HỒI HAI –
Hà nội
II Năm
năm nối tiếp
Lúc đó,
tôi đến nơi làm việc. Gần nửa đêm, cổng chùa đã đóng, bên trong mọi người đã tắt
đèn đi ngủ, tôi đứng bên ngoài gọi:
– Anh
Cương ơi, mở cổng cho em.
Gọi lần
thứ hai, anh Cương ra mở cổng và hỏi:
– Vâng,
sao anh biết?
– Nghe
ông Thanh nói, bà hàng Bạc ghét chú lắm. Bà bảo một đứa ngang ngược không chịu
ngoan ngoãn theo thời thế.
– Còn
anh?
– Qua tám
tháng làm việc ở đây, tôi thấy chú thông minh, trung thực, có một cuộc sống nội
tâm mãnh liệt.
– Em đến
để nhờ anh!
– Không
phải nhờ, anh coi chú như em, cầu Chúa ban phước lành cho chú.
Nghe câu
nói ân tình ấy, cảm động quá tôi không ngăn cản nổi dòng nước mắt. Tình thương
của người dưng nước lã này hơn hẳn anh chị, cô, bá tôi.
– Tại sao
chú khóc? – Anh Cương hỏi.
– Em khóc
vì lòng nhân ái của anh.
– Thế thì
chú hãy khóc nữa đi, khóc sẽ giải thoát được một phần đau khổ.
– Em
không bao giờ khóc hoặc van xin trước uy quyền và bạo lực, còn với tình thương
và lòng nhân ái thì… – Tôi nghẹn ngào nói.
Anh Cương
người nhỏ nhắn, cuộc đời ly hương từ thời trai trẻ. Quê anh ở Vĩnh bảo, Kiến
an. Hồi cải cách, thân phụ anh bị đi tù, tài sản gia đình bị cướp sạch. Khi đó,
thật may mắn, anh không có mặt ở quê hương nên thoát nạn. Anh có lòng thương
người và độ lượng. Thời gian trước, anh buôn thuốc lào ở Thường tín, có một ông
hàng xóm thường xuyên đến chơi, một hôm anh đi vắng, gửi nhà ông ta trông giúp.
Khi về thấy
ông hàng xóm đang mở tráp lấy trộm tiền, anh lặng lẽ đi chỗ khác để ông ta tự
do hành động. Tối hôm đó, anh giết gà làm cơm, mua rượu mời ông hàng xóm. Cuộc
vui sắp tàn anh nói, sống bên cạnh mà tôi không biết khó khăn của bác thì thật
là không tốt, tôi xin lỗi bác. Nay tôi biếu bác một số tiền nhỏ mọn. Nói xong,
anh đưa cho ông ta năm chục. Ông hàng xóm sực hiểu ra, khóc và nói, tôi mới là
kẻ xấu, đã làm một việc bỉ ổi. Ông không dám cầm tiền nhưng với lòng độ lượng,
anh Cương đã thuyết phục ông phải nhận. Hình ảnh ngài giám mục Mirielle xuất hiện
ở Việt nam trong thời đại mà sự hận thù và thú tính đang ngự trị xã hội. Tuy
nhiên, trước roi vọt của pháp luật rừng, anh không có gan chịu đựng.
Anh dẫn
tôi đến giường nằm. Gọi là giường cho hay là thế, thực ra là những tấm ván ghép
lại trên nền nhà. Anh lại nói:
– Người
công giáo chúng tôi có đức tin vào Chúa nên tư tưởng đấu tranh giai cấp của đảng
khó tiêm nhiễm vào tâm hồn những con chiên ngoan đạo. Trái tim họ vẫn rung cảm
trước chân lý, thương yêu, cứu vớt những người hoạn nạn.
Bốn đối
tượng của cách mạng hiện nay thì đối tượng thứ hai:“chống bọn phản động đội lốt
thiên chúa giáo”, thực chất nhằm vào những ngài linh mục, những tu sĩ và những
giáo dân ngoan đạo.
* *
*
Tổ hợp
tác làm thùng nước mắm có tên gọi 19–5 do ông Thanh làm tổ trưởng, sau khi ổn định
sản xuất thì ông ta có hành động xoay xở, lấy cắp sơn, gian lận giấy tờ để tham
ô dẫn đến mâu thuẫn, lủng củng.
Tổ ngừng
sản xuất để thanh lý và giải tán. Trong chùa, tổ hợp tác chỉ còn lại anh Cương
và tôi. Anh cư xử với tôi thân tình. Trong khối phố, kể cả ban đại biểu và bảo
vệ, nếu không xem sổ hộ tịch, tưởng tôi là em ruột của anh Cương.
Anh chuyển
sang nghề buôn giang ở chợ Bắc qua. Còn tôi, sau khi tìm kiếm nhiều nơi, anh
xin cho tôi làm trong tổ hợp tác kim khí phố hàng Buồm, đóng cổ phần ba trăm đồng.
Tổ hợp tác này, ông tổ trưởng hiền lành, nhu nhược, cách quản lý ông chẳng hiểu
gì, mặc cho xã viên làm được chăng hay chớ. Còn lại, đại bộ phận là các bà, các
chị, các cô không nghề nghiệp. Trước đây họ buôn thùng, bán mẹt, bán hàng rong.
Theo chính sách cải tạo tiểu thương của đảng, bắt họ phải bỏ nghề buôn bán tự
kiếm việc làm để sinh sống. Tổ sản xuất đồ chơi trẻ em cho công ty ngũ Kim cấp
một thường bán tại cửa hàng mậu dịch thiếu nhi bờ hồ Hoàm kiếm.
Buổi đầu
tôi đến làm, một bầu không khí buồn tẻ trùm lên phòng làm việc, ngoài những tiếng
búa, tiếng đập xen lẫn tiếng máy đột dập bằng tay xình xình mệt mỏi, thỉnh thoảng
lại xuất hiện tiếng thở dài não ruột. Hình như chẳng ai muốn nói với ai một lời
nào. Tôi được phân công cùng làm với một thanh niên, ít hơn tôi một tuổi – Khoa
có nước da trắng, dáng người khoẻ mạnh nhưng yểu điệu như con gái. Cặp mắt một
mí của anh lúc nào cũng như mơ màng, trĩu nặng nỗi ưu tư. Tôi hỏi:
– Bạn vào
làm ở đây lâu chưa?
– Mới được
vài tháng – Khoa lạnh lùng trả lời.
– Tình
hình làm ăn thế nào mà có vẻ không vui?
– Làm
không ra sản phẩm, không có lương, mỗi công tạm ứng năm hào ăn cầm hơi.
Tôi nảy
ra ý nghĩ, sản phẩm đồ chơi này đơn giản, ngoài khuôn mẫu, chẳng cần chuyên
môn, nghề nghiệp gì cao, chỉ cần khéo tay và biết xếp đặt hợp lý là có hiệu quả.
Tôi nói.
– Tay nghề
công việc này không quan trọng lắm, chủ yếu là khâu phân công việc cho từng người
và quản lý, chống cách làm việc nước chảy, bèo trôi.
– Ông
Khuê tổ trưởng bất lực lắm, rồi đến mất cả vốn góp cổ phần và giải tán.
Tôi nghĩ
phải bàn cách làm ăn với ông tổ trưởng. Nếu cứ thế này, tôi xin rút vốn. Ngay tối
hôm đó, tôi đến nhà ông Khuê ở phố Đồng xuân. Tôi yêu cầu ông phải làm và hưởng
lương theo sản phẩm. Một sản phẩm chia ra nhiều chi tiết, tính giá khoán cho từng
chi tiết. Tiền lương hàng tháng tính theo khối lượng và chất lượng sản phẩm cho
từng người.
Ông Khuê
nói:
– Làm như
vậy tính toán rất phức tạp. Mỗi lần làm lương phải tính hàng nghìn phép nhân và
cộng, kế toán không chịu nghe đâu.
– Tổ phải
trả cho ông kế toán bao nhiêu một tháng?
– Bốn
mươi nhăm đồng.
– Nếu bác
đồng ý, cho ông kế toán nghỉ việc, cháu sẽ làm tất cả, chỉ xin của tổ mười lăm
đồng một tháng.
– Số tiền
ấy cậu sống thế nào?
– Một
tháng cháu chỉ làm sổ sách, tiền lương ba ngày, còn lại trực tiếp sản xuất.
– Tính
theo sản phẩm, cậu có làm cả tháng chưa chắc đã xuôi, cậu nói ba ngày sao cho
được?
– Bác cứ
yên tâm, ba ngày đối với cháu là còn thời gian ngồi chơi, xơi nước chứ chẳng vội
gì. Cháu tin rằng, cách thức làm việc này sẽ có hiệu quả, mau ổn định và lương
sẽ tăng dần.
Ông Khuê
đồng ý, cách làm và hưởng theo sản phẩm được tiến hành ngay. Ngày đầu, hết giờ làm
việc, hơn hai chục người khai số lượng chi tiết sản phẩm với tôi, không thấy
tôi ghi chép, họ thắc mắc:
– Anh
không ghi vào sổ theo dõi sản phẩm là thế nào?
– Các
bác, các chị không lo, cháu đã ghi vào đầu còn chắc hơn ghi vào sổ.
Nhiều người
không tin:
– Của người
nào người ấy nhớ còn khó, anh làm sao nhớ nổi sản phẩm của mấy chục người ngày
này qua ngày khác.
– Nếu
cháu nhầm của ai cứ xin của bụt mất một đền mười.
Đến kỳ
giao hàng, tính lương, tôi nói số lượng sản phẩm của từng người làm trong ngày
và tổng số. Lúc đó họ mới tần ngần hỏi tại sao tôi có trí nhớ kỳ diệu thế? Điều
đó tôi cũng không hiểu nổi, chỉ đơn giản là những gì cần nhớ hay học thì nhớ
mãi.
Sau hai
tháng, từ chỗ không lương đã đạt tới mức lương trung bình bảy mươi đồng một
tháng. Không khí làm việc đã thay đổi, mọi người vừa làm, vừa nói chuyện râm
ran, vui vẻ. Họ cởi mở, mỗi buổi đến chỗ làm tay bắt, mặt mừng, không còn cảnh
đưa đám như trước nữa. Từ đó, tôi chiếm được sự ưu ái của nhiều người.
– Tôi
không ngờ cậu có khả năng như vậy – Ông Khuê nói.
– Thưa
bác, công việc đó cũng bình thường thôi. Rất tiếc cháu là loại người cùng đinh
không được làm những công việc lớn.
– Nếu
không có cậu, có lẽ tổ phải giải tán.
* *
*
Người
thân với tôi sớm nhất là Khoa. Bà ngoại anh là tư sản, hàng chục ngôi nhà bị
nhà nước quản lý. Sau này kinh doanh thua lỗ vì thuế cao nên cửa hàng nhà anh
đóng cửa, kinh tế sa sút mau chóng. Bố mẹ Khoa không hoà thuận.
Do nhạy cảm,
thức thời, ông chán ghét chế độ mới, còn bà lại tin tưởng hão huyền. Như mặt
trăng với mặt trời không thể tồn tại cùng một nơi, thân phụ Khoa về quê ở Bắc
giang sống một mình. Khoa hợp tính bố, thông minh nên sớm nhận biết những bất
công, tội ác của chế độ. Từ đó anh và thân mẫu cũng trở nên xung khắc. Thân mẫu
Khoa, một người đàn bà lắm điều hay chấp vặt. Chị Khoa hiền lành nhưng em gái
sát Khoa nghe theo mẹ, Mai phấn đấu trở thành đoàn viên thanh niên lao động. Do
vậy, gia đình Khoa chẳng mấy lúc yên vui. Anh học hết cấp hai, do kinh tế gia
đình khó khăn phải bỏ học để đi kiếm sống. Khoa có tâm hồn thơ từ thuở nhỏ, năm
mười hai tuổi.
Lần đầu,
rủ tôi ra cửa hàng Thuỷ tạ uống cà phê, Khoa hỏi:
– Mày có
nhận xét gì về tao?
– Lạnh
lùng với mọi người, có lẽ mày nhìn cuộc đời u ám lắm?
– Mày nhầm
rồi! Không phải thị lực tao kém nhìn màu hồng hoá màu đen mà sự thực cái xã hội
này là u ám. Tsernưsheski nói:“Cái đẹp là cuộc sống”, xưa kia tao tán thành
quan điểm ấy, nếu không có cuộc sống thì còn gì là cái đẹp?
Tao yêu
cuộc đời hơn ai hết, yêu mọi người, yêu thiên nhiên: bầu trời, trăng, gió và
hoa.
Tao thường
vào làng Ngọc hà để ngắm hoa và mơ ước cuộc đời cũng đẹp như những bông hoa
đang nở. Có một lần, tao mua được mấy bông hoa đẹp nhất trong một vườn, mang về
cắm vào bình đặt trên bàn để chiêm ngưỡng. Bố tao ra phố về nhìn thấy, người
quay mặt đi và thở dài. Lạ lùng chưa, người nhìn hoa không thấy vui mà buồn?
Tao hỏi:
– Bố
không yêu hoa à?
– Có chứ,
hoa là sản phẩm của thiên nhiên bao giờ cũng đẹp luôn quyến rũ lòng người.
– Thế thì
tại sao thấy hoa, bố lại thở dài?
– Nhìn
hoa đẹp, bố lại chạnh thương đến các con. Bố linh cảm thấy tương lai của các
con không đẹp mà xấu lắm.
– Tại sao
vậy bố?
– Con còn
non dại, rồi sẽ biết. Bố không muốn con biết sớm. Biết nhiều, biết sớm là buồn
trước tuổi đấy con ạ!
– Con chỉ
muốn biết qua loa thôi?
– Ngày
nay, người ta yêu máu và nước mắt hơn yêu hoa. Thậm chí có những kẻ sung sướng
trên máu và nước mắt của con người. Thôi nhé, con đừng hỏi thêm bố nữa. – Người
ra lệnh.
Tao đành
im lặng, nhưng cũng từ đó tao băn khoăn lo lắng. Mùa xuân năm 1956, người đưa
tao về quê bằng xe đạp. Hôm ấy là ngày mười rằm tháng giêng âm lịch. Bóng chiều
ngả dài mới đến đầu làng, tao thấy một biển người trên một bãi rộng đang hò
hét, hoan nghênh và đả đảo ầm ầm. Bố tao bảo, họ đang đấu tố và sắp hành hình“địa
chủ cường hào gian ác”. Một cô gái trẻ đẹp để gánh hoa bên đường, toàn là hoa đẹp:
những bông hồng đỏ tươi rực rỡ, glaieulle trắng muốt, cúc vàng…không ai thèm
ngó tới. Bố tao hỏi cô hàng hoa:
– Cháu
không bán được à?
– Nay là
tết Nguyên tiêu, cháu tưởng…, không ngờ, người ta đi xem bắn người nên hoa cháu
ế. Cô hàng hoa buồn thỉu trả lời.
– Thế đấy
cháu ạ, xem máu chảy, nước mắt rơi còn thích hơn ngắm hoa chứ – Nói rồi người
mua mở hàng mỗi thứ một bông.
Thời gian
sau đó, cửa hàng nhà tao đóng cửa. Bố mẹ tao thường xuyên nặng lời: một mặt vì
kinh tế gia đình sa sút, mặt khác vì quan điểm xã hội đối lập. Ngày về quê ở,
người bảo tao: – Xa các con, bố thương nhớ lắm nhưng ở đây không chịu nổi. Con
nhớ thỉnh thoảng về thăm bố. Mỗi năm người cũng ra chơi vài lần nhưng chỉ một
vài ngày lại về quê. Hoàn cảnh gia đình lại khó khăn, li tán thì vui sao được.
Và cũng từ đó tao phải quan sát cái xã hội này thận trọng, rồi đi đến nhận xét:
Hegel có lý khi cho rằng, cái đẹp chỉ tồn tại ở thế giới bên kia.
Đến nhà,
Khoa cho tôi xem tập thơ đầu của anh, trang đầu tựa mấy vần:
Ta là thi
sĩ hoài phong
Là người cùng khổ trong lòng Hugo
Đường đời gai góc gió mưa
Hoa tàn, lá rụng xác xơ tơi bời.
Chân vững bước, mắt sáng ngời
Tâm hồn thâu cả đất trời thành thơ.
Kế tiếp
là những bài thơ yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp của núi non hùng vĩ, yêu dòng
sông Thương… Đến những bài thơ buồn da diết trong cảnh chia ly. Nỗi buồn không
lối thoát của một chàng trai đầy mộng ước nhưng phải sống trong một xã hội như
ngục tù. Cái đẹp của cuộc đời là máu hay hoa?
Cuối tập
thơ là những bài về tình yêu và nước mắt, nổi bật nhất là bài đôi trai gái chia
tay nhau vì giai cấp tính và sự ép buộc của xã hội để chàng trai bất hạnh mang
trái tim chứa đầy máu nóng xuống tuyền đài.
Sau đây
là những trang nhật ký của Khoa năm 1961.
Ngày 3 tháng
1. Tôi đọc Thép đã tôi thế đấy của Atrôpsky. Đọc xong, tôi ngẫm nghĩ, Pavel ơi,
ngươi bị lừa rồi. Cuộc đời ngươi đã chiến đấu và làm việc hết mình, chẳng phải
để giải phóng cho ai. Ngược lại, chỉ để bảo vệ ngai vàng của tên bạo chúa
Stalin. Hàng triệu vật hy sinh như ngươi chỉ kéo dài thêm cái thảm hoạ cho nhân
loại – thảm hoạ Cộng sản.
Ngày 8
tháng 1. Buổi tối tôi mượn được tập truyện Một anh hùng thời đại của Lermontov.
Tôi ngấu nghiến cả đêm đến sáng thì hết tác phẩm này. Vì Pessorine có cách nhìn
cuộc đời giống như tôi: đen tối, phũ phàng và tội ác. Tuy nhiên, anh sống ở xã
hội Nga vào thế kỷ thứ 19 không đau thương, lừa lọc như xã hội Việt nam hiện
nay. Anh chỉ giày vò về mặt tinh thần, khác với tôi, có khi phải lo ăn từng bữa.
Sống giữa nơi đô thị mà tôi cảm thấy cô đơn như trên hòn đảo của Robinson. Một
đêm khốn nạn nào đó đã sinh ra Pessorine. Và một ngày đen tối đã sinh ra tôi
trên cõi đời này.
Ngày 3
tháng 2. Buổi chiều, tôi ra phố về, thấy Mai – em gái tôi đứng trước gương đang
ngắm nghía huy hiệu đoàn đeo trước ngực. Thấy tôi, Mai khoe:
– Anh
Khoa ơi, ngày kỷ niệm thành lập đảng, em được kết nạp đoàn.
Không tự
chủ được, tôi nằm vật ra giường, khóc.
– Tại sao
anh khóc thế? – Mai hỏi.
– Cái lý
tưởng Cộng sản mà mày đang phấn đấu sẽ biến trái tim mày thành đá. Cái đầu mày
bị lý thuyết vô thần ám ảnh, thú tính ngự trị tâm hồn mày. Những kẻ mê muội như
mày chỉ kéo dài thêm sự tồn tại của một bức tranh xã hội xám xịt.
Từ đó Mai
không đeo huy hiệu đoàn ở nhà nữa.
Ngày 11
tháng 4. Buổi chiều, bố tôi ra chơi, mẹ tôi hỏi:
– Ông có
mang gạo ra không?
– Ở với
con hai ngày, tôi mang theo năm cân gạo, bà yên tâm chứ?
– Tư tưởng
ông lạc hậu, ở lâu sẽ có hại cho các con.
– Vâng,
tôi biết bà tiến bộ. Thật khổ, người ta tuyên truyền thế nào mà đàn bà cũng
sính dùng từ chính trị?
– Con xin
mẹ để cho bố con yên – tôi nói – Đây là gia đình mẹ ạ, ăn cơm ngô và rau muống
nói đến xã hội làm gì?
– Cả anh
nữa cũng lạc hậu, chậm tiến như bố anh.
– Vâng,
con cũng như bố con thôi, mẹ ạ. Con xin mẹ đừng nói nữa, đau lòng lắm.
Ngày 12
tháng 4. Buổi sáng, công an hộ tịch đến, hỏi:
– Gia
đình này có người tạm trú, tại sao không ra trình đồn?
– Báo cáo
anh, đây là bố em – Tôi trả lời.
– Bất cứ
ai không phải là nhân khẩu thường trú cũng phải thông báo. Bây giờ anh phải làm
ngay.
Tôi viết
họ tên, quan hệ của bố tôi vào sổ tạm trú, mang ra đồn. Khổ nỗi bố tôi quên
không mang chứng minh thư. Công an hộ tịch nói:
– Không
có giấy tờ là bất hợp pháp, không cho tạm trú nữa. Nếu tối nay bố anh còn hiện
diện chúng tôi sẽ bắt ra đồn.
Buổi chiều
hôm ấy bố tôi phải về ngay. Thời Tần có ngũ gia liên bảo, thời Napoléon có danh
bạ công nhân, còn thời đại Hồ chí minh, ngoài sổ hộ tịch, có sổ lương thực và
tem thực phẩm để quản lý dạ dày tinh vi và độc ác vào bậc thày Tần thuỷ Hoàng
thời cổ.
Ngày 15
tháng 4. Tôi đọc quyển văn học sử Pháp. Ông Balzac với Tấn trò đời, ông mệnh
danh là thư ký của xã hội Pháp. Nếu ông sống lại ở trong thời đại Cộng sản của
Việt nam hiện nay, xã hội điên đảo gấp nghìn lần, ông có dám mệnh danh là thư
ký của xã hội Việt nam không?
Ngày 21
tháng 4. Em họ tôi từ Bắc giang ra Hà nội bị nhỡ tàu, chiều đến ga hàng Cỏ. Nó
vào cửa hàng bách hoá tổng hợp mua một số đồ dùng, khi đến nhà tôi thì trời đã
tối. Thật gay go, nó tưởng sáng đi, chiều về nên không mang chứng minh thư. Tôi
giấu nó trong nhà, sợ mụ tổ trưởng biết. Có lẽ bị lộ nên đến quá đêm công an
vào kiểm tra. Sau khi cảnh cáo gia đình, họ bắt nó ra đồn giam lại.
Ngày 22
tháng 4. Buổi sáng, tôi phải về quê, lấy chứng minh thư cho nó. Đến chiều ra,
trình chứng minh thư của nó, nó mới được tha.
Ngày 25
tháng 4. Buổi chiều, tôi đến nhà bạn học cũ ở phố Chu văn An. Nhà nó hôm nay cỗ
bàn bầy la liệt. Tôi hỏi lý do, bạn tôi trả lời:
– Bố tao
là công chức lưu dung, nay được cơ quan chấp nhận lương như cán bộ cách mạng.
Do vậy, gia đình tao mở tiệc ăn mừng.
– Lương
cao lên à?
– Ngược lại.
Lương của bố tao trước hơn ba trăm đồng một tháng, nay được chấp nhận khoảng bảy
mươi đồng.
– Nếu thế,
sao không buồn mà lại mở tiệc?
– Hàng chục
lần lên đồn, xuống phủ mới được chấp nhận đấy. Lương ít nhưng được ngủ ngon, nếu
không sẽ mắc bệnh tâm thần vì sợ.
Ngày 2
tháng 5. Hôm nay, tôi gặp thằng Hùng, bạn học cũ đi bán kem. Nó mới bị đuổi khỏi
trường công nhân kỹ thuật vì họ phát hiện ra lý lịch của ông nó ở quê là địa chủ,
cường hào.
Ngày 8
tháng 5. Tối nay, khối phố đấu tố anh Thung vì trước đây anh học ở trường sĩ
quan Thủ đức. Học xong thì hiệp định Geneva ký kết, anh về nhà. Tôi đến xem người
ta tố anh những gì? Anh Thung hiền lành, sao mà bị tố nhiều tội thế? Đặc biệt lời
tố của ông trưởng ban đại biểu:
– Tối
mùng hai, tháng chín năm ngoái, khi đài đang phát thanh chương trình ca nhạc,
anh Thung ngồi ở ban công. Tôi nghe thấy anh Thung ngâm bài thơ nhớ rừng của Thế
lữ. Đến câu:“Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”, anh gào lên thảm thiết. Sau
đó, anh chơi đàn và hát bài Quê nghèo của Phạm Duy, một tên nhạc sĩ theo địch.
Cuối cùng là bài Thiên thai của Văn Cao, một tên trong bọn nhân văn giai phẩm.
Qua đó thấy rằng, anh Thung còn luyến tiếc chế độ cũ.
Nghe thằng
cha này nói, tôi phát cuồng lên vì sự vu cáo trắng trợn. Tôi đứng lên phát biểu:
– Ngày
mùng hai, tháng chín năm ngoái, cả buổi tối anh Thung ở nhà tôi. Chúng tôi ngồi
uống chè và tôi nghe anh ấy kể chuyện Ba chàng ngự lâm của Dumas. Anh Thung có
biết chơi đàn Guitare nhưng chẳng hát bao giờ vì giọng anh như tiếng kêu của vịt
đực.
Thế là họ
chõ mũi nhọn vào tôi ầm ầm như vỡ chợ.
– Thanh
niên chậm tiến bao che cho tư tưởng xấu.
– Nó
không chịu tham gia sinh hoạt thanh niên đường phố, đồng loã với nguỵ quân, đề
nghị cấp trên đưa nó đi cải tạo.
Cuối
cùng, công an hộ tịch cảnh cáo và đuổi tôi về.
Ngày 13
tháng 5. Sau sáu năm, tối qua bác họ tôi ra chơi. Sáng nay tôi dậy sớm đi xếp
hàng mua phở. Người mua đông như hội. Đứng trước tôi, một bác già đang đọc lẩm
nhẩm một khẩu hiệu kẻ trên tường: Toàn đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng thành
công CNXH, rồi bác nói nhỏ một mình, đã thành công rồi rồi, việc gì phải quyết
tâm. Thấy lạ tôi hỏi:
– Cái gì
thành công đấy bác?
– CNXH là
cả ngày xếp hàng – Bác ta mỉm cười, hỏi:
– Anh thấy
đã thành công chưa?
Tôi định
mua ba bát nhưng vì đông quá nên họ chỉ bán cho mỗi người hai bát. Tôi mang về
cho bác và mẹ tôi ăn. Còn tôi nói dối với bác đã ăn tại cửa hàng. Đến bữa, cơm
gạo hẩm có nhiều hạt mục độn ngô xay, xem ra bác ăn ngon lắm.
Tôi nói,
bác ạ, Hà nội ngày nay ăn như thế đấy. Bác trả lời, còn sướng chán, ở quê làm hợp
tác xã, mỗi công được mấy lạng thóc, nếu mất mùa thì rau cũng chẳng có mà ăn.
Tôi hỏi bác, nông nghiệp đã cơ khí hoá đến đâu rồi? Bác trả lời, trâu bò cũng
ít dần, đà này tiến tới cơ khí hoá toàn cuốc.
Ngày 18
tháng 5. Tôi đọc Những con đường đói khát của Jorge Amado. Đến đoạn De thiên
lôi định hiếp vợ viên trung uý, sau khi nghe người phụ nữ này nói đến mẹ mình,
tên phó tướng cướp đã buông tha chị. Tôi nghĩ, hàng vạn cán bộ cải cách ruộng đất
còn chút nhân tính như De thiên lôi, chắc rằng cuộc tàn sát đẫm máu sẽ giảm đi
nhiều. Thực chất của lý thuyết đấu tranh giai cấp là dạy con người từ bỏ nhân
tính, dập tắt ánh sáng lương tâm, kích thích thú tính để hành động theo đường lối,
chủ trương của đảng. Bản chất của thứ lý thuyết này là mầm mống của tội ác, chiến
tranh và tàn bạo. Quan niệm của ông Robertower: Đấu tranh giai cấp là kết quả sự
ngu dốt của quần chúng.
Ngày 21
tháng 5. Một người ở quê đến thăm gia đình tôi, ông ta là Việt kiều từ Thái lan
về nước năm ngoái. Xem ra chưa đầy một năm mà ông ta đã ngao ngán cảnh độc lập,
tự do của tổ quốc. Ông ta nói:
– Nếu biết
thế này, chẳng ai dám về.
Tôi tưởng
tượng, điện tử càng xa hạt nhân thì sức hút của hạt nhân càng yếu. Ngược lại,
người càng ở xa chế độ Cộng sản thì lực hấp dẫn càng mạnh. Ở phương xa người Việt
kiều nhìn về tổ quốc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa như một con thuyền có cánh buồm
nhiều màu rực rỡ, lại được nghe những âm thanh ngọt ngào từ con thuyền dội đến:
có một ông thánh sống cứu nhân độ thế. Dường như hạnh phúc vẫy chào, chờ đón,
những đứa con xa tổ quốc về với cội nguồn, người ta hân hoan bơi đến với con
thuyền. Đến nơi, cánh buồm nhiều màu rực rỡ kia hoá ra các mảnh vải bẩn thỉu,
nhem nhuốc, loang lổ thấm máu người được vá víu chằng đụp lại, còn ông thánh sống
hoá ra tên lừa bịp, khát máu. Biết bị mắc lừa thì đã muộn, chúng mày có chạy
lên mây cũng vẫn trong lồng sắt.
Buổi phát
thanh đêm lại có tiếng thơ, ngâm những bài thơ của Tố Hữu ca ngợi lãnh tụ. Đến
hai câu:
Bác ngồi
đó lớn mênh mông,
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng nước non.
Ông Việt
kiều kêu, khổ vì những lời này qua làn sóng điện. Tôi hình dung, lòng tin của
nhân dân đối với chế độ Cộng sản như phương trình hyperbol y = a/x (y là lòng
tin, x là thời gian). Cộng sản chỉ chiếm được lòng tin của người dân trong giai
đoạn đầu, sau đó lòng tin giảm dần và cuối cùng Cộng sản thống trị bằng bạo lực
cùng với sự tuyên truyền bịp bợm.
Ngày 26
tháng 5. Tôi đọc quyển lý luận văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có đoạn viết:
“…Để tái tạo cuộc sống, tính cách của nhân vật là: người quen biết nhưng lạ…”.
Qua đó thấy rằng, trong văn học đảng cũng dạy cách bịa đặt, tuyên truyền xuyên
tạc. Như thế có thể suy ra ông Hồ là người quen biết của làng Sen, nhưng khi đọc
cuộc đời hoạt động của ông ta, người làng Sen thấy lạ như ông thánh ở trên trời
rơi xuống.
Ngày 2
tháng 6. Gần ba mươi tuổi, tối nay anh Thung mới cưới vợ. Khi cưới xong, khách
vừa về hết, hai người sắp sửa động phòng thì công an đến bắt anh đi tập trung cải
tạo. Khi lên xe tù, anh bắt tay tôi. Thế là công an hộ tịch đưa tôi ra đồn giam
cả đêm, ghép vào tội quan hệ với nguỵ quân.
Ngày 8
tháng 6. Thằng Hàn mười sáu tuổi, người cùng phố, sáng nay cụng xe bị bắt đi cải
tạo làm cả phố xôn xao. Thằng này hiền lành lắm, chẳng quan hệ với ai trong phố.
Nó là người công giáo, buổi tối hay đọc kinh và chủ nhật thường đi nhà thờ. Người
ta ghép nó vào tội phản động“đội lốt thiên chúa giáo”.
Ngày 14
tháng 6. Tôi ngồi chơi ở bờ hồ Hoàn kiếm, phố Đinh tiên hoàng gần cửa hàng tổng
hợp, thấy một ông già ngoài bảy mươi tuổi, mặc đồ bà ba vải nhuộm nâu, chân đất.
Có lẽ ở nhà quê lần đầu ra thành phố, ông già đứng bên Hồ ngắm hai lá cờ của Ấn
độ và Canada ở phố Đinh lễ. Thấy lạ mắt, ông già sang đường đến gần hai quả cầu
ngắm tiếp. Thật thương tâm, ông già bị hai công an đến khoá tay đưa lên xe, có
thể giải vào Hoả lò giam cứu?
Ngày 29
tháng 6. Bên cạnh nhà tôi, có một bác già gần sáu mươi tuổi, cả đời đạp xích
lô. Bác ta dành dụm mấy năm mới đủ tiền mua chiếc radio Trung quốc. Tối nay bác
già dò được sóng của đài phát thanh Sài gòn đúng vào chương trình ca nhạc.
Thích quá, bác mở to để nghe nhạc vàng. Tội nghiệp, bác bị công an chộp bắt quả
tang, tóm cổ và thu luôn đài. Nghe đâu, nhẹ nhất bác cũng bị hai năm tù và một
năm mất quyền công dân. Thực ra ở chế độ Cộng sản không có quyền con người, vậy
quyền công dân có ý nghĩa gì?
Ngày 8
tháng 7. Buổi sáng, đến vườn hoa Giám, tôi gặp lại người bạn gái (chưa yêu thì
chia tay), Hồng thản nhiên nói:
– Chắc
anh không ngạc nhiên vì hàng năm nay tôi không quan hệ với anh. Tôi đã nhầm vì
có ý nghĩ yêu anh – một thanh niên chậm tiến và lạc hậu.
Không
nhìn lại em, tôi cúi đầu đi thẳng. Thật nực cười, trong tình yêu cũng trộn lẫn
mùi chính trị. Tôi không dám, không thể yêu ai và tự an ủi mình khi nhớ tới lời
của Pessorine:“Tôi khinh phụ nữ để khỏi phải yêu, nếu không đời sẽ trở thành một
tấn bi kịch thật là lố bịch”.
Buổi tối,
khuya tôi mới đi ngủ, đến với tôi một giấc mơ kỳ diệu. Vào buổi ban mai, trên
ngọn núi F
uji hoa anh đào tươi mát khoe sắc rực rỡ dưới ánh dương, một thiếu nữ diễm lệ đến
với tôi và hứa yêu tôi – một tình yêu chung thuỷ. Em nói, trên tổ quốc em, tình
yêu phi chính trị và không có giai cấp tính. Tôi sung sướng đón nhận tình yêu
trong sáng đó và đặt lên môi em một nụ hôn nóng bỏng. Tỉnh dậy, tôi vẽ chân dung
em và khẳng định một ngàn lần em yêu tôi mãi mãi. Chao ôi, nụ hôn đầu tôi dành
cho người trong mộng biết đâu cũng là nụ hôn cuối cùng của cuộc đời mình?
Ngày 12
tháng 8. Tôi đến Cửa nam, thấy công an giải một thanh niên bị khoá tay. Người
ta nói, gã mắc tội hát nhạc vàng, ít nhất là bốn năm tù. Nếu lý lịch gia đình
không tốt với chế độ thì mức án tăng theo cấp số.
Ngày 1
tháng 9. Buổi tối, mụ tổ trưởng bảo, sáng mai hộ này cho một người đi dự mít
tinh ở quảng trường ba đình. Tôi nhận lời nhưng dự định cứ trình diện xong đến
chỗ nào thuận lợi sẽ chuồn.
Ngày 2
tháng 9. Sáng nay, tôi dậy từ hai giờ, ra điểm tập trung đã đông người. Họ điểm
danh và bắt xếp hàng theo thứ tự số nhà, tổ rồi đến khối phố. Cách quản lý người
như thế trốn sao được? Tôi nghĩ, thôi cũng đành phải đi đến khi tan cuộc vậy.
Sáu giờ
sáng đoàn người dự mít tinh của khối phố đến quảng trường. Và có lẽ đến chín giờ
mới giải tán ra về. Quả thực, suốt mấy giờ tôi miên man suy nghĩ đâu đâu, chẳng
hiểu cuộc mít tinh đã diễn ra như thế nào?
Ngày 3
tháng 9. Buổi sáng, mụ tổ trưởng và công an đến nhà. Mụ hỏi mẹ tôi, ngày đại lễ
mà nhà này không treo cờ? Mẹ trả lời, tôi lo đã lâu nhưng lương ít quá chỉ đủ
tiền đong gạo nên chưa sắm được. Mụ nói, tuy không bắt buộc nhưng qua đó khối
phố biết được thái độ chính trị của gia đình.
Công an hỏi,
buổi mít tinh sáng hôm qua, sao anh Khoa không hưởng ứng hô khẩu hiệu?
Mụ tổ trưởng
thêm, anh ấy cứ lủi thủi đi như đưa đám vậy.
– Tôi cảnh
cáo anh lần đầu – Công an tiếp – nếu lần sau còn tái diễn, sẽ đề nghị đưa anh
đi cải tạo.
Ngày 10
tháng 9. Gặp thằng Hùng, nó cho biết thày Khánh dạy sử mới bị toà án xử phạt bốn
năm tù về tội phản tuyên truyền: ca ngợi tổng thống Roosevelt và vai trò của
Hoa kỳ trong đại chiến thế giới thứ hai.
Ngày 11
tháng 10. Chị Bích, vợ của anh Thung hôm nay đi với một thanh niên khác. Nhìn
thấy tôi, chị ấy coi như không quen biết mặc dù tôi đã nhiều lần gặp và nói
chuyện ở nhà anh Thung. Đáng thương cho anh Thung hiền lành, lương thiện, tai
hoạ đến vừa đi tù, vừa mất vợ.
Ngày 13
tháng 11. Sáng nay, tôi bắt đầu đi làm ở tổ hợp tác đồ chơi trẻ em phố hàng Buồm.
Ngoài tôi và ông tổ trưởng, còn lại đều là phụ nữ bao gồm các bà, các chị bị cấm
buôn bán nên đến đây làm việc kiếm ăn. Bầu không khí thầm lặng, buồn tẻ.
Ngày 19
tháng 12. Buổi chiều, công an hộ tịch và mụ tổ trưởng đến nhà bắt tôi đi dự mít
tinh sáng ngày 20 – 12 để kỷ niệm một năm ngày thành lập mặt trận giải phóng
nam Việt nam. Tôi từ chối với lý do sinh hoạt theo hợp tác. Mẹ tôi nói thêm vào
và van xin họ mới buông tha, bảo Mai – em gái tôi đi thay. May quá, nếu tôi
chưa làm hợp tác mà phải dự mít tinh lần này không khéo phải đi tù. Mụ tổ trưởng
hỏi, bà sắm cờ chưa? Mẹ nhanh nhảu trả lời, dạ, tôi sắm rồi, sáng mai treo sớm.
Thế mới đúng chứ – mụ cười nhe hàm răng hổ.
Vì mảnh vải
nhuộm máu mà tôi bị mẹ chửi một hồi lâu. Chả là em trai tôi đang bị ốm, chẳng
có gì bồi dưỡng. Chờ mãi đến kỳ lương, mẹ tôi đong gạo, còn lại mấy đồng đi mua
cờ. Bực quá, tôi ca cẩm, mẹ lạ thật, con ốm đang cần miếng ngon để nuốt cho
trôi thì mẹ lại sắm cờ. Có thái độ chính trị tốt, họ cũng chẳng thí cho xu nào
đâu mẹ ạ.
Mẹ lồng lộn
hét mắng tôi, tôi biết anh giống cái thằng bố anh rồi. Người ta liệt vào loại
thái độ chính trị xấu bao giờ mới ngóc đầu lên được? Từ nay, anh phải khoá cái
mồm lại, nếu không anh gây tai hoạ cho cả nhà chứ chẳng chơi đâu. Đồ theo đuôi
phản động!…
Nhà Khoa ở
phố Nguyễn thái học, gần Kim liên, một gian nhà trên gác rất đẹp, có ban công
ngoài mặt phố. Trong nhà đơn sơ, không có đồ dùng gì quý. Trên tường treo nhiều
tranh vẽ của Khoa. Đáng chú ý là bức tranh bằng bột màu chân dung cô gái với
dáng vẻ yểu điệu thướt tha, vẻ mơ màng huyền ảo. Bên dưới bức tranh viết: Em
yêu tôi đến trọn đời.
Tôi hỏi
Khoa:
– Người
yêu trong mộng đây chăng?
– Chắc chắn
người đẹp không bao giờ phản bội – Khoa gật đầu và nói.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 8
HỒI HAI –
Hà nội
II Năm
năm nối tiếp
Chị Nguyễn
thị Hà da trắng, khuôn mặt trái xoan, mày lá liễu, sống mũi thẳng, hàm răng trắng
muốt với những nụ cười hoa ghen, nguyệt thẹn, mái tóc mây dài óng mượt, đường
cong nét lượn uyển chuyển. Cái đẹp của một thôn nữ được tô điểm mốt thời trang
đô thị, với tuổi hai mươi bảy vẻ kiều diễm của chị chưa phai mờ hình ảnh của độ
tuổi trăng tròn: một tuyệt thế giai nhân. Theo cách nhìn của Khoa có thêm phần
lãng mạn: chị là hiện thân của thần Vénus. Giọng nói của chị âu yếm, ngọt ngào,
quả thật chị là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá, mang lại nguồn vui cho mọi người
và nguồn cảm hứng cho những tâm hồn nghệ sĩ. Tuy nhiên cặp mắt lá răm của chị lắng
đọng nỗi buồn thăm thẳm như dấu ấn của thời quá vãng đau thương và tủi nhục.
Mùa xuân
năm 1962, tôi và Khoa đến nhà chị ở phố Triệu việt Vương, một gian nhà nhỏ, đồ
dùng giản dị, gọn gàng. Thằng con trai của chị chẳng có nét nào giống mẹ. Nó xấu
xí, khuôn mặt dài méo mó, cặp mắt có vẻ bất nhân. Thấy chúng tôi đến, chị bảo
con đi chơi. Chị biết hoàn cảnh gia đình tôi có những điểm tương đồng như gia
đình chị. Còn Khoa, chị cũng mến về đạo đức và quan niệm xã hội. Do vậy, chị Hà
không ngần ngại ôn lại những trang sử bi thảm của gia đình và bản thân cho
chúng tôi nghe. Trước hết chị nói:
– Họ và
tên thật của chị là Phạm bích Hằng.
Sau đó chị
kể lại tình yêu thơ mộng của chị ở quê hương. Kế tiếp, chị kể những tai hoạ và
những diễn biến đã đưa chị đến Hà nội.
Với gương
mặt buồn, giọng đều đều như đọc truyện, chị thầm thì:
– Anh Nam
có dáng người và vẻ mặt hào hoa dễ mến, dễ thương. Cuộc tình duyên của chị và
anh Nam sắp đến ngày thành vợ, thành chồng thì những sự kiện đau thương liên tiếp
đến. Mẹ chị đột ngột qua đời, nỗi thương tiếc còn trĩu nặng, trên nấm mộ mẹ vừa
xanh ngọn cỏ thì đội cải cách về làng. Đội trưởng Trần Bình xưa là người cùng
xóm. Hắn cao to, khuôn mặt lưỡi cày, da mặt rỗ, lông mày sâu róm, môi dày và
thâm, cặp mắt trắng dã. Nhiều cụ già nói, tướng hắn rất tàn bạo. Lúc còn nhỏ,
Bình học dốt lại lười nên bỏ sớm. Năm hắn mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, anh em
chẳng có ai. Bình chẳng chịu làm gì, bán dần tài sản để ăn. Hắn thường tụ tập,
ăn chơi lêu lổng với mấy đứa mất dạy ở làng để trêu ghẹo con gái, hỗn láo với
người nhiều tuổi, gây gổ đánh nhau luôn. Sau cách mạng, hắn bán hết nhà đất rồi
đi bộ đội. Trong kháng chiến bặt tin hắn. Thời gian hoà bình lập lại, hắn về
quê gần một tháng. May cho hắn, trước mấy ngày, có một gia đình công giáo đang
đêm xuống thuyền trốn ra Hải phòng rồi đi Nam, chính quyền xã cho Bình ở nhà của
gia đình đó. Cũng trong thời gian này, nhiều lần hắn đón đường, tán tỉnh chị bằng
những lời lẽ thô bỉ. Chị vẫn từ tốn trả lời:
– Cảm ơn
chú, cháu đã có nơi, có chốn.
Lần cuối
cùng vào buổi tối, chị vừa ra ngõ thì gặp hắn. Bình sấn lấy tay quàng vai chị
và buông ra những lời suồng sã:
– Chào cô
em, cô em làm cao quá. Đã trót hẹn với ai hãy dẹp ngay. Bây giờ về ở với anh,
được là vợ của một quân nhân cách mạng có vinh dự không?
Bực quá,
chị hất mạnh tay hắn ra và nói:
– Đồ mất
dạy!
Bình hầm
hầm tức giận, trợn mắt trắng dã và đe doạ:
– Được,
được, có ngày mày sẽ biết!
Trần Bình
là đội trưởng cải cách làm chị băn khoăn, lo sợ. Mặt khác, nghe người ta nói ở
các vùng chiến khu cũ đã làm rồi, diễn ra nhiều sự kinh hoàng lắm. Cả bộ đội,
cán bộ có nhiều người cũng bị lôi ra đấu tố, bắn bỏ nhưng thân phụ chị và anh
Lân cứ bình chân như vại, người nói:
– Gia
đình ta ba đời chuyên nghề dạy học. Ngoài mảnh vườn trồng cây ăn quả, không có
thóc hoặc tiền cho vay nặng lãi. Lại không có người cộng tác với đối phương.
Như thế còn lo gì cải cách?
Chị cãi lại:
– Con
nghe đồn các nơi khác khủng khiếp lắm, nào là cải cách ruộng đất, một cuộc cách
mạng long trời, lở đất, trận Điện biên Phủ đồng bằng. Nào là nhất đội, nhì trời,
giết oan còn hơn bỏ sót. Con chỉ sợ, sự thật là con nai, trước họng súng và lưỡi
lê, họ bảo là con ngựa mình cũng phải cúi đầu mà nghe.
Nghe chị
nói, anh Lân phản đối:
– Ngày
nay, những năm giữa thế kỷ thứ hai mươi, họ không thể theo vết đường mòn của chế
độ nhà Tần cách đây hàng nghìn năm lịch sử. Em sợ Trần Bình giống như Triệu Cao
à?
Sau đó
hai tuần, tấn bi kịch mở màn. Khi bóng chiều đã ngả dài, đoàn thiếu nhi hàng
trăm đứa, trống ếch khua vang, đến trước cổng nhà chúng đứng lại, hô ầm ĩ nhiều
khẩu hiệu.
– Hoan
nghênh chính sách…
– Kiên
quyết đánh đổ bọn địa chủ…
– Kiên
quyết đánh đổ cha con tên Phạm Lãm địa chủ, đại gian, đại ác và phản động!
Từ hôm
đó, không ai được đi đâu nữa, bị giam lỏng trong nhà. Cả gia đình thất kinh, hoảng
sợ, chỉ biết trông chờ vào số phận, tin v
ào điều ở hiền gặp lành.
Ba ngày
sau, Trần Bình dẫn hàng chục du kích, cốt cán đến nhà. Hắn đọc lệnh bắt giam
thân phụ chị và anh Lân. Bọn du kích trói hai người bằng dây dù, chị thấy rùng
mình, nhưng Trần Bình quát:
– Các đồng
chí trói kẻ thù của giai cấp thế à? Phải cho chúng biết thế nào là sức mạnh của
bà con nông dân.
Thật trớ
trêu, mấy tên tay sai của Trần Bình, khi xưa là học trò của anh Lân. Chúng dùng
hết sức gò hai tay của từng người về sau lưng gần sát vào nhau, ngực ưỡn về
phía trước. Nhìn cảnh tượng ấy chị Loan (vợ anh Lân) vừa khóc vừa van xin hắn,
cháu Hải cũng khóc thất thanh. Nhưng hắn ra lệnh cho bốn du kích giải hai người
đi ngay. Số còn lại cùng thằng Bình lục soát khắp nhà. Tài sản nhà chị nào có
gì giá trị đâu, ngoài vài ba tạ thóc mới mua dự trữ dịp mùa và một ít tiền, còn
lại toàn là sách. Hàng nghìn cuốn sách bằng tiếng Pháp, chữ nho và tiếng Việt.
Hầu hết là sách văn học, lịch sử Đông, Tây kim cổ do hai bố con bao năm dành dụm
từng đồng, tìm kiếm khắp nơi mua. Gia đình này quý sách như hơi thở, thường bảo
nhau:
– Nghèo
mà có sách hay để đọc vẫn tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.
Chúng lôi
ở hai tủ to ra và nhặt các nơi trong nhà thấy nhiều sách quá, chúng xin ý kiến
thằng Bình:
– Thứ này
nông dân không cần thì thu làm gì?
Thằng Bình
cầm vài quyển mở ra xem như nhìn vào bức vách, hắn nói:
– Toàn là
sách của thực dân, phong kiến, hai bố con tên Lãm đọc để phun nọc độc hại nông
dân. Bình ra lệnh:
– Mang ra
sân đốt hết và cộng thêm cho chúng tội tuyên truyền tư tưởng phản động.
Thế là từ
trong nhà chúng ném sách ra sân thành đống, Bình tự tay châm lửa đốt. Còn quyển
lịch sử cận đại ở đầu giường, tên cốt cán nhặt đưa cho Bình. Hắn mở ra xem, vừa
đánh vần vừa đọc một đầu đề: Cuộc đấu tranh giành độc lập của Hoa kỳ. Hắn ngây
người ra trong giây lát, bỗng hắn reo lên:
– Đúng rồi,
Hoa kỳ tức là Mỹ.
Hắn bĩu
môi cười khoái trá:
– Tên đế
quốc đầu sỏ, chuyên xâm lược nước người mà phải giành độc lập à?
Đoạn hắn
mở tiếp sang trang khác. Bình lẩm nhẩm đọc: Cuộc cách mạng tư sản Pháp. Hắn lại
cười sặc sụa:
– Sách phản
động thế là cùng, thực dân Pháp mà làm cách mạng?
Chúng vơ
vét hết gạo thóc và vài thứ nữa đưa vào buồng khoá lại và niêm phong. Chị Loan
xin mãi, Bình mới cho khoảng mười cân gạo. Cũng còn may, ngoài vườn có hai luống
khoai lang, khuất sau những cây ăn quả, Bình và bọn cốt cán không biết. Hai chị
em bảo nhau, gạo để dành cho cháu Hải ăn dần, còn hai chị em bới khoai củ, hái
lá luộc ăn trừ bữa.
Gần một
tháng trôi qua trong lo buồn, đói khổ, cháu Hải đang bị sốt nặng thì Bình bắt
hai chị em ra sân đình tập trung nghe đấu tố địa chủ thường. Nghe Bình quát, Hải
khóc thét lên. Lập tức Bình vu khống, hắn quát tiếp:
– Mày xui
con gây rối, chống phá phải không?
Hắn ra lệnh
cho du kích giằng Hải từ tay chị Loan, quẳng vào buồng niêm phong tài sản khoá
lại. Chị Loan khóc van xin:
– Các ông
tha cho cháu, nó đang ốm nặng. Các ông giết con cũng được, xin các ông đừng
giam nó, cháu chết mất. Con van lạy các ông!
Cháu Hải
trong buồng khóc không thành tiếng. Mặc những lời van xin thảm thiết của chị
Loan, du kích cứ kéo hai chị em ra sân đình, không tha cho Hải.
Đến nửa
đêm, chúng mới cho hai chị em về. Chị Loan chạy đến cửa buồng gọi to, gọi đến bốn
năm lần, cháu Hải mới oà lên khóc và trả lời:
– Mẹ ơi,
con đói!
Chị Loan
bàn với chị:
– Đêm nay
chắc chúng không mở cửa tha cho Hải, ngày mai cháu nguy mất. Tôi định cậy ngạch
chui vào bế cháu ra đi trốn.
– Ở nông
thôn chỗ nào cũng cải cách, chị trốn đi đâu cho thoát?
Chị ngần
ngại nói:
– Trốn đi
đâu thì sau sẽ liệu, bây giờ phải cứu cháu ra ngoài đã. – Nói xong chị Loan
hành động.
Chị ấy
dùng con dao rựa sắp cậy ngạch thì bọn du kích đi tuần bắt được. Chúng quát
tháo om xòm:
– Chúng
mày định cậy ngạch chui vào cướp lại của phải không?
– Chúng
con không dám – Chị Loan nói – chỉ xin các ông tha cho cháu Hải thôi.
Theo lệnh
của thằng Bình, chúng bắt hai chị em giam vào chuồng trâu nhà hàng xóm. Bên
trong hơi phân bốc lên nồng nặc, muỗi nhiều như o�ng, tay vơ được. Người nhốt chung với vật làm con vật cũng khổ
thêm. Cửa ra vào mọi ngày bỏ ngỏ, nay che kín bằng phên nứa buộc chặt lại. Trời
mùa hè nóng nực, không khí bên trong như bị đốt lên nhưng mệt quá, hai chị em
thiếp đi lúc nào không biết. Gần sáng hai chị em tỉnh dậy, khát nước quá, cổ se
lại. Ngay bên cạnh lại có thùng nước còn một ít, có lẽ trời nóng quá nên nhà chủ
để nước cho trâu uống thêm ban đêm. Hai chị em bê cả thùng uống hết.
Sáng rõ,
tên du kích mở cửa, chị Loan lại van xin tha cho cháu Hải. Hắn trả lời:
– Phải chờ
lệnh của ông Bình.
Đứa trẻ con nhà chủ mười hai tuổi vào dắt trâu ra đi chăn, nó đứng bên cạnh
nhìn vào chị, nói khẽ:
– Ở trong
bó rơm buổi tối nay ấy nhé!
Hai chị
em không hỏi lại nhau nhưng đều hiểu ý.
Ban ngày
trâu được tự do ngoài đồng ăn cỏ, còn người vẫn bị giam tại chuồng của nó. Hai
chị em cứ thần người ra, chẳng ai nói với ai câu nào.
Đến tối
khi trâu vào chuồng, thằng nhỏ ôm bó rơm và xách một thùng nước vào. Sau khi
tên du kích che chắn cửa, chị bới bó rơm ra, có một nắm cơm lẫn muối vừng ở giữa.
Hai chị em bỏ ra ăn, chị Loan chỉ nuốt được vài miếng rồi thôi. Trước hành động
nhân ái và dũng cảm ấy, chị ngẫm nghĩ, họ muốn biến xã hội này thành dã thú
nhưng vẫn có những trái tim lành mạnh mang dòng máu của giống nòi.
Đến sáng
hôm sau, Bình mới tha hai chị. Chị Loan nói với chị:
– Cháu Hải
chắc nguy rồi, nếu cháu có mệnh hệ nào, chị nhờ em lo liệu, chị không chắc sống
được nữa.
Bình mở cửa
buồng tha cho cháu Hải. Chị Loan ngoài cửa nhìn vào thấy con đã chết, chị ngã
xuống và ngất liền. Chị bước vào bế cháu ra, thân thể cháu còn hơi ấm, chân tay
cứng lại, mồm đầy gạo. Khốn khổ mới mọc vài cái răng sữa thì nhai gạo làm sao?
Đau
thương quá, chị không thể nào khóc được, chị lấy vỏ chăn cũ gói cháu lại, ngoài
bó thêm cái chiếu lặng lẽ đưa cháu ra đồng chôn cất bên bà nội cháu.
Mãi đến
chiều, chị Loan mới tỉnh. Chị ấy đã phát điên, có lúc khóc rống lên và gọi con:
– Hải ơi,
con đi đâu về với mẹ!
Có lúc cười
gằn từng tiếng, nói nhảm nhí một mình:
– Ha ha
ha! Mày hoá ma rồi, Hải ơi, mẹ cũng sắp theo con.
Hai ngày
sau, khi bóng chiều đã xế, tiếng trống ếch từ xa vọng lại xen lẫn tiếng hò reo.
Người qua đường nói chuyện với nhau, họ nói to như thông báo cho hai chị em biết:
– Chiều
nay, toà án nhân dân đặc biệt xử tên Phạm văn Lân.
Khi mặt
trời sắp lặn, Bình đến, hắn tuyên bố:
– Tên Lân
có tội nợ máu với nông dân và tội phản động chống phá cách mạng, nay y phải đền
tội. Chúng mày phải ký vào biên bản trả tiền mua quan tài cho y…
Bình đang
nói dở thì chị Loan ngã gục xuống nền nhà, tim chị ấy đã ngừng đập, cũng là thời
điểm vang lên mấy loạt đạn từ pháp trường cách nhà khoảng một cây số.
Thấy chị
Loan tắt thở, Bình bỏ đi. Trước cảnh tượng đó, chị toan đập đầu vào tường chết
cho xong nhưng sực nhớ thân phụ vẫn còn, chết trước sao đành. Bọn khát máu cũng
sẽ giết người, thôi hãy chờ đợi để chị ra đi cuối cùng vậy.
Nếu chưa
chết thì bây giờ phải làm gì? Chị Loan nằm kia mà mọi người sợ liên quan đều xa
lánh, chị lấy cái màn trải rộng đặt chị Loan vào quấn lại, bên ngoài cũng phủ
thêm cái chiếu. Hơn một tháng ăn khoai, mấy ngày nay lại bỏ ăn, thể xác bị hành
hạ, tinh thần bị đau thương đến tột đỉnh nên thi thể chị Loan nhẹ như cây gỗ mục.
Một mình chị vác chị Loan ra đồng chôn cất bên cháu Hải.
Thêm mấy
ngày trôi qua, tâm trí chị đang trong cơn hoảng loạn thì Bình lại đến. Hắn ra lệnh
theo hắn về nhà. Hắn ngồi trên ghế trước bàn làm việc. Còn chị hắn bắt ngồi xuống
đất. Cặp mắt trắng dã của hắn đảo đi, đảo lại nham hiểm và man rợ:
– Muốn đội
khoan hồng, mày phải phục tùng một điều kiện. ngừng vài giây, hắn chậm rãi:
– Trước đội,
toà án nhân dân đặc biệt và ông bà nông dân, mày phải tố tên Lãm thời gian dạy
học trên thị xã quan hệ với phòng nhì của địch để bắt cán bộ cách mạng. Và… và
đã cưỡng hiếp mày nhiều lần…
Không tự
chủ được, chị oà lên khóc và nói;
– Bố ơi,
bố hãy tha lỗi cho con, con đang phải nghe những lời ghê tởm. Trời đất hỡi, có
bao giờ lại loạn luân như thế này không? Ông Bình, ông hãy giết tôi ngay, ông đừng
buông ra những lời thô bỉ nữa. Đồ khốn kiếp! Quân khát máu! Loài dã thú!…
Như con
thú bị phường săn dồn đến đường cùng, chị phát điên lên chửi cho hắn một hồi.
Thật khó
hiểu, vẻ mặt Bình vẫn thản nhiên, mơ màng nhìn ra ngoài cửa, hình như đang say
sưa với một ý nghĩ nham hiểm và độc địa? Sau nhiều giây im lặng – sự im lặng
rùng rợn như trong địa ngục, hắn liếc nhìn chị, nở nụ cười ghê rợn:
– Cô em
chửi đã chán chưa? Nếu cô em muốn gặp bố lần cuối cùng thì đội chiếu cố.
Chị
thoáng nghĩ, lời hắn nói cũng là ước mong của chị, được gặp lại người lần cuối
trước khi người về cõi. Cứ liều xin hắn hoạ may… Chị đổi giọng:
– Nếu ông
cho phép dù phải chết, tôi cũng xin chịu.
– Làm gì
đến nỗi thế, mà chỉ… – Hắn đi khép và cài cửa lại, rồi đến bên cạnh chị, hắn
nói nhỏ:
– Nếu
ngày ấy, cô em biết nghe lời thì nay đâu đến nỗi… Bây giờ cô em ngoan ngoãn phục
tùng nhé! Có chống lại cũng chỉ thiệt thân thôi.
Dứt lời,
bằng sức mạnh của tên cuồng loạn, hắn kéo chị lên giường. Chị cựa quậy tuyệt vọng
để chống trả nhưng đã sa vào hang quỷ, có kêu cũng không ai dám cứu, có phản ứng
lại cũng chẳng thoát khỏi na
nh vuốt của nó. Khi ấy chị mới biết rằng, vì sao chị chửi hắn như vậy mà hắn vẫn
làm thinh, có lẽ thú tính đang ngự trị hắn? Hắn đang mê man tìm cách thoả mãn
cơn thèm khát về dâm dục.
Sau khi
thoả chí mây mưa, con người tàn bạo của Trần Bình lại xuất hiện, hắn trừng mắt
quát đuổi chị về.
Gần hai
tháng trôi qua, chị đã quên anh ấy, có lẽ nỗi đau thương tràn ngập trong tâm
trí nên không còn chỗ đứng của tình yêu. Chỉ sau khi bị thằng Bình làm nhục, chị
mới sực nhớ đến anh và thầm nhủ:
– Anh Nam
ơi, anh có thấu cho lòng em không? Anh có biết cái thiêng liếng nhất của người
con gái trong trắng, thuỷ chung – người đã yêu anh, nay đã bị con quỷ kia cướp
mất rồi? Liên tưởng đến hai câu thơ của cụ Nguyễn Du:
Biết thân
đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Chị thầm
nhủ tiếp:
– Buổi em
gặp anh ở Hà nội đầu tháng mười năm qua, nếu biết thế này thì… Anh hãy tha thứ
cho em – kẻ phản bội anh. Trước cảnh đau thương của gia đình và nỗi nhục ê chề
của mình, em không dám và không thể gặp anh lần nữa.
Em sắp sửa
từ bỏ cái thế giới ghê tởm này.
Chị cứ lẩn
quẩn trong câu hỏi:
– Hiện
nay chúng giam giữ thân phụ chị ở đâu, bao giờ chúng mới đem ra đấu tố và hành
hình?
Một buổi
chiều, chị ra vườn để lẻn sang hàng xóm, một gia đình tốt bụng. Hai vợ chồng
bác hàng xóm đưa chị vào nhà, khép cửa lại cẩn thận, bác trai ghé vào tai chị
nói nhỏ:
– Nghe
đâu họ đưa ông nhà về xã mấy ngày nay, giam ở đâu không rõ, chỉ vài ngày nữa là
họ đưa ra xét xử.
Chị thì
thầm hỏi:
– Họ buộc
bố cháu và anh Lân những tội gì?
– Cả vùng
này, ai chẳng biết gia đình ta ăn ở nhân đức, khai hoá cho nhiều người thoát khỏi
tối tăm, ngu dốt nhưng họ muốn bịa ra bao nhiêu tội mà chẳng được – Bác hàng
xóm rơm rớm lệ, nói tiếp:
– Hôm nọ,
đấu anh Lân, họ buộc tội thời gian dạy học tuyên truyền quốc dân đảng, cùng với
bố xúi giục người vào tổ chức này. Năm ất dậu, anh Lân và ông nhà dựa vào cường
hào ức hiếp gia đình ông An phải bỏ nhà ra đi, chết đường, chết chợ. Ngoài ra,
thời gian dạy học ở thị xã, ông nhà còn mắc tội làm chỉ điểm cho giặc bắt và giết
hại cán bộ cách mạng.
– Họ có
chứng cớ gì không? – Chị hỏi.
Bác hàng
xóm mỉm cười chua chát:
– Cháu
ơi, cháu ngây thơ như thỏ non trước bầy sói. Mỗi buổi đấu tố địa chủ, phản động
là một màn kịch được biểu diễn theo kịch bản của đội. Những diễn viên“chính diện”là
những cốt cán – những nghệ sĩ ưu tú về vu oan giá hoạ, những người tham quả thực
và những kẻ có lòng dạ bất nhân. Sau khi học thuộc kịch bản, họ tập dượt nhiều
lần trước khi trình diễn, gọi là bồi dưỡng khổ chủ. Còn những diễn viên“phản diện”đứng
trước vành móng ngựa không được nói gì, ngoài việc cúi đầu nhận tội. Màn kịch
có bao nhiêu diễn viên“chính diện”là có bấy nhiêu nhân chứng.
– Bác ơi,
xã hội sao điên đảo thế, bằng những màn kịch để chém giết người vô tội? – Chị
bưng mặt khóc thầm.
– Thế đấy!
– Bác hàng xóm lấy khăn lau nước mắt. Trong khi đó, con gái bác đi đâu về, chị ấy
ôm lấy chị, nước mắt rưng rưng:
– Chị ơi,
em vừa được tin, trưa nay bác nhà tự sát rồi. Một là, sau khi đưa về xã vài
ngày, có ai đó nói cho bác những tai hoạ ở nhà; Hai là, bác cũng biết bọn khát
máu không tha bác nên nhân dịp tên du kích sơ hở để khẩu súng có cắm lưỡi lê gấn
đó rồi ra ngoài, bác kéo cả cái cùm bằng gỗ bò lại lấy súng và tháo lưỡi lê đâm
vào cổ.
Vĩnh biệt
gia đình bác hàng xóm giàu lòng nhân ái, trở về nhà, chị nằm vật xuống giường,
chẳng khóc, chẳng nghĩ gì. Vì mọi sự kiện đã kết thúc, hay nói cách khác, chị
chuẩn bị ra đi để tấn bi kịch gia đình chị hạ màn. Ngay sau đó, thằng Bình đến.
Thấy chị nằm, hắn quát.
– Mày đứng
dậy nghe lời tuyên bố của đội. Tên Lãm đã tự sát để trốn tránh sự trừng phạt của
toà án nhân dân đặc biệt. Từ giờ phút này, đội tịch thu tài sản của gia đình
mày để chia cho ông bà nông dân. Trước khi ra khỏi nhà, mày phải…
Hắn nói
chưa dứt lời, chị vùng dậy chạy ra ngoài ngõ, theo con đường nhỏ, chị chạy lên
đê sông Hồng. Cuối mùa hè, nước lũ về to ngập hết bãi. Tìm đến chỗ nước sâu, nước
chảy xiết, chị nhìn quanh đó chẳng có ai. Trước mắt, một chiếc thuyền chài đứng
im lìm, hình như người đi đâu vắng. Khoảng không gian bao la, tĩnh mịch của buổi
hoàng hôn thảm đạm, chị đứng, hai tay chắp lại, quay về phía tây bắc thì thầm:
– Anh Nam
ơi, bây giờ em đi tìm bố mẹ và những thân nhân ở thế giới bên kia. Một lần nữa,
xin anh hãy tha thứ cho em. Vĩnh biệt anh!
Dứt lời,
chị đâm đầu xuống nước, sau ít phút sặc sụa, ngạt thở, chị không biết gì nữa.
Tưởng như một giấc ngủ say, thời gian bao lâu chị không còn cảm giác. Đột ngột
chị mở mắt ra, thấy mình trong khoang thuyền có mui. Bên cạnh chị, có một ngọn
đèn dầu và hai người ngồi, một đàn ông, một đàn bà tuổi ngoài bốn chục. Liếc
nhìn ra bên ngoài trời tối, xa xa có nhiều vì sao lấp lánh, chị bật kêu lên:
– Đây có
phải cõi âm không?
Người đàn
bà vội ôm lấy chị, cũng kêu:
– Nó tỉnh
lại rồi, tỉnh lại rồi.
Bà ôn tồn
nói tiếp:
– Cháu
ơi, đây là cõi thế, không phải cõi âm đâu. Tại sao cháu liều mình như vậy?
Chị bật
khóc nức nở và tỏ lời oán trách;
– Các người
đã ngăn cản tôi, không cho tôi đi tìm bố mẹ. Cả nhà tôi, bọn khát máu đã giết hết
rồi.
Hai vợ chồng
bác thuyền chài hết lời khuyên can chị:
– Cháu
ơi, đau thương quá không chịu đựng nổi phải tìm đến cái chết để giải thoát là sự
hèn kém, không ai khen mà ngược lại, người ta còn chê cười mãi mãi. Cháu hãy
còn trẻ phải cố gắng vượt qua mọi nỗi đau thương, tủi nhục để mà sống. Nếu
không có hạnh phúc thì hãy sống để suy ngẫm sự đời. Nỗi đau thương của cháu nằm
trong tai hoạ chung của dân tộc. Ngay kẻ thủ phạm gây nên cảnh bi thảm này về
sau chính con cháu chúng cũng gánh hậu quả – Đảo lộn luân thường đạo lý, một xã
hội chất chứa thú tính và tội ác.
Nghe những
lời khuyên giải ấy, lòng chị dịu dần. Sờ lên tóc thấy còn ướt nhưng quần áo lại
khô, chị mới biết, bác thuyền chài gái đã thay quần áo cho chị. Bác nâng chị ngồi
dậy và kể lại:
– Thoáng
nhìn cháu đi trên đê, thân hình tiều tuỵ, tóc buông xuống rối tung, quần áo xộc
xệch, bác linh cảm thấy điều gì không hay sắp đến. Bác nhìn theo đến khi cháu
nhảy xuống sông, khi ấy bác trai đang ngủ, bác vội gọi dậy cứu cháu.
– Cháu
thường nghe nói, thuyền chài kiêng cứu người dưới nước, tại sao hai bác dám
làm?
– Đúng,
đó là điều kiêng kỵ nhưng bác đoán tai hoạ đến với cháu cũng giống như tai hoạ
xảy ra trong gia đình bác vừa rồi. Người cùng cảnh ngộ phải yêu thương, cứu vớt
lẫn nhau cháu ạ.
Nghe chị
kể lại tai biến của gia đình mình, hai người đều khóc. Với một giọng nói đầy uất
ức, bác gái cũng tường thuật lại nỗi đau thương vừa qua với gia đình người anh
ruột:
– Nhà bác
ở bên kia sông. Trước cách mạng, ông thân sinh ra bác đi buôn bè được mấy chuyến
lãi to, đã xây một ngôi nhà ngói gỗ lim và mua hai mẫu ruộng. Khi lấy chồng,
ông chia cho bác một mẫu nhưng bác nhường lại cho anh.
Vợ chồng
người anh bác hiếm hoi, chỉ sinh được một“tiểu thư”. Năm 1949, nàng mới mười
sáu tuổi, ngày ngày mê say đàn đúm với trai và nhảy xon đố mỳ. Bố mẹ hết lời
can ngăn nhưng nàng không nghe. Nàng còn báo cáo với chính quyền địa phương: bố
mẹ lạc hậu, cấm nàng tham gia sinh hoạt đoàn thể. Nàng bị chửa hoang và theo một
tên du đãng. Khi đội cải cách về làng, hai vợ chồng nàng trở thành cốt cán. Và
gia đình người anh bác bị quy lên địa chủ. Nàng vạch mặt thằng bố hiếp nàng nhiều
lần và thủ đoạn bóc lột nông dân. Bố mẹ cho con cả hai mẫu ruộng, con bán đi
ăn, còn tố bố cho ruộng để trốn tránh cái tội bóc lột người lao động. Sau khi bị
trưng thu tài sản, người anh bác uất ức quá đã thắt cổ tử tự.
Hai vợ chồng
bác thuyền chài yêu cầu chị:
– Các bác
không có con, thấy cháu hiếu nghĩa, thuỷ chung nên thương yêu và mong muốn cháu
là con nuôi.
– Cháu cảm
ơn hai bác – Chị tiếp lời – đã cứu mạng cháu, lại dành cho cháu những tình cảm
yêu thương như con đẻ. Cháu không dám từ chối lòng nhân hậu ấy, ngược lại cũng
là ước mong của cháu nhưng cho phép cháu được xưng hô như cũ. Bởi vì mỗi lần nhắc
đến hai từ bố mẹ là lòng cháu lại quặn đau.
Từ đó, chị
có bố mẹ nuôi, hàng ngày kéo lưới với gia đình và làm những việc nội trợ. Còn
bán cá, thuỷ sản và mua sắm mọi thứ mẹ nuôi đảm nhiệm.
Thuyền rời
xa làng chị, xuôi về biển. Đôi khi chị cứ lẩn quẩn nghĩ rằng, giống như Thuý Kiều,
chị phản bội anh Nam và hiến dâng thân mình cho thằng Bình khi hắn ở chiến khu
về, có thể tránh được thảm hoạ cho gia đình hay không?
Hai tháng
trên sông nước, nỗi đau được pha trộn với tình thương yêu êm đềm của bố mẹ
nuôi, tâm hồn chị dịu dần, dường như tai hoạ đã lùi về dĩ vãng nhưng không, nỗi
nhục với thằng Bình lại dẫn đến một tai biến mới. Dòng máu khốn kiếp của con quỷ
ấy đã xuất hiện bên trong. Khi ấy chị lại nghĩ chỉ có cái chết mới xoá được vết
nhơ cũng như mọi nỗi đau. Bố mẹ nuôi biết chuyện lại hết lời khuyên can chị. Mẹ
nói thêm:
– Con
không nghe lời bố mẹ, liều mình bỏ bố mẹ là phạm tội bất hiếu. Còn đứa trẻ chưa
ra đời, mặc dù là sản phẩm của một nỗi nhục nhưng nó là đứa con vô tội. Vì lòng
nhân ái, con không nên giết nó. Bố mẹ sẽ hết lòng chăm sóc nó.
Nghe lời
khuyên giải, chị đành nhắm mắt để dòng đời trôi nổi.
Tháng 5 –
1956, cái sản phẩm được kết tinh bởi hai dòng máu tàn bạo và nạn nhân cất tiếng
khóc chào đời. Chị càng đau lòng vì nó giống hệt con quỷ ấy – cha của nó. Mẹ
nuôi chăm sóc, nâng niu thằng bé và cho cháu bú là việc chị phải làm.
Cuộc sống
lênh đênh trên thuyền, xa cách quê hương thân thương và trìu mến cũng như xa
cách cái mảnh đất đang chìm đắm trong máu và nước mắt đã hơn mười tám tháng. Một
buổi sáng, bầu trời mây đen bao phủ. Những hạt mưa như bụi bay theo từng cơn
gió xuân lạnh lẽo. Chị ngồi trên mui thuyền tưởng niệm những người thân đã khuất,
tưởng niệm tình yêu thơ mộng và tan nát, trái tim chị đau như dao cắt, cặp mắt
đẫm lệ khóc nỗi đời oan nghiệt. Một con đò sang ngang đến gần, thằng Bình trên
con đò ấy đang chằm chằm nhìn chị từ bao giờ? Bị tấn công bất ngờ, chị đ�
�ng dậy vào trong khoang
thuyền, thưởng cho hắn những lời đích đáng:
– Đồ khốn
kiếp! Quân khát máu! Giống mặt người dạ thú! Loài quỷ dữ!
Cũng may,
thời gian đó đã qua giai đoạn sửa sai nên hắn chẳng làm gì được chị. Hắn như điếc
quay mặt đi hướng khác và giục lái đò tăng tốc độ. Nghe mẹ nuôi nói, người ta
bàn tán xôn xao đến sửa sai trong cải cách. Chị ngẫm nghĩ, tại sao họ lại sửa
sai? Hàng vạn người vô tội chết oan, hàng chục vạn gia đình tan nát trong cảnh
phụ tử, phu phụ, huynh đệ tương tàn. Phải chăng điều đó là mục tiêu của họ? Cái
chính là họ đã chém giết lẫn nhau, diễn ra cảnh đồng chí tương tàn. Hàng nghìn
người vì ước mơ độc lập, tự do đã vào sinh ra tử, chiến đấu để xây dựng và bảo
vệ chính quyền cách mạng, không ngờ họ lại trở thành những nạn nhân trong cải
cách. Vả lại họ đã sửa sai được những gì? Người chết oan không thể sửa cho sống
lại đã đành, còn người mất của thì sao không được đền bù xứng đáng, chưa kể đến
bồi hoàn danh dự? Họ minh oan cho người chết bằng ba tấc lưỡi, họ trả nhà cho
người bị quy kết nhầm nhưng của cải bị vơ vét sạch và nhà cửa bị tan tác, tiêu
điều gấp một trăm lần giặc phá. Quả thật, họ vì công lý mà sửa sai, tại sao những
tên khát máu như Trần Bình không phải đền tội? Là một điều ngịch lý khi thấy rằng,
một kẻ giết người cướp của phải nhận án tử hình, còn những kẻ gây nên máu chảy
thành sông, cả dân tộc hoảng loạn trong đau thương: con mất cha, vợ mất chồng,
anh em ly biệt, nếp sống đạo đức và văn phong của xã hội bị chà đạp thô bạo, đập
phá tan tành, tại sao những kẻ đó vẫn ung dung ngồi trên lầu son, gác tía, tuôn
ra những lời giả nhân, giả nghĩa“sai thì sửa”?
Thực ra
Trần Bình chỉ là một tên lính trong đoàn quân khát máu hàng vạn người được huấn
luyện thành thạo cách vu oan giá hoạ, cách đảo lộn luân thường đạo lý: ông con,
bà con tố điêu cho thằng bố, con mẹ; Bà vợ bịa đặt cho thằng chồng… Việc sửa
sai của họ chẳng khác chi Tào tháo giết tên lính hầu rồi lại thương khóc tên
lính xấu số đó?
Những tên
khát máu như Trần Bình vẫn là tấm gương sáng tuyệt vời của chế độ, chắc chắn
chúng sẽ leo nhanh trên các bậc thang địa vị. Tuy nhiên trong sửa sai để lừa bịp
dư luận, họ tạm thời giấu những tấm gương ấy trong tủ kín.
Nghĩ như
thế, chị cho rằng, cuộc sống trên sông nước không còn ổn định nữa, liệu mà cao
chạy, xa bay đến một phương trời khác. Trước khi từ biệt quê hương chị muốn về
đắp mộ cho bố mẹ và những người thân nhưng việc đó chưa chắc đã làm được mà nỗi
nhục của chị sẽ lan tràn khắp vùng quê.
Bố mẹ
nuôi có người họ hàng xa ở Hà nội, gia đình này giàu lòng nhân ái. Mấy ngày,
ông bà lận đận về quê xin cho chị giấy thông hành có họ tên Nguyễn thị Hà, quê
quán thuộc tỉnh Hưng yên. Và một giấy khai sinh cho cháu có họ tên Phạm sinh
Giang (đẻ ra ở trên sông). Bố nuôi viết một bức thư ngắn đưa cho chị, với nội
dung sau:
Ngày 10 –
4 – 1957. Kính gửi bác Hiệp. Đã lâu ngày không gặp bác, lẽ ra tôi phải lên thăm
bác nhưng vì hoàn cảnh neo đơn mong bác cảm thông. Nay tôi viết vài dòng kính
thăm bác, các cháu và toàn gia.
Người
trao cho bác lá thư này là đứa con nuôi đáng thương của tôi trong một hoàn cảnh
rất éo le, oan nghiệt.
Dám mong
bác hết lòng giúp đỡ cháu để có một cuộc sống ổn định. Chúc cả nhà mạnh khoẻ, gặp
nhiều may mắn, xin đội ơn trời biển của bác…
Không thể
nấn ná lâu, ngày chia ly đã đến. Về phương Đông, vừng dương mới mọc, dòng sông
Hồng lăn tăn ánh bạc, tiếng cuốc kêu khắc khoải từ những luỹ tre hai bên bờ
vang lại. Phương trời Tây bắc mù mịt mây đen, lòng chị buồn da diết, nước mắt
thầm lăn trên gò má. Bố mẹ nuôi ngồi đó, hai người đều ủ rũ, mặt cúi xuống,
cũng không ngăn nổi hai dòng châu.
– Kính
thưa bố mẹ! – chị nói, lần đầu chị xưng hô như thế – Từ nay con và cháu phải xa
bố mẹ, lòng con bùi ngùi thương nhớ. Biết đâu nơi đất khách quê người con cũng
không thoát khỏi cảnh đắng cay, tủi nhục không thể đền đáp công ơn như Thái sơn
của bố mẹ. Con xin lạy bố mẹ, hãy tha thứ cho con – một đứa con bất hiếu.
Mẹ nuôi
oà lên khóc và nói:
– Con ơi,
con đừng nói thế. Bố mẹ trước sau chỉ mong cho đời con bớt khổ. Bố mẹ đã và sẽ
làm những gì có thể để mang lại cho con nguồn an ủi, nếu không phải là niềm
vui. Bởi cái xã hội tàn bạo, điên đảo này đã cướp đi tất cả trong đó có bầu nhiệt
huyết của tuổi trẻ và niềm hạnh phúc của con. Bố mẹ chỉ thương con, không bao
giờ trách con đâu Bích Hằng ạ.
Chị bế
cháu sang chiếc thuyền buôn đi ngược dòng về Hà nội. Bố mẹ nuôi và chị nhìn
nhau cho đến khi hình ảnh mờ hẳn trong ánh sáng hè, chị mới nhìn về phía trước.
Phương trời Hà nội mây đen che kín hình như báo trước cho chị một tương lai mù
mịt.
Gia đình
bác Hiệp yêu quý chị như con cháu trong nhà. Một năm đầu, chị làm những việc nội
trợ. Cô gái em bác Hiệp dẫn chị đi khắp nơi trong thành phố để chị học tập cách
kinh doanh, buôn bán. Sau đó bác Hiệp cho chị gian nhà này và ba trăm đồng vốn
để buôn hàng xén (tính theo tiền sau ngày đổi 1958).
Ngồi trên
vỉa hè đường phố chị chỉ sợ gặp anh Nam. Nếu không may giáp mặt người xưa thì
ăn nói với nhau thế nào đây? Một hôm chị gánh hàng đến đường Nam bộ, anh đi xe
đạp qua và nhìn chị. Khi ấy, tim chị như ngừng đập. May quá, chị đã thay đổi
nhiều nên anh không biết chị là ai nữa. Tuy nhiên, sự kiện đó làm chị đau buồn
đến hàng tuần chưa nguôi. Có người hỏi, nếu anh Nam nhận ra chị sẽ ra sao? Câu
trả lời thật giản đơn, khi tình yêu đã bị xã hội giày xéo lên thô bạo, dù còn
tình thương và lòng độ lượng cũng không th�
�� đem lại một cuộc sống
bình thường cho đôi lứa. Buổi tái ngộ chỉ thêm phần đau khổ và tủi nhục. Chị rất
thương anh ấy và cầu mong anh quên chị để đi đến một tình yêu mới. Nhưng nếu
anh ấy thuộc về một người phụ nữ khác thì còn cái gì là ràng buộc chị trên cõi
đời này? Mỗi lần nghĩ đến anh là một lần chị đau khổ xen lẫn niềm tự hào và hạnh
phúc. Kỳ quặc chưa, tại sao chị lại mang ý nghĩ tội lỗi ấy? Có lẽ đó là điều
ích kỷ nằm trong sự huyền bí của tình yêu không ai lý giải nổi. Con người có thể
chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo nhưng không ai muốn nhường tình yêu và sự
vinh quang.
Cuối năm
1960, một buổi sáng chị bán hàng ở ngã ba phố Phan bội châu – Trần hưng đạo. Đến
mười giờ, có một bác vận bộ đồ lao động đến mua chỉ khâu. Nhác trông thấy quen
quen, chị liền hỏi:
– Bác ở
quê lên chơi chăng?
– Không
phải ở quê, tôi ở nông trường Hà bắc.
– Có phải
quê bác ở Hưng nhân, Thái bình không?
– Phải rồi,
sao chị biết?
– Cháu thấy
bác quen quen nên hỏi thế.
– Nếu ở
cùng quê, chị có biết thày Lãm không, trước kia nhà tôi ở bên cạnh nhà thày?
Nghe bác
già nói, chị rùng mình như bị điện giật.
– Cháu có
biết nhưng xa quê lâu rồi.
– Tôi muốn
về quê thăm và cảm ơn thày Lãm, nếu không có thày, cả nhà tôi bị chết đói năm ất
dậu. Chả là đang lúc nguy khốn, ba bốn ngày không có gì ăn thì thày Lãm đem
sang cho hơn một yến gạo. Nhờ vậy, gia đình tôi mới có ăn để bồng bế nhau đi
tha phương cầu thực…
Bác nói đến
đây làm chị sực nhớ ra, hồi cải cách, chính vì gia đình này mất tích mà thằng
Bình cùng bọn cốt cán đã vu cho thân phụ chị cùng anh Lân dựa vào cường hào địa
phương ức hiếp gia đình nông dân Trần văn An phải bỏ nhà ra đi chết đường, chết
chợ. Một tội nợ máu của hai người.
– Thưa
bác, cháu nghe tin gia đình thày Lãm không còn ai nữa, bị xoá sổ trong cải cách
ruộng đất rồi.
Bác già sửng
sốt:
– Chị nói
thực chứ? Mắc tội gì mà đem tru di cả nhà?
– Cháu
không rõ lắm, hình như sự vắng mặt của gia đình bác là tội nợ máu của hai bố
con thày Lãm.
– Trời
ơi! Bọn sát nhân! Đảo lộn rồi, đảo lộn rồi. Người cứu sống người lại thành tội
giết người. Tôi cũng mắc lừa bọn sát nhân, chị ạ. Bác già bắt đầu kể.
– Hai vợ
chồng tôi cùng hai em đang đói mềm, nằm chờ chết thì thày Lãm cho gạo. Chúng
tôi nấu ăn một bữa no nê rồi dắt nhau đi, gạo còn lại mang theo để ăn đường. Cả
gia đình lang thang sang Nam định, vào Thanh hoá, Nghệ an.
Dần dà
sang Lào và cuối cùng là đất Thái. Tại một vùng quê, chúng tôi làm thuê sinh sống.
So với nước người thì khổ nhục nhưng với cảnh khốn cùng ở nông thôn nước nhà
thì nơi đó dễ chịu. Mỗi buổi lao động, có rượu uống, có bát ăn, bát để. Sau
ngày hoà bình, nghe đài tiếng nói Việt nam: nào là đất nước đã độc lập, tự do,
không còn áp bức bóc lột, nào là nông thôn đang đổi mới, cơ khí hoá trong nông
nghiệp và điện khí hoá… Họ còn cử cán bộ sang dỗ ngon, dỗ ngọt. Cùng thời gian
đó, có một vị linh mục từ miền Nam đến nói với chúng tôi – những giáo dân: Về bắc
hay nam là tuỳ bà con. Tôi được biết ngày nay ở miền bắc mọi thứ nhà nước đều
quản lý, mua bán phải xếp hàng, ăn uống có tiêu chuẩn cho từng người, nông thôn
vào làm hợp tác theo công điểm… Nghe vị linh mục nói, tôi muốn ở lại nhưng hai
đứa con tôi đã lớn, chúng phản đối: Bố đừng nghe giọng lưỡi của bọn phản động.
Cách mạng mang lại ruộng đất, cơm áo cho người nghèo, gia đình ta lại chết đói
hụt năm ất dậu. Do vậy, đảng và chính phủ sẽ quan tâm và chiếu cố đến mình.
Chúng tôi về nước mới cách đây mấy tháng. Tôi xin về quê cũ nhưng họ trả lời,
Thái bình đất hẹp người đông, gần đây theo chính sách của đảng, đang nô nức đi
xây dựng quê hương mới ở miền rừng núi. Họ đưa gia đình tôi lên Bắc giang và
làm việc ở một nông trường. Tiền lương là thước đo về mức sống, làm chúng tôi
ôm nhau khóc vì hối hận. Chị tính bên Thái, mỗi công làm thuê của người lao động
được mười lăm. Bọt mua được hai mươi cốc cà phê trứng. Còn ở nông trường, mỗi
công được một đồng ba hào năm xu chưa mua được hai cốc. Nếu như cái máy mà làm
việc, không ốm đau gì, ngoài tiêu chuẩn dăm lạng thịt một tháng cũng chỉ đủ cơm
rau. Tôi đã nhiều tuổi, mệt mỏi, ốm đau luôn, số tiền dành dụm được ở bên Thái
mang về đã ăn tiêu gần hết. Bây giờ sống bằng phương kế gì đây?
– Còn may
cho bác – chị tiếp lời – nếu không đi, bác sẽ thành cốt cán, vu oan giá hoạ cho
thày Lãm, đổi ân thành oán.
– Chị cho
rằng, mọi người nghèo đều bất lương hay sao? Không phải thế, tôi là một giáo
dân không làm điều ác mới mong nhận được phước lành của chúa, mới không bị trừng
phạt nơi địa ngục khi qua đời.
Nghe bác
An nói, chị thoáng nghĩ, một người còn lòng tin ở thế giới bên kia thì chắc chắn
lòng tin đó ngăn chặn được nhiều hành vi tội ác. Sự nguy hiểm của chủ nghĩa vô
thần là dạy con người: chết là hết. Họ tôn thờ và khuyến khích theo chủ nghĩa
khoái lạc của Epicure. Hơn nữa, xã hội này, chém giết, đầy đoạ con người cũng
trở thành khoái lạc.
– Một gia
đình mấy đời dạy học – Bác An tiếp – chỉ mang lại điều hay, điều tốt cho mọi
người mà còn bị hại, đốt sách, giết người hiền rồi đất nước này sẽ đi về đâu?
Đồng hồ
ga điểm mười mot tiếng, bác An vội vã chào chị để kịp chuyến tàu về Hà bắc. Chị
cũng quẩy gánh về nhà nghỉ.
Thời gian
này, cả thành phố bàn tán nhiều về chính sách cải tạo tư sản, công tư hợp doanh
và cải tạo tiểu thương. Có nhiều chuyện cười ra nước mắt, những gia đình tư sản,
ngoài cửa đốt pháo ăn mừng, trong nhà vợ chồng con cái ôm nhau khóc vì phải hiến
dâng tài sản cho nhà nước. Những người buôn bán nhỏ phải tự tìm kiếm công việc
khác để sinh sống. Họ muốn biến thành phố buôn bán, ăn chơi thành một khu lao động,
mỗi người biến thành một cái máy làm theo điều khiển. Thực tế họ làm được những
gì, thời gian sẽ biết nhưng hiện tại biết bao gia đình cùng quẫn hết kế sinh
nhai. Chị cũng là người trong cuộc, công an và khối phố nhiều lần đến nhà vận động
và doạ nếu không chấp hành sẽ áp dụng biện pháp chính quyền.
Thế là thời
kỳ hoàng kim ngắn ngủi của chị đã trôi qua. Vào làm trong tổ hợp tác này, chị
tưởng mình đơn độc, nhưng chị đã nhầm, đại đa số là những người chịu cảnh chèn
ép, đoạ đầy của xã hội.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 9
HỒI HAI –
Hà nội
II Năm
năm nối tiếp (3)
Chúng tôi
sắp về thì chị Trần thuý Hạnh cũng đến. Chị Hạnh cùng làm tổ hợp tác, rất thân
với chị Bích Hằng. Năm ấy, chị đã ngoài ba mươi tuổi, mảnh đời xuân của chị Hạnh
như một bông hoa để dần tàn héo, không dành cho ai. Nhân thể chị cũng ôn lại những
diễn biến của cuộc đời và gia đình chị:
Chị đang
sống hạnh phúc trong mái ấm tình thương thì năm 1951, mẹ chị mắc bệnh qua đời.
Năm 1953, thân phụ chị lấy một người vợ kế, chị không dám phản đối người nhưng
than phiền về cái đạo đức bất hảo của người dì ghẻ. Cô ta là gái đã có chồng,
năm 1948 bộ đội đóng quân ở làng, nhân ngày chồng đi vắng, cô ta mời một anh bộ
đội trẻ tuổi hơn mình về nhà và nói:
– Hôm
nay, chồng em đi vắng, em coi anh như chồng anh. Vậy đêm nay, anh ngủ với em để
thể hiện tình quân dân cá nước.
Nghe nói,
anh bộ đội sợ, bỏ chạy. Từ đó, có tiếng đồn, gái làng này bắt cóc bộ đội làm
tình. Khi về nhà, người chồng biết chuyện đã li dị vợ.
Gia đình
cô ta có một vườn mía rộng. Một buổi trưa, cô ta gọi cháu trai con người anh ruột
ra vườn ăn mía. Năm ấy, cháu trai mới mười sáu tuổi. Sau khi ăn chán mía, cháu
định về thì cô giữ lại, tự lột hết quần áo mình, ôm lấy cháu bắt làm tình. Lúc
đầu cháu sợ nhưng sau ít giây lưỡng lự, cháu cũng ưng thuận chiều cô. Ăn vụng
quen mồm, cứ đến buổi trưa hai cô cháu lại rủ nhau ra vườn mía. Người chị dâu
biết tính em gái chồng, tiến hành theo dõi đã bắt được quả tang cuộc bướm hoa.
Đó là hai hiện tượng đặc biệt, còn những chuyện dâm ô khác thì nhiều lắm. Dân
làng đặt cho cô cái tên là con quỷ cái. Chẳng hiểu sao, thân phụ chị quyết định
lấy cô ta, bỏ qua những lời khuyên can của chị và dư luận bên ngoài. Khi về nhà
chị, cô ta tìm mọi cách để hành hạ con chồng, nhất là hai em trai của chị còn
ít tuổi: đứa lên chín, đứa lên mười.
Không chịu
đựng nổi cuộc sống dì ghẻ, con chồng, chị bỏ quê hương lên Hà nội buôn bán và
có ý định đưa cả hai em nhỏ đi theo.
Mùa hè
năm 1955, chị định về quê thì gặp người làng lên chơi, nói:
– Chị đừng
nói nữa, hiện nay bác trai bị quy lên địa chủ và phản động. Còn dì ghẻ đã bỏ
nhà và trở thành cốt cán. Chị về, nếu họ bắt được không thoát nạn đâu…
Chị vừa
đau khổ, vừa thắc mắc gia đình chị lên địa chủ ở chỗ nào? Chỉ có một mẫu tư điền
ông bà để lại, nhà tự làm lấy, không thuê mướn người làm, không phát canh, thu
tô. Mặt khác, thân phụ chị hiền lành, ngoài họ hàng thân thích, không quan hệ với
ai, đêm ngày chỉ vùi đầu vào công việc thì phản động ở đâu?
Hơn một
tháng sau, chị được tin sét đánh ngang tai, thân phụ chị bị bắn, nhà cửa bị tịch
thu toàn bộ. Cái chết của người chủ yếu do mụ dì ghẻ vu oan giá hoạ. Trước cảnh
đau thương đó, chị phải về quê tìm hai em nhỏ. Tuy nhiên đến chín mười giờ đêm
chị mới dám vào làng. Chị đến nhà ông bác ruột, tức khắc bác đuổi đi:
– Nhà tao
không quan hệ gì với con tên phản động.
Dưới ánh
trăng mờ, chị lặng lẽ khóc, thất thểu đi trên đường làng và thầm nhủ:
– Các em
ơi, chị đang đi tìm, bây giờ các em ở nơi đâu?
Đường ra
cánh đồng, có một cây đa to, theo linh tính chị đến gốc đa này, thấy hai đứa trẻ
quần đùi, áo may ô rách bươm, ôm nhau dựa vào gốc cây đang ngủ. Chị ghé sát vào
mặt chúng mới nhận ra hai đứa em mình. Chị đập vào người chúng và gọi:
– Các em
ơi, chị Hạnh đây.
Đứa lớn bừng
tỉnh, hoảng hốt kêu lên:
– Con lạy
bà, lạy bà cho chúng con ngủ nhờ.
Xót xa và
xúc cảm quá, chị ôm lấy hai em khóc:
– Các em
ơi, chị Hạnh của các em đây, có bà nào đâu?
Nhận ra
chị, hai đứa khóc thảm thiết nhưng chúng chẳng dám khóc to. Chị nói với chúng:
– Các em
ơi, đừng khóc nữa, hãy theo chị đi ngay khỏi nơi này, không thì nguy hiểm.
Cả đêm,
ba chị em đi miết đến thị xã mới dám nghỉ chân, trời cũng vừa sáng. Sau khi vào
cửa hàng ăn uống, hai em vừa khóc vừa kể lại:
– Dì đi
theo một ông cốt cán mấy ngày thì gia đình ta bị quy lên địa chủ và phản động.
Ngày bắt bố dì cũng đến lục soát, tìm kiếm mọi thứ đưa vào buồng khoá lại, niêm
phong. Còn giành khoai ở góc hè, chúng em xin dì để luộc ăn thay cơm thì dì
quát:
– Ai cho
con tên phản động, phải cho chúng mày chết theo thằng Cẩn. Dì còn nói thêm:
– Từ nay,
tao không dì con gì với chúng mày, phải gọi tao là bà, nghe chưa?
Không có
gì ăn, chúng em bảo nhau ra đồng móc cua, mò ốc đem ra chợ bán để mua khoai, có
hôm mua được bảy tám lạng, hôm được hơn cân. hôm họ bắn bố, tịch thu tài sản và
đuổi chúng em ra khỏi nhà, chúng em đang mặc bộ quần áo mới chị cho dịp tết, dì
bắt phải cởi ra rồi quẳng cho mỗi đứa cái quần đùi, chiếc áo may ô rách. Chúng
em rủ nhau đến nhà bác, nhà cô đều bị đuổi. Bác và cô còn bảo, không ai dám chứa
con tên phản động. Chúng em đành phải đến gốc đa ngủ ban đêm. Có lần dì đi qua,
nhìn thấy dì quát:
– Gốc đa
của ông bà nông dân, ai cho chúng mày được ngủ ở đây?
Chúng em
khóc lóc van xin mãi dì mới bỏ qua. Hằng ngày chúng em tiếp tục móc cua, mò ốc
bán được trăm nào phải mua khoai luộc vì gốc đa có gì đâu mà nấu nướng? Chúng
em cơ cực lắm chị ơi.
Bố bị bắn
sau một tuần, có một bà già ở chợ, chúng em không quen, nói nhỏ:
– Các
cháu phải mua hương thắp và đắp mộ cho bố chứ!
Hôm ấy
chúng em bán cua và ốc đáng nhẽ mua được hơn một cân khoai nhưng bảo nhau mua
hương đem đến mộ bố. Vài ngày trước mưa to, mộ bố lún xuống thành một hố nước
hình chữ nhật. Mai cuốc chẳng có, chúng em ra bờ ruộng móc đất đắp vào mộ bố,
nhưng mới được mấy hòn thì dì và một ông cốt cán đến, quát:
– Chúng
mày to gan thật, ai cho đắp mộ cho tên phản động?
Dì ném bó
hương xuống ruộng rồi cùng ông cốt cán bắt chúng em về điếm trói lại, giam đến
tối mới tha.
Cuộc sống
dưới gốc đa, ăn khoai luộc, uống nước lã được hai tuần bình an vô sự. Đến một
hôm, chúng em bắt được đầy giỏ cua, lưng rổ ốc, hai đứa bảo nhau, hôm nay sẽ
bán được nhiều tiền hơn, phải mua bánh tẻ ăn cho đỡ nóng ruột thì lại gặp dì.
Dì nói:
– Cua ốc
ngoài đồng là của
ông bà nông dân, ai cho phép chúng mày được bắt?
Nói xong,
dì đổ cua ốc xuống sông, giẫm nát cái giỏ và cái rổ. Dì còn doạ:
– Từ rày
còn bắt cua ốc nữa, tao sẽ trói vào cột điếm cho đến chết.
Từ hôm
đó, hai anh em bàn nhau đi ăn xin ở thật xa, vì có xin ở gần cũng chẳng ai dám
cho. Xin được cơm hay cái gì chín thì ăn ngay. Ai cho gạo, chúng em cởi áo may
ô dúm lại mang đi, được nhiều, mang ra chợ bán hoặc đổi khoai luộc, bánh.. Hôm
nay, chúng em xin được nhiều cơm ăn no, còn gạo mang theo về gốc đa. Buổi tối,
dì xách đèn đi qua, lục soát thấy gạo, dì tuyên bố tịch thu. Dì còn bảo:
– Ông bà
nông dân làm ra thóc gạo, ai cho phép chúng mày được ăn. Em xin mãi, dì mới trả
cái áo may ô gói gạo…
Trước
hoàn cảnh ấy, chị quyết định sống cô đơn để trông nom, chăm sóc hai em nhỏ. Điều
khó xử là khi ấy chị đã có người yêu. Buổi chia tay đã diễn ra nhiều nước mắt.
Chị nói:
– Hiện
nay, em phải chịu tang thân phụ em và lâu dài em phải nuôi hai em nhỏ. Không
còn con đường nào khác, anh cho phép em được cắt đứt quan hệ với anh.
– Anh sẽ
đợi em đến ngày đoạn tang thân phụ – anh ấy nói – còn hai em nhỏ, anh sẽ coi chúng
như các em mình. Anh không thể xa em.
– Cảm ơn
anh, em biết hiện tại vì tình yêu, anh có ý nghĩ vô cùng cao thượng. Nếu chúng
ta thành vợ chồng phải có con mà cuộc sống đầy những khó khăn. Đến lúc đó, anh
sẽ oán trách em là người vợ đoảng. Đối với các con, em là người mẹ thiếu tình
thương, đối với các em dại, em là người chị thiếu trách nhiệm. Tình yêu thương
của chúng ta dù có rộng bao la nhưng đời sống của xã hội lại chật hẹp, bon chen
không cho phép. Anh hãy quên em đi, đừng thương yêu em nữa, cánh cửa tương lai
đang mở rộng trước cuộc đời anh.
– Anh coi
em như một người bạn được không?
– Cả điều
đó cũng không nên anh ạ. Mỗi lần thấy anh là hình ảnh quá khứ đắng cay sống lại.
Do vậy, anh cứ coi em như người xa lạ, chưa gặp bao giờ. Lưu luyến đứa con gái
quê mùa, bất hạnh này làm gì nữa để cả hai đều vấn vương, đau khổ?…
Mỗi lần
nghĩ đến chị Hạnh, tôi lại thấy tủi hổ về người chị ruột của mình. Tôi đã gặp
hai người đàn bà có tên là Hạnh và đều có hạnh. Chị Trần thuý Hạnh đã hy sinh hạnh
phúc của đời mình để cứu vớt hai em nhỏ, chị là tấm gương về tình thương cao cả.
Tuy nhiên, chị không được xã hội công nhận là người có hạnh. Còn cô Hạnh đấu tố
bố hồi cải cách như Phan Lung, bạn học tôi đã tường thuật lại, là tấm gương
sáng chói về đạo đức cách mạng.
* *
*
Năm ấy,
bác Vũ thị Hiền bốn mươi nhăm tuổi dáng người thanh nhã, lịch thiệp. Xưa kia,
bác là cô gái bán hoa Ngọc Hà. Chồng bác Hiền, bác Lê ngọc Văn là thày dạy Anh
ngữ trường Bưởi.
Sau năm
1954, bác Văn là giáo viên lưu dung vẫn dạy ở trường cũ. Đến năm 1960, nhà nước
ra chính sách lương thống nhất. Vài lần bác Văn làm đơn xin hạ thấp lương như
trí thức cách mạng chưa được chấp nhận, bác làm đơn xin nghỉ việc. Năm 1961,
bác Hiền cũng phải bỏ nghề buôn bán, vào làm tổ hợp tác này, kinh tế mỗi ngày một
sa sút, thiếu thốn.
Vợ chồng
bác Hiền có hai đứa con: một trai – Hưng hai mươi tuổi, học hết lớp bảy thì bỏ
để học nghề tại nhà máy cơ khí Hà nội; một gái – Nga mười lăm tuổi, đang học lớp
tám cũng phải bỏ để học nghề vì hoàn cảnh khó khăn. Cả tổ hợp tác, ai cũng gán
ghép tôi là con rể tương lai của bác Hiền. Bác Hiền cũng nửa đùa, nửa thật hỏi:
– Cháu muốn
làm rể bác không?
– Cảm ơn
bác, cháu không dám.
– Tầng lớp
cùng đinh cả, tại sao lại không dám?
– Thưa
bác, cháu không được ở vị trí phó thường dân mà là kẻ khốn cùng của xã hội.
Cuối mùa
xuân năm 1962, tôi đến nhà bác Hiền ở trước vườn hoa hàng Đậu, trên gác. Nhìn tấm
hình chụp cả người Nga treo trên tường, tuy thân thể chưa phát triển nhưng Nga
là một thiếu nữ xinh đẹp: cặp mắt bồ câu, cổ cao, khuôn mặt trái xoan duyên
dáng. Bác Văn có dáng người cao lớn như Tây, tuổi chưa đầy năm chục, mái tóc đã
hoa râm, trên trán hằn lên những nếp nhăn sâu và đậm, cặp mắt tinh nhanh, vẻ mặt
phảng phất một nỗi buồn man mác.
– Đây là
cháu Tâm cùng làm với tôi, ông ạ – Bác Hiền giới thiệu với chồng.
– Cháu ngồi
chơi – Bác Văn nói – bác được nghe bác gái nói nhiều về cháu. Là một giáo viên,
bác biết những người thông minh như cháu thì hiếm lắm, rất tiếc là chẳng hợp thời.
Như chợt
nhớ ra, bác Văn hỏi:
– À, việc
làm ở tổ hợp tác đang ổn định, liệu có được lâu dài không, cháu?
– Thưa
bác, cháu cho là xã hội này chỉ có khó khăn, thiếu thốn mới lâu dài, còn việc
làm ổn định là tạm thời thôi.
– Gia
đình bác hiện nay, bác gái là lao động chính. Nếu việc làm lại thất thường,
lương không có như trước thì gay go lắm.
– Bác là
một trí thức, không hiểu thời thế hay sao mà năm 1954 không đi Nam?
– Bọn trí
thức chúng tôi như bầy cừu non về chính trị. Cứ tưởng… thế mới khổ. Chiếc bánh
vẽ thơm ngon đang được quảng cáo rùm beng ở miền Nam, đến thời gian nào đó người
Sài Gòn cũng nói cứ tưởng… như chúng tôi. Con người mắc nhiều sai lầm đều có thể
sửa được nhưng mắc bệnh ngây thơ về chính trị thì chỉ một lần thôi, nếu chữa khỏi
bệnh này phải chờ ngày về cõi. Tôi còn nhớ trí thức Hà nội nghe ông Đồng nói
chuyện tại nhà hát nhân dân sau ngày tiếp quản:“Tôi thay mặt đảng và chính phủ
hoan nghênh các đồng chí có tinh thần yêu nước, không đi Nam. Các đồng chí ở lại
xây dựng đất nước, ai làm việc gì vẫn giữ nguyên cương vị đó. Hiện nay, các đồng
chí tạm hưởng mức lương của đế quốc trả. Tôi khẳng định rằng, đây là đồng lương
mạt hạng của đế quốc. Đất nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn, các đồng chí tạm
thời hưởng mức lương mạt hạng đó. Sau này, khi kinh tế đất nước phát triển,
lương của các đồng chí phải tăng gấp hai ba lần hiện nay…”
Nói xong,
ngài phó thủ tướng lấy khăn mùi xoa lau nước mắt cá sấu tỏ tình thương… Tưởng
thật lòng, bọn trí thức chúng tôi thi nhau rơi lệ.
Cũng
trong buổi nói chuyện đó, giờ giải lao, ngài tổng bí thư Trường Chinh rẽ đám đông
đến ôm hôn cụ đồ nho đã dạy ngài học tiểu học ở làng Hành thiện. Ngài nói:“Thày
tha lỗi cho con, vì bận việc nước lâu nay con không đến kính thăm thày…”
Một lần nữa,
chúng tôi lại thi nhau rơi lệ vì cảm động. Rồi năm sau. chinh cái nhân vật tỏ vẻ
đầy nhân nghĩa ấy, dưới quyền quyết định của ông Hồ, là đạo diễn tấn thảm kịch
thời kỳ cải cách. Và là tấm gương chói lọi để cấp dưới noi theo về lập trường
cách mạng, ngài đã ra lệnh bắn chú ruột mình.
Thời kỳ họ
điều chỉnh lại lương cho công chức lưu dung xuống như lương của cán bộ cách mạng.
Có người viết hàng chục lá đơn vẫn không được chấp nhận. Bác viết hai lần, họ
trả lời phải để nghiên cứu, bác viết tiếp lá đơn xin thôi việc. Thế là xong.
Nhiều người bảo bác không thức thời. Nhưng đến lúc này mới thức thời thì đã muộn,
cái bất hạnh đến vẫn không thể tránh. Nhiều công chức ngoan ngoãn phục tùng, có
người cúc cung tận tuỵ, cũng đã lên đường vào trại tập trung.
Cách đây
ba năm, bác đọc quyển chuyên chính vô sản của Lenine. Đây là lần đầu bác đọc
sách chính trị. Sách có đoạn viết với nội dung sau:“Sau khi giai cấp vô sản nắm
được chính quyền, chúng ta chưa quen biết việc quản lý nhà nước nên tạm thời
thuê những trí thức tư sản với tiền lương rất hậu. Sau đó, chúng ta tống cổ
chúng ra khỏi bộ máy nhà nước. Nếu chúng có hành vi chống lại, chúng ta sẽ cắt
điện, cắt nước, cắt bánh mỳ, thậm chí đưa chúng vào nhà giam..”
* *
*
Nói chung
những người trong tổ hợp tác này đều rơi vào cảnh bị xã hội cướp mất kế sinh
nhai nên họ yêu thương và thông cảm với tôi. Đang lúc việc làm ổn định, tiền
công tăng dần thì ông tổ trưởng đi họp ở ban liên hợp tác xã khu về phổ biến:
– Chủ
trương của trên, tổ hợp tác này phải sáp nhập với bốn tổ hợp tác nữa để thành lập
hợp tác xã cấp cao. Ông cho biết thêm:
– Làm và
hưởng theo sản phẩm của tổ hợp tác ta là không đúng với đường lối của đảng.
Cách làm ăn ấy chạy theo lợi nhuận là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sắp tới,
xã viên được quy định lương hàng tháng theo tay nghề. Người làm tốt, cuối năm
được bình bầu là lao động tiên tiến.
– Làm ra
nhiều sản phẩm không được thêm, nhưng được ít sản phẩm thì sao? – Tôi hỏi:
– Nếu ít
sản phẩm không đủ lương phải trừ theo tỉ lệ phần trăm.
– Sách
báo thường tuyên truyền, chủ nghĩa xã hội, làm tuỳ sức, hưởng tuỳ tài, tại sao
làm ra nhiều sản phẩm không được hưởng nhiều?
– Cái mâu
thuẫn ấy tôi cũng chịu, cậu lên khu mà hỏi.
– Làm nhiều,
làm tốt không được hưởng thêm – Khoa nói – Cuối năm, lấy mảnh giấy công nhân
lao động tiên tiến gặm ra mà ăn thêm. Hay quá, chủ nghĩa duy vật mà bắt con người
ăn những món ăn tinh thần: lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua rồi anh hùng
lao động để cải thiện đời sống. Thưa các bác, các chị chúng ta tiến lên hợp tác
xã cấp cao, rồi xí nghiệp địa phương để mức sống của mình tăng dần theo cấp số
cộng với công sai là một số âm. Như các nhà máy, công nông trường, chúng ta sẽ
làm theo cái khẩu hiệu ai cũng thuộc lòng, hàng ngày phải nghe trên đài, loa
phóng thanh làm cái tai nhức nhối như bị tra tấn:“Để lấy thành tích chào mừng
ngày…”.
Ngoài ông
tổ trưởng, không ai có nghề nghiệp gì gọi là kim khí hay cơ khí nếu quy định
lương theo tay nghề thì sống sao được? Cả tổ, ngoài tôi và Khoa đều lần lượt bỏ
trước khi sáp nhập.
Hợp tác
xã mới có văn phòng ở hàng Mã. Tôi và Khoa chuyển sang phân xưởng làm long đen
và móc cáp cho bưu điện. Sau vài tháng sáp nhập, ban quản trị hợp tác xã mâu
thuẫn, chia rẽ, bè phái. Họ cần sự liên minh của xã viên để đấu đá lẫn nhau do
vậy tôi và Khoa được xếp vào mức lương sáu mươi đồng một tháng. Nói cho đúng, bậc
lương không phải chỉ trả theo tay nghề mà có cả công thuê những tên lính xung
trận trong cuộc đấu tranh nội bộ vì quyền lợi riêng tư của từng thành viên
trong ban quản trị. Họ không biết rằng, tôi không bao giờ a dua, theo đóm ăn
tàn mà chỉ hành động theo lẽ phải và đấu tranh để bảo vệ chân lý.
Tổ hợp tác
làm hợp đồng cho tổng cục bưu điện trước ngày sáp nhập, tiền lương cao gấp hai
ba lần theo quy định. Họ làm theo sản phẩm đúng với câu“làm tuỳ sức, hưởng tuỳ
tài”. Trong thời gian đó được gọi là thời kỳ hoàng kim của hợp tác xã, các cô,
các cậu xã viên tiền xúng xính. Sau khi thành một phân xưởng của hợp tác xã cấp
cao, lương của họ tụt xuống nhiều lần, mặc dù còn thừa tiền phải nhập vào quỹ của
hợp tác xã gửi ngân hàng để nhà nước quản lý.
Để đối
phó với sự thiệt thòi đó, ông Dần – phân xưởng trưởng bàn với tôi:
– Mồ hôi,
công sức đổ xuống sông, xuống biển thì phí quá, tôi nhờ anh mỗi tháng làm một bản
lương giả đưa lên ban quản trị.
Nhờ vào
việc giả mạo này mà hàng tháng rút ra được hàng nghìn đồng. Ông Dần cho phân xưởng
ăn liên hoan một phần, còn lại bao nhiêu ông ta có ý định chiếm đoạt. Sáu tháng
cuối năm 1962, số tiền ước tính khoảng sáu nghìn đồng trong túi ông Dần. Không
chấp nhận sự bất công, tôi yêu cầu phải chia cho mọi xã viên trong phân xưởng.
Ông ta phản đối:
– Việc
này, tôi làm, tôi hưởng, nếu bị phát hiện tôi chịu tội. Riêng anh có quyền lợi
xứng đáng, còn lại là của tôi.
– Đây là
công sức chung, do cơ chế của nhà nước mà họ bị thiệt thòi. Bác đề ra sáng kiến
này, riêng bác có quyền lợi cao hơn, còn lại bác nên chia đều.
Ông Dần
khăng khăng từ chối. Do vậy, tôi và Khoa làm đơn đề nghị khu giải quyết. Một cuộc
họp phân xưởng hơn bốn chục người tham gia để tranh cãi về việc đó. Tôi không
ngờ đấu tranh chống lại bất công mà hai đứa chúng tôi bị cô lập. Đại bộ phận đều
im lặng hoặc bênh vực ông Dần. Và cuối cùng là sự bất công đã chiến thắng.
Họp xong,
một bác già ở Cầu Diễn nói với tôi:
– Tôi tưởng
cậu có học sao mà ngu thế?
– Đấu
tranh chống lại bất công mà ngu à bác?
– Có phải
cậu chống lại bất công đâu, cậu thay đổi từ một sự bất công này bằng một sự bất
công khác mà thôi. Nếu cậu thắng ông Dần thì số tiền trong túi ông Dần sẽ chuyển
lên khu, vào ngân hàng nhà nước, chẳng ai được gì cả.Vì vậy tôi đã vận động mọi
người trong phân xưởng không đồng tình với cậu.
Bác già
tiếp:
– Bất
công, vô lý là bản chất của chế độ này, tại sao cậu dám đấu tranh cho lẽ công bằng,
có khác gì múc nước đổ ra sông, hơn nữa mua vạ vào thân? Hôm thao diễn kỹ thuật
và năng suất, nhiều người làm như điên như dại để lấy tiếng khen, lấy thành
tích hão, tôi cho là một lũ ngu, mắc lừa sự ph
ỉnh phờ của họ. Các cơ quan ký hợp đồng với hợp tác xã mình lấy đó làm mốc để hạ
giá thành sản phẩm. Tôi hỏi cậu, cái máy cơ khí còn hỏng hóc huống chi con người,
có thể làm điên dại hết ngày này qua tháng khác được không?
Phải nói
thật là nhà nước họ chỉ muốn vắt kiệt sức lao động chứ chẳng bao giờ quan tâm đến
đời sống người dân. Con người phải ăn để sống chứ không thể nhịn đói mà ngắm bằng
khen lao động xuất sắc hay tiên tiến. Quả thực họ muốn năng suất lao động cao,
hạ giá thành sản phẩm, nâng cao mức sống người dân thì họ phải ưu tiên sử dụng
và đào tạo những nhân tài để khoa học và kỹ thuật phát triển, thay sức lao động
của con người. Ngược lại, họ sử dụng những kẻ ngu trong cấp lãnh đạo – những kẻ
ngu có quyền, có chức mới một lòng, một dạ đi theo đảng mới đội ơn cách mạng. Bất
công vàvô lý là mảnh đất mầu mỡ cho cái ngu nảy mầm và phát triển, cậu là cái
thá gì mà dám chống lại bản chất của chế độ hiện nay?
– Thưa
bác – Tôi nói – bác đã dạy cho cháu một bài học nhớ đời, cháu chân thành cảm ơn
bác.
Nửa tháng
sau, khi hết giờ làm việc, ông Dần đang đóng cửa, tôi đi qua bị ông Dần làm rơi
thanh sắt cài then cửa vào đầu, máu chảy ra xối xả. Ông Dần vội cõng tôi ra bệnh
xá phố hàng Lược. Băng bó xong, tôi lên xích lô về nhà. Tối hôm đó nhiều người
cùng làm đến thăm, tôi không ngồi dậy được vì máu ra nhiều, chóng mặt. Ai cũng
khuyên tôi kiện ông Dần cố ý trả thù, bắt bồi thường. Tôi từ chối vì cho rằng
đây là sự vô ý của cả hai người. Tôi nói:
– Một hiệp
sĩ không bao giờ chém kẻ thù ngã ngựa, một kẻ có lương tâm không thể vu oan cho
người vì sự cố bất ngờ.
Vài ngày
sau, ông Dần cũng đến thăm tôi và hỏi:
– Anh
không kiện tôi cố ý trả thù anh chứ?
– Không
bao giờ!
– Nếu thế,
tôi bồi dưỡng anh hai trăm đồng.
– Việc
này không nên thanh toán với nhau bằng tài chính hãy để cho mỗi tâm hồn nuôi dưỡng
và phát huy tính trung thực và lòng độ lượng.
Ông Dần
siết chặt tay tôi và cảm tạ.
* *
*
Sang năm
1963, giá thành các mặt hàng hợp tác xã làm gia công cho nhà nước hạ xuống nhiều
lần, tiền lương của xã viên thấp quá không sống nổi. Song song với việc đó,
chính sách vận động người đi kinh tế miền núi bắt đầu, việc làm trong các hợp
tác xã bị cắt xén còn rất ít. Những người thuộc diện ra khỏi thành phố là không
làm trong cơ quan nhà nước, việc làm không ổn định, riêng các gia đình nguỵ
quân, nguỵ quyền phải về quê hương cũ. Tháng ba năm 1964, trong báo cáo chính
trị của ông Hồ có câu:“phải làm Hà nội trong sáng như pha lê”. Chính sách này
gây ra bầu không khí lo lắng, sợ hãi bao trùm cả thành phố trong hai năm 1963 –
1964. Câu nói của ông Hồ làm cuộc vận động trở thành một chiến dịch cưỡng bức
di dân. Nếu không có cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc thì hậu
quả “mang con bỏ chợ” đi đến đâu không ai lường được? Tuy nhiên đã có hàng vạn
gia đình phải bỏ thành phố ra đi sống vất vưởng trong các miền rừng núi. Năm
1969, họ liều lĩnh trở về may cho họ đang trong thời buổi chiến tranh, để giảm
bớt mâu thuẫn nội bộ nên đảng đã khoan nhượng.
Giữa năm
1963, do mâu thuẫn, đấu đá lẫn nhau, ban quản trị của hợp tác xã bị xoá sổ, người
bị đuổi, người bị cách chức. Cấp trên cử về một chủ nhiệm mới là đảng viên –
ông Lưu đĩnh Chi ngoài năm mươi tuổi – một con người nhiều mưu mô, thủ đoạn
nham hiểm. Về sau tài sản của hợp tác xã trị giá hàng trăm lạng vàng rơi vào
tay ông và con cháu của ông. Trước đại hội xã viên ông tuyên bố:
– Hiện
nay, việc làm chỉ dành cho bố mẹ, con em những gia đình là cán bộ, công nhân
viên và những gia đình có công với cách mạng. Còn lại thuộc diện đi kinh tế miền
núi, ban quản trị không xếp việc.
Đục nước
béo cò, nhờ chính sách này, đại gia đình ông Chi trở nên giàu có do chiếm đoạt.
Hàng trăm người mất cả việc làm và mất cả tiền vốn góp cổ phần. Tôi và Khoa bước
vào những tháng năm thất nghiệp. Để kiếm sống, chúng tôi làm mọi việc, buôn bán
vặt vãnh: bánh mỳ, quần áo cũ, pháo dịp tết, kể cả việc lao động đào đất, dọn vệ
sinh. Nhưng buôn bán thì thường bị bắt giữ và tịch thu hàng, còn lao động thì
thất thường với tiền công rẻ mạt. Giữa năm 1963 đến hết năm 1964 chúng tôi cứ
long đong, lật đật kiếm ăn từng bữa. Còn tinh thần thì lo âu, thắc thỏm từng
ngày vì chính sách đi vùng kinh tế mới. Đành rằng ở nơi thị thành này, chúng
tôi đang phải chịu trăm đắng, ngàn cay nhưng còn có sách, có thư viện, có bạn
bè. Nếu phải đi miền núi có khác chi vào nơi cầm cố chung thân – một cuộc đời đầy
đoạ, tuyệt vọng.
Cuối
tháng 3 – 1964, ông chủ nhiệm gọi tôi đến văn phòng, ông nói:
– Chính
sách đi vùng kinh tế mới đã tiến hành gần một năm nay. Biện pháp vận động của hợp
tác xã đối với anh mới chỉ có cắt việc làm. Một người thông minh như anh chắc
cũng hiểu rằng, mọi chính sách của đảng muốn thực hiện được phải kèm theo biện
pháp chính quyền cưỡng bức, cao hơn nữa là toà án, nhà tù. Tôi cho rằng không
ai muốn bỏ thành phố để đi miền núi vì chẳng khác gì từ chỗ quang đâm đầu vào bụi
rậm, nhưng chính sách của đảng bắt mọi người dù không muốn cũng phải chấp hành.
Nói như thế, có thể anh hỏi: đã cưỡng bức đâu mà có hàng vạn gia đình tình nguyện
đi miền núi? Xin trả lời, số đó chẳng gia đình nào muốn tình nguyện cả. Họ biết,
trước sau cũng phải đi nên hành trình sớm sẽ có lợi hơn, tìm được nơi tốt hơn,
tránh được cảnh trâu chậm uống nước đục. Đến nay, chắc anh đã rõ Hồ chủ tịch
tuyên bố:“phải làm Hà nội trong sáng như pha lê”, nghĩa là cuộc vận động ra khỏi
thành phố đã biến đổi về chất – áp dụng những biện pháp cứng rắn buộc những người
không thuộc thành phần cơ bản phải ra đi. Về lý lịch của anh, tôi không rõ lắm
nhưng có nhận xét rằng, anh có văn hoá nếu thuộc thành phần tốt sao không vào đại
học hay chuyên nghiệp? Vì vậy, anh đã có tên trong danh sách bị cưỡng bức đi lần
này. Hôm nay tôi báo cho anh biết trước để chuẩn bị.
Nghe ông
chủ nhiệm nói, tôi liền nghĩ ra một kế:
– Thưa
bác, từ hôm nay cháu xin bác xoá tên cháu trong danh sách xã viên.
– Việc đó
dễ thôi nhưng để làm gì? Anh muốn trốn tránh đi miền núi thì không ổn. Nếu anh
xin xoá tên, chúng tôi phải gửi anh về khối phố quản lý và
giải quyết. Hơn nữa, cổ phần chỉ được rút ra khi có giấy di chuyển khỏi thành
phố.
– Bác
thông cảm giúp đỡ cháu với điều kiện sau, cổ phần của cháu có ba trăm đồng, bác
toàn quyền sử dụng nhưng bác không gửi giấy về khối phố, coi như cháu vẫn làm ở
hợp tác xã.
Mắt ông
chủ nhiệm sáng lên vì được lợi, sau vài giây tỏ vẻ lưỡng lự, ông nói:
– Thôi được
rồi, tôi đồng ý giúp anh, nếu khối phố nơi anh cư trú hỏi tôi, buộc tôi phải trả
lời anh đã bỏ hợp tác xã, chúng tôi quên chưa gửi giấy về để địa phương quản
lý. Và nếu xảy ra hiện tượng ấy, anh cũng không nên tố cáo tôi ăn hối lộ của
anh để không đưa anh đi miền núi. Chắc anh biết câu chuyện ngụ ngôn của La
fontaine“Con chó sói và con cừu”.
Ông chủ
nhiệm cũng hỏi Khoa, anh trả lời:
– Bác cứ
yên tâm, cháu sắp về với bố cháu ở Bắc giang. Bác cứ chuẩn bị sẵn tiền cổ phần
của cháu.
* *
*
Đầu tháng
4 – 1964, tôi và Khoa lấy vé ở rạp Đại đồng xem bộ phim Người cá. Buổi tối, gần
đến giờ đi xem thì anh Cương bảo tôi phải ở nhà họp để nghe phổ biến bầu cử quốc
hội. Cũng may, Khoa giữ vé nên tôi nghe lời anh Cương.
Cuộc họp
của khối phố ở sân chùa, bảy giờ bắt đầu, mọi người đã đến đông, chật ních. Có
một ông cán bộ trên khu về dự, ông ta phát biểu:
– Khu Ba
đình có vinh dự lớn được đón bác và các vị lãnh đạo cấp cao ứng cử đại biểu quốc
hội. Theo chỉ thị của trên, mọi cử tri phải bỏ phiếu theo sự hướng dẫn. Nếu ai
làm sai là hành động chống đối, tuỳ theo lỗi nặng nhẹ, thái độ chính trị mà xử
lý. Mỗi cử tri được thực hiện quyền công dân là bỏ phiếu song phải làm nghĩa vụ
theo sự lãnh đạo của đảng. Tôi đề nghị bà con đi bỏ phiếu trăm phần trăm và nhất
thiết theo sự chỉ đạo…
Kế đó,
ông trưởng ban đại biểu nói:
– Hôm nay
bà con đến họp tương đối đầy đủ, chỉ thiếu ba người có lý do. Tôi đọc giấy xin
phép của từng người: 1 – Tôi là Ngô văn Hảo, tối nay tôi phải đi trực ở bệnh viện.
Vậy xin phép ban đại biểu được vắng mặt trong cuộc họp cực kỳ quan trọng này. Tôi
nhất trí theo sự chỉ đạo của cấp trên là gạch tên hai vị ứng cử tự do ở cuối
danh sách; 2 – Tôi là Lê thị Ngọ, tối nay tôi bị sốt nặng không đi họp được, vậy
xin phép ban đại biểu. Tôi xin hứa ngày bầu cử nhất thiết sẽ làm theo chủ
trương của đảng, nếu sai tôi xin chịu tội; 3 – Con tôi là Vũ văn Hưng đi công
tác chưa về. Do vậy, tôi xin phép ban đại biểu cho cháu vắng mặt trong cuộc họp
tối nay. Tôi hứa với quý ban, khi cháu về tôi sẽ thông báo lại để ngày bầu cử,
cháu phải bỏ phiếu theo sự hướng dẫn của cấp trên.
Ông trưởng
ban đại biểu tiếp:
– Sau
đây, tôi xin đọc tiểu sử các vị ứng cử. Riêng tiểu sử của bác không đọc. Khi đọc
đến tên người, tôi đề nghị bà con đứng dậy vỗ tay hoan hô…
Một bà đứng
lên phát biểu:
– Nói đến
bác thì cháu nhỏ lên ba cũng biết và kính trọng nhưng tiểu sử của người, có một
số người ít học như tôi không nhớ rõ, tôi đề nghị cứ đọc.
Nhiều người
đứng dậy nhao nhao phản đối:
– Người
là cha già của dân tộc, ai không nhớ rõ tiểu sử của người là thái độ chính trị
không tốt, biểu hiện một quan điểm không nhiệt tình cách mạng.
– Không cần
đọc nữa, đọc tiểu sử của bác là vô lễ, chúng tôi ai cũng nhớ rồi…
Tôi
thoáng nghĩ, ngoài cái tên bác Hồ hoặc Hồ chủ tịch sinh ngày 19 – 5, thực ra mấy
ai nhớ lai lịch của ông ta, lai lịch đó đã được thêm bớt, hư cấu cho đượm màu sắc
và tính cách anh hùng nhất trong lịch sử của dân tộc bốn nghìn năm văn hiến. Họ
tự lừa lẫn nhau đến thế là cùng.
Ông trưởng
ban đại biểu bắt đầu đọc:
– Tiểu sử
Hồ chủ tịch.
Ông đọc
chưa dứt lời, mọi người đã đứng dậy, tiếng vỗ tay và lời hoan hô ầm ầm như vỡ
chợ:
Hồ chủ tịch
muôn năm! muôn năm! muôn năm! Tiếng hô lặp lại nhiều lần giống như một lũ loạn
thần kinh. Có người cố gào lên sau bị khản cổ.
Bốn năm sống
ở đây, tôi biết, một số là cán bộ, công nhân viên chức với tiền lương rẻ mạt,
phải chia ra ăn từng bữa. Còn lại phần đông là thợ thủ công làm trong các hợp
tác xã và những người buôn thúng, bán mẹt. Cuộc sống của họ gieo neo, thiếu thốn
trăm bề. Chẳng những thế, họ luôn trong tâm trạng lo âu vì chính sách đi vùng
kinh tế mới, nhất là lời tuyên bố gần đây của ông Hồ “làm Hà nội trong sáng như
pha lê” làm nhiều người sợ mất ăn, mất ngủ.
Tôi đã từng
xếp hàng mua lương thực cùng với họ, mua phải gạo hẩm và mục, người nào chẳng
bùi ngùi kêu khổ. Thế thì vì lẽ gì trong cuộc họp để chuẩn bị bầu cử quốc hội,
họ lại tỏ ra kính yêu ông Hồ đến thế? Sự kiện này làm tôi nhớ lại truyện ngắn Bộ
quần mới của Hoàng đế của Andersen, nhà văn Đan mạch, chỉ vì sợ tiếng ngu, người
trần mắt thịt mà từ vua quan đến dân chúng trong thành không ai dám nói“Ông vua
đang để trần truồng được đón rước”. Ở thời đại Cộng sản không đơn giản thế. Cậu
tôi nói:“Đảng bảo hoan hô phải vỗ tay.. Ai không hưởng ứng là kẻ thù của đảng…”Cánh
cửa nhà tù đang mở rộng để đón chờ những ai dám bầy tỏ ý nghĩ chân thực của mình
về xã hội. Ngoài những kẻ cuồng tín, để thích nghi với môi trường sống mỗi người
phải đóng thành đạt một diễn viên, một con người giả: phát lại âm thanh của đảng,
làm theo ý đảng. Còn con người của trái tim khối óc – con người thật phải âm thầm,
lặng lẽ, chồng cảnh giác vợ, cha chắng dám tin con…
Tan cuộc
họp, khi ra về một bà nói:
– Đảng bảo
sao, dân phải nghe vậy nhưng danh sách ứng cử viên do đảng chọn, mà đều là người
của đảng, bỏ phiếu cho ai mà chẳng được.
Tên công
an hộ tịch nghe thấy, gọi lại doạ:
– Bỏ phiếu
cho ai cũng được là thế nào? Bác muốn tuyên truyền không công cho bọn phản cách
mạng phải không?
– Trót lỡ
lời, tôi xin anh tha lỗi.
Cũng may
bà này là công nhân vệ sinh, không biết chữ nên được ân xá tội nói càn.
Anh Cương
nói vụng với tôi, những người được lựa chọn đa số xuất thân từ nghề cầm cuốc
thành tổ chức“cái cuốc hội”, một chiêu bài để tuyên truyền nền dân chủ giả hiệu
của đảng.
Sáng sớm
ngày bầu cử (chủ nhật) cả khu phố như nước sôi lên sùng sục: cha dặn con, chồng
bảo vợ, anh chị em nhắc nhở nhau làm sao đừng nhầm lẫn. Xảy chân xuống hố còn
chữa khỏi, nếu xảy tay gạch nhầm tên người ứng cử quốc hội thì cuộc đời bị cuốn
trôi như nước sông Hồng. Do họ nghĩ rằng, đảng có phép nhiệm màu như phật tổ
Như lai, thấu suốt mọi hành vi của mọi con người.
Tôi và
Khoa không bảo nhau nhưng đều đặt một dấu nhân to, đậm vào lá phiếu bầu.
Cuối
tháng tư có một cuộc họp của khối phố để tuyên bố kết quả bầu cử. Ông trưởng
ban đại biểu nói:
– Tôi
thông báo cho bà con biết, cuộc bầu cử quốc hội lần này khu Ba đình đã thành
công rực rỡ. Bác Hồ được 99,92 phần trăm số phiếu. Từ con số phần trăm trên đã
chứng tỏ lòng tin tuyệt đối của nhân dân đối với đảng. Tuy nhiên cũng từ con số
đó cho ta thấy, khu Ba đình mới xuất hiện một số tên phản động.
Một bà
phát biểu:
– Theo
tôi, chỉ những đối tượng cũ thôi.
– Không
phải – ông trưởng ban tiếp – những đối tượng xấu như nguỵ quân, nguỵ quyền,
công chức lưu dung, những gia đình đi đạo, tư sản…đều có dấu mật trong lá phiếu
bầu, không thấy chúng có hành động chống lại. Trong khu Ba đình có tám phiếu gạch
chữ nhân và một số lá phiếu gạch tên Hồ chủ tịch, cơ quan an ninh đang điều tra
nhưng chưa có kết quả. Bọn này nếu bị phát hiện ra chắc chắn chúng phải nhận
hình phạt thích đáng của đảng.
Một ông
phát biểu:
– Tôi chỉ
thấy cơ quan an ninh bắt bọn phản động đi tập trung cải tạo, hình như chưa có
phiên toà nào xét xử bọn chúng.
– Có rất
nhiều – công an hộ tịch nói – chỉ xử kín thôi. Bà con khỏi lo, trị tội bọn phản
động, đảng có hàng nghìn biện pháp.
Nhiều lần
tôi đến thăm chị Bích Hằng nhưng chị đều đi vắng thành ra hơn hai năm trôi qua
tôi không gặp chị. Chiều ngày mười tháng mười năm 1964, tôi lại đến thăm chị. Đến
nơi, tôi thấy gian nhà của chị khoá cửa. Tôi hỏi ông Hiệp người đỡ đầu chị, ông
buồn bã trả lời:
– Sau khi
không làm ở hợp tác, chị Hằng đi buôn rau. Kiếm được miếng ăn trong thời buổi
này sao mà khổ thế? Nhiều phen chị vừa gánh rau, vừa chạy trốn sự truy bắt của
công an trên đường phố, có lẽ còn lật đật hơn chạy giặc. Công an hộ tịch và khối
phố mấy lần đến vận động chị đi miền núi, còn đang khất dần, nấn nấ thì cách
đây mươi ngày chị gánh rau qua đồn, có một công an ra hỏi giấy tờ. Chị xuất
trình chứng minh thư, anh ta mang vào đồn vài phút rồi trả lại.
Đồng thời
một trung uý trong đồn đi ra, chị nhận ra người cùng quê, trước kia là đội trưởng
cải cách ruộng đất. Sau ngày đó, chị ở nhà buồn bã, lo lắng. Tối hôm qua, công
an khu và hộ tịch đến nhà thu sổ hộ tịch, chứng minh thư của chị và tuyên bố:
Chị man khai lý lịch, cư trú bất hợp pháp. Theo lời tuyên bố của Hồ chủ tịch
“phải làm Hà nội trong sáng như pha lê”, khu quyết định đuổi chị khỏi thành phố.
Nếu từ nay còn ở lại, chúng tôi sẽ bắt giam. Sáng nay, chị Hằng chào tạm biệt
tôi và gia đình, chị đã dắt con đi.
– Thưa
bác, chị Hằng đi đâu ạ? – Tôi hỏi.
– Tôi ngậm
ngùi hỏi chị như thế nhưng chị nghẹn ngào trả lời: Đi đâu cháu còn chưa biết nữa?
Cháu cảm tạ công ơn như trời biển của bác và gia đình. Cháu thường cầu mong có
ngày trả được công ơn bác nhưng có lẽ không thể. Cháu xin từ biệt. Chị oà lên
khóc rồi ra đi.
Bão táp lại
trút xuống đầu người lương thiện – Tôi trĩu nặng nỗi u buồn, thầm nhủ. Chào bác
Hiệp, tôi đi bộ đến vườn hoa hàng Đậu để thăm bác Vũ thị Hiền.
Hôm ấy,
ngày kỷ niệm mười năm giải phóng thủ đô, vườn hoa được trang trí hàng nghìn
bóng điện màu rực rỡ. Bác Hiền ngồi ở ban công lơ đãng nhìn cảnh đẹp của vườn
hoa, bác đang mong mỏi và chờ đợi Hưng về nhà. Vậy con trai bác đi đâu? Sau khi
không thể sống nổi ở hợp tác xã, bác lại đi buôn bán nhỏ nhặt để kiếm ăn. Hưng
nhiều lần phản đối mẹ không chấp hành chính sách cải tạo tiểu thương là sai với
chính sách của đảng nhưng nếu không đi chợ kiếm tiền thì bố mẹ và em lấy gì ăn
để sống? Mẹ xin con. Sợ gia đình cản bước tiến của mình. mặt khác Hưng cũng biết
rằng, anh xin học nghề ở nhà máy cuối năm 1959 là một điều may, nếu đến năm
1960, bắt đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, thì không thể. Do vậy, Hưng xin vào tập
thể nhà máy đã hơn một năm nay, rất ít khi về thăm bố mẹ. Bác Văn đang ốm nặng
trên giường. Nga bỏ nhà đi đâu gần một tháng. Bác Hiền chờ mong con trai về để
nói hoàn cảnh gia đình hiện tại, may ra nó thương bố mẹ chăng?
Tôi đến,
bác Hiền buồn bã tiếp. Sau nửa giờ Hưng về nhà. Không chào hỏi ai, Hưng khoe với
mẹ:
– Mẹ ơi,
ngày mai con lên đường nhập ngũ.
– Bố con
đang ốm, con hãy vào thăm bố – Bác Hiền vừa khóc, vừa nói.
Hưng bước
vào nhà, bác Văn đang ngủ, nói mê lung tung:
– Hưng
ơi, con bỏ bố mẹ à? Nga ơi, con đi đâu không về với bố?
Nghe lời
nói mê của bố, Hưng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi,
Nga đi đâu?
– Không
biết em con đi đâu từ tháng trước?
Hưng gọi
bố:
Bố ơi,
con đã về đây, ngày mai con đi bộ đội – Gọi ba, bốn lần, bác Văn không tỉnh,
Hưng ra chào mẹ rồi đi, mặc cho bác Hiền hết lời van xin con ở nhà đêm hôm ấy.
Chưa hết cơn hờn giận với đứa con bội bạc thì sở công an đến bắt bác Văn và
khám nhà. Trong lệnh bắt có đoạn viết:“…tập trung cải tạo phần tử có nguy hại
cho cách mạng…”. Cũng may, khi ô tô đến trước cửa, tôi đã kịp xuống cầu thang
và chuồn ra ngoài phố, nếu chậm thì rắc rối to.
Hồi ký Một
ngày giông tố – Kỳ 10
HỒI HAI –
Hà nội
II Năm
năm nối tiếp
Tôi có một
người bạn ở phố Nguyễn thiện Thuật, gọi là bạn nhưng không thân. Họ và tên anh
ta là Lương cẩm Nghệ. Trước ngày sáp nhập, Nghệ làm ở tổ hợp tác khoá dây xe đạp,
anh có cặp mắt tinh nghịch và ngạo mạn. Lúc đi chơi, Nghệ thường mang theo một
cặp da bóng lộn. Và tự xưng là nhà nghiên cứu triết học, văn học. Nghệ ở với bố
nuôi người Hoa, gia đình anh buôn gian bán lậu nên rất khá giả. Nhà ở rộng, một
ngôi nhà bốn tầng, có lẽ được hưởng chính sách ưu đãi đối với người Hoa.
Nghệ ăn
chơi phung phí, anh thường nói, ném tiền qua cửa sổ. Nghệ có một phòng riêng ở
gác bốn, phòng rộng khoảng mười sáu mét vuông. Phía trước cửa phòng là một sân
thượng hướng ra sông Hồng, bầy nhiều chậu hoa, cây cảnh. Trong phòng kê một chiếc
ghế ngựa chân quỳ khảm trai, một bộ salon tầu mặt đá, một tủ chùa. Đặc biệt là
giá sách vài ba trăm quyển bao gồm những tác phẩm văn học có giá trị của Việt
nam và sách dịch Đông tây kim cổ, nhiều sách của nhà xuất bản sự thật: tuyển tập
Lénine, tư bản luận của Marx… và các loại sách triết học, logique học. Trên tường
treo hai cây đàn guitaire và Violon. Với gian phòng được trưng bầy như vậy, bất
cứ người khách lạ nào đến cũng tưởng anh là nhà nghiên cứu, đồng thời cũng là ước
mơ của nhiều nhà trí thức đương thời. Sự thực Nghệ mới học hết lớp bảy, sách
mua về thường anh chỉ đọc đầu đề, tên tác giả hoặc tìm đọc những đoạn văn hay,
đàn anh cũng chẳng biết chơi. Nghệ cũng tìm thày học đựoc một số từ và câu Anh
ngữ. Tất cả để phục vụ cho một quan điểm của anh: cuộc đời là sự bịp bợm. Ai
đóng thành đạt Tartuffe thì người đó thực hiện được nhiều điều mãn nguyện. Sách
và đàn coi như những đồ trang sức tô điểm con người anh thêm hào nhoáng. Có nhiều
tiền nên Nghệ đã thành công về những mối tình trăng gió, chiếm được nhiều trái
tim và thể xác của những cô gái nhẹ dạ, ham ăn diện. Thật trớ trêu, đến năm
1965, Nghệ trở thành sinh viên khoa Văn trường đại học tổng hợp, bằng tốt nghiệp
cấp III anh mua với giá mười đồng. Cùng thời gian đó, gia đình anh bị khám xét,
thu hết hàng lậu, vàng và tiền. Ông bố nuôi phải vào Hoả lò sáu tháng. Từ một
chàng trai vung tiền qua cửa sổ, Nghệ trở thành một sinh viên nghèo, anh tu chí
học hành và chi tiêu kham khổ trong số tiền học bổng.
Đối với bạn
bè, anh phóng khoáng và cởi mở. Điều đáng trách là mỗi lần bạn đến chơi nhà,
anh thao thao một hồi liên tục hết chuyện nọ đến chuyện kia, không để hở một cơ
hội cho bạn than thở, tâm tình.
Một lần
tôi đến nhà anh, thấy ảnh ông Hồ treo trên tường, tôi hỏi:
– Mày
cũng treo ảnh này à?
Nghệ đi
cài cửa rồi hỏi:
– Mày có
biết tam cương không?
– Tao còn
lạ gì.
– Tuyệt –
Nghệ bắt đầu diễn thuyết – ông ấy hiện nay tương tự như vua, nên gọi là vua
cũng được. Mặt khác, tao học được của ông ta nhiều về cách sống, như vậy là
thày. Ông ấy còn là cha già dân tộc, có nghĩa là cha tao. Tóm lại tao treo ảnh
ông ta để thờ quân sư phụ. Cần lưu ý mày, tam cương ở đây tao đã thay quan hệ vợ
chồng bằng quan hệ thày trò. Mày phải tin tao, cuộc đời chỉ là sự bịp bợm mà
thôi. Tao lấy nhân vật là quân sư phụ của tao để chứng minh. Dù muốn hay không,
người miền Bắc phải gọi ông ta cái tên trìu mến là bác. Là tông đồ của Marx và
đứa con hiếu thảo của Lénine, ông ta nhất trí với Marx, chính trị là thủ đoạn.
Và nói thêm: “để chiến thắng kẻ thù, chúng ta có thể áp dụng mọi thủ đoạn dù
nham hiểm và tàn bạo nhất”. Nói một cách trần trụi, chính trị là sự bịp bợm. Về
lĩnh vực này, ông ta vượt xa sư phụ, trở thành bậc thày của Marx và Lénine. Cuộc
đời ông ta là chặng đường quanh co, khúc khuỷu của những mánh khóe bịp bợm nối
tiếp nhau. Tao lấy một vài dẫn chứng điển hình: nhờ màn kịch nhà nước toàn dân
năm 1945, ông ta đã lợi dụng được sự ủng hộ tối đa của dân tộc, lợi dụng được
nhiều nhân tài, vật lực của kẻ thù. Nếu lúc đó, ông ta thẳng thắn tuyên bố, nhà
nước của những người Cộng sản chống phong kiến, tư bản, chống quốc dân đảng và
các phe phái khác thì sự nghiệp của ông ta sẽ đi đến đâu? Và cuộc kháng chiến
chống Pháp khó mà giành thắng lợi cuối cùng.
Năm 1954,
nếu ông ta tuyên bố dùng công chức lưu dung như vắt chanh hết nước rồi quẳng ra
bãi rác, những người cộng tác với đối phương phải lần lượt vào trại tập trung cải
não, hỏi những thành phần đó có dám ở lại miền Bắc hay không? Nói chung, mọi chủ
trương, chính sách mà ông ta đưa ra đều áp dụng những thủ đoạn bịp bợm tương tự.
Ông ta sớm tổng kết được những thủ đoạn xảo quyệt, những ngón bịp tinh vi, siêu
hạng của phương Đông từ trước đến nay, từ đó ông ta sáng tạo ra một nghệ thuật
lừa siêu việt. Kỳ quan thế giới còn có bảy, nhưng nghệ thuật lừa của ông ta lỗi
lạc vô song chắc chắn phải được lưu danh thiên cổ.
Tao nhất
trí với quan điểm “anh hùng sáng tạo ra thời thế”. Lối sống của một vị anh hùng
giống như bác lừa sẽ sản sinh ra thời đại của những chú bìm bịp, xã hội biến
thành một thị trường mua bán mạt cưa, mướp đắng trong bóng tối, lòng trung thực
bị huỷ diệt. Ai không nhạy bén, không biết biến hoá thành những chú bịp, cứ giữ
nguyên là con người lương thiện phải chịu khổ nhục. Tựu chung, dối trá trở
thành một cứu cánh, một cẩm nang trong cuộc sống.
Để thích
nghi với thời đại mới, nhà văn hóa thành bồi bút, nhà báo bóp méo sự thật. Ông
cán bộ đảng đứng trước đám dân đói rách, từ cổ họng tuôn ra hàng mớ lý thuyết
tràng giang, đại hải về cái thiên đường trên cõi tục, về cuộc sống hoang đường
của ngày mai. Ông thị trưởng sau bữa tiệc với những món sơn hào, hải vị, uống
rượu Whisky, hút thuốc ba số, ông đi Volga đến đài phát thanh kêu gọi nhân dân
thắt lưng, buộc bụng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Người cảnh sát,
tay cầm của đút, miệng nói làm theo lời bác: liêm khiết, chí công, vô tư. Người
“đầy tớ trung thành”sống xa hoa trong các biệt thự sang trọng ra lệnh cho
các“ông chủ” – đám dân đen – phải ép mình trong khuôn phép ngặt nghèo. Cô công
nhân trẻ suy dinh dưỡng vẫn không quên vị trí của mình – làm chủ nhà máy. Bác
nông dân dùng rau thay gạo vẫn thuộc lòng câu: chúng ta làm chủ ruộng đồng. Người
dân thành thị ăn cơm gạo mục độn ngô xay với thức ăn rau luộc chấm nước mắm
chín hào, cố nuốt cho trôi xuống dạ dày rồi hô to: chủ nghĩa xã hội muôn năm!
Thày giáo khoa xã hội, bụng lép kẹp, đang giảng bài cách mạng mang lại ấm no, hạnh
phúc cho người lao động. Một thày dạy văn quen và bảo tao:
– Quan niệm
về cuộc đời của cậu bệnh hoạn quá!
– Cũng vừa
phải thôi thày ạ! – Tao trả lời và hỏi:
– Hiện
nay chắc thày đầy đủ lắm?
– Lấy đâu
ra, khó khăn thiếu thốn là cái chung xã hội – thày trả lời.
– Tuyệt vời!
Tại sao thày lại giảng cho học sinh, cuộc sống hiện nay là ấm no và hạnh phúc?
– À, đó
là nghề ngiệp phải làm để kiếm sống.
– Nếu thế,
thày hãy so sánh, tôi quan niệm cuộc đời là bịp bợm, còn thày răn dạy sự dối
trá, ai bệnh hoạn hơn ai?
Thày im lặng,
tao nói tiếp:
– Tôi bệnh
hoạn, thày bệnh hoạn, người khác bệnh hoạn. Trai trộm cướp, trấn lột, hiếp dâm;
Gái làm tiền, lừa đảo; Kẻ có quyền tham ô, ăn hối lộ và lừa bịp… Tóm lại một xã
hội bệnh hoạn. Một xã hội Chí phèo, người lớn sợ trẻ con, người ngay sợ kẻ
gian, mình lừa mình, người bịp người tạo thành bản hòa tấu khổng lồ của thời đại
“Bác”vĩ đại. Tao đã và đang học tập theo gương bác tuy nhiên sự lừa bịp của tao
chẳng để tranh quyền, cướp của, giết người, mà chỉ tạo ra những cái bẫy đối với
các em thôi. Trong lĩnh vực này, tao đã thành công rực rỡ. Thực chất mày là bậc
thày tao về kiến thức nhưng chỉ dăm ba đứa biết. Ngược lại, bất cứ ai đến cái
phòng này đều ngộ nhận tao là trí thức, là cán bộ nghiên cứu. Khi đó mày bị hạ
bệ xuống là thằng cần vụ cho tao. Một cô gái bình thường mày có theo đuồi đến
long đầu gối, tuôn ra hàng nghìn lời châu ngọc cũng chưa chắc nhận được của cô
một nụ hôn. Còn tao, những đóa hoa mỹ lệ đang nở dưới ánh trăng tròn đến đây
trong khoảnh khắc tao có toàn quyền hưởng lạc. Tao hơn hẳn mày về khoa nói
phét, lại có tiền và những thứ trong phòng này đồng thanh tương ứng, lừa các em
như trở bàn tay.
– Tuy vậy,
lời nói của tao cộng với sự mất mát về tiền của thì hiệu quả cao nhất cũng chỉ
thoả mãn xác thịt với một em thôi. Khác với lời nói của bác có thể làm hàng vạn
người bỏ mạng hoặc tan cửa nát nhà, hàng triệu người khốn đốn. Như thế sự bịp bợm
của tao vẫn còn nhân tính.
– Tao và
mày đối lập về nhân sinh quan nhưng chúng ta vẫn ngồi chung bàn trà, bàn tiệc.
Còn “Bác”có máu Thương quân, theo Pháp gia của Hàn phi Tử, ai khác chính kiến“Bác”ra
lệnh thủ tiêu hoặc bỏ tù. Bầy tôi của“Bác”một số có học vấn, còn lại là những
Dizma, những Đông quách tiên sinh. Do vậy“Bác”có toàn quyền thực thi máu Thương
quân. Sau này, nếu miền Nam vào tay Cộng sản thì tính cách và máu Thương quân của“Bác”đóng
vai trò quyết định
– Lời
tuyên bố “làm Hà nội trong sáng như pha lê” của bác, tao là người ngoài cuộc,
còn mày là mục tiêu bị tấn công. Nếu trời phù hộ bác để lời nói trên trở thành
hiện thực thì phải có vài chục vạn người Hà nội là hàng xóm của các dân tộc ít
người. Người bác cho ở lại thủ đô là người đỏ hay ít ra cũng có cảm tình với đỏ.
Người bác tống đi là đám dân đen bao gồm các thành phần tư sản, nguỵ quân, nguỵ
quyền, theo đạo thiên chúa… và những người thợ thủ công, những người buôn
thúng, bán mẹt kiếm ăn lần hồi từng bữa. Cái gọi là “nhân dân lao động”không phải
bác kéo xe ba gác, bác đạp xích lô hay chú bán kem rong.“Nhân dân lao động” là
những người được dán nhãn hiệu đỏ, trong đó có những tên chỉ bầy mưu tính kế
hành hạ, đoạ đầy con người, những tên cai ngục, những ông giám đốc béo phệ, những
bà cửa hàng trưởng to như thùng phuy chứa mỡ, những con cá ngầm khoác áo dân
thường lẩn vào đám đông, các rạp chiếu bóng, các câu lạc bộ, các thư viện, các
công viên, các cửa hàng ăn, các quán cà phê giải khát… Chúng chui rúc vào ngõ
ngách các xóm tiêu điều, xơ xác để nghe ngóng từng hơi thở của con người. Tiếng
thở dài cũng là mồi của cá. Bởi vì buồn chán cũng là một tội của thời đại bác.
– Người
dân trong thời đại này một cổ nhiều tròng. Một đêm vắng nhà không trình báo bị
gọi lên đồn nghe lời cảnh cáo, một buổi bỏ quên họp tổ dân phố bị ban đại biểu
đến nhà doạ dẫm. Bà tổ trưởng dân phố không ưng dễ sinh tai biến, ông công an hộ
tịch ghét dễ bị khoá tay đưa đi cải tạo. Cô nhân viên cửa hàng lương thực mếch
lòng thì suốt năm ăn gạo mục:
Phen này
quyết vào ngành thương nghiệp
Vừa chửi vừa câm cũng đắt hàng.
– Là công
nhân, nếu không chiều chuộng, cung phụng tổ trưởng sản xuất thì bao giờ mới được
lên lương. Gặp giám đốc nếu quên chào một vài lần, cái chắc không thể nào ngóc
đầu lên được.
– Ma quỷ
làm người yếu bóng vía mất tinh thần nhưng bác cưỡi lên đầu ma quỷ ai mà chẳng
sợ! Nhất là tội không nghe theo đảng đến ma quỷ cũng phải hoảng hồn. Chuyện kể
rằng, ở một nghĩa địa nọ lũ ma quỷ đang tụ tập đông vui, đến một mùa thu năm ấy
bỗng xuất hiện một con quỷ đỏ, nghĩa là thân thể, mặt mũi, tay chân đều đỏ. Quỷ
đội mũ vàng, vành mũ xoà ra năm cánh. Áo của quỷ cũng màu đỏ, trên ngực thêu
hình búa liềm cũng màu vàng. Quỷ đỏ lên tiếng quát:
– Từ nay,
bọn mày phải về địa ngục.
– Ngài là
ai mà dám ra lệnh ghê gớm thế? – Ma quỷ đồng thanh hỏi.
– Tao
mang pháp luật ở bên tây về thống trị vùng này.
– Pháp luật
của tây, bọn tôi không sợ – Ma quỷ la ó – thằng tây chỉ ức hiếp được đám dân
đen, có dám động đến quỷ thần đâu?
– Chúng
mày im đi để tao nói đã. Tao học được pháp thuật thần thông quảng đại, biến hoá
khôn lường trước hết chống bọn mũi lõ, mắt xanh xâm lược.
– Sư phụ
của ngài giỏi bằng tổ sư Bồ đề dạy Mĩ hầu vương không? – Ma quỷ hỏi.
– Gấp
hàng trăm lần, học trò của sư phụ tao rồi đây sẽ thống trị toàn thế giới.
– Quý
danh của ngài là gì xin cho biết – Một con quỷ hỏi.
– Tao nhiều
tên lắm, tụi bay không cần biết. Bọn dân đen sẽ phải gọi tao là bác.
– Ngài
làm được gì mà bắt người ta tôn trọng thế? – Ma quỷ nhao nhao hỏi.
– Rồi đây
tụi bay sẽ biết. Chữ bác còn có ý nghĩa sâu xa mà tụi bay không hiểu nổi.
– Ngài
nói đi cho chúng tôi biết với – Bọn ma quỷ đề nghị.
– Máu +
ác = bác – Quỷ đỏ giải thích.
– Không
đúng, không đúng, tổng số phải là cái gì khủng khiếp chứ không thể thành bác được?
– Tụi bay
vô học ngu lắm. Về hoá học có thể coi đây là hợp chất của hai nguyên tố độc hại
như muối ăn chẳng hạn. Còn nghĩa khác là máu tượng trưng cho màu sắc của tao, B
là phụ âm đầu của blood, tiếng anh là máu. Do vậy, B + ác = bác có đúng không?
– Đúng lắm,
đúng lắm – Lũ ma quỷ vỗ tay tán thưởng.
– Chưa hết
– Quỷ đỏ tiếp – B còn là phụ âm đầu chủ nghĩa của sư phụ tao. Bọn tư sản phương
Tây chống sư phụ tao bằng bốn chữ B.
– Như thế
nào xin ngài cho biết với – Bọn ma quỷ hỏi.
– Chống bốn
chữ B là: Bolshevism is bloodthirsty, brutal and barbarous (chủ nghĩa Bôn sê
vích khát máu, dã man và tàn bạo ) – Quỷ đỏ trả lời – còn ở vùng này sẽ có những
đứa dân đen chống tao bằng năm chữ B.
– Ngài có
làm ruộng đâu mà thêu hình chiếc liềm trên ngực? – Một con ma hỏi.
– Liềm để
gặt cuộc đời bọn dân đen dám chống lại tao.
– Còn
búa?
– Búa để
đập phá tất cả, trong đó có miếu thờ tụi bay, chùa chiền, nhà thờ để thờ Phật và
thần thánh.
– Ngài độc
tài thế, không cho chúng tôi chung sống được à?
– Tao
không độc tài mà chuyên chính. Mặt khác phép thuật của sư phụ tao là chủ nghĩa
vô thần, phủ định sự tồn tại của tụi bay và thần thánh. Có thế mới lừa và thống
trị được bọn dân đen. Bây giờ tụi bay mau mau về địa ngục.
Nghe quỷ
đỏ nói, lũ ma nhút nhát vội bỏ đi ngay, còn mấy con quỷ cứng đầu, cứng cổ, bán
tín, bán nghi chần chừ ở lại. Chúng thấy quỷ đỏ biến thành một ông thánh sống
tuôn ra những lời như nhả ngọc phun châu, dưới có bọn đồ đệ khắp miền tiền hô,
hậu ủng, đám dân đen răm rắp phục tùng và kính nể. Cùng nhau nổi dậy đuổi mấy
thằng tây về nước. Họ gọi thánh sống vừa là “Bác”, vừa là cha già. Lúc này
thánh sống mới vung liềm ra gặt hái, bội thu nhất là vụ cải cách ruộng đất.
Vung búa ra đập phá, trước hết là nền văn hiến và đạo đức.
Sợ quá, bọn
quỷ còn lại trên nghĩa địa vội cuốn gói về quê quán nhưng địa ngục đã chật ních
những hồn ma mới. Chúng đang than khóc và an ủi nhau, nơi đây còn ít cực hình
hơn cõi thế.
Thật vậy,
nếu bác bảo chú ngựa có ba chân, đố đứa nào dám cả gan cãi lại! Những người mắc
bệnh Dương tu được đưa vào bệnh viện Hoả lò điều trị. Không kể năm tháng, các
bác sĩ và hộ lý ở đây tận tình cứu chữa bệnh nhân. Ai mắc bệnh nặng được đưa đi
bệnh viện đặc biệt chữa khỏi hoàn toàn với thời gian rất ngắn, nghĩa là…
Thôi chết
rồi, tao dẫn mày đi lung tung quá! Mày thông cảm, tuy tao nói lộn xộn chẳng có
chủ đề gì nhưng đều là những hiện tượng có thật của thời đại“Bác”. Tại sao mày
cứ sống thật thà để chịu khổ mãi? Cuộc đời ngắn ngủi như một giấc mơ, mày hãy bỏ
cái nhân cách của mình, coi tao như một người anh em chí thiết; Trước hết tao sẽ
giúp mày biết cái lạc thú đê mê, đừng có sĩ diện hão huyền mà từ chối. Biết
đâu, ngày mai cuộc đời mày sẽ kết thúc bởi một trái tim oan nghiệt lúc đó linh
hồn mày sẽ hối tiếc và căm giận những vòng hoa trắng! Mày và thằng Khoa nữa lạc
lõng với sự đời như Donquichotte, không thức thời bằng các cô gái, xem ra các
em hiểu hiện sinh hơn chúng mày nhiều.
Chính
chuyên chết cũng ra ma
Lẳng lơ chết cũng đưa ra ngoài đồng.
Các em
không oán giận gì tao, còn cho rằng sự lừa bịp của tao dễ chịu, nếu không nói
là mốt hiện sinh kỳ diệu. Các em còn tôn xưng tao là đồ đệ của jean paul
santre. Việc gì phải bắt chước Khuất nguyên lấy cái nhân cách soi xã hội để ôm
hận vào lòng. Mày phải nhớ rằng, “Bác”chôn vùi cái ngũ thường đã từ lâu, phải
chăng chỉ còn lại chữ tin tuyệt đối dành cho đảng?….
Trung tuần
tháng 11 – 64, tôi đến nhà Nghệ, anh khoe cách đây hơn một tháng xảy ra một
chuyện thương tâm. Nghệ kể:
– Đêm đã
khuya, tao sắp đi ngủ thì anh ở số nhà bên sang nói với tao, có một bông hoa đẹp
mê hồn nhưng hơi
xưa một chút, cậu có dùng không? Anh chỉ lấy giá hữu nghị thôi.
– Anh nhặt
được ở đâu? – Tao hỏi.
– Lúc
nãy, cô ấy dắt thằng con đến trước cửa nhà anh ngồi, có lẽ định ngủ nhờ ở đó.
Anh toan đuổi đi nhưng khi nhìn thấy mặt, nhận thức ngay rằng một con mồi hay
đây. Thế là anh bảo Dung (em gái) gọi cô ấy vào nhà cho ngủ nhờ để biến thành một
món hàng kiếm chác thêm chút ít. Bây giờ cậu xuống mà xem.
Tao lẽo đẽo
theo anh hàng xóm về nhà. Nhìn cô ta phải đến gần ba chục tuổi, đẹp ơi là đẹp.
Khi còn trẻ, nếu thi sắc đẹp, cô ta phải chiếm vương miện hoa hậu chứ chẳng
chơi. Tao nghĩ, tuy có đẹp nhưng tội gì mình phải chơi đồ cổ.
Tao lắc đầu,
bỏ ra về.
Sáng hôm
sau, anh hàng xóm gặp tao kể lại:
– Sau khi
cậu không ưng, anh tìm được khách xộp, thoả thuận năm mươi đồng cả đêm. Lão già
vớ được con mồi này còn say mê hơn mèo thấy mỡ. Chẳng nói, chẳng rằng lão xô
vào cô ta như nuốt sống ăn tươi nhưng lão vô duyên quá, bị cô ta chống trả quyết
liệt, chẳng xơ múi, còn bị ngã sưng vêu cả đầu. Mất ăn, anh bực quá giơ thẻ đỏ
đưa cô ta về khu với tội gái mại dâm bị bắt quả tang, đầu tóc, quần áo còn rối
tung, xộc xệch làm bằng chứng. Thằng con của cô ta sợ quá chạy ra đường phố.
– Anh
hàng xóm là cá ngầm à? – Tôi hỏi.
– Chứ còn
gì nữa! Tay cá ngầm nói thêm, đưa cô ta lên khu, lại có một trung uý người cùng
quê. Cô ta còn mắc tội giả mạo giấy tờ, man khai họ, tên và địa chỉ quê quán để
cư trú bất hợp pháp ở Hà nội.
Nghe Nghệ
nói, tôi giật mình sửng sốt. Chị Bích Hằng lại chịu một tai hoạ mới. Tôi nói:
– Con người
chịu nhiều đau thương, tủi nhục ấy cùng làm với tao trước ngày sáp nhập hợp tác
xã.
– Thế thì
muộn rồi, nếu biết trước tao giải thoát cho chị ấy như chơi. Tay cá ngầm này
hung ác, nham hiểm với người khác, còn với tao hắn ngoan ngoãn như một con cừu.
Rất tiếc là chị ấy không có tiền hoặc tài sản gì để chịu tội thay người. Nghệ
nghêu ngao:
Trong tay
sẵn có quyền, tiền
Dù lòng đổi trắng thay đen khó gì?
* *
*
Giữa
tháng 12 năm ấy, tôi và Khoa sang Dốc lã đào đất, họ xây kho ngầm để tránh máy
bay Mỹ oanh tạc, mỗi ngày công được một đồng sáu hào. Ban ngày làm việc, ban
đêm chui vào nhà kho ngủ, dầu đèn chẳng có. Nơi đó hẻo lánh muốn uống chén trà
cũng khó. Sau một tuần, chúng tôi bỏ về, đi nhờ ô tô tải đến phố Nguyễn Thiệp uống
trà. Và sau đó tôi rủ Khoa về chùa Đức vua ngủ. Đầu phố Nguyễn Thiệp giao nhau
với phố Nguyễn trung trực là bậc lên bến Nứa, phía trên có một cô gái gọi:
– Các anh
ơi, đi chơi với em!
Nhác trông
qua ánh điện lờ mờ, tôi thấy cô gái còn rất trẻ và hình như tôi đã gặp một lần.
Khoa ghé vào tai tôi nói nhỏ:
– Gái làm
tiền đấy!
– Phải rồi
nhưng tao thấy quen quen.
– Mày
thích à?
– Thì có
sao, gỗ đá đâu, ai mà chẳng thích?
Nghe tôi
trả lời, Khoa tỏ vẻ bực mình, quay về phố Nguyễn thái Học. Tôi bước lên bậc đến
gần cô gái, người tôi bỗng run lên, phải chăng con người của thú tính trong tôi
đã vùng lên và chiến thắng?
– Năm đồng
nếu máu thì chi ngay – Cô gái nói.
Trong túi
tôi cũng còn vừa đủ năm đồng, tôi lấy tiền đưa cho cô gái.
– Anh đưa
em về nhà là an toàn hơn cả – Cô gái nói tiếp, sau khi bỏ tiền vào túi dắt cạp
quần.
Nhìn lại
cô gái, tôi chợt nhớ ra và bật kêu lên:
– Em là
Nga, con bác Hiền phải không?
– Sao anh
biết? – Cô gái hỏi, vẻ hoảng hốt.
– Xưa kia
anh cùng làm với mẹ em ở phố hàng Buồm. Một lần anh đến thăm nhà thấy ảnh em
treo trên tường.
– Anh
ranh mãnh đấy, nhìn ảnh mà nhận ra người.
Dẫn Nga đến
bờ đá trước cổng chùa Đức vua, tôi hỏi:
– Nga có
biết gia đình em mới đây thế nào không?
– Biết cả
rồi, thương mẹ, em đã về nhà.
– Tại sao
em phải kiếm tiền bằng…
– Thôi,
thôi ông anh ạ – Nga nói cướp lời – việc gì phải tò mò thế? Đơn giản đêm nay em
là vợ của anh.
– Nga đừng
nói thế, thành thực anh rất thương bố mẹ em và cả em nữa nên anh muốn biết.
– Thôi được,
anh quan tâm đến gia đình em, em xin nói. Năm nay em mười bảy tuổi. Xuất thân từ
một gia đình giáo học, em cũng biết mình phải làm gì để khỏi nhục đến bố mẹ.
Nhưng xã hội không đơn giản như ý nghĩ của mình, hoàn cảnh gia đình em như anh
đã biết, bố ở nhà, anh Hưng vào tập thể nhà máy rồi đi bộ đội, một mình mẹ em
chạy chợ trong lúc họ đang ngăn cấm thì nuôi sao nổi được cả nhà? Do vậy, bằng
mọi cách em phải tìm việc để làm. Đầu năm em gặp một người là bí thư đoàn thanh
niên lao động của một nhà máy. Anh ta nói:
– Anh có
uy tín với cơ quan nên xin việc cho em chẳng khó khăn gì nếu em là người yêu của
anh.
Em nghĩ,
kinh tế gia đình em đang cùng quẫn, cần phải có việc làm ngay để kiếm sống.
Nhìn anh ta cũng được, hơn em kh
oảng gần chục tuổi, em đã nhận lời yêu. Thời buổi này, khi đã yêu phải trao thể
xác. Thực tế, em đã làm vợ hắn gần hai tháng. Sau khi thoả mãn về tình dục, hắn
lật lọng:
– Bố em
là công chức lưu dung, nhà máy không nhận. Từ nay anh không dám yêu em nữa.
Về sau em
mới biết, hắn đã có vợ con. Ai cũng nói đẹp nhất là mối tình đầu, đối với em
sao lại tàn nhẫn, ghê tởm thế? Vì nôn nóng có việc làm dẫn đến một mối tình vội
vàng, lừa đảo. Khi trinh tiết đã bị người ta lừa dối cướp đi thì tâm hồn em còn
gì là trong trắng nữa. Em coi cuộc đời là tội lỗi, xấu xa.
Kế đó, bạn
học em có người nhà là trưởng phòng tổ chức một công ty. Nó dẫn em đến nhà ông
ta để xin việc. Ông ta ở một mình một phòng, vợ con ở quê. Ông ta nói:
– Cháu
làm hồ sơ, chú sẽ giúp.
Vài ngày
sau, em mang giấy tờ đến, bạn em bận không đi cùng. Ông ta vui vẻ trả lời:
– Có thể
tuần sau cháu sẽ đi làm.
– Được
chú giúp đỡ, cháu sẽ suốt đời mang ơn chú – Em vui mừng quá, nói giọng nghẹn
ngào.
Sau đó,
ông ta đi đóng cửa lại và nói:
– Chú chẳng
cần mang ơn mang huệ. Bây giờ cháu cho chú cái gì chứ?
Em ngơ
ngác trả lời:
– Nhà
cháu nghèo lắm, chú thông cảm.
– Không
phải tiền của đâu mà cháu ấy chứ.
Em hiểu ý
và thoáng nghĩ, cũng liều nhắm mắt…
Em liền gật
đầu. Tuổi đã ngoại tứ tuần, xem ra hắn còn máu mê gái lắm. Một giờ hắn diễn hai
hiệp, hùng hục như trâu húc mả.
Tuần sau
em đến nghe kết quả, hắn trả lời:
– Bố cháu
là công chức lưu dung, ai dám nhận.
Thôi cũng
đành, em nói với hắn:
– Chưa
chi đã vội ăn hối lộ, chú phải trả tiền.
– Bao
nhiêu? Hắn hỏi.
– Cứ mỗi
lần một chục.
Nghe bạn
em nói, thằng cha này Grandet với vợ con lắm nhưng với em thì ngược lại. Không
một giây lưỡng lự, hắn đưa em ba chục và tiếp một lần nữa. Sau đó, hắn cho em
ăn bánh bích quy và uống Sirô đá. Mới có hơn nửa giờ mà hắn đã lên cơn sốt
khác, mắt hắn hau háu nhìn em. Em giả vờ về, hắn kéo em lại, nói:
– Ngồi
chơi đã, về làm gì vội?
– Cứ sòng
phẳng là xong béng – Em nói.
Hắn đưa
tiếp cho em một tờ đỏ và nói:
– Đến giường
nằm đã, vội quá mất hay.
Em lên
giường nằm khểnh, giả vờ ngủ. Hắn đến nằm bên cạnh, mắt nhắm lại mơ màng gì đó?
Em nghĩ, con quỷ dâm dục này muốn kéo dài thời gian để cơn sốt bốc lên cao mà tận
hưởng đây. Em liền giục:
– Làm cho
xong để còn về chứ!
Hắn ngoan
ngoãn phục tùng. Xem ra, hắn còn say đòn lắm, khi em về, hắn hẹn hãy đến chơi
luôn. Đang thiếu tiền như cây phơi dưới nắng hạn cần mưa, em đến với hắn liên tục.
Thế mà cơn sốt của hắn chẳng hạ xuống chút nào, có lẽ hắn đã nghiện gái như người
nghiện phiện. Cũng lạ, sao hắn nhiều tiền thế? Có lẽ hắn ăn hối lộ hoặc tham ô,
hơn nửa tháng chiến đấu không ngừng, hắn vẫn có tiền chi đều đặn. Chẳng những
thế, hắn vẫn tỏ ra dẻo dai, bền bỉ, tính chiến đấu lại càng quyết liệt hơn.
Rồi một
hôm, hắn đi vắng. Nhà hắn có một mụ đầu vấn khăn, răng đen, mặc áo nâu, quần vải
đen, da cháy nắng, già hơn hắn nhiều. Chắc đây là vợ hắn, làm em chột dạ. Em
nghĩ, vợ thế này, lại nhiều tiền, chết với gái là đáng lắm.
Mụ sấn sổ
đến, nắm tay em, hỏi:
– Cháu hỏi
ai?
–
Cháu…cháu đến… – Em đang ấp úng thì mụ quát phủ đầu:
– Thôi
đúng rồi, mày đến quyến rũ chồng bà.
Bất ngờ em
hất mạnh tay làm mụ ngã và em bỏ chạy. Nghe đâu mụ đến cơ quan chồng rêu rao om
xòm, làm thằng cha trưởng phòng này bị một phen kiểm điểm vỡ mày, vỡ mặt. Đây
là giai đoạn cái mở đầu mà anh muốn hỏi.
Ngừng vài
giây, Nga hào hứng kể tiếp:
– Anh ạ,
xã hội hiện nay chán vạn điều xấu xa bỉ ổi. Nghề của em tuy mất nhân phẩm, ảnh
hưởng đến thanh danh của gia đình nhưng thuận mua, vừa bán chẳng làm hại ai,
còn tốt hơn nhiều lần việc làm của bọn tai to, mặt lớn. Anh có thể tin rằng, đồng
tiền của gái mại dâm còn bị trấn lột không? Điều đó lại là sự thật, em kể cho
anh nghe nhé. Tối hôm ấy, trên đường Cổ ngư, một thằng nhãi ranh, ít tuổi hơn
em, cứ lằng nhằng theo sau hàng giờ và nói:
– Em ơi,
anh chỉ có hai đồng thôi, cho anh chơi nhé, cùng là tuổi trẻ nên hữu nghị với
nhau chứ?
– Em
nghĩ, nếu không cắt cái đuôi này khó mà làm ăn được. Em ra lệnh:
– Đưa tiền
đây, hai đồng chỉ được chơi dựa cây vài phút thôi đấy nhé!
– Nhất
trí – Nó ngoan ngoãn phục tùng.
Của đáng
tội, chú tân binh chưa tập sự lần nào, chẳng đâu vào đâu, mục tiêu không bắn, vội
vã nhả đạn vung vãi ra ngoài. Thương hại chú ngựa non háu đá chẳng nên trò trống
gì, em trả lại tiền và bảo:
– Này, trả
lại tiền cậu ấm, chị ái ngại cho c
hú quá.
Tiền đầu
bất lợi, em chán nên bỏ về. Giữa đường thấy một chiếc Volga dừng lại, một lão
già trong xe ra. Lão ngoài năm mươi tuổi, mặt phương phi, người to béo, diện bộ
complet đen. Em thoáng nghĩ, cốp đây, chài được lão này mới bẫm. Em đi sát vào
lão và hỏi:
– Bác già
có máu không?
Tức khắc
lão vỗ vai em, hỏi:
– Chơi chứ,
bao nhiêu?
– Năm chục
một lần.
– Được –
Hắn nói nhỏ – nhà tôi ở gần đây, vào im lặng nhé.
Lão dẫn
em vào, nhà lão là biệt thự hai tầng, có nhiều phòng. Thấy động, có tiếng đàn
bà hỏi:
– Anh về
đấy à?
– Phải –
Lão trả lời – Anh khoá cổng cho, em không phải dậy nữa.
Lão dẫn
em vào phòng làm việc, chỉ có bàn ghế, mấy tấm thảm và một tủ hồ sơ to. Lão bật
đèn ống sáng trưng. Em cứ tưởng lão cũng hùng hục như thằng cha trưởng phòng bữa
nọ, nhưng cách chơi của lão rất tân kỳ. Lão lột hết quần áo em, xoay ngược,
xoay xuôi đủ mọi trò. Không phải“vành trong tám nghề” mà đến mấy chục kiểu. Có
lẽ lão uống thuốc hãm nên cái ấy của lão cứ trơ trơ hàng giờ. Tưởng được món hời,
béo bở, không ngờ thành cuộc tra tấn làm em phát sợ. Chắc thấy lâu không đi ngủ,
vợ lão gọi, tiếng nói nghe còn trẻ và có vẻ nũng nịu:
– Anh làm
gì mà thức khuya thế?
– Em ngủ
trước đi, anh còn phải duyệt lại bản báo cáo để ngày mai đến văn phòng bộ.
Đến lúc
đó, có lẽ thấy không an toàn, lão mới tháo còng.
Cám ơn bà
chủ nhé – em thầm nhủ – nếu không thì còn khổ với lão. Ra cổng, lão đưa tiền
cho em và dặn:
– Thỉnh
thoảng đến chơi nhé, nếu có ai hỏi thì nói là mới vào làm cơ quan tôi.
– Nếu hôm
nay bà xã đòi vào thì bác đối phó thế nào? – Em hỏi.
– Không
lo, một ngăn tủ bỏ trống, em mang cả quần áo, dép vào đó, tôi khoá lại là yên
tâm.
Trên đường
về em ngẫm nghĩ, lão già này chơi gái trẻ nhiều rồi. Chẳng những thế, để tăng
thêm phần lạc thú, lão còn đọc nhiều truyện dâm ô, trác táng như vụ án phố
Paris chẳng hạn để học tập cách chơi kiểu mới.
Anh thấy
những người như khuôn vàng, thước ngọc của chế độ hành động tuyệt vời chưa?
Theo đường
Phan đình Phùng về nhà, em tấp tửng mừng thầm tối nay chài được khách xộp. Từ
hàng Bún đi ra, một trung uý công an, gã hỏi:
– Mày đi
làm tiền phải không?
– Anh đừng
bịa đặt, tôi từ nhà bạn về – Em bình tĩnh trả lời.
– Bây giờ
gần một giờ đêm – Gã xem đồng hồ, nói – nhà bạn ở đâu dẫn tao đến? Nếu không
mày phải về đồn.
Em định bỏ
chạy nhưng sao thoát được nên cứ lủi thủi đi theo gã. Bụng nghĩ, gã sẽ giam
mình tại đồn hàng Đậu. Có thể gã lập hồ sơ cho mình đi tập trung cải tạo cũng
nên, chân tay em rụng rời mấy lần suýt ngã. May quá, đến đầu phố hàng Đậu, gã bảo
em rẽ. Em thở phào nhẹ nhõm vì đoán chắc rằng thằng cha này cũng muốn tí đây.
Phải hối lộ cho gã một vài lần mà thoát nạn thì may chán. Gã đưa em về nhà ở
quá rạp Đại đồng. Gã sống một mình. Có lẽ gã sợ hàng xóm biết nên gã bảo em im
lặng nghe theo gã, gã sẽ tha. Vào trong nhà, gã chốt cửa lại, chỉ bật một ngọn
đèn ngủ màu đỏ lờ mờ. Hưởng lạc xong, gã lại dẫn em ra đường, đến trước rạp Đại
đồng, gã ra lệnh:
– Có bao
nhiêu tiền mày phải đưa cả đây?
– Anh
chơi gái không mất tiền còn đòi gì nữa? – Em nói
– Mày vừa
làm tiền với đứa khác, nếu không đưa, tao sẽ dẫn mày về đồn.
– Anh đừng
vu khống, chỉ có anh chơi tôi thôi.
– Vừa
chơi mày trong môi trường toan, tao còn lạ gì. Nếu trước tao, mày chưa làm tiền
với ai, phải trong cái môi trường kiềm. Tao biết, đêm nay mày đã gặp một con quỷ
dâm dục hoặc nhiều thằng rồi nên mới thế.
Em thoáng
nghĩ, thằng cha này ranh ma thật. Em cũng lên gân doạ gã:
– Nếu đưa
về đồn, tôi tố cáo anh.
– Mày phải
biết, tao là đồn trưởng. Mày tố cáo có trời nghe. Tao vẫn tịch thu hết tiền và
lập hồ sơ đưa mày đi cải tạo.
Em thầm
nhủ, gã nói có lý, thôi để của đi thay người vậy. Em rút hết tiền đưa cho gã và
vội vã về nhà. Anh thấy hành động của tên công an này ghê tởm đến mức nào chưa?
Không biết các truyện Đông, Tây kim cổ có nhân vật nào ngang tầm với gã…
Nga kể lại,
vẻ thản nhiên, không một chút e thẹn, ngượng ngùng. Giống như đài phát thanh đọc
truyện đêm khuya, diễn cảm rất tốt làm tôi rợn người ghê sợ. Không còn cách nào
cứu nổi tâm hồn tội lỗi này, tôi buồn bã nói:
– Em còn
trẻ làm lại cuộc đời chưa muộn.
– Cảm ơn
anh, đời em bị xã hội dồn vào ngõ cụt, thôi cũng đáng để trôi theo dòng nước đục.
Đêm đã khuya, em không trả lại tiền anh đâu. Nhìn mặt em biết, anh còn trong trắng
lắm. Hãy tìm nơi nào đó, cùng em hưởng chút mùi đời. Em thích công bằng và sòng
phẳng.
Đau lòng
chưa, Nga coi tấm thân mình như một món hàng để mua bán, cho thuê? Tôi ngần ngại
nói:
– Em nói
chuyện với anh như thế đã là sòng phẳng. Nếu còn tiền, anh phải chi thêm cho em
mới là lẽ công bằng. Chúc em về nhà ngủ ngon.
Trên đường
về, Nga còn nói với lại:
– Anh đừng
hối tiếc nhé!
Tôi về dốc
hàng Than, sắp bước xuống bậc vào chùa, trước mặt tôi, một xếp tiền loại giấy
năm đồng gọn ghẽ.
Tôi nhặt
tiền bỏ vào túi, ngẫm nghĩ, trời cho tiền mình tiêu tết đây. Nga đang đi xuống
dốc, tôi toan gọi lại để cho Nga một nửa nhưng từ phố Nguyễn khắc Nhu một bà
già đã đến gần, tay xách đèn bão, mắt nhìn xuống đường, vừa đi vừa rên rỉ:
– Con ơi,
mẹ làm mất hết tiền rồi.
– Bà mất
bao nhiêu ạ? – Tôi hỏi.
– Hỏi gì,
mày xéo đi – Bà già nổi giận.
– Cháu hỏi
bà để cháu biết, cháu sẽ tìm cho.
– Nếu anh
nhặt được cho tôi xin lại – Bà già đổi giọng ôn tồn – tôi mất loại tiền năm đồng,
hai mươi nhăm tờ.
– Cháu vừa
nhặt được xin trả lại bà.
Bà già
run lập cập, cầm tiền đếm lại. Bà nói:
– Đủ rồi,
tôi cảm ơn anh, biều anh mười đồng.
– Thưa
bà, cháu không lấy!
– Ô hay,
anh này tốt bụng quá mà lại chê tiền à?
– Thưa
bà, cháu rất nghèo, rất cần tiền nhưng không có lòng tham.
Bà già
sung sướng quay về, bà đi nhanh như cô gái trẻ.
Năm ngày
sau, tôi nhận được thư của Nga.
Ngày 27 –
12 – 1964.
Anh Tâm
thân! Em nói với mẹ là tình cờ gặp anh ở phố. Nghe mẹ kể, em mới biết họ, tên
và địa chỉ của anh. Mẹ khen anh nhiều lắm. Mẹ còn nói, khi xưa trong tổ hợp
tác, nhiều người gán ghép anh là con rể của mẹ, chính mẹ cũng ước mong như thế.
Nếu sự đời chiều theo ý nghĩ đó đã mang lại cho anh một vết thương lòng, một vết
nhơ – Người yêu anh đã trở thành gái làm tiền ô nhục.
Anh Tâm!
Sau khi gặp anh, ba ngày em không đi đâu cả, hồi tưởng quá khứ xót xa, ghê tởm
và oán trách thân phận mình đã bước vào con đường tội lỗi. Trong lúc ngôi biên
thư cho anh, em dám nói, con người của tuổi thơ, trong trắng đã sống lại trong
em. Trước những hành động khác thường có một không hai của anh, trên đường về
và đêm hôm ấy cũng như hiện nay em đặt nhiều câu hỏi: anh chê em hay lương tâm
đã chiến thắng thú tính trong anh? Một chàng trai khoẻ mạnh,có thể chưa nếm mùi
đời, ngồi bên đứa con gái trẻ đã thoả thuận trao thể xác mình, tại sao anh bỏ
qua dễ dàng như vậy? Em hiểu, đó là tình thương và lòng cao thượng. Đáng tiếc
những cử chỉ cao đẹp ấy quá nhỏ bé trong xã hội rộng lớn bao la, chồng chất những
xấu xa, tội ác, không thể cứu vớt những người như em thoát khỏi kiếp phong trần.
Qua mẹ kể
lại, em biết đời anh khổ lắm. Ngoài những đau thương mất cha, mất mẹ, anh phải
trải qua muôn vàn nỗi gian nan, tủi nhục. Thế mà tâm hồn anh vẫn trong sáng,
thuỷ chung. Bị trôi nổi giữa dòng đời nhơ bẩn,anh vẫn sạch, giống như một bông
hoa vẫn toả hương thơm. Còn em thì hoàn toàn ngược lại. Em không đủ nghị lực và
lòng dũng cảm để cuộc đời chìm đắm trong tội lỗi. Thôi, thế là hết rồi anh ạ,
cũng một kiếp người. Gửi anh lời chào vĩnh biệt.
Tôi đang
đọc thư của Nga thì Khoa đến, anh nói:
– Tối hôm
nọ, tao rất bất bình. Về nhà, tao nghĩ lại, cái đẹp nhất của tuổi trẻ là tình
yêu, mày đã bị dập vùi, có lẽ chỉ dám yêu thầm lặng – một tình yêu đơn phương
thì cay đắng lắm, tao thông cảm với mày.
Tôi đưa
thư của Nga cho Khoa đọc. Đọc xong, Khoa siết chặt tay tôi và hỏi:
– Con gái
bác Hiền phải không?
– Đúng!
– Mày có
nói với bác ấy không?
– Không
nên, nếu nói lúc này là làm điều ác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét