Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

HỒI KÝ TRẦN ĐỘ -KỲ 4

1      2      3     4      5
TẬP 2 CHƯƠNG 3  NGHỊ QUYẾT 5
I
Ngẫm lại cuộc đời hoạt động cách mạng gần 60 năm của mình tôi có khá nhiều niềm vui lớn. Đầu tiên là niềm vui chiến thắng được những đòn tra tấn dã man của kẻ thù ở nhà lao Thái Bình lúc tôi vừa tròn 18 tuổi. Năm 1943, trong đoàn tù từ Sơn La về Hà Nội để lên tàu ra Côn Đảo, đến Hòa Bình tôi đã vượt ngục thành công và một hạnh phúc lớn bất ngờ đến với tôi, được Đảng phân công làm người giúp việc cho đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh và trong đó được là người thay mặt Đảng phổ biến "Đề cương văn hóa" cho nhóm văn hóa cứu quốc. Đối với tôi đây là một hạnh phúc kép. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến hào Điện Biên phủ, tôi và anh Lê Trọng Tấn đã ôm chặt nhau, sung sướng nghẹn ngào khi được tin chính các chiến sĩ Đại đoàn 312 của mình đã bắt sống tướng Đờ Cát ngay trong hầm chỉ huy của nó.
Hơn mười năm sau, với cương vị Phó chính ủy Quân giải phóng miền Nam, tôi lại được hưởng niềm vui lớn khác của chiến thắng, lần trước là thắng Pháp, bây giờ là thắng Mỹ.
Rồi đến những ngày tưng bừng của Đại hội VI và sau đó là Nghị quyết 05.
Đã trên 60 tuổi rồi mà trong những ngày này tôi cảm thấy như mình đang được sống lại thời trai trẻ của những ngày đầu cách mạng lãnh đạo cướp chính quyền thắng lợi ở Phúc Yên, những ngày chiến đấu bảo vệ Hà Nội cuối năm 1946 và những ngày Điện Biên phủ anh hùng. Những ngày đó niềm vui, niềm hạnh phúc được làm việc, được cống hiến khiến tôi như trẻ lại chục tuổi. Đến bữa ăn bụng không thấy đói, đến giờ ngủ còn muốn thức mãi để viết, để làm việc, chuẩn bị cho công việc ngày mai, công việc cứ dồn dập đến, với những niềm vui tường như vô tận.
Trong những ngày này thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp Nghiêm Hà, thư ký của tôi, nhìn tôi tủm tỉm cười - Tôi cũng cười hỏi: Cậu cười cái gì? Hà trả lời tôi bằng một câu hỏi có vẻ khiêu khích - Sao dạo này anh vui thế? Chính vì có nhiều cuộc gặp mặt giữa các nhà văn, nhà viết kịch, các nghệ sĩ... Trụ sở Ban văn hóa văn nghệ Trung ương như một câu lạc bộ, thường xuyên mở rộng cửa đón tiếp các văn nghệ sĩ đến trao đổi ý kiến, bàn bạc mọi vấn đề liên quan đến công cuộc đổi mới của đất nước, tất nhiên là tập trung vào chủ đề đổi mới văn nghệ theo tinh thần nghị quyết của Đại hội VI.
Là người đã tham gia các chiến dịch lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được tận mắt chứng kiến không khí sôi động của hàng vạn cán bộ chiến sĩ trước khi bước vào trận đánh mới, tôi bỗng có sự liên tưởng đến không khí của đời sống văn hóa văn nghệ của đất nước trong những ngày này, thực chẳng khác gì không khí chuẩn bị bước vào một chiến dịch lớn mà mục tiêu phía trước cần vươn tới là nghị quyết chuyên đề của Đảng về Văn hóa Văn nghệ.
Từ giữa tháng 6 năm 1987, hầu như toàn bộ tâm tư, tình cảm của những người làm công tác văn hóa nghệ thuật Việt Nam đều hướng tới mục tiêu đó cả guồng máy của Ban văn hóa văn nghệ Trung ương hầu như mở hết công suất để hướng mọi người vững bước đi lên đạt tới mục tiêu đó. May mà Ban văn hóa văn nghệ lúc này đã có sự đổi mới về cơ chế tổ chức, tuy chỉ mới là bước đầu nhưng thực sự đã phát huy tác dụng là một cơ quan tham mưu của Đảng về văn hóa văn nghệ -Toàn ban chỉ có trên dưới 30 người, gồm các chuyên viên trực tiếp với Trưởng ban, chỉ tập trung vào làm công tác nghiên cứu lý luận chứ không làm công tác quản lý sự vụ. Có lẽ hồi ấy đây là Ban duy nhất của Đảng không có các Vụ, các Phòng. Do cơ chế mới nên đã bắt đầu chấm dứt cái cảnh cứ động một tý là có cú điện thoại gọi đến bảo ban văn hóa văn nghệ cử cán bộ đến chỗ này chỗ khác xem tác giả bài báo vừa đăng có một vài ý "trái với đường lối quan điểm của Đảng" là ai? Lý lịch như thế nào? Hoặc một cuốn sách vừa xuất bản có vấn đề, Ban lại phải cử cán bộ đến điều tra xem tác giả là ai? Trách nhiệm của nhà xuất bản như thế nào? hoặc ở Hội nọ có tin ông A tằng tịu với bà B, Ban cũng phải cử người đi thẩm tra để làm rõ... Cứ suốt ngày chạy theo công tác sự vụ như thế thì chẳng còn thời gian đâu mà nghiên cứu lý luận nữa. Mà đối với văn hóa văn nghệ trước hết phải là đổi mới tư duy, đòi hỏi phải nghiên cứu thật sâu các mặt, các tác phẩm kinh điển, các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo... làm cơ sở cho lý luận về đổi mới, trước hết có những căn cứ thật vững chắc để báo cáo có sức thuyết phục đối với Bộ chính trị, Ban bí thư. May sao cơ chế vừa mới hình thành đã kịp góp phần phục vụ cho việc chuẩn bị Nghị quyết 05 - Điều đáng mừng là các đồng chí trong Ban văn hóa văn nghệ của Đảng hồi đó đều vui vẻ từ bỏ các danh hiệu Vụ trưởng, Trường phòng để có thời gian làm tròn nhiệm vụ một chuyên viên giỏi có ích cho Đảng nhiều hơn. Có thể coi đây là một kinh nghiệm về đổi mới, phải đổi mới từ gốc, từ cơ chế, đổi mới từ trên xuống.
Về vấn đề này, ngày 26/2/1987, nhân danh trưởng ban văn hóa văn nghệ Trung ương tôi đã chính thức có công văn gởi lên Ban bí thư Trung ương, Ban tổ chức Trung ương trình bày chính kiến của mình.
1 - Ban văn hóa văn nghệ Trung ương là cơ quan chuyên môn giúp việc Ban bí thư thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ, chứ không phải là một cấp trung gian.
2- Chức năng chủ yếu của Ban là tham mưu, nghiên cứu chứ không phải là chức năng quản lý. Ban hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện đường lối, quan điểm về văn hóa văn nghệ của Đảng chủ yếu bằng phương thức nghiên cứu kiểm tra, thu thập thông tin, phân tích tình hình nhằm phát hiện các vấn đề về quan điểm, đường lối, chính sách, chứ không kiểm tra, điều tra vụ việc, giải quyết những vấn đề cụ thể về hành chính tổ chức.
3- Ban không chỉ đạo như một cấp đối với Bộ văn hóa, các Hội văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương, các Ban tuyên huấn và văn hóa văn nghệ các Tỉnh ủy Thành ủy mà chỉ có trách nhiệm giúp đỡ các Ban này thực hiện tốt đường lối chính sách, phương hướng công tác và các chỉ thị của Trung ương Đảng.
Tôi thường tâm sự với anh em: Mình đã quyết xả thân làm một nhà nghiên cứu văn hóa văn nghệ thì phải từ bỏ tham vọng làm một "ông quan cách mạng". Hai cái này không hề song song tồn tại trong một con người. Chính vì vậy mà tôi kiên quyết theo đuổi đến cùng chủ trương làm cuộc cách mạng về cơ chế tổ chức Ban văn hóa văn nghệ nhưng khi lên thay tôi sau Đại hội V, anh Hà Xuân Trường đã bỏ giở. Lý do chính để anh Hà Xuân Trường không thực hiện là "lo cho quyền lợi" của anh em. Bởi vì chức vụ nó liên quan đến hàng loạt chế độ như nhà cửa, tem phiếu, đi viện, đi công tác... Ví dụ đi công tác miền Nam, phải là Vụ trưởng mới có tiêu chuẩn đi máy bay, hoặc khi phân phối nhà, phải là Vụ trưởng mới có tiêu chuẩn 2, 3 phòng. Khi xuống công tác địa phương giấy giới thiệu phải là Vụ trưởng mới được đón tiếp chu đáo, còn nếu chỉ là chuyên viên thì thái độ sẽ khác đi, từ phòng nghỉ cho tới tiêu chuẩn phục vụ ăn uống...
Tôi cho rằng cái kiểu cơ chế đó đã góp phần làm hỏng con người, đánh giá không đúng con người. Thực tế chưa chắc một Vụ trưởng đã làm việc có hiệu quả, có chất lượng như một chuyên viên giỏi. Có lần tôi đã phát biểu công khai trước Ban bí thư: Các Ban của Đảng phải có những cán bộ nếu không phải là chuyên gia thì cũng phải thông thạo ở lĩnh vực mình phụ trách, có trình độ làm việc được với các chuyên gia để khi nghe người ta nói phải hiểu được người ta nói cái gì và khi nói thì người nghe cũng hiểu được anh nói cái gì. Điều đáng buồn là hiện nay đang có tình trạng có những cán bộ, nói không ai hiểu mình nói gì mà nghe cũng không hiểu được người ta nói gì. Như vậy thì làm sao nói Đảng có trí tuệ được. Đã mang danh là Đảng lãnh đạo thì dứt khoát phải có trình độ cao hơn, chứ không chỉ là chức vụ, cấp bậc. Những cán bộ như thế chỉ làm mất uy tín của Đảng.
Rất may là ý kiến đề xuất của tôi được anh Đỗ Mười và các anh bên Ban tổ chức ủng hộ, nhưng để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho anh em thì tôi thống nhất với anh Nguyễn Văn Hạnh là khi việc gì liên quan đến hưởng thụ vật chất đối với ngành tài chánh quản trị cứ để anh em mang danh hiệu trưởng phòng, Vụ trưởng. Còn chế độ làm việc thì dứt khoát là chế độ chuyên viên. Chế độ này đòi hỏi mỗi người phải tăng cường học tập để nâng cao trình độ, phải đọc nhiều. Bởi đọc nhiều mới có thông tin làm tham mưu cho Đảng. Muốn vậy, tôi chủ trương giảm bớt những cuộc họp không cần thiết. Thời gian làm việc cũng không phải là "8 giờ vàng ngọc" ngồi lỳ ở cơ quan, có buổi chỉ tán gẫu rất lãng phí, mà đề ra mỗi tuần chỉ cần gặp nhau vài lần. Tôi nhớ hồi đó quy định là vào sáng thứ hai, thứ tư và thứ bảy. Các buổi sáng đó, anh em trong Ban gặp nhau trao đổi những vấn đề mới phát hiện được, những thông tin mới nắm được, những đề xuất với Ban trong phạm vi chức trách của mình...
Đúng vào dịp này, toàn Ban lao vào nhiệm vụ chuẩn bị nghị quyết 05 như trên tôi đã nói. Mỗi đồng chí từ các hội thảo mang theo những ý kiến mới mẻ trở về, biến các buổi sáng gặp nhau trở thành những buổi trao đổi sôi nổi chưa từng có ở Ban văn hóa văn nghệ. Tôi phấn khởi lắng nghe ý kiến của anh em và nói với anh em là bây giờ trách nhiệm của chúng ta, là những chuyên viên làm tham mưu cho Đảng, đặc biệt trách nhiệm của mình là chưng cất ý kiến của hàng trăm anh em văn nghệ sĩ thành trí tuệ của Đảng, để Đảng đưa vào nghị quyết chỉ đường cho nền văn hóa văn nghệ đất nước bước sang một bước ngoặt mới.
Chính vì xác định tầm quan trọng đó mà chúng tôi chủ trương mở rộng các thành phần càng nhiều càng tốt, lắng nghe mọi ý kiến khác nhau, không chỉ riêng văn nghệ sĩ mà cả các nhà khoa học như Phan Đình Diệu, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Khắc Viện... Tính ra hơn 200 văn nghệ sĩ có mặt ở Hà Nội trong thời gian này đều như bị cuốn hút vào phong trào sôi nổi, rộng lớn nhằm góp ý cho Đảng những ý kiến tâm huyết nhất của mình, với niềm mong ước sâu xa nung nấu từ lâu là sự lãnh đạo của Đảng có sự đổi mới phù hợp với trào lưu đổi mới của Đảng trên tất cả các anh vực, dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chính Đại hội VI là bà đỡ có tác dụng quyết định cho nghị quyết 05 ra đời.
Có thể nói, trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, chưa có giai đoạn nào mà đời sống văn hóa văn nghệ của dân tộc lại sôi động, phong phú như những ngày chuẩn bị tiến tới nghị quyết 05, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI lịch sử. Không phải chỉ riêng chúng tôi, những "quan chức văn nghệ" phải ngày đêm lăn xả vào công việc như trên tôi đã nói, mà trong những ngày này, hàng trăm văn nghệ sĩ cũng "lăn xả" vào sự nghiệp đổi mới nền văn hóa văn nghệ nước nhà, sự nghiệp mà mấy chục năm qua họ đã em hết sức mình, kể cả xương máu để cống hiến, xây dựng. Có dự những cuộc hội thảo, những cuộc trao đổi của các anh chị em văn nghệ sĩ, được tận mắt nhìn những gương mặt của họ, nghe giọng nói chân thành của họ mới cảm nhận hết sự lo toan đáng trân trọng của họ đối với những bức xúc đang đặt ra đối với sự phát triển của nền văn nghệ. Trong các cuộc họp, Ban chúng tôi thường nói với nhau, chúng ta là những người làm tham mưu cho Đảng về công tác văn hóa văn nghệ phải tự nâng mình lên để xứng đáng với anh chị em văn nghệ sĩ, những người đã từng lao động gian khổ, sáng tạo nên những giá trị tinh thần cho đất nước và hiện đang trăn trở tìm một hướng đi đúng đắn trong giai đoạn phát triển mới của dân tộc.
***
Tuy nhiên một số đông anh em văn nghệ sĩ, kể cả anh Nguyễn Văn Hạnh không tin lắm là Bộ chính trị sẽ có riêng một nghị quyết cho sự đổi mới văn nghệ, hoặc nếu có thì cũng khó nói đúng được những vấn đề bức xúc gây cấn mà ý kiến của anh em nêu ra trong các cuộc thảo luận.
Trách nhiệm này thuộc Ban văn hóa văn nghệ của Đảng, mà tôi là Trưởng ban... Chưa bao giờ chức năng tham mưu được thể hiện một cách thiết thực quyết định như thời điểm này. Nghị quyết này rõ ràng không thể ra đời sớm hơn, nhưng không thể để chậm hơn.
Do đó thực sự chúng tôi đã có sự chạy đua với thời gian. Rất may mắn là dạo đó, tôi đang có mối quan hệ rất tốt đẹp với anh cả Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh - một người được coi là tác giả của sự nghiệp đổi mới, là Tổng bí thư chuẩn bị cho Đại hội VI- một người được coi là tiếp tục giương cao ngọn cờ đổi mới với những bài viết "Những việc cần làm ngay" làm chấn động dư luận xã hội một thời.
Do có mối quan hệ thân tình với nhau hồi ở B2, nên sau Đại hội VI, hầu như không tuần nào tôi không lên gặp anh Linh -khi thì anh chủ động gọi tôi lên, khi tôi tự tìm đến- Bởi cả hai chúng tôi đều có điểm chung là sự nghiệp đổi mới của Đảng, của đất nước.
Trong một buổi làm việc, chọn đúng thời cơ thuận lợi, tôi nêu vấn đề cần có một nghị quyết của Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ và được anh Linh chấp nhận ngay. Anh bảo Ban văn hóa văn nghệ phải chuẩn bị thật chu đáo các mặt, đặc biệt là dự thảo nghị quyết đưa ra lấy ý kiến rộng rãi của các giới văn học nghệ thuật. Tôi báo cáo với anh Linh những việc đã làm trong thời gian qua và nguyện vọng tha thiết của anh chị em văn nghệ sĩ, là Đảng cần có một nghị quyết để định hướng cho hoạt động văn hóa văn nghệ trong giai đoạn mới của cách mạng.
Trở về Ban, tôi báo tin vui là Tổng bí thư đã chấp thuận đề xuất của chúng ta, sẽ có nghị quyết chuyên đề và lên kế hoạch chuẩn bị gấp cho sự kiện trọng đại này. Có hai việc lớn phải tập trung vào làm cho tốt là chuẩn bị một báo cáo đánh giá đúng thực trạng tình hình văn nghệ trong thời gian qua, cả ưu điểm và tồn tại, cả về sáng tác và quản lý, phương châm là nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nếu cần thì coi như là một bản báo cáo nội bộ và đề xuất phương hướng hoạt động trong thời gian tới - báo cáo này mang tính chất một tờ trình đối với Bộ chính trị và Ban bí thư để các anh nắm được vấn đề và suy nghĩ trước.
Việc lớn thứ hai là trên cơ sở báo cáo đó, chuẩn bị dự thảo nghị quyết, thật súc tích, cô đọng sao cho mọi ý kiến, mọi nguyện vọng của anh em văn nghệ sĩ thuộc các giới văn học nghệ thuật, sau khi đã "chưng cất" đều sẽ được đưa đầy đủ vào Nghị quyết.
Guồng máy của Ban văn hóa văn nghệ lại được tăng tốc Mệt nhưng vui - tôi như thấy khỏe hẳn lên. Nguyễn Văn Hạnh và tôi phân công nhau, Nguyễn Văn Hạnh ở lại Hà Nội tiếp tục theo dõi các cuộc hội thảo ở ngoài này, tổng hợp "chưng cất", trên cơ sở đó dự thảo tờ trình lên Bộ chính trị và Ban bí thư. Tôi bay vào thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các buổi hội thảo ở miền Nam, và sơ bộ chuẩn bị dự thảo Nghị quyết.
Vào tuổi 40 tôi được tham gia vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Vào tuổi 60 tôi được tham gia vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, sự nghiệp đã đưa dân tộc ta bước sang một bước ngoặt mới, đến hạnh phúc và ấm no. Hai mươi năm trước tôi là một vị tướng, là một nhà quân sự, một nhà chính trị còn hôm nay tôi vẫn là một chiến sĩ của Đảng nhưng là chiến sĩ trên mặt văn hóa, như lời Bác Hồ đã dạy. Qua gần mười năm bước vào lĩnh vực mới này, tôi càng thấy ý nghĩa sâu sắc lời dạy của Bác. Không phải chỉ nơi chiến trường bom đạn mới gay go, gian khổ, mới cần sự dũng cảm của người lính, mà ở lĩnh vực mới này, sự gian khổ gay go cũng không kém, mà xét về mặt nào đó còn phức tạp hơn nhiều, cần có bản lĩnh của người chiến sĩ. Tôi tự thấy tôi là người không thiếu bản lĩnh, nhưng do tính phức tạp của môi trường mới mà chất lính trong tôi chưa hòa nhập được, nên tôi bị vấp ngã giữa đường. Chính vì vậy, mà tập hồi ký này có tên: "Đổi mới, niềm vui chưa trọn."
Nhưng đã là chuyện của 2 năm sau tôi sẽ kể lại với bạn đọc, còn bây giờ thì tôi đang vui. Vừa xuống sân bay đến chỗ Lê Ca Thuần ở 62 Trần Quốc Thảo tôi lại bắt gặp ngay cái không khí sôi nổi ở Hà Nội. Trong những ngày qua, anh em trong này thường xuyên nhận được thông tin từ Hà Nội, đang nóng lòng chờ đợi Ban Văn hóa Văn nghệ vào để được phát biểu ý kiến cửa mình. Và cũng như ở Hà Nội, các anh chị em văn nghệ sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh đã biểu lộ tình cảm tha thiết của mình đối với sự nghiệp đổi mới nền văn nghệ nước nhà. Thật là phong phú và đa dạng. Cùng một chủ đề thôi: Tự do sáng tác, quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, vấn đề quản lý, xuất bản, phát hành... nhưng mỗi ngành có những ý kiến khác nhau, mỗi tuần có những ý kiến khác nhau, mỗi người có những ý kiến khác nhau. Tôi thấy ý kiến nào cũng đáng trân trọng, mà điều trân trọng trước hết là tấm lòng của anh em. Trong những ngày này, tôi lại càng không thể nào quên sự kiện đề dẫn của Nguyên Ngọc năm 1979. Tôi muốn nhắc lại để khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới văn nghệ không chỉ có từ sau Đại hội VI, từ Nghị quyết 05 mà đã có từ mười năm trước đó với ngọn cờ đầu Nguyên Ngọc. Dạo đó, với cương vị là Phó ban Tuyên huấn Trung ương, phụ trách văn hóa văn nghệ, tôi có được chứng kiến và tham gia vào sự kiện này, nhưng tôi chỉ đóng vai trò một anh lính mới, còn rụt rè, ngập ngừng.
Vào một ngày tháng 6 năm 1979, tôi không nhớ rõ là ngày nào, đang ngồi làm việc ở số 10 Nguyễn Cảnh Chân thì Nguyên Ngọc đến. Tác giả "Đất nước đứng lên", niềm tự hào của nền văn nghệ kháng chiến, đang có vẻ ốm, vẫn gầy gò với cái đầu to, vầng trán rộng- Hình như anh chưa kịp phục hồi sức khỏe sau nhiều năm ở chiến trường gian khổ - Anh đi B trước tôi 2 năm và kiên cường trụ vững hơn mười năm ở núi rừng Tây nguyên. Anh vừa được Ban bí thư chỉ định làm Bí thư Đảng Đoàn Hội nhà văn năm 1978. Hôm nay, anh đến với cương vị là cấp dưới lên báo cáo với cấp trên. (Theo quy định, Ban tuyên huấn của Đảng lãnh đạo cả các Hội văn học nghệ thuật, trong đó Hội nhà văn là một đầu mối quan trọng). Như vậy là ở chiến trường anh là cấp dưới của tôi, anh phụ trách văn nghệ Quân khu 5, còn tôi là Phó chánh ủy các lực lượng vũ trang giải phóng. Bây giờ anh vẫn là cấp dưới của tôi cũng theo ngành dọc. Nói thế thôi chứ trong tình cảm của tôi đối với Nguyên Ngọc chẳng hề có cấp trên cấp dưới gì cả Tôi quý trọng anh cả về tài năng và nhân cách. Điểm lại, trong giới văn học nghệ thuật, một con người trọn vẹn cả đức cả tài như anh không nhiều. Bởi vậy khi anh chính thức được bổ nhiệm cương vị Bí thư Đảng Đoàn Hội nhà văn tôi rất mừng - Đây là một trong những trường hợp "đặt người đúng chỗ" hiếm hoi trong cơ chế của chúng ta.
Tôi biết các anh bên Đảng Đoàn đang có những trăn trở về thực trạng văn học vốn nhiều vấn đề cần phải có sự thay đổi (dạo đó chưa có danh từ đổi mới) để tiếp tục đưa nền văn học tiến lên. Các anh đang có kế hoạch tổ chức một hội nghị nhà văn gồm các hội viên là các đảng viên, có tính chất nội bộ, để thông qua trước một văn kiện mang tên là bản "đề dẫn", trước khi tiến tới một hội nghị rộng rãi toàn thể hội viên. Tôi ủng hộ cách làm đó. Không hề ngại ngùng rào đón, Nguyên Ngọc thẳng thắn nói với tôi, chính Nguyên Ngọc là người trực tiếp soạn thảo bản "đề dẫn" đó. Sở dĩ anh nói như vậy là do anh đã lường trước được hậu quả có thể không suông sẻ sau khi đề dẫn được công bố, nếu có vấn đề gì thì anh sẽ tự mình đứng ra chịu trách nhiệm. Đó là một hành động dũng cảm và trung thực. Anh cho biết bản đề dẫn cũng có sự đóng góp hào hứng của các ủy viên Đảng đoàn: Chế Lan Viên, Nguyễn Khải...
Rất sòng phẳng, bản đề dẫn không phủ nhận những kết quả đáng khích lệ của tình hình văn học trong kháng chiến và mấy năm gần đây sau chiến tranh. Nhưng đồng thời cũng lên tiếng báo động về tình trạng trì trệ đã bắt đầu xuất hiện trong nền văn học nước nhà. Cuộc sống thì ngày càng phức tạp mà văn chương thì ngày càng nhạt nhẽo: "người viết vẫn cứ viết mà không thật tin ở chính điều mình viết ra". Bản đề dẫn đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này là có những kẻ trung gian quan chức văn học và một số kẻ đầu cơ xu nịnh thỉnh thoảng lại cố tạo ra không khí căng thẳng và hô hoán lên: nào là có tà khí nào là "phản động", nào là có "chống Đảng" trong văn học.
"Đề dẫn" còn nêu thêm một nguyên nhân nữa, mà có lẽ đây mới là nguyên nhân căn bản: "Đó là sự thô thiển kéo dài trong công tác lý luận và phê bình văn học. Sự thô thiển trước hết ở một điểm rất căn bản: Quan niệm về chức năng của văn học".
Sự thô thiển ấy biểu hiện cụ thể ở hai vấn đề sinh tử đối với nhà văn, đối với sự phát triển của văn học:
Một là dung tục mối quan hệ giữa hiện thực và văn học - Nó tuyệt đối hóa hiện thực. Nó hạ thấp văn học xuống thành một thứ sao chép hiện thực, cái giá trị văn học cao nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực. "Bởi vì hiện thực đó đã tốt đẹp đến mức không còn gì có thể tôi hơn, đẹp hơn. Quan niệm không Mác xít đó đã từng biểu hiện ở chủ trương tuyệt đối hóa thể người thật việc thật trong văn học, muốn lấy đó làm dòng chủ đạo, thậm chí dòng duy nhất của văn học ta."
Hai là: "Quan niệm thô thiển về chức năng của văn học cũng dung tục hóa mối quan hệ giữa văn học và chính trị, tuyệt đối hóa sự chi phối tất yếu của chính trị với văn học".
Bản "đề dẫn" đã thẳng thắn với thái độ khoa học, phê phán sự thô thiển đó và đã nêu cao vai trò sáng tạo của văn học, của chủ thể sáng tạo đối với hiện thực:
"Văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống, thu hút không những nguyên liệu mà cả linh hồn các tác phẩm của mình từ đấy, nhưng đến lượt nó, nếu như nó muốn có ích, muốn phục vụ trở lại cuộc sống, thì ai phải sáng tạo ra một cái gì đó khác, mới mẻ, chưa từng có, cao hơn về chất so với cái nguyên liệu cuộc sống đã cung cấp cho nó. Âu cũng như con tằm ăn dâu phải đẻ ra tơ -nếu ăn lại nhả ra những cái lá dâu thì bản thân sự có mặt của nó là vô nghĩa ".
Đây thực sự là những ý tưởng mới mẻ, mạnh dạn, mà chính bản thân tôi hồi đó cũng chưa cảm nhận hết được. Tôi nghĩ bụng, có thể đây lại là trường hợp cấp dưới phải hơn cấp trên. Những vấn đề mà anh em đã nhìn ra, đầy trăn trở thì bản thân mình vẫn còn chưa thoát ra những quan niệm cũ được nhồi nhét từ mấy chục năm trước. Chính vì xuất phát từ suy nghĩ đó mà tôi nhất trí cứ để Đảng Đoàn Hội nhà văn tổ chức hội nghị, không phê phán góp ý gì vào bản đề cương. Chủ trương của tôi là cứ để anh em phát biểu, qua trao đổi vấn đề sẽ sáng ra, sẽ đi đến chân lý, đúng sai sẽ rõ ràng.
Có lẽ tôi rút được kinh nghiệm hồi Nhân Văn Giai Phẩm. Dạo đó tôi là một trong những chiến sĩ tiên phong đi hàng đầu trong việc phê phán Nhân Văn Giai Phẩm. ở vụ đề dẫn này, tuy ở góc độ có khác, nhưng cũng diễn ra gần giống như thế. Đó là sự quy chụp, một mệnh lệnh phát ra, tất cả im như thóc, Nguyên Ngọc bị xử trí, bị ép thôi chức Bí thư Đảng Đoàn...
Tôi có tham gia cuộc họp các nhà văn Đảng viên này từ đầu chí cuối và được tận mắt chứng kiến những con người cơ hội.
Hôm đó, sau khi Nguyên Ngọc giới thiệu xong bản đề dẫn mà những nội dung chủ yếu đều có chứa đựng trong dự thảo báo cáo nghị quyết mà tôi đang chuẩn bị (rõ ràng chúng tôi đang tiến hành một công việc mà cách đây mười năm nhóm Nguyên Ngọc, có cả Chế Lan Viên, Nguyễn Khải đã làm).
Về Chế Lan Viên riêng tôi cũng có một kỷ niệm. Đó là việc Bùi Minh Quốc đăng toàn văn bản đề dẫn trên báo văn nghệ Lâm Đồng, Chế Lan Viên đã nói móc là có một vị Trung tướng đã chuyển bản đề dẫn cho Bùi Minh Quốc. Bây giờ, trước hương hồn anh, tôi xin đính chính lại rằng: Tôi, Trần Độ không làm việc ấy. Ngoài những chuyện đó ra, nói chung tôi rất có cảm tình với Chế Lan Viên, một tài năng thơ rất sâu sắc thông minh và rất dí dỏm trong cuộc sống đời thường. Hai chúng tôi làm việc bên nhau suốt 8 năm trời trong ủy ban văn hóa giáo dục của Quốc hội và có nhiều điều rất tâm đắc với nhau.
Trong thời gian ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã tranh thủ vào các buổi tối nghỉ ở T78, sơ bộ chuẩn bị xong dự thảo Nghị quyết - không hẹn mà gặp, khi anh Nguyễn Văn Hạnh vào thành phố Hồ Chí Minh, thấy tôi khoe đã thảo xong Nghị quyết thì anh Hạnh cũng rút trong cặp ra, vui vẻ nói với tôi là anh đã chuẩn bị xong bản báo cáo. Thế là chúng tôi say sưa đọc cho nhau nghe, góp ý bổ sung cho nhau, sau đó cứ rì rầm trao đổi mãi.
Trong những năm tháng này, ngoài niềm hạnh phúc lớn phấn đấu cho sự nghiệp đổi mới của văn nghệ như trên tôi đã nói, tôi còn được niềm hạnh phúc riêng là được làm việc với Nguyễn Văn Hạnh. Có thể nói cuộc đời đã ưu ái dành cho tôi những người bạn, người đồng chí tuyệt vời hay như người ta nói: "ở hiền gặp lành". Trong chiến tranh tôi có Lê Trọng Tấn như trên tôi đã nói, còn trong những ngày này tôi có Nguyễn Văn Hạnh, chưa nói đến tình cảm, tư tưởng hai đứa như đồng nhất là một, chỉ riêng công việc thôi, có thể nói nếu không có Nguyễn Văn Hạnh thì tôi không thể nào hoàn thành được một khối lượng công việc khổng lồ để kịp Nghị quyết 05 ra đời vào tháng 12 năm 1987.
Tôi chỉ mới quen anh Hạnh từ năm 1981, trong dịp cùng sang Liên xô dự một lớp nghiên cứu về văn hóa văn nghệ. Tôi là đoàn trưởng còn anh Hạnh phụ trách Bí thư chi bộ. Chính thu hoạch của lớp học này cũng là một tiền đề quan trọng của nghị quyết 05 mà tôi sẽ kể tiếp ở phần dưới.
Khi thành lập Ban văn hóa văn nghệ tôi là Trưởng ban, còn anh làm phó cho tôi. Năm 1983 tôi bị cách chức Trưởng ban, Nguyễn Văn Hạnh còn ở lại một thời gian làm phó cho Hà Xuân Trường, nhưng sau thấy khó làm việc với Hà Xuân Trường, anh chuyển sang làm Thứ trưởng giáo dục.
Sau Đại hội 6, tôi lại trở về làm Trưởng ban thì người đầu tiên tôi nghĩ đến là anh Hạnh. Tôi báo cáo với anh Linh và trao đổi với Nguyễn Đức Tâm xin anh Hạnh về. Lúc đầu anh Hạnh có phân vân. Công tác bên giáo dục tuy là tay trái, nhưng dù sao cũng đã ổn định, cũng đã cuối đời rồi. Trở lại văn nghệ không hiểu rồi sẽ ra sao ở các lĩnh vực có nhiều gai góc này. Về sau tôi nài mãi, thuyết phục mãi, cuối cùng vì nể tôi, Nguyễn Văn Hạnh đã nhận lời - tôi mừng quá - thật như vớ được vàng khi nhận lời. Nguyễn Văn Hạnh tâm sự với tôi: Thật ra văn hóa văn nghệ mới là sở trường của tôi, mới là tay phải của tôi, nhưng cứ nghĩ đến cái hồi đại hội V mà khiếp - đấm đá nhau đến thế là cùng. Cho nên quả thật tôi rất ngại - nhưng vì tôi quý anh, thích phong cách làm việc của anh và cuối cùng cái quan trọng nhất là anh và tôi cùng chung một quan điểm, cùng chung một tư tưởng mà cả hai đều tin rằng chúng ta đúng - cuối cùng anh Hạnh cười: Về với anh cũng có nghĩa là xả thân vì sự nghiệp -ai ngờ lời dự đoán của Nguyễn Văn Hạnh lại nghiệm đến thế. Chỉ hơn hai năm sau, năm 1989, sóng gió đã ào ào dội xuống trên đầu hai chúng tôi. Lần thứ hai tôi bị cách chức Trưởng ban văn hóa văn nghệ, còn Nguyễn Văn Hạnh sau một thời gian miễn cưỡng với chức Phó ban tư tưởng văn hóa Trung ương rồi cũng chuyển công tác.
***
Để chuẩn bị cho Nghị quyết 05, với cương vị là ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, tôi đã có nhiều buổi làm việc với Ban Bí thư Trung ương để phản ảnh những vấn đề mà chúng tôi đã "chưng cất" được qua hàng trăm ý kiến của anh chị em văn nghệ sĩ. Đồng thời, chúng tôi cũng nêu những chính kiến của mình và nói rõ đây là những vấn đề cốt lõi làm cơ sở cho dự thảo Nghị quyết của Bộ chính trị sắp tới.
Trước hết là nhận định tình hình văn nghệ hiện nay và sự đánh giá đội ngũ văn nghệ sĩ. Tâm trạng phổ biến của văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa là thấy mình vẫn hết lòng hết sức dùng văn nghệ làm vũ khí cách mạng sao cho có hiệu quả nhất vì lợi ích của cách mạng. Nhiều người với tâm hồn nghệ sĩ sâu sắc cảm thấy thật sự hiến thân cho sự nghiệp. Ngay ở một số người có nhiều tính toán thiệt hơn trong thu nhập, nhưng trong chiều sâu của tâm hồn có một cái gì rất thiết tha vì sự nghiệp. Đó là điểm đẹp, điểm sáng trong tâm hồn nghệ sĩ, chính vì vậy họ vẫn cảm thấy không được hiểu biết niềm tâm sự ấy và vẫn bị coi như mình ở trong một anh vực bạc bẽo, một lĩnh vực thấp kém hơn các lĩnh vực khác. Trong khi họ thấy họ đang cố gắng sáng tạo ra những giá trị tinh thần có thể trở thành những tài sản quý giá cho dân tộc, cho lịch sử, họ thấy rõ ý nghĩa vẻ vang của công việc của họ. Nhưng hình như xã hội chưa chấp nhận điều đó, tâm lý của nhiều người trong xã hội (kể cả trong cán bộ lãnh đạo) đều thấy văn nghệ là một lĩnh vực phức tạp, đều thấy mặt tiêu cực, ý nghĩa xấu (pejoratif) của khái niệm phức tạp. Trong những câu chuyện thân tình bộc lộ suy nghĩ thực chất của một số người thường chỉ thấy văn nghệ là xỏ xiên, là nguy hiểm, coi văn nghệ sĩ hầu như là một lớp người phức tạp, mà không coi văn nghệ sĩ là những chiến sĩ của Đảng, của ta.
Có nhắc đến tâm trạng của văn nghệ sĩ thì thường cho là "biết rồi khổ lắm nói mãi", là những "đòi hỏi tiểu tư sản" và vì vậy chả đáng quan tâm. Nhất là đa số cán bộ chính trị ít hiểu biết về đặc trưng đặc thù của văn nghệ sĩ, về hiệu quả tinh thần cao cả kỳ diệu của văn nghệ sĩ thì thấy hình như văn nghệ luôn luôn có thể phát huy tác dụng phá hoại. Tôi cho điều này không đúng với tinh thần chủ nghĩa Mác Lênin và trái với tinh thần nghị quyết của Đảng.
Từ đó có vấn đề thời sự đặt ra là việc đánh giá tình hình văn nghệ thời gian vừa qua (và đi liền đó là đánh giá văn nghệ sĩ trên thực tế). Tôi nghĩ rằng: văn nghệ vừa qua nói chung là tốt và lành mạnh, có một số biểu hiện lệch lạc và không lành mạnh, nhưng những biểu hiện đó đã được phê phán và vẫn đang bị phê phán trong một khung cảnh đấu tranh gay gắt và lâu dài. Đã là đấu tranh lâu dài thì không thể một vài cuộc phê phán mà xong ngay được. Còn phải đấu tranh bằng tác phẩm, bằng tiết mục, bằng lý luận phê bình và bằng nhiều phương pháp khác nữa. Vì vậy tôi không tán thành cách đánh giá cho rằng tình hình văn nghệ vừa qua là "bất trị là có cái gì như là chống đối dai dẳng, có cái gì như là hỗn loạn và cho là phải "lập lại trật tự trong văn nghệ".
Từ đó thì nhìn đội ngũ văn nghệ sĩ không thấy hết tấm lòng của anh em, ý thức của anh em đã được rèn luyện hàng chục năm, mà chỉ thấy như là một đám người lăm le phá hoại, lăm le làm rối trật tự, lăm le chống đối. Họ buồn ở chỗ họ không được coi là những người lao động. Tất nhiên, trình độ nhận thức hiện thực của văn nghệ sĩ là chưa kịp với yêu cầu của cách mạng, nhưng thực trong bản thân văn nghệ sĩ cũng đang có những yêu cầu phát triển khác trước và anh em muốn vươn lên mà còn bối rối. Sự lãnh đạo và quản lý của các cơ quan Đảng và Nhà nước chưa giúp được văn nghệ sĩ vượt qua được sự bối rối đó, không nên chỉ thấy trách nhiệm của văn nghệ sĩ trong tình trạng bối rối đó. Không phải là một số anh em ngoan cố không chịu thông suốt mà chính vì những bối rối trong lòng anh em chưa đạt được tháo gỡ sự phê phán, sự uốn nắn của ta chưa đạt được tính thuyết phục cao, chưa thuyết phục được hoàn toàn anh em.
Đặc biệt phải quan tâm thấy tình hình phát triển của đội ngũ văn nghệ sĩ, số văn nghệ sĩ do Đảng đào tạo rèn luyện hiện nay đã chiếm đa số tuyệt đối. Số anh em trước cách mạng Tháng Tám đã được rèn luyện thử thách đủ cho ta tin cậy.
Đây là điểm hết sức quan trọng cần làm rõ. Chính điều này là tư tưởng chỉ đạo cho việc định ra các chính sách và thái độ đối với văn nghệ.
Xin lưu ý các Đảng anh em Tiệp Khắc và Hungari có những kinh nghiệm quý báu sau những sự kiện đau xót trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ. Ta chưa chú ý đúng mức đến việc tổng kết kinh nghiệm của họ, mà ta chỉ hiểu kinh nghiệm của họ theo cách chủ quan của ta (sẽ xin nói rõ ở phần sau). Chính văn nghệ sĩ có kêu ca phàn nàn nhiều về đời sống và điều kiện làm việc, nhưng điều họ quan tâm hơn cả và họ mong chờ sâu sắc hơn cả là chính sách tinh thần và thái độ tinh thần của Đảng đối với họ và với sự lao động của họ.
Vấn đề thứ hai là đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng về văn nghệ và một số đề xuất phương hướng sắp tới cần phải như thế nào. Trong tác phẩm này tôi có nêu lên một số kinh nghiệm của nước ngoài để các anh tham khảo: Trước hết cần phải làm sáng tỏ khái niệm "buông lỏng và "nắm chặt".
Phải xác định quan điểm về mục đích và yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa văn nghệ. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho văn nghệ sĩ phát triển, phục vụ lợi ích của cách mạng, của nhân dân, và đồng thời phải bảo đảm cho văn nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và về tinh thần cho sự phát triển đó.
Đảng đã nói "khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo", như vậy tăng cường và cải tiến không chỉ là chỗ "không buông lỏng và phải nắm chặt hơn" với ý nghĩa là phải kiểm soát chặt hơn, kỹ hơn.
Lãnh đạo văn nghệ muốn nó phát triển mạnh mẽ, phải có sự khoan dung, độ lượng để khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo, phải nâng cao tính thuyết phục, thu được tâm hồn người nghệ sĩ giúp họ hiểu thấu hiện thực cách mạng, hiểu thấu đường lối chủ trương của Đảng. Nắm chặt, không phải là "bịt miệng", không phải là cấm đoán, tất nhiên ta phải có sự kiểm soát cần thiết. Nhưng nắm chặt là phải nâng cao trình độ lãnh đạo có thái độ đúng đầy tính thuyết phục và thu hút, để thu hút tất cả văn nghệ sĩ chung quanh đường lối của Đảng. Muốn thế phải nâng cao trình độ hiểu biết của cơ quan lãnh đạo và quản lý. Những người và cơ quan lãnh đạo phải là niềm tin tưởng của văn nghệ sĩ, phải là nơi người ta đặt lòng yêu mến mong đợi, không phải là nơi để người ta sợ, người ta tránh.
Trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa ta và địch, ở mỗi mặt trận khác nhau, phương thức đấu tranh diễn ra một cách khác nhau. ở quân sự là tấn công, phòng ngự, tiêu diệt địch. ở kinh tế, là phải kết hợp cả các biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế, phải có sự ganh đua về kinh tế làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển lớn mạnh, đẩy lùi đi tới thủ tiêu các yếu tố kinh tế không xã hội chủ nghĩa.
Trên mặt trận văn hóa tư tưởng cũng có biện pháp hành chính, dùng luật pháp để ngăn cấm và thủ tiêu các loại văn hóa tư tưởng phản động. Nhưng phương thức chủ yếu có tính chất quyết định phải là phương thức ganh đua có tính thuyết phục. Phải thu phục được cả về trí tuệ và tình cảm các tầng lớp trí thức một cách sâu sắc, làm họ trở thành những chiến sĩ thực sự trên mặt trận này, kể cả những người là đảng viên và những người ngoài Đảng.
Nếu không có chính sách và thái độ đúng đắn để thu phục được họ, mà chỉ có đe nẹt, cấm đoán, và ngăn chặn thì không thể có thắng lợi được. Một điểm thuận lợi cơ bản là các lớp trí thức của ta đều rất yêu nước, họ có thể có lúc bị mơ hồ về chính trị ở nhiều mặt, nhưng ta có thể tin cậy lớn vào lòng yêu nước thực sự của họ, từ lòng yêu nước đó họ sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Đảng và họ cũng tin Đảng ta là Đảng có tinh thần yêu nước cao nhất, thật nhất.
Họ có nhiều băn khoăn, nhưng điều băn khoăn lớn nhất và cơ bản nhất là họ muốn làm được cái gì có thể có ích cho dân tộc, cho xã hội chủ nghĩa, ta phải khích lệ mạnh mẽ mặt tích cực ấy của họ. Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận này, kẻ địch xảo quyệt và có nhiều kinh nghiệm, biết rõ được tâm lý của trí thức, biết được chỗ yếu của trí thức là dễ giao động và mơ hồ. Chúng thường khoét sâu vào những lý tưởng nhân đạo chung chung, vào tự do dân chủ chung chung, tự do sáng tạo, vào vấn đề nhân tài và tài năng. Chúng thường xoáy vào chỗ cộng sản là khô khan, là kỷ luật sắt, bóp nghẹt mọi sáng tạo của trí thức làm tổn thương đến tinh thần tự do sáng tạo vào nhân cách của trí thức.
Chính vì vậy Đảng ta phải là Đảng vô địch về tự do dân chủ, về sự tôn trọng nhân cách và tài năng mọi người. Không nên để kẻ địch các loại tranh lấy những ngọn cờ về tự do, dân chủ, tôn trọng nhân cách và tài năng. Điều này không thể chỉ biểu hiện bằng những lời nói tốt đẹp trong những dịp long trọng, và những cử chỉ tốt đẹp trong những trường hợp có tính chất đột xuất. Nó phải được thể hiện bằng một chính sách tốt đẹp được bảo đảm bằng một cơ chế làm việc thích hợp để thực hiện sự lãnh đạo và quản lý.
Phải nói thực rằng tình hình thực tế hiện nay là ý thức và tác phong lãnh đạo, phong cách làm việc của ta chưa biểu hiện được điều này. Và tình hình này đang tác động tiêu cực tới nhiệt tình của văn nghệ sĩ và của cả giới trí thức nói chung. Cần phải xem xét thực chất của vấn đề giải quyết cho thật chính xác. Không nên quá coi thường ý thức chính trị, ý thức trách nhiệm của văn nghệ sĩ và trí thức. Đối với văn nghệ sĩ mà ta không thu phục được tâm hồn họ, chỉ dựa vào biện pháp tổ chức và hành chính thì hiệu quả chỉ có hại. Lãnh đạo văn nghệ về cơ bản phải là một sự thuyết phục có chất lượng cao và một sự giúp đỡ có hiệu quả (nhất là về mặt tinh thần) không phải chỉ có "dạy dỗ", "răn đe", "uốn nắn". Muốn thuyết phục được phải có sự hiểu biết sâu sắc, phải biết nghe nhiều ý kiến và phải biết chấp nhận và đồng ý với những ý kiến có cơ sở của họ.
Nói cách khác, lãnh đạo văn nghệ phải có thái độ cởi mở. "Cởi mở khác với buông lỏng" và không thể xem tất cả cử chỉ thái độ cởi mở đối với văn nghệ sĩ đều là buông lỏng. Chỉ có "cởi mở" mới "nắm chặt" được mặt trận văn nghệ, mới làm cho các văn nghệ sĩ thật sự hào hứng và hăng hái với các mục tiêu của Đảng. Nếu "nắm chặt" chỉ bằng cách dạy dỗ răn đe, uốn nấn thì thực ra lại là "buông lỏng mặt trận văn nghệ. Vì người ta sẽ quay mặt đi. Tôi biết có những văn nghệ sĩ Đảng viên vẫn hùng hồn nói "chặt trước lỏng sau có nắm chặt mới mở rộng được Thực chất là cũng muốn Đảng chặt với người này chặt với người. khác, rộng với đồng chí ấy.
Về những kinh nghiệm của các nước bạn, chúng ta thường nhắc nhau kinh nghiệm của Tiệp Khắc và Hungari với ý nghĩa là: Mọi sự lộn xộn chính trị thường bắt đầu từ văn nghệ vì vậy phải nắm thật chặt, kiểm soát thật chặt văn nghệ. Nhưng tôi xin giới thiệu một vài tài liệu như sau:
Tôi thấy được một tài liệu lược dịch một cuốn sách của đồng chí Gyogy Aczel ủy viên Bộ Chính trị Đảng công nhân xã hội chủ nghĩa Hungary là phó chủ tịch hội đồng Bộ trưởng, nhan đề cuốn sách là "văn hóa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa", nội dung có tính chất tổng kết chính sách văn hóa mấy chục năm qua. Trong tài liệu lược dịch có những đoạn nhận định những kinh nghiệm của thời kỳ trước và trong năm 1956 như sau:
"Một số người lại muốn địa vị độc tôn, muốn khôi phục lại cái thời mà người ta có thể dùng quyền hành của Nhà Nước để bảo vệ uy tín của một tác phẩm nào đó, cả trong trường hợp mà chính tác giả lại chẳng có chút tài cán gì". "Điều này thường xảy ra ở thời trước là địa vị độc tôn của chủ nghĩa Mác được tuyên bố, nhưng không có trong thực tế và thường được "thiết lập" bằng cách dùng biện pháp hành chính để bịt miệng quần chúng. Và điều không thể tránh khỏi của tình hình trên là một thứ chủ nghĩa Mác giả hiệu ra đời, thứ chủ nghĩa Mác bằng trích dẫn, bằng lời nói xuông, và mọi tư tưởng tư sản, tiểu tư sản đều thấy cần núp sau các thuật ngữ, các trích dẫn Mác xít. Do đó, có sự rối loạn về tư tưởng, cũng cần nói thêm là nhiều nhóm muốn giành địa vị độc tôn không chịu lùi bước trong việc đàn áp các khuynh hướng mà họ không ưa... "Sự độc quyền này còn đưa đến kết quả là cổ vũ tính tự mãn trong nhiều trường hợp. Trong sinh hoạt chung về tinh thần và học thuật đã lan tràn phương pháp lấy trích dẫn thay thế cho lý lẽ thực tế. Đáng lẽ phải thảo luận xem xét kỹ càng và do đó mà phê phán các quan niệm tư sản phi Mác xít, thì người ta lại dùng phương pháp quen thuộc lúc đó chỉ việc "chụp mũ cho các quan niệm đó".
Qua những kinh nghiệm trên, Đảng Hungari đã đi tới những ý kiến có tính kinh nghiệm và cũng là những nguyên lý như sau.
"Năm 1958, trong khi thảo luận "các nguyên tắc chính sách văn hóa", Ban chấp hành Trung ương đã chấp nhận quan điểm: không lấy nghị quyết của Đảng và Nhà nước quyết định các vấn đề thị hiếu và phong cách. Nguyên tắc về tính phong phú, về nền nghệ thuật xã hội chủ nghĩa có thể có nhiều phong cách, nhiều dạng biểu hiện khác nhau, cần phải được coi trọng". "Rõ ràng trong công việc nâng cao ý thức, trình độ nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân và trong cuộc cạnh tranh về văn hóa trên thế giới, chỉ có những tác phẩm nghệ thuật ở trình độ cao mới đạt được thắng lợi... đồng thời, điều kiện để có tác phẩm nghệ thuật có trình độ cao có thể xuất hiện lại chính là một nền dân chủ lành mạnh."
"Tự do của văn hóa còn có nghĩa là mọi tài năng, mọi giá trị thực sự về nghệ thuật đều có chỗ đứng trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa chúng ta. Hiện nay ở Hungari không một tác phẩm có giá trị nghệ thuật nào lại bị giấu trong ngăn kéo. Chúng ta xuất bản, giới thiệu cho đưa lên sân khấu... mọi tác phẩm có giá trị nói về chủ nghĩa xã hội, thậm chí cả dưới dạng trừu tượng hơn, là nói về chủ nghĩa nhân đạo, những tác phẩm mang niềm tin đối với nhân loại".
ở Tiệp Khắc, qua bài nói của đồng chí M. Muller, Trưởng ban văn hóa của Trung ương Đảng có những ý đáng chú ý như sau:
- Cách nhìn đối với cán bộ nghệ thuật: kết hợp quan điểm không khoan nhượng trong đấu tranh tư tưởng với thái độ tôn trọng ân cần đối với những tài năng và lao động sáng tạo.
- Có những tác phẩm chỉ có nội dung nhân đạo, hoặc chỉ để giải trí, không có chiều sâu xã hội. Đối với những tác phẩm này, ta phải hài lòng, nhưng không cần bác bỏ.
- Các Hội nghệ thuật có vai trò quan trọng trên mặt trận sáng tác, là chỗ dựa của Đảng.
Các đồng chí Tiệp Khắc đánh giá rất cao thắng lợi sau năm 1968 trên mặt trận văn hóa ở chỗ đã thu phục lại được rất nhiều nghệ sĩ, và kết quả sáng tác mấy năm qua là hết sức rực rỡ.
Kinh nghiệm của Liên xô là loại kinh nghiệm già dặn và sâu sắc nó đã được thể hiện ở loạt bài của một giáo sư già lâu năm, có tuổi Đảng cao là giáo sư Nôvicốp thuộc viện hàn lâm khoa học xã hội của Trung ương Đảng (A.O.N).
ở Cộng hòa dân chủ Đức, ở Bungari tinh thần chính sách văn hóa cũng tương tự, đó là tinh thần cởi mở, quan niệm đấu tranh trên mặt tư tưởng văn hóa là thuyết phục, thu phục các trí thức văn nghệ.
Qua thực tế tình hình cụ thể trong nước và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, tôi nêu ý kiến cần phải có những chính sách, thể chế, cụ thể hóa tinh thần chính sách đó và nhất là phải "nâng cao năng lực, kiến thức và bản lĩnh lãnh đạo". Nói chung các anh chăm chú lắng nghe ý kiến của tôi. Cuối cùng, các anh yêu cầu về soạn thảo thành một bản văn hẳn hoi, coi như một báo cáo của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương về thực trạng nền Văn hóa Văn nghệ hiện nay và những đề xuất đổi mới hòa nhịp với sự nghiệp đổi mới chung của đất nước theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
Trong quá trình chuẩn bị nghị quyết 05, chúng tôi được anh Đỗ Mười, lúc bấy giờ là Thường trực Ban bí thư hết sức ủng hộ. Sau Đại hội VI, anh Trường Chinh được cử làm Cố vấn và vẫn rất quan tâm đến Văn hóa Văn nghệ, thỉnh thoảng tôi vẫn đến thăm anh vừa để báo cáo với anh tình hình Văn hóa Văn nghệ vừa tranh thủ xin ý kiến của anh về phương hướng công tác sắp tới. Anh tỏ ra rất vui khi được biết tình hình Văn hóa Văn nghệ đang có những khởi sắc mới.
Nhớ một hôm, anh nhắn tôi lên chơi thăm anh ở Hồ Tây, trong câu chuyện, tôi có nhắc đến những bài phát biểu của anh trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI, rất được mọi người tán thưởng, anh đã ghé vào tai tôi nói nhỏ: "Thế mà bọn nó bảo mình là mị dân đấy, ví dụ như như câu "Lấy dân làm gốc". Đi dạo một đoạn quanh hồ, anh dừng lại, kéo tay ngồi xuống ghế đá, tiếp tục nói theo dòng tư tưởng: "Lấy dân làm gốc" chính là tư tưởng của Bác Hồ, quán xuyến trong toàn bộ lời nói việc làm của Bác Hồ và đã trở thành một chân lý vĩnh cửu rồi, chớ có phải tớ nghĩ ra đâu, xa hơn nữa, đây chính là tư tưởng của Mạnh Tử, được Bác Hồ tiếp thu, phát biểu trong những hoàn cảnh thích hợp để giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ.
Được vinh dự làm người giúp việc anh Trường Chinh từ hơn 40 năm trước, hơn ai hết, tôi hiểu anh là một lãnh tụ của cách mạng Việt Nam với trí thức uyên bác nhiều mặt, có nhân cách lớn - Nói đến đổi mới ở Việt Nam phải kể đến công đầu là anh, với khẩu hiệu đã đi vào lịch sử: "Đổi mới hay là chết". (Đúng ra là: Khi nào chết thì hãy đổi mới- Lời bình của người viết)
Chính nhờ tư tưởng đổi mới của anh mà Văn hóa Văn nghệ Việt Nam cũng đang trên đà đổi mới. Không có Nghị quyết Đại hội VI, không có Nghị quyết 05. Giữa tháng 9 năm 1987, sau khi làm xong nhiệm vụ lắng nghe, sàng lọc và "chưng cất" những ý kiến các anh chị em ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi và Nguyễn Văn Hạnh bay ra Hà Nội, mang theo 2 văn kiện đã được đánh máy sạch sẽ.
Ngay tối hôm đó, tôi đến thăm và làm việc với anh Nguyễn Văn Linh, báo cáo với các anh tình hình chuẩn bị các mặt cho hội nghị Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ. Anh Linh tỏ ra rất vui khi nghe tôi báo cáo về các cuộc hội thảo trong Nam, ngoài Bắc, đóng góp nhiệt tình của anh chị em văn nghệ sĩ. Không kể những buổi trao đổi nhỏ của từng ngành, từng bộ phận, tính ra có đến hàng chục cuộc hội thảo chính thức, có hình thức tổ chức khá quy mô. Hơn 200 nhà hoạt động văn hóa và văn nghệ tiêu biểu, trong đó có nhiều giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhiều đồng chí làm công tác quản lý chủ chốt trong các ngành, nhiều người làm công tác nghiên cứu lý luận, phê bình giảng dạy có uy tín và nhiều kinh nghiệm, đã hào hứng tham dự và phát biểu trong các cuộc hội thảo...
Một số người không có điều kiện tham dự hội thảo đã viết ý kiến gửi đến Ban Văn Hóa Văn Nghệ, hoặc gặp các đồng chí có trách nhiệm để phát biểu: Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội VI, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, anh chị em đã mạnh dạn thẳng thắn phát biểu những suy nghĩ rất trung thực, xây dựng và tâm huyết - Các chuyên viên của Ban Văn hóa Văn nghệ đã tập trung sức lực làm việc ngày đêm chuẩn bị cho bản dự thảo Nghị quyết. Sau khi có dự thảo nghị quyết Ban lại tổ chức trình bày trong một số đồng chí có trách nhiệm quản lý, một số nhà văn hóa và văn nghệ để các đồng chí đóng góp cho bản dự thảo. Sau đó lại thảo luận, rà soát, sửa sang.
Anh Linh tỏ ý hài lòng về phong cách làm việc đó của Ban Văn hóa Văn nghệ, rồi cuối cùng anh nói một câu làm tôi hết sức vui mừng:
- Anh về nghiên cứu tổ chức cho tôi một cuộc gặp mặt các tầng lớp văn nghệ sĩ, để tôi có điều kiện trực tiếp nghe tiếng nói của anh em. Sau đó ta sẽ bàn các bước tiếp theo. Anh thấy có nên không?
Được lời như cởi tấm lòng, tôi nói với anh Linh. - Được như thế thì tốt quá anh ạ! Đây cũng là mong muốn của nhiều người. Có đồng chí sau khi phát biểu ở các cuộc hội thảo xong đều có vẻ băn khoăn là không hiểu những suy nghĩ của mình có đến được tai lãnh đạo không? Có đến được tai Tổng bí thư không?
Anh Linh nói:
- Thế thì Ban Văn hóa Văn nghệ khẩn trương về làm kế hoạch đi, còn bên này tôi sẽ báo cho Ban Bí thư và Văn phòng chuẩn bị.
Tin vui đồng chí Tổng Bí thư sẽ trực tiếp gặp mặt đối thoại với các Văn nghệ sĩ như một luồng gió mát thổi từ Nam chí Bắc làm phong trào văn hóa văn nghệ sau đại hội VI đang sôi nổi, càng thêm háo hức, có thể dùng một câu ví văn hoa là như diều gặp gió. Kể từ đây Trung tâm của phong trào lại hướng về cuộc gặp mặt này. Tuy chưa diễn ra như tôi dự đoán, cuộc gặp sẽ là một sự kiện lịch sử Một là từ trước tới nay chưa từng bao giờ có một cuộc gặp như thế. Hai là cuộc gặp có mục đích là trực tiếp chuẩn bị nghị quyết 05, cũng sẽ là nghị quyết lịch sử chưa từng bao giờ có. Một nghị quyết chuyên đề về văn hóa văn nghệ của Bộ chính trị.
Lại thêm một niềm vui nữa đến với tôi. Thực ra, ý định tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư và các văn nghệ sĩ chúng tôi cũng đã có ý nghĩ đến nhiều anh em và văn nghệ sĩ đã kêu gọi bảo tôi tận dụng lợi thế quen biết anh Linh rỉ rả với anh về cuộc gặp. Nhưng tôi phân vân là liệu có được chấp thuận không? Tính tôi luôn luôn biết tự kìm chế, lượng sức mình không muốn làm cái gì thái quá nhất là đối với cấp trên. Nhưng trước sự thôi thúc của nhiều người, tôi và anh Hạnh bàn nhau cứ mạnh dạn đề xuất xem sao. Và một trong những mục đích là làm việc với anh Linh lần này có mục đích đó. Nhưng may sao tôi đang định chọn thời cơ, lựa lời đặt vấn đề, thì chính anh Linh lại nói trước. Tôi cho đây là một sự kỳ diệu. Một sự gặp gỡ giữa lãnh đạo và quần chúng, giữa cấp trên và cấp dưới. Và tôi nghĩ, nếu như trong xã hội ta, trong Đảng ta, luôn luôn là sự gặp nhau như thế này thì mọi điều sẽ tốt đẹp biết bao.
Tôi bỗng nghĩ đến cơ quan của Đảng hai đầu đứng hai rào chắn, thường xuyên có lính gác. Ai muốn vào cổng lại phải qua một lần gác nữa. Nó thâm nghiêm quá. Còn đâu là ý nghĩ của những câu nói cửa miệng, trong các bài diễn văn, trong sách giáo khoa: Đảng sinh ra từ nhân dân - Đảng luôn gắn bó máu thịt với dân. Đảng sống trong lòng nhân dân... Tôi cũng nghĩ đến trụ sở các Huyện ủy, Tỉnh ủy, Thành ủy... đâu dâu cũng như những ốc đảo giữa đời thường, rất xa lạ với quần chúng nhân dân, người mẹ vĩ đại mà chính nhờ nó mà Đảng sinh ra, Đảng tồn tại...
Chính vì vậy mà khi lên làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ, sau việc thay đổi cơ chế làm việc thì điều đầu tiên tôi nghĩ đến là đưa trụ sở Ban khỏi khu "Trung Nam Hải" Nguyễn Cảnh Chân. Từ đó có thể nói, ngôi nhà xinh xắn 49 Phan Đình Phùng trở thành một địa chỉ thân thiết của các văn nghệ sĩ. Và từ ngôi nhà này nghị quyết lịch sử 05 của Bộ Chính trị khóa 6 đã ra đời.
Đêm đó, ở chỗ anh Nguyễn Văn Linh ra về, tôi đến thẳng nhà Nguyễn Văn Hạnh báo tin vui. Bởi vì một tin vui như thế này không thể không có người chia sẻ và người đó không ai khác phải là Nguyễn Văn Hạnh. Niềm vui của Nguyễn Văn Hạnh chẳng kém gì tôi. Bởi đây chính là điều mà hai chúng tôi đã từng bàn với nhau trong lớp nghiên cứu ở Liên xô năm 1981 mà trên kia tôi đã có nói. Dạo đó những bài giảng của các giáo sư Liên xô về văn hóa văn nghệ đối với chúng tôi thực sự là mới mẻ và hấp dẫn. Nó hấp dẫn vì sự mới mẻ nhưng điều chủ yếu là sự hấp dẫn về nội dung của nó, những điều mà khi ở trong nước chính tôi cũng đã lơ mơ cảm thấy, nhưng chưa đủ trình độ, cả về lý luận và thực tiễn, để phân rõ đúng sai chỗ nào. Thì đây, ở một đất nước đã gần 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, có một nền văn học vĩ đại có những tác giả nổi tiếng như Phéđêép, Pas-ter-nác, Erenbua, Sôlôkhốp, Akhimatwa, Ximônốp... có những tác phẩm từng làm say sưa chúng tôi một thời như "Thép đã tôi thế đấy", "Sông Đông êm đềm", "Đất vỡ hoang", "Những người Xô-viết chúng tôi", "Đợi anh về".
Chúng tôi không ngờ một đất nước như vậy một nền văn học như vậy lại có những vấn đề gai góc nảy sinh như trong các bài giảng do các giáo sư tài năng của Viện hàn lâm khoa học Liên xô trình bày. Nhưng khi ngồi lại với nhau để ôn tập các bài học, liên hệ với tình hình văn học ở đất nước, thì tất cả bỗng giật mình, là cũng đều có những hiện tượng như thế. Chỉ có điều là chưa nhìn ra được hay nói một cách khác, chưa ai trang bị cho mình có đủ trình độ, nhận thức để nhìn nhận ra vấn đề. Lần đầu tiên chúng tôi nghe chính thức trên giảng đường, các giáo sư Liên xô nêu ra những khuyết điểm trong lãnh đạo Vãn hóa Văn nghệ của Đảng Cộng sản Liên xô phê phán các quan điểm sai lầm của Jêđanốp, một trong những lãnh tụ của Liên xô hồi bấy giờ. Ai đời, đường đường là một nhà lãnh đạo lại nói công khai trước mọi người về một nhà thơ lớn như Akhơmatôva "vừa là một tu sĩ, vừa một con đĩ. Rồi cái chết của Fađêép, sự dối trá của Erenbua, với Ximônốp... Khiến cho bà Lê Minh ngồi ở dưới cứ khóc rưng rức. Lê Minh tâm sự, lúc đó bà nghĩ đến bố mình, Nguyễn Công Hoan, một nhà văn lớn Việt Nam, cũng từng bị đối xử chẳng ra gì. Rồi Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo... Những nhà văn hóa lớn của Việt Nam cũng cùng chung số phận như thế...
Chúng tôi nhớ nhất một nhà văn già, lúc đó cũng gần 70 tuổi, giảng rất nhiều bài, bài nào cũng hay, tâm sự với chúng tôi: "Các đồng chí là những người cộng sản; chúng tôi cũng là những người cộng sản, các đồng chí cất công sang dây nghiên cứu, chúng tôi sẽ không giấu giếm các đồng chí một điều gì về những khuyết điểm mà Đảng chúng tôi đã mắc phải; những kinh nghiệm mà chúng tôi trải qua, những thành công và những thất bại, chủ yếu là những thất bại do những sai lầm trong lãnh đạo gây ra, để các đồng chí đừng mắc lại những sai lầm như của chúng tôi, Nghe đến đây, Nguyên Ngọc ghé vào tai tôi nói nhỏ "Chúng tôi cũng đã mắc rồi, có thể là nặng hơn..."
Sớm thấy rõ giá trị của những bài giảng, tôi bàn với Nguyễn Văn Hạnh, Bí thư chi bộ lớp học, phải tổ chức phân công nhau ghi chép thật đầy đủ để có tài liệu về truyền đạt lại cho các đồng chí ở nhà. Những bài giảng về đặc trưng của Văn nghệ, trong đó nêu rõ một quan điểm rất hay về tài năng mà tôi còn tâm đắc mãi cho đến hôm nay. "Tài năng là của hiếm, tài năng là của chung mọi người. Vì là của hiếm, nên phải trân trọng nó. Vì là của chung của mọi người, chứ không phải của riêng ai nên phải quan tâm giải quyết cho tốt mối quan hệ giữa tài năng với nhân dân". Hoặc, quan điểm về đánh giá một tác phẩm, nghệ thuật không thể tùy tiện do một cá nhân nào, dù cá nhân đó là người có quyền cao nhất. Chỉ có hai yếu tố quyết định hàng đầu để đánh giá một tác phẩm đó là công chúng và thời gian.
Quả thật, lớp nghiên cứu này đã đem lại cho chúng tôi rất nhiều điều bổ ích và hứng thú. Bởi vì có những vấn đề nó đúng với mình quá. Đã diễn ra, đang diễn ra, và sẽ tiếp tục diễn ra những sai lầm thô thiển nếu không kịp thời có biện pháp ngăn chặn. Tuy nhiên không phải toàn lớp đều đồng nhất trong nhận thức. Tôi thấy Nguyên Ngọc thu hoạch rất nghiêm túc vì chính sự kiện "Đề dẫn" năm 1979 là một ví dụ sâu sắc về sự áp đặt một cách thô bạo đối với văn nghệ. Vì vậy, trong phát biểu ở tổ Nguyên Ngọc rất gay gắt, phê phán rất mạnh, và mong muốn khi trở về, phải làm sao có sự thay đổi trong lãnh đạo. Trong lúc đó có người lại có vẻ khó chịu, nói riêng với tôi là Nguyên Ngọc lệch lạc, phiến diện, thiếu khách quan, không nhìn thấy toàn cục... Riêng anh Phong Châu thì rất nhiều lần đến gặp tôi tha thiết đề nghị khi về nước phải làm sao những nhận thức thu hoạch được phải biến thành nhận thức của cơ quan lãnh đạo của các đồng chí lãnh đạo thì mới phát huy được tác dụng. Phong Châu còn nói "nếu có một nghị quyết của Bộ Chính trị chứa đựng được những quan điểm về văn hóa văn nghệ như chúng ta thu hoạch được ở đây thì quý vô cùng".
Tôi trao đổi với Nguyễn Văn Hạnh và Nguyễn Văn Hạnh hoàn toàn ủng hộ ý kiến Phong Châu.
Như vậy là ý định có một nghị quyết chuyên đề về công tác Văn hóa Văn nghệ và những quan điểm cơ bản về nghị quyết đó đã được manh nha từ lớp nghiên cứu của đoàn cán bộ của Đảng ta tại Liên xô năm 1981. Thế nhưng, như trên tôi đã nói, năm 1982, tôi bị mất chức Trưởng Ban nên chưa thực hiện được. Rồi cho đến hôm nay thì tất cả những nung nấu, hy vọng của số anh em dạo đó, đặc biệt là Nguyên Ngọc, Phong Châu đang trở thành hiện thực, sắp trở thành hiện thực, nhờ có không khí Đại hội VI của Đảng, nhờ có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Chỉ mấy hôm sau, các đồng chí bên văn phòng sang chỗ chúng tôi làm việc tổ chức cuộc gặp mặt giữa Tổng Bí thư và các văn nghệ sĩ. Như thế đấy, vai trò của chức quyền quan trọng biếy chừng nào. Cũng vấn đề này thôi, nếu cứ theo thông lệ đề đạt từ dưới lên thì có khi hàng năm chưa chắc thực hiện được.
Nhưng điều quan trọng nhất là Tổng Bí thư đã nghe rõ được, đã cảm nhận được tiếng dội từ quần chúng, thấy rõ được tình hình bức xúc không thể chậm trễ. Tôi chắc là anh Linh đã đọc xong bản báo cáo nội bộ, tức là tờ trình, chuẩn bị cho nghị quyết Bộ Chính trị do anh Hạnh soạn thảo, và qua đó, anh thấy rõ tấm lòng tha thiết của anh chị em văn nghệ sĩ thế nào đối với nền văn học nước nhà... Các anh bên Ban Bí thư và Văn phòng đặt vấn đề là cuộc gặp chỉ nên gọn vài chục người. Tôi nói ngay là không được. Nếu như thế thì vẫn chỉ là gặp mặt mấy quan chức quen thuộc. Lúc bấy giờ có 7 hội. Mỗi hội ít ra là 2 người, một tổng thư ký, một phó tổng thư ký, vị chi là 14 người rồi. ở Bộ văn hóa, lãnh đạo Bộ 5, 6 người, các Cục Vụ nữa, ít nhất là trên dưới hai chục rồi, rồi các Bộ, Ban văn hóa Văn nghệ. Tôi nói: Tổng bí thư cần gặp nhất là những người đang trực tiếp lao động, sáng tạo, để nghe tâm tư, nguyện vọng của họ, những khó khăn và những đề nghị, đặc biệt là những người đang viết khỏe như Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ... lại đang có những tác phẩm làm sôi nổi trong dư luận...
Sau khi thống nhất với văn phòng như thế, rà soát lại các thành phần, đã có con số hợp lý khoảng 100. Đặc biệt tôi còn mở rộng thành phần ra một số nhà khoa học, nhà văn hóa như Phan Đình Diệu, Nguyễn Khắc Viện, Hồ Ngọc Đại... Nhưng chủ yếu vẫn là ưu tiên cho lực lượng đang hoạt động sáng tạo. Do đó, sau cuộc gặp xảy ra vấn đề tế nhị là các vị lão thành đến 49 Phan Đình Phùng kêu Ban Văn hóa Văn nghệ là tại sao lại không mời họ. Thậm chí Lưu Trọng Lư còn hét toáng lên: "Thành phần cuộc họp vừa rồi là không đáng. Phải tổ chức cuộc gặp khác nữa". Kể ra cũng hay hay thú vị.
Con đường dẫn đến nghị quyết 05, nếu có thời gian có thể viết thành cuốn sách dày vài trăm trang, nếu kể cả phần hậu nghị quyết 05 thì có thể lên đến hàng nghìn trang, mà có lẽ phần "Hậu nghị quyết 05" còn dài hơn nhiều. Dưới đây tôi chỉ chọn lọc những sự kiện điển hình nhất để thêm vào phần "Hậu nghị quyết 05" bằng chương V có tên là "Từ Đại hội nhà văn lần thứ 4 đến vụ án Cửa Việt
Xin trở lại cuộc gặp mặt lịch sử đối thoại hiếm có giữa Tổng bí thư với gần 100 văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, trong suốt 2 ngày liền 6 và 7 tháng 10 năm 1987.
Mặc dầu vì điều kiện xa xôi, các anh chị ở miền Nam không ra dự được nhiều song trong một chừng mực nhất định, có thể nói là quây quần trong cuộc trò chuyện thân mật mà nghiêm trang với người lãnh đạo cao nhất của Đảng hôm nay, là một phần tinh hoa giới trí thức văn hóa nghệ thuật của đất nước. Các nhà văn có Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Bằng Việt, Chính Hữu và Chu Văn, Dương Thu Hương... các nhà hoạt động sân khấu có Dương Ngọc Đức, Tất Đạt, Lưu Quang Vũ, Tào Mạt, Phạm Thị Thành, Hồ Ngọc, Thanh Hương, Nguyễn Đình Thi..., các nhà hoạt động âm nhạc có Huy Du, Phạm Tuyên, ái Vân, Xuân Thanh, Hoàng Văn, Đàm Linh, Trung Kiên, Vũ Tự Lân... Các nghệ sĩ tạo hình Nguyễn Tư Nghiêm, Phan Kế An, Đặng Thị Khuê, Dương Viên, Nguyễn Quân, Nguyễn Thụ, Thái Bá Vân, Phạm Viết Hồng Lam... Các kiến trúc sư có Tạ Mỹ Duật và Trọng Chi, Hoàng Nghĩa Sang, Ngô Hoàng Thúc... Các nhà hoạt động điện ảnh Trần Đắc, Hải Ninh, Trần Văn Thủy, Bùi Đình Hạc, Đoàn Lê và Lý Thái Bảo, Như Quỳnh và Đặng Nhật Minh... Các nhà nhiếp ảnh có Hoàng Tư Trai, Hoàng Kim Đáng, Đinh Ngọc Thông... Ngoài ra còn có các nhà hoạt động văn hóa nổi tiếng Nguyễn Khấc Viện, Phan Huy Lê, Nguyễn Hồng Phong, Vũ Khiêu, Nông Quốc Chấn, Phan Hữu Dật, Phan Đình Diệu... những tên tuổi gắn liền với những công trình sáng tạo văn hóa, nghệ thuật và khoa học đã đành. Những tên tuổi ấy cũng gắn liền với những tìm tòi, trăn trở trong nhiều năm qua về những vấn đề lớn, nóng bỏng của đất nước, của xã hội, của thời đại. Vâng, không phải chỉ của nghệ thuật. Bởi suy cho cùng, những trăn trở sâu xa nhất về nghệ thuật bao giờ cũng bắt nguồn từ những suy tư về xã hội, về dân tộc và thời đại. Và cuối cùng, cũng lại để hướng về đó. Chính vì thế mà cuộc đối thoại hôm nay giữa đồng chí Tổng bí thư của Đảng và các văn nghệ của Đảng về những vấn đề cấp thiết của văn hóa nghệ thuật, lại mang đậm những biến đổi rộng lớn đang diễn ra trong xã hội, những biến đổi mà sự khởi đầu được đánh dấu bằng Đại hội lần thử 27 Đảng cộng sản Liên xô và Đại hội lần VI Đảng cộng sản Việt Nam. Cuộc đối thoại hôm nay là nằm trong và là một bộ phận của tiến trình rộng lớn đó.
Có một con số có lẽ cũng rất đáng chú ý: Hai ngày làm việc, tổng cộng khoảng 15 tiếng đồng hồ, thì sau vài lời giới thiệu của Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ nói mấy lời mở đầu trong chừng 5 phút và trước khi kết thúc cuộc họp, đồng chí phát biểu đúng 50 phút. Còn thì, suốt hai ngày, đồng chí Tổng bí thư chăm chú lắng nghe ý kiến của anh chị em.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh hồi tưởng và nhận xét: Những lần trước đây gặp các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, thường các đồng chí ấy nói từ đầu đến cuối, hoặc gần như thế, còn chúng tôi thì nghe, rồi về. Lần này, ngược lại... chỉ riêng điều này thôi cũng đã là dấu hiệu của một sự đổi mới rồi... Lời mở đầu của đồng chí Tổng bí thư là một câu hỏi nhìn ngay thẳng vào sự thật. Đồng chí nói:
- Tôi có một băn khoăn: Hình như từ sau ngày giải phóng đất nước đến nay, có những thành tựu văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn trước, không biết có đúng thế không? Nếu không đúng như thế, thì tôi mừng. Còn nếu đúng như thế thì tại sao? Hay do lãnh đạo có sự kiểm duyệt, sự hạn chế gì? Nếu có tình hình ấy, tôi đề nghị đó là một chủ đề để chúng ta trao đổi. Tôi mong được nghe ý kiến của các đồng chí...
Nhà thơ Huy Cận nói về sự trưởng thành đội ngũ về những cản trở do sự thiếu hiểu biết của các cấp ủy địa phương đối với văn học nghệ thuật, về chức năng của nghệ thuật mà theo anh là "đưa con người trở về với cộng đồng", về vấn đề những vốn văn hóa nghệ thuật dân tộc bị mất mát v.v... Có lẽ vì anh đề cập cùng một lúc đến nhiều vấn đề quá, nên khó có vấn đề nào nói được thẳng và sâu. Nhà thơ Tế Hanh nói đôi ý nghĩ về con đường thơ ba mươi năm của ta...
Cuộc thảo luận sôi nổi hẳn lên với tham luận của nhà lý luận Hồ Ngọc khi anh trả lời thẳng câu hỏi của đồng chí Tổng bí thư, anh nói: "Vâng, văn nghệ ta Nghèo, vừa nghèo, vừa lạc hậu như đất nước ta hiện nay vậy". Đi tìm nguyên nhân cho tình hình đó, anh đề cập thẳng đến một vấn đề nóng bỏng và thật là rất "khó", khó bởi vì lâu nay ta vẫn thường né tránh nó như một thứ "húy kỵ", mặc dù dường như người làm văn nghệ nào cũng thấy có cấn cái, có chuyện không ổn ở đây: vấn đề mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, Hồ Ngọc cho rằng "vấn đề này ở ta chưa bao giờ được đề cập một cách công khai và được giải quyết một cách đầy đủ, đến nơi đến chốn... do đó, trong thực tiễn của đời sống văn học nghệ thuật đã đẻ ra biết bao nhiêu chuyện rắc rối, thậm chí đau lòng..." Anh nêu luận điểm: "Văn nghệ và chính trị là hai hình thái ý thức nằm chung trong một thượng tầng kiến trúc...", có mối "quan hệ biện chứng" với nhau, "rất phức tạp" là "mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất". Vậy mà, theo anh, chúng ta đã "đồng nhất", thậm chí đồng hóa văn nghệ với chính trị, coi văn nghệ là công cụ cửa chính trị, phục vụ chính trị một cách thô thiển, đơn giản, biến văn nghệ thành vũ khí tuyên truyền... "Anh cho rằng mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị cho đến nay "vẫn vướng mắc, cần được tháo gỡ không chỉ về mặt quan niệm, nhận thức... mà ở các khâu tổ chức: cán bộ Đảng hiện đang làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý văn nghệ..."
Những ý kiến của Hồ Ngọc có thể cần được thảo luận về nhiều mặt, nhưng rõ ràng anh đã đưa cuộc nói chuyện hôm nay vào trung tâm của vấn đề. Để đi đến chỗ đạt được điều đó hôm nay, không dễ. Có lúc, ngay hôm nay, khi đang trình bày ý kiến của mình, Hồ Ngọc thấy phải rào đón cẩn thận trước sau để tránh những sự "hiểu lầm" lắm khi cho là cố ý. Thấy rõ sự ngập ngừng của Hồ Ngọc, đồng chí Tổng bí thư nói:
- Còn rào đón thì chưa chuyển biến được đâu!
Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện không rào đón. Bản tham luận của anh ngắn gọn, súc tích, vì nó đi thẳng ngay vào thực chất của tình hình và chỉ thẳng ngay nguyên nhân của nguồn gốc. Anh cho rằng văn nghệ sĩ là những người "nhạy cảm với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, với những gì mới chớm, họ nuôi dưỡng ước mơ cao hơn những người khác trước những điều tiêu cực, và tất cả những buồn vui hào hứng hay căm giận, tủi nhục của mọi người được họ đúc kết lại, diễn đạt ra những bài thơ, quyển truyện, vở kịch, cuốn phim, hay bức tranh, pho tượng..." Anh nói thẳng: "Trong những năm qua văn học nghệ thuật của ta chưa đóng được đầy đủ vai trò của nó. Vì bị trói buộc. Sự lãnh đạo văn nghệ trong mấy năm qua nhiều lúc còn thô sơ, tỉa cành bắt sâu trong một vườn hoa quý lại dùng dao búa làm rừng khai hoang... Những người làm báo, viết văn, làm phim thường xuyên được nhắc nhở: phải làm như thế này, không được làm như thế kia! Bị trói buộc bởi một loạt húy kỵ... Lâu lâu lại nổ ra một vụ án: bài báo này, quyển sách kia, cuốn phim nọ bị kết án là xét lại, là "chống Đảng", là "có tính kích động"... Mà "thông thường bản án nào cũng có kỳ hạn, mãn hạn tù, còn bản án văn học thì cứ mãi mãi treo lơ lửng trên đầu... một bản án chung thân, có khi còn hại đến cả con cháu...." Từ những nhận định thẳng thắn, nghiêm trang, anh đi đến một số những ý kiến cụ thể về những việc cần làm ngay" trong lĩnh vực lãnh đạo văn nghệ.

Nguyễn Khắc Viện vừa phát biểu xong đồng chí Tổng bí thư đã đứng dậy bắt tay thân thiết và đón nhận bản tham luận của anh.
Cũng như thế, sau khi Dương Thu Hương phát biểu những ý kiến thẳng có lúc như gay gắt, cũng được đồng chí Tổng bí thư đứng dậy và đón nhận bản tham luận của chị. Nhà văn Anh Đức, nhà viết kịch Tào Mạt không tự đóng khung ý kiến của mình trong những vấn đề "nghề nghiệp" của văn học nghệ thuật. Các anh nói nhiều và sâu về một yêu cầu lớn của nhân dân, của xã hội ta hiện nay, "yêu cầu dân chủ hóa". "Dân chủ là lời hứa của Đảng ta với nhân dân từ những ngày chống ngoại xâm. Đảng phải giữ lời hứa với dân". Cũng phải thấy rằng "chúng ta chưa có truyền thống dân chủ. Yêu nước, phải biết tự hào về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhưng không cần làm một cuộc tự phê bình của toàn Đảng mà còn phải làm cuộc tự phê bình của toàn dân tộc thì chúng ta mới tiến lên được..." Chính trên cơ sở một nhận thức như vậy, mà các anh suy nghĩ về nhiệm vụ của văn học nghệ thuật hôm nay.
Họa sĩ Phan Kế An nói về những sai lầm hẹp hòi, thiển cận, cứng nhắc, đối với văn học nghệ thuật trong một thời kỳ bị ảnh hưởng nặng nề của những quan điểm "Mao ít" mà theo anh cho đến nay chúng ta vẫn còn chưa thật dũng cảm tự phê bình.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đặc biệt nhấn mạnh đến điều anh gọi là "sự bao cấp về tư tưởng" từng phổ biến suốt một thời. Đó là tình trạng "chỉ cần một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu. Một tình trạng độc đoán về tư tưởng như vậy tất yếu bóp chết mọi sáng tạo, làm khô kiệt văn học nghệ thuật.
Cùng diễn đạt ý đó, từ một góc độ khác nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh nói : "Vấn đề sinh tử của văn nghệ là tự do. Văn nghệ cũng như con chim, trói nó lại thì nó không hót. Hoặc nó hót vớ vẩn? Mà thả ra thì sợ nó bay mất. Lãnh đạo giỏi thì làm sao cho con chim văn nghệ bay bổng và hót vang trên bầu trời tự do của chúng ta..." Anh cũng nói đến một vấn đề sinh tử khác của văn nghệ: vấn đề nhân phẩm của người nghệ sĩ. Theo anh, có thời "lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Mà con người bị coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn kém, nhỏ lại. Biết tôn trọng con người thì con người lại tự thấy mình cao lớn lên..."
Nhà thơ Bằng Việt tập trung nói một vấn đề lớn, theo anh, trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật: vấn đề chăm sóc rèn luyện để tạo nên những tài năng, những đỉnh cao. Anh nói: "Chúng ta mắc một chủ nghĩa bình quân hết sức nặng trong những năm qua. Chủ nghĩa bình quân vô hình chung khuyến khích cái trung bình, cái dễ dãi nhưng hợp thời, cái sơ lược nhưng mà vừa ý lãnh đạo. Hơi khúc mắc một tý là ta ngại "có vấn đề". Nếu văn học nghệ thuật không khơi dậy những "vấn đề" thì có nó làm gì?..."
Kiến trúc sư Tạ Mỹ Duật nói về ý nghĩa của kiến trúc mà ta thường lầm lẫn đánh đồng với xây dựng. Chúng ta đã "rất cẩu thả về cảnh quan", xây dựng nhiều, tốn kém mà ít hiệu quả và đơn điệu. Anh cũng lên tiếng báo động về tình hình các di tích lịch sử bị phá hoại nghiêm trọng. Đạo diễn Trần Đắc và đạo diễn Hải Ninh nói đến những quan niệm hẹp hòi, thiển cận đang hạn chế những khả năng lớn của ngành điện ảnh chúng ta. Anh Trần Đắc đề nghị "Trung ương lãnh đạo cho văn nghệ đổi mới" để phá vỡ những nề nếp hạn chế cũ, định kiến, cản trở một cách vô lý những tiềm năng của văn nghệ... Đồng chí Tổng bí thư nhắc anh Trần Đắc, mà cũng là nhắc tất cả anh chị em: Trong cuộc đấu tranh còn rất quyết liệt, gian khó hiện nay cho sự đổi mới : "Mình hãy tự cứu lấy mình đi, rồi trời sẽ giúp mình".
Nhà biên kịch Tất Đạt, nữ đạo diễn Phạm Thị Thành, hai nữ nghệ sĩ ái Vân và Xuân Thanh, thông qua thực tế sinh động của ngành sân khấu, mà cũng nói đến những vấn đề chung của văn học nghệ thuật ta hiện nay : Vấn đề tự do sáng tạo bị cản trở thậm chí có khi bị "chà đạp" vì những quan niệm ấu trĩ, thô bạo, sai trái; vấn đề một thứ chế độ kiểm duyệt" vô hình mà không có pháp luật; vấn đề đời sống và điều kiện lao động nghệ thuật của người diễn viên sân khấu bị bỏ bê đến tồi tệ...
Từ góc độ lý luận, nhà sử học Nguyễn Hồng Phong đề cập đến ba vấn đề thuộc số những vấn đề vừa là cơ bản, vừa là cấp thiết của văn học nghệ thuật: vấn đề Đảng lãnh đạo văn nghệ, vấn đề công chúng của văn nghệ; vấn đề giao lưu văn hóa nghệ thuật.
Đảng dứt khoát phải lãnh đạo văn nghệ. Nhưng Đảng là ai? Và lãnh đạo như thế nào?... Đảng lãnh đạo phương hướng, không nên đi quá sâu vào chuyên môn. Chúng ta nói văn nghệ phục vụ đại chúng. Nhưng nếu từ đó mà chủ trương văn nghệ phải lấy tiêu chuẩn là làm cho đa số quần chúng hiểu, đại đa số thích, thì ta chỉ có văn nghệ trung bình. Văn nghệ phục vụ đại chúng, nhưng là đại chúng phải có văn hóa, do đó phải là quần chúng tiên tiến. Có hai cái phục vụ: phục vụ trực tiếp và phục vụ gián tiếp.
Trong lịch sử, có hai cái chất về văn hóa: đóng cửa lùi về cổ sơ, và tha hóa, không giữ được bản sắc của mình. Trong thế giới này, phải có trao đổi với những nền văn hóa khác mình thì mới đổi mới được. Giao lưu văn hóa cũng là nhu cầu sống còn. Trong những khâu quan trọng nhất cần tháo gỡ để "giải phóng tiềm năng sáng tạo" của văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyên Ngọc tập trung nói về chức năng, hay là vai trò xã hội của nền văn học nghệ thuật, mà theo anh là vấn đề then chốt hiện nay.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi trình bày một số suy nghĩ của anh về vấn đề dân chủ, đặc biệt ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa và ở ta; anh cũng nói về sự đánh giá những thành tựu văn học của chúng ta, mà theo anh là "một nền văn học lớn"...
Tính chung, trong hai ngày có tất cả 26 người phát biểu ý kiến. ý kiến nào cũng tâm huyết, sâu sắc, có giá trị. Ngay hồi đó, tôi cũng đã nghĩ đến việc tập hợp trí cả lại để xuất bản thành một tập sách, đánh dâu một sự kiện lịch sử độc đáo của Đảng ta. Một sự kiện đẹp, vừa mang giá trị khoa học, vừa mang giá trị nhân văn cao cả mà sau này nhất định sẽ được nhắc đến như một "Diên Hồng văn nghệ. Trong lúc việc đó chưa làm được tôi muốn đưa vào tập hồi ký này hai bài phát biểu, một của Nguyên Ngọc, đại diện cho anh chị em phía Bắc, một của Nguyễn Quang Sáng, đại diện cho anh chị em phía Nam.
Nguyên Ngọc phát biểu: Từ sáng hôm qua đến giờ, nhiều đồng chí đã phát biểu rất sâu sắc về những vấn đề quan trọng. Tôi nhất trí với nhiều ý kiến trong số đó. Vì thời gian có hạn, tôi xin không nhắc lại những ý kiến đã nhất trí, chỉ nói thêm về một số vấn đề các đồng chí trước chưa nói, hoặc một số khía cạnh chưa được nói tới trong các vấn đề các đồng chí trước đã nêu ra.
Tôi nghĩ trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, văn học nghệ thuật ta đã làm tròn xuất sắc nhiệm vụ của mình. Cùng với các ngành khác, văn học nghệ thuật đã góp phần xứng đáng tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, của Đảng để đánh thắng kẻ thù. Từ đó, cùng góp phần quan trọng xây dựng, phát triển và khẳng định những giá trị tinh thần và đạo đức mới tốt đẹp cho con người, cho xã hội. Về phần bản thân mình, văn học nghệ thuật ta cũng đã có một bước trưởng thành lớn về nhiều mặt, trong đó có lẽ đáng chú ý hơn cả là sự trưởng thành về đội ngũ... Những điều này không còn gì phải bàn cãi nhiều. Tuy nhiên, mặt khác cũng cần thấy rõ ràng trong suốt thời kỳ kéo dài hơn 30 năm ấy, văn học nghệ thuật ta đã phát triển trong những điều kiện rất đặc biệt, đó là những điều kiện hết sức khắc nghiệt của chiến tranh cho nên tất yếu nó có những hạn chế không thể tránh khỏi: những hạn chế ấy đã để lại những dấu vết hằn sâu. Ví dụ: "Do điều kiện chiến tranh, trong văn học nghệ thuật ta đã thường quen chỉ nói một chiều. Chỉ nói thắng lợi, không nói thất bại; chỉ nói thành tích không nói thất bại; chỉ nói sự đúng đắn không nói sự sai lầm... Tuy ai cũng biết rằng mỗi thắng lợi trong cuộc chiến đều đã phải trả bằng biết bao nhiêu tổn thất hy sinh, thất bại và cả sai lầm cay đắng... Sau Cách mạng tháng Tám 1945, lật đổ một chế độ xã hội cũ, chúng ta mong muốn bắt tay xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Nhưng lập tức chúng ta phải bước ngay vào chiến tranh chống ngoại xâm, cuộc chiến ấy cực kỳ ác liệt và kéo dài. Điều kiện chiến tranh buộc chúng ta hầu như lúc nào cũng phải giải quyết ngay những việc cấp bách nhất, còn những việc lâu dài, cơ bản thì cứ phải gác lại Trong công tác tư tưởng cũng vậy. Trong văn học nghệ thuật cũng vậy. Ví dụ như, trong giáo dục văn học nghệ thuật, suốt mấy mươi năm chúng ta đã nói rất nhiều, rất đậm về tình đồng chí, quan hệ đồng chí, điều đó là đúng và tốt quá. Song ta lại chưa kịp, chưa có thời gian... và cũng quên không nói về một cái sơ đẳng hơn, nhưng cũng gốc gác hơn của con người là tình bạn... Hoặc chúng ta đã nói quá nhiều, sâu về đất nước, về Tổ quốc, về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù... nhưng gần như chúng ta quên hẳn một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé của chúng ta về cha mẹ, về gia đình... Trong việc xây dựng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho con người, chúng ta vừa đạt được những tầm rất cao, lại vừa có sự hụt hẫng ở một số mặt gốc rễ, cơ bản, lâu bền. Có thể nói chừng nào đã có xu hướng "thực dụng" ở đây. Đó là một sự phiến diện không nhỏ.
Điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh cũng dễ dẫn đến khuynh hướng đồng nhất tất cả với chính trị. Cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học... đều nhất loạt bị đồng nhất với chính trị. Cuộc chiến tranh giải phóng ác liệt đặt lên hàng đầu sự mất còn của dân tộc lấn át hết mọi quan hệ khác. Trong văn học nghệ thuật điều ấy cũng in dấu rõ: Cái chung của cộng đồng, cái toàn dân tộc là quan trọng nhất; cái riêng hầu như chưa được biết đến, nói đến, chưa có quyền của cái riêng...
Tất cả những điều trên đây là dễ hiểu, có tính lịch sử, là đương nhiên của một "thời kỳ văn học nghệ thuật chiến tranh". Chỉ có điều, khi chuyển sang thời kỳ khác, thời kỳ xây dựng đất nước trong hòa bình, tức là trở lại cuộc sống bình thường, lâu dài, hằng ngày... của một đất nước, một xã hội, nếu chúng ta không kịp nhận ra và kịp thời khắc phục những hạn chế có tính lịch sử trước đây, thì những hạn chế đó sẽ trở thành những nhược điểm, thậm chí những khuyết điểm sai lầm, cản trở sự phát triển của văn học nghệ thuật.
Tiếc thay, vừa qua chúng ta đã phạm đúng điều này trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật. Thật ra, từ gần mười năm trước đây, có người cũng đã thấy và chỉ ra. Nhưng liền bị quy chụp là "phủ nhận thành tựu, là ảnh hưởng đủ thứ quan điểm tư tưởng sai trái này nọ. Và những ý kiến trăn trở ấy bị dập đi...
Theo tôi, chúng ta đã chậm trễ mất khoảng mươi năm. Trong văn học nghệ thuật mươi năm có thể là cả một thế hệ? Thế mới biết, lỗi ở chỗ này không nhỏ. Một nguyên nhân khác, theo tôi, là đẻ ra hệ tư tưởng bao cấp nặng nề thống trị trong suốt thời gian dài, kể cả "bao cấp về tư tưởng". Có những thời kỳ dài, tôi xin nói một cách hình ảnh, cứ hàng quý đến kỳ anh tuyên huấn cấp dưới lại khăn gói lên tuyên huấn cấp trên, anh một ít tư tưởng do cấp trên cấp phát cho, về để tiêu dùng cho mình và cho đơn vị mình trong suốt quý. Hết quý lại đi lĩnh suất khác. Nếu chẳng may đến kỳ rồi mà giao thông trắc trở chưa đi lĩnh được suất tư tưởng mới, thì đành lúng túng ngồi chờ vậy, chẳng thể tự mình nghĩ ra được và dám nghĩ ra cái gì khác. Bởi đã quen: quyền suy nghĩ là quyền của cấp trên?
Tôi e rằng tình trạng này đến nay vẫn cũng chưa hết hẳn đâu!
Trong văn học nghệ thuật, tình trạng này cũng nặng nề. Mãi gần đây, một hôm tôi được chứng kiến một nhà văn có tên tuổi hẳn hoi và đang giữ một cương vị khá quan trọng trong bộ máy lãnh đạo văn học ta, lên chỗ Ban văn hóa văn nghệ Trung ương của đồng chí Trần Độ, nằng nặc đòi: "Trung ương phải chỉ đạo cho chúng tôi nên xây là chính hay chống là chính chứ! Lúc này văn học nên ca ngợi cái tốt là chính, hay đấu tranh chống tiêu cực là chính? Phê bình đấu tranh đến mức nào? Tỷ lệ như thế nào?... Yêu cầu Ban của Đảng phải chỉ đạo cho chúng tôi?..."
Riêng tôi, hôm ấy, tôi nghĩ: nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào... thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì?" Quả thật thói quen chỉ có thể, chỉ được phép suy nghĩ điều cấp trên đã suy nghĩ; thói quen chỉ được, chỉ dám và chỉ biết suy nghĩ theo phép cấp trên đã thống trị lâu dài trong xã hội ta. Mọi cái "lạ" đều phải kiêng kỵ. Tình trạng đó tất nhiên làm khô cằn mọi sự sáng tạo, trước hết là sáng tạo văn học nghệ thuật.
Anh Huy Cận có nói những quan niệm thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc trong lãnh đạo, theo anh, ở các cấp ủy địa phương đã cản trở nhiều sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Tôi nghĩ khác. ở nước ta hiện nay, số lượng văn nghệ sĩ làm việc ở Trung ương đông hơn ở các địa phương nhiều. Nếu sự thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc chỉ có ở các cấp ủy địa phương như anh Huy Cận nói, thì làm sao giải thích tình trạng nghèo nàn hiện nay của văn học nghệ thuật ta, không chỉ nghèo "ở các địa phương"? Phải tìm chỗ khác. Tôi nghĩ rằng trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật, chúng ta có sai ở một số vấn đề quan trọng cơ bản và sai ở ngay trong "hệ chính thống", chứ không phải ở bộ phận, ở cục bộ, ở địa phương. Tôi chỉ xin tập trung nói về một vấn đề theo tôi là nóng bỏng nhất và cũng là vấn đề cơ bản, lâu dài: vấn đề chức năng xã hội, hay là vai trò vị trí xã hội của văn học nghệ thuật.
Nhiều đồng chí đã nói về các vấn đề cơ chế, chế độ, chính sách, về sự đối xử với các văn nghệ sĩ v.v... tôi nghĩ những điều đó đúng, cần nói, cần giải quyết. Nhưng có lẽ dẫu sao những cái đó cũng chỉ là hệ quả tất yếu của những cái quan trọng hơn: ấy là quan niệm về chức năng xã hội và văn học nghệ thuật.
ở ta cho đến nay vẫn thống trị hai quan niệm phổ biến về chức năng xã hội của văn nghệ. Một là văn nghệ minh họa. Chức năng phản ánh của văn nghệ bị hiểu một cách thô thiển. Đại thể là: Đảng và nhân dân sẽ làm nên sự nghiệp anh hùng, văn nghệ hãy ghi chép lại đi, để ca ngợi, để cho mọi người biết, để cho con cháu mai sau hiểu. Hoặc cao hơn một chút nữa, thì: cuộc đấu tranh xã hội diễn ra phức tạp như thế đấy. Đảng, Nhà nước ta đã giải quyết như thế này, thế này... văn nghệ sĩ hãy theo sát, tìm hiểu và ghi chép lại, trình bày những bài học Đảng đã rút ra được ở đó, một cách văn chương, để mọi người dễ tiếp thu, thấm thía... Văn nghệ là đi sau chính trị. Chính trị giải quyết. Văn nghệ phản ánh...
Quan niệm thứ hai là : "Văn nghệ xướng ca" (và đương nhiên dẫn đến: "xướng ca vô loài!"). Đại thể văn nghệ là một thứ trang trí của xã hội. Khi no đủ, vui vẻ, gọi văn nghệ đến giải quyết, mua vui. Còn khi mệt, bận, cáu thì văn nghệ liệu mà tránh xa ra, đừng có quấy rầy!... Vai trò xã hội của văn học nghệ thuật bị hạ thấp. Mọi thái độ đối xử không đúng với nó bắt nguồn từ đó. Anh Nguyễn Đăng Mạnh có nói đến sự "bí mật", sự khó định nghĩa của văn học nghệ thuật. Quả có thế thật. Cho đến nay có lẽ vẫn chưa hoàn toàn giải thích sáng rõ được hết tại sao văn học nghệ thuật lại cần thiết đến thế cho con người, đã có mặt từ khi loài người là loài người, và tồn tại mãi với nhân loại như một điều kiện của chính sự tồn tại của loài người. Và hình như xã hội càng tiến lên, đặc biệt ngày nay khi nền văn minh cơ khí càng phát triển thì nhu cầu nghệ thuật của xã hội, của con người lại càng cấp thiết, bức bách hơn.
Phải chăng, trong rất nhiều lý đo, có một lý do sâu xa này: nghệ thuật là một phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật mà cũng không thành những ông thánh vô bổ và vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo.
Có một thời chúng ta sợ, coi việc nói đến những điều gọi là những "đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật là "tối kiêng kỵ", là "phi giai cấp", là "tư sản", "xét lại"... Song, mặc chúng ta kiêng kỵ và lo sợ, những đề tài như vậy vẫn cứ tồn tại. Có những câu hỏi cứ còn mãi, lặp đi lặp lại mãi, suốt đường dài của lịch sử con người, như những câu hỏi về sống và chết, tốt và xấu, thiện và ác, thật và giả, hạnh phúc và đau khổ... Đó là những câu hỏi quằn quại còn mãi. Chỉ có điều mỗi thời đại, mỗi giai cấp, đến lượt mình phải có câu trả lời riêng của mình cho những câu hỏi đó. Giai cấp vô sản và xã hội chủ nghĩa chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi đó, theo cách của ta. Và con cháu ta mai sau, đến lượt chúng cũng vậy.
Sau năm 1975, có lúc chúng ta đã ngây thơ tưởng rằng đánh giặc xong, chỉ còn nội bộ, nhân dân, đồng chí với nhau, mọi quan hệ sẽ dễ dàng tốt đẹp ngay... Mười năm qua, có lẽ một trong những sự giác ngộ quan trọng nhất của chúng ta là thấm thía hiểu ra rằng xã hội càng tiến lên thì cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái thật và cái giả, cái thiện và cái ác... không giảm, không mất đi, trái lại càng phức tạp, tinh vi, ác liệt hơn. Cái ác dường như cứ càng dữ dội, xảo quyệt... hơn mãi, và không những không biến đi, mà chừng như ngày càng mạnh hơn. Trong cuộc vận động quyết liệt đó, cái thiện vươn lên, thắng lợi một keo. Một bộ phận của cái thiện lại chuyển biến sang phía cái ác Cái ác lại mạnh hơn. Và cuộc đấu tranh lại bắt đầu... Mãi mãi... Ngẫm cho cùng, văn nghệ xưa nay chính là nói về cuộc đấu tranh đó.
Trong cuộc đấu tranh ấy, văn nghệ đặc biệt làm một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng: nhiệm vụ dự báo xã hội. Có thể coi văn học nghệ thuật như là một thứ giác quan đặc biệt, là cái ăng-ten nhạy cảm đặc biệt của xã hội. Có những ngày đang nắng chang chang, vậy mà mở cái radio ra cứ nghe rét rét trên các làn sóng, thì ra gió mùa đông bắc đã ở bên kia biên giới, cơn dông sắp đến. Văn nghệ là cái ăng-ten ấy, Pu-skin gọi thi sĩ là nhà tiên tri. Goóc-ki thì nói đến "chim báo bão". Còn Nguyễn Du của ta thì viết: "Bất tri tam bách dư niên hậu..."
Dự báo nghĩa là nói cái chưa có, mắt thường chưa thấy, tai thường chưa nghe... Người nghệ sĩ lớn là người có con mắt tinh đời, nhìn những thế lực đang hùng hùng hổ hổ thống trị xã hội mà đã sớm đoán ra và tiên báo sự tàn lụi của nó; nghe những mầm non của cái mới còn rất cô đơn, rất mơ hồ mà dám khẳng định nó sẽ làm chủ tương lai... Nhà văn càng lớn thì khả năng dự báo của họ càng xa, càng dài, càng chính xác.
Tôi nghĩ cũng nên nói rõ thêm rằng ngay chính bản thân người nghệ sĩ nhiều khi cũng không tự mình cắt nghĩa rõ được, trình bày rõ được sự "tiên tri" của mình dâu. Nhiều khi đó là một thứ dự cảm. Tâm hồn đặc biệt nhạy cảm của họ rung lên vì những chấn động nào đó mà chính họ cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa... Nhà văn nổi tiếng G.G. Mác-két có nói rằng không nên đánh giá quá thấp vai trò của nghệ thuật, nhưng cũng không nên đề cao quá đáng vai trò đó. "Xưa nay nói cho cùng nghệ thuật cũng chưa bao giờ lật đổ được một chế độ chính trị nào". Quả là ở Châu Mỹ La Tinh đau khổ và sôi sục của ông, cho đến nay chưa có chế độ độc tài nào bị văn nghệ lật đổ! Nhưng ông nói văn nghệ lại làm một việc rất quan trọng; nó báo hiệu, nó gây men, nó chuẩn bị tư tưởng cho những biến đổi xã hội rộng lớn, những cuộc cách mạng. Trong ý nghĩ đó, nó đi trước. Tôi nghĩ khi nói chức năng phản ánh của văn nghệ là phải nghĩ như vậy. Phản ánh nhưng là báo trước, chuẩn bị tư tưởng trước, chuẩn bị tư duy mới cho xã hội, chứ không phải đi sau, ghi chép, minh họa. Anh Nguyễn Khắc Viện có lần nói: "Nhiệm vụ của kẻ sĩ trong mọi thời là gây dư luận", có lẽ cũng là trong ý này. Nguyễn Quang Sáng phát biểu ngắn hơn nhưng mỗi câu, mỗi chữ hàm chứa những vấn đề lớn, những vấn đề cốt lõi mà tất cả mọi người trong giới văn hóa nghệ thuật từng trăn trở mấy lâu nay. Cách nói của anh, giọng của anh đầy chất hóm hỉnh nhưng vô cùng thẳng thắn và bộc trực của người Nam Bộ.
" ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi có dịp gặp và làm việc với anh Mười. (Tên gọi thân mật của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong thời hoạt động ở chiến trường miền Nam) Cho nên, hôm nay những điều tôi nói, đối với anh Mười không có gì mới (muốn có cái mới đâu có dễ), nhưng vẫn nói lại vì những điều ấy chưa thực hiện được, còn cay cú. Và đối với anh chị em ở đây cũng không có gì là lạ, nhưng vẫn nói để thấy, suy nghĩ của chúng ta giống nhau, chúng ta không cô đơn.
Như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư, văn học nghệ thuật của chúng ta mấy năm qua vẫn còn nghèo. Đúng như vậy. Vốn đã nghèo lại càng nghèo, ở chỗ ta có tác phẩm hay mà không thấy (có vàng mà tưởng thau). Cái không hay lại khen bốc lên (thấy thau lại tưởng là vàng). Có anh nói: "Viết không biết, vẽ không vẽ, chỉ có khen với chê cũng không làm đúng". Chưa đánh giá đúng giá trị của những tác phẩm đã có, do đó thấy nghèo hơn. Tôi nghĩ, muốn có tác phẩm hay phải có ba điều kiện: một là tài năng, hai là tiền, ba là tự do. (Tôi nói đùa là phải có ba chữ T).
Những anh chị em đang ngồi ở đây và không có mặt ở đây là những người có tài năng, tài năng cộng với một cuộc sống của hai cuộc chiến tranh. Có một nhà văn nước ngoài tự hào đã có ba năm làm lính trong chiến tranh chống phát xít bảo vệ tổ quốc. Với nhà văn ấy, cái vốn ba năm chiến tranh của anh là ngôi sao của văn học, anh sẽ viết suốt đời. Anh hỏi tôi có bao nhiêu năm tham gia chiến tranh. Tôi đáp: Tôi hơn anh con số không ở sau, nghĩa là có ba mươi năm. Anh cười và bảo tôi có thể viết đến kiếp sau. Chúng ta có một cái vốn lớn và quý không phải người nghệ sĩ nào cũng có, nhưng tại sao chúng ta có ít tác phẩm hay?
Điều thứ hai tôi nói đến tiền là muốn nói đến phương tiện làm việc, muốn nói đến chế độ nhuận bút. Chế độ nhuận bút của ta vừa thấp đến vô lý, vừa bất hợp lý ở chỗ những tác phẩm được viết bằng tâm huyết, có khi viết bằng cả một cuộc đời thì tiền nhuận bút lại quá ít (ít đến nỗi không dám mua sách tặng cho bạn bè) còn cái dễ hơn, làm dễ dãi thì tiền được khá hơn. Tiền nhuận bút thấp kém đã ảnh hưởng đến sức sáng tạo và sức viết. Đó là một nguyên nhân.
Điều thứ ba quan trọng hơn, là tự do cho sáng tác. Khi đặt vấn đề tự do cho sáng tác mà có đồng chí hỏi gặng lại: "Chế độ ta không có tự do à?" thì rất khó trao đổi. Từ hôm qua đến nay, các đồng chí nói rất nhiều đến tự do sáng tác, chứng tỏ là tự do cho sáng tác có bị hạn chế.
Rõ ràng là người viết luôn luôn có một mối lo, nói là sợ thì quá đáng, nói sờ sợ thì đúng hơn. Sợ trên, sợ xung quanh và nỗi sợ ấy ở ngay trong bản thân mình. Trước khi đưa ra, tự mình đã cắt gọn cho trơn tru rồi. Có gì gai góc thì sợ "có vấn đề". Như tôi chẳng hạn, khi tin bộ phim "cánh đồng hoang" bị cấm trong quân đội, lập tức tôi nghĩ ngay lý lịch của mình (lý lịch của tôi không ngon lắm, nhưng không đến nỗi nào). Cái sợ ấy như là sợ ma vậy. Trong số bạn bè của tôi (một số thôi) tôi nghiệm thấy: người nào được cho là ngoan ngoãn, được xuôi chèo mát mái, thuận buồm xuôi gió thường không có cái gì hay, còn người gặp khó khăn, bị "để ý", bị coi như "có vấn đề, thì thường có cái hay.
Tự do cho sáng tạo phải như không khí dễ thở. Ta luôn luôn thở, thở một cách tự nhiên, thở mà không hay biết - Thở mà nghĩ là đang thở, phải thở thì tức là bệnh rồi, như bị hen vậy - Tự do sáng tác phải được thoải mái tự nhiên như thở.
Lúc ở thành phố Hồ Chí Minh, có lần tôi phát biểu với anh Mười, nói về sự quan tâm của cấp ủy đối với anh vực văn học nghệ thuật, tôi có nói: "Đối với văn nghệ, lâu lâu cấp ủy mới liếc qua một cái". Tôi nghĩ là anh Mười giận. Nhưng sau đó, trong một cuộc gặp gỡ với anh chị em văn nghệ sĩ thành phố, anh Mười có nhắc lại và nói: "Lần này thì tôi liếc tình". Và lần này, xa hơn cái "liếc tình" ấy, hôm nay như buổi kết hôn giữa anh với lãnh vực của chúng ta? "
Nhiều hy vọng!
Cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, với các văn nghệ sĩ trong hai ngày 6 và 7 tháng mười là một cuộc gặp gỡ lý thú. Có thể nói, đây là một cuộc gặp có tính chất lịch sử. Cuộc gặp được tổ chức theo chính sáng kiến của Tổng bí thư.
Không khí cuộc gặp là đặc biệt chân thành, cởi mở và tâm huyết. Mỗi người phát biểu đều như muốn dốc hết bầu tâm sự với đồng chí Tổng bí thư, với biết bao điều day dứt từ lâu muốn bày tỏ mà chưa biết bày tỏ cùng ai. Thực ra cũng đã có nói nơi khác, nhưng nói chỉ để mà nói chứ có ai nghe đâu, hoặc nghe để mà nghe chứ với cơ chế cũ thì liệu có làm được gì...
Còn trong cuộc gặp này, tiếng nói của họ được đồng chí Tỏng bí thư nghe chăm chú hầu như không bỏ sót một ý nào. Có thể, đây là lần đầu tiên giới văn hóa nghệ thuật cảm thấy tiếng nói của mình được Đảng đánh giá cao và tiếp nhận một cách trân trọng.
Do đó, khi đồng chí Tổng bí thư phát biểu kết thúc cuộc gặp, đã nói lên đầy đủ những điều then chốt và bản chất nhất làm cho anh chị em hết sức xúc động. Theo tôi, bài phát biểu ấy đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, nên tôi đưa toàn văn vào tập hồi ký này để mọi người nhớ lại một thời của văn nghệ đổi mới.
"Thưa các đồng chí,
Trong hai ngày qua, tôi được may mắn dự cuộc hội thảo này, được nghe nhiều đồng chí phát biểu. Tôi rất hoan nghênh ý kiến của tất cả các đồng chí vì các ý kiến ấy đều thẳng thắn, đa dạng, phong phú và sâu sắc. Có lẽ những điều các đồng chí nói ra đã được ấp ủ từ lâu, rất tâm huyết. Có thể nói, hai ngày vừa qua, các đồng chí đã thổ lộ can tràng.
Nhiều đồng chí đã phát biểu. Nhiều cách nói khác nhau. Nhưng xét cho cùng, nội dung các ý kiến đều giống nhau, thống nhất với nhau về những điểm sau:
Thứ nhất, là về vai trò của văn hóa văn nghệ. Sự lãnh đạo của Đảng trong nhiều năm qua còn xem nhẹ, đánh giá thấp vai trò của công tác văn hóa văn nghệ và vị trí của các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội. Đây là vấn đề nhiều đồng chí, bằng cách này hoặc cách khác, đã nói khá tập trung và đã đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động.
Thứ hai, là các đồng chí đều nhận xét rằng sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ còn có tình trạng thiếu dân chủ, còn độc đoán, áp đặt.
Thứ ba là cơ chế tổ chức, quản lý và các chế độ, chính sách đối với văn hóa và văn học nghệ thuật còn nhiều điểm chưa đúng, còn nhiều điều bất công... Sự thiếu sót này là một trong những nguyên nhân làm cho dời sống của các đồng chí gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Những người làm công tác văn hóa, văn nghệ cũng là những người sản xuất, lại là những người sản xuất ra sản phẩm cao cấp cho xã hội. Trong thời gian qua, sự đầu tư cho lao động trí óc, lao động sáng tạo không đủ để các đồng chí tái tạo lại sức sản xuất.
Đó là mấy điểm lớn qua phát biểu của các đồng chí.
Có thể nói, các điểm ấy cũng là những nguyên nhân chính làm cho chưa phát huy tốt được khả năng của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Có lẽ, cho tôi tạm dùng một từ, tôi có cảm xúc trong hơn mười năm qua (từ khi nước nhà thống nhất, cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội), so với hai cuộc kháng chiến trước đó, thành tựu của văn học nghệ thuật của chúng ta còn nghèo. Trong hai cuộc kháng chiến, các đồng chí đã đóng góp rất nhiều, có công rất nhiều, có tài rất nhiều. Nhưng mười năm qua thì không được như thế. Tôi nói nghèo là vì như vậy.
Qua phát biểu của các đồng chí, tôi thấy rõ thêm nguyên nhân vì sao sang giai đoạn cách mạng này, sự đóng góp của các đồng chí còn ít. Gần đây, có một số tác phẩm tốt được sự hường ứng trong công chúng, nhưng còn ít quá. Đáng lẽ những tác phẩm như vậy phải có nhiều hơn. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là : với tinh thần đổi mới của Đại hội VI, ta phải truy cho ra vì nguyên nhân gì làm cho văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo đi.
Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, chúng ta không phủ nhận rằng chúng ta đã làm một sự việc tốt. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta mắc rất nhiều cái sai. Đáng lẽ đời sống nhân dân, đời sống người lao động chân chính không đến nỗi khổ như hiện nay nếu không có những sai lầm mắc phải. Như các đồng chí đã biết, Trung ương đang cố gắng sửa chữa các sai lầm. Muốn sửa sai thì phải tìm nguyên nhân. Có giải quyết, sửa chữa các sai lầm mới đổi mới được, đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để: đổi mới tư duy, đổi mới chính sách, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ... Người lãnh đạo mà bảo thủ, sai lầm, không chấp nhận đổi mới thực sự thì không thể lãnh đạo được. Các đồng chí có nói nhiều đến sự "cởi trói". Có như vậy mới phát huy hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. "Cởi trói" như thế nào? "Cởi trói" nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ... Nghe các đồng chí phát biểu, tôi cũng không ngờ trong lĩnh vực này cũng có kiểu quản lý hành chính bao cấp, tới đây phải sửa và phải xây dựng những văn bản pháp quy nhằm bảo đảm sự phát triển cho ngành các đồng chí. Đảng và Nhà nước phải bắt tay mau lẹ vào công việc này. Một mặt khác, tôi nghĩ trong lãnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm. Hồi sáng, nhân có ý kiến đồng chí nào đó phát biểu, tôi có nói chen vào "Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu là trên ý nghĩa như vậy. Chính các đồng chí cũng đòi hỏi rằng trong lĩnh vực của các đồng chí, không được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường rầy, các đồng chí.cần được tự do lo liệu cho các công việc của mình. Nếu như trong lĩnh vực kinh tế hiện nay cần phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các đồng chí, các đồng chí cũng phải làm chủ.

Tôi nghe nhiều đồng chí nói văn nghệ còn bị cấm đoán, sát phạt... Và, cái các đồng chí sợ nhất là cái thường lơ lửng đâu đó trong không trung. Các đồng chí sợ nó hơn sợ sự kiểm duyệt. Đó là nỗi sợ hãi những thứ dư luận nào đó kết tội các đồng chí viết không đúng lập trường, chống lại đường lối, chủ trương của Đảng v.v... Nghe các đồng chí nói lên điều lo ngại này, tôi rất thông cảm. Chính vì thông cảm mà sáng nay khi nghe các đồng chí phát biểu, tôi đã "ngứa miệng" kêu: "Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu. Mình phải chặt chẽ với mình. Khi thấy mình là đúng, có ý thức xây dựng thì phải kiên quyết bảo vệ chân lý phải dũng cảm.
Tôi nghĩ, dù thế nào, các đồng chí cũng không nên uốn cong ngòi bút của mình. Thà rằng chưa viết được thì cứ đi vào thực tế đời sống tích lũy thêm vốn hiểu biết, chứ không viết theo kiểu tùy thời. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, người nghệ sĩ phải dũng cảm, có tấm lòng trong sáng, đừng chùn bước. Cần luôn luôn ghi nhớ câu của Bác Hồ: "Nay ở trong thơ nên có thép". Có thép, tôi hiểu là phải có tinh thần cách mạng.
Tôi có mấy đề nghị:
Các đồng chí dũng cảm vượt khó khăn. Trước đây văn học nghệ thuật cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm trong điều kiện hoạt động bí mật. Trong hai cuộc kháng chiến, văn học nghệ thuật của chúng ta có tinh thần chiến đấu cao, được xây dựng và phát triển phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lúc bấy giờ các đồng chí gặp không khí thuận lợi cho lao động sáng tạo nghệ thuật. Lãnh đạo của Đảng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng chí đóng góp tài năng của mình. Trong kháng chiến, chống lại bọn địch, chống bọn "sọc dưa" hèn nhát thì chả ai cấm, chả ai bắt tội. Khen ai, ca ngợi ai lúc đó cũng rõ ràng: chiến sĩ anh hùng, nhân dân anh hùng.
Ngày nay khen, chê như thế nào là rất khó. Cái xấu, cái tiêu cực lại nằm ngay trong nội bộ nhân dân, trong những kẻ có chức, có quyền trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước.
Trước đây ta thường có quan niệm đơn giản: hễ đã nói tới xã hội chủ nghĩa là chỉ có những điều tốt đẹp. Quan niệm như vậy rõ ràng là ảo tưởng, ngây thơ. Trước đây có lúc tôi cũng đã từng nghĩ như vậy. Nhưng khi chạm vào thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ với những con người từ chế độ cũ chuyển qua, mang theo bao tàn dư, thói hư tật xấu của chế độ cũ. Với năng lực còn nhiều thiếu sót, kém cỏi v.v... nên nhìn nhận như thế nào thật là khó. Ranh giới giữa cái đúng với cái không đúng nhiều khi không rõ ràng.
Vấn đề là phải có cách nhìn nhạy bén và có cơ sở khoa học. Trong sáng tác văn học nghệ thuật cũng phải dũng cảm nêu ra những vấn đề của đời sống, của xã hội. Lịch sử phán xét những vấn đề anh nêu ra là đúng hay sai.
Nếu là sai thì phải sửa.
Một cái khó nữa mà tôi có cảm giác là khi có chính quyền rồi bất tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì có tư tưởng cho rằng mọi việc đều tốt đẹp cả. Vì vậy, trong sáng tác thường thiên về hướng ca ngợi một chiều, "tô hồng". Người ta dễ chấp nhận lối viết "tô hồng". Ai viết về người không tốt, việc không tốt thường bị mang tiếng là "bôi đen". Theo tôi, trong lĩnh vực của các đồng chí ngoài việc thể hiện những người tốt, việc tốt thì cũng phải nêu lên, phải vẽ ra những con người xấu, việc xấu để mọi người khinh ghét, tránh xa những cái xấu, làm như vậy không phải để lên án chế độ mà để chống lại những con người, những sự việc làm trái với lý tường cao đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Bệnh quan liêu, ức hiếp quần chúng, thói ăn cắp của công, đầu cơ tích trữ, ăn bám, sống phè phỡn trên lưng những người lao động chân tay và trí óc, những hủ tục như mê tín, dị đoan, sự suy đồi thoái hóa về đạo đức v.v... cần được ngòi bút của các đồng chí mô tả sắc sảo và lên án mạnh mẽ. Phải làm sao cho toàn xã hội căm ghét cái xấu, đẩy lùi và tránh xa cái xấu. Bên cạnh công việc này, các đồng chí cũng cần chú ý xây dựng trong tác phẩm của mình những hình tượng chân thật, truyền cảm có sức thuyết phục cao về những người lao động chân chính đang lao động chân tay và trí óc quên mình, dũng cảm, vượt qua mọi thiếu thốn, khó khăn, vượt qua sự cám dỗ ma quỷ để xây dựng xã hội và bảo vệ Tổ Quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã đề ra.
Đảng ta là Đảng cầm quyền. Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng là phải dựa vào dân, "lấy dân làm gốc". Khi chưa có chính quyền, Đảng ta đã bám vào quần chúng, sống nhờ vào quần chúng. Nhưng khi nắm được chính quyền rồi, dễ sa vào khuyết điểm bỏ rơi quần chúng, ức hiếp quần chúng, ăn cắp của quần chúng: dễ phát sinh ra bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong lãnh đạo kinh tế và tư tưởng. Những khuyết điểm này cần phải bị phê phán và lên án sâu sắc. Sáng tác tác phẩm đụng chạm đến "nhà" quan liêu mệnh lệnh nào đó đương chức, đương quyền là điều khó nhưng phải dũng cảm bằng cách này, cách khác mà viết. Có khi phải mượn chuyện đời xưa để nói làm cho ai có tật giật mình, phải thấy nhột. Trước đây có những tác phẩm vì thế mà bị sổ toẹt. Tác giả phải hứng chịu nhiều sự phiền toái, thậm chí lao đao. Nhưng có phải vì thế mà ta phải uốn cong ngòi bút cho "hợp khẩu vị" những con người xấu ấy không? Tôi cho rằng nếu phải làm như vậy thì người nghệ sĩ bị mất hết chất cách mạng rồi! Phải đứng vững trong trường phái tả chân xã hội chủ nghĩa. Cũng có những người tự xưng là ở trường phái tả chân xã hội chủ nghĩa nhưng họ không dám viết sự thật, không dám lên án phê phán cái xấu để xây dựng con người mới. Là những văn nghệ sĩ chân chính, các đồng chí phải giữ gìn sự trung thực của ngòi bút, giữ gìn tư duy trong sáng của mình.
Tôi không phải là một nhà chuyên môn về văn học nghệ thuật nên không thể bàn sâu vào những vấn đề trong lĩnh vực của các đồng chí. Tôi chỉ là một người yêu thích văn học nghệ thuật. Tôi rất đồng ý rằng người chiến sĩ văn nghệ cần có con dao thật sắc để gọt sửa những cái xấu, và còn cần phải có chất "gây men" để hình thành những cái mới trong đời sống xã hội. Người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường để phát hiện những cái mới mẻ. Như vậy, văn học nghệ thuật mới đóng được vai trò đi trước (devancer) trong đời sống tinh thần của đời sống xã hội. Trong cuộc gặp gỡ này, nhiều đồng chí đã nói về tính dự báo của văn học nghệ thuật. Bằng sự nhạy cảm của mình, thông qua tác phẩm, văn nghệ sĩ tiên đoán về những điều tốt hoặc xấu sẽ xảy đến, về cái cũ sẽ tàn lụi, dù cho hôm nay nó còn đầy sức mạnh, về cái mới sẽ nây sinh mạnh mẽ dù cho hôm nay nó mang một dáng vẻ mơ hồ. Sự dự báo ấy là rất cần thiết.
Các đồng chí là những kỹ sư tâm hồn, phải góp phần xây dựng con người mới từ những con người cũ còn mang nhiều thiếu sót, thậm chí còn mang nhiều cái xấu. Đừng rơi vào khuynh hướng duy tâm, duy ý chí mô tả con người mới luôn luôn toàn vẹn như ông Thánh. Phải thấy rõ cả nhược điểm mới xây dựng được con người mới. Tả chân xã hội chủ nghĩa nếu không làm cho con người hướng về tương lai tốt đẹp với một niềm tin lớn để vượt qua những khó khăn trong hiện tại thì không đúng với lòng mong muốn của chúng ta. Công chúng khi thưởng thức tác phẩm của chúng ta không thể chỉ thấy tối sầm mà phải thấy được ánh sáng để nhảy qua bóng tối.
Qua phát biểu của các đồng chí, tôi thấy các đồng chí đã có đầy đủ các quan điểm tôi vừa nói trên rồi. Nhưng các đồng chí còn sợ những "bóng ma". Với sự đổi mới từ Đại hội VI, Nghị quyết của Đại hội đã "mở cửa" cho các đồng chí. Tuy "mở cửa" rồi nhưng không phải từ nay mọi sự đều dễ dàng. Không phải chúng ta đang đi trên con đường nhựa bằng phẳng mà là con đường còn khúc khuỷu, gập ghềnh. Tôi không phải là nhà văn nghệ, nhà báo nhưng "ngứa ngáy" quá nên vừa rồi mới viết "Những việc cần làm ngay". Nhiều người hoan nghênh, hưởng ứng nhưng không phải không có những người cho rằng: "Sao lại bôi đen chế độ", không khéo đây là một kiểu phát động "cách mạng văn hóa" v.v... Tôi nghĩ cần phải đẩy lùi bóng tối như làm ruộng phải nhổ cỏ cho lúa có sức mọc lên. Người tốt, việc tốt sẽ nảy nở nếu đẩy lùi được người xấu, việc xấu cái khó bây giờ là dám nêu ra cái xấu. Chính vì thế mà tôi thông cảm với các đồng chí.
Cuối cùng, tôi xin nhắc lại: cửa Đại hội VI đã mở ra cho các đồng chí. Rồi đây, căn cứ vào đề cương dự thảo của Ban Văn hóa văn nghệ, Bộ Chính trị và Ban bí thư sẽ thảo ra Nghị quyết về văn hóa văn nghệ.
Ta có câu: "Có thực mới vực được đạo". Tôi thấy cần giải quyết những vấn đề thuộc về đời sống, về quản lý để ngành của các đồng chí tiến lên.
Chúng ta tin chắc rằng sắp tới Đảng và Nhà nước sẽ có thêm những chủ trương đúng đắn, thích hợp đối với ngành của chúng ta. Tôi tin rằng những sợi dây ràng buộc sẽ được cắt đi sẽ làm cho ngành chúng ta như con chim được tung cánh bay lên mây xanh. Văn học nghệ thuật nước nhà sẽ đạt thêm nhiều thành tựu phong phú và tốt đẹp. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, kiên trì, dũng cảm trong công tác. Tôi mong được hưởng những tác phẩm hay của các đồng chí sát hợp với giai đoạn mới của cách mạng nước ta."
Cuộc gặp giữa đồng chí Tổng bí thư với anh chị em văn nghệ sĩ và một số nhà hoạt động văn hóa có thể nói là đỉnh cao của một phong trào sôi nổi của giới văn hóa nghệ thuật kéo dài gần một năm trời nhằm góp ý với Đảng về công cuộc đổi mới trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Người lãnh đạo cao nhất của Đảng đã lắng nghe và thấu hiểu những vấn đề căn bản nhất, nóng bỏng nhất của tình hình văn nghệ nước nhà. Trực tiếp nghe tiếng nói tâm huyết của anh chị em, đồng chí Tổng bí thư càng thấy rõ cần phải nhanh chóng triệu tập cuộc họp Bộ chính trị để có nghị quyết càng sớm càng tốt. Đây chính là đòi hỏi của cuộc sống ngày sau cuộc gặp của Tổng bí thư, Hội nghị Bộ chính trị trung ương Đảng khóa VI đã họp để thông qua dự thảo Nghị quyết về Văn hóa Văn nghệ. Dự họp ngoài các thành viên Bộ chính trị, cả ba đồng chí cố vấn Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đều có mặt đầy đủ Trước đó, chúng tôi đã gửi toàn văn bản dự thảo Nghị quyết đến từng đồng chí. Điều không ngờ là Nghị quyết được thông qua rất nhanh, hầu như không có tranh luận gì. Có lẽ vì nó đã quá chín mùi, không thể để chậm hơn nữa. Hai là, vì công tác chuẩn bị được tiến hành kỹ càng, chu đáo, có tiếng vang gần suốt nửa năm trời. Cơ quan của Đảng, từ Văn phòng, tổ chức, tuyên huấn đến Ban bí thư đều ít nhiều có tham gia vào sự kiện này, một sự kiện mà vào giai đoạn cuối, đích danh Tổng bí thư đứng ra điều hành, chỉ đạo.
Tuy nhiên, là một thành viên dự họp, tôi quan sát thấy có số hiện tượng hơi khó hiểu. Đó là anh Trường Chinh hình như có một vấn đề nào đó chưa thật thỏa mãn. Anh phát biểu một cách chừng mực, không có cái nhiệt tình như trong những buổi trao đổi riêng với tôi ở Hồ Tây. Anh Phạm Văn Đồng cũng gần giống như thế. Chỉ có những ý nào giữ vững nguyên tắc như tự do sáng tác phải gắn chặt với nhiệm vụ chính trị thì anh rất tán thường. Còn những ý mới mẻ như tiếng nói của văn nghệ sĩ là tiếng nói của lương tri, là tiếng nói của sự thật, thì anh có vẻ miễn cưỡng chấp nhận. Riêng anh Lê Đức Thọ thì phát biểu rất nồng nhiệt, ủng hộ hoàn toàn những quan điểm chủ yếu của nghị quyết. Khi tan họp bước ra sân, anh Thọ còn ôm lấy cổ tôi và nói:
- Nghị quyết hay lắm. Mày làm tốt lắm.
Nghị quyết đã được nhất trí hoàn toàn. Có lẽ đây là một trong những hạnh phúc lớn nhất của đời tôi.
Toàn văn Nghị quyết 05 do đồng chí Tổng bí thư ký ngày 28/11/1987 như sau:
"Từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất từ sau cách mạng tháng Tám thành công, văn hóa, văn nghệ Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Văn hóa văn nghệ đã phát triển mạnh mẽ. Các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa trở thành những chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn hóa, văn nghệ, sáng tạo được nhiều tác phẩm có giá trị, có sức động viên cổ vũ to lớn đối với nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Văn học nghệ thuật nước ta "xứng đáng" đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay".
Sau thắng lợi vĩ đại năm 1975, cách mạng nước ta bước vào một thời kỳ mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, giành độc lập và thống nhất đất nước, nhân dân ta phải tập trung sức khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trong lúc phải tiếp tục cuộc chiến đấu gian khổ để bảo vệ Tổ quốc.
Trong hoàn cảnh mới, có nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều khó khăn, thử thách, hoạt động văn hóa, văn nghệ mười hai năm qua đã thu được nhiều thành tựu và những kinh nghiệm quý, đồng thời cũng bộc lộ không ít nhược điểm, khuyết điểm.
Chúng ta đã nhanh chóng xóa bỏ các tổ chức, thể chế phản động của chế độ cũ trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, đấu tranh chống âm mưu và hành động phá hoại của địch, chống những quan điểm, khuynh hướng, tàn dư của văn hóa, văn nghệ phản động và đồi trụy, xây dựng và phát triển rộng khắp nền văn hóa, văn nghệ cách mạng thảo đường lối, quan điểm của Đảng.
Chúng ta đã triển khai một cách đồng bộ và cân đối hơn công tác văn hóa, văn nghệ (cả chuyên nghiệp và nghiệp dư, cả ở Trung ương và địa phương), từng bước mở rộng, đa dạng hóa các hoạt động, đáp ứng một phần nhu cầu văn hóa, văn nghệ ngày càng cao và phong phú của các tầng lớp nhân dân, các lứa tuổi. Đã xuất hiện một số tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng tốt, đề cập một cách chân thật và mạnh dạn những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống hiện nay, thu hút được sự chú ý của dân chúng.
Đáng lưu ý là trong tình hình kinh tế - xã hội chưa ổn định, có nhiều khó khăn, phức tạp, những nhà hoạt động văn hóa văn nghệ có tâm huyết, mẫn cảm đã cùng với Đảng và nhân dân kiên trì tháo gỡ khó khăn, cố gắng nhận thức ngày càng sâu hơn nội dung và ý nghĩa những chuyển động lớn đang diễn ra ở nước ta cả về chính trị và kinh tế, xã hội và văn hóa, đạo đức và tâm lý, tư duy và sinh hoạt, gắn với những vấn đề chung của chủ nghĩa xã hội và của thế giới trong thời đại ngày nay, không ngừng tìm tòi, phát hiện những khả năng mới trong sự nghiệp cách mạng để tiến lên, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của nhân dân ta.
Chúng ta chưa thể bằng lòng với những việc đã làm được. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, cần nhận rõ chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn hóa, văn nghệ nói chung còn thấp, tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị còn ít, tiềm năng sáng tạo chưa được phát huy đầy đủ, bệnh phô trương hình thức, công thức, sơ lược còn nặng. Nhiều hiện tượng tiêu cực như chạy theo tiền và tình trạng hỗn loạn kéo dài về dùng băng ghi hình có nội dung xấu chưa được ngăn chập kịp thời. Cuộc đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa phản động, đồi trụy chưa tốt. Những thành tựu và những thiếu sót nói trên gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, công tác quản lý, công tác xây dựng đội ngũ và cả những nhận thức lý luận trong điều kiện mới.
Đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ nước ta sau năm 1975 được bổ sung thêm nhiều lực lượng trẻ có triển vọng là một đội ngũ đáng tin cậy, phần lớn được rèn luyện và thử thách trong đấu tranh cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Trước những khó khăn gay gắt về đời sống, đại bộ phận anh chị em cố gắng giữ gìn phẩm chất, kiên định quan điếm sáng tạo và hoạt động phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Tuy nhiên, một bộ phận chưa tích cực phấn đấu tu dưỡng, nâng cao trình dộ chính trị, nghệ thuật, chưa đi sâu vào thực tế, chưa đủ bản lĩnh vượt qua khó khăn, ràng buộc để sáng tác tốt hơn; một số người giảm sút ý chí chiến đấu, sống buông thả, chạy theo các khuynh hướng không lành mạnh trong hoạt động văn học, nghệ thuật.
Đảng ta luôn coi trọng vai trò của văn hóa, văn nghệ đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong lãnh đạo công tác này. Nghị quyết các đại hội lần thứ IV, V, VI của Đảng đã đề ra những chủ trương, nhiệm vụ dúng đắn để chỉ đạo hoạt động văn hóa, văn nghệ. Dựa vào các nghị quyết đó Bộ chính trị và Ban bí thư thường xuyên chỉ đạo công tác văn hóa, văn nghệ, nhưng có khuyết điểm là trong nhiều năm, chưa có lần nào bàn kỹ và ra nghị quyết về văn hóa, văn nghệ, chưa chú ý cải tiến phương thức lãnh đạo văn hóa, văn nghệ cho phù hợp với tình hình mới. Nhiều cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo và ít được bồi dưỡng kiến thức về lĩnh vực quan trọng nhưng phức tạp này. Công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa, văn nghệ có nhiều biểu hiện giản đơn, thô thiển, thiếu dân chủ. Cơ chế và chính sách quản lý, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý sự nghiệp văn hóa văn nghệ có trình độ ngang tầm với nhiệm vụ chưa được coi trọng cũng là nguyên nhân quan trọng hạn chế việc phát huy tiềm năng sáng tạo trong văn hóa, văn nghệ.

II
Văn hóa là nhu cầu cần thiết trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người.
Văn hóa Việt Nam kết tinh tâm hồn, trí tuệ, tài năng và đạo đức làm người của nhân dân ta, là sức mạnh tinh thần của dân tộc ta trong lịch sử hàng nghìn năm giữ nước và dựng nước.
Hiện nay, văn hóa là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn hóa và văn học, nghệ thuật có tác dụng to lớn trong việc góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, có chức năng bồi dưỡng đạo đức, tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người, thỏa mãn những nhu cầu văn hóa ngày càng tăng của nhân dân. Giai đoạn mới của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện hiện nay đòi hỏi văn hóa, văn nghệ nước ta phải vươn lên đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các nền văn học ngày càng mở rộng, văn hóa, văn nghệ nước ta càng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm.
Với tinh thần cách mạng và khoa học, cần nhận thức rõ sự đa dạng, phức tạp và xu thế phát triển của tình hình trong thế giới ngày nay để giải quyết một cách đúng đắn các vấn đề dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại, tư tưởng và học thuật, trước mắt và lâu dài trong công tác văn hóa, văn nghệ. Chú trọng phát huy bản sắc của nền văn hóa dân tộc và xây dựng bản lĩnh của con người mới Việt Nam để có thể tiếp thu những yếu tố văn hóa tốt đẹp từ bên ngoài vào và chủ động, vững vàng trước mọi thử thách.
Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc. Nó kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp như tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đồng thời có ý thức tự bồi đắp thêm những phẩm chất đã có tiền đề trong lịch sử và đang hình thành trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta như ý thức dân chủ, tinh thần quốc tế và tinh thần khoa học. Cần kết hợp hài hòa và nâng cao tinh hoa văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước ta, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật hiện đại của thế giới. Có như thế văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới phát triển rực rỡ và đóng góp xứng đáng vào nền văn hóa chung của nhân loại.
Văn học, nghệ thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mỹ có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Văn học, nghệ thuật góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh để mở rộng và làm sâu sắc thêm quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống đất nước, cổ vũ nhiệt tình cho công cuộc đổi mới, tích cực tham gia giải quyết việc giải phóng những tiềm năng của đất nước, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế, xã hội do Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đề ra.
Văn học, nghệ thuật phải không ngừng nâng cao tính đảng và tính nhân dân, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phát huy chức năng hiểu biết, khám phá, dự báo, sáng tạo, nắm bắt nhạy bén hiện thực đang diễn biến, phát hiện và biểu dương cái mới, khẳng định những mầm non đang nảy sinh trong cuộc sống, phê phán không khoan nhượng những hiện tượng tiêu cực, bảo thủ, trì trệ, tạo nên những điển hình sống động về những con người mới trung thực, dũng cảm, năng động, sáng tạo trong chiến đấu và xây dựng, những chiến sĩ của công cuộc đổi mới, xây dựng được những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, tác động sâu sắc đến việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân, góp phần làm cho đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng lành mạnh và phong phú. Tiếng nói của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là tiếng nói đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của sự thật, của lương tri, của tinh thần nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, phản ánh được nguyện vọng sâu xa của nhân dân và quyết tâm của Đảng đưa công cuộc đổi mới đến thắng lợi.
Để văn hóa, văn nghệ có thể làm tròn được chức năng cao cả của mình, các nhà hoạt động văn học và nghệ thuật phải là những chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn hóa, văn nghệ, chăm lo bồi dưỡng thế giới quan Mác- Lênin và nhân sinh quan cách mạng, đề cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân, xây dựng tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, đoàn kết với nhau chân thành, sâu sắc, tôn trọng tài năng và sự cống hiến của nhau, lên án và khắc phục những biểu hiện cơ hội, bè phái, lối sống buông thả, đi sâu vào cuộc sống, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và nghề nghiệp, mạnh dạn đổi mới trong tư duy và hoạt động sáng tạo.

III
Khai thác mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo là tư tưởng chỉ đạo bao trùm để phát triển văn hóa, văn nghệ hiện nay. Đây là công việc của các cơ quan lãnh đạo. quản lý, của công chúng và của bản thân văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, liên quan đến cả quan điểm, lý luận và công tác tổ chức thực hiện được thể hiện trong các chính sách, biện pháp lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa. Tinh thần chung của các chính sách, biện pháp là phải bảo đảm những điều kiện để văn hóa, văn nghệ làm tốt vai trò xã hội với chức năng cao cả của nó. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản của Đảng là coi trọng con người, coi con người là động lực quan trọng nhất và là mục tiêu phục vụ và xây dựng cao nhất của mọi hoạt động kinh tế, xã hội.
Phải xem việc đầu tư cho sự nghiệp văn hóa để phục vụ con người, xây dựng con người mới. -con người xã hội chủ nghĩa- theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một sự đầu tư không chỉ nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách, trước mắt, mà còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài nhằm thỏa mãn một cách hợp lý nhu cầu văn hóa của nhân dân mang lại niềm vui và hạnh phúc cho từng người, và để tích lũy "vốn quý nhất" cho xã hội. Cần quan niệm lại cấu kết kế hoạch Nhà nước và ngân sách "thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" (Báo cáo chính trị Đại hội VI của Đảng).
Sớm ban hành các chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức văn hóa, văn nghệ khai thác các tiềm năng về kinh tế, tài chính trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tạo được những vốn tự có để có thêm điều kiện phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ. Tiến tới thành lập quĩ văn hóa Việt Nam theo hướng huy động mọi lực lượng, mọi khả năng cả ở trong và ngoài nước. Các tổ chức văn hóa, văn nghệ được quyền tự chủ xây dựng quỹ, vốn và sử dụng quỹ, vốn đó trong hoạt động của mình. Ngoài sự tài trợ thích đáng của Nhà nước về vật tư, kinh phí, các hội ở trung ương cũng như các hội ở địa phương có quyền lập quỹ, phát triển quỹ bằng những hoạt động nghề nghiệp, được hường chính sách ưu đãi về kinh tế tài chính để tự trang trải các kinh phí hoạt động, bảo đảm và cải thiện điều kiện sáng tạo và đời sống của các hội viên, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển văn hóa nghệ thuật của đất nước. Các chính sách kinh tế, tài chính này phải phù hợp với từng ngành, từng loại hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Bảo đảm các điều kiện tinh thần, cố gắng tạo điều kiện thuận lợi về vật chất cho các nhà hoạt động văn học và nghệ thuật yên tâm, phấn khởi làm việc. "Cải tiến chính sách đối với người làm công tác nghệ thuật chuyên nghiệp, đãi ngộ xứng đáng lao động nghệ thuật, động viên sáng tạo khuyến khích tài năng" (Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng).
Thực hiện đầy đủ quyền tác giả, khẩn trương nghiên cứu để sớm ban hành các chế độ thù lao nghệ thuật, bảo đảm cho nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống và tiếp tục sáng tạo chủ yếu bằng nhuận bút. Chế độ thù lao phải đặc biệt tính đến giá trị chất lượng các tác phẩm.
Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng. Trong lịch sử Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được độc lập, tự do và đã mang lại quyền tự do sáng tác chân chính cho văn nghệ sĩ. Bản chất quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình), và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình. Đảng và Nhà nước khuyến khích thảo luận, tranh luận công khai để tìm ra chân lý. Cần tạo một không khí hồ hởi trong sáng tác, khêu gợi nhiều cảm hứng sáng tạo cao đẹp trong các văn nghệ sĩ.
Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo và rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện. Tự do sáng tác đi đôi với tự do phê bình. Người sáng tác và người phê bình phải làm chủ ngòi bút của mình, không ngừng rèn luyện bản lĩnh, nâng cao trình độ, chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân về công việc của mình.
Nâng cao tính lý luận, trình độ khoa học, trình độ thẩm mỹ, hiểu biết thực tế sáng tác và thực tế cuộc sống sâu sắc hơn nữa trong công tác phê bình văn học nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu, phê bình cần lắng nghe và coi trọng dư luận của quần chúng rộng rãi. Phê bình phải khách quan, trong sáng, nghiêm túc và có tính chiến đấu cao, khắc phục thói nể nang hoặc thô bạo, lối phê bình một chiều, hời hợt, hình thức, sách vở.
Đảng và Nhà nước coi trọng cả hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp, phong trào văn nghệ quần chúng và hoạt động văn nghệ nghiệp dư. Các cơ quan văn hóa, văn nghệ cần nhận thức rõ vị trí, mục tiêu phương thức hoạt động thích hợp của mỗi loại hình, tránh tình trạng chuyên nghiệp hóa văn nghệ quần chúng và văn nghệ nghiệp dư, cũng như hạ thấp yêu cầu đối với văn nghệ chuyên nghiệp; hết sức tạo điều kiện để văn nghệ chuyên nghiệp đạt được những đỉnh cao về nghệ thuật.
Phải coi các di tích lịch sử, các tác phẩm, công trình văn hóa, nghệ thuật, các tài năng và danh nhân là tài sản quý của quốc gia; có những chủ trương và biện pháp có hiệu lực bảo tồn lâu dài các di tích lịch sử và các giá trị văn hóa để giáo dục nhân dân về lòng yêu nước và tự hào dân tộc, về truyền thống lịch sử và văn hóa, tạo điều kiện cho nhiều thế hệ có thể thưởng thức, tiếp thu, nghiên cứu các giá trị văn hóa cổ truyền, tiếp tục sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới thể hiện được tầm cao của thời đại và chiều sâu của truyền thống, vừa dân tộc, vừa hiện đại. Đấu tranh chống xu hướng nệ cổ, bảo thủ và cả xu hướng mất gốc, hư vô chủ nghĩa.
Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đưa Văn hóa Văn nghệ đến các vùng kinh tế mới, vùng căn cứ cách mạng cũ, vùng dân tộc thiểu số và các vùng xa xôi, hẻo lánh, quan tâm các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi khác nhau. Xây dựng và củng cố các nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, nhà bảo tàng, công viên văn hóa... nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn hóa quần chúng, đưa việc xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa mới thành công việc của toàn xã hội, tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc khoa học và căn cứ thực tiễn được nghiên cứu và tổng kết chu đáo.
Kiên quyết đấu tranh chống những tàn dư văn hóa phong kiến, thực dân, tư sản. Ngăn chặn khuynh hướng thương mại trong hoạt động văn hóa văn nghệ, đấu tranh với các loại văn nghệ dâm ô, khích động tội ác. Làm thất bại âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch và phản động hòng biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa đọa. Bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục.
Phát triển quan hệ quốc tế về văn hóa nhằm tăng cường hiểu biết và làm phong phú lẫn nhau giữa các nền văn hóa, tạo điều kiện cho văn hóa, văn nghệ nước ta có điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Hợp tác toàn diện về văn hóa, văn nghệ với Liên Xô, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, mở rộng sự giao lưu văn hóa mật thiết với ân Độ và các nước khu vực Đông Nam á, mở rộng sự giao lưu văn hóa với các nước đang phát triển và các nước phương Tây, làm cho nhân dân ta được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa của Việt Nam trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, thông qua các mối quan hệ nhà nước, các tổ chức văn hóa, văn nghệ nước ta cần quan tâm hơn nữa đến sinh hoạt quốc tế, tham gia tích cực hơn vào cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình vì quyền lợi của dân tộc, của nhân dân lao động và cuộc sống của loài người.

IV
Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ là yếu tố có ý nghĩa quyết định để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ một cách thuận lợi.
Thông qua nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn, cần khẩn trương nâng cao nhận thức lý luận về văn hóa, văn nghệ, hoàn thiện và cụ thể đường lối xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng một cơ chế lãnh đạo và quản lý phù hợp. Lập các hội đồng nghệ thuật quốc gia, hội đồng nghệ thuật địa phương và hội đồng nghệ thuật cơ sở theo kiểu các hội đồng khoa học ở các ngành khoa học. Các hội đồng nghệ thuật do cấp ủy đảng và cấp chính quyền thành lập bao gồm những người có uy tín và am hiểu nhất về một ngành nghệ thuật hoặc một số ngành nghệ thuật gần nhau. Các hội đồng có nhiệm vụ và quyền hạn đầy đủ để quyết định những vấn đề nghệ thuật thuộc phạm vi xem xét của mình, và chịu trách nhiệm về những quyết định đó Trường hợp cần thiết, có thể thành lập các hội đồng tư vấn hội đồng lâm thời để giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý xử lý các vấn đề văn hóa, văn nghệ trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và những hiểu biết khoa học đáng tin cậy. Tổ chức tốt và tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho các hội đồng nghệ thuật là phương thức lãnh đạo rất quan trọng để nâng cao sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với văn hóa nghệ thuật, khắc phục và ngăn ngừa những hiện tượng cấp ủy đảng và chính quyền can thiệp thô bạo vào các vấn đề văn hóa, nghệ thuật, và từng cá nhân tùy tiện quyết định số phận một tác phẩm hoặc một tiết mục, trừ trường hợp những vấn đề nghệ thuật trở thành vấn đề chính trị có phương hại chung đến quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân.
Cải tiến phương thức lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ phải quán triệt quan điểm của Đảng đối với trí thức xã hội chủ nghĩa và phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, văn nghệ. "Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là đảm bảo quyền tự do sáng tạo, đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển. Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân" (Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VI của Đảng).
Trân trọng nhân cách, tài năng và sự độc đáo của văn nghệ sĩ, chu đáo, tế nhị, chân tình trong quan hệ, đối xử, có cách làm việc thích hợp với từng cá tính sáng tạo. Các nhà hoạt động văn học và nghệ thuật có tài năng, được nhân dân quý trọng và có uy tín quốc tế là vốn quý của đất nước, của nhân dân, là lực lượng chủ yếu để xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xứng đáng của dân tộc. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ văn hóa, văn nghệ, chú ý cán bộ lãnh đạo và quản lý, văn nghệ sĩ, cán bộ chuyên trách quan hệ quốc tế và văn hóa. Kết hợp nghiên cứu cơ bản và tổng kết thực tiễn, kết hợp nghiên cứu và đào tạo, bồi dưỡng.
Các trường đảng xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa và có chương trình giảng dạy cơ bản về văn hóa, văn nghệ. Các trường đại học và cao đẳng, các trường quản lý cần có môn văn hóa xã hội chủ nghĩa với chương trình phù hợp. Ban văn hóa văn nghệ Trung ương phối hợp với Học viện Nguyễn ái Quốc cùng các cơ quan, đơn vị nghiên cứu văn hóa, văn nghệ xây dựng chương trình và biên soạn giáo trình môn học này, có kế hoạch bồi dưỡng lý luận và đường lối văn hóa, văn nghệ cho cán bộ lãnh đạo chủ chết và cán bộ phụ trách văn hóa, văn nghệ các cấp.
Các ngành văn hóa, văn nghệ, giáo dục, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các ngành liên quan cần phối hợp chặt chẽ để đẩy mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hóa, nghệ thuật cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và học sinh trong các trường học.
Củng cố tổ chức đảng trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, xây dựng và kiện toàn các cơ quan chuyên môn làm tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo văn hóa, văn nghệ từ Trung ương đến địa phương.
Bộ văn hóa cần đổi mới tổ chức và cán bộ, phong cách công tác cho phù hợp với yêu cầu phát triển của văn hóa, văn nghệ, làm tròn chức năng một cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Đảng và Nhà nước coi trọng vai trò và vị trí chính trị, xã hội của các hội sáng tác, bảo đảm cho các hội sáng tác, với tính chất là những tổ chức xã hội nghề nghiệp độc lập hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cần kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội nhà văn Việt Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hội nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam, Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam và các hội văn nghệ ở địa phương. Xác định hệ thống, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các hội sáng tác chuyên ngành và các hội văn nghệ ở địa phương. Nói chung, ở địa phương nên tổ chức hội văn nghệ có tính chất tổng hợp, tùy trình độ phát triển của từng nơi mà có sự phân ngành hợp lý. Chi hội là đơn vị cơ sở có đông hội viên, có quan hệ tốt về tổ chức và hoạt động với hội ở Trung ương và Hội văn nghệ địa phương, bảo đảm tính thống nhất chung cả nước và bảo đảm điều kiện hoạt động thuận lợi ở các địa phương. về Nghị quyết của Bộ Chính Trị

ĐỔI MỚI, NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÃNH ĐẠO
(Bài trả lời phỏng vấn văn hóa - thể thao của Trần Độ)
Phóng viên:
Thưa đồng chí Trưởng ban, xin đồng chí cho biết vị trí, ý nghĩa của Nghị quyết của Bộ Chính trị về văn học nghệ thuật và văn hóa vừa được công bố.
Đồng chí Trần Độ:
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng luôn luôn phát triển, ngày một có hệ thống toàn diện và hoàn thiện hơn, thể hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng, các chỉ thị, Nghị quyết, các bức thư của Ban chấp hành Trung ương gửi đến Đại hội Văn nghệ. Gần 60 năm qua, các Nghị quyết về văn hóa, văn nghệ của các Đại hội của Ban chấp hành Trung ương, của Bộ chính trị phần lớn đều nằm trong các văn kiện chỉ đạo công tác văn hóa, văn nghệ. Nhưng nghị quyết này là Nghị quyết riêng đầu tiên của Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ..
Trong Nghị quyết chuyên đề này, Bộ chính trị có điều kiện tập trung xem xét đánh giá tình hình, định hướng cho hoạt động văn học nghệ thuật và văn hóa một cách cơ bản, toàn diện, sâu sắc và cụ thể.
Xác định một loạt quan điểm then chết của Đảng trên lĩnh vực tinh thần, về cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, về đường lối, về chính sách văn hóa, văn nghệ. Nghị quyết có giá trị đề ra phương hướng chỉ đạo chiến lược, lâu đài đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới theo tinh thần cách mạng, khoa học, chỉ dẫn những vấn đề cần kíp trong những năm trước mất nhằm giải phóng tiềm năng sáng tạo của văn học, nghệ thuật và văn hóa, đáp ứng những yêu cầu của xã hội, của nhân dân, lòng mong muốn nóng bỏng và sâu sắc của giới trí thức văn hóa văn nghệ. Nghị quyết ghi một cái mốc quan trọng về sự phát triển và hoàn thiện đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta, thể hiện, đầy đủ ý chí quyết tâm đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm của Đảng, của giới trí thức văn hóa, văn nghệ và nhân dân ta trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ dưới ánh sáng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
Nghị quyết là thành quả tổng kết kinh nghiệm về lãnh đạo văn hóa, văn nghệ của Đảng nhiều năm qua, biểu hiện bước trưởng thành về trình độ lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ -một lĩnh vực quan trọng, phức tạp và tế nhị.
Nỗ lực phấn đấu đưa Nghị quyết của Đảng vào đời sống chắc chắn những tiềm năng sáng tạo dồi dào, đa dạng của giới trí thức văn hóa văn nghệ và đồng bào ta sẽ được khơi dậy mạnh mẽ, đời sống văn hóa tinh thần sẽ được nâng cao, nền văn nghệ Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ được phát triển lên một bước mới.
Phóng viên:
Xin đồng chí cho biết sự đóng góp của giới trí thức văn hóa trong quá trình xây dựng Nghị quyết?
Đồng chí Trần Độ:
Một trong những công việc lớn mà Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương đã làm để chuẩn bị dự thảo Nghị quyết này của Bộ chính trị là thu hút trí tuệ của giới trí thức văn hóa, văn nghệ qua tổ chức mười cuộc hội thảo khoa học về các vấn đề văn hóa chung, các vấn đề văn học và nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hơn 200 nhà hoạt động văn hóa và văn nghệ sĩ tiêu biểu (có nhiều giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú), nhiều người quản lý chủ chốt, sáng tác, nghiên cứu lý luận, phê bình, giảng dạy có uy tín và kinh nghiệm đã hào hứng tham dự các cuộc Hội thảo. Một số người không có điều kiện tham dự Hội thảo đã viết ý kiến gởi đến Ban hoặc gặp gỡ các đồng chí có trách nhiệm để phát biểu. Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội VI, Ban khuyến khích những người tham dự Hội thảo nhìn thẳng vào sự thật, mạnh dạn, thẳng thắn nêu hết những suy nghĩ, kiến nghị của mình. Những người dự Hội thảo đã phát biểu ý kiến rất trung thực, xây dựng và tâm huyết, nêu lên những suy nghĩ nguyện vọng đã nảy sinh, nung nấu và tích tụ từ hàng chục năm nay.
Cán bộ chuyên viên Ban văn hóa văn nghệ Trung ương tổ chức thảo luận nhiều lần, tổng hợp "chưng cất" những ý kiến đó lại thành nội dung Dự thảo.
Sau khi có Dự thảo, Ban lại tổ chức trình bày trong một số đồng chí có trách nhiệm quản lý, một số nhà văn hóa và văn nghệ sĩ để các đồng chí góp ý kiến cho Dự thảo. Rồi lại thảo luận, rà soát sửa sang.
Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã gặp gỡ gần 100 nhà văn hóa, văn nghệ sĩ trực tiếp lắng nghe ý kiến phản ánh tình hình, ý kiến đề nghị, đề xuất với Đảng. Đồng chí Tổng bí thư, nhiều đồng chí có trách nhiệm lãnh đạo trung ương Đảng, các cơ quan Đảng đã lắng nghe ý kiến và tập hợp được nhiều ý kiến quan trọng của một bộ phận lớn giới trí thức văn hóa văn nghệ, cả những người là đảng viên cũng như những người chưa là đảng viên. Như vậy, giới trí thức văn hóa văn nghệ đã có đóng góp rất quan trọng xây dựng nên Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết là trí tuệ của Bộ chính trị, của Ban bí thư, của Đảng, đồng thời cũng là trí tuệ của đông đảo các nhà văn hóa văn nghệ sĩ trong cả nước.
Do thế mà Nghị quyết nâng cao được tính cách mạng và khoa học, đáp ứng được những điều mà anh chị em trong giới và đồng bào ta mong muốn chờ đợi.
Phóng viên:
Đề nghị đồng chí Trưởng ban cho biết những nét nổi bật của Nghị quyết.
Đồng chí Trần Độ:
Nét bao quát nhất của Nghị quyết là sự cụ thể hóa những tư tưởng của Đại hội VI. Đó là tư tưởng đổi mới, tư tưởng dân chủ hóa. Điểm nổi bật trước hết là những vấn đề lý luận nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng của văn học nghệ thuật và văn hóa.
Văn học nghệ thuật và văn hóa là nhu cầu cần thiết chủ yếu của đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần. Nó gắn bó với nhiệm vụ chính trị và giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con người mới, bồi dưỡng đạo đức, tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người, thỏa mãn những nhu cầu văn hóa ngày càng tăng của nhân dân.
Nghị quyết đã được đặt ra cho công tác văn hóa, văn nghệ cần giải quyết một cách đúng đắn những mối quan hệ dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại, tư tưởng và kỹ thuật, trước mắt và lâu dài...
Nét nổi bật thứ hai là những chính sách văn hóa (là chính sách đồng thời cũng là quan điểm) - Đó là hai loại chính sách lớn: chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách trong tự do sáng tạo.
Nét nổi bật thứ ba là vấn đề đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo và quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa với một loạt biện pháp tương đối cụ thể.
Tất cả những cái đó chứa đựng tư tưởng chủ đạo bao trùm là nhằm khai thác mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa đất nước ta phát triển lên một bước mới.
Phóng viên:
ý kiến của đồng chí Trưởng ban về vấn đề tổ chức thực hiện "Nghị quyết?"
Đồng chí Trần Độ:
Nghị quyết về văn học nghệ thuật và văn hóa của Bộ chính trị, cùng với việc xác định một loạt lý luận, quan điểm, và tư tưởng, đã nêu khá rõ một số chủ trương chính sách, biện pháp lớn nhưng lại tương đối cụ thể. Những chủ trương chính sách này là sự cụ thể hóa lý luận, quan điểm tư tưởng và là cơ sở khoa học, pháp lý, chính trị cho các cấp ủy Đảng, các cơ quan quản lý Nhà nước, dựa vào đó mà đề ra những quy định thể chế pháp luật bảo đảm thực hiện được quan điểm đường lối.
Xin nêu một ví dụ: Nghị quyết nêu lên một quan điểm lớn và rất quan trọng "Tự do sáng tác và điều kiện sống còn để tạo nên một giá trị đích thực trong văn hóa văn nghệ để phát triển tài năng". Tiếp đó, Nghị quyết nêu lên một chủ trương để bảo đảm thực hiện quan niệm lớn ấy: "Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình), không đồi trụy, (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền lưu hành và đặt dưới sự đánh giá phán xét của công luận và sự phê
Tuy cùng đứng trên quan điểm chủ trương trên đây, nhưng khi vận dụng xem xét vào những tác phẩm cụ thể lại có thể sẽ nảy sinh những quan niệm và sự đánh giá khác nhau. Tác phẩm như thế có người cho là đồi trụy, không được phép lưu hành, số người lại cho là không đồi trụy phải được phép lưu hành. Mà ý kiến của người có quyền lực kết luận là đồi trụy (nếu chưa phải là chân lý) thì sẽ gây tình.trạng khó khăn trong tự do sáng tác. Cho nên Nghị quyết nêu lên biện pháp tổ chức các hội đồng nghệ thuật bao gồm những người có uy tín và am hiểu nhất để đánh giá chính xác tác phẩm văn học nghệ thuật. Như vậy thì kết luận về tác phẩm có nhiều khả năng khách quan đúng đắn hơn, quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ được đảm bảo đúng như quan điểm lớn của Nghị quyết đã nêu ra.
Đương nhiên, Nghị quyết của Bộ chính trị không thể cụ thể hóa được tất cả các vấn đề, và cụ thể hóa đến chi tiết Công việc này Ban bí thư sẽ làm tiếp. Ban văn hóa, văn nghệ trung ương đã đặt chương trình cụ thể hóa các vấn đề lớn trong Nghị quyết thành 20 đề án có tính thể chế, báo cáo Ban bí thư để Ban bí thư ra chỉ thị. Các chỉ thị này sẽ có hướng dẫn thực hiện cho rõ hơn của Ban văn hóa, văn nghệ trung ương.
Đó chính là công việc không thể thiếu, cực kỳ cần thiết, tạo ra một điều kiện để đảm bảo thắng lợi việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Bộ chính trị, đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.
Việc đưa Nghị quyết này vào cuộc sống sẽ không đơn giản, không dễ dàng, cần phải thay đổi nhiều nếp nghĩ thô thiển đã hằn sâu từ lâu đời trong đầu óc nhiều người. Phải khắc phục một cách vất vả những sức mạnh của sự bảo thủ, trì trệ. Phải khắc phục những lệch lạc có thể xảy ra.
Phải xây dựng nhiều quan niệm mới trong cả các hoạt động sáng tạo và cả trong sự hưởng thụ, thưởng thức của công chúng rộng rãi. Phải xây dựng được nhiều thể chế mới hợp lý và đúng đắn. Nâng cao trình độ ở mọi mặt không phải là một việc làm đơn giản. Phải tính đến tất cả những điều đó. Đó là hàng loạt công việc nặng nề để thực hiện Nghị quyết này.
Phóng viên:
Với cương vị là một nhà văn, xin đồng chí cho biết một số cảm nghĩ của mình trước sự ra đời của Nghị quyết quan trọng này?
Đồng chí Trần Độ:
Cũng như nhiều anh chị em sáng tác nghiên cứu, lý luận phê bình, tôi đón chào Nghị quyết với một niềm tin, vui lớn, bởi vì Nghị quyết đã đem đến những cơ sở pháp lý đúng và tốt bảo đảm những điều kiện thuận lợi hơn về tinh thần và hứa hẹn sẽ tạo điều kiện thuận lợi về vật chất cho công việc của mình.
Đảng và Nhà nước đã khẳng định quyết tâm "đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa", để phát huy khả năng sáng tạo của các nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ thì đến lượt mình những nhà văn hóa, những văn nghệ sĩ cũng phải chăm lo tự đổi mới và nâng cao trình độ "trong công việc sáng tạo" để tự phát huy hết tiềm năng của mình, sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị, có chất lượng và hiệu quả cao, đem lại món ăn tinh thần vừa ngon, vừa bổ hơn cho nhân dân. Yêu cầu về sự rèn luyện bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm của văn nghệ sĩ ghi trong Nghị quyết là rất cần thiết, rất cao. Mỗi văn nghệ sĩ có một trách nhiệm lớn lao trước nhân dân và nhất thiết phải làm tròn. Nghề nhà văn của tôi là "nghề phụ nên cảm nghĩ cũng mới chỉ vậy. Xin mời nhà báo đến phỏng vấn những văn nghệ sĩ tiêu biểu hơn trong sáng tác.

 CHƯƠNG 4  HẬU NGHỊ QUYẾT 5
Văn nghệ sau nghị quyết 05 có lệch lạc không? Lại bàn về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ. Phê bình và cấm đoán. "Em đẹp dần trong mắt anh" và "Sự kiện công chúng bình thường". "Nghĩ về hạnh phúc của cuộc dời. Kiến nghị về "Bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc". Tôi là cầu thủ số 12... Một ngày với Tổng bí thư Lê Duẩn. Bản cương lĩnh 1000 từ.
Suy nghĩ mãi tôi mới quyết định đặt cho chương 4 của tập sách này cái tên "Hậu 05". Nó vừa hài hước, vừa dí dỏm lại vừa đúng với nghĩa đen: Những sự kiện xảy ra sau khi có Nghị quyết 05. Hài hước ở chỗ người ta vừa thông qua xong Nghị quyết, các cấp các ngành theo thông lệ đang tổ chức quán triệt nghị quyết, thậm chí có nơi nghị quyết chưa tới thì đã có những ý kiến (rất đáng buồn là có cả ý kiến của các cơ quan, các cá nhân có trách nhiệm) muốn phủ nhận những quan điểm cơ bản của Nghị quyết. Thậm chí có người còn dám đổ thừa: Sau Nghị quyết 05 văn nghệ có những biểu hiện lệch lạc.
Sự thật là như thế nào?
Sự thật là giới văn hóa văn nghệ hết sức tán thành "đổi mới" chờ đợi "đổi mới", coi "đổi mới" như một cái gì của chính bản thân mình. Chính vì nhận "đổi mới" là của mình, cho nên khi thấy xuất hiện những khó khăn thì nhiều anh chị em văn nghệ lo ngại, sợ phong trào "đổi mới" vừa khơi lên đã bị chặn lại. Do đó xuất hiện một tâm trạng e dè, ngần ngại, lan rộng trong anh em là một tình hình rất đáng quan tâm.
Ban Văn hóa Văn nghệ phải đi sâu để làm rõ thực chất vấn đề. Không cần khó khăn lắm cũng có thể nhận biết trong quá trình đổi mới xuất hiện không ít những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, gây nhiễu tình hình. Có một số ý kiến cho rằng dường như một số sai sót trong hoạt động văn nghệ vừa qua là sự cản trở "đổi mới", phá hoại "đổi mới". Tôi thấy cần nhấn mạnh và khẳng định: lực cản chính của phong trào "đổi mới", không phải là tranh "cóc bắn mạng nhện", là truyện ngắn "Phẩm tiết", càng không phải là báo "Văn nghệ"... Sự cản trở lớn đối với đổi mới chính là tư tưởng bảo thủ, trì trệ và chủ nghĩa cơ hội. Đánh giá những thành tựu của văn hóa, văn nghệ trong hai năm 1987, 1988, phải đặt trong khung cảnh "đổi mới" theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ.
Bình tĩnh xem xét một cách sòng phẳng và công tâm, ta nhận thấy phong trào văn nghệ đã xuất hiện nhiều hiện tượng mới rất đáng phấn khởi.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ đang trở về với đời sống đích thực của nó, nó đi vào cuộc sống bình thường, nó đi vào các tâm tư, số phận từng người, xúc động đến mọi người. Nhiều văn nghệ sĩ có ý thức sâu sắc đối với lương tri con người, đến đạo đức xã hội. Có điều đáng vui là nhân dân ta rất chờ đón văn nghệ, các đồng chí lãnh đạo cũng hết sức quan tâm đến văn nghệ. Khen hay chê cũng đều do quan tâm cả. Điều đó là đáng phấn khởi vì nó khác trạng thái văn nghệ bị thờ ơ trước đây. Đó là dấu hiệu nói lên văn nghệ gắn bó với xã hội và được xã hội đón nhận như người bạn tâm tình của mình. Đây là nhân tố để thúc đẩy văn nghệ tiến lên trên con đường đổi mới. Về mặt lý luận phê bình, văn nghệ cũng xuất hiện rõ xu thế dân chủ hóa, phê bình, lý luận cũng gắn bó với đời sống, với công chúng, và công chúng quan tâm hơn tới phê bình, lý luận. Có tranh luận, có đối thoại, không phải chỉ một chiều. Tuy trong từng bài có thể có vài chữ, vài câu ý kiến chưa chỉnh, nhưng nói chung cũng có khởi sắc Xuất hiện nhiều ý kiến mới mẻ trong khi lý giải các hiện tượng nghệ thuật. Đáng tiếc là cái đà này sớm bị chắn lại, để hiện tượng lý luận phê bình công thức và quy chụp lại bao trùm không khí văn nghệ.
Theo hướng ấy, hoạt động văn nghệ có tác động chung đến đời sống xã hội và như vậy là hoạt động văn nghệ góp phần tạo ra không khí dân chủ trong xã hội, có tác dụng thức tỉnh và nhắc nhở lương tri của xã hội. Đấy cũng là trách nhiệm của văn nghệ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI.
Đi sâu hơn, chúng ta thấy đã xuất hiện những hiện tượng mới mẻ: tác phẩm mới, tác giả mới, phong cách mới, ngôn ngữ mới, hoạt động mới sôi nổi. Ngoài Báo văn nghệ ở Trung ương, báo văn nghệ ở địa phương cũng có nhiều cái mới. Các nhà xuất bản cũng xuất bản nhiều tác phẩm mới, đành rằng chưa có tác phẩm kiệt xuất, nhưng rõ ràng văn nghệ có "ngôn ngữ mới", gọi "khởi sắc" là rất đúng. Đây là mặt chủ yếu trong đời sống văn hóa, văn nghệ, nét chủ yếu của diện mạo văn nghệ trong hai năm qua. Cần khẳng định và làm rõ hơn nữa nhận định này. Nhưng cũng có một cách nhận định khác, tuy là buộc phải thừa nhận vừa qua văn nghệ có khởi sắc, nhưng tiếp đó lại liệt kê các thứ khuyết điểm lệch lạc, tô đậm thêm, đầy những lệch lạc ấy đến mức nghiêm trọng "chết người" như là: bôi đen, kích động làm mất lòng tin, kêu gọi chống đối và nổi dậy, nghĩa là dùng một loạt khái niệm đã quen dùng trước đây để báo động văn nghệ đang phát triển "nguy hiểm". Nhận định như vậy là sai lạc hẳn diện mạo thực của văn nghệ và muốn trở lại như cũ. Hoạt động văn hóa văn nghệ có thiếu sót, đương nhiên, nhưng mặt chủ yếu là thành tựu, là có đổi mới, là văn nghệ tích cực thực hiện tinh thần Nghị quyết Đại hội VI.
Vậy văn nghệ có khuyết điểm lệch lạc không?
Có những thiếu sót và lệch lạc thật, nhưng cần phân tích cho rõ nhẽ. Điều đáng chú ý là, hiện nay đứng trước bất cứ hiện tượng nào mới xuất hiện cũng đều có ít nhất là hai cách đánh giá. Đó là sự phân cực ra hai loại ý kiến, xuất phát từ hai quan điểm đánh giá khác nhau. Ví dụ, có người nói: xem báo Văn nghệ ngày nay thì đám "nhân văn" xưa phải gọi bằng cụ. Đây cũng là một loại ý kiến cực đoan, theo họ, thì dường như mấy bài văn nghệ có thể gây nguy cơ cho đất nước. Hội đồng tư tưởng khi họp đã bác bỏ ý kiến này.
Đúng là trong văn nghệ, tức là nói trong sáng tác và lý luận, phê bình, thời gian qua có những khuyết điểm và lệch lạc. Nhưng cũng còn nhiều điều cần làm cho sáng rõ. Không thể hồ đồ lấy tất cả các ý kiến nhận xét những khuyết điểm và lệch lạc khác nhau cộng lại thì sẽ đi tới một bức tranh sổ toẹt tất cả những gì có trong văn nghệ thời gian qua. Và như thế không có gì là đổi mới, và tất cả dấu hiệu về sự đổi mới đều là hư hỏng hết. Thực chất đó là sự bóp méo và xuyên tạc sự thật. Vì vậy vẫn phải tiếp tục làm rõ cái gì là khuyết điểm và lệch lạc. Mọi người đều nói có khuyết điểm và lệch lạc. Nhưng một sự kiện, một tác phẩm, một chi tiết trong tác phẩm, có người cho là lệch lạc, có người cho là không, mà lại là một giá trị, có người khác lại cho là còn tiếp tục thảo luận. Vân cần lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm của tôi là cần tôn trọng những ý kiến của nhiều người, nhưng như nhiều đồng chí đã nói có khi ý kiến đông người chưa phải là chân lý. Có một số vấn đề cần tiếp tục làm cho sáng rõ. Chưa làm sáng rõ được là một khuyết điểm. Cần làm sáng rõ là làm sáng rõ thực chất vấn đề đó là gì. Bản chất của sự thảo luận vấn đề đó là cái gì.
Đó là vấn đề mối quan hệ chính trị - văn nghệ. Ngày nay không còn ai phân vân gì về mối quan hệ này. Ai cũng thừa nhận: chính trị là giường cột của đất nước, văn nghệ cũng như các lĩnh vực khác đều phải hoạt động phù hợp với đường lối chính trị của Đảng, đội ngũ tiên phong lãnh đạo đất nước đi lên. Trên báo có bàn về vấn đề này là cốt làm cho rõ thêm, sáng thêm thôi. Ngay đồng chí Nguyễn Đình Thi cũng đã nghĩ không nên nói "văn nghệ phục vụ chính trị" mà nói văn nghệ phục vụ cách mạng. Hoặc đồng chí Huy Du nói: "Không nên nói Đảng lãnh đạo văn nghệ, mà nói văn nghệ dưới sự lãnh đạo của Đảng để tránh những hiểu lầm không cần thiết". Bản chất vấn đề ở đây không phải là công nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa văn nghệ, mà tìm cách phân tích để chỉ rõ mối quan hệ chức năng giữa Đảng và văn nghệ mà thôi.
Cũng nên tránh lối đọc sách kiểu suy diễn như xem Ngô Thị Vinh Hoa là văn nghệ, còn Quang Trung và Nguyễn ánh là quyền lực, để đi tới chỗ quy kết là truyện "Phẩm tiết" nói "Quyền lực bị khuất phục trước văn nghệ". Câu chuyện này làm ta nhớ đến vụ án "Hắc mẫu đơn thi" đời vua Càn Long nhà Thanh. Càn Long là ông vua kém văn chương nhưng lại rất thích cho mọi người biết mình không những là đấng minh quân mà còn là người có tài thơ phú - Thẩm Đức Tiềm là một vị đại thần, vốn là một nhà thơ lớn đương thời, thường được Càn Long nhờ làm thơ hộ. Khi đã 80 tuổi, về hưu Thẩm Đức Tiềm vẫn được Càn Long nhờ làm thơ giúp để khoe với mọi người. Một lần Càn Long tuần du phương Nam, nhớ đến Thẩm Đức Tiềm liền ghé vào thăm nhà và viếng mộ viên Đại thần cũ. Tình cờ Càn Long tìm thấy một tập thơ của Thẩm Đức Tiềm, mở ra xem thấy còn nhiều bài thơ chưa công bố. Đặc biệt có những bài thơ Thẩm Đức Tiềm làm thay cho Càn Long trước đây cũng được chép trong tập thơ này, phía dưới còn chú thêm ba chữ "Đại đế tác" (làm thay vua). Xem xong Càn Long thẹn quá hóa giận, căm ghét Thẩm Đức Tiềm biết những bài thơ này của nhà vua đã in và phát hành mà vẫn ghi lại trong thi tập của mình, lại còn đề "làm thay vua".
Đang lúc căm giận trong lòng nhưng phải lặng yên, chưa tìm được cách xử trí, Càn Long thấy bài thơ "Hắc mẫu đơn thi" với hai câu:
"Đoạn chu phi chính sắc
Dị chủng diệc xưng vương".
Ngài bèn nổi giận đùng đùng quát lớn: "Tên đại nghịch bất đạo này giỏi thật. Hắn dám nói trẫm đã cướp ngôi Thiên tử của họ Chu lại còn chửi trẫm là dị chủng nữa". Từ xưa hoa mẫu đơn vẫn được coi là vua các loại hoa và có mầu đỏ. Hoa mẫu đơn mầu đen là đã bị mất đi màu đỏ, coi như là dị chủng. Nhưng Càn Long lại cho chữ Chu ở đây là chỉ nhà Minh vì thủy tổ triều Minh là Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ thì không phải là chính thống. Còn câu thứ hai chữ "dị chủng" đã ám chỉ nhà Thanh, coi khinh người Mãn Châu là giống man rợ.
Càn Long tức giận hạ chỉ quật mồ, phá bia của Thẩm Đức Tiềm, kéo xác chết ra khỏi quan tài. Con cháu họ Thẩm đều phải đày đến Hắc Long Giang để xung quân, chỉ giữ lại một đứa cháu nội 5 tuổi để nối dõi tông đường. Hiểu văn chương chữ nghĩa như vậy quả là nguy hiểm, nhất là thơ chữ Hán, một thứ chữ có nhiều ý nghĩa, phán theo nghĩa nào cũng được.
Chẳng riêng thơ chữ Hán, văn chương Việt ta ngày nay tuy đơn giản hơn nhưng qua sự suy diễn của một vài vị quan có chức, có quyền thì cũng có nhiều nghĩa không kém, đôi khi trở thành những nghĩa chết người. Bản thân tôi đã từng thấy không ít trường hợp chỉ căn cứ từ những câu những chữ, những hình vẽ, những nết nhạc nào đó trong tác phẩm để biến thành những cái gì đó có tính chất chống đối. Vì như cái vỏ bao thuốc lá Tam Thanh chẳng hạn, người ta vẽ cái cửa động hẳn hoi, việc rõ ràng là đơn giản thế, vậy mà cũng có người thì thầm là vẽ ông nọ, ông kia, ám chỉ thế này thế khác, thì có khổ cho người ta không. Tuy nhiên cũng có những tác giả tỏ ra sơ hở khi dùng ngôn từ, ví dụ nói: Bá quyền chính trị so với bá quyền văn nghệ, khiến người ta hiểu lầm có sự tranh chấp quyền lực ở đây. Đó là thiếu sót cần rút kinh nghiệm.
Vấn đề thứ hai là phủ định quá khứ
Không ai phủ định quá khứ cả. Tôi đã đọc kỹ các tác phẩm nhưng không hề thấy tác phẩm nào gợi lên ý này. Rõ ràng văn nghệ trong 40 năm qua đã được Đảng đánh giá cao với những giá trị không ai có thể chối cãi. Nhưng cũng rất rõ ràng là văn nghệ trong 40 năm qua cũng có chỗ yếu kém, cũng có nhược điểm khuyết điểm. Vậy xem lại những yếu kém và khuyết điểm là một việc cần thiết. Chỉ có sự phê bình, tự phê phán mới có thể có sự đổi mới. Tại sao lại có ý kiến báo động ầm ĩ lên rằng phủ định quá khứ, phủ định sạch trơn, phủ định văn nghệ để phủ định cách mạng, phủ định sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sự cố ý không đi vào thực chất của vấn đề, không phải là nhiệt huyết đòi đổi mới mà là một sự cố ý không tốt đẹp. Các nhà văn có những ý kiến xúc động, tự kiểm tra lại mình để đổi mới được mạnh hơn tốt hơn. Đó là những cảm xúc đáng hoan nghênh. Nó không hề mảy may có tác dụng phủ định bất cứ một cái gì. Tuy nhiên, ở đây cũng lại có sơ hở như anh Nguyễn Minh Châu viết: "Lời ai điếu cho thời kỳ văn nghệ minh họa". Tôi nói rõ là sơ hở về ngôn từ, chứ không phải chủ ý.
Tóm lại, hoạt động văn nghệ vừa qua có lệch lạc do quá trớn chứ không phải kích động chống lãnh đạo để làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Và cần nhấn mạnh lần nữa là: không phải có những lệch lạc trong văn nghệ đã cản trở "đổi mới", mà "bảo thủ, trì trệ và cơ hội chủ nghĩa" mới là lực cản "đổi mới" hiện thời. Vấn đề là có thực tâm thúc đẩy tiếp tục đổi mới hay không.
Tháng 12 năm 1988, trong một cuộc thảo luận nhân một năm ra đời nghị quyết 05, tôi đã phát biểu:
Một xã hội phải có kỷ cương, trật tự. Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống xã hội cũng phải có kỷ cương, trật tự. Dân chủ cũng phải có kỷ cương, trật tự. Nhưng lại phải nói thêm: đó là kỷ cương dân chủ chứ không phải kỷ cương thiếu dân chủ hay kỷ cương mất dân chủ. Chỉ có một kỷ cương dân chủ mới đảm bảo được kỷ cương chặt chẽ, mới có kỷ cương tự giác và bền vững. Điều này trùng hợp với những lý lẽ về "ý Đảng lòng dân". ý Đảng có hợp lòng dân, dân mới gần Đảng, nghe Đảng. Và nếu mọi ý Đảng đều thấy lòng dân trong đó thì dân mới tích cực thực hiện ý Đảng, mới có kỷ cương tốt đẹp. Cũng như dân chủ và sự tập trung, chỉ có một sự tập trung trên cơ sở dân chủ, sự tập trung ấy mới mạnh mẽ và hiệu quả và tự nhiên là sự dân chủ có tập trung. Không bao giờ nên tách ra và đối lập dân chủ và kỷ luật, dân chủ và tập trung.
Có người chỉ thích bất cứ ở đâu cũng có trạng thái yên ổn, êm ả, và coi như thế là tốt đẹp, là ổn định. Họ không thích bất cứ một sự bàn bạc có ý kiến khác nhau, bất cứ một sự bàn bạc có tranh cãi, bất cứ một sự chất vấn nào, một sự nói khác nào, nhất là đối với cấp dưới. Họ không chịu được bất cứ một sự "phạm thượng" nào. Họ khăng khăng cho rằng: đã là cấp trên thì bao giờ cũng đúng, bao giờ cũng phải (!). Đó không phải là trạng thái dân chủ. Có dân chủ mới có tự do và bình đẳng, và có bình đẳng mới có dân chủ.
Vì vậy muốn có tự do sáng tác phải có dân chủ và phải có sự dân chủ hóa sâu sắc và hoàn toàn.
Trước đó, để bảo đảm thực hiện chính sách tự do sáng tác, có lần tôi nêu van đề định hướng rộng. Sau đó có nhiều ý kiến bàn bạc, có ý kiến cho rằng đề ra "định hướng rộng" là một sai lầm, là vẽ đường cho hươu chạy, là khuyến khích những người viết và nói ba láp, là tạo ra những hậu quả lộn xộn v.v... Lại có ý kiến cho là chỉ nói định hướng rộng không thì không đủ, cần phân tích sâu hơn. Có thể trong sáng tác thì phải định hướng rộng, nhưng trong sự phổ biến truyền bá tác phẩm, trong điều hành hoạt động văn hóa văn nghệ phải có những xử lý cụ thể, nghĩa là cũng phải có định hướng hẹp nữa, định hướng cụ thể, thậm chí cho một hành vi, một sự việc phải kết hợp định hướng rộng và định hướng hẹp.
Tôi nghĩ ý kiến sau là ý kiến bổ sung đúng và hợp lý. Khi tôi nói định hướng là tôi muốn nói lên một tư tưởng, đó là tư tưởng của chính sách tự do sáng tác. Tư tưởng đó muốn nói lên lãnh đạo văn nghệ thì cần phải dành phạm vi rộng cho sự sáng tạo, dành chỗ rộng để phát huy sức tường tượng, để phát huy sự đa dạng về phong cách, và như vậy cũng là phù hợp với tư tưởng của Lênin. Lênin nói: "Không thể chối cãi rằng trong sự nghiệp này tuyệt đối cần phải đảm bảo một phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiên riêng, cho những thiên hướng cá nhân, cho suy nghĩ và tư tưởng, cho hình thức và nội dung". (Lênin "Tổ chức Đảng và văn học Đảng ") Định hướng rộng chưa phải là một ý kiến về thể lệ, quy định. Tôi vẫn cho rằng để thực hiện chính sách tự do sáng tác phải có tư tưởng "định hướng rộng". Khi ta nói "định hướng" là ta nói về sự lãnh đạo. Chúng ta đã chứng kiến, mỗi kỳ cách mạng, sự định hướng của Đảng vừa chỉ phương hướng, vừa khơi nguồn cho sức sáng tạo của văn nghệ. Và như vậy rõ ràng là văn nghệ không thể không có sự lãnh đạo của Đảng.
Tôi cho rằng có một vài sự lầm lẫn như sau: Có đồng chí quan niệm là Đảng lãnh đạo văn nghệ là Đảng phải luôn luôn có ý kiến chỉ dẫn, góp ý kiến với văn nghệ sĩ. Không luôn phát hiện sai lầm, khuyết điểm để lập tức có ý kiến "giúp đỡ" văn nghệ thì không phải là lãnh đạo văn nghệ. Có người cho rằng phát hiện càng nhiều vấn đề về quan điểm, chỉ ra cho hết "nguy cơ" của các quan điểm, thì càng có chính trị cao, càng có khả năng lãnh đạo sâu sắc và nhạy bén. Mà Đảng ở đây có khi là những đảng viên không hiểu hoặc hiểu rất ít về nghệ thuật nhưng lại buộc phải có ý kiến về bất cứ tác phẩm nào, thuộc loại hình nghệ thuật nào.
Trước đây đã có lúc tình trạng một cá nhân nào đó phát biểu ý kiến nào đó và cứ tự nhân danh đường lối của Đảng hoặc nhân danh Đảng. Tiếc thay có khi ý kiến đó không đúng mà cũng khó có người, có tổ chức Đảng dám đính chính lại.
Ngày nay trong không khí tự do dân chủ và công khai, những ý kiến "nhân danh Đảng" sẽ dễ dàng được công nhận của nhân dân kiểm tra. Điều này có thể hạn chế bớt những sự lạm dụng. Sự công khai có triển khai làm rõ trắng đen nhiều việc và ngăn ngừa được những người cơ hội hay lợi dụng "không khí bí mật" để truyền đạt những cái gọi là "tin tức nội bộ", "chỉ thị nội bộ" để hù dọa mọi người. cũng trong buổi nói chuyện này, tôi phát biểu cả vấn đề phê bình, cũng là vấn đề nổi cộm lên sau Nghị quyết 05. Khi tác phẩm ra đời, thì ai cũng có quyền thích hoặc không thích toàn bộ tác phẩm, thích hoặc không thích một vài đoạn, một vài bộ phận. Mà có ý kiến phê bình thì có quyền phát biểu trên báo chí, trong các cuộc hội thảo, thậm chí cả trong lúc "trà dư, tửu hậu, nhưng ai đó đừng nên nghĩ rằng ý kiến mình là "đúng nhất thế giới" và không chịu lắng nghe người có ý kiến khác mình. Không bao giờ nên cho là tác giả kém hơn mình và có động cơ xấu Nếu tác giả hoặc bất cứ ai có hành vi xấu, đã có cơ quan an ninh công an. Do đó phải có quan điểm của chính sách tự do sáng tác, nghĩa là phải chấp nhận sự phong phú, đa dạng trong văn nghệ. Phong phú đa dạng thì có sự khác nhau, thậm chí có khi nghịch nhau. Tuyệt đối không bao giờ nêu ý liến phê bình trở thành ý kiến cấm đoán, thậm chí trở thành chỉ thị cấm đoán. Ta đã từng có những trường hợp một tác phẩm nào đó chỉ vì có một đồng chí lãnh đạo quan trọng nào đó không thích và có vài ý kiến phân tích chê trách thế là lập tức tác phẩm đó không được tồn tại dưới ánh sáng mặt trời nữa. Muốn có tự do phê bình thì tác phẩm phải được tự do tiếp xúc với công chúng. Nếu không có tiếp xúc thì ai biết đâu mà phê bình! Không bao giờ nên có sự phê bình "bắc nồi chõ nghe hơi", tức là người không được đọc, không xem tác phẩm cũng cứ phê bình vì "nghe nói có vấn đề". Phê bình là một bộ phận của bản thân đời sống văn nghệ. Các nghệ sĩ và các đơn vị nghệ thuật, không bao giờ nên giận và ác cảm với các lời chê, khen khác nhau. Tất nhiên là phải có những trường hợp cấm đoán. Nhưng cấm là cấm những tác phẩm phạm luật. Sự cấm đoán đó phải có lý do buộc tội, có cáo trạng: tác phẩm phạm điều khoản nào của luật nào? Và tác giả hoặc nhóm tác giả có quyền bào chữa, trình bày. Sự cấm đoán phải được công khai, phải do cơ quan có chức năng pháp lý ra lệnh cấm. Lệnh cấm phải có văn bản và người ký văn bản phải chịu trách nhiệm về lệnh của mình trước công chúng và trước cả lịch sử. Khi lệnh bị chứng minh là sai, thì phải có sự sửa đổi. Thực hiện pháp luật là phải theo luật và lệ, thủ tục tố tụng. Vì luật còn phải ngăn ngừa và cấm đoán những hành vi phạm luật có hại cho xã hội, cho quyền công dân và quyền của nghệ sĩ.
Không bao giờ lầm lẫn giữa phê bình và luật pháp. Chỗ nào chưa có luật ta phải tích cực xây dựng luật. Trong khi chưa có luật, xin thử nêu mấy nguyên tắc:
- Cấm phải có lý do.
- Cấm phải có văn bản.
- Người cấm phải chịu trách nhiệm về lệnh cấm của mình bằng chữ ký.
- Lệnh cấm phải công khai, phải do các cơ quan có chức năng pháp lý thực hiện.
Ta thường thấy là trong văn hóa văn nghệ có cái công chúng thích thì một bộ phận lãnh đạo không thích, ngược lại một bộ phận lãnh đạo thích thì công chúng lại thờ ơ. Tất nhiên cũng đã có những tác phẩm được công nhận cả trong cán bộ lãnh đạo cũng như trong công chúng rộng rãi. Nhưng hình như những tác phẩm như vậy chưa có nhiều.
Có lẽ sự kiện đáng ghi nhớ nhất sau: Nghị quyết 05 là sự rạn nứt mối quan hệ giữa tôi và đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Có thể nói, trước Nghị quyết 05 mối quan hệ này ấm cúng bao nhiêu thì sau Nghị quyết giá lạnh bấy nhiêu. Đối với tôi đây là một điều đau xót, không chỉ trong việc chung mà cả tình cảm riêng tư.
Như các chương trên tôi đã nói, tình cảm giữa tôi với anh Nguyễn Văn Linh được xây đắp và gắn bó trong suốt mười năm ở chiến trường. Mười năm sau ngày giải phóng, hai chúng tôi lại cùng gặp nhau trên con đường đổi mới đất nước. Sự gặp nhau đó thực sự đã làm cho tôi vợi đi được một phần những phiền muộn sau Đại hội V của Đảng.
Đặc biệt, tình cảm giữa tôi và anh Linh càng gắn bó hơn trong quá trình chuẩn bị cho Nghị quyết 05. Có thể nói, ngoài những nguyên nhân khác thì hồi đó nếu không có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh "đỡ đầu, Nghị quyết 05 không thể ra đời một cách suôn sẻ như thế.
Hình ảnh Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sau Đại hội VI đối với văn nghệ sĩ và với cả toàn thể nhân dân ta sao mà đẹp thế. Chỉ riêng "Những việc cần làm ngay" anh đã để lại một dấu ấn sâu đậm không thể nào quên trong tình cảm biết bao nhiêu người. Đất nước như bước vào một thời kỳ mới sau hàng chục năm trời chìm trong không khí "im lặng đáng sợ".
Còn đối với nền văn hóa văn nghệ nước nhà thì chỉ riêng cuộc gặp gỡ với hơn 100 văn nghệ sĩ trong hai ngày 6 và 7/10/1987 thì Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh xứng đáng được suy tôn như một người anh hùng, ít nhất là trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Tôi không đại ngôn đâu, không cường điệu đâu và càng không phải là nịnh hót đâu, khi tôi viết những dòng này. Ngày 28 tháng 11 năm 1997 tới là kỷ niệm tròn mười năm Nghị quyết 05 lịch sử. Nhớ lại những ngày đó tôi vừa cảm thấy hạnh phúc, vừa cảm thấy mênh mông một nỗi buồn...
Rất tiếc là ngày đó tôi không nghĩ đến việc cho quay một cuốn phim thời sự để ghi lại những giây phút không thể nào quên khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đứng dậy rời chỗ ngồi bước đến đón nhận bản tham luận của nhà văn hóa nổi tiếng Nguyễn Khắc Viện, mặc dầu trong bản tham luận đó ông đã thẳng thắn nói lên những suy nghĩ của mình.
- Vì bị trói buộc, sự chỉ đạo trong lĩnh vực này thường là sơ khai, người ta dùng rìu khai phá đừng rú để làm vườn trên một thảm hoa. Các nhà báo, các văn nghệ sĩ đều được nhắc nhờ quan lại trật tự, kỷ cương: phải làm thế này, phải làm thế kia. Họ đã bị trói tay chân bởi vô số cấm đoán. Đôi lúc lại nổ ra một vụ việc: Một bài báo, một quyển sách, một bộ phim bị quy là "xét lại " "có tư tưởng chống Đảng", "mang tính lật đổ"... Nhưng nếu như mọi sự phạm tội đều có thời hạn thi hành án theo đó khi người ta ta khỏi nhà tù thì hết tội, còn những "bản án văn chương" này thì cứ treo lơ lửng trên đầu tù nhân, trở thành một thứ tội vĩnh viễn, đến nỗi còn chi phối tận đời con cháu họ..."
Với những lời lẽ như vậy mà khi ông rời diễn đàn, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lại xiết chặt tay ông giữa tiếng hoan hô vang dậy cả hội trường.
Đến lượt Dương Thu Hương, với bản tính bộc trực, thích nói thẳng những suy nghĩ của mình, không vòng vo tam quốc, cô đã tới tấp lên ánh lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng trong thời gian qua. Nghe Dương Thu Hương nói quá mạnh, tôi liếc sang Tổng bí thư và cảm thấy hơi lo. Nhưng Tổng bí thư vẫn nghe một cách chăm chú, không những thế lại ra chiều khuyến khích. Và cũng như đối với Nguyễn Khắc Viện, khi Dương Thu Hương rời micro, Tổng bí thư đã đứng dậy nhanh nhẹn bước đến bắt tay cô, vui vẻ đón nhận bản tham luận của cô.
Trong buổi gặp mặt hôm đó, không chỉ có Nguyễn Khắc Viện, Dương Thu Hương phát biểu những lời "búa bổ". Còn có rất nhiều tiếng nói khác, cũng hết sức gai góc, sắc sảo đã phát biểu công khai giữa hội trường, những lời nói mà trước đó, người ta chỉ dám nói nhỏ với nhau trong các quán cà phê, hoặc rì rầm với nhau bên hành lang của một cuộc họp.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ phê phán "hệ tư tưởng độc quyền":
"Chỉ một người đủ cung cấp tư duy cho mọi người và cứ một cái đầu lớn của lãnh đạo là nghĩ thay được cho mọi người."
Nhà thơ Bằng Việt phê phán chủ nghĩa bình quân đang phá phách các tài năng, đề cao cái tầm thường, sự dễ dãi và ton hót cấp trên.
Cứ như thế suốt hai ngày ròng rã, các nhà văn, các nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa có tên tuổi hào hứng thay nhau nói lên những bức xúc của bao nhiêu năm tồn đọng lại, nói một cách thoải mái, tự do, và người đứng đầu của Đảng cũng lắng nghe một cách chăm chú, thoải mái, hơn thế, nhiều lúc còn tỏ ra khuyến khích. Nếu như Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI là một sự kiện lịch sử trong đời sống văn hóa văn nghệ của nước ta thì việc cả bộ máy Đảng và Nhà nước nhanh chóng cảm thấy cái gì đó chưa ổn của nghị quyết 05 là điều bất ngờ và gây cho tôi cú "sốc". Nguyên nhân vì đâu? Lực lượng nào đó tác động nên làn gió ngược.
Có lẽ (tôi chưa dám khẳng định) nó được bắt đầu từ Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa VI, tháng 6/1988, nghĩa là chưa đầy một năm sau khi có Nghị quyết 05. Nói cụ thể là chưa đầy 7 tháng. Lần đó, trong bài phát biểu của mình, anh Linh có kết hợp phê phán một số tác phẩm văn nghệ, trong đó có vở kịch "Em đẹp dần trong mắt anh" của đoàn kịch Hà Nội. Cuối cùng anh Linh kết luận "Dân chủ phải có lãnh đạo, tự do không phải là vô bờ bến". Trong ý kiến của anh Linh có toát lên một điều là sự lãnh đạo của Ban văn hóa văn nghệ có biểu hiện lỏng lẻo
Tôi thấy cần thiết phải nhắc lại ở đây sự kiện vở kịch "Em đẹp dần trong mắt anh" để có thêm chứng cớ về sự lãnh đạo, quản lý văn nghệ hết sức tùy tiện của các cấp Đảng và chính quyền của ta.
Câu chuyện bắt đầu từ một cái giấy mời của Ban tuyên huấn Thành ủy Hà Nội do đồng chí Trưởng ban Vũ Hữu Ngoạn ký, mời tôi đến xem một vở kịch do đoàn kịch Hà Nội mới dựng. Tôi thấy lạ. Mọi lần giấy mời thường là do đoàn kịch, sao lần này lại là Ban tuyên huấn. Mặc dù vậy tôi vẫn vui vẻ nhận lời. Hôm ấy, buổi trình diễn được tổ chức ở Cung văn hóa Hữu Nghị Việt Xô, rất gần nhà tôi nên cơm nước xong tôi thủng thẳng đi bộ đến. Vũ Hữu Ngoạn ra tận ngoài thềm đón tôi dẫn vào phòng khách. Rất lạ nữa, là khi bước vào tôi đã thấy anh Nguyễn Thanh Bình, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội ngồi sẵn đợi ở đấy rồi. Tôi nghĩ bụng hôm nay chắc là buổi duyệt chương trình, và sao họ mời mình chắc không ngoài mục đích xin ý kiến của Trưởng ban văn hóa văn nghệ Trung ương, để khi đã quyết thì không bắt bẻ vào đâu được Từ lâu tôi vốn không đồng tình với cách làm này. Tôi phản đối việc một quan chức cấp trên, có khi là người không am hiểu mấy về văn hóa văn nghệ lại quyết định số phận những tác phẩm mà tác giả của nó phải tốn bao nhiêu công sức mới có được. Vì vậy, khi nghe Vũ Hữu Ngoạn nói:
- Đoàn kịch Hà Nội có một vở kịch mới dựng, mời các anh đến xem và cho ý kiến.
Tôi nói ngay:
- Mời đi xem thì tôi đi chứ ý kiến thì chưa có đâu. Cứ diễn đi rồi lắng nghe ý kiến của quần chúng trước đã.
Theo tôi ý kiến quần chúng là quan trọng nhất. Nghe tôi nói, Nguyễn Thanh Bình chỉ cười, không ra nhất trí cũng không phản đối, nói với Vũ Hữu Ngoạn:
- Cứ cho diễn đi rồi chúng ta sẽ có ý kiến sau.
Tôi quen biết Nguyễn Thanh Bình từ khi bị tù Sơn La, và từ hồi kháng chiến chống Pháp ở Điện Biên Phủ anh là Cục trưởng Cục quân lương, còn tôi là Chính ủy Đại đoàn 312. Sau Điện Biên Phủ tôi là Chính ủy Quân khu còn anh là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, có thời gian là Bộ trưởng Bộ Thủy lợi. Kể cuộc đời cũng lắm chuyện lạ : Một người chuyên lo việc cơm áo cho quân đội về sau trở thành một quan chức cao nhất của thành phố lớn, thủ đô Hà Nội, với bao nhiêu công việc phức tạp phải lo toan hằng ngày, trong đó có mảng văn hóa văn nghệ mà một Bí thư Thành ủy không thể không quan tâm và đòi hỏi phải có một sự hiểu biết nhất định. Nhưng rất tiếc về mặt này anh lại rất thiếu hụt. Nói chung chức trách một Bí thư Thành ủy, nhất là Bí thư thành ủy Hà Nội, là một cái gánh quá nặng đối với anh.
Trở lại với vở kịch "Em đẹp dần trong mắt anh". Sau khi xem xong tôi thấy vở kịch chẳng có gì là hay, nếu không nói là có nhiều chỗ dở. Nhưng quan điểm của tôi dù hay hoặc dở sẽ do công chúng phán xét. Nguyễn Thanh Bình ngồi cạnh tôi, thấy tôi không nói gì cũng im lặng. Còn Vũ Hữu Ngoạn thỉnh thoảng có gợi ý để tôi phát biểu nhưng tôi đều lảng tránh. Qua ý tứ của Vũ Hữu Ngoạn tôi biết Ban tuyên huấn Hà Nội muốn "đánh chết" vở kịch này ngay từ đầu, nhưng vì lý do nào đó không dám trực diện nói thẳng với đoàn kịch, mà tổ chức một buổi trình diễn hôm nay có cả Bí thư Thành ủy, cả Trưởng ban Văn hóa văn nghệ Trung ương dự để rồi ngày mai sẽ nói: Ông Độ, ông Bình chê nhiều lấm, theo kiểu "cáo mượn oai hùm". Thế là kết liễu đời một tác phẩm.
Xong buổi diễn, Vũ Hữu Ngoạn tiễn tôi ra tận cổng, cố moi cho được ý kiến của tôi về vở kịch, với hy vọng ý kiến của tôi phù hợp với ý kiến của Ban Tuyên huấn Hà Nội để sau đó dễ dàng ra lệnh cấm. Một lần nữa tôi lại thẳng thắn trả lời.
- Tôi không bao giờ đặt vấn đề diễn hay không diễn. Tôi đề nghị anh cũng nên đặt vấn đề như thế. Để có vở kịch này anh chị em đã phải lao động công phu vất vả, mình phải trân trọng biểu dương.
Tôi cũng nói với Vũ Hữu Ngoạn là vở kịch có đôi chỗ tôi không thích, nhưng đây mới chỉ là cảm giác ban đầu của một khán giả như bao nhiêu khán giả khác. Còn nếu là nhận xét với tư cách là cán bộ cấp trên để quyết định số phận của vở diễn thì cần phải suy nghĩ cân nhấc, chứ không phải chỉ trong một lúc, phán một câu là xong...
Sở dĩ tôi phải trân trọng như vậy vì có biết bao tác phẩm đã phải chịu oan bởi cách làm nông nổi tùy tiện đó. Cùng một vở diễn, ông lãnh đạo này không thích, thế là cấm. Đến khi ông lãnh đạo khác xem thấy không có vấn đề gì, thậm chí cho là hay thế là được "cởi trói". Bộ ba vở chèo "Bài ca giữ nước" của Tào Mạt, phim "Hà Nội trong mắt ai" của Trần Văn Thủy cũng cùng chung số phận như thế. Thật là một sự tùy tiện vô nguyên tắc. Chính vì vậy mà Nghị quyết 05 đã chỉ rõ:
"Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại hòa bình) và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền lưu hành và đặt dưới sự đánh giá phán xét của công luận và sự phê bình..."
Hôm ấy, tôi đã nói với Vũ Hữu Ngoạn:
"Đề nghị anh cứ để cho anh em diễn vài lần. Nếu không hay sẽ không có người xem rồi tự nó sẽ chết, chứ không cần lệnh cấm của chúng ta".
Việc này tôi cho như thế là xong, còn việc Ban Tuyên huấn Hà Nội xử lý tiếp theo với đoàn văn công như thế nào thì tùy họ, tôi không quan tâm nữa, vì tôi cho dây là thuộc phạm vi của Hà Nội, mình không nên lấn sân. Nhưng sau đó, tôi lại được thông tin là Tổng bí thư có chỉ thị cấm. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Một vở kịch có chủ đề đơn giản là kêu gọi xã hội quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, trong đó có đời sống giáo viên, chứ có vấn đề gì lớn lắm đâu mà đến mức Tổng bí thư của Đảng phải can thiệp.
Đây không chỉ là vấn đề nội dung mà cả cung cách quản lý của một Nhà nước đang dần hoàn thiện theo hướng một Nhà nước dân chủ pháp quyền, không thể để tồn tại mãi việc một Tổng bí thư ra lệnh cấm vở kịch này, bộ phim kia... Việc này trước kia có thể hiểu được chứ sau Đại hội VI, đặc biệt là sau Nghị quyết 05 thì không thể chấp nhận.
Ngay hôm sau tôi lên gặp anh Linh để hỏi cho ra nhẽ chuyện này:
- Tôi nghe nói anh vừa chỉ thị cấm đoàn kịch Hà Nội diễn vở "Em đẹp dần trong mắt anh" phải không?
Lập tức anh Linh phản ứng một cách bực dọc:
- Nói láo? Làm gì có chuyện ấy! Tôi đã xem đâu mà có ý kiến cho diễn hay không cho diễn.
Tôi nói:
- Đấy là tôi thông tin lại cho anh biết là có chuyện như thế. Đồng thời cũng là để hỏi lại anh luôn cho chính xác bởi vì bản thân tôi cũng không tin là có chuyện đó. Bây giờ nghe anh nói thì tôi rõ rồi, tôi yên tâm, đó là tin thất thiệt
Nhưng liền sau đó, tôi thấy anh Linh suy nghĩ một lúc như chợt nhớ ra điều gì rồi nói với tôi:
- Thực ra thì cách đây mấy hôm anh Bình có đến làm việc với tôi, nhưng là nội dung khác chứ không phải là về vở kịch. Trong lúc giải lao anh Bình có nói với tôi là Đoàn kịch Hà Nội vừa mới có vở bố láo lắm. Rồi anh thuật qua nội dung, tôi vừa nghe vừa ừ ào cho qua chuyện vì đang mải tập trung vào một nội dung công việc đang bàn, nghe anh ấy nói xong, tôi có bảo: "Nếu thế thì chưa nên cho diễn vội". Sự việc chỉ có thế chứ có phải là chỉ thị cấm đoán gì đâu!
Thế thì chết rồi! Họ chỉ chờ có thế thôi, mặc dầu Tổng bí thư chỉ nói ở hành lang cuộc họp, nói không chính thức, nhưng lập tức trở thành chỉ thị của Đảng.
Và thế là vở "Em đẹp dần trong mắt anh" của đoàn kịch Hà Nội rơi vào tình trạng bị cấm, chỉ vì một câu nói ngoài hành lang. Tổng bí thư nói với Bí thư Thành ủy như thế, Bí thư Thành ủy nói lại với Trưởng ban Tuyên huấn vũ Hữu Ngoạn như thế, chắc là sẽ cương lên một chút đại loại: Tổng bí thư phê phán nội dung vở kịch mạnh lắm, đã chỉ thị không được diễn. Rồi Vũ Hữu Ngoạn lại cương lên một ít nữa :
- Anh Linh và anh Bình đã có ý kiến không cho diễn. Chẳng có văn bản gì nhưng thực sự nó còn mạnh hơn cả các văn bản.
Trước tình hình đó Ban lãnh đạo đoàn kịch đến phàn nàn với tôi là vở kịch này chỉ nhằm hưởng ứng một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là đến lúc phải chú ý nhiều hơn đến sự nghiệp giáo dục, để phục vụ tốt hơn cho công cuộc đổi mới của Đảng, và tác giả có mạnh dạn đưa vào một số tình tiết nhằm hấp dẫn khán giả, nhưng do xử lý không tốt nên chưa thật hay, nếu vì thế mà bị cấm thì oan quá, đau quá.
Sau khi nghe ngóng dư luận qua một số buổi diễn, tôi thấy không có vấn đề gì sai trái thuộc về quan điểm, đường lối, mà nội dung lại rất phù hợp với chủ trương đầu tư cho sự nghiệp giáo dục hiện tại, nên tôi đã chính thức phát biểu bằng giấy gửi cho Ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội và đoàn kịch, là chỉ cần sửa chữa một số ý khán giả đã tham gia và nâng cao chất lượng lên một chút là diễn được
Thế là vở kịch được tiếp tục diễn, nhưng không ở Hà Nội mà ở số tỉnh phía Nam, trong đó có Đà Nẵng. Nhưng sau đó, không hiểu vì sao vở kịch lại bị cấm. Đoàn kịch Hà Nội lại chạy đến tôi.
Tôi lại có ý kiến lần thứ hai, cũng bằng giấy, gửi cho Ban Tuyên huấn Hà Nội và cho cả Tổng bí thư. Khi đã không nói thì thôi, khi đã nói tôi nói cho đến cùng, thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết 05, là một vở diễn không phản động, không đồi trụy, thì không thể bị cấm... Vở kịch lại tiếp tục ra mắt khán giả và hôm nào cũng đông nghịt người xem. Chắc là không phải do vở kịch hay mà chỉ vì nghe tin vở kịch bị cấm nên mọi người đổ xô đi xem. Cái dở của ta là ở chỗ đó.
Được một thời gian thì vỡ diễn chính thức bị cấm. Và tự nhiên trở thành một sự kiện: Ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội thì cấm còn Ban Văn hóa văn nghệ của Trần Độ lại cho diễn... Trần Độ lỏng lẻo.
Trở lại hội nghị Trung ương 5 tôi vừa nói ở trên, lại xảy ra một sự kiện nữa, có thể nói là một sự kiện khá nghiêm trọng. Tôi tạm đặt cho nó cái tên là "Sự kiện công chúng bình thường". Như tôi đã kể, trong phát biểu của mình trước hội nghị, anh Linh có phê phán một số tác phẩm văn nghệ mà theo tôi những ý kiến của anh ấy chưa thể nói là chính xác... Cũng tương tự như vở kịch "Em đẹp dần trong mắt anh" là chỉ mới nghe người khác nói lại rồi phán theo chủ quan của mình...
Là một ủy viên Trung ương, được Đảng phân công phụ trách Văn hóa văn nghệ, đương nhiên tôi phải phát biểu chính kiến của mình. Anh Linh phát biểu buổi sáng, tôi lại phát biểu ngay vào buổi chiều, theo đăng ký. Tôi hy vọng là anh Linh sẽ có mặt khi tôi phát biểu. Nhưng không may chiều hôm đó anh Linh có việc bận đột xuất nên vắng mặt. Tuy vậy tôi vẫn phát biểu theo sự chuẩn bị sẵn của mình, gồm ba ý:
Sáng nay, đồng chí Tổng bí thư trong khi nói về Văn hóa văn nghệ có nhận xét đánh giá một số tác phẩm. Tôi đề nghị nên coi đó là ý kiến của một công chúng bình thường thưởng thức nghệ thuật.
Hôm ấy tôi phát biểu trước toàn thể hội nghị Trung ương như thế là vì tôi muốn từ nay chấm dứt cái tình trạng một đồng chí lãnh đạo cao cấp nào, phát biểu bất cứ ý kiến nào, về bất cứ lĩnh vực nào, bất cứ ở chỗ nào và bất cứ như thế nào cũng đều được coi là ý kiến của Đảng, là chân lý tuyệt đối buộc phải tuân theo.
Tôi đề nghị Trung ương từ nay có biện pháp chấm dứt tình trạng này vì nếu còn để tình trạng này là còn dung túng cho bọn cơ hội làm bậy, nó cứ đi rình cửa trước, cửa sau, thậm chí rình ở cả chuồng xí, nhà tắm hóng cho được một câu nói của lãnh đạo, để rồi có dịp là tung ra, ý kiến đồng chí X. về vở kịch này, ý kiến đồng chí Y. về tác phẩm kia... Tất nhiên, nó chỉ tung những ý kiến nào có lợi cho ý đồ của nó nhằm phục vụ cho một mục đích cá nhân thiếu lành mạnh.
Chính tôi, người phụ trách công tác văn hóa văn nghệ của Đảng đã mấy lần suýt sa vào bẫy của chúng như thế. Ví dụ có vở kịch rõ ràng là tôi chưa hề xem, mới chỉ nghe giới thiệu, nhưng có tay đã đi nói: Vở kịch này ông Độ ông ấy thích lắm, và như thế nó nhằm bịt miệng những người nào muốn phê bình vở kịch đó. Có vở tôi xem nhưng chưa chính thức có ý kiến gì, nhưng vì nó không thích cho ai khen, nó tung ra dư luận, vở này ông Độ ông ấy chê lắm, thậm chí nó còn dựng chuyện ông ấy đang xem thì bỏ ra về. Thực tình có lần tôi đang xem nhưng vì mệt, hoặc bận việc đột xuất tôi ra về trước, chứ không phải vì không thích. Tôi là người trong cuộc, tôi biết những mánh lới của bọn cơ hội này. Các lĩnh vực khác tôi không dám có ý kiến, nhưng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ tôi tha thiết đề nghị Trung ương nên có biện pháp kiên quyết để những hiện tượng tiêu cực này sớm chấm dứt trong đời sống văn hóa văn nghệ nước nhà.
Đó là điểm thứ hai tôi phát biểu trước hội nghị Trung ương khóa 5. Ngoài hai ý kiến trên tôi còn phát biểu điểm thứ ba nữa, thuộc về chế độ quản lý. Khi đồng chí Tổng bí thư với tư cách là người lãnh đạo cao nhất của Đảng cầm quyền với sự nhạy cảm về chính trị, phát hiện một tác phẩm nào đó có những quan điểm sai lầm về chủ trương, đường lối, ảnh hưởng đến nền an minh của đất nước thì chỉ thị cho đồng chí ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, với chức năng là một cơ quan Nhà nước ra lệnh cấm, chứ tự mình không nên ra lệnh cấm, để phân biệt rõ ràng chức năng giữa Đảng và Nhà nước.
Hôm đó, tôi láy đi láy lại ý kiến này, rằng: nếu có cấm thì Bộ trưởng Bộ Văn hóa ra lệnh cấm chứ không phải Tổng bí thư của Đảng ra lệnh. Nhưng khi chỉ thị cho Bộ trưởng Bộ văn hóa ra lệnh cấm thì Tổng bí thư nên nhớ rằng, ý kiến của Tổng bí thư như thế nhưng quần chúng cũng có quyền phán xét tác phẩm đó và có thể có ý kiến khác với ý kiến của Tổng bí thư, lúc đó Tổng bí thư phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình, vì thông thường ý kiến của quần chúng là chính xác. Ví như phim "Hà Nội trong mắt ai", "Bài ca giữ nước". Đảng cấm nhưng Dân vẫn thích, và thời gian đã chứng tỏ Dân đúng, Đảng sai, cuối cùng Đảng phải "cởi trói" cho Dân xem. Đến khi cần tìm xem ai ra lệnh cấm thì chẳng biết ai, chỉ biết là Đảng cấm. Thế thì oan cho Đảng quá. Cũng như trong sự kiện khoán hộ, Đảng cấm gần 30 năm, dân phải làm chui làm lủi, cuối cùng Đảng phải làm theo Dân. Rõ ràng đế xảy ra trường hợp này là không hay tý nào cả. Vừa thiệt thòi về kinh tế, dân thì đói, đời sống ngày càng khó khăn, còn Đảng thì mất uy tín.
Giữa Hội nghị Trung ương tôi đã công khai đề nghị cần làm rõ: Ai? Cơ quan nào? Có quyền quyết định ra lệnh cấm. Người quyết định và ra lệnh cấm như vậy chịu trách nhiệm thế nào trước đối tượng (tác giả và tác phẩm), chịu trách nhiệm thế nào trước Nhân dân. Bất cứ ai có quyền cũng phải chịu trách nhiệm trước quyền đó của mình. Phải hết sức tránh tình trạng một sản phẩm văn hóa bị lên án, bị cấm mà không biết ai cấm và cấm như thế nào, hoặc lúc này thì được phép, lúc khác lại bị cấm và như thế là vì những lý do gì?
Nếu cấm oan thì hỏi ở đâu? Và ở đâu có quyền giải oan? Trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ cũng cần vận dụng nguyên tắc: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý..." nghĩa là phải làm rõ chức năng và quyền hạn của tổ chức Đảng, bao gồm cấp ủy Đảng, cơ quan cấp ủy Đảng, làm rõ chức năng và quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước: Chính phủ, Uỷ ban nhân dân và các cơ quan quản lý chuyên ngành (Bộ Văn hóa Thông tin, Sở Vãn hóa Thông tin). Tóm lại trong hội nghị trung ương lần ấy, sau bài phát biểu của Tỏng bí thư tôi đã phát biểu 3 vấn đề:
Một là xin coi ý kiến của Tổng bí thư như ý kiến của một công chúng bình thường thường thức nghệ thuật.
Hai là : Cần chấm dứt hiện tượng các phần tử cơ hội lợi dụng ý kiến của các đồng chí lãnh đạo phục vụ cho ý đồ cá nhân xấu xa của mình.
Ba là : Khi Tổng bí thư hoặc một đồng chí lãnh đạo cấp cao nào phát biểu về một tác phẩm nào thì người đó phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình.
Có thể nói hôm đó tôi đã phát biểu rất chặt chẽ với "Tam đoạn luận" như thế, với một tinh thần trách nhiệm cao, mong sao từ nay chấm dứt tình trạng cấm đoán lung tung rất không có lợi cho sự phát triển nền văn học nghệ thuật nước nhà, ảnh hưởng đến quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ.
Mặc dầu vấn đề tôi nêu ra là rất dữ dằn nhưng nếu không có bốn chữ công chúng bình thường thì chắc cũng chẳng có chuyện gì phức tạp lắm. Bởi vì bốn chữ công chúng bình thường ở đây không có gì xấu cả. Nhưng một số kẻ cơ hội đã nống hai chữ bình thường này lên để kích Tổng bí thư, rằng Trần Độ nó coi thường Tổng bí thư, bảo Tổng bí thư cũng như một công chúng bình thường... Và dã tâm của bọn này đúng là đã có tác dụng... Không hiểu họ tâu với anh Linh thế nào mà từ đó tôi cũng nhận được sự không hài lòng của anh Linh đối với tôi. Thực ra chữ bình thường này so với chữ "đầy tớ" của Bác Hồ thì có thấm vào đâu. Bác Hồ chẳng đã nhiều lần nói: "Từ Chủ tịch toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của dân..." kia mà. Còn ở đây là công chúng bình thường thì đã đến nỗi gì mà phải giận. Thậm chí rõ ràng là có những cán bộ lãnh đạo hẳn hoi mà trình độ thường thức nghệ thuật chưa hẳn đã bằng một công chúng bình thường...
Tôi nhớ hôm tôi phát biểu, người tán thành ý kiến của tôi khá nhiều, nhưng người không ủng hộ cũng lắm. Nhưng vì không phải là vấn đề cần phải biểu quyết nên không thể xác định được rõ ràng là bao nhiêu phần trăm ủng hộ, bao nhiêu phần trăm không...
Chỉ riêng Đào Duy Tùng thì ngay trong giờ giải lao, khi gặp tôi đã nói ngay: "Ông nói như vậy có vẻ chưa ổn lắm. Dù sao Tổng bí thư cũng có trách nhiệm của Tổng bí thư chứ, làm sao gọi là công chúng bình thường được". Tôi đã nói ngay: "Khi thưởng thức văn nghệ thì Tổng bí thư cũng là một công chúng bình thường, như anh thấy đấy, khi ngồi trong rạp thì ai cũng như ai chứ gì. Cùng xem vở diễn ấy, cùng vỗ tay hoan hô..." Tôi còn kể cho Đào Duy Tùng nghe chuyện Thủ tướng Ôlốp Pan mơ của Thụy Điển, cùng vợ đi xe đạp đến nhà hát, cùng mua vé vào xem như một công chúng bình thường, rồi chuyện Lênin đi cắt tóc ở hiệu ngồi chờ theo thứ tự như một khách hàng bình thường khác. Còn phát biểu một vấn đề nào với tư cách là Tổng bí thư, phát biểu trong quy chế hẳn hoi thì lại khác. Nghe tôi nói như thế Đào Duy Tùng lại thỏa hiệp với tôi: ừ! Có lẽ phải phân biệt hai trường hợp cho rõ...
Thế nhưng, trong một cuộc họp Bộ Chính trị, Đào Duy Tùng, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách công tác tư tưởng, báo cáo khái quát tình hình văn hóa văn nghệ trong thời gian qua lại nói: Sau Nghị quyết 05 có xảy ra một số sự kiện đáng lưu ý, trong đó có chuyện đồng chí Trần Độ nói Tổng bí thư là một công chúng bình thường...
Anh Linh không nghe được toàn bộ ý kiến của tôi phát biểu ở Hội nghị Trung ương mà chỉ nghe thuật lại, với sự nhấn mạnh có chủ ý : Đồng chí Trần Độ coi thường Tổng bí thư, cho ý kiến của Tổng bí thư về nghệ thuật chỉ là ý kiến của một công chúng bình thường. Thế là anh Linh giận tôi, tôi biết rõ điều này qua thái độ của anh đối với tôi những ngày sau đó. Trong một dịp làm việc với Bộ Chính Trị, tôi không nhớ rõ vì sao lại nhắc lại chuyện này, anh Linh đã nói một cách nghiêm trọng với tôi: "Anh nói thế là anh xúc phạm tôi một nặng nề" - Tôi mới giật mình mà thấy rằng tôi quá chủ quan, đơn giản và vô tâm.
Nghĩ cũng thật là buồn? Kể từ khi thành lập Đảng, ta đã có phong trào vô sản hóa, ngay cả lãnh tụ của Đảng cũng cố gắng hóa thân làm một công nhân bình thường... Về sau này, trong những giờ giáo huấn của Bác cũng như của các đồng chí lãnh đạo cấp cao, bao giờ cũng khuyên cán bộ cấp dưới là đi sâu vào quần chúng, hòa mình vào quần chúng, và nếu ai làm tốt được điều đó thì biểu dương... Còn bây giờ, chỉ nhận mình là một công chúng thưởng thức nghệ thuật bình thường đã phản ứng mạnh mẽ thì thật lạ. Thế ra công chúng bình thường là điều thấp hèn lắm sao, xấu xa lắm sao. Còn những câu nói thuộc loại kinh điển mà ta đã từng rao giảng khắp nơi "Quần chúng là người làm nên lịch sử" "Quần chúng là thầy học của tất cả chúng ta v.v..." đi đâu cả rồi?! Chẳng lẽ ta cũng quên mất lời dặn chí tình, chí lý trong Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân hay sao?"
Sự không hài lòng của anh Linh đối với tôi còn được nhân lên gấp bội sau một lần tôi không nhớ rõ vì chuyện gì đó về một tác phẩm văn nghệ nào đó, tôi có viết cho anh một lá thư, lời lẽ cũng chân tình thôi, nhưng quan điểm thì rõ ràng, đại ý rằng: "Lâu nay anh hay nói về cái chuyện đó, tôi thấy nó không có lợi cho anh, do đó tôi đề nghị anh không nên nói nữa". Và tôi lại nhấn mạnh: "Nếu anh cứ tiếp tục nói như thế thì có nhiều cái không có lợi cho anh đâu... " Cho đến bây giờ nghĩ lại, tôi cũng không hiểu tại sao lúc bấy giờ tôi lại dám viết một lá thư như thế, với một người đương kim là Tổng bí thư, còn hoàn cảnh riêng của tôi lúc đó, sau "Tuần trăng mật" của Nghị quyết 05, lại đã bắt đầu xuất hiện biết bao chuyện trục trặc và ruổi lên vẫn là "khuyết điểm" lỏng lẻo trong văn nghệ, thì lẽ ra tôi phải giữ mình chứ... Nhưng quả đúng là tôi có viết một lá thư như thế.
Thư ngắn, viết tay, nhờ Nghiêm Hà đưa lên phòng Tổng bí thư hẳn hoi. Không như là sự kiện công chúng bình thường, lần này anh Linh nổi cơn giận thật sự. Gửi thư đi hôm trước, hôm sau tôi nhận được thư trả lời ngay. Thông thường ít khi có một sự trả lời nhanh chóng như thế. Thư anh Linh cũng viết tay, cũng ngắn như thư tôi gửi anh, nhìn nét chữ cũng biết anh viết trong tâm trạng giận dữ: "Anh đề cao dân chủ, vậy thì tôi cũng có quyền dân chủ của tôi chứ, tôi cũng có quyền phát biểu ý kiến của tôi chứ. Tôi phát biểu chỗ này chỗ khác cũng là tôi thực hiện quyền dân chủ của tôi. Anh đừng lấy cái chuyện lợi và hại ra để dọa tôi..." Cuối thư anh còn tái bút: "Dạo này tôi bận lắm, vì vậy có chuyện gì về văn hóa văn nghệ anh nói với anh Đào Duy Tùng, chứ đừng nói chuyện với tôi nữa".
Nhận được bức thư này, tôi buồn mất mấy ngày. Chỉ là một lời phát biểu về quan điểm, rồi bị người ngoài xúc xiểm vào, để bỗng chốc, một tình cảm gắn bó với nhau hàng chục năm trời, từ trong khói lửa chiến tranh, tan thành mây khói. Biết bao nhiêu là kỷ niệm đẹp đẽ và sâu sắc.
Nhớ mùa thu năm 1969, tôi được Trung ương Cục cử cùng với anh Linh thay mặt Quân và Dân miền Nam ra Bắc thăm Bác đang ốm nặng. Cả hai chúng tôi được Bác mời cơm. Rất tiếc hôm ấy tôi quên mang máy ảnh theo để ghi lại hình ảnh tôi và anh Linh quây quần bên Bác. Khỉ Bác mất, anh Linh và tôi cùng được đứng túc trực bên linh cữu Bác, cùng khóc chung nỗi đau lớn với làng triệu đồng bào tiễn đưa Bác ở quảng trường Ba Đình. Những ngày ở miền Bắc, anh Linh đã dành thời gian đến thăm nhà tôi và các cháu lúc bấy giờ ở Hà Đông. Ngày đi ra miền Bắc, cả hai chúng tôi cùng đi chung một chuyến máy bay của hãng hàng không nước ngoài qua đường Campuchia. Lần đi này, có một chuyện thú vị đáng nhớ. Ngồi trên máy bay tôi khát nước nhưng không có tiền. Không hiểu sao anh Linh biết tôi khát nước liền rỉ tai tôi: "Muốn ăn gì, uống gì thì cứ ăn, cứ uống". Rồi anh mỉm cười chỉ vào túi: Có đô la đây"
Biết bao nhiêu là kỷ niệm của một thời đẹp đẽ không thể nào quên. Chỉ mới gần đây thôi, trước Nghị quyết 05 không lâu, có thể nói Nguyễn Vãn Linh và Trần Độ có một mối quan hệ thân tình và kết quả là Nghị quyết 05 ra đời, mối quan hệ với Nguyễn Văn Linh trong những ngày này đã đem đến cho tôi những giây phút hạnh phúc thật sự như trên tôi đã nói về mối quan hệ với Nguyễn Văn Hạnh, đã từng là niềm hạnh phúc lớn của tôi...
Từ ngày về nghỉ tôi vẫn thường nghĩ, trong cuộc sống có một thứ hạnh phúc mà người ta bỏ phí, không biết tận hưởng đó là hạnh phúc của tình bạn, tình đồng chí. Chẳng những thế người ta còn đố kỵ nhau, chèn ép nhau, luôn sống trong mưu đồ, thù hận. Cứ sống suốt đời như thế mà người ta vẫn sống được thì thật là kỳ lạ, tôi không sao tưởng tượng nổi. Chính vì biết tận hưởng hạnh phúc cửa tình đồng chí, tình bạn mà cho đến nay, tuy bệnh tật phải nằm một chỗ, tôi vẫn luôn cảm thấy ấm áp tình người, không bao giờ tôi thấy mình cô đơn, lẻ loi. Bạn bè vẫn thường đến với tôi, mặc dầu tôi chẳng có gì để tiếp đãi họ, ngoài một phích nước sôi để sẵn cạnh bàn. Thậm chí cho đến nay, khi tôi chẳng có chức quyền gì nữa có người vẫn thích gặp tôi, và nói chuyện với tôi.
Bởi thế mà khi nhận được thư của anh Linh, biết chắc mối quan hệ gắn bó bao nhiêu năm nay bỗng sụp đổ, tôi cảm thấy như bị hụt hẫng lớn. Hoàn toàn không phải là do vì mất mối quan hệ với Tổng bí thư mà điều quan trọng là tôi mất đi một mối quan hệ sâu nặng tình người. Tôi nhớ tới những ngày vui vẻ mới cách đây không lâu những lần anh gọi tôi lên gặp gỡ, tâm sự, nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa. Hầu hết nhân viên của Văn phòng Tổng bí thư từ thư ký đến bác sĩ đều quen biết và quý mến tôi, xem tôi như là người nhà. Nhất là cậu Quang bác sĩ thỉnh thoảng lại gò gẳng với cậu Nghiêm Hà, nói với anh Độ kiếm phim gì hay đưa lên chiếu cho anh Linh xem. Cậu ta còn điện riêng cho tôi cố gắng bố trí thời gian lên cùng ngồi xem với anh Linh cho vui. Chả là cậu bác sĩ này đã từng chứng kiến cảnh tôi với anh Linh mỗi lần gặp nhau thường rất vui, như quên hết những căng thẳng mệt nhọc sau một ngày làm việc. E với họ ngành y học cho đấy là một liều thuốc quý.
Có lần anh Linh trực tiếp gọi điện cho tôi:
- Dạo này phim có gì hay rủ tôi đi xem với.
Khi có phim hay tôi gọi điện cho Fafim ở gần Ngã tư Sở chuẩn bị, anh Linh xuống nhà tôi rồi đón tôi đi xem luôn. Đây có lẽ là chuyện hiếm có, một Tổng bí thư đến nhà Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ, rồi cùng đến một cơ sở nghèo nàn, đơn sơ, tiện nghi thiếu thốn, xem phim và đàm luận về văn hóa văn nghệ. Tất nhiên tôi chỉ nói với các đồng chí phụ trách Fafim là chuẩn bị cho Trưởng ban văn hóa Văn nghệ đến duyệt phim, chứ không nói là có Tổng bí thư đến xem.
Sau đại hội V, có một lần gặp nhau trong thành phố Hồ Chí Minh, sau khi hàn huyên thăm hỏi. Anh Linh đã ngỏ lời tâm huyết với tôi:
- Té ra là tôi thì tự do về kinh tế, còn anh thì tự do về văn hóa.
Tôi tưởng đó là một sự đồng cảm khá sâu sắc, mối đồng cảm này gắn bó chúng tôi lại. Thế mà cuộc sống nó lại khác đi...
Nghĩ mà tiếc cho một thời đẹp đẽ. Từ Đại hội III bắt đầu quen biết anh Linh, rồi gắn bó thân thiết với nhau suốt mười năm ở chiến trường ác liệt, qua Đại hội V long đong, vất vả, đến đại hội VI đổi mới tưng bừng, anh Linh và tôi luôn có nhiều điểm đồng cảm. Tưởng như không có sức mạnh gì có thể chia lìa...
Mới cách đây chưa đến một năm, ngày 7-10-1987, anh còn nói những lời tâm huyết với các văn nghệ sĩ: "Các đồng chí có nói nhiều đến sự "cởi trói ". Có như vậy mới phát huy được hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí... Trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải "cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách, trong các quy định chế độ. Nghe các đồng chí phát biểu tôi cũng không ngờ rằng, trong lĩnh vực này cũng có kiểu quản lý hành chính bao cấp. Tới đây phải sửa đổi và phải xây dựng những văn bản pháp quy nhằm bảo đảm sự phát triển cho ngành các đồng chí. Đảng và Nhà nước phải bắt tay mau lẹ vào công việc này".
Vậy mà chưa đầy một năm sau, mọi sự lại đổi khác... Tôi biết cuộc sống có qui luật riêng của nó, có bước đi thích hợp của nó, "bước" sớm quá dễ mang họa mà bước chậm quá lại có tội với các thế hệ sau... Tôi vui vẻ tiếp nhận rời ghế trưởng ban văn hóa văn nghệ...
Tôi kể lại những chuyện trên đây, không nhằm thanh minh điều gì. Tôi chỉ muốn tái hiện trung thực diễn biến của cuộc sống, mô tả nó đúng như nó đã diễn ra và tôi thu hoạch ở đó những bài học. Bài học rẻ nhất là tôi đơn giản, chủ quan và vô tâm quá mức. Đó là điều mà một số bạn bè thân thiết của tôi kể cả các bạn vong niên còn đầu xanh tuổi trẻ đã nhắc nhở tôi nhiều lần.
Tôi không muốn rằng các sự việc đã diễn ra, rồi sau vì có người này quá yêu hoặc quá ghét ai đó mà diễn tả lệch lạc làm cho sự việc được hiểu khác đi hoặc quá tốt hoặc quá xấu.
Thú thật là sau lá thư của anh Linh, tôi cảm thấy như mình bị từ chối một cách thẳng thừng và phũ phàng. "Dạo này tôi bận lắm, vì vậy có chuyện gì về văn hóa, văn nghệ nói với anh Đào Duy Tùng chứ đừng nói với tôi nữa". Thế là dù việc cấp thiết, tôi cũng sẽ không được nói với anh. Gặp nhau do yêu cầu công việc thì gặp, nếu không thì thôi, và cả sau này nữa, mặc dù tôi và anh Linh vẫn thường trông thấy nhau ở các hội nghị Trung ương và các kỳ họp Quốc hội. Trông thấy nhau, anh Linh chào tôi thì tôi chào lại, anh ấy bắt tay thì tôi bắt tay, tôi cũng không chủ động chào trước.
Cho đến một hôm trong cuộc họp Trung ương lần thứ 10, khóa VI, bỗng nhiên có sự khai thông mối quan hệ đang bế tấc giữa tôi và anh Linh, kéo dài gần bốn năm. Hôm ấy, trong giờ giải lao, mọi người đi uống nước, tôi uống nước xong, đang ngồi một mình ở hội trường thì anh Linh đi qua, anh chủ động đến bắt tay tôi, hỏi thăm sức khỏe và tình hình công tác của tôi. Tôi thưa với anh là sức khỏe vẫn bình thường, còn công tác thì ngoài nhiệm vụ ở Quốc hội tôi vẫn tập trung nghiên cứu về văn hóa. Dạo đó tôi đang có chân trong ban dự thảo chiến lược đến năm hai nghìn và có phác thảo một ý kiến về văn hóa.
Nghe vậy, anh Linh nói:
- Chà! Cái chuyện văn hóa nó nhiêu khê quá, nói mãi không bao giờ hết. Có lẽ hôm nào tôi phải gặp riêng anh một buổi để chuẩn bị gặp anh em.
Tôi hơi ngạc nhiên về câu nói của anh Linh. Không biết Tổng bí thư gặp anh em là anh em nào? Phải chăng sẽ có một cuộc gặp như cuộc gặp lịch sử trước nghị quyết 05, để chuẩn bị cho Đại hội 7 sắp tới. Nhưng tôi không tin là có điều đó. Hiện tại chưa có tín hiệu đáng mừng nào để có thể hy vọng dẫn đến điều đó, ngược lại tình hình đang ngày càng khác đi.
Khi chuông báo hết giờ nghỉ, anh Linh bắt tay tôi lần nữa, dặn:
- Hôm nào anh lên gặp tôi một buổi, ta nói chuyện thêm với nhau.
Nghe anh Linh nói thế tôi rất mừng. Mừng không phải là vì tôi nối lại được mối quan hệ với người có chức có quyền cao nhất nước, mà là nối lại được một mối quan hệ đẹp đẽ thắm đượm tình người như tôi đã nói nhiều lần trên kia. Hai là lời mời của anh Linh đã gãi đúng chỗ ngứa của tôi lúc này, vì tôi đang ấp ủ một dự định lớn về vấn đề bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc, mà muốn triển khai thì phải có những điều kiện cần thiết, liên quan đến chức năng quản lý của nhà nước, nếu được Tổng bí thư ủng hộ sẽ thuận lợi rất nhiều.
Do đó, nghe anh Linh vừa ngỏ ý, tôi "bắt" luôn: Tôi cũng đang có một số ý kiến về văn hóa muốn gặp anh để trình bày. Và tôi đề nghị luôn là trong cuộc họp Quốc hội sấp tới, anh bố trí cho tôi gặp một buổi (vì cả anh Linh và tôi đều là đại biểu Quốc hội, mà họp Quốc hội thì chỉ cần có mặt đông đủ buổi khai mạc, sau đó vắng mặt lúc nào cũng được, chắc anh Linh sẽ có thời gian gặp tôi)
Anh Linh đồng ý. Thế nhưng suốt cả kỳ họp kéo dài hơn hai mươi ngày, tôi chờ anh Linh gợi ý về cuộc gặp nhưng không thấy. Bỗng một hôm, tôi nhớ là sau kỳ họp Quốc hội vài ngày, đang ngồi làm việc tôi nhận được điện thoại từ văn phòng của Tổng bí thư gọi đến. Tôi cầm máy, đầu dây bên kia là cậu thư ký của anh Linh:
- Anh Độ đấy à? Anh Mười muốn nói chuyện với anh. Tôi cầm máy. Lâu lắm rồi tôi mới được nghe giọng nói thân thuộc của anh Linh:
- Định gặp anh trong kỳ họp Quốc hội vừa rồi nhưng bí quá, không bố trí được. Nay thì thu xếp được rồi, vào chiều mai, anh có bận gì không?
Hôm ấy là ngày 24-12-1990. Ngày hôm sau là ngày 25-12, lễ Nô-en, tôi không có gì bận cả, nên tôi nói với anh Linh là tôi có thể gặp anh.
Đặt máy xuống, tôi cứ suy nghĩ mãi về cuộc gặp anh Linh sắp tới. Tôi tự hỏi tại sao lại có cuộc gặp gỡ này? Vào thời điểm đó, tôi vẫn là ủy viên Trung ương, nhưng không còn là Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ. Còn chức Phó Chủ tịch Quốc hội kiêm chủ nhiệm ủy ban Văn hóa giáo dục thì thực ra chỉ là làm cho vui mà thôi chứ có quyền hành gì đâu?... Ví dụ về thực trạng văn hóa nói chung của nước nhà đang xuống cấp nghiêm trọng, ai ai cũng biết. ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội càng biết rõ hơn, nhưng cũng chỉ có thể gióng lên hồi chuông báo động mà thôi. Đôi khi gióng lên cũng chỉ để mình nghe chứ cũng chẳng có ai cộng hưởng.
Chiều hôm sau, 25-12-1990, theo hẹn, tôi lên chỗ anh Linh. Anh đã chờ sẵn để đón tôi, thân tình như ba bốn năm về trước. Còn tôi, lâu lắm rồi mới lại có dịp đặt chân vào phòng khách quen thuộc của Tổng bí thư, tôi có phần xúc động. Chính tại căn phòng này, tôi đã báo cáo với đồng chí Tổng bí thư những suy nghĩ đầu tiên của mình về Nghị quyết 05. Cũng chính lại căn phòng này, đồng chí Tổng bí thư của Đảng đã đề xuất với Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ việc gặp gỡ các văn nghệ sĩ để chuẩn bị cho Nghị quyết 05 ra đời... Tại căn phòng này tôi đã từng được tận hưởng những niềm vui, những giây phút hạnh phúc của cuộc đời. Đó là hạnh phúc khi những suy nghĩ tâm huyết của mình về sự nghiệp cách mạng nói chung và về Văn hóa văn nghệ nói riêng, được Đảng ghi nhận và đích thân đồng chí Tổng bí thư khuyến khích động lên.
Sau những câu chào hỏi ban đầu hơi có vẻ ngượng ngùng, hai chúng tôi lại ngồi với nhau như những ngày nào. Anh Linh mở đầu câu chuyện trước, anh nói về văn hóa nhưng chủ yếu đề cập đến Văn học nghệ thuật, về các bộ phim, các vở diễn sân khấu, về các cuốn sách xuất bản gần đây... Anh cũng nói đến tình trạng xuống cấp của văn hóa, văn nghệ nói chung.
Nghe anh Linh nói, tôi chợt nghĩ có lẽ anh muốn tỏ ý đồng tình với bản báo cáo của ủy ban văn hóa giáo dục của Quốc hội do tôi trình bày cách đây mấy hôm ở hội trường Ba Đình. Trong bản báo cáo do tôi trực tiếp soạn thảo, được trình bày tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 8, tôi đã nhấn rất mạnh tình trạng xuống cấp của Văn hóa và đạo đức. Điều mà ủy ban chúng tôi hết sức băn khoăn là nhiều truyền thống, nhiều nét sinh hoạt văn hóa đẹp và độc đáo của dân tộc chẳng những bị lãng quên mà còn bị lên án, gạt bỏ khỏi trang sách của trẻ thơ và nếp sinh hoạt hằng ngày. Nếu một thời chúng ta "ra ngõ gặp anh hùng" thì bây giờ, ngay trong nhà ở, cuộc họp, hay sinh hoạt văn hóa chúng ta cũng gặp những trẻ em, những người lớn thiếu hoặc không có văn hóa... Sự sa sút về đạo đức, về lối sống của nhiều người Việt Nam chẳng những trở thành mối lo ngại, sự đau lòng của người lương thiện, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến phẩm giá của người Việt Nam trước con mắt của bạn bè, thành mục tiêu để cho ké thù tấn công chúng ta trên mặt trận tư tưởng văn hóa.
"ủy ban chúng tôi cũng xin lưu ý Quốc hội là trong khi hàng loạt các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh đang bị xuống cấp nghiêm trọng, không có kinh phí trùng tu, tôn tạo, thì không ít các khách sạn được xây dựng vội vàng để rồi không có hoặc có quá ít khách đến nghỉ... "
Có thể đây lại là một sự "cộng hưởng" chăng? Nhưng càng nghe anh Linh nói, tôi càng nóng ruột. Bởi vấn đề mà tôi đang quan tâm, nung nấu, là vấn đề văn hóa dân tộc trong thời kỳ đất nước mở cửa. Đây là vấn đề rất lớn mà hôm nay tôi muốn đích thân trình bày với đồng chí Tổng bí thư, cũng tức là trình bày với Đảng, chứ không phải chỉ là bình luận về một số bộ phim, vở kịch, về vài cuốn sách... Thế nhưng anh Linh lại có vẻ say sưa về chuyện này. Vì nể anh tôi không no ngắt lời. Vả lại, nhận xét vở kịch này quyển sách kia, nó khó lắm, không dễ gì thống nhất với nhau ngay được. Cho nên tai thì nghe anh Linh nói mà tôi cứ nhăm nhăm chờ dịp để chuyển sang chủ đề văn hóa dân tộc, mục đích chính của cuộc gặp mà tôi dự định hôm nay...
Tình thế lúc này làm tôi nhớ lại buổi làm việc với Tổng bí thư Lê Duẩn cách đó mười năm, năm 1981, khi tôi vừa đi học một lớp về văn hóa văn nghệ ở Liên xô về. Hôm đó, anh Duẩn cho gọi Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ lên để trao đổi nội dung chuẩn bị cho dự thảo nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ năm. Theo thông báo của Văn phòng Tổng bí thư thì địa điểm làm việc là ở nhà nghỉ Hồ Tây.
Theo hẹn, đúng bảy giờ ba mươi phút chúng tôi có mặt. Thành phần gồm có tôi, Trưởng ban; Nguyễn Văn Hạnh, Phó ban và Nguyễn Thanh, Vụ trương vụ tổng hợp, lúc bấy giờ được coi là cốt cán của ban. Trước đó, chúng tôi có họp lại để chuẩn bị ý kiến, với tham vọng là trình bày với anh Duẩn toàn bộ những quan điểm mới đối với văn hóa văn nghệ theo kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đây là dịp may không hẹn mà gặp để thực hiện nguyện vọng của tất cả anh em được tham gia lớp học ở Liên xô như chương trên tôi đã nói. Anh em trong Ban đều hy vọng rằng với trình độ của tôi, lại được trang bị thêm kiến thức mới, cộng thêm khiếu ăn nói cũng khá, nên có thể trình bày với Tổng bí thư những quan điểm chủ yếu, nhằm góp phần đưa nội dung văn hóa văn nghệ vào dự thảo nghị quyết Đại hội đúng với tầm quan trọng của nó. Thế nhưng tôi vừa phát biểu chưa được mươi phút thì anh Duẩn đã ngắt lời và nói luôn một mạch cho hết cả buổi sáng. Trái với anh Linh là đi vào vấn đề cụ thể, còn anh Duẩn thì chỉ bàn về văn hóa nói chung. Nói về văn hóa nhưng cách diễn đạt của anh Duẩn lại đượm màu sắc triết học, làm cho cả ba chúng tôi nghe đều rất thích, càng nghe càng cảm thấy thú vị. Thú thật, đây là một bất ngờ đối với chúng tôi. Xưa nay, nhiều người thường nghĩ anh Duẩn chỉ có giỏi về chiến tranh giải phóng, chứ có ai ngờ những suy nghĩ của anh về văn hóa lại sâu sắc đến thế. Chỉ tiếc là anh bận quá nhiều việc, lại không có người giúp để kịp ghi lại những ý tưởng của anh thành văn bản, nếu không thì anh cũng có riêng một tác phẩm về văn hóa văn nghệ có giá trị không kém những tác phẩm của anh về cách mạng giải phóng dân tộc. Như thế là suốt cả buổi sáng, cả ba chúng tôi không ai nói thêm được câu nào. Sau đó trong niềm phấn khích, khi chia tay, anh Duẩn lại hẹn chúng tôi buổi chiều làm việc tiếp
Buổi chiều, ngồi trong xe trên đường đến Hồ Tây, Nguyễn Văn Hạnh và Nguyễn Thanh nhắc tôi là chiều nay phải tìm cách trình bày cho được những nội dung đã chuẩn bị, vì đây là thời cơ rất hiếm có để Tổng bí thư trực tiếp nghe những vấn đề về văn hóa văn nghệ. Nghị quyết Đại hội Đảng mà có được vài trang, thậm chí vài dòng về văn hóa văn nghệ là quý lắm. Tất nhiên phải là những trang, những dòng thật sự súc tích và nói trúng vấn đề cần nói để sau đó trở thành sức mạnh làm chuyển biến tình hình ở các ngành, các cấp.
Mặc dầu đã bàn bạc như vậy, nhưng tình hình buổi chiều cũng diễn ra gần như buổi sáng. Ba anh em vừa ngồi xuống ghế, chưa uống hết chén nước, anh Duẩn đã bắt đầu nói. Những suy nghĩ nảy ra trong đầu anh buổi sáng lại tiếp tục tuôn ra như một dòng chảy liên tục. Nhìn đồng hồ đã hơn một tiếng trôi qua mà vẫn chưa có triệu chứng gì là anh Duẩn sẽ kết thúc, Nguyễn Vãn Hạnh và Nguyễn Thanh nháy mắt ra hiệu cho tôi. Biết thế nhưng tôi không thể ngắt lời anh được vì anh đang quá say sưa. Cho đến lúc, nhân anh dừng lại uống nước, lập tức tôi tranh thủ nói liền một mạch, để anh Duẩn không có dịp mà chen vào. Nhưng cũng chỉ được chừng mười phút, nhân lúc tôi sơ hở, dừng lại nhìn vào sổ tay, anh Duẩn lập tức "chiếm lại diễn đàn", và cứ thế, anh nói cho đến hết buổi chiều.
Dọc đường trên xe ra về, Nguyễn Văn Hạnh biểu dương tôi: Chiều nay anh chen vào được như thế là giỏi đấy.
Thật là một buổi chiều làm việc thú vị. Tuy không được đúng như mong muốn, nhưng bù lại, chúng tôi hiểu thêm về một con người, một lãnh tụ của Đảng có những suy nghĩ thật sâu sắc về văn hóa.
Trở lại cuộc gặp với anh Linh, tôi thấy cứ để anh Linh sa vào vấn đề cụ thể như thế này thì sẽ không đạt được mục đích như tôi mong muốn. Bởi vì hiện nay tôi không còn là Trưởng ban Văn hóa văn nghệ, cũng không còn là Bí thư cán sự, Thứ trưởng Bộ văn hóa, do đó dù cho bộ phim này, vở kịch kia thế nào chăng nữa tôi cũng chẳng thể có quyền gì can thiệp vào... Do đó cũng như lần gặp anh Duẩn cách mười năm, đợi dịp anh Linh ngừng lời uống nước, tôi tranh thủ "chiếm luôn diễn đàn".
- Hôm nay, tôi rất vui được anh gọi lên gặp, và tôi đã chuẩn bị để trình bày với anh một vấn đề bức xúc hiện nay là vấn đề bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc. Tiếp đó, tôi trình bày với anh Linh khái niệm về văn hóa nói chung, nghĩa là khi ta nói về một nền văn hóa nào đó là nói đến một phạm vi rất rộng. Nó bao gồm những giá trị được tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử của một dân tộc, được tích lũy, kế thừa từ đời này qua đời khác cho đến ngày nay, còn lưu giữ được biết bao biến thiên của lịch sử. Đặc biệt đối với Việt Nam ta, một đất nước phải trải qua những cuộc chiến tranh liên miên, thì những gì còn lại được trở nên vô cùng quý báu.
Nói đến một nền văn hóa cũng tức là nói đến những giá trị đang được sáng tạo bởi đội ngũ văn nghệ sĩ đương thời, kể cả các nghệ nhân dân gian về các mặt đang tồn tại trong cuộc sống, ngoài sự quản lý của nhà nước... Các công trình và tác phẩm nghệ thuật được họ tạo ra, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc. Còn một điều nữa cũng nằm trong phạm vi văn hóa mà nhiều người thường không để ý tới, hoặc ít quan tâm.
Đó là những giá trị tinh thần có trong từng con người, được biểu hiện bằng những phẩm chất, những tính cách và những giá trị mang lính nhân văn cao cả đang tồn tại trong cộng đồng, thể hiện bằng những nghi thức đạo đức trong nếp sống, trong những phong tục tập quán tốt đẹp có ý nghĩa thẩm mỹ đạo đức đậm đà màu sắc dân lộc mà không có gì có thể thay thế được.
Hôm đó. tôi nhấn mạnh với anh Linh rằng, nếu những người lãnh đạo đất nước không kịp thời có những chủ trương, chính sách đúng đắn, bảo vệ và phát triển những giá trị văn hóa dân tộc quý báu này sẽ là có tội không những đối với hiện tại mà cân đối với các thế hệ mai sau. Hãy thử hình dung xem, nếu như đến một lúc nào đó, những pho tượng mười tám vị La hán Chùa Tây Phương không còn nữa, Chùa Keo ở Thái Bình, Chùa Một Cột ở Hà Nội biến mất... thì nền văn hóa Việt Nam sẽ nghèo đi biết chừng nào. Cũng như thế, thật khó mà tưởng tượng nổi đến một lúc nào đó, trên các hội diễn sân khấu, trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam, trên màn ảnh vô tuyến truyền hình... vắng bóng những vở chèo, những làn điệu dân ca từng làm say lòng biết bao thế hệ người Việt Nam.
Trong phòng chỉ có anh Linh và tôi mà tôi cảm thấy như mình đang nói trước một diễn đàn đông đảo. Còn anh Linh thì cũng lắng tai nghe một cách hết sức chăm chú, và hình như càng nghe càng say... Trong giây phút đó, tôi cảm thấy thực sự sung sướng, như được sống lại những giây phút hạnh phúc khi trình bày với anh Linh những dự định chuẩn bị cho nghị quyết 05 ra đời...
Trong khi tôi đang trình bày, có mấy cậu văn phòng thập thò vào báo có khách, anh Linh đều gạt đi để tiếp tục nghe tôi nói. Nhưng sau đó, khi đến phần các biện pháp để thực hiện thì hình như anh Linh không còn được chăm chú lắm. Có lẽ vì nó đụng đến kinh phí, một vấn đề không thể không có đối với nhiệm vụ hết sức khó khăn và nặng nề này. Đây là một lĩnh vực phải được nhà nước quan tâm, trong đó có việc tài trợ kinh phí, mới đủ sức chống chọi với mọi luồng văn hóa ngoại lai đang tràn ngập vào đất nước trong thời kỳ mở cửa hiện nay...
Nghe tôi trình bày xong, bằng một cử chỉ hết sức chân tình, anh Linh rót nước mời tôi uống và nói:
- Những vấn đề anh nêu ra đúng là rất quan trọng và cấp thiết, không thể để chậm hơn nữa. Nhưng việc này không phải chỉ có tôi và anh. Vì vậy anh cần soạn thảo một văn bản hẳn hoi để các đồng chí có trách nhiệm khác cùng nghiên cứu.
Tiễn tôi ra cửa, anh Linh còn động viên tôi:
- Tôi thấy bây giờ anh làm được việc gì có ích cho Đảng, cho đất nước thì cố gắng mà làm.
Tôi cảm thấy như anh Linh muốn an ủi tôi trong hoàn cảnh gần như bị treo giò hiện nay. Bởi từ ngày sát nhập Ban văn hóa văn nghệ với Ban tuyên huấn thành Ban tư tưởng văn hóa trung ương do Trần Trọng Tân làm trưởng ban, thì ngoài Quốc hội ra tôi chẳng được giao nhiệm vụ gì nữa...
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đây là lần thứ hai tôi bị treo giò. Lần thứ nhất sau đại hội Đảng V, tuy trúng cử ủy viên Trung ương nhưng anh Lê Đức Thọ không bố trí tôi làm Trưởng ban Văn hóa văn nghệ. Lần thứ hai, trúng cử ủy viên Trung ương khóa VI, nhưng cũng chỉ giữ chức Trưởng ban Văn hóa văn nghệ có hai năm... Lần thứ nhất, anh Linh ở ngoài cuộc, nhưng lần thứ hai, chính anh Linh là người chứng kiến toàn bộ việc treo giò tôi. Có thể đây là một việc ngoài ý muốn của anh mà do tình thế buộc anh phải chấp nhận. Bởi ngay cái chức Tổng bí thư của anh cũng đã có lúc có "khó khăn" kia mà.
Mới hôm nào anh còn vui vẻ nhận bản tham luận của Nguyễn Khắc Viện, của Dương Thu Hương thì sau đó không lâu, trong một cuộc họp, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã công khai nói Nguyễn Khắc Viện là "con nhà địa chủ đòi lên mặt dạy đời"... Rồi Dương Thu Hương là "con mẹ ranh cũng dám nho nhoe đòi làm Tổng thống"... Rồi "Những việc cần làm ngay" xôn xao một thời cũng đành phải xếp lại. Hai chữ đa nguyên, đa đảng tuyệt đối không được nhắc đến trong bất kỳ trường hợp nào... Sau Tiệp Khắc, Đông Đức, Rumani... Người ta nơm nớp lo sợ con bài Đô-mi-nô Đông Âu vượt biển tràn sang Việt Nam... Tôi biết rõ điều đó nên không oán trách ai, đặc biệt là đối với anh Nguyễn Văn Linh, người mà tôi luôn luôn giữ trong mình một tình cảm quý trọng. Chính vì vậy, sau khi nghe lời động viên của anh Linh tôi đã tiếp thu một cách rất thoải mái:
- Vâng! Từ lâu tôi cũng đã nghĩ như thế. Năm nay tôi đã 68 tuổi, đã vào những năm cuối của cuộc đời rồi, không còn tham vọng chuyển sang làm công tác gì khác nữa. Tôi tự xét trong hoàn cảnh hiện nay chỉ có thể giúp ích cho Đảng về mặt văn hóa mà thôi... Vì vậy mà mấy năm nay tôi tập trung suy nghĩ nhiều về các vấn đề thuộc về lĩnh vực văn hóa. Hôm nay được anh gọi lên, được trình bày với các anh những điều tâm đắc nhất, tôi chỉ có một yêu cầu là các anh ủng hộ tôi để tôi có điều kiện làm việc.
Nghe tôi nói như vậy anh Linh lại tiếp tục động viên:
- Đúng! Tôi hoàn toàn ủng hộ những ý kiến của anh, những đề xuất của anh, anh còn làm được cái gì thì cứ cố gắng mà làm.
Nghe anh Linh nói vậy nhưng tôi vẫn cứ nhắc lại một ý của tôi mà hình như anh chưa thật chú ý lắm là đề nghị các anh cố gắng tạo điều kiện cho tôi thực hiện kế hoạch của mình, bởi nếu không được sự giúp đỡ có hiệu quả của các anh thì tôi sẽ không làm được gì hết. Cuối cùng tôi còn mặc cả với anh Linh:
Sau đây về, tôi sẽ soạn thảo thành văn bản chính thức và tôi sẽ gửi thẳng cho anh chứ tôi không gửi cho Bộ văn hóa và Ban tư tưởng Văn hóa đâu. Tôi xin nói thật với anh là Ban tư tưởng Văn hóa bây giờ ít có ai hiểu về văn hóa thật sâu và thật khoa học. Vì vậy tôi gửi cho họ tôi lo sẽ không kết quả gì... Do đó, nêu anh đã nhất trí với những nội dung tôi đã trình bày với anh thì xin anh ký vào văn bản để sau đó tôi có cơ sở pháp lý để triển khai công việc.
Đây là vấn đề rất quan trọng, quyết định sự thành bại của công việc nên tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt anh Linh để nắm bắt xem sự đồng tình của anh đến mức nào, rồi lại nhấn mạnh lần nữa cái ý ở trên tôi đã nhấn mạnh.
Ngay bây giờ về tôi sẽ chuẩn bị ngay tờ trình và sẽ gửi thẳng cho anh chứ tôi không gửi qua Ban Tư tưởng Văn hóa đâu.
Anh Linh gật gù tán thành:
- Đúng? Anh cứ gửi thẳng cho tôi...
Chỉ hơn một tuần sau tôi đã làm xong 3 văn bản, đút vào 3 phong bì. Một gửi cho Tổng bí thư, một gửi cho Nguyễn Thanh Bình, Thường trực Ban bí thư, một gửi cho Đào Duy Tùng, Bí thư phụ trách công tác tư tưởng. Để cho chắc chắn tránh khỏi thất lạc, tôi trục tiếp đưa tận tay từng người.
Có một chuyện khá buồn cười là khi đưa cho Nguyễn Thanh Bình và Đào Duy Tùng thì cả hai đều không hiểu là chuyện gì cả, trố mắt ngạc nhiên bảo: "Cái gì đấy?. Tôi phải giải thích cho từng người một: "Đây là nội dung mà hôm nọ tôi đã gặp anh Mười Cúc. Anh Mười đã nghe tôi trình bày và hoàn toàn nhất trí. Hôm nay tôi làm thành văn bản chính thức báo cáo để anh biết".
Nguyễn Thanh Bình, Đào Duy Tùng khi nhận được phong bì tôi đưa ngạc nhiên hỏi: "Cái gì đấy" thì hoàn toàn hiểu được. Nhưng khi tôi chuyển cái phong bì có bản tường trình cho Tổng bí thư và cũng nhận được câu hỏi: "Cái gì đấy?" thì tôi vô cùng thất vọng. Tôi lại phải trình bày: "Đây là tờ trình chính thức về vấn đề "Bảo vệ văn hóa dân tộc" và phát triển văn hóa dân tộc" mà hôm trước tôi đã trình bày với anh..." Lúc bấy giờ anh Linh mới à lên một tiếng, cầm lấy văn bản tôi đưa rồi đút vào túi chứ không nói gì thêm nữa.
Khác với phong bì gửi cho Nguyễn Thanh Bình và Đào Duy Tùng, trong phong bì gửi anh Linh, ngoài văn bản chính thức về vấn đề văn hóa dân tộc tôi có gửi kèm theo một thư riêng đại ý nói: "Hôm nọ khi nghe tôi trình bày, tôi thấy anh hoàn toàn tán thành những ý kiến đề xuất của tôi, cả về nội dung, cả về biện pháp thực hiện, anh còn động viên tôi bây giờ cố gắng làm được việc gì thì cố gắng mà làm. Nay tôi xin trình anh văn bản chính thức để xin anh chữ ký và anh thông báo cho Ban Bí thư triển khai thực hiện."
Gửi văn bản đi rồi, tôi hồi hộp chờ đợi. Chờ mãi hết tuần này sang tuần khác, hết tháng này sang tháng khác, chẳng có tín hiệu gì đáp lại. Nghĩa là Đào Duy Tùng không thấy trả lời, Nguyễn Thanh Bình không thấy trả lời, anh Linh cũng chẳng có tin tức gì. Tôi biết lúc này tất cả đang tập trung chuẩn bị cho Đại hội Đảng VII nên chẳng ai có thì giờ mà quan tâm đến văn hóa dân tộc.
Thế rồi bỗng một hôm, tôi nhận được một lá thư của Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, mời lên Nguyễn Cảnh Chân họp. Thư nói rõ: "Vừa qua anh có một số ý kiến trình bày với Ban Bí thư về Văn hóa dân tộc, vậy mời anh lên để cùng trao đổi".
Tôi nghĩ bụng thế là hỏng bét rồi. Tôi đã mặc cả kỹ với anh Linh là tôi chỉ trình bày với anh, với Ban Bí thư rồi cho triển khai thực hiện. Thế mà bây giờ các anh lại chuyển cho Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương để "cùng trao đổi" thì còn làm được cái gì. Tôi dự định sau khi có chữ ký phê duyệt của anh Linh hoặc của Ban Bí thư thì sẽ tự cầm cái văn bản ấy liên hệ với các cơ quan chức năng triển khai thực hiện. Còn bây giờ lại phải qua Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, với cơ chế làm việc hành chính quan liêu, lại không nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thì làm sao mà thực hiện được. Thế là coi như chấm dứt một dự định tốt đẹp từ trong trứng nước.
Việc tuy không thành nhưng bây giờ nghĩ lại tôi rất tự hào về những ý tưởng của mình năm đó. Tôi đã nhìn thấy rõ sự cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc và cố gắng gióng lên một hồi chuông báo động với Đảng... Nhưng cũng như nghị quyết 05, tôi đã cố gắng hết sức mình, tưởng đã gần đi đến thành công nhưng cuối cùng vẫn nếm mùi thất bại.
Tôi thành ra "cầu thủ số 12" trong đội hình. Tôi tích cực đi bóng, nhưng hoặc không có người đón bóng của tôi, hoặc tôi không được chuyền bóng. Như dự án bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc lần này chẳng hạn. Tôi đã tả xung hữu đột, một mình sẽ dẫn bóng đến sát khung thành, lần lượt chuyền bóng đến cho "3 tiền dạo", nhưng cả ba đều cố tình không nhận bóng của tôi.
Tôi vẫn cho rằng việc giải thể Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương là một bước lùi. Tôi rất muốn được tiếp tục giúp ích nhiêu cho Đảng trong lĩnh vực này, cả về nội dung lãnh đạo và cơ chế lãnh đạo. Những biến chuyển bước đầu đã tỏ ra có hiệu quả và đúng hướng. Tôi không có tham vọng gì về chức vụ, về đặc quyền, đặc lợi. Tôi chỉ muốn hoạt động trong cơ quan của Đảng, giúp ích cho Đảng. Nhưng khát vọng ấy của tôi một lần nữa lại không thành... May sao với cương vị Chủ nhiệm ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội tôi vẫn có thể tiếp tục hoạt động, tuy có rất hạn chế, trong một lĩnh vực mà tôi ưa thích... Nhưng ở một đất nước mà Quốc hội thực chất hãy còn quá ít quyền hạn.
Sau lần thất bại này, biết nếu cố gắng nữa cũng vô ích, tôi đã cảm thay chán nản, muốn nghỉ ngơi. Tôi tự lượng sức mình không thể tiếp tục công việc được nữa, khi cái thế chính trị đổi mới quá chậm so với đòi hỏi của cuộc sống. Tôi bất đầu nghĩ đến việc phải chăm lo cho cuộc sống của một người già bình thường, một ông già nghèo nhưng vẫn ham thích quan tâm đến văn hóa nghệ thuật. Bản tài liệu tôi viết để trình anh Linh và Ban bí thư dài hơn mười trang đánh máy, gồm nhiều phần. Trước hết là Đặt vấn đề, trong đó nêu bật quan niệm sống rộng rãi về văn hóa, sau đó nói đến các hoạt động cần thiết, và sau cùng kiến nghị mấy giải pháp về tổ chức, để thực hiện việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc nhưng tất cả tâm sức của tôi đặt vào đó, tiếc thay không đi tới được kết quả nào!
Cùng thời gian chuẩn bị bản kiến nghị về vấn đề "Bảo vệ và phát triển Văn hóa dân tộc", tôi cũng tập trung suy nghĩ để phát biểu ý kiến về cương lĩnh cho đại hội VII. Tiểu ban cương lĩnh do anh Trường Chinh phụ trách, tôi có dự họp nhiều lần và có hai lần tôi phát biểu ý kiến, cả hai lần tôi đều có đề cương ý kiến để phát biểu, cả hai bản đề cương này cộng lại cũng có gần 20 trang đánh máy. Trong đó, tôi có nêu lên những nhận xét về cách thảo luận đề cương mà tôi cho là nó chưa có thực chất của sự thảo luận. Và báo cáo tổng hợp thì thường tổng hợp thành những công thức "về căn bản nhất trí" về đa số tán thành". Tôi còn táo tợn đề ra một dự thảo cương lĩnh 1000 chữ và tôi cho rằng cương lĩnh càng vắn tắt càng tốt và những ý kiến của cương lĩnh càng dứt khoát rõ ràng càng tốt
Tôi lưu ý cần tập trung ý kiến vào giải quyết hai vấn đề:
1. Vấn đề quan niệm về chủ nghĩa xã hội" có kết hợp với việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
2. Vấn đề "đoàn kết dân tộc" trong đó có vấn đề vai trò và vị trí của Đảng cộng sản, với tư cách là Đảng lãnh đạo toàn dân tộc. Vai trò của Đảng phải được xác định trong những thắng lợi, tiến bộ và phải có trách nhiệm trong những thất bại, khuyết điểm mang lại nhiều khó khăn, đau khổ cho dân.
Bản cương lĩnh 1000 từ có lẽ là cố gắng cuối cùng của tôi khi tôi còn là một thành viên trong cơ chế. Có là tấm lòng của tôi đối với Đảng vĩ đại và đất nước thân yêu. Không lâu sau đó, tôi nhận quyết định nghỉ việc một cách thanh thản.
Sau hơn 50 năm hoạt động cách mạng, đã từng bị tra tấn dã man trong nhà tù đế quốc, từng cầm súng chiến đấu trên khạp chiến trường, lắm phen vào sinh ra tử, tôi trở về đời thường một cách bình thường. Hiện tại cuộc sống của tôi hoàn toàn dựa vào đồng lương hưu. Tôi chỉ có một nỗi ân hận là không lo cho vợ con được nhiều về cuộc sống. Các con tôi đứa nào cũng phải tự bươn chải trong cuộc sống, kể cả khi tôi còn tại chức.
Có thể do những phát biểu tâm huyết và xuất phát từ trách nhiệm cao của một Đảng viên mà tôi bị liệt vào hàng ngũ những người chống đối, thậm chí đã có tên trong danh sách" của những người chống Đảng được phổ biến đến Đảng ủy các cấp.
Tôi thấy tôi không thể nào chống những lý tưởng cao đẹp của Chủ nghĩa Cộng sản, nhưng tôi sẽ phải phê phán và chống lại sự làm ô nhiễm lý tưởng cộng sản, chống lại những kẻ xấu xa đang ở trong Đảng. Những kẻ luôn miệng rao giảng đạo đức nhưng thực chất lại là những kẻ tha hóa đạo đức nhất. Tôi sẽ phải chống lại những kẻ làm ngược lý tường cộng sản, sẽ phải chống lại những kẻ làm cho nhân dân mất lòng tin vào Đảng cộng sản. Suốt đời tôi yêu tha thiết Đảng thân yêu của mình, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, với biết bao đồng chí, đồng đội của tôi đã anh dũng ngã xuống, vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì lý tưởng đẹp đẽ: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

HẾT CHƯƠNG 4 MỜI XEM TIẾP CHƯƠNG 5
1      2      3     4      5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét