm 1961.
Ngày 3 tháng 1. Tôi đọc Thép đã tôi thế đấy của Atrôpsky. Đọc xong, tôi ngẫm nghĩ, Pavel ơi, ngươi bị lừa rồi. Cuộc đời ngươi đã chiến đấu và làm việc hết mình, chẳng phải để giải phóng cho ai. Ngược lại, chỉ để bảo vệ ngai vàng của tên bạo chúa Stalin. Hàng triệu vật hy sinh như ngươi chỉ kéo dài thêm cái thảm hoạ cho nhân loại – thảm hoạ Cộng sản.
Ngày 8 tháng 1. Buổi tối tôi mượn được tập truyện Một anh hùng thời đại của Lermontov. Tôi ngấu nghiến cả đêm đến sáng thì hết tác phẩm này. Vì Pessorine có cách nhìn cuộc đời giống như tôi: đen tối, phũ phàng và tội ác. Tuy nhiên, anh sống ở xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19 không đau thương, lừa lọc như xã hội Việt nam hiện nay. Anh chỉ giày vò về mặt tinh thần, khác với tôi, có khi phải lo ăn từng bữa. Sống giữa nơi đô thị mà tôi cảm thấy cô đơn như trên hòn đảo của Robinson. Một đêm khốn nạn nào đó đã sinh ra Pessorine. Và một ngày đen tối đã sinh ra tôi trên cõi đời này.
Ngày 3 tháng 2. Buổi chiều, tôi ra phố về, thấy Mai – em gái tôi đứng trước gương đang ngắm nghía huy hiệu đoàn đeo trước ngực. Thấy tôi, Mai khoe:
– Anh Khoa ơi, ngày kỷ niệm thành lập đảng, em được kết nạp đoàn.
Không tự chủ được, tôi nằm vật ra giường, khóc.
– Tại sao anh khóc thế? – Mai hỏi.
– Cái lý tưởng Cộng sản mà mày đang phấn đấu sẽ biến trái tim mày thành đá. Cái đầu mày bị lý thuyết vô thần ám ảnh, thú tính ngự trị tâm hồn mày. Những kẻ mê muội như mày chỉ kéo dài thêm sự tồn tại của một bức tranh xã hội xám xịt.
Từ đó Mai không đeo huy hiệu đoàn ở nhà nữa.
Ngày 11 tháng 4. Buổi chiều, bố tôi ra chơi, mẹ tôi hỏi:
– Ông có mang gạo ra không?
– Ở với con hai ngày, tôi mang theo năm cân gạo, bà yên tâm chứ?
– Tư tưởng ông lạc hậu, ở lâu sẽ có hại cho các con.
– Vâng, tôi biết bà tiến bộ. Thật khổ, người ta tuyên truyền thế nào mà đàn bà cũng sính dùng từ chính trị?
– Con xin mẹ để cho bố con yên – tôi nói – Đây là gia đình mẹ ạ, ăn cơm ngô và rau muống nói đến xã hội làm gì?
– Cả anh nữa cũng lạc hậu, chậm tiến như bố anh.
– Vâng, con cũng như bố con thôi, mẹ ạ. Con xin mẹ đừng nói nữa, đau lòng lắm.
Ngày 12 tháng 4. Buổi sáng, công an hộ tịch đến, hỏi:
– Gia đình này có người tạm trú, tại sao không ra trình đồn?
– Báo cáo anh, đây là bố em – Tôi trả lời.
– Bất cứ ai không phải là nhân khẩu thường trú cũng phải thông báo. Bây giờ anh phải làm ngay.
Tôi viết họ tên, quan hệ của bố tôi vào sổ tạm trú, mang ra đồn. Khổ nỗi bố tôi quên không mang chứng minh thư. Công an hộ tịch nói:
– Không có giấy tờ là bất hợp pháp, không cho tạm trú nữa. Nếu tối nay bố anh còn hiện diện chúng tôi sẽ bắt ra đồn.
Buổi chiều hôm ấy bố tôi phải về ngay. Thời Tần có ngũ gia liên bảo, thời Napoléon có danh bạ công nhân, còn thời đại Hồ chí minh, ngoài sổ hộ tịch, có sổ lương thực và tem thực phẩm để quản lý dạ dày tinh vi và độc ác vào bậc thày Tần thuỷ Hoàng thời cổ.
Ngày 15 tháng 4. Tôi đọc quyển văn học sử Pháp. Ông Balzac với Tấn trò đời, ông mệnh danh là thư ký của xã hội Pháp. Nếu ông sống lại ở trong thời đại Cộng sản của Việt nam hiện nay, xã hội điên đảo gấp nghìn lần, ông có dám mệnh danh là thư ký của xã hội Việt nam không?
Ngày 21 tháng 4. Em họ tôi từ Bắc giang ra Hà nội bị nhỡ tàu, chiều đến ga hàng Cỏ. Nó vào cửa hàng bách hoá tổng hợp mua một số đồ dùng, khi đến nhà tôi thì trời đã tối. Thật gay go, nó tưởng sáng đi, chiều về nên không mang chứng minh thư. Tôi giấu nó trong nhà, sợ mụ tổ trưởng biết. Có lẽ bị lộ nên đến quá đêm công an vào kiểm tra. Sau khi cảnh cáo gia đình, họ bắt nó ra đồn giam lại.
Ngày 22 tháng 4. Buổi sáng, tôi phải về quê, lấy chứng minh thư cho nó. Đến chiều ra, trình chứng minh thư của nó, nó mới được tha.
Ngày 25 tháng 4. Buổi chiều, tôi đến nhà bạn học cũ ở phố Chu văn An. Nhà nó hôm nay cỗ bàn bầy la liệt. Tôi hỏi lý do, bạn tôi trả lời:
– Bố tao là công chức lưu dung, nay được cơ quan chấp nhận lương như cán bộ cách mạng. Do vậy, gia đình tao mở tiệc ăn mừng.
– Lương cao lên à?
– Ngược lại. Lương của bố tao trước hơn ba trăm đồng một tháng, nay được chấp nhận khoảng bảy mươi đồng.
– Nếu thế, sao không buồn mà lại mở tiệc?
– Hàng chục lần lên đồn, xuống phủ mới được chấp nhận đấy. Lương ít nhưng được ngủ ngon, nếu không sẽ mắc bệnh tâm thần vì sợ.
Ngày 2 tháng 5. Hôm nay, tôi gặp thằng Hùng, bạn học cũ đi bán kem. Nó mới bị đuổi khỏi trường công nhân kỹ thuật vì họ phát hiện ra lý lịch của ông nó ở quê là địa chủ, cường hào.
Ngày 8 tháng 5. Tối nay, khối phố đấu tố anh Thung vì trước đây anh học ở trường sĩ quan Thủ đức. Học xong thì hiệp định Geneva ký kết, anh về nhà. Tôi đến xem người ta tố anh những gì? Anh Thung hiền lành, sao mà bị tố nhiều tội thế? Đặc biệt lời tố của ông trưởng ban đại biểu:
– Tối mùng hai, tháng chín năm ngoái, khi đài đang phát thanh chương trình ca nhạc, anh Thung ngồi ở ban công. Tôi nghe thấy anh Thung ngâm bài thơ nhớ rừng của Thế lữ. Đến câu:“Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”, anh gào lên thảm thiết. Sau đó, anh chơi đàn và hát bài Quê nghèo của Phạm Duy, một tên nhạc sĩ theo địch. Cuối cùng là bài Thiên thai của Văn Cao, một tên trong bọn nhân văn giai phẩm. Qua đó thấy rằng, anh Thung còn luyến tiếc chế độ cũ.
Nghe thằng cha này nói, tôi phát cuồng lên vì sự vu cáo trắng trợn. Tôi đứng lên phát biểu:
– Ngày mùng hai, tháng chín năm ngoái, cả buổi tối anh Thung ở nhà tôi. Chúng tôi ngồi uống chè và tôi nghe anh ấy kể chuyện Ba chàng ngự lâm của Dumas. Anh Thung có biết chơi đàn Guitare nhưng chẳng hát bao giờ vì giọng anh như tiếng kêu của vịt đực.
Thế là họ chõ mũi nhọn vào tôi ầm ầm như vỡ chợ.
– Thanh niên chậm tiến bao che cho tư tưởng xấu.
– Nó không chịu tham gia sinh hoạt thanh niên đường phố, đồng loã với nguỵ quân, đề nghị cấp trên đưa nó đi cải tạo.
Cuối cùng, công an hộ tịch cảnh cáo và đuổi tôi về.
Ngày 13 tháng 5. Sau sáu năm, tối qua bác họ tôi ra chơi. Sáng nay tôi dậy sớm đi xếp hàng mua phở. Người mua đông như hội. Đứng trước tôi, một bác già đang đọc lẩm nhẩm một khẩu hiệu kẻ trên tường: Toàn đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng thành công CNXH, rồi bác nói nhỏ một mình, đã thành công rồi rồi, việc gì phải quyết tâm. Thấy lạ tôi hỏi:
– Cái gì thành công đấy bác?
– CNXH là cả ngày xếp hàng – Bác ta mỉm cười, hỏi:
– Anh thấy đã thành công chưa?
Tôi định mua ba bát nhưng vì đông quá nên họ chỉ bán cho mỗi người hai bát. Tôi mang về cho bác và mẹ tôi ăn. Còn tôi nói dối với bác đã ăn tại cửa hàng. Đến bữa, cơm gạo hẩm có nhiều hạt mục độn ngô xay, xem ra bác ăn ngon lắm.
Tôi nói, bác ạ, Hà nội ngày nay ăn như thế đấy. Bác trả lời, còn sướng chán, ở quê làm hợp tác xã, mỗi công được mấy lạng thóc, nếu mất mùa thì rau cũng chẳng có mà ăn. Tôi hỏi bác, nông nghiệp đã cơ khí hoá đến đâu rồi? Bác trả lời, trâu bò cũng ít dần, đà này tiến tới cơ khí hoá toàn cuốc.
Ngày 18 tháng 5. Tôi đọc Những con đường đói khát của Jorge Amado. Đến đoạn De thiên lôi định hiếp vợ viên trung uý, sau khi nghe người phụ nữ này nói đến mẹ mình, tên phó tướng cướp đã buông tha chị. Tôi nghĩ, hàng vạn cán bộ cải cách ruộng đất còn chút nhân tính như De thiên lôi, chắc rằng cuộc tàn sát đẫm máu sẽ giảm đi nhiều. Thực chất của lý thuyết đấu tranh giai cấp là dạy con người từ bỏ nhân tính, dập tắt ánh sáng lương tâm, kích thích thú tính để hành động theo đường lối, chủ trương của đảng. Bản chất của thứ lý thuyết này là mầm mống của tội ác, chiến tranh và tàn bạo. Quan niệm của ông Robertower: Đấu tranh giai cấp là kết quả sự ngu dốt của quần chúng.
Ngày 21 tháng 5. Một người ở quê đến thăm gia đình tôi, ông ta là Việt kiều từ Thái lan về nước năm ngoái. Xem ra chưa đầy một năm mà ông ta đã ngao ngán cảnh độc lập, tự do của tổ quốc. Ông ta nói:
– Nếu biết thế này, chẳng ai dám về.
Tôi tưởng tượng, điện tử càng xa hạt nhân thì sức hút của hạt nhân càng yếu. Ngược lại, người càng ở xa chế độ Cộng sản thì lực hấp dẫn càng mạnh. Ở phương xa người Việt kiều nhìn về tổ quốc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa như một con thuyền có cánh buồm nhiều màu rực rỡ, lại được nghe những âm thanh ngọt ngào từ con thuyền dội đến: có một ông thánh sống cứu nhân độ thế. Dường như hạnh phúc vẫy chào, chờ đón, những đứa con xa tổ quốc về với cội nguồn, người ta hân hoan bơi đến với con thuyền. Đến nơi, cánh buồm nhiều màu rực rỡ kia hoá ra các mảnh vải bẩn thỉu, nhem nhuốc, loang lổ thấm máu người được vá víu chằng đụp lại, còn ông thánh sống hoá ra tên lừa bịp, khát máu. Biết bị mắc lừa thì đã muộn, chúng mày có chạy lên mây cũng vẫn trong lồng sắt.
Buổi phát thanh đêm lại có tiếng thơ, ngâm những bài thơ của Tố Hữu ca ngợi lãnh tụ. Đến hai câu:

Bác ngồi đó lớn mênh mông,
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng nước non.
Ông Việt kiều kêu, khổ vì những lời này qua làn sóng điện. Tôi hình dung, lòng tin của nhân dân đối với chế độ Cộng sản như phương trình hyperbol y = a/x (y là lòng tin, x là thời gian). Cộng sản chỉ chiếm được lòng tin của người dân trong giai đoạn đầu, sau đó lòng tin giảm dần và cuối cùng Cộng sản thống trị bằng bạo lực cùng với sự tuyên truyền bịp bợm.
Ngày 26 tháng 5. Tôi đọc quyển lý luận văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có đoạn viết: “…Để tái tạo cuộc sống, tính cách của nhân vật là: người quen biết nhưng lạ…”. Qua đó thấy rằng, trong văn học đảng cũng dạy cách bịa đặt, tuyên truyền xuyên tạc. Như thế có thể suy ra ông Hồ là người quen biết của làng Sen, nhưng khi đọc cuộc đời hoạt động của ông ta, người làng Sen thấy lạ như ông thánh ở trên trời rơi xuống.
Ngày 2 tháng 6. Gần ba mươi tuổi, tối nay anh Thung mới cưới vợ. Khi cưới xong, khách vừa về hết, hai người sắp sửa động phòng thì công an đến bắt anh đi tập trung cải tạo. Khi lên xe tù, anh bắt tay tôi. Thế là công an hộ tịch đưa tôi ra đồn giam cả đêm, ghép vào tội quan hệ với nguỵ quân.
Ngày 8 tháng 6. Thằng Hàn mười sáu tuổi, người cùng phố, sáng nay cụng xe bị bắt đi cải tạo làm cả phố xôn xao. Thằng này hiền lành lắm, chẳng quan hệ với ai trong phố. Nó là người công giáo, buổi tối hay đọc kinh và chủ nhật thường đi nhà thờ. Người ta ghép nó vào tội phản động“đội lốt thiên chúa giáo”.
Ngày 14 tháng 6. Tôi ngồi chơi ở bờ hồ Hoàn kiếm, phố Đinh tiên hoàng gần cửa hàng tổng hợp, thấy một ông già ngoài bảy mươi tuổi, mặc đồ bà ba vải nhuộm nâu, chân đất. Có lẽ ở nhà quê lần đầu ra thành phố, ông già đứng bên Hồ ngắm hai lá cờ của Ấn độ và Canada ở phố Đinh lễ. Thấy lạ mắt, ông già sang đường đến gần hai quả cầu ngắm tiếp. Thật thương tâm, ông già bị hai công an đến khoá tay đưa lên xe, có thể giải vào Hoả lò giam cứu?
Ngày 29 tháng 6. Bên cạnh nhà tôi, có một bác già gần sáu mươi tuổi, cả đời đạp xích lô. Bác ta dành dụm mấy năm mới đủ tiền mua chiếc radio Trung quốc. Tối nay bác già dò được sóng của đài phát thanh Sài gòn đúng vào chương trình ca nhạc. Thích quá, bác mở to để nghe nhạc vàng. Tội nghiệp, bác bị công an chộp bắt quả tang, tóm cổ và thu luôn đài. Nghe đâu, nhẹ nhất bác cũng bị hai năm tù và một năm mất quyền công dân. Thực ra ở chế độ Cộng sản không có quyền con người, vậy quyền công dân có ý nghĩa gì?
Ngày 8 tháng 7. Buổi sáng, đến vườn hoa Giám, tôi gặp lại người bạn gái (chưa yêu thì chia tay), Hồng thản nhiên nói:
– Chắc anh không ngạc nhiên vì hàng năm nay tôi không quan hệ với anh. Tôi đã nhầm vì có ý nghĩ yêu anh – một thanh niên chậm tiến và lạc hậu.
Không nhìn lại em, tôi cúi đầu đi thẳng. Thật nực cười, trong tình yêu cũng trộn lẫn mùi chính trị. Tôi không dám, không thể yêu ai và tự an ủi mình khi nhớ tới lời của Pessorine:“Tôi khinh phụ nữ để khỏi phải yêu, nếu không đời sẽ trở thành một tấn bi kịch thật là lố bịch”.

Buổi tối, khuya tôi mới đi ngủ, đến với tôi một giấc mơ kỳ diệu. Vào buổi ban mai, trên ngọn núi F
uji hoa anh đào tươi mát khoe sắc rực rỡ dưới ánh dương, một thiếu nữ diễm lệ đến với tôi và hứa yêu tôi – một tình yêu chung thuỷ. Em nói, trên tổ quốc em, tình yêu phi chính trị và không có giai cấp tính. Tôi sung sướng đón nhận tình yêu trong sáng đó và đặt lên môi em một nụ hôn nóng bỏng. Tỉnh dậy, tôi vẽ chân dung em và khẳng định một ngàn lần em yêu tôi mãi mãi. Chao ôi, nụ hôn đầu tôi dành cho người trong mộng biết đâu cũng là nụ hôn cuối cùng của cuộc đời mình?
Ngày 12 tháng 8. Tôi đến Cửa nam, thấy công an giải một thanh niên bị khoá tay. Người ta nói, gã mắc tội hát nhạc vàng, ít nhất là bốn năm tù. Nếu lý lịch gia đình không tốt với chế độ thì mức án tăng theo cấp số.
Ngày 1 tháng 9. Buổi tối, mụ tổ trưởng bảo, sáng mai hộ này cho một người đi dự mít tinh ở quảng trường ba đình. Tôi nhận lời nhưng dự định cứ trình diện xong đến chỗ nào thuận lợi sẽ chuồn.
Ngày 2 tháng 9. Sáng nay, tôi dậy từ hai giờ, ra điểm tập trung đã đông người. Họ điểm danh và bắt xếp hàng theo thứ tự số nhà, tổ rồi đến khối phố. Cách quản lý người như thế trốn sao được? Tôi nghĩ, thôi cũng đành phải đi đến khi tan cuộc vậy.
Sáu giờ sáng đoàn người dự mít tinh của khối phố đến quảng trường. Và có lẽ đến chín giờ mới giải tán ra về. Quả thực, suốt mấy giờ tôi miên man suy nghĩ đâu đâu, chẳng hiểu cuộc mít tinh đã diễn ra như thế nào?
Ngày 3 tháng 9. Buổi sáng, mụ tổ trưởng và công an đến nhà. Mụ hỏi mẹ tôi, ngày đại lễ mà nhà này không treo cờ? Mẹ trả lời, tôi lo đã lâu nhưng lương ít quá chỉ đủ tiền đong gạo nên chưa sắm được. Mụ nói, tuy không bắt buộc nhưng qua đó khối phố biết được thái độ chính trị của gia đình.
Công an hỏi, buổi mít tinh sáng hôm qua, sao anh Khoa không hưởng ứng hô khẩu hiệu?
Mụ tổ trưởng thêm, anh ấy cứ lủi thủi đi như đưa đám vậy.
– Tôi cảnh cáo anh lần đầu – Công an tiếp – nếu lần sau còn tái diễn, sẽ đề nghị đưa anh đi cải tạo.
Ngày 10 tháng 9. Gặp thằng Hùng, nó cho biết thày Khánh dạy sử mới bị toà án xử phạt bốn năm tù về tội phản tuyên truyền: ca ngợi tổng thống Roosevelt và vai trò của Hoa kỳ trong đại chiến thế giới thứ hai.
Ngày 11 tháng 10. Chị Bích, vợ của anh Thung hôm nay đi với một thanh niên khác. Nhìn thấy tôi, chị ấy coi như không quen biết mặc dù tôi đã nhiều lần gặp và nói chuyện ở nhà anh Thung. Đáng thương cho anh Thung hiền lành, lương thiện, tai hoạ đến vừa đi tù, vừa mất vợ.
Ngày 13 tháng 11. Sáng nay, tôi bắt đầu đi làm ở tổ hợp tác đồ chơi trẻ em phố hàng Buồm. Ngoài tôi và ông tổ trưởng, còn lại đều là phụ nữ bao gồm các bà, các chị bị cấm buôn bán nên đến đây làm việc kiếm ăn. Bầu không khí thầm lặng, buồn tẻ.
Ngày 19 tháng 12. Buổi chiều, công an hộ tịch và mụ tổ trưởng đến nhà bắt tôi đi dự mít tinh sáng ngày 20 – 12 để kỷ niệm một năm ngày thành lập mặt trận giải phóng nam Việt nam. Tôi từ chối với lý do sinh hoạt theo hợp tác. Mẹ tôi nói thêm vào và van xin họ mới buông tha, bảo Mai – em gái tôi đi thay. May quá, nếu tôi chưa làm hợp tác mà phải dự mít tinh lần này không khéo phải đi tù. Mụ tổ trưởng hỏi, bà sắm cờ chưa? Mẹ nhanh nhảu trả lời, dạ, tôi sắm rồi, sáng mai treo sớm. Thế mới đúng chứ – mụ cười nhe hàm răng hổ.
Vì mảnh vải nhuộm máu mà tôi bị mẹ chửi một hồi lâu. Chả là em trai tôi đang bị ốm, chẳng có gì bồi dưỡng. Chờ mãi đến kỳ lương, mẹ tôi đong gạo, còn lại mấy đồng đi mua cờ. Bực quá, tôi ca cẩm, mẹ lạ thật, con ốm đang cần miếng ngon để nuốt cho trôi thì mẹ lại sắm cờ. Có thái độ chính trị tốt, họ cũng chẳng thí cho xu nào đâu mẹ ạ.
Mẹ lồng lộn hét mắng tôi, tôi biết anh giống cái thằng bố anh rồi. Người ta liệt vào loại thái độ chính trị xấu bao giờ mới ngóc đầu lên được? Từ nay, anh phải khoá cái mồm lại, nếu không anh gây tai hoạ cho cả nhà chứ chẳng chơi đâu. Đồ theo đuôi phản động!…
Nhà Khoa ở phố Nguyễn thái học, gần Kim liên, một gian nhà trên gác rất đẹp, có ban công ngoài mặt phố. Trong nhà đơn sơ, không có đồ dùng gì quý. Trên tường treo nhiều tranh vẽ của Khoa. Đáng chú ý là bức tranh bằng bột màu chân dung cô gái với dáng vẻ yểu điệu thướt tha, vẻ mơ màng huyền ảo. Bên dưới bức tranh viết: Em yêu tôi đến trọn đời.
Tôi hỏi Khoa:
– Người yêu trong mộng đây chăng?
– Chắc chắn người đẹp không bao giờ phản bội – Khoa gật đầu và nói.
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 8
HỒI HAI – Hà nội
II Năm năm nối tiếp

Chị Nguyễn thị Hà da trắng, khuôn mặt trái xoan, mày lá liễu, sống mũi thẳng, hàm răng trắng muốt với những nụ cười hoa ghen, nguyệt thẹn, mái tóc mây dài óng mượt, đường cong nét lượn uyển chuyển. Cái đẹp của một thôn nữ được tô điểm mốt thời trang đô thị, với tuổi hai mươi bảy vẻ kiều diễm của chị chưa phai mờ hình ảnh của độ tuổi trăng tròn: một tuyệt thế giai nhân. Theo cách nhìn của Khoa có thêm phần lãng mạn: chị là hiện thân của thần Vénus. Giọng nói của chị âu yếm, ngọt ngào, quả thật chị là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá, mang lại nguồn vui cho mọi người và nguồn cảm hứng cho những tâm hồn nghệ sĩ. Tuy nhiên cặp mắt lá răm của chị lắng đọng nỗi buồn thăm thẳm như dấu ấn của thời quá vãng đau thương và tủi nhục.
Mùa xuân năm 1962, tôi và Khoa đến nhà chị ở phố Triệu việt Vương, một gian nhà nhỏ, đồ dùng giản dị, gọn gàng. Thằng con trai của chị chẳng có nét nào giống mẹ. Nó xấu xí, khuôn mặt dài méo mó, cặp mắt có vẻ bất nhân. Thấy chúng tôi đến, chị bảo con đi chơi. Chị biết hoàn cảnh gia đình tôi có những điểm tương đồng như gia đình chị. Còn Khoa, chị cũng mến về đạo đức và quan niệm xã hội. Do vậy, chị Hà không ngần ngại ôn lại những trang sử bi thảm của gia đình và bản thân cho chúng tôi nghe. Trước hết chị nói:
– Họ và tên thật của chị là Phạm bích Hằng.
Sau đó chị kể lại tình yêu thơ mộng của chị ở quê hương. Kế tiếp, chị kể những tai hoạ và những diễn biến đã đưa chị đến Hà nội.
Với gương mặt buồn, giọng đều đều như đọc truyện, chị thầm thì:
– Anh Nam có dáng người và vẻ mặt hào hoa dễ mến, dễ thương. Cuộc tình duyên của chị và anh Nam sắp đến ngày thành vợ, thành chồng thì những sự kiện đau thương liên tiếp đến. Mẹ chị đột ngột qua đời, nỗi thương tiếc còn trĩu nặng, trên nấm mộ mẹ vừa xanh ngọn cỏ thì đội cải cách về làng. Đội trưởng Trần Bình xưa là người cùng xóm. Hắn cao to, khuôn mặt lưỡi cày, da mặt rỗ, lông mày sâu róm, môi dày và thâm, cặp mắt trắng dã. Nhiều cụ già nói, tướng hắn rất tàn bạo. Lúc còn nhỏ, Bình học dốt lại lười nên bỏ sớm. Năm hắn mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, anh em chẳng có ai. Bình chẳng chịu làm gì, bán dần tài sản để ăn. Hắn thường tụ tập, ăn chơi lêu lổng với mấy đứa mất dạy ở làng để trêu ghẹo con gái, hỗn láo với người nhiều tuổi, gây gổ đánh nhau luôn. Sau cách mạng, hắn bán hết nhà đất rồi đi bộ đội. Trong kháng chiến bặt tin hắn. Thời gian hoà bình lập lại, hắn về quê gần một tháng. May cho hắn, trước mấy ngày, có một gia đình công giáo đang đêm xuống thuyền trốn ra Hải phòng rồi đi Nam, chính quyền xã cho Bình ở nhà của gia đình đó. Cũng trong thời gian này, nhiều lần hắn đón đường, tán tỉnh chị bằng những lời lẽ thô bỉ. Chị vẫn từ tốn trả lời:
– Cảm ơn chú, cháu đã có nơi, có chốn.
Lần cuối cùng vào buổi tối, chị vừa ra ngõ thì gặp hắn. Bình sấn lấy tay quàng vai chị và buông ra những lời suồng sã:
– Chào cô em, cô em làm cao quá. Đã trót hẹn với ai hãy dẹp ngay. Bây giờ về ở với anh, được là vợ của một quân nhân cách mạng có vinh dự không?
Bực quá, chị hất mạnh tay hắn ra và nói:
– Đồ mất dạy!
Bình hầm hầm tức giận, trợn mắt trắng dã và đe doạ:
– Được, được, có ngày mày sẽ biết!
Trần Bình là đội trưởng cải cách làm chị băn khoăn, lo sợ. Mặt khác, nghe người ta nói ở các vùng chiến khu cũ đã làm rồi, diễn ra nhiều sự kinh hoàng lắm. Cả bộ đội, cán bộ có nhiều người cũng bị lôi ra đấu tố, bắn bỏ nhưng thân phụ chị và anh Lân cứ bình chân như vại, người nói:
– Gia đình ta ba đời chuyên nghề dạy học. Ngoài mảnh vườn trồng cây ăn quả, không có thóc hoặc tiền cho vay nặng lãi. Lại không có người cộng tác với đối phương. Như thế còn lo gì cải cách?
Chị cãi lại:
– Con nghe đồn các nơi khác khủng khiếp lắm, nào là cải cách ruộng đất, một cuộc cách mạng long trời, lở đất, trận Điện biên Phủ đồng bằng. Nào là nhất đội, nhì trời, giết oan còn hơn bỏ sót. Con chỉ sợ, sự thật là con nai, trước họng súng và lưỡi lê, họ bảo là con ngựa mình cũng phải cúi đầu mà nghe.
Nghe chị nói, anh Lân phản đối:
– Ngày nay, những năm giữa thế kỷ thứ hai mươi, họ không thể theo vết đường mòn của chế độ nhà Tần cách đây hàng nghìn năm lịch sử. Em sợ Trần Bình giống như Triệu Cao à?
Sau đó hai tuần, tấn bi kịch mở màn. Khi bóng chiều đã ngả dài, đoàn thiếu nhi hàng trăm đứa, trống ếch khua vang, đến trước cổng nhà chúng đứng lại, hô ầm ĩ nhiều khẩu hiệu.
– Hoan nghênh chính sách…
– Kiên quyết đánh đổ bọn địa chủ…
– Kiên quyết đánh đổ cha con tên Phạm Lãm địa chủ, đại gian, đại ác và phản động!

Từ hôm đó, không ai được đi đâu nữa, bị giam lỏng trong nhà. Cả gia đình thất kinh, hoảng sợ, chỉ biết trông chờ vào số phận, tin v
ào điều ở hiền gặp lành.
Ba ngày sau, Trần Bình dẫn hàng chục du kích, cốt cán đến nhà. Hắn đọc lệnh bắt giam thân phụ chị và anh Lân. Bọn du kích trói hai người bằng dây dù, chị thấy rùng mình, nhưng Trần Bình quát:
– Các đồng chí trói kẻ thù của giai cấp thế à? Phải cho chúng biết thế nào là sức mạnh của bà con nông dân.
Thật trớ trêu, mấy tên tay sai của Trần Bình, khi xưa là học trò của anh Lân. Chúng dùng hết sức gò hai tay của từng người về sau lưng gần sát vào nhau, ngực ưỡn về phía trước. Nhìn cảnh tượng ấy chị Loan (vợ anh Lân) vừa khóc vừa van xin hắn, cháu Hải cũng khóc thất thanh. Nhưng hắn ra lệnh cho bốn du kích giải hai người đi ngay. Số còn lại cùng thằng Bình lục soát khắp nhà. Tài sản nhà chị nào có gì giá trị đâu, ngoài vài ba tạ thóc mới mua dự trữ dịp mùa và một ít tiền, còn lại toàn là sách. Hàng nghìn cuốn sách bằng tiếng Pháp, chữ nho và tiếng Việt. Hầu hết là sách văn học, lịch sử Đông, Tây kim cổ do hai bố con bao năm dành dụm từng đồng, tìm kiếm khắp nơi mua. Gia đình này quý sách như hơi thở, thường bảo nhau:
– Nghèo mà có sách hay để đọc vẫn tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.
Chúng lôi ở hai tủ to ra và nhặt các nơi trong nhà thấy nhiều sách quá, chúng xin ý kiến thằng Bình:
– Thứ này nông dân không cần thì thu làm gì?
Thằng Bình cầm vài quyển mở ra xem như nhìn vào bức vách, hắn nói:
– Toàn là sách của thực dân, phong kiến, hai bố con tên Lãm đọc để phun nọc độc hại nông dân. Bình ra lệnh:
– Mang ra sân đốt hết và cộng thêm cho chúng tội tuyên truyền tư tưởng phản động.
Thế là từ trong nhà chúng ném sách ra sân thành đống, Bình tự tay châm lửa đốt. Còn quyển lịch sử cận đại ở đầu giường, tên cốt cán nhặt đưa cho Bình. Hắn mở ra xem, vừa đánh vần vừa đọc một đầu đề: Cuộc đấu tranh giành độc lập của Hoa kỳ. Hắn ngây người ra trong giây lát, bỗng hắn reo lên:
– Đúng rồi, Hoa kỳ tức là Mỹ.
Hắn bĩu môi cười khoái trá:
– Tên đế quốc đầu sỏ, chuyên xâm lược nước người mà phải giành độc lập à?
Đoạn hắn mở tiếp sang trang khác. Bình lẩm nhẩm đọc: Cuộc cách mạng tư sản Pháp. Hắn lại cười sặc sụa:
– Sách phản động thế là cùng, thực dân Pháp mà làm cách mạng?
Chúng vơ vét hết gạo thóc và vài thứ nữa đưa vào buồng khoá lại và niêm phong. Chị Loan xin mãi, Bình mới cho khoảng mười cân gạo. Cũng còn may, ngoài vườn có hai luống khoai lang, khuất sau những cây ăn quả, Bình và bọn cốt cán không biết. Hai chị em bảo nhau, gạo để dành cho cháu Hải ăn dần, còn hai chị em bới khoai củ, hái lá luộc ăn trừ bữa.
Gần một tháng trôi qua trong lo buồn, đói khổ, cháu Hải đang bị sốt nặng thì Bình bắt hai chị em ra sân đình tập trung nghe đấu tố địa chủ thường. Nghe Bình quát, Hải khóc thét lên. Lập tức Bình vu khống, hắn quát tiếp:
– Mày xui con gây rối, chống phá phải không?
Hắn ra lệnh cho du kích giằng Hải từ tay chị Loan, quẳng vào buồng niêm phong tài sản khoá lại. Chị Loan khóc van xin:
– Các ông tha cho cháu, nó đang ốm nặng. Các ông giết con cũng được, xin các ông đừng giam nó, cháu chết mất. Con van lạy các ông!
Cháu Hải trong buồng khóc không thành tiếng. Mặc những lời van xin thảm thiết của chị Loan, du kích cứ kéo hai chị em ra sân đình, không tha cho Hải.
Đến nửa đêm, chúng mới cho hai chị em về. Chị Loan chạy đến cửa buồng gọi to, gọi đến bốn năm lần, cháu Hải mới oà lên khóc và trả lời:
– Mẹ ơi, con đói!
Chị Loan bàn với chị:
– Đêm nay chắc chúng không mở cửa tha cho Hải, ngày mai cháu nguy mất. Tôi định cậy ngạch chui vào bế cháu ra đi trốn.
– Ở nông thôn chỗ nào cũng cải cách, chị trốn đi đâu cho thoát?
Chị ngần ngại nói:
– Trốn đi đâu thì sau sẽ liệu, bây giờ phải cứu cháu ra ngoài đã. – Nói xong chị Loan hành động.
Chị ấy dùng con dao rựa sắp cậy ngạch thì bọn du kích đi tuần bắt được. Chúng quát tháo om xòm:
– Chúng mày định cậy ngạch chui vào cướp lại của phải không?
– Chúng con không dám – Chị Loan nói – chỉ xin các ông tha cho cháu Hải thôi.
Theo lệnh của thằng Bình, chúng bắt hai chị em giam vào chuồng trâu nhà hàng xóm. Bên trong hơi phân bốc lên nồng nặc, muỗi nhiều như ong, tay vơ được. Người nhốt chung với vật làm con vật cũng khổ thêm. Cửa ra vào mọi ngày bỏ ngỏ, nay che kín bằng phên nứa buộc chặt lại. Trời mùa hè nóng nực, không khí bên trong như bị đốt lên nhưng mệt quá, hai chị em thiếp đi lúc nào không biết. Gần sáng hai chị em tỉnh dậy, khát nước quá, cổ se lại. Ngay bên cạnh lại có thùng nước còn một ít, có lẽ trời nóng quá nên nhà chủ để nước cho trâu uống thêm ban đêm. Hai chị em bê cả thùng uống hết.
Sáng rõ, tên du kích mở cửa, chị Loan lại van xin tha cho cháu Hải. Hắn trả lời:
– Phải chờ lệnh của ông Bình.


Đứa trẻ con nhà chủ mười hai tuổi vào dắt trâu ra đi chăn, nó đứng bên cạnh nhìn vào chị, nói khẽ:
– Ở trong bó rơm buổi tối nay ấy nhé!
Hai chị em không hỏi lại nhau nhưng đều hiểu ý.
Ban ngày trâu được tự do ngoài đồng ăn cỏ, còn người vẫn bị giam tại chuồng của nó. Hai chị em cứ thần người ra, chẳng ai nói với ai câu nào.
Đến tối khi trâu vào chuồng, thằng nhỏ ôm bó rơm và xách một thùng nước vào. Sau khi tên du kích che chắn cửa, chị bới bó rơm ra, có một nắm cơm lẫn muối vừng ở giữa. Hai chị em bỏ ra ăn, chị Loan chỉ nuốt được vài miếng rồi thôi. Trước hành động nhân ái và dũng cảm ấy, chị ngẫm nghĩ, họ muốn biến xã hội này thành dã thú nhưng vẫn có những trái tim lành mạnh mang dòng máu của giống nòi.
Đến sáng hôm sau, Bình mới tha hai chị. Chị Loan nói với chị:
– Cháu Hải chắc nguy rồi, nếu cháu có mệnh hệ nào, chị nhờ em lo liệu, chị không chắc sống được nữa.
Bình mở cửa buồng tha cho cháu Hải. Chị Loan ngoài cửa nhìn vào thấy con đã chết, chị ngã xuống và ngất liền. Chị bước vào bế cháu ra, thân thể cháu còn hơi ấm, chân tay cứng lại, mồm đầy gạo. Khốn khổ mới mọc vài cái răng sữa thì nhai gạo làm sao?
Đau thương quá, chị không thể nào khóc được, chị lấy vỏ chăn cũ gói cháu lại, ngoài bó thêm cái chiếu lặng lẽ đưa cháu ra đồng chôn cất bên bà nội cháu.
Mãi đến chiều, chị Loan mới tỉnh. Chị ấy đã phát điên, có lúc khóc rống lên và gọi con:
– Hải ơi, con đi đâu về với mẹ!
Có lúc cười gằn từng tiếng, nói nhảm nhí một mình:
– Ha ha ha! Mày hoá ma rồi, Hải ơi, mẹ cũng sắp theo con.
Hai ngày sau, khi bóng chiều đã xế, tiếng trống ếch từ xa vọng lại xen lẫn tiếng hò reo. Người qua đường nói chuyện với nhau, họ nói to như thông báo cho hai chị em biết:
– Chiều nay, toà án nhân dân đặc biệt xử tên Phạm văn Lân.
Khi mặt trời sắp lặn, Bình đến, hắn tuyên bố:
– Tên Lân có tội nợ máu với nông dân và tội phản động chống phá cách mạng, nay y phải đền tội. Chúng mày phải ký vào biên bản trả tiền mua quan tài cho y…
Bình đang nói dở thì chị Loan ngã gục xuống nền nhà, tim chị ấy đã ngừng đập, cũng là thời điểm vang lên mấy loạt đạn từ pháp trường cách nhà khoảng một cây số.
Thấy chị Loan tắt thở, Bình bỏ đi. Trước cảnh tượng đó, chị toan đập đầu vào tường chết cho xong nhưng sực nhớ thân phụ vẫn còn, chết trước sao đành. Bọn khát máu cũng sẽ giết người, thôi hãy chờ đợi để chị ra đi cuối cùng vậy.
Nếu chưa chết thì bây giờ phải làm gì? Chị Loan nằm kia mà mọi người sợ liên quan đều xa lánh, chị lấy cái màn trải rộng đặt chị Loan vào quấn lại, bên ngoài cũng phủ thêm cái chiếu. Hơn một tháng ăn khoai, mấy ngày nay lại bỏ ăn, thể xác bị hành hạ, tinh thần bị đau thương đến tột đỉnh nên thi thể chị Loan nhẹ như cây gỗ mục. Một mình chị vác chị Loan ra đồng chôn cất bên cháu Hải.
Thêm mấy ngày trôi qua, tâm trí chị đang trong cơn hoảng loạn thì Bình lại đến. Hắn ra lệnh theo hắn về nhà. Hắn ngồi trên ghế trước bàn làm việc. Còn chị hắn bắt ngồi xuống đất. Cặp mắt trắng dã của hắn đảo đi, đảo lại nham hiểm và man rợ:
– Muốn đội khoan hồng, mày phải phục tùng một điều kiện. ngừng vài giây, hắn chậm rãi:
– Trước đội, toà án nhân dân đặc biệt và ông bà nông dân, mày phải tố tên Lãm thời gian dạy học trên thị xã quan hệ với phòng nhì của địch để bắt cán bộ cách mạng. Và… và đã cưỡng hiếp mày nhiều lần…
Không tự chủ được, chị oà lên khóc và nói;
– Bố ơi, bố hãy tha lỗi cho con, con đang phải nghe những lời ghê tởm. Trời đất hỡi, có bao giờ lại loạn luân như thế này không? Ông Bình, ông hãy giết tôi ngay, ông đừng buông ra những lời thô bỉ nữa. Đồ khốn kiếp! Quân khát máu! Loài dã thú!…
Như con thú bị phường săn dồn đến đường cùng, chị phát điên lên chửi cho hắn một hồi.
Thật khó hiểu, vẻ mặt Bình vẫn thản nhiên, mơ màng nhìn ra ngoài cửa, hình như đang say sưa với một ý nghĩ nham hiểm và độc địa? Sau nhiều giây im lặng – sự im lặng rùng rợn như trong địa ngục, hắn liếc nhìn chị, nở nụ cười ghê rợn:
– Cô em chửi đã chán chưa? Nếu cô em muốn gặp bố lần cuối cùng thì đội chiếu cố.
Chị thoáng nghĩ, lời hắn nói cũng là ước mong của chị, được gặp lại người lần cuối trước khi người về cõi. Cứ liều xin hắn hoạ may… Chị đổi giọng:
– Nếu ông cho phép dù phải chết, tôi cũng xin chịu.
– Làm gì đến nỗi thế, mà chỉ… – Hắn đi khép và cài cửa lại, rồi đến bên cạnh chị, hắn nói nhỏ:
– Nếu ngày ấy, cô em biết nghe lời thì nay đâu đến nỗi… Bây giờ cô em ngoan ngoãn phục tùng nhé! Có chống lại cũng chỉ thiệt thân thôi.

Dứt lời, bằng sức mạnh của tên cuồng loạn, hắn kéo chị lên giường. Chị cựa quậy tuyệt vọng để chống trả nhưng đã sa vào hang quỷ, có kêu cũng không ai dám cứu, có phản ứng lại cũng chẳng thoát khỏi na
nh vuốt của nó. Khi ấy chị mới biết rằng, vì sao chị chửi hắn như vậy mà hắn vẫn làm thinh, có lẽ thú tính đang ngự trị hắn? Hắn đang mê man tìm cách thoả mãn cơn thèm khát về dâm dục.
Sau khi thoả chí mây mưa, con người tàn bạo của Trần Bình lại xuất hiện, hắn trừng mắt quát đuổi chị về.
Gần hai tháng trôi qua, chị đã quên anh ấy, có lẽ nỗi đau thương tràn ngập trong tâm trí nên không còn chỗ đứng của tình yêu. Chỉ sau khi bị thằng Bình làm nhục, chị mới sực nhớ đến anh và thầm nhủ:
– Anh Nam ơi, anh có thấu cho lòng em không? Anh có biết cái thiêng liếng nhất của người con gái trong trắng, thuỷ chung – người đã yêu anh, nay đã bị con quỷ kia cướp mất rồi? Liên tưởng đến hai câu thơ của cụ Nguyễn Du:

Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Chị thầm nhủ tiếp:
– Buổi em gặp anh ở Hà nội đầu tháng mười năm qua, nếu biết thế này thì… Anh hãy tha thứ cho em – kẻ phản bội anh. Trước cảnh đau thương của gia đình và nỗi nhục ê chề của mình, em không dám và không thể gặp anh lần nữa.
Em sắp sửa từ bỏ cái thế giới ghê tởm này.
Chị cứ lẩn quẩn trong câu hỏi:
– Hiện nay chúng giam giữ thân phụ chị ở đâu, bao giờ chúng mới đem ra đấu tố và hành hình?
Một buổi chiều, chị ra vườn để lẻn sang hàng xóm, một gia đình tốt bụng. Hai vợ chồng bác hàng xóm đưa chị vào nhà, khép cửa lại cẩn thận, bác trai ghé vào tai chị nói nhỏ:
– Nghe đâu họ đưa ông nhà về xã mấy ngày nay, giam ở đâu không rõ, chỉ vài ngày nữa là họ đưa ra xét xử.
Chị thì thầm hỏi:
– Họ buộc bố cháu và anh Lân những tội gì?
– Cả vùng này, ai chẳng biết gia đình ta ăn ở nhân đức, khai hoá cho nhiều người thoát khỏi tối tăm, ngu dốt nhưng họ muốn bịa ra bao nhiêu tội mà chẳng được – Bác hàng xóm rơm rớm lệ, nói tiếp:
– Hôm nọ, đấu anh Lân, họ buộc tội thời gian dạy học tuyên truyền quốc dân đảng, cùng với bố xúi giục người vào tổ chức này. Năm ất dậu, anh Lân và ông nhà dựa vào cường hào ức hiếp gia đình ông An phải bỏ nhà ra đi, chết đường, chết chợ. Ngoài ra, thời gian dạy học ở thị xã, ông nhà còn mắc tội làm chỉ điểm cho giặc bắt và giết hại cán bộ cách mạng.
– Họ có chứng cớ gì không? – Chị hỏi.
Bác hàng xóm mỉm cười chua chát:
– Cháu ơi, cháu ngây thơ như thỏ non trước bầy sói. Mỗi buổi đấu tố địa chủ, phản động là một màn kịch được biểu diễn theo kịch bản của đội. Những diễn viên“chính diện”là những cốt cán – những nghệ sĩ ưu tú về vu oan giá hoạ, những người tham quả thực và những kẻ có lòng dạ bất nhân. Sau khi học thuộc kịch bản, họ tập dượt nhiều lần trước khi trình diễn, gọi là bồi dưỡng khổ chủ. Còn những diễn viên“phản diện”đứng trước vành móng ngựa không được nói gì, ngoài việc cúi đầu nhận tội. Màn kịch có bao nhiêu diễn viên“chính diện”là có bấy nhiêu nhân chứng.
– Bác ơi, xã hội sao điên đảo thế, bằng những màn kịch để chém giết người vô tội? – Chị bưng mặt khóc thầm.
– Thế đấy! – Bác hàng xóm lấy khăn lau nước mắt. Trong khi đó, con gái bác đi đâu về, chị ấy ôm lấy chị, nước mắt rưng rưng:
– Chị ơi, em vừa được tin, trưa nay bác nhà tự sát rồi. Một là, sau khi đưa về xã vài ngày, có ai đó nói cho bác những tai hoạ ở nhà; Hai là, bác cũng biết bọn khát máu không tha bác nên nhân dịp tên du kích sơ hở để khẩu súng có cắm lưỡi lê gấn đó rồi ra ngoài, bác kéo cả cái cùm bằng gỗ bò lại lấy súng và tháo lưỡi lê đâm vào cổ.
Vĩnh biệt gia đình bác hàng xóm giàu lòng nhân ái, trở về nhà, chị nằm vật xuống giường, chẳng khóc, chẳng nghĩ gì. Vì mọi sự kiện đã kết thúc, hay nói cách khác, chị chuẩn bị ra đi để tấn bi kịch gia đình chị hạ màn. Ngay sau đó, thằng Bình đến. Thấy chị nằm, hắn quát.
– Mày đứng dậy nghe lời tuyên bố của đội. Tên Lãm đã tự sát để trốn tránh sự trừng phạt của toà án nhân dân đặc biệt. Từ giờ phút này, đội tịch thu tài sản của gia đình mày để chia cho ông bà nông dân. Trước khi ra khỏi nhà, mày phải…
Hắn nói chưa dứt lời, chị vùng dậy chạy ra ngoài ngõ, theo con đường nhỏ, chị chạy lên đê sông Hồng. Cuối mùa hè, nước lũ về to ngập hết bãi. Tìm đến chỗ nước sâu, nước chảy xiết, chị nhìn quanh đó chẳng có ai. Trước mắt, một chiếc thuyền chài đứng im lìm, hình như người đi đâu vắng. Khoảng không gian bao la, tĩnh mịch của buổi hoàng hôn thảm đạm, chị đứng, hai tay chắp lại, quay về phía tây bắc thì thầm:
– Anh Nam ơi, bây giờ em đi tìm bố mẹ và những thân nhân ở thế giới bên kia. Một lần nữa, xin anh hãy tha thứ cho em. Vĩnh biệt anh!
Dứt lời, chị đâm đầu xuống nước, sau ít phút sặc sụa, ngạt thở, chị không biết gì nữa. Tưởng như một giấc ngủ say, thời gian bao lâu chị không còn cảm giác. Đột ngột chị mở mắt ra, thấy mình trong khoang thuyền có mui. Bên cạnh chị, có một ngọn đèn dầu và hai người ngồi, một đàn ông, một đàn bà tuổi ngoài bốn chục. Liếc nhìn ra bên ngoài trời tối, xa xa có nhiều vì sao lấp lánh, chị bật kêu lên:
– Đây có phải cõi âm không?

Người đàn
bà vội ôm lấy chị, cũng kêu:
– Nó tỉnh lại rồi, tỉnh lại rồi.
Bà ôn tồn nói tiếp:
– Cháu ơi, đây là cõi thế, không phải cõi âm đâu. Tại sao cháu liều mình như vậy?
Chị bật khóc nức nở và tỏ lời oán trách;
– Các người đã ngăn cản tôi, không cho tôi đi tìm bố mẹ. Cả nhà tôi, bọn khát máu đã giết hết rồi.
Hai vợ chồng bác thuyền chài hết lời khuyên can chị:
– Cháu ơi, đau thương quá không chịu đựng nổi phải tìm đến cái chết để giải thoát là sự hèn kém, không ai khen mà ngược lại, người ta còn chê cười mãi mãi. Cháu hãy còn trẻ phải cố gắng vượt qua mọi nỗi đau thương, tủi nhục để mà sống. Nếu không có hạnh phúc thì hãy sống để suy ngẫm sự đời. Nỗi đau thương của cháu nằm trong tai hoạ chung của dân tộc. Ngay kẻ thủ phạm gây nên cảnh bi thảm này về sau chính con cháu chúng cũng gánh hậu quả – Đảo lộn luân thường đạo lý, một xã hội chất chứa thú tính và tội ác.
Nghe những lời khuyên giải ấy, lòng chị dịu dần. Sờ lên tóc thấy còn ướt nhưng quần áo lại khô, chị mới biết, bác thuyền chài gái đã thay quần áo cho chị. Bác nâng chị ngồi dậy và kể lại:
– Thoáng nhìn cháu đi trên đê, thân hình tiều tuỵ, tóc buông xuống rối tung, quần áo xộc xệch, bác linh cảm thấy điều gì không hay sắp đến. Bác nhìn theo đến khi cháu nhảy xuống sông, khi ấy bác trai đang ngủ, bác vội gọi dậy cứu cháu.
– Cháu thường nghe nói, thuyền chài kiêng cứu người dưới nước, tại sao hai bác dám làm?
– Đúng, đó là điều kiêng kỵ nhưng bác đoán tai hoạ đến với cháu cũng giống như tai hoạ xảy ra trong gia đình bác vừa rồi. Người cùng cảnh ngộ phải yêu thương, cứu vớt lẫn nhau cháu ạ.
Nghe chị kể lại tai biến của gia đình mình, hai người đều khóc. Với một giọng nói đầy uất ức, bác gái cũng tường thuật lại nỗi đau thương vừa qua với gia đình người anh ruột:
– Nhà bác ở bên kia sông. Trước cách mạng, ông thân sinh ra bác đi buôn bè được mấy chuyến lãi to, đã xây một ngôi nhà ngói gỗ lim và mua hai mẫu ruộng. Khi lấy chồng, ông chia cho bác một mẫu nhưng bác nhường lại cho anh.
Vợ chồng người anh bác hiếm hoi, chỉ sinh được một“tiểu thư”. Năm 1949, nàng mới mười sáu tuổi, ngày ngày mê say đàn đúm với trai và nhảy xon đố mỳ. Bố mẹ hết lời can ngăn nhưng nàng không nghe. Nàng còn báo cáo với chính quyền địa phương: bố mẹ lạc hậu, cấm nàng tham gia sinh hoạt đoàn thể. Nàng bị chửa hoang và theo một tên du đãng. Khi đội cải cách về làng, hai vợ chồng nàng trở thành cốt cán. Và gia đình người anh bác bị quy lên địa chủ. Nàng vạch mặt thằng bố hiếp nàng nhiều lần và thủ đoạn bóc lột nông dân. Bố mẹ cho con cả hai mẫu ruộng, con bán đi ăn, còn tố bố cho ruộng để trốn tránh cái tội bóc lột người lao động. Sau khi bị trưng thu tài sản, người anh bác uất ức quá đã thắt cổ tử tự.
Hai vợ chồng bác thuyền chài yêu cầu chị:
– Các bác không có con, thấy cháu hiếu nghĩa, thuỷ chung nên thương yêu và mong muốn cháu là con nuôi.
– Cháu cảm ơn hai bác – Chị tiếp lời – đã cứu mạng cháu, lại dành cho cháu những tình cảm yêu thương như con đẻ. Cháu không dám từ chối lòng nhân hậu ấy, ngược lại cũng là ước mong của cháu nhưng cho phép cháu được xưng hô như cũ. Bởi vì mỗi lần nhắc đến hai từ bố mẹ là lòng cháu lại quặn đau.
Từ đó, chị có bố mẹ nuôi, hàng ngày kéo lưới với gia đình và làm những việc nội trợ. Còn bán cá, thuỷ sản và mua sắm mọi thứ mẹ nuôi đảm nhiệm.
Thuyền rời xa làng chị, xuôi về biển. Đôi khi chị cứ lẩn quẩn nghĩ rằng, giống như Thuý Kiều, chị phản bội anh Nam và hiến dâng thân mình cho thằng Bình khi hắn ở chiến khu về, có thể tránh được thảm hoạ cho gia đình hay không?
Hai tháng trên sông nước, nỗi đau được pha trộn với tình thương yêu êm đềm của bố mẹ nuôi, tâm hồn chị dịu dần, dường như tai hoạ đã lùi về dĩ vãng nhưng không, nỗi nhục với thằng Bình lại dẫn đến một tai biến mới. Dòng máu khốn kiếp của con quỷ ấy đã xuất hiện bên trong. Khi ấy chị lại nghĩ chỉ có cái chết mới xoá được vết nhơ cũng như mọi nỗi đau. Bố mẹ nuôi biết chuyện lại hết lời khuyên can chị. Mẹ nói thêm:
– Con không nghe lời bố mẹ, liều mình bỏ bố mẹ là phạm tội bất hiếu. Còn đứa trẻ chưa ra đời, mặc dù là sản phẩm của một nỗi nhục nhưng nó là đứa con vô tội. Vì lòng nhân ái, con không nên giết nó. Bố mẹ sẽ hết lòng chăm sóc nó.
Nghe lời khuyên giải, chị đành nhắm mắt để dòng đời trôi nổi.
Tháng 5 – 1956, cái sản phẩm được kết tinh bởi hai dòng máu tàn bạo và nạn nhân cất tiếng khóc chào đời. Chị càng đau lòng vì nó giống hệt con quỷ ấy – cha của nó. Mẹ nuôi chăm sóc, nâng niu thằng bé và cho cháu bú là việc chị phải làm.

Cuộc sống lênh đênh trên thuyền, xa cách quê hương thân thương và trìu mến cũng như xa cách cái mảnh đất đang chìm đắm trong máu và nước mắt đã hơn mười tám tháng. Một buổi sáng, bầu trời mây đen bao phủ. Những hạt mưa như bụi bay theo từng cơn gió xuân lạnh lẽo. Chị ngồi trên mui thuyền tưởng niệm những người thân đã khuất, tưởng niệm tình yêu thơ mộng và tan nát, trái tim chị đau như dao cắt, cặp mắt đẫm lệ khóc nỗi đời oan nghiệt. Một con đò sang ngang đến gần, thằng Bình trên con đò ấy đang chằm chằm nhìn chị từ bao giờ? Bị tấn công bất ngờ, chị đ
ng dậy vào trong khoang thuyền, thưởng cho hắn những lời đích đáng:
– Đồ khốn kiếp! Quân khát máu! Giống mặt người dạ thú! Loài quỷ dữ!
Cũng may, thời gian đó đã qua giai đoạn sửa sai nên hắn chẳng làm gì được chị. Hắn như điếc quay mặt đi hướng khác và giục lái đò tăng tốc độ. Nghe mẹ nuôi nói, người ta bàn tán xôn xao đến sửa sai trong cải cách. Chị ngẫm nghĩ, tại sao họ lại sửa sai? Hàng vạn người vô tội chết oan, hàng chục vạn gia đình tan nát trong cảnh phụ tử, phu phụ, huynh đệ tương tàn. Phải chăng điều đó là mục tiêu của họ? Cái chính là họ đã chém giết lẫn nhau, diễn ra cảnh đồng chí tương tàn. Hàng nghìn người vì ước mơ độc lập, tự do đã vào sinh ra tử, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, không ngờ họ lại trở thành những nạn nhân trong cải cách. Vả lại họ đã sửa sai được những gì? Người chết oan không thể sửa cho sống lại đã đành, còn người mất của thì sao không được đền bù xứng đáng, chưa kể đến bồi hoàn danh dự? Họ minh oan cho người chết bằng ba tấc lưỡi, họ trả nhà cho người bị quy kết nhầm nhưng của cải bị vơ vét sạch và nhà cửa bị tan tác, tiêu điều gấp một trăm lần giặc phá. Quả thật, họ vì công lý mà sửa sai, tại sao những tên khát máu như Trần Bình không phải đền tội? Là một điều ngịch lý khi thấy rằng, một kẻ giết người cướp của phải nhận án tử hình, còn những kẻ gây nên máu chảy thành sông, cả dân tộc hoảng loạn trong đau thương: con mất cha, vợ mất chồng, anh em ly biệt, nếp sống đạo đức và văn phong của xã hội bị chà đạp thô bạo, đập phá tan tành, tại sao những kẻ đó vẫn ung dung ngồi trên lầu son, gác tía, tuôn ra những lời giả nhân, giả nghĩa“sai thì sửa”?
Thực ra Trần Bình chỉ là một tên lính trong đoàn quân khát máu hàng vạn người được huấn luyện thành thạo cách vu oan giá hoạ, cách đảo lộn luân thường đạo lý: ông con, bà con tố điêu cho thằng bố, con mẹ; Bà vợ bịa đặt cho thằng chồng… Việc sửa sai của họ chẳng khác chi Tào tháo giết tên lính hầu rồi lại thương khóc tên lính xấu số đó?
Những tên khát máu như Trần Bình vẫn là tấm gương sáng tuyệt vời của chế độ, chắc chắn chúng sẽ leo nhanh trên các bậc thang địa vị. Tuy nhiên trong sửa sai để lừa bịp dư luận, họ tạm thời giấu những tấm gương ấy trong tủ kín.
Nghĩ như thế, chị cho rằng, cuộc sống trên sông nước không còn ổn định nữa, liệu mà cao chạy, xa bay đến một phương trời khác. Trước khi từ biệt quê hương chị muốn về đắp mộ cho bố mẹ và những người thân nhưng việc đó chưa chắc đã làm được mà nỗi nhục của chị sẽ lan tràn khắp vùng quê.
Bố mẹ nuôi có người họ hàng xa ở Hà nội, gia đình này giàu lòng nhân ái. Mấy ngày, ông bà lận đận về quê xin cho chị giấy thông hành có họ tên Nguyễn thị Hà, quê quán thuộc tỉnh Hưng yên. Và một giấy khai sinh cho cháu có họ tên Phạm sinh Giang (đẻ ra ở trên sông). Bố nuôi viết một bức thư ngắn đưa cho chị, với nội dung sau:
Ngày 10 – 4 – 1957. Kính gửi bác Hiệp. Đã lâu ngày không gặp bác, lẽ ra tôi phải lên thăm bác nhưng vì hoàn cảnh neo đơn mong bác cảm thông. Nay tôi viết vài dòng kính thăm bác, các cháu và toàn gia.
Người trao cho bác lá thư này là đứa con nuôi đáng thương của tôi trong một hoàn cảnh rất éo le, oan nghiệt.
Dám mong bác hết lòng giúp đỡ cháu để có một cuộc sống ổn định. Chúc cả nhà mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn, xin đội ơn trời biển của bác…
Không thể nấn ná lâu, ngày chia ly đã đến. Về phương Đông, vừng dương mới mọc, dòng sông Hồng lăn tăn ánh bạc, tiếng cuốc kêu khắc khoải từ những luỹ tre hai bên bờ vang lại. Phương trời Tây bắc mù mịt mây đen, lòng chị buồn da diết, nước mắt thầm lăn trên gò má. Bố mẹ nuôi ngồi đó, hai người đều ủ rũ, mặt cúi xuống, cũng không ngăn nổi hai dòng châu.
– Kính thưa bố mẹ! – chị nói, lần đầu chị xưng hô như thế – Từ nay con và cháu phải xa bố mẹ, lòng con bùi ngùi thương nhớ. Biết đâu nơi đất khách quê người con cũng không thoát khỏi cảnh đắng cay, tủi nhục không thể đền đáp công ơn như Thái sơn của bố mẹ. Con xin lạy bố mẹ, hãy tha thứ cho con – một đứa con bất hiếu.
Mẹ nuôi oà lên khóc và nói:
– Con ơi, con đừng nói thế. Bố mẹ trước sau chỉ mong cho đời con bớt khổ. Bố mẹ đã và sẽ làm những gì có thể để mang lại cho con nguồn an ủi, nếu không phải là niềm vui. Bởi cái xã hội tàn bạo, điên đảo này đã cướp đi tất cả trong đó có bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ và niềm hạnh phúc của con. Bố mẹ chỉ thương con, không bao giờ trách con đâu Bích Hằng ạ.
Chị bế cháu sang chiếc thuyền buôn đi ngược dòng về Hà nội. Bố mẹ nuôi và chị nhìn nhau cho đến khi hình ảnh mờ hẳn trong ánh sáng hè, chị mới nhìn về phía trước. Phương trời Hà nội mây đen che kín hình như báo trước cho chị một tương lai mù mịt.
Gia đình bác Hiệp yêu quý chị như con cháu trong nhà. Một năm đầu, chị làm những việc nội trợ. Cô gái em bác Hiệp dẫn chị đi khắp nơi trong thành phố để chị học tập cách kinh doanh, buôn bán. Sau đó bác Hiệp cho chị gian nhà này và ba trăm đồng vốn để buôn hàng xén (tính theo tiền sau ngày đổi 1958).

Ngồi trên vỉa hè đường phố chị chỉ sợ gặp anh Nam. Nếu không may giáp mặt người xưa thì ăn nói với nhau thế nào đây? Một hôm chị gánh hàng đến đường Nam bộ, anh đi xe đạp qua và nhìn chị. Khi ấy, tim chị như ngừng đập. May quá, chị đã thay đổi nhiều nên anh không biết chị là ai nữa. Tuy nhiên, sự kiện đó làm chị đau buồn đến hàng tuần chưa nguôi. Có người hỏi, nếu anh Nam nhận ra chị sẽ ra sao? Câu trả lời thật giản đơn, khi tình yêu đã bị xã hội giày xéo lên thô bạo, dù còn tình thương và lòng độ lượng cũng không th
�� đem lại một cuộc sống bình thường cho đôi lứa. Buổi tái ngộ chỉ thêm phần đau khổ và tủi nhục. Chị rất thương anh ấy và cầu mong anh quên chị để đi đến một tình yêu mới. Nhưng nếu anh ấy thuộc về một người phụ nữ khác thì còn cái gì là ràng buộc chị trên cõi đời này? Mỗi lần nghĩ đến anh là một lần chị đau khổ xen lẫn niềm tự hào và hạnh phúc. Kỳ quặc chưa, tại sao chị lại mang ý nghĩ tội lỗi ấy? Có lẽ đó là điều ích kỷ nằm trong sự huyền bí của tình yêu không ai lý giải nổi. Con người có thể chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo nhưng không ai muốn nhường tình yêu và sự vinh quang.
Cuối năm 1960, một buổi sáng chị bán hàng ở ngã ba phố Phan bội châu – Trần hưng đạo. Đến mười giờ, có một bác vận bộ đồ lao động đến mua chỉ khâu. Nhác trông thấy quen quen, chị liền hỏi:
– Bác ở quê lên chơi chăng?
– Không phải ở quê, tôi ở nông trường Hà bắc.
– Có phải quê bác ở Hưng nhân, Thái bình không?
– Phải rồi, sao chị biết?
– Cháu thấy bác quen quen nên hỏi thế.
– Nếu ở cùng quê, chị có biết thày Lãm không, trước kia nhà tôi ở bên cạnh nhà thày?
Nghe bác già nói, chị rùng mình như bị điện giật.
– Cháu có biết nhưng xa quê lâu rồi.
– Tôi muốn về quê thăm và cảm ơn thày Lãm, nếu không có thày, cả nhà tôi bị chết đói năm ất dậu. Chả là đang lúc nguy khốn, ba bốn ngày không có gì ăn thì thày Lãm đem sang cho hơn một yến gạo. Nhờ vậy, gia đình tôi mới có ăn để bồng bế nhau đi tha phương cầu thực…
Bác nói đến đây làm chị sực nhớ ra, hồi cải cách, chính vì gia đình này mất tích mà thằng Bình cùng bọn cốt cán đã vu cho thân phụ chị cùng anh Lân dựa vào cường hào địa phương ức hiếp gia đình nông dân Trần văn An phải bỏ nhà ra đi chết đường, chết chợ. Một tội nợ máu của hai người.
– Thưa bác, cháu nghe tin gia đình thày Lãm không còn ai nữa, bị xoá sổ trong cải cách ruộng đất rồi.
Bác già sửng sốt:
– Chị nói thực chứ? Mắc tội gì mà đem tru di cả nhà?
– Cháu không rõ lắm, hình như sự vắng mặt của gia đình bác là tội nợ máu của hai bố con thày Lãm.
– Trời ơi! Bọn sát nhân! Đảo lộn rồi, đảo lộn rồi. Người cứu sống người lại thành tội giết người. Tôi cũng mắc lừa bọn sát nhân, chị ạ. Bác già bắt đầu kể.
– Hai vợ chồng tôi cùng hai em đang đói mềm, nằm chờ chết thì thày Lãm cho gạo. Chúng tôi nấu ăn một bữa no nê rồi dắt nhau đi, gạo còn lại mang theo để ăn đường. Cả gia đình lang thang sang Nam định, vào Thanh hoá, Nghệ an.
Dần dà sang Lào và cuối cùng là đất Thái. Tại một vùng quê, chúng tôi làm thuê sinh sống. So với nước người thì khổ nhục nhưng với cảnh khốn cùng ở nông thôn nước nhà thì nơi đó dễ chịu. Mỗi buổi lao động, có rượu uống, có bát ăn, bát để. Sau ngày hoà bình, nghe đài tiếng nói Việt nam: nào là đất nước đã độc lập, tự do, không còn áp bức bóc lột, nào là nông thôn đang đổi mới, cơ khí hoá trong nông nghiệp và điện khí hoá… Họ còn cử cán bộ sang dỗ ngon, dỗ ngọt. Cùng thời gian đó, có một vị linh mục từ miền Nam đến nói với chúng tôi – những giáo dân: Về bắc hay nam là tuỳ bà con. Tôi được biết ngày nay ở miền bắc mọi thứ nhà nước đều quản lý, mua bán phải xếp hàng, ăn uống có tiêu chuẩn cho từng người, nông thôn vào làm hợp tác theo công điểm… Nghe vị linh mục nói, tôi muốn ở lại nhưng hai đứa con tôi đã lớn, chúng phản đối: Bố đừng nghe giọng lưỡi của bọn phản động. Cách mạng mang lại ruộng đất, cơm áo cho người nghèo, gia đình ta lại chết đói hụt năm ất dậu. Do vậy, đảng và chính phủ sẽ quan tâm và chiếu cố đến mình. Chúng tôi về nước mới cách đây mấy tháng. Tôi xin về quê cũ nhưng họ trả lời, Thái bình đất hẹp người đông, gần đây theo chính sách của đảng, đang nô nức đi xây dựng quê hương mới ở miền rừng núi. Họ đưa gia đình tôi lên Bắc giang và làm việc ở một nông trường. Tiền lương là thước đo về mức sống, làm chúng tôi ôm nhau khóc vì hối hận. Chị tính bên Thái, mỗi công làm thuê của người lao động được mười lăm. Bọt mua được hai mươi cốc cà phê trứng. Còn ở nông trường, mỗi công được một đồng ba hào năm xu chưa mua được hai cốc. Nếu như cái máy mà làm việc, không ốm đau gì, ngoài tiêu chuẩn dăm lạng thịt một tháng cũng chỉ đủ cơm rau. Tôi đã nhiều tuổi, mệt mỏi, ốm đau luôn, số tiền dành dụm được ở bên Thái mang về đã ăn tiêu gần hết. Bây giờ sống bằng phương kế gì đây?
– Còn may cho bác – chị tiếp lời – nếu không đi, bác sẽ thành cốt cán, vu oan giá hoạ cho thày Lãm, đổi ân thành oán.
– Chị cho rằng, mọi người nghèo đều bất lương hay sao? Không phải thế, tôi là một giáo dân không làm điều ác mới mong nhận được phước lành của chúa, mới không bị trừng phạt nơi địa ngục khi qua đời.
Nghe bác An nói, chị thoáng nghĩ, một người còn lòng tin ở thế giới bên kia thì chắc chắn lòng tin đó ngăn chặn được nhiều hành vi tội ác. Sự nguy hiểm của chủ nghĩa vô thần là dạy con người: chết là hết. Họ tôn thờ và khuyến khích theo chủ nghĩa khoái lạc của Epicure. Hơn nữa, xã hội này, chém giết, đầy đoạ con người cũng trở thành khoái lạc.
– Một gia đình mấy đời dạy học – Bác An tiếp – chỉ mang lại điều hay, điều tốt cho mọi người mà còn bị hại, đốt sách, giết người hiền rồi đất nước này sẽ đi về đâu?
Đồng hồ ga điểm mười mot tiếng, bác An vội vã chào chị để kịp chuyến tàu về Hà bắc. Chị cũng quẩy gánh về nhà nghỉ.
Thời gian này, cả thành phố bàn tán nhiều về chính sách cải tạo tư sản, công tư hợp doanh và cải tạo tiểu thương. Có nhiều chuyện cười ra nước mắt, những gia đình tư sản, ngoài cửa đốt pháo ăn mừng, trong nhà vợ chồng con cái ôm nhau khóc vì phải hiến dâng tài sản cho nhà nước. Những người buôn bán nhỏ phải tự tìm kiếm công việc khác để sinh sống. Họ muốn biến thành phố buôn bán, ăn chơi thành một khu lao động, mỗi người biến thành một cái máy làm theo điều khiển. Thực tế họ làm được những gì, thời gian sẽ biết nhưng hiện tại biết bao gia đình cùng quẫn hết kế sinh nhai. Chị cũng là người trong cuộc, công an và khối phố nhiều lần đến nhà vận động và doạ nếu không chấp hành sẽ áp dụng biện pháp chính quyền.
Thế là thời kỳ hoàng kim ngắn ngủi của chị đã trôi qua. Vào làm trong tổ hợp tác này, chị tưởng mình đơn độc, nhưng chị đã nhầm, đại đa số là những người chịu cảnh chèn ép, đoạ đầy của xã hội.
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 9
HỒI HAI – Hà nội
II Năm năm nối tiếp (3)
Chúng tôi sắp về thì chị Trần thuý Hạnh cũng đến. Chị Hạnh cùng làm tổ hợp tác, rất thân với chị Bích Hằng. Năm ấy, chị đã ngoài ba mươi tuổi, mảnh đời xuân của chị Hạnh như một bông hoa để dần tàn héo, không dành cho ai. Nhân thể chị cũng ôn lại những diễn biến của cuộc đời và gia đình chị:
Chị đang sống hạnh phúc trong mái ấm tình thương thì năm 1951, mẹ chị mắc bệnh qua đời. Năm 1953, thân phụ chị lấy một người vợ kế, chị không dám phản đối người nhưng than phiền về cái đạo đức bất hảo của người dì ghẻ. Cô ta là gái đã có chồng, năm 1948 bộ đội đóng quân ở làng, nhân ngày chồng đi vắng, cô ta mời một anh bộ đội trẻ tuổi hơn mình về nhà và nói:
– Hôm nay, chồng em đi vắng, em coi anh như chồng anh. Vậy đêm nay, anh ngủ với em để thể hiện tình quân dân cá nước.
Nghe nói, anh bộ đội sợ, bỏ chạy. Từ đó, có tiếng đồn, gái làng này bắt cóc bộ đội làm tình. Khi về nhà, người chồng biết chuyện đã li dị vợ.
Gia đình cô ta có một vườn mía rộng. Một buổi trưa, cô ta gọi cháu trai con người anh ruột ra vườn ăn mía. Năm ấy, cháu trai mới mười sáu tuổi. Sau khi ăn chán mía, cháu định về thì cô giữ lại, tự lột hết quần áo mình, ôm lấy cháu bắt làm tình. Lúc đầu cháu sợ nhưng sau ít giây lưỡng lự, cháu cũng ưng thuận chiều cô. Ăn vụng quen mồm, cứ đến buổi trưa hai cô cháu lại rủ nhau ra vườn mía. Người chị dâu biết tính em gái chồng, tiến hành theo dõi đã bắt được quả tang cuộc bướm hoa. Đó là hai hiện tượng đặc biệt, còn những chuyện dâm ô khác thì nhiều lắm. Dân làng đặt cho cô cái tên là con quỷ cái. Chẳng hiểu sao, thân phụ chị quyết định lấy cô ta, bỏ qua những lời khuyên can của chị và dư luận bên ngoài. Khi về nhà chị, cô ta tìm mọi cách để hành hạ con chồng, nhất là hai em trai của chị còn ít tuổi: đứa lên chín, đứa lên mười.
Không chịu đựng nổi cuộc sống dì ghẻ, con chồng, chị bỏ quê hương lên Hà nội buôn bán và có ý định đưa cả hai em nhỏ đi theo.
Mùa hè năm 1955, chị định về quê thì gặp người làng lên chơi, nói:
– Chị đừng nói nữa, hiện nay bác trai bị quy lên địa chủ và phản động. Còn dì ghẻ đã bỏ nhà và trở thành cốt cán. Chị về, nếu họ bắt được không thoát nạn đâu…
Chị vừa đau khổ, vừa thắc mắc gia đình chị lên địa chủ ở chỗ nào? Chỉ có một mẫu tư điền ông bà để lại, nhà tự làm lấy, không thuê mướn người làm, không phát canh, thu tô. Mặt khác, thân phụ chị hiền lành, ngoài họ hàng thân thích, không quan hệ với ai, đêm ngày chỉ vùi đầu vào công việc thì phản động ở đâu?
Hơn một tháng sau, chị được tin sét đánh ngang tai, thân phụ chị bị bắn, nhà cửa bị tịch thu toàn bộ. Cái chết của người chủ yếu do mụ dì ghẻ vu oan giá hoạ. Trước cảnh đau thương đó, chị phải về quê tìm hai em nhỏ. Tuy nhiên đến chín mười giờ đêm chị mới dám vào làng. Chị đến nhà ông bác ruột, tức khắc bác đuổi đi:
– Nhà tao không quan hệ gì với con tên phản động.
Dưới ánh trăng mờ, chị lặng lẽ khóc, thất thểu đi trên đường làng và thầm nhủ:
– Các em ơi, chị đang đi tìm, bây giờ các em ở nơi đâu?
Đường ra cánh đồng, có một cây đa to, theo linh tính chị đến gốc đa này, thấy hai đứa trẻ quần đùi, áo may ô rách bươm, ôm nhau dựa vào gốc cây đang ngủ. Chị ghé sát vào mặt chúng mới nhận ra hai đứa em mình. Chị đập vào người chúng và gọi:
– Các em ơi, chị Hạnh đây.
Đứa lớn bừng tỉnh, hoảng hốt kêu lên:
– Con lạy bà, lạy bà cho chúng con ngủ nhờ.
Xót xa và xúc cảm quá, chị ôm lấy hai em khóc:
– Các em ơi, chị Hạnh của các em đây, có bà nào đâu?
Nhận ra chị, hai đứa khóc thảm thiết nhưng chúng chẳng dám khóc to. Chị nói với chúng:
– Các em ơi, đừng khóc nữa, hãy theo chị đi ngay khỏi nơi này, không thì nguy hiểm.
Cả đêm, ba chị em đi miết đến thị xã mới dám nghỉ chân, trời cũng vừa sáng. Sau khi vào cửa hàng ăn uống, hai em vừa khóc vừa kể lại:
– Dì đi theo một ông cốt cán mấy ngày thì gia đình ta bị quy lên địa chủ và phản động. Ngày bắt bố dì cũng đến lục soát, tìm kiếm mọi thứ đưa vào buồng khoá lại, niêm phong. Còn giành khoai ở góc hè, chúng em xin dì để luộc ăn thay cơm thì dì quát:
– Ai cho con tên phản động, phải cho chúng mày chết theo thằng Cẩn. Dì còn nói thêm:
– Từ nay, tao không dì con gì với chúng mày, phải gọi tao là bà, nghe chưa?
Không có gì ăn, chúng em bảo nhau ra đồng móc cua, mò ốc đem ra chợ bán để mua khoai, có hôm mua được bảy tám lạng, hôm được hơn cân. hôm họ bắn bố, tịch thu tài sản và đuổi chúng em ra khỏi nhà, chúng em đang mặc bộ quần áo mới chị cho dịp tết, dì bắt phải cởi ra rồi quẳng cho mỗi đứa cái quần đùi, chiếc áo may ô rách. Chúng em rủ nhau đến nhà bác, nhà cô đều bị đuổi. Bác và cô còn bảo, không ai dám chứa con tên phản động. Chúng em đành phải đến gốc đa ngủ ban đêm. Có lần dì đi qua, nhìn thấy dì quát:
– Gốc đa của ông bà nông dân, ai cho chúng mày được ngủ ở đây?
Chúng em khóc lóc van xin mãi dì mới bỏ qua. Hằng ngày chúng em tiếp tục móc cua, mò ốc bán được trăm nào phải mua khoai luộc vì gốc đa có gì đâu mà nấu nướng? Chúng em cơ cực lắm chị ơi.
Bố bị bắn sau một tuần, có một bà già ở chợ, chúng em không quen, nói nhỏ:
– Các cháu phải mua hương thắp và đắp mộ cho bố chứ!
Hôm ấy chúng em bán cua và ốc đáng nhẽ mua được hơn một cân khoai nhưng bảo nhau mua hương đem đến mộ bố. Vài ngày trước mưa to, mộ bố lún xuống thành một hố nước hình chữ nhật. Mai cuốc chẳng có, chúng em ra bờ ruộng móc đất đắp vào mộ bố, nhưng mới được mấy hòn thì dì và một ông cốt cán đến, quát:
– Chúng mày to gan thật, ai cho đắp mộ cho tên phản động?
Dì ném bó hương xuống ruộng rồi cùng ông cốt cán bắt chúng em về điếm trói lại, giam đến tối mới tha.
Cuộc sống dưới gốc đa, ăn khoai luộc, uống nước lã được hai tuần bình an vô sự. Đến một hôm, chúng em bắt được đầy giỏ cua, lưng rổ ốc, hai đứa bảo nhau, hôm nay sẽ bán được nhiều tiền hơn, phải mua bánh tẻ ăn cho đỡ nóng ruột thì lại gặp dì. Dì nói:

– Cua ốc ngoài đồng là của
ông bà nông dân, ai cho phép chúng mày được bắt?
Nói xong, dì đổ cua ốc xuống sông, giẫm nát cái giỏ và cái rổ. Dì còn doạ:
– Từ rày còn bắt cua ốc nữa, tao sẽ trói vào cột điếm cho đến chết.
Từ hôm đó, hai anh em bàn nhau đi ăn xin ở thật xa, vì có xin ở gần cũng chẳng ai dám cho. Xin được cơm hay cái gì chín thì ăn ngay. Ai cho gạo, chúng em cởi áo may ô dúm lại mang đi, được nhiều, mang ra chợ bán hoặc đổi khoai luộc, bánh.. Hôm nay, chúng em xin được nhiều cơm ăn no, còn gạo mang theo về gốc đa. Buổi tối, dì xách đèn đi qua, lục soát thấy gạo, dì tuyên bố tịch thu. Dì còn bảo:
– Ông bà nông dân làm ra thóc gạo, ai cho phép chúng mày được ăn. Em xin mãi, dì mới trả cái áo may ô gói gạo…
Trước hoàn cảnh ấy, chị quyết định sống cô đơn để trông nom, chăm sóc hai em nhỏ. Điều khó xử là khi ấy chị đã có người yêu. Buổi chia tay đã diễn ra nhiều nước mắt. Chị nói:
– Hiện nay, em phải chịu tang thân phụ em và lâu dài em phải nuôi hai em nhỏ. Không còn con đường nào khác, anh cho phép em được cắt đứt quan hệ với anh.
– Anh sẽ đợi em đến ngày đoạn tang thân phụ – anh ấy nói – còn hai em nhỏ, anh sẽ coi chúng như các em mình. Anh không thể xa em.
– Cảm ơn anh, em biết hiện tại vì tình yêu, anh có ý nghĩ vô cùng cao thượng. Nếu chúng ta thành vợ chồng phải có con mà cuộc sống đầy những khó khăn. Đến lúc đó, anh sẽ oán trách em là người vợ đoảng. Đối với các con, em là người mẹ thiếu tình thương, đối với các em dại, em là người chị thiếu trách nhiệm. Tình yêu thương của chúng ta dù có rộng bao la nhưng đời sống của xã hội lại chật hẹp, bon chen không cho phép. Anh hãy quên em đi, đừng thương yêu em nữa, cánh cửa tương lai đang mở rộng trước cuộc đời anh.
– Anh coi em như một người bạn được không?
– Cả điều đó cũng không nên anh ạ. Mỗi lần thấy anh là hình ảnh quá khứ đắng cay sống lại. Do vậy, anh cứ coi em như người xa lạ, chưa gặp bao giờ. Lưu luyến đứa con gái quê mùa, bất hạnh này làm gì nữa để cả hai đều vấn vương, đau khổ?…
Mỗi lần nghĩ đến chị Hạnh, tôi lại thấy tủi hổ về người chị ruột của mình. Tôi đã gặp hai người đàn bà có tên là Hạnh và đều có hạnh. Chị Trần thuý Hạnh đã hy sinh hạnh phúc của đời mình để cứu vớt hai em nhỏ, chị là tấm gương về tình thương cao cả. Tuy nhiên, chị không được xã hội công nhận là người có hạnh. Còn cô Hạnh đấu tố bố hồi cải cách như Phan Lung, bạn học tôi đã tường thuật lại, là tấm gương sáng chói về đạo đức cách mạng.
* *
*
Năm ấy, bác Vũ thị Hiền bốn mươi nhăm tuổi dáng người thanh nhã, lịch thiệp. Xưa kia, bác là cô gái bán hoa Ngọc Hà. Chồng bác Hiền, bác Lê ngọc Văn là thày dạy Anh ngữ trường Bưởi.
Sau năm 1954, bác Văn là giáo viên lưu dung vẫn dạy ở trường cũ. Đến năm 1960, nhà nước ra chính sách lương thống nhất. Vài lần bác Văn làm đơn xin hạ thấp lương như trí thức cách mạng chưa được chấp nhận, bác làm đơn xin nghỉ việc. Năm 1961, bác Hiền cũng phải bỏ nghề buôn bán, vào làm tổ hợp tác này, kinh tế mỗi ngày một sa sút, thiếu thốn.
Vợ chồng bác Hiền có hai đứa con: một trai – Hưng hai mươi tuổi, học hết lớp bảy thì bỏ để học nghề tại nhà máy cơ khí Hà nội; một gái – Nga mười lăm tuổi, đang học lớp tám cũng phải bỏ để học nghề vì hoàn cảnh khó khăn. Cả tổ hợp tác, ai cũng gán ghép tôi là con rể tương lai của bác Hiền. Bác Hiền cũng nửa đùa, nửa thật hỏi:
– Cháu muốn làm rể bác không?
– Cảm ơn bác, cháu không dám.
– Tầng lớp cùng đinh cả, tại sao lại không dám?
– Thưa bác, cháu không được ở vị trí phó thường dân mà là kẻ khốn cùng của xã hội.
Cuối mùa xuân năm 1962, tôi đến nhà bác Hiền ở trước vườn hoa hàng Đậu, trên gác. Nhìn tấm hình chụp cả người Nga treo trên tường, tuy thân thể chưa phát triển nhưng Nga là một thiếu nữ xinh đẹp: cặp mắt bồ câu, cổ cao, khuôn mặt trái xoan duyên dáng. Bác Văn có dáng người cao lớn như Tây, tuổi chưa đầy năm chục, mái tóc đã hoa râm, trên trán hằn lên những nếp nhăn sâu và đậm, cặp mắt tinh nhanh, vẻ mặt phảng phất một nỗi buồn man mác.
– Đây là cháu Tâm cùng làm với tôi, ông ạ – Bác Hiền giới thiệu với chồng.
– Cháu ngồi chơi – Bác Văn nói – bác được nghe bác gái nói nhiều về cháu. Là một giáo viên, bác biết những người thông minh như cháu thì hiếm lắm, rất tiếc là chẳng hợp thời.
Như chợt nhớ ra, bác Văn hỏi:
– À, việc làm ở tổ hợp tác đang ổn định, liệu có được lâu dài không, cháu?
– Thưa bác, cháu cho là xã hội này chỉ có khó khăn, thiếu thốn mới lâu dài, còn việc làm ổn định là tạm thời thôi.
– Gia đình bác hiện nay, bác gái là lao động chính. Nếu việc làm lại thất thường, lương không có như trước thì gay go lắm.
– Bác là một trí thức, không hiểu thời thế hay sao mà năm 1954 không đi Nam?
– Bọn trí thức chúng tôi như bầy cừu non về chính trị. Cứ tưởng… thế mới khổ. Chiếc bánh vẽ thơm ngon đang được quảng cáo rùm beng ở miền Nam, đến thời gian nào đó người Sài Gòn cũng nói cứ tưởng… như chúng tôi. Con người mắc nhiều sai lầm đều có thể sửa được nhưng mắc bệnh ngây thơ về chính trị thì chỉ một lần thôi, nếu chữa khỏi bệnh này phải chờ ngày về cõi. Tôi còn nhớ trí thức Hà nội nghe ông Đồng nói chuyện tại nhà hát nhân dân sau ngày tiếp quản:“Tôi thay mặt đảng và chính phủ hoan nghênh các đồng chí có tinh thần yêu nước, không đi Nam. Các đồng chí ở lại xây dựng đất nước, ai làm việc gì vẫn giữ nguyên cương vị đó. Hiện nay, các đồng chí tạm hưởng mức lương của đế quốc trả. Tôi khẳng định rằng, đây là đồng lương mạt hạng của đế quốc. Đất nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn, các đồng chí tạm thời hưởng mức lương mạt hạng đó. Sau này, khi kinh tế đất nước phát triển, lương của các đồng chí phải tăng gấp hai ba lần hiện nay…”
Nói xong, ngài phó thủ tướng lấy khăn mùi xoa lau nước mắt cá sấu tỏ tình thương… Tưởng thật lòng, bọn trí thức chúng tôi thi nhau rơi lệ.
Cũng trong buổi nói chuyện đó, giờ giải lao, ngài tổng bí thư Trường Chinh rẽ đám đông đến ôm hôn cụ đồ nho đã dạy ngài học tiểu học ở làng Hành thiện. Ngài nói:“Thày tha lỗi cho con, vì bận việc nước lâu nay con không đến kính thăm thày…”
Một lần nữa, chúng tôi lại thi nhau rơi lệ vì cảm động. Rồi năm sau. chinh cái nhân vật tỏ vẻ đầy nhân nghĩa ấy, dưới quyền quyết định của ông Hồ, là đạo diễn tấn thảm kịch thời kỳ cải cách. Và là tấm gương chói lọi để cấp dưới noi theo về lập trường cách mạng, ngài đã ra lệnh bắn chú ruột mình.
Thời kỳ họ điều chỉnh lại lương cho công chức lưu dung xuống như lương của cán bộ cách mạng. Có người viết hàng chục lá đơn vẫn không được chấp nhận. Bác viết hai lần, họ trả lời phải để nghiên cứu, bác viết tiếp lá đơn xin thôi việc. Thế là xong. Nhiều người bảo bác không thức thời. Nhưng đến lúc này mới thức thời thì đã muộn, cái bất hạnh đến vẫn không thể tránh. Nhiều công chức ngoan ngoãn phục tùng, có người cúc cung tận tuỵ, cũng đã lên đường vào trại tập trung.
Cách đây ba năm, bác đọc quyển chuyên chính vô sản của Lenine. Đây là lần đầu bác đọc sách chính trị. Sách có đoạn viết với nội dung sau:“Sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền, chúng ta chưa quen biết việc quản lý nhà nước nên tạm thời thuê những trí thức tư sản với tiền lương rất hậu. Sau đó, chúng ta tống cổ chúng ra khỏi bộ máy nhà nước. Nếu chúng có hành vi chống lại, chúng ta sẽ cắt điện, cắt nước, cắt bánh mỳ, thậm chí đưa chúng vào nhà giam..”
* *
*
Nói chung những người trong tổ hợp tác này đều rơi vào cảnh bị xã hội cướp mất kế sinh nhai nên họ yêu thương và thông cảm với tôi. Đang lúc việc làm ổn định, tiền công tăng dần thì ông tổ trưởng đi họp ở ban liên hợp tác xã khu về phổ biến:
– Chủ trương của trên, tổ hợp tác này phải sáp nhập với bốn tổ hợp tác nữa để thành lập hợp tác xã cấp cao. Ông cho biết thêm:
– Làm và hưởng theo sản phẩm của tổ hợp tác ta là không đúng với đường lối của đảng. Cách làm ăn ấy chạy theo lợi nhuận là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sắp tới, xã viên được quy định lương hàng tháng theo tay nghề. Người làm tốt, cuối năm được bình bầu là lao động tiên tiến.
– Làm ra nhiều sản phẩm không được thêm, nhưng được ít sản phẩm thì sao? – Tôi hỏi:
– Nếu ít sản phẩm không đủ lương phải trừ theo tỉ lệ phần trăm.
– Sách báo thường tuyên truyền, chủ nghĩa xã hội, làm tuỳ sức, hưởng tuỳ tài, tại sao làm ra nhiều sản phẩm không được hưởng nhiều?
– Cái mâu thuẫn ấy tôi cũng chịu, cậu lên khu mà hỏi.
– Làm nhiều, làm tốt không được hưởng thêm – Khoa nói – Cuối năm, lấy mảnh giấy công nhân lao động tiên tiến gặm ra mà ăn thêm. Hay quá, chủ nghĩa duy vật mà bắt con người ăn những món ăn tinh thần: lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua rồi anh hùng lao động để cải thiện đời sống. Thưa các bác, các chị chúng ta tiến lên hợp tác xã cấp cao, rồi xí nghiệp địa phương để mức sống của mình tăng dần theo cấp số cộng với công sai là một số âm. Như các nhà máy, công nông trường, chúng ta sẽ làm theo cái khẩu hiệu ai cũng thuộc lòng, hàng ngày phải nghe trên đài, loa phóng thanh làm cái tai nhức nhối như bị tra tấn:“Để lấy thành tích chào mừng ngày…”.
Ngoài ông tổ trưởng, không ai có nghề nghiệp gì gọi là kim khí hay cơ khí nếu quy định lương theo tay nghề thì sống sao được? Cả tổ, ngoài tôi và Khoa đều lần lượt bỏ trước khi sáp nhập.
Hợp tác xã mới có văn phòng ở hàng Mã. Tôi và Khoa chuyển sang phân xưởng làm long đen và móc cáp cho bưu điện. Sau vài tháng sáp nhập, ban quản trị hợp tác xã mâu thuẫn, chia rẽ, bè phái. Họ cần sự liên minh của xã viên để đấu đá lẫn nhau do vậy tôi và Khoa được xếp vào mức lương sáu mươi đồng một tháng. Nói cho đúng, bậc lương không phải chỉ trả theo tay nghề mà có cả công thuê những tên lính xung trận trong cuộc đấu tranh nội bộ vì quyền lợi riêng tư của từng thành viên trong ban quản trị. Họ không biết rằng, tôi không bao giờ a dua, theo đóm ăn tàn mà chỉ hành động theo lẽ phải và đấu tranh để bảo vệ chân lý.
Tổ hợp tác làm hợp đồng cho tổng cục bưu điện trước ngày sáp nhập, tiền lương cao gấp hai ba lần theo quy định. Họ làm theo sản phẩm đúng với câu“làm tuỳ sức, hưởng tuỳ tài”. Trong thời gian đó được gọi là thời kỳ hoàng kim của hợp tác xã, các cô, các cậu xã viên tiền xúng xính. Sau khi thành một phân xưởng của hợp tác xã cấp cao, lương của họ tụt xuống nhiều lần, mặc dù còn thừa tiền phải nhập vào quỹ của hợp tác xã gửi ngân hàng để nhà nước quản lý.
Để đối phó với sự thiệt thòi đó, ông Dần – phân xưởng trưởng bàn với tôi:
– Mồ hôi, công sức đổ xuống sông, xuống biển thì phí quá, tôi nhờ anh mỗi tháng làm một bản lương giả đưa lên ban quản trị.
Nhờ vào việc giả mạo này mà hàng tháng rút ra được hàng nghìn đồng. Ông Dần cho phân xưởng ăn liên hoan một phần, còn lại bao nhiêu ông ta có ý định chiếm đoạt. Sáu tháng cuối năm 1962, số tiền ước tính khoảng sáu nghìn đồng trong túi ông Dần. Không chấp nhận sự bất công, tôi yêu cầu phải chia cho mọi xã viên trong phân xưởng. Ông ta phản đối:
– Việc này, tôi làm, tôi hưởng, nếu bị phát hiện tôi chịu tội. Riêng anh có quyền lợi xứng đáng, còn lại là của tôi.
– Đây là công sức chung, do cơ chế của nhà nước mà họ bị thiệt thòi. Bác đề ra sáng kiến này, riêng bác có quyền lợi cao hơn, còn lại bác nên chia đều.
Ông Dần khăng khăng từ chối. Do vậy, tôi và Khoa làm đơn đề nghị khu giải quyết. Một cuộc họp phân xưởng hơn bốn chục người tham gia để tranh cãi về việc đó. Tôi không ngờ đấu tranh chống lại bất công mà hai đứa chúng tôi bị cô lập. Đại bộ phận đều im lặng hoặc bênh vực ông Dần. Và cuối cùng là sự bất công đã chiến thắng.
Họp xong, một bác già ở Cầu Diễn nói với tôi:
– Tôi tưởng cậu có học sao mà ngu thế?
– Đấu tranh chống lại bất công mà ngu à bác?
– Có phải cậu chống lại bất công đâu, cậu thay đổi từ một sự bất công này bằng một sự bất công khác mà thôi. Nếu cậu thắng ông Dần thì số tiền trong túi ông Dần sẽ chuyển lên khu, vào ngân hàng nhà nước, chẳng ai được gì cả.Vì vậy tôi đã vận động mọi người trong phân xưởng không đồng tình với cậu.
Bác già tiếp:

– Bất công, vô lý là bản chất của chế độ này, tại sao cậu dám đấu tranh cho lẽ công bằng, có khác gì múc nước đổ ra sông, hơn nữa mua vạ vào thân? Hôm thao diễn kỹ thuật và năng suất, nhiều người làm như điên như dại để lấy tiếng khen, lấy thành tích hão, tôi cho là một lũ ngu, mắc lừa sự ph
ỉnh phờ của họ. Các cơ quan ký hợp đồng với hợp tác xã mình lấy đó làm mốc để hạ giá thành sản phẩm. Tôi hỏi cậu, cái máy cơ khí còn hỏng hóc huống chi con người, có thể làm điên dại hết ngày này qua tháng khác được không?
Phải nói thật là nhà nước họ chỉ muốn vắt kiệt sức lao động chứ chẳng bao giờ quan tâm đến đời sống người dân. Con người phải ăn để sống chứ không thể nhịn đói mà ngắm bằng khen lao động xuất sắc hay tiên tiến. Quả thực họ muốn năng suất lao động cao, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao mức sống người dân thì họ phải ưu tiên sử dụng và đào tạo những nhân tài để khoa học và kỹ thuật phát triển, thay sức lao động của con người. Ngược lại, họ sử dụng những kẻ ngu trong cấp lãnh đạo – những kẻ ngu có quyền, có chức mới một lòng, một dạ đi theo đảng mới đội ơn cách mạng. Bất công vàvô lý là mảnh đất mầu mỡ cho cái ngu nảy mầm và phát triển, cậu là cái thá gì mà dám chống lại bản chất của chế độ hiện nay?
– Thưa bác – Tôi nói – bác đã dạy cho cháu một bài học nhớ đời, cháu chân thành cảm ơn bác.
Nửa tháng sau, khi hết giờ làm việc, ông Dần đang đóng cửa, tôi đi qua bị ông Dần làm rơi thanh sắt cài then cửa vào đầu, máu chảy ra xối xả. Ông Dần vội cõng tôi ra bệnh xá phố hàng Lược. Băng bó xong, tôi lên xích lô về nhà. Tối hôm đó nhiều người cùng làm đến thăm, tôi không ngồi dậy được vì máu ra nhiều, chóng mặt. Ai cũng khuyên tôi kiện ông Dần cố ý trả thù, bắt bồi thường. Tôi từ chối vì cho rằng đây là sự vô ý của cả hai người. Tôi nói:
– Một hiệp sĩ không bao giờ chém kẻ thù ngã ngựa, một kẻ có lương tâm không thể vu oan cho người vì sự cố bất ngờ.
Vài ngày sau, ông Dần cũng đến thăm tôi và hỏi:
– Anh không kiện tôi cố ý trả thù anh chứ?
– Không bao giờ!
– Nếu thế, tôi bồi dưỡng anh hai trăm đồng.
– Việc này không nên thanh toán với nhau bằng tài chính hãy để cho mỗi tâm hồn nuôi dưỡng và phát huy tính trung thực và lòng độ lượng.
Ông Dần siết chặt tay tôi và cảm tạ.
* *
*
Sang năm 1963, giá thành các mặt hàng hợp tác xã làm gia công cho nhà nước hạ xuống nhiều lần, tiền lương của xã viên thấp quá không sống nổi. Song song với việc đó, chính sách vận động người đi kinh tế miền núi bắt đầu, việc làm trong các hợp tác xã bị cắt xén còn rất ít. Những người thuộc diện ra khỏi thành phố là không làm trong cơ quan nhà nước, việc làm không ổn định, riêng các gia đình nguỵ quân, nguỵ quyền phải về quê hương cũ. Tháng ba năm 1964, trong báo cáo chính trị của ông Hồ có câu:“phải làm Hà nội trong sáng như pha lê”. Chính sách này gây ra bầu không khí lo lắng, sợ hãi bao trùm cả thành phố trong hai năm 1963 – 1964. Câu nói của ông Hồ làm cuộc vận động trở thành một chiến dịch cưỡng bức di dân. Nếu không có cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc thì hậu quả “mang con bỏ chợ” đi đến đâu không ai lường được? Tuy nhiên đã có hàng vạn gia đình phải bỏ thành phố ra đi sống vất vưởng trong các miền rừng núi. Năm 1969, họ liều lĩnh trở về may cho họ đang trong thời buổi chiến tranh, để giảm bớt mâu thuẫn nội bộ nên đảng đã khoan nhượng.
Giữa năm 1963, do mâu thuẫn, đấu đá lẫn nhau, ban quản trị của hợp tác xã bị xoá sổ, người bị đuổi, người bị cách chức. Cấp trên cử về một chủ nhiệm mới là đảng viên – ông Lưu đĩnh Chi ngoài năm mươi tuổi – một con người nhiều mưu mô, thủ đoạn nham hiểm. Về sau tài sản của hợp tác xã trị giá hàng trăm lạng vàng rơi vào tay ông và con cháu của ông. Trước đại hội xã viên ông tuyên bố:
– Hiện nay, việc làm chỉ dành cho bố mẹ, con em những gia đình là cán bộ, công nhân viên và những gia đình có công với cách mạng. Còn lại thuộc diện đi kinh tế miền núi, ban quản trị không xếp việc.
Đục nước béo cò, nhờ chính sách này, đại gia đình ông Chi trở nên giàu có do chiếm đoạt. Hàng trăm người mất cả việc làm và mất cả tiền vốn góp cổ phần. Tôi và Khoa bước vào những tháng năm thất nghiệp. Để kiếm sống, chúng tôi làm mọi việc, buôn bán vặt vãnh: bánh mỳ, quần áo cũ, pháo dịp tết, kể cả việc lao động đào đất, dọn vệ sinh. Nhưng buôn bán thì thường bị bắt giữ và tịch thu hàng, còn lao động thì thất thường với tiền công rẻ mạt. Giữa năm 1963 đến hết năm 1964 chúng tôi cứ long đong, lật đật kiếm ăn từng bữa. Còn tinh thần thì lo âu, thắc thỏm từng ngày vì chính sách đi vùng kinh tế mới. Đành rằng ở nơi thị thành này, chúng tôi đang phải chịu trăm đắng, ngàn cay nhưng còn có sách, có thư viện, có bạn bè. Nếu phải đi miền núi có khác chi vào nơi cầm cố chung thân – một cuộc đời đầy đoạ, tuyệt vọng.
Cuối tháng 3 – 1964, ông chủ nhiệm gọi tôi đến văn phòng, ông nói:
– Chính sách đi vùng kinh tế mới đã tiến hành gần một năm nay. Biện pháp vận động của hợp tác xã đối với anh mới chỉ có cắt việc làm. Một người thông minh như anh chắc cũng hiểu rằng, mọi chính sách của đảng muốn thực hiện được phải kèm theo biện pháp chính quyền cưỡng bức, cao hơn nữa là toà án, nhà tù. Tôi cho rằng không ai muốn bỏ thành phố để đi miền núi vì chẳng khác gì từ chỗ quang đâm đầu vào bụi rậm, nhưng chính sách của đảng bắt mọi người dù không muốn cũng phải chấp hành. Nói như thế, có thể anh hỏi: đã cưỡng bức đâu mà có hàng vạn gia đình tình nguyện đi miền núi? Xin trả lời, số đó chẳng gia đình nào muốn tình nguyện cả. Họ biết, trước sau cũng phải đi nên hành trình sớm sẽ có lợi hơn, tìm được nơi tốt hơn, tránh được cảnh trâu chậm uống nước đục. Đến nay, chắc anh đã rõ Hồ chủ tịch tuyên bố:“phải làm Hà nội trong sáng như pha lê”, nghĩa là cuộc vận động ra khỏi thành phố đã biến đổi về chất – áp dụng những biện pháp cứng rắn buộc những người không thuộc thành phần cơ bản phải ra đi. Về lý lịch của anh, tôi không rõ lắm nhưng có nhận xét rằng, anh có văn hoá nếu thuộc thành phần tốt sao không vào đại học hay chuyên nghiệp? Vì vậy, anh đã có tên trong danh sách bị cưỡng bức đi lần này. Hôm nay tôi báo cho anh biết trước để chuẩn bị.
Nghe ông chủ nhiệm nói, tôi liền nghĩ ra một kế:
– Thưa bác, từ hôm nay cháu xin bác xoá tên cháu trong danh sách xã viên.

– Việc đó dễ thôi nhưng để làm gì? Anh muốn trốn tránh đi miền núi thì không ổn. Nếu anh xin xoá tên, chúng tôi phải gửi anh về khối phố quản lý và
giải quyết. Hơn nữa, cổ phần chỉ được rút ra khi có giấy di chuyển khỏi thành phố.
– Bác thông cảm giúp đỡ cháu với điều kiện sau, cổ phần của cháu có ba trăm đồng, bác toàn quyền sử dụng nhưng bác không gửi giấy về khối phố, coi như cháu vẫn làm ở hợp tác xã.
Mắt ông chủ nhiệm sáng lên vì được lợi, sau vài giây tỏ vẻ lưỡng lự, ông nói:
– Thôi được rồi, tôi đồng ý giúp anh, nếu khối phố nơi anh cư trú hỏi tôi, buộc tôi phải trả lời anh đã bỏ hợp tác xã, chúng tôi quên chưa gửi giấy về để địa phương quản lý. Và nếu xảy ra hiện tượng ấy, anh cũng không nên tố cáo tôi ăn hối lộ của anh để không đưa anh đi miền núi. Chắc anh biết câu chuyện ngụ ngôn của La fontaine“Con chó sói và con cừu”.
Ông chủ nhiệm cũng hỏi Khoa, anh trả lời:
– Bác cứ yên tâm, cháu sắp về với bố cháu ở Bắc giang. Bác cứ chuẩn bị sẵn tiền cổ phần của cháu.
* *
*
Đầu tháng 4 – 1964, tôi và Khoa lấy vé ở rạp Đại đồng xem bộ phim Người cá. Buổi tối, gần đến giờ đi xem thì anh Cương bảo tôi phải ở nhà họp để nghe phổ biến bầu cử quốc hội. Cũng may, Khoa giữ vé nên tôi nghe lời anh Cương.
Cuộc họp của khối phố ở sân chùa, bảy giờ bắt đầu, mọi người đã đến đông, chật ních. Có một ông cán bộ trên khu về dự, ông ta phát biểu:
– Khu Ba đình có vinh dự lớn được đón bác và các vị lãnh đạo cấp cao ứng cử đại biểu quốc hội. Theo chỉ thị của trên, mọi cử tri phải bỏ phiếu theo sự hướng dẫn. Nếu ai làm sai là hành động chống đối, tuỳ theo lỗi nặng nhẹ, thái độ chính trị mà xử lý. Mỗi cử tri được thực hiện quyền công dân là bỏ phiếu song phải làm nghĩa vụ theo sự lãnh đạo của đảng. Tôi đề nghị bà con đi bỏ phiếu trăm phần trăm và nhất thiết theo sự chỉ đạo…
Kế đó, ông trưởng ban đại biểu nói:
– Hôm nay bà con đến họp tương đối đầy đủ, chỉ thiếu ba người có lý do. Tôi đọc giấy xin phép của từng người: 1 – Tôi là Ngô văn Hảo, tối nay tôi phải đi trực ở bệnh viện. Vậy xin phép ban đại biểu được vắng mặt trong cuộc họp cực kỳ quan trọng này. Tôi nhất trí theo sự chỉ đạo của cấp trên là gạch tên hai vị ứng cử tự do ở cuối danh sách; 2 – Tôi là Lê thị Ngọ, tối nay tôi bị sốt nặng không đi họp được, vậy xin phép ban đại biểu. Tôi xin hứa ngày bầu cử nhất thiết sẽ làm theo chủ trương của đảng, nếu sai tôi xin chịu tội; 3 – Con tôi là Vũ văn Hưng đi công tác chưa về. Do vậy, tôi xin phép ban đại biểu cho cháu vắng mặt trong cuộc họp tối nay. Tôi hứa với quý ban, khi cháu về tôi sẽ thông báo lại để ngày bầu cử, cháu phải bỏ phiếu theo sự hướng dẫn của cấp trên.
Ông trưởng ban đại biểu tiếp:
– Sau đây, tôi xin đọc tiểu sử các vị ứng cử. Riêng tiểu sử của bác không đọc. Khi đọc đến tên người, tôi đề nghị bà con đứng dậy vỗ tay hoan hô…
Một bà đứng lên phát biểu:
– Nói đến bác thì cháu nhỏ lên ba cũng biết và kính trọng nhưng tiểu sử của người, có một số người ít học như tôi không nhớ rõ, tôi đề nghị cứ đọc.
Nhiều người đứng dậy nhao nhao phản đối:
– Người là cha già của dân tộc, ai không nhớ rõ tiểu sử của người là thái độ chính trị không tốt, biểu hiện một quan điểm không nhiệt tình cách mạng.
– Không cần đọc nữa, đọc tiểu sử của bác là vô lễ, chúng tôi ai cũng nhớ rồi…
Tôi thoáng nghĩ, ngoài cái tên bác Hồ hoặc Hồ chủ tịch sinh ngày 19 – 5, thực ra mấy ai nhớ lai lịch của ông ta, lai lịch đó đã được thêm bớt, hư cấu cho đượm màu sắc và tính cách anh hùng nhất trong lịch sử của dân tộc bốn nghìn năm văn hiến. Họ tự lừa lẫn nhau đến thế là cùng.
Ông trưởng ban đại biểu bắt đầu đọc:
– Tiểu sử Hồ chủ tịch.
Ông đọc chưa dứt lời, mọi người đã đứng dậy, tiếng vỗ tay và lời hoan hô ầm ầm như vỡ chợ:
Hồ chủ tịch muôn năm! muôn năm! muôn năm! Tiếng hô lặp lại nhiều lần giống như một lũ loạn thần kinh. Có người cố gào lên sau bị khản cổ.
Bốn năm sống ở đây, tôi biết, một số là cán bộ, công nhân viên chức với tiền lương rẻ mạt, phải chia ra ăn từng bữa. Còn lại phần đông là thợ thủ công làm trong các hợp tác xã và những người buôn thúng, bán mẹt. Cuộc sống của họ gieo neo, thiếu thốn trăm bề. Chẳng những thế, họ luôn trong tâm trạng lo âu vì chính sách đi vùng kinh tế mới, nhất là lời tuyên bố gần đây của ông Hồ “làm Hà nội trong sáng như pha lê” làm nhiều người sợ mất ăn, mất ngủ.
Tôi đã từng xếp hàng mua lương thực cùng với họ, mua phải gạo hẩm và mục, người nào chẳng bùi ngùi kêu khổ. Thế thì vì lẽ gì trong cuộc họp để chuẩn bị bầu cử quốc hội, họ lại tỏ ra kính yêu ông Hồ đến thế? Sự kiện này làm tôi nhớ lại truyện ngắn Bộ quần mới của Hoàng đế của Andersen, nhà văn Đan mạch, chỉ vì sợ tiếng ngu, người trần mắt thịt mà từ vua quan đến dân chúng trong thành không ai dám nói“Ông vua đang để trần truồng được đón rước”. Ở thời đại Cộng sản không đơn giản thế. Cậu tôi nói:“Đảng bảo hoan hô phải vỗ tay.. Ai không hưởng ứng là kẻ thù của đảng…”Cánh cửa nhà tù đang mở rộng để đón chờ những ai dám bầy tỏ ý nghĩ chân thực của mình về xã hội. Ngoài những kẻ cuồng tín, để thích nghi với môi trường sống mỗi người phải đóng thành đạt một diễn viên, một con người giả: phát lại âm thanh của đảng, làm theo ý đảng. Còn con người của trái tim khối óc – con người thật phải âm thầm, lặng lẽ, chồng cảnh giác vợ, cha chắng dám tin con…
Tan cuộc họp, khi ra về một bà nói:
– Đảng bảo sao, dân phải nghe vậy nhưng danh sách ứng cử viên do đảng chọn, mà đều là người của đảng, bỏ phiếu cho ai mà chẳng được.
Tên công an hộ tịch nghe thấy, gọi lại doạ:
– Bỏ phiếu cho ai cũng được là thế nào? Bác muốn tuyên truyền không công cho bọn phản cách mạng phải không?
– Trót lỡ lời, tôi xin anh tha lỗi.
Cũng may bà này là công nhân vệ sinh, không biết chữ nên được ân xá tội nói càn.
Anh Cương nói vụng với tôi, những người được lựa chọn đa số xuất thân từ nghề cầm cuốc thành tổ chức“cái cuốc hội”, một chiêu bài để tuyên truyền nền dân chủ giả hiệu của đảng.
Sáng sớm ngày bầu cử (chủ nhật) cả khu phố như nước sôi lên sùng sục: cha dặn con, chồng bảo vợ, anh chị em nhắc nhở nhau làm sao đừng nhầm lẫn. Xảy chân xuống hố còn chữa khỏi, nếu xảy tay gạch nhầm tên người ứng cử quốc hội thì cuộc đời bị cuốn trôi như nước sông Hồng. Do họ nghĩ rằng, đảng có phép nhiệm màu như phật tổ Như lai, thấu suốt mọi hành vi của mọi con người.
Tôi và Khoa không bảo nhau nhưng đều đặt một dấu nhân to, đậm vào lá phiếu bầu.
Cuối tháng tư có một cuộc họp của khối phố để tuyên bố kết quả bầu cử. Ông trưởng ban đại biểu nói:
– Tôi thông báo cho bà con biết, cuộc bầu cử quốc hội lần này khu Ba đình đã thành công rực rỡ. Bác Hồ được 99,92 phần trăm số phiếu. Từ con số phần trăm trên đã chứng tỏ lòng tin tuyệt đối của nhân dân đối với đảng. Tuy nhiên cũng từ con số đó cho ta thấy, khu Ba đình mới xuất hiện một số tên phản động.
Một bà phát biểu:
– Theo tôi, chỉ những đối tượng cũ thôi.
– Không phải – ông trưởng ban tiếp – những đối tượng xấu như nguỵ quân, nguỵ quyền, công chức lưu dung, những gia đình đi đạo, tư sản…đều có dấu mật trong lá phiếu bầu, không thấy chúng có hành động chống lại. Trong khu Ba đình có tám phiếu gạch chữ nhân và một số lá phiếu gạch tên Hồ chủ tịch, cơ quan an ninh đang điều tra nhưng chưa có kết quả. Bọn này nếu bị phát hiện ra chắc chắn chúng phải nhận hình phạt thích đáng của đảng.
Một ông phát biểu:
– Tôi chỉ thấy cơ quan an ninh bắt bọn phản động đi tập trung cải tạo, hình như chưa có phiên toà nào xét xử bọn chúng.
– Có rất nhiều – công an hộ tịch nói – chỉ xử kín thôi. Bà con khỏi lo, trị tội bọn phản động, đảng có hàng nghìn biện pháp.

Nhiều lần tôi đến thăm chị Bích Hằng nhưng chị đều đi vắng thành ra hơn hai năm trôi qua tôi không gặp chị. Chiều ngày mười tháng mười năm 1964, tôi lại đến thăm chị. Đến nơi, tôi thấy gian nhà của chị khoá cửa. Tôi hỏi ông Hiệp người đỡ đầu chị, ông buồn bã trả lời:
– Sau khi không làm ở hợp tác, chị Hằng đi buôn rau. Kiếm được miếng ăn trong thời buổi này sao mà khổ thế? Nhiều phen chị vừa gánh rau, vừa chạy trốn sự truy bắt của công an trên đường phố, có lẽ còn lật đật hơn chạy giặc. Công an hộ tịch và khối phố mấy lần đến vận động chị đi miền núi, còn đang khất dần, nấn nấ thì cách đây mươi ngày chị gánh rau qua đồn, có một công an ra hỏi giấy tờ. Chị xuất trình chứng minh thư, anh ta mang vào đồn vài phút rồi trả lại.
Đồng thời một trung uý trong đồn đi ra, chị nhận ra người cùng quê, trước kia là đội trưởng cải cách ruộng đất. Sau ngày đó, chị ở nhà buồn bã, lo lắng. Tối hôm qua, công an khu và hộ tịch đến nhà thu sổ hộ tịch, chứng minh thư của chị và tuyên bố: Chị man khai lý lịch, cư trú bất hợp pháp. Theo lời tuyên bố của Hồ chủ tịch “phải làm Hà nội trong sáng như pha lê”, khu quyết định đuổi chị khỏi thành phố. Nếu từ nay còn ở lại, chúng tôi sẽ bắt giam. Sáng nay, chị Hằng chào tạm biệt tôi và gia đình, chị đã dắt con đi.
– Thưa bác, chị Hằng đi đâu ạ? – Tôi hỏi.
– Tôi ngậm ngùi hỏi chị như thế nhưng chị nghẹn ngào trả lời: Đi đâu cháu còn chưa biết nữa? Cháu cảm tạ công ơn như trời biển của bác và gia đình. Cháu thường cầu mong có ngày trả được công ơn bác nhưng có lẽ không thể. Cháu xin từ biệt. Chị oà lên khóc rồi ra đi.
Bão táp lại trút xuống đầu người lương thiện – Tôi trĩu nặng nỗi u buồn, thầm nhủ. Chào bác Hiệp, tôi đi bộ đến vườn hoa hàng Đậu để thăm bác Vũ thị Hiền.
Hôm ấy, ngày kỷ niệm mười năm giải phóng thủ đô, vườn hoa được trang trí hàng nghìn bóng điện màu rực rỡ. Bác Hiền ngồi ở ban công lơ đãng nhìn cảnh đẹp của vườn hoa, bác đang mong mỏi và chờ đợi Hưng về nhà. Vậy con trai bác đi đâu? Sau khi không thể sống nổi ở hợp tác xã, bác lại đi buôn bán nhỏ nhặt để kiếm ăn. Hưng nhiều lần phản đối mẹ không chấp hành chính sách cải tạo tiểu thương là sai với chính sách của đảng nhưng nếu không đi chợ kiếm tiền thì bố mẹ và em lấy gì ăn để sống? Mẹ xin con. Sợ gia đình cản bước tiến của mình. mặt khác Hưng cũng biết rằng, anh xin học nghề ở nhà máy cuối năm 1959 là một điều may, nếu đến năm 1960, bắt đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, thì không thể. Do vậy, Hưng xin vào tập thể nhà máy đã hơn một năm nay, rất ít khi về thăm bố mẹ. Bác Văn đang ốm nặng trên giường. Nga bỏ nhà đi đâu gần một tháng. Bác Hiền chờ mong con trai về để nói hoàn cảnh gia đình hiện tại, may ra nó thương bố mẹ chăng?
Tôi đến, bác Hiền buồn bã tiếp. Sau nửa giờ Hưng về nhà. Không chào hỏi ai, Hưng khoe với mẹ:
– Mẹ ơi, ngày mai con lên đường nhập ngũ.
– Bố con đang ốm, con hãy vào thăm bố – Bác Hiền vừa khóc, vừa nói.
Hưng bước vào nhà, bác Văn đang ngủ, nói mê lung tung:
– Hưng ơi, con bỏ bố mẹ à? Nga ơi, con đi đâu không về với bố?
Nghe lời nói mê của bố, Hưng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, Nga đi đâu?
– Không biết em con đi đâu từ tháng trước?
Hưng gọi bố:
Bố ơi, con đã về đây, ngày mai con đi bộ đội – Gọi ba, bốn lần, bác Văn không tỉnh, Hưng ra chào mẹ rồi đi, mặc cho bác Hiền hết lời van xin con ở nhà đêm hôm ấy. Chưa hết cơn hờn giận với đứa con bội bạc thì sở công an đến bắt bác Văn và khám nhà. Trong lệnh bắt có đoạn viết:“…tập trung cải tạo phần tử có nguy hại cho cách mạng…”. Cũng may, khi ô tô đến trước cửa, tôi đã kịp xuống cầu thang và chuồn ra ngoài phố, nếu chậm thì rắc rối to.
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 10
HỒI HAI – Hà nội
II Năm năm nối tiếp

Tôi có một người bạn ở phố Nguyễn thiện Thuật, gọi là bạn nhưng không thân. Họ và tên anh ta là Lương cẩm Nghệ. Trước ngày sáp nhập, Nghệ làm ở tổ hợp tác khoá dây xe đạp, anh có cặp mắt tinh nghịch và ngạo mạn. Lúc đi chơi, Nghệ thường mang theo một cặp da bóng lộn. Và tự xưng là nhà nghiên cứu triết học, văn học. Nghệ ở với bố nuôi người Hoa, gia đình anh buôn gian bán lậu nên rất khá giả. Nhà ở rộng, một ngôi nhà bốn tầng, có lẽ được hưởng chính sách ưu đãi đối với người Hoa.
Nghệ ăn chơi phung phí, anh thường nói, ném tiền qua cửa sổ. Nghệ có một phòng riêng ở gác bốn, phòng rộng khoảng mười sáu mét vuông. Phía trước cửa phòng là một sân thượng hướng ra sông Hồng, bầy nhiều chậu hoa, cây cảnh. Trong phòng kê một chiếc ghế ngựa chân quỳ khảm trai, một bộ salon tầu mặt đá, một tủ chùa. Đặc biệt là giá sách vài ba trăm quyển bao gồm những tác phẩm văn học có giá trị của Việt nam và sách dịch Đông tây kim cổ, nhiều sách của nhà xuất bản sự thật: tuyển tập Lénine, tư bản luận của Marx… và các loại sách triết học, logique học. Trên tường treo hai cây đàn guitaire và Violon. Với gian phòng được trưng bầy như vậy, bất cứ người khách lạ nào đến cũng tưởng anh là nhà nghiên cứu, đồng thời cũng là ước mơ của nhiều nhà trí thức đương thời. Sự thực Nghệ mới học hết lớp bảy, sách mua về thường anh chỉ đọc đầu đề, tên tác giả hoặc tìm đọc những đoạn văn hay, đàn anh cũng chẳng biết chơi. Nghệ cũng tìm thày học đựoc một số từ và câu Anh ngữ. Tất cả để phục vụ cho một quan điểm của anh: cuộc đời là sự bịp bợm. Ai đóng thành đạt Tartuffe thì người đó thực hiện được nhiều điều mãn nguyện. Sách và đàn coi như những đồ trang sức tô điểm con người anh thêm hào nhoáng. Có nhiều tiền nên Nghệ đã thành công về những mối tình trăng gió, chiếm được nhiều trái tim và thể xác của những cô gái nhẹ dạ, ham ăn diện. Thật trớ trêu, đến năm 1965, Nghệ trở thành sinh viên khoa Văn trường đại học tổng hợp, bằng tốt nghiệp cấp III anh mua với giá mười đồng. Cùng thời gian đó, gia đình anh bị khám xét, thu hết hàng lậu, vàng và tiền. Ông bố nuôi phải vào Hoả lò sáu tháng. Từ một chàng trai vung tiền qua cửa sổ, Nghệ trở thành một sinh viên nghèo, anh tu chí học hành và chi tiêu kham khổ trong số tiền học bổng.
Đối với bạn bè, anh phóng khoáng và cởi mở. Điều đáng trách là mỗi lần bạn đến chơi nhà, anh thao thao một hồi liên tục hết chuyện nọ đến chuyện kia, không để hở một cơ hội cho bạn than thở, tâm tình.
Một lần tôi đến nhà anh, thấy ảnh ông Hồ treo trên tường, tôi hỏi:
– Mày cũng treo ảnh này à?
Nghệ đi cài cửa rồi hỏi:
– Mày có biết tam cương không?
– Tao còn lạ gì.
– Tuyệt – Nghệ bắt đầu diễn thuyết – ông ấy hiện nay tương tự như vua, nên gọi là vua cũng được. Mặt khác, tao học được của ông ta nhiều về cách sống, như vậy là thày. Ông ấy còn là cha già dân tộc, có nghĩa là cha tao. Tóm lại tao treo ảnh ông ta để thờ quân sư phụ. Cần lưu ý mày, tam cương ở đây tao đã thay quan hệ vợ chồng bằng quan hệ thày trò. Mày phải tin tao, cuộc đời chỉ là sự bịp bợm mà thôi. Tao lấy nhân vật là quân sư phụ của tao để chứng minh. Dù muốn hay không, người miền Bắc phải gọi ông ta cái tên trìu mến là bác. Là tông đồ của Marx và đứa con hiếu thảo của Lénine, ông ta nhất trí với Marx, chính trị là thủ đoạn. Và nói thêm: “để chiến thắng kẻ thù, chúng ta có thể áp dụng mọi thủ đoạn dù nham hiểm và tàn bạo nhất”. Nói một cách trần trụi, chính trị là sự bịp bợm. Về lĩnh vực này, ông ta vượt xa sư phụ, trở thành bậc thày của Marx và Lénine. Cuộc đời ông ta là chặng đường quanh co, khúc khuỷu của những mánh khóe bịp bợm nối tiếp nhau. Tao lấy một vài dẫn chứng điển hình: nhờ màn kịch nhà nước toàn dân năm 1945, ông ta đã lợi dụng được sự ủng hộ tối đa của dân tộc, lợi dụng được nhiều nhân tài, vật lực của kẻ thù. Nếu lúc đó, ông ta thẳng thắn tuyên bố, nhà nước của những người Cộng sản chống phong kiến, tư bản, chống quốc dân đảng và các phe phái khác thì sự nghiệp của ông ta sẽ đi đến đâu? Và cuộc kháng chiến chống Pháp khó mà giành thắng lợi cuối cùng.
Năm 1954, nếu ông ta tuyên bố dùng công chức lưu dung như vắt chanh hết nước rồi quẳng ra bãi rác, những người cộng tác với đối phương phải lần lượt vào trại tập trung cải não, hỏi những thành phần đó có dám ở lại miền Bắc hay không? Nói chung, mọi chủ trương, chính sách mà ông ta đưa ra đều áp dụng những thủ đoạn bịp bợm tương tự. Ông ta sớm tổng kết được những thủ đoạn xảo quyệt, những ngón bịp tinh vi, siêu hạng của phương Đông từ trước đến nay, từ đó ông ta sáng tạo ra một nghệ thuật lừa siêu việt. Kỳ quan thế giới còn có bảy, nhưng nghệ thuật lừa của ông ta lỗi lạc vô song chắc chắn phải được lưu danh thiên cổ.
Tao nhất trí với quan điểm “anh hùng sáng tạo ra thời thế”. Lối sống của một vị anh hùng giống như bác lừa sẽ sản sinh ra thời đại của những chú bìm bịp, xã hội biến thành một thị trường mua bán mạt cưa, mướp đắng trong bóng tối, lòng trung thực bị huỷ diệt. Ai không nhạy bén, không biết biến hoá thành những chú bịp, cứ giữ nguyên là con người lương thiện phải chịu khổ nhục. Tựu chung, dối trá trở thành một cứu cánh, một cẩm nang trong cuộc sống.
Để thích nghi với thời đại mới, nhà văn hóa thành bồi bút, nhà báo bóp méo sự thật. Ông cán bộ đảng đứng trước đám dân đói rách, từ cổ họng tuôn ra hàng mớ lý thuyết tràng giang, đại hải về cái thiên đường trên cõi tục, về cuộc sống hoang đường của ngày mai. Ông thị trưởng sau bữa tiệc với những món sơn hào, hải vị, uống rượu Whisky, hút thuốc ba số, ông đi Volga đến đài phát thanh kêu gọi nhân dân thắt lưng, buộc bụng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Người cảnh sát, tay cầm của đút, miệng nói làm theo lời bác: liêm khiết, chí công, vô tư. Người “đầy tớ trung thành”sống xa hoa trong các biệt thự sang trọng ra lệnh cho các“ông chủ” – đám dân đen – phải ép mình trong khuôn phép ngặt nghèo. Cô công nhân trẻ suy dinh dưỡng vẫn không quên vị trí của mình – làm chủ nhà máy. Bác nông dân dùng rau thay gạo vẫn thuộc lòng câu: chúng ta làm chủ ruộng đồng. Người dân thành thị ăn cơm gạo mục độn ngô xay với thức ăn rau luộc chấm nước mắm chín hào, cố nuốt cho trôi xuống dạ dày rồi hô to: chủ nghĩa xã hội muôn năm! Thày giáo khoa xã hội, bụng lép kẹp, đang giảng bài cách mạng mang lại ấm no, hạnh phúc cho người lao động. Một thày dạy văn quen và bảo tao:
– Quan niệm về cuộc đời của cậu bệnh hoạn quá!
– Cũng vừa phải thôi thày ạ! – Tao trả lời và hỏi:
– Hiện nay chắc thày đầy đủ lắm?
– Lấy đâu ra, khó khăn thiếu thốn là cái chung xã hội – thày trả lời.
– Tuyệt vời! Tại sao thày lại giảng cho học sinh, cuộc sống hiện nay là ấm no và hạnh phúc?
– À, đó là nghề ngiệp phải làm để kiếm sống.
– Nếu thế, thày hãy so sánh, tôi quan niệm cuộc đời là bịp bợm, còn thày răn dạy sự dối trá, ai bệnh hoạn hơn ai?
Thày im lặng, tao nói tiếp:
– Tôi bệnh hoạn, thày bệnh hoạn, người khác bệnh hoạn. Trai trộm cướp, trấn lột, hiếp dâm; Gái làm tiền, lừa đảo; Kẻ có quyền tham ô, ăn hối lộ và lừa bịp… Tóm lại một xã hội bệnh hoạn. Một xã hội Chí phèo, người lớn sợ trẻ con, người ngay sợ kẻ gian, mình lừa mình, người bịp người tạo thành bản hòa tấu khổng lồ của thời đại “Bác”vĩ đại. Tao đã và đang học tập theo gương bác tuy nhiên sự lừa bịp của tao chẳng để tranh quyền, cướp của, giết người, mà chỉ tạo ra những cái bẫy đối với các em thôi. Trong lĩnh vực này, tao đã thành công rực rỡ. Thực chất mày là bậc thày tao về kiến thức nhưng chỉ dăm ba đứa biết. Ngược lại, bất cứ ai đến cái phòng này đều ngộ nhận tao là trí thức, là cán bộ nghiên cứu. Khi đó mày bị hạ bệ xuống là thằng cần vụ cho tao. Một cô gái bình thường mày có theo đuồi đến long đầu gối, tuôn ra hàng nghìn lời châu ngọc cũng chưa chắc nhận được của cô một nụ hôn. Còn tao, những đóa hoa mỹ lệ đang nở dưới ánh trăng tròn đến đây trong khoảnh khắc tao có toàn quyền hưởng lạc. Tao hơn hẳn mày về khoa nói phét, lại có tiền và những thứ trong phòng này đồng thanh tương ứng, lừa các em như trở bàn tay.
– Tuy vậy, lời nói của tao cộng với sự mất mát về tiền của thì hiệu quả cao nhất cũng chỉ thoả mãn xác thịt với một em thôi. Khác với lời nói của bác có thể làm hàng vạn người bỏ mạng hoặc tan cửa nát nhà, hàng triệu người khốn đốn. Như thế sự bịp bợm của tao vẫn còn nhân tính.
– Tao và mày đối lập về nhân sinh quan nhưng chúng ta vẫn ngồi chung bàn trà, bàn tiệc. Còn “Bác”có máu Thương quân, theo Pháp gia của Hàn phi Tử, ai khác chính kiến“Bác”ra lệnh thủ tiêu hoặc bỏ tù. Bầy tôi của“Bác”một số có học vấn, còn lại là những Dizma, những Đông quách tiên sinh. Do vậy“Bác”có toàn quyền thực thi máu Thương quân. Sau này, nếu miền Nam vào tay Cộng sản thì tính cách và máu Thương quân của“Bác”đóng vai trò quyết định
– Lời tuyên bố “làm Hà nội trong sáng như pha lê” của bác, tao là người ngoài cuộc, còn mày là mục tiêu bị tấn công. Nếu trời phù hộ bác để lời nói trên trở thành hiện thực thì phải có vài chục vạn người Hà nội là hàng xóm của các dân tộc ít người. Người bác cho ở lại thủ đô là người đỏ hay ít ra cũng có cảm tình với đỏ. Người bác tống đi là đám dân đen bao gồm các thành phần tư sản, nguỵ quân, nguỵ quyền, theo đạo thiên chúa… và những người thợ thủ công, những người buôn thúng, bán mẹt kiếm ăn lần hồi từng bữa. Cái gọi là “nhân dân lao động”không phải bác kéo xe ba gác, bác đạp xích lô hay chú bán kem rong.“Nhân dân lao động” là những người được dán nhãn hiệu đỏ, trong đó có những tên chỉ bầy mưu tính kế hành hạ, đoạ đầy con người, những tên cai ngục, những ông giám đốc béo phệ, những bà cửa hàng trưởng to như thùng phuy chứa mỡ, những con cá ngầm khoác áo dân thường lẩn vào đám đông, các rạp chiếu bóng, các câu lạc bộ, các thư viện, các công viên, các cửa hàng ăn, các quán cà phê giải khát… Chúng chui rúc vào ngõ ngách các xóm tiêu điều, xơ xác để nghe ngóng từng hơi thở của con người. Tiếng thở dài cũng là mồi của cá. Bởi vì buồn chán cũng là một tội của thời đại bác.
– Người dân trong thời đại này một cổ nhiều tròng. Một đêm vắng nhà không trình báo bị gọi lên đồn nghe lời cảnh cáo, một buổi bỏ quên họp tổ dân phố bị ban đại biểu đến nhà doạ dẫm. Bà tổ trưởng dân phố không ưng dễ sinh tai biến, ông công an hộ tịch ghét dễ bị khoá tay đưa đi cải tạo. Cô nhân viên cửa hàng lương thực mếch lòng thì suốt năm ăn gạo mục:

Phen này quyết vào ngành thương nghiệp
Vừa chửi vừa câm cũng đắt hàng.
– Là công nhân, nếu không chiều chuộng, cung phụng tổ trưởng sản xuất thì bao giờ mới được lên lương. Gặp giám đốc nếu quên chào một vài lần, cái chắc không thể nào ngóc đầu lên được.
– Ma quỷ làm người yếu bóng vía mất tinh thần nhưng bác cưỡi lên đầu ma quỷ ai mà chẳng sợ! Nhất là tội không nghe theo đảng đến ma quỷ cũng phải hoảng hồn. Chuyện kể rằng, ở một nghĩa địa nọ lũ ma quỷ đang tụ tập đông vui, đến một mùa thu năm ấy bỗng xuất hiện một con quỷ đỏ, nghĩa là thân thể, mặt mũi, tay chân đều đỏ. Quỷ đội mũ vàng, vành mũ xoà ra năm cánh. Áo của quỷ cũng màu đỏ, trên ngực thêu hình búa liềm cũng màu vàng. Quỷ đỏ lên tiếng quát:
– Từ nay, bọn mày phải về địa ngục.
– Ngài là ai mà dám ra lệnh ghê gớm thế? – Ma quỷ đồng thanh hỏi.
– Tao mang pháp luật ở bên tây về thống trị vùng này.
– Pháp luật của tây, bọn tôi không sợ – Ma quỷ la ó – thằng tây chỉ ức hiếp được đám dân đen, có dám động đến quỷ thần đâu?
– Chúng mày im đi để tao nói đã. Tao học được pháp thuật thần thông quảng đại, biến hoá khôn lường trước hết chống bọn mũi lõ, mắt xanh xâm lược.
– Sư phụ của ngài giỏi bằng tổ sư Bồ đề dạy Mĩ hầu vương không? – Ma quỷ hỏi.
– Gấp hàng trăm lần, học trò của sư phụ tao rồi đây sẽ thống trị toàn thế giới.
– Quý danh của ngài là gì xin cho biết – Một con quỷ hỏi.
– Tao nhiều tên lắm, tụi bay không cần biết. Bọn dân đen sẽ phải gọi tao là bác.
– Ngài làm được gì mà bắt người ta tôn trọng thế? – Ma quỷ nhao nhao hỏi.
– Rồi đây tụi bay sẽ biết. Chữ bác còn có ý nghĩa sâu xa mà tụi bay không hiểu nổi.
– Ngài nói đi cho chúng tôi biết với – Bọn ma quỷ đề nghị.
– Máu + ác = bác – Quỷ đỏ giải thích.
– Không đúng, không đúng, tổng số phải là cái gì khủng khiếp chứ không thể thành bác được?
– Tụi bay vô học ngu lắm. Về hoá học có thể coi đây là hợp chất của hai nguyên tố độc hại như muối ăn chẳng hạn. Còn nghĩa khác là máu tượng trưng cho màu sắc của tao, B là phụ âm đầu của blood, tiếng anh là máu. Do vậy, B + ác = bác có đúng không?
– Đúng lắm, đúng lắm – Lũ ma quỷ vỗ tay tán thưởng.
– Chưa hết – Quỷ đỏ tiếp – B còn là phụ âm đầu chủ nghĩa của sư phụ tao. Bọn tư sản phương Tây chống sư phụ tao bằng bốn chữ B.
– Như thế nào xin ngài cho biết với – Bọn ma quỷ hỏi.
– Chống bốn chữ B là: Bolshevism is bloodthirsty, brutal and barbarous (chủ nghĩa Bôn sê vích khát máu, dã man và tàn bạo ) – Quỷ đỏ trả lời – còn ở vùng này sẽ có những đứa dân đen chống tao bằng năm chữ B.
– Ngài có làm ruộng đâu mà thêu hình chiếc liềm trên ngực? – Một con ma hỏi.
– Liềm để gặt cuộc đời bọn dân đen dám chống lại tao.
– Còn búa?
– Búa để đập phá tất cả, trong đó có miếu thờ tụi bay, chùa chiền, nhà thờ để thờ Phật và thần thánh.
– Ngài độc tài thế, không cho chúng tôi chung sống được à?
– Tao không độc tài mà chuyên chính. Mặt khác phép thuật của sư phụ tao là chủ nghĩa vô thần, phủ định sự tồn tại của tụi bay và thần thánh. Có thế mới lừa và thống trị được bọn dân đen. Bây giờ tụi bay mau mau về địa ngục.
Nghe quỷ đỏ nói, lũ ma nhút nhát vội bỏ đi ngay, còn mấy con quỷ cứng đầu, cứng cổ, bán tín, bán nghi chần chừ ở lại. Chúng thấy quỷ đỏ biến thành một ông thánh sống tuôn ra những lời như nhả ngọc phun châu, dưới có bọn đồ đệ khắp miền tiền hô, hậu ủng, đám dân đen răm rắp phục tùng và kính nể. Cùng nhau nổi dậy đuổi mấy thằng tây về nước. Họ gọi thánh sống vừa là “Bác”, vừa là cha già. Lúc này thánh sống mới vung liềm ra gặt hái, bội thu nhất là vụ cải cách ruộng đất. Vung búa ra đập phá, trước hết là nền văn hiến và đạo đức.
Sợ quá, bọn quỷ còn lại trên nghĩa địa vội cuốn gói về quê quán nhưng địa ngục đã chật ních những hồn ma mới. Chúng đang than khóc và an ủi nhau, nơi đây còn ít cực hình hơn cõi thế.
Thật vậy, nếu bác bảo chú ngựa có ba chân, đố đứa nào dám cả gan cãi lại! Những người mắc bệnh Dương tu được đưa vào bệnh viện Hoả lò điều trị. Không kể năm tháng, các bác sĩ và hộ lý ở đây tận tình cứu chữa bệnh nhân. Ai mắc bệnh nặng được đưa đi bệnh viện đặc biệt chữa khỏi hoàn toàn với thời gian rất ngắn, nghĩa là…
Thôi chết rồi, tao dẫn mày đi lung tung quá! Mày thông cảm, tuy tao nói lộn xộn chẳng có chủ đề gì nhưng đều là những hiện tượng có thật của thời đại“Bác”. Tại sao mày cứ sống thật thà để chịu khổ mãi? Cuộc đời ngắn ngủi như một giấc mơ, mày hãy bỏ cái nhân cách của mình, coi tao như một người anh em chí thiết; Trước hết tao sẽ giúp mày biết cái lạc thú đê mê, đừng có sĩ diện hão huyền mà từ chối. Biết đâu, ngày mai cuộc đời mày sẽ kết thúc bởi một trái tim oan nghiệt lúc đó linh hồn mày sẽ hối tiếc và căm giận những vòng hoa trắng! Mày và thằng Khoa nữa lạc lõng với sự đời như Donquichotte, không thức thời bằng các cô gái, xem ra các em hiểu hiện sinh hơn chúng mày nhiều.

Chính chuyên chết cũng ra ma
Lẳng lơ chết cũng đưa ra ngoài đồng.
Các em không oán giận gì tao, còn cho rằng sự lừa bịp của tao dễ chịu, nếu không nói là mốt hiện sinh kỳ diệu. Các em còn tôn xưng tao là đồ đệ của jean paul santre. Việc gì phải bắt chước Khuất nguyên lấy cái nhân cách soi xã hội để ôm hận vào lòng. Mày phải nhớ rằng, “Bác”chôn vùi cái ngũ thường đã từ lâu, phải chăng chỉ còn lại chữ tin tuyệt đối dành cho đảng?….
Trung tuần tháng 11 – 64, tôi đến nhà Nghệ, anh khoe cách đây hơn một tháng xảy ra một chuyện thương tâm. Nghệ kể:

– Đêm đã khuya, tao sắp đi ngủ thì anh ở số nhà bên sang nói với tao, có một bông hoa đẹp mê hồn nhưng hơi
xưa một chút, cậu có dùng không? Anh chỉ lấy giá hữu nghị thôi.
– Anh nhặt được ở đâu? – Tao hỏi.
– Lúc nãy, cô ấy dắt thằng con đến trước cửa nhà anh ngồi, có lẽ định ngủ nhờ ở đó. Anh toan đuổi đi nhưng khi nhìn thấy mặt, nhận thức ngay rằng một con mồi hay đây. Thế là anh bảo Dung (em gái) gọi cô ấy vào nhà cho ngủ nhờ để biến thành một món hàng kiếm chác thêm chút ít. Bây giờ cậu xuống mà xem.
Tao lẽo đẽo theo anh hàng xóm về nhà. Nhìn cô ta phải đến gần ba chục tuổi, đẹp ơi là đẹp. Khi còn trẻ, nếu thi sắc đẹp, cô ta phải chiếm vương miện hoa hậu chứ chẳng chơi. Tao nghĩ, tuy có đẹp nhưng tội gì mình phải chơi đồ cổ.
Tao lắc đầu, bỏ ra về.
Sáng hôm sau, anh hàng xóm gặp tao kể lại:
– Sau khi cậu không ưng, anh tìm được khách xộp, thoả thuận năm mươi đồng cả đêm. Lão già vớ được con mồi này còn say mê hơn mèo thấy mỡ. Chẳng nói, chẳng rằng lão xô vào cô ta như nuốt sống ăn tươi nhưng lão vô duyên quá, bị cô ta chống trả quyết liệt, chẳng xơ múi, còn bị ngã sưng vêu cả đầu. Mất ăn, anh bực quá giơ thẻ đỏ đưa cô ta về khu với tội gái mại dâm bị bắt quả tang, đầu tóc, quần áo còn rối tung, xộc xệch làm bằng chứng. Thằng con của cô ta sợ quá chạy ra đường phố.
– Anh hàng xóm là cá ngầm à? – Tôi hỏi.
– Chứ còn gì nữa! Tay cá ngầm nói thêm, đưa cô ta lên khu, lại có một trung uý người cùng quê. Cô ta còn mắc tội giả mạo giấy tờ, man khai họ, tên và địa chỉ quê quán để cư trú bất hợp pháp ở Hà nội.
Nghe Nghệ nói, tôi giật mình sửng sốt. Chị Bích Hằng lại chịu một tai hoạ mới. Tôi nói:
– Con người chịu nhiều đau thương, tủi nhục ấy cùng làm với tao trước ngày sáp nhập hợp tác xã.
– Thế thì muộn rồi, nếu biết trước tao giải thoát cho chị ấy như chơi. Tay cá ngầm này hung ác, nham hiểm với người khác, còn với tao hắn ngoan ngoãn như một con cừu. Rất tiếc là chị ấy không có tiền hoặc tài sản gì để chịu tội thay người. Nghệ nghêu ngao:

Trong tay sẵn có quyền, tiền
Dù lòng đổi trắng thay đen khó gì?

* *

*
Giữa tháng 12 năm ấy, tôi và Khoa sang Dốc lã đào đất, họ xây kho ngầm để tránh máy bay Mỹ oanh tạc, mỗi ngày công được một đồng sáu hào. Ban ngày làm việc, ban đêm chui vào nhà kho ngủ, dầu đèn chẳng có. Nơi đó hẻo lánh muốn uống chén trà cũng khó. Sau một tuần, chúng tôi bỏ về, đi nhờ ô tô tải đến phố Nguyễn Thiệp uống trà. Và sau đó tôi rủ Khoa về chùa Đức vua ngủ. Đầu phố Nguyễn Thiệp giao nhau với phố Nguyễn trung trực là bậc lên bến Nứa, phía trên có một cô gái gọi:
– Các anh ơi, đi chơi với em!
Nhác trông qua ánh điện lờ mờ, tôi thấy cô gái còn rất trẻ và hình như tôi đã gặp một lần. Khoa ghé vào tai tôi nói nhỏ:
– Gái làm tiền đấy!
– Phải rồi nhưng tao thấy quen quen.
– Mày thích à?
– Thì có sao, gỗ đá đâu, ai mà chẳng thích?
Nghe tôi trả lời, Khoa tỏ vẻ bực mình, quay về phố Nguyễn thái Học. Tôi bước lên bậc đến gần cô gái, người tôi bỗng run lên, phải chăng con người của thú tính trong tôi đã vùng lên và chiến thắng?
– Năm đồng nếu máu thì chi ngay – Cô gái nói.
Trong túi tôi cũng còn vừa đủ năm đồng, tôi lấy tiền đưa cho cô gái.
– Anh đưa em về nhà là an toàn hơn cả – Cô gái nói tiếp, sau khi bỏ tiền vào túi dắt cạp quần.
Nhìn lại cô gái, tôi chợt nhớ ra và bật kêu lên:
– Em là Nga, con bác Hiền phải không?
– Sao anh biết? – Cô gái hỏi, vẻ hoảng hốt.
– Xưa kia anh cùng làm với mẹ em ở phố hàng Buồm. Một lần anh đến thăm nhà thấy ảnh em treo trên tường.
– Anh ranh mãnh đấy, nhìn ảnh mà nhận ra người.
Dẫn Nga đến bờ đá trước cổng chùa Đức vua, tôi hỏi:
– Nga có biết gia đình em mới đây thế nào không?
– Biết cả rồi, thương mẹ, em đã về nhà.
– Tại sao em phải kiếm tiền bằng…
– Thôi, thôi ông anh ạ – Nga nói cướp lời – việc gì phải tò mò thế? Đơn giản đêm nay em là vợ của anh.
– Nga đừng nói thế, thành thực anh rất thương bố mẹ em và cả em nữa nên anh muốn biết.
– Thôi được, anh quan tâm đến gia đình em, em xin nói. Năm nay em mười bảy tuổi. Xuất thân từ một gia đình giáo học, em cũng biết mình phải làm gì để khỏi nhục đến bố mẹ. Nhưng xã hội không đơn giản như ý nghĩ của mình, hoàn cảnh gia đình em như anh đã biết, bố ở nhà, anh Hưng vào tập thể nhà máy rồi đi bộ đội, một mình mẹ em chạy chợ trong lúc họ đang ngăn cấm thì nuôi sao nổi được cả nhà? Do vậy, bằng mọi cách em phải tìm việc để làm. Đầu năm em gặp một người là bí thư đoàn thanh niên lao động của một nhà máy. Anh ta nói:
– Anh có uy tín với cơ quan nên xin việc cho em chẳng khó khăn gì nếu em là người yêu của anh.

Em nghĩ, kinh tế gia đình em đang cùng quẫn, cần phải có việc làm ngay để kiếm sống. Nhìn anh ta cũng được, hơn em kh
oảng gần chục tuổi, em đã nhận lời yêu. Thời buổi này, khi đã yêu phải trao thể xác. Thực tế, em đã làm vợ hắn gần hai tháng. Sau khi thoả mãn về tình dục, hắn lật lọng:
– Bố em là công chức lưu dung, nhà máy không nhận. Từ nay anh không dám yêu em nữa.
Về sau em mới biết, hắn đã có vợ con. Ai cũng nói đẹp nhất là mối tình đầu, đối với em sao lại tàn nhẫn, ghê tởm thế? Vì nôn nóng có việc làm dẫn đến một mối tình vội vàng, lừa đảo. Khi trinh tiết đã bị người ta lừa dối cướp đi thì tâm hồn em còn gì là trong trắng nữa. Em coi cuộc đời là tội lỗi, xấu xa.
Kế đó, bạn học em có người nhà là trưởng phòng tổ chức một công ty. Nó dẫn em đến nhà ông ta để xin việc. Ông ta ở một mình một phòng, vợ con ở quê. Ông ta nói:
– Cháu làm hồ sơ, chú sẽ giúp.
Vài ngày sau, em mang giấy tờ đến, bạn em bận không đi cùng. Ông ta vui vẻ trả lời:
– Có thể tuần sau cháu sẽ đi làm.
– Được chú giúp đỡ, cháu sẽ suốt đời mang ơn chú – Em vui mừng quá, nói giọng nghẹn ngào.
Sau đó, ông ta đi đóng cửa lại và nói:
– Chú chẳng cần mang ơn mang huệ. Bây giờ cháu cho chú cái gì chứ?
Em ngơ ngác trả lời:
– Nhà cháu nghèo lắm, chú thông cảm.
– Không phải tiền của đâu mà cháu ấy chứ.
Em hiểu ý và thoáng nghĩ, cũng liều nhắm mắt…
Em liền gật đầu. Tuổi đã ngoại tứ tuần, xem ra hắn còn máu mê gái lắm. Một giờ hắn diễn hai hiệp, hùng hục như trâu húc mả.
Tuần sau em đến nghe kết quả, hắn trả lời:
– Bố cháu là công chức lưu dung, ai dám nhận.
Thôi cũng đành, em nói với hắn:
– Chưa chi đã vội ăn hối lộ, chú phải trả tiền.
– Bao nhiêu? Hắn hỏi.
– Cứ mỗi lần một chục.
Nghe bạn em nói, thằng cha này Grandet với vợ con lắm nhưng với em thì ngược lại. Không một giây lưỡng lự, hắn đưa em ba chục và tiếp một lần nữa. Sau đó, hắn cho em ăn bánh bích quy và uống Sirô đá. Mới có hơn nửa giờ mà hắn đã lên cơn sốt khác, mắt hắn hau háu nhìn em. Em giả vờ về, hắn kéo em lại, nói:
– Ngồi chơi đã, về làm gì vội?
– Cứ sòng phẳng là xong béng – Em nói.
Hắn đưa tiếp cho em một tờ đỏ và nói:
– Đến giường nằm đã, vội quá mất hay.
Em lên giường nằm khểnh, giả vờ ngủ. Hắn đến nằm bên cạnh, mắt nhắm lại mơ màng gì đó? Em nghĩ, con quỷ dâm dục này muốn kéo dài thời gian để cơn sốt bốc lên cao mà tận hưởng đây. Em liền giục:
– Làm cho xong để còn về chứ!
Hắn ngoan ngoãn phục tùng. Xem ra, hắn còn say đòn lắm, khi em về, hắn hẹn hãy đến chơi luôn. Đang thiếu tiền như cây phơi dưới nắng hạn cần mưa, em đến với hắn liên tục. Thế mà cơn sốt của hắn chẳng hạ xuống chút nào, có lẽ hắn đã nghiện gái như người nghiện phiện. Cũng lạ, sao hắn nhiều tiền thế? Có lẽ hắn ăn hối lộ hoặc tham ô, hơn nửa tháng chiến đấu không ngừng, hắn vẫn có tiền chi đều đặn. Chẳng những thế, hắn vẫn tỏ ra dẻo dai, bền bỉ, tính chiến đấu lại càng quyết liệt hơn.
Rồi một hôm, hắn đi vắng. Nhà hắn có một mụ đầu vấn khăn, răng đen, mặc áo nâu, quần vải đen, da cháy nắng, già hơn hắn nhiều. Chắc đây là vợ hắn, làm em chột dạ. Em nghĩ, vợ thế này, lại nhiều tiền, chết với gái là đáng lắm.
Mụ sấn sổ đến, nắm tay em, hỏi:
– Cháu hỏi ai?
– Cháu…cháu đến… – Em đang ấp úng thì mụ quát phủ đầu:
– Thôi đúng rồi, mày đến quyến rũ chồng bà.
Bất ngờ em hất mạnh tay làm mụ ngã và em bỏ chạy. Nghe đâu mụ đến cơ quan chồng rêu rao om xòm, làm thằng cha trưởng phòng này bị một phen kiểm điểm vỡ mày, vỡ mặt. Đây là giai đoạn cái mở đầu mà anh muốn hỏi.
Ngừng vài giây, Nga hào hứng kể tiếp:
– Anh ạ, xã hội hiện nay chán vạn điều xấu xa bỉ ổi. Nghề của em tuy mất nhân phẩm, ảnh hưởng đến thanh danh của gia đình nhưng thuận mua, vừa bán chẳng làm hại ai, còn tốt hơn nhiều lần việc làm của bọn tai to, mặt lớn. Anh có thể tin rằng, đồng tiền của gái mại dâm còn bị trấn lột không? Điều đó lại là sự thật, em kể cho anh nghe nhé. Tối hôm ấy, trên đường Cổ ngư, một thằng nhãi ranh, ít tuổi hơn em, cứ lằng nhằng theo sau hàng giờ và nói:
– Em ơi, anh chỉ có hai đồng thôi, cho anh chơi nhé, cùng là tuổi trẻ nên hữu nghị với nhau chứ?
– Em nghĩ, nếu không cắt cái đuôi này khó mà làm ăn được. Em ra lệnh:
– Đưa tiền đây, hai đồng chỉ được chơi dựa cây vài phút thôi đấy nhé!
– Nhất trí – Nó ngoan ngoãn phục tùng.
Của đáng tội, chú tân binh chưa tập sự lần nào, chẳng đâu vào đâu, mục tiêu không bắn, vội vã nhả đạn vung vãi ra ngoài. Thương hại chú ngựa non háu đá chẳng nên trò trống gì, em trả lại tiền và bảo:

– Này, trả lại tiền cậu ấm, chị ái ngại cho c
hú quá.
Tiền đầu bất lợi, em chán nên bỏ về. Giữa đường thấy một chiếc Volga dừng lại, một lão già trong xe ra. Lão ngoài năm mươi tuổi, mặt phương phi, người to béo, diện bộ complet đen. Em thoáng nghĩ, cốp đây, chài được lão này mới bẫm. Em đi sát vào lão và hỏi:
– Bác già có máu không?
Tức khắc lão vỗ vai em, hỏi:
– Chơi chứ, bao nhiêu?
– Năm chục một lần.
– Được – Hắn nói nhỏ – nhà tôi ở gần đây, vào im lặng nhé.
Lão dẫn em vào, nhà lão là biệt thự hai tầng, có nhiều phòng. Thấy động, có tiếng đàn bà hỏi:
– Anh về đấy à?
– Phải – Lão trả lời – Anh khoá cổng cho, em không phải dậy nữa.
Lão dẫn em vào phòng làm việc, chỉ có bàn ghế, mấy tấm thảm và một tủ hồ sơ to. Lão bật đèn ống sáng trưng. Em cứ tưởng lão cũng hùng hục như thằng cha trưởng phòng bữa nọ, nhưng cách chơi của lão rất tân kỳ. Lão lột hết quần áo em, xoay ngược, xoay xuôi đủ mọi trò. Không phải“vành trong tám nghề” mà đến mấy chục kiểu. Có lẽ lão uống thuốc hãm nên cái ấy của lão cứ trơ trơ hàng giờ. Tưởng được món hời, béo bở, không ngờ thành cuộc tra tấn làm em phát sợ. Chắc thấy lâu không đi ngủ, vợ lão gọi, tiếng nói nghe còn trẻ và có vẻ nũng nịu:
– Anh làm gì mà thức khuya thế?
– Em ngủ trước đi, anh còn phải duyệt lại bản báo cáo để ngày mai đến văn phòng bộ.
Đến lúc đó, có lẽ thấy không an toàn, lão mới tháo còng.
Cám ơn bà chủ nhé – em thầm nhủ – nếu không thì còn khổ với lão. Ra cổng, lão đưa tiền cho em và dặn:
– Thỉnh thoảng đến chơi nhé, nếu có ai hỏi thì nói là mới vào làm cơ quan tôi.
– Nếu hôm nay bà xã đòi vào thì bác đối phó thế nào? – Em hỏi.
– Không lo, một ngăn tủ bỏ trống, em mang cả quần áo, dép vào đó, tôi khoá lại là yên tâm.
Trên đường về em ngẫm nghĩ, lão già này chơi gái trẻ nhiều rồi. Chẳng những thế, để tăng thêm phần lạc thú, lão còn đọc nhiều truyện dâm ô, trác táng như vụ án phố Paris chẳng hạn để học tập cách chơi kiểu mới.
Anh thấy những người như khuôn vàng, thước ngọc của chế độ hành động tuyệt vời chưa?
Theo đường Phan đình Phùng về nhà, em tấp tửng mừng thầm tối nay chài được khách xộp. Từ hàng Bún đi ra, một trung uý công an, gã hỏi:
– Mày đi làm tiền phải không?
– Anh đừng bịa đặt, tôi từ nhà bạn về – Em bình tĩnh trả lời.
– Bây giờ gần một giờ đêm – Gã xem đồng hồ, nói – nhà bạn ở đâu dẫn tao đến? Nếu không mày phải về đồn.
Em định bỏ chạy nhưng sao thoát được nên cứ lủi thủi đi theo gã. Bụng nghĩ, gã sẽ giam mình tại đồn hàng Đậu. Có thể gã lập hồ sơ cho mình đi tập trung cải tạo cũng nên, chân tay em rụng rời mấy lần suýt ngã. May quá, đến đầu phố hàng Đậu, gã bảo em rẽ. Em thở phào nhẹ nhõm vì đoán chắc rằng thằng cha này cũng muốn tí đây. Phải hối lộ cho gã một vài lần mà thoát nạn thì may chán. Gã đưa em về nhà ở quá rạp Đại đồng. Gã sống một mình. Có lẽ gã sợ hàng xóm biết nên gã bảo em im lặng nghe theo gã, gã sẽ tha. Vào trong nhà, gã chốt cửa lại, chỉ bật một ngọn đèn ngủ màu đỏ lờ mờ. Hưởng lạc xong, gã lại dẫn em ra đường, đến trước rạp Đại đồng, gã ra lệnh:
– Có bao nhiêu tiền mày phải đưa cả đây?
– Anh chơi gái không mất tiền còn đòi gì nữa? – Em nói
– Mày vừa làm tiền với đứa khác, nếu không đưa, tao sẽ dẫn mày về đồn.
– Anh đừng vu khống, chỉ có anh chơi tôi thôi.
– Vừa chơi mày trong môi trường toan, tao còn lạ gì. Nếu trước tao, mày chưa làm tiền với ai, phải trong cái môi trường kiềm. Tao biết, đêm nay mày đã gặp một con quỷ dâm dục hoặc nhiều thằng rồi nên mới thế.
Em thoáng nghĩ, thằng cha này ranh ma thật. Em cũng lên gân doạ gã:
– Nếu đưa về đồn, tôi tố cáo anh.
– Mày phải biết, tao là đồn trưởng. Mày tố cáo có trời nghe. Tao vẫn tịch thu hết tiền và lập hồ sơ đưa mày đi cải tạo.
Em thầm nhủ, gã nói có lý, thôi để của đi thay người vậy. Em rút hết tiền đưa cho gã và vội vã về nhà. Anh thấy hành động của tên công an này ghê tởm đến mức nào chưa? Không biết các truyện Đông, Tây kim cổ có nhân vật nào ngang tầm với gã…
Nga kể lại, vẻ thản nhiên, không một chút e thẹn, ngượng ngùng. Giống như đài phát thanh đọc truyện đêm khuya, diễn cảm rất tốt làm tôi rợn người ghê sợ. Không còn cách nào cứu nổi tâm hồn tội lỗi này, tôi buồn bã nói:
– Em còn trẻ làm lại cuộc đời chưa muộn.
– Cảm ơn anh, đời em bị xã hội dồn vào ngõ cụt, thôi cũng đáng để trôi theo dòng nước đục. Đêm đã khuya, em không trả lại tiền anh đâu. Nhìn mặt em biết, anh còn trong trắng lắm. Hãy tìm nơi nào đó, cùng em hưởng chút mùi đời. Em thích công bằng và sòng phẳng.
Đau lòng chưa, Nga coi tấm thân mình như một món hàng để mua bán, cho thuê? Tôi ngần ngại nói:
– Em nói chuyện với anh như thế đã là sòng phẳng. Nếu còn tiền, anh phải chi thêm cho em mới là lẽ công bằng. Chúc em về nhà ngủ ngon.
Trên đường về, Nga còn nói với lại:
– Anh đừng hối tiếc nhé!
Tôi về dốc hàng Than, sắp bước xuống bậc vào chùa, trước mặt tôi, một xếp tiền loại giấy năm đồng gọn ghẽ.
Tôi nhặt tiền bỏ vào túi, ngẫm nghĩ, trời cho tiền mình tiêu tết đây. Nga đang đi xuống dốc, tôi toan gọi lại để cho Nga một nửa nhưng từ phố Nguyễn khắc Nhu một bà già đã đến gần, tay xách đèn bão, mắt nhìn xuống đường, vừa đi vừa rên rỉ:
– Con ơi, mẹ làm mất hết tiền rồi.
– Bà mất bao nhiêu ạ? – Tôi hỏi.
– Hỏi gì, mày xéo đi – Bà già nổi giận.
– Cháu hỏi bà để cháu biết, cháu sẽ tìm cho.
– Nếu anh nhặt được cho tôi xin lại – Bà già đổi giọng ôn tồn – tôi mất loại tiền năm đồng, hai mươi nhăm tờ.
– Cháu vừa nhặt được xin trả lại bà.
Bà già run lập cập, cầm tiền đếm lại. Bà nói:
– Đủ rồi, tôi cảm ơn anh, biều anh mười đồng.
– Thưa bà, cháu không lấy!
– Ô hay, anh này tốt bụng quá mà lại chê tiền à?
– Thưa bà, cháu rất nghèo, rất cần tiền nhưng không có lòng tham.
Bà già sung sướng quay về, bà đi nhanh như cô gái trẻ.
Năm ngày sau, tôi nhận được thư của Nga.
Ngày 27 – 12 – 1964.
Anh Tâm thân! Em nói với mẹ là tình cờ gặp anh ở phố. Nghe mẹ kể, em mới biết họ, tên và địa chỉ của anh. Mẹ khen anh nhiều lắm. Mẹ còn nói, khi xưa trong tổ hợp tác, nhiều người gán ghép anh là con rể của mẹ, chính mẹ cũng ước mong như thế. Nếu sự đời chiều theo ý nghĩ đó đã mang lại cho anh một vết thương lòng, một vết nhơ – Người yêu anh đã trở thành gái làm tiền ô nhục.
Anh Tâm! Sau khi gặp anh, ba ngày em không đi đâu cả, hồi tưởng quá khứ xót xa, ghê tởm và oán trách thân phận mình đã bước vào con đường tội lỗi. Trong lúc ngôi biên thư cho anh, em dám nói, con người của tuổi thơ, trong trắng đã sống lại trong em. Trước những hành động khác thường có một không hai của anh, trên đường về và đêm hôm ấy cũng như hiện nay em đặt nhiều câu hỏi: anh chê em hay lương tâm đã chiến thắng thú tính trong anh? Một chàng trai khoẻ mạnh,có thể chưa nếm mùi đời, ngồi bên đứa con gái trẻ đã thoả thuận trao thể xác mình, tại sao anh bỏ qua dễ dàng như vậy? Em hiểu, đó là tình thương và lòng cao thượng. Đáng tiếc những cử chỉ cao đẹp ấy quá nhỏ bé trong xã hội rộng lớn bao la, chồng chất những xấu xa, tội ác, không thể cứu vớt những người như em thoát khỏi kiếp phong trần.
Qua mẹ kể lại, em biết đời anh khổ lắm. Ngoài những đau thương mất cha, mất mẹ, anh phải trải qua muôn vàn nỗi gian nan, tủi nhục. Thế mà tâm hồn anh vẫn trong sáng, thuỷ chung. Bị trôi nổi giữa dòng đời nhơ bẩn,anh vẫn sạch, giống như một bông hoa vẫn toả hương thơm. Còn em thì hoàn toàn ngược lại. Em không đủ nghị lực và lòng dũng cảm để cuộc đời chìm đắm trong tội lỗi. Thôi, thế là hết rồi anh ạ, cũng một kiếp người. Gửi anh lời chào vĩnh biệt.
Tôi đang đọc thư của Nga thì Khoa đến, anh nói:
– Tối hôm nọ, tao rất bất bình. Về nhà, tao nghĩ lại, cái đẹp nhất của tuổi trẻ là tình yêu, mày đã bị dập vùi, có lẽ chỉ dám yêu thầm lặng – một tình yêu đơn phương thì cay đắng lắm, tao thông cảm với mày.
Tôi đưa thư của Nga cho Khoa đọc. Đọc xong, Khoa siết chặt tay tôi và hỏi:
– Con gái bác Hiền phải không?
– Đúng!
– Mày có nói với bác ấy không?
– Không nên, nếu nói lúc này là làm điều ác.
– Một tâm hồn trẻ thơ bước vào vòng tội lỗi – Khoa than thở.

1      2      3      4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét