Ba tiếng đồng hồ sau đó, niềm hi vọng của chúng tôi tắt lịm khi
đoàn xe bít bùng vào cổng trại Tam Hiệp, tỉnh Biên Hòa. Trại này nguyên là “trại
tù binh cộng sản” nên không xa lạ với những bạn có thời gian phục vụ ở Biên Hòa
và vùng lân cận.
Sân trại dưới ánh sáng vàng vọt của những bóng đèn gắn tạm, cho
thấy hai cái bàn với mấy cái ghế, và một toán cộng sản đi qua đi lại chỉ chỗ
cho xe đậu. Tắt máy. Tại mỗi chiếc hầu như có tiếng thúc giục xuống xe và đứng
tại chỗ. Từ giữa sân, một giọng ồm ồm:
“Các anh tập trung trước cái bàn dài này để nghe biên chế. Khẩn
trương lên”.
Những ngày đầu ở trại Long Giao, anh em chúng tôi chẳng ai hiểu
nghĩa của chữ “khẩn trương”nên đôi lần bị họ mắng. Dần dần mới hiểu được, hóa
ra chữ khẩn trương có nghĩa như chữ nhanh lên hay lẹ lên của người dân Việt Nam
Cộng Hòa vậy. Còn chữ “biên chế” có nghĩa như chữ tổ chức của mình. Bởi vì chữ
của cộng sản sử dụng không cùng nghĩa với chữ thông dụng trong văn hoá Việt
Nam, đã biết vậy cho nên chẳng phải thắc mắc làm chi cho mệt trí.
Chỗ ở. Họ đọc danh sách biên chế vào từng “Khối”. Tất cả cấp
Đại Tá vào 4 Khối, con số diễn biến từ 92 đến 94 người trong mỗi Khối, và mỗi
Khối ở trong hai dãy nhà. Tôi ở trong Khối 2, dọn vào dãy số 3 và 4. Đồ đạc lỉnh
kỉnh tạm thời để ngổn ngang, miễn có chỗ nằm ngủ rồi sáng mai dọn dẹp. Lúc ấy
là hơn 1 giờ sáng.
Toàn bộ trại này là loại nhà sườn sắt, lợp tôn, nền tráng
xi-măng, vách cũng bằng tôn cách mặt đất khoảng 3 tấc (0.3 mét) cho gió lùa đỡ
nóng. Vách nhà này với vách nhà kia cách nhau khoảng 5 thước, giữa đầu hồi của
hai dãy cũng một khoảng cách tương tự. Chung quanh mỗi dãy đều có mương thoát
nước rất rộng, và khá sâu nhưng khô queo. Khu vực này toàn đất cát nên trời mưa
vẫn sạch.
Cầu tiêu là cái mương dài đủ cho khoảng 20 người ngồi cùng lúc.
Cầu tiêu không mái che, cũng không có vách bao bọc chung quanh, chỉ có mấy tấm
ván mảnh mai bắt ngang cái mương đủ để ngồi làm cái việc “sản xuất phân bón”, nên
khi có lượn gió hây hây đủ làm mát rượi khắp người! Khi “phân bón xã hội chủ
nghĩa ưu việt” được thải ra từ những con người không phải công dân xã hội
chủ nghĩa đến mức đầy cái mương cầu tiêu, thì trời đất ơi, ruồi nhặng xanh lè,
con nào con nấy bằng ngón tay út vì chúng nó ăn thả giàn. No bụng là bay nhỡn
nhơ khắp các dãy nhà, và đậu vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Khốn nỗi cái mương cầu
tiêu đầy ắp phân bón xã hội chủ nghĩa chỉ cách dãy nhà số 3 -nơi tôi ở- khoảng
15 thước, chỉ cần chút gió thoảng là cái “mùi xã hội chủ nghĩa ưu việt” đến
kinh tởm đó tràn vào nhà này và những nhà kế cận.
Những ngày đầu, anh em chúng tôi tưởng chừng không thể sống nỗi
với cái không khí khiếp đảm này, nhưng rồi cũng phải quen để mà sống. Chẳng những
không thể trốn cái mùi ấy, mà nhiều bạn phải ra ngồi dưới bóng mát của cây trứng
cá nhỏ nhoi ở khoảng cách giữa dãy nhà số 3 với cái mương cầu tiêu, để tránh
“cái nóng nung người nóng nóng ghê” của vách nhà và mái nhà lợp tôn.
Cũng có bạn chấp nhận cái nóng gay gắt để được nằm trong nhà vì lúc ấy mới nằm
thong thả được, bởi chỗ nằm của mỗi người được phân chia một cõi không gian bé
tí vỏn vẹn 6 tấc (0.6 thước) bề ngang.
Nấu ăn. Một gian nhà bếp có 6 miệng lò cở chảo đụn (loại chảo
có sức chứa 60 lít nước) dành cho 4 Khối nấu ăn. Mỗi Khối tổ chức thành 6 Tổ
nhà bếp để tự lo cho Khối mình. Nhà thầu cung cấp cây cao su già nguyên khúc,
và rau với cá tươi. Toàn là “cá ngừ”, một loại cá biển có giá trị thấp nhất
trong các họ nhà cá. Tôi phụ trách một Tổ trong 6 Tổ nấu bếp của Khối 2.
Tổ chức nhóm. Mỗi Tổ chia ra như sau: Nhóm nấu bếp thì tôi
nấu cơm. Anh Nguyễn Ngọc Điệp (Đại Tá bộ binh) chụm củi. Anh Trần Phước Dũ (Đại
Tá Hải Quân) nấu thức ăn. Nhóm làm rau gồm 6 anh mà hầu hết là Bác Sĩ Quân Y.
Nhóm sau cùng là chẻ củi cao su và cung cấp nước. Ở trại này, nước dùng thong
thả chớ không khốn đốn như ở trại Long Giao.
Phân công. (1) Nhóm nấu bếp. Từ mờ sáng, anh em chúng tôi xuống
bếp nhóm lửa nấu hai chảo nước sôi (120 lít nước). Khiêng lên hai dãy nhà số 3
và 4 để các bạn có nước chín sử dụng trong ngày. Sáng sớm có nước sôi pha trà,
pha cà phê, thậm chí ăn mì gói nữa. (2) Nhóm làm rau. Ra ngoài cổng lãnh gạo,
rau, và cá ngừ ở Ban Chỉ Huy trại. Nói là ra ngoài cổng chớ thật sự chỉ cách ba
lớp hàng rào kẽm gai liền nhau thôi. Sau khi giao cá cho tôi, nhóm này rửa rau
xắc rau nếu cần. Rau, thường là trái su le hay bắp cải. Làm xong rau thì giao
cho anh Dũ. (3) Nhóm chẻ củi. Củi thì chẻ lúc nào cũng được. Lúc làm bếp thì lo
cung cấp nước theo nhu cầu của Nhóm Làm Rau và Nhóm Nấu Bếp. Công việc đơn giản
so với hai Nhóm kia.
Diễn tiến. Trong khi tôi làm cá mà thông thường là 5 hay 6
con cá ngừ lớn bằng cổ chân, anh Dũ cho 60 lít nước vào chảo chuẩn bị nấu canh.
Thường khi tôi làm cá xong, cũng là lúc anh Điệp đâm xong tô muối trộn với một
bó hành lá xắc nhỏ và khoảng 100 trái ớt (do chúng tôi trồng) để tôi ướp cá. Phải
dùng nhiều hành nhiều ớt để giảm bớt mùi tanh của cá ngừ. Ướp xong để đó, cho
rau vào chảo nước đang sôi, cùng lúc cho vào tô muối hột với 100 gram bột ngọt.
Thế là chúng tôi có chảo canh, múc ra hai cái chậu thau lớn để sang một bên.
Xong món canh, rửa chảo và cho nước vào chảo chuẩn bị nấu cơm. Cứ một thùng gạo
là một thùng rưỡi nước, theo tỷ lệ đó mà lường gạo với nước. Trước khi cho gạo
vào, tôi nhắc:
“Cho lửa tối đa nghe anh Điệp”.
Khi cơm sôi: “Anh Điệp ơi! Bớt lửa 50%”
Lúc ấy anh Điệp kéo lửa ra, anh Dũ dùng lửa đó kho cá. Khi chảo
cơm đủ hơi, anh Điệp kéo hết lửa ra ngoài và cứ thế mà chờ cơm chín, cá chín.
Chia thức ăn. Cơm chia ra hai phần, cá cũng vậy, và toán trực
của Khối xuống bếp khiêng về phân chia cho 92 (hay 94) khẩu phần. Chia cơm,
canh, cá kho, cũng là vấn đề đôi khi rắc rối chớ hổng phải đơn giản
đâu, vì lẽ lúc nào cũng không đủ ăn, nên lỡ tay chia không đều là bị bạn bè phản
đối lia lịa! Mỗi người có một dụng cụ đựng cơm, một dụng cụ đựng canh, và một dụng
cụ đựng thức ăn mặn. Dụng cụ mà tôi nói ở đây có thể là cái tô, cái bình nhựa,
cái ca uống nước, cái lon guigoze, hay bất cứ thứ gì đựng được thức ăn nước uống.
Thậm chí cũng có thể là một miếng ni-lông nhỏ đựng cơm.
Nghỉ trưa một lúc, Tổ nấu ăn chúng tôi xuống bếp và lặp lại những
động tác nấu cơm thôi, vì canh với cá kho còn dành lại. Mồ hôi đẫm người trong
ngày nấu ăn, vì lửa từ trong bếp, cộng với cái nắng gay gắt hòa trong sức nóng
của mái tôn.
Cả ngày, ngày này sang ngày khác, gần 400 Đại Tá thua trận cứ
vòng vòng trong bốn bức rào kẽm gai cao khỏi đầu người. Thỉnh thoảng họ vào điểm
danh từng người trong từng nhà một. Trại này do Đoàn 775 canh giữ. Trại gồm nhiều
Khu ngăn cách bởi hàng rào kẽm gai. Nhờ lén lút liên lạc qua lại chúng tôi mới
biết là mỗi Khu họ giam giữ một cấp, từ Đại Úy đến Đại Tá. Dần dần chúng
tôi hiểu được cách dùng “phiên hiệu” cho các đơn vị của cộng sản. Chẳng hạn như
Đoàn này mang số 775 có nghĩa là thành lập hồi tháng 7 năm 1975. Ngược dòng thời
gian vào năm 1971 khi tôi phục vụ tại Tổng Cục Tiếp Vận, trong mục đích nghiên
cứu tiếp vận của cộng sản mà họ gọi là “hậu cần”, tôi tập trung tài liệu liên
quan đến tổ chức và điều hành của Đoàn 559 hậu cần chiến lược đường bộ của cộng
sản, phụ trách chuyển quân lính của họ cùng với vũ khí đạn dược men theo dãy
Trường Sơn xâm nhập Việt Nam Cộng Hòa, mới biết đơn vị đó thành lập vào tháng 5
năm 1959. Sự kiện này nối tiếp sự kiện họ gài lại miền Nam hằng chục ngàn đảng
viên khi rút quân ra miền Bắc theo qui định trong Hiệp Định Genève tháng 7 năm
1954, đã chứng minh rõ nét là cộng sản nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chuẩn
bị chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng ta từ trước khi Hiệp Định
Genève có hiệu lực.
Mỗi sáng sớm, mọi người khốn khổ với mấy cái loa chỏ vào
khu nhà cấp Đại Tá, cứ ra rả những mẫu tin nghe đến nhàm tai, như: đã làm đất
vô phân bón lúa, đã làm cỏ sục bùn cho vùng ruộng này được bao nhiêu mẫu, vùng
ruộng kia được bao nhiêu mẫu, đạt bao nhiêu phần trăm, ..v..v… Nhìn
từ góc độ kinh tế một quốc gia, những mẫu tin như vậy chẳng những không nói lên
được sự phát triển gì cả, mà chỉ cho thấy một đất nước quanh năm suốt tháng
không có sinh hoạt nào khác hơn là đồng ruộng nương rẫy. Nhưng nghĩ cho cùng,
những tin tức đó còn đỡ khổ hơn là nghe những bài diễn văn của những người mà họ
gọi là lãnh đạo đảng lãnh đạo nhà nước. Trong cái không khí mà họ thường dùng
những nhóm chữ như: “Thừa thắng xông lên. Việt Nam sẽ ngang tầm thế giới. Việt
Nam tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nào là ai thắng
ai. Nào là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, ..v..v… “ Ông nào cũng nói cũng
phát biểu, và bài phát biểu nào cũng tràng giang đại hải nhưng không rời khỏi
những điệp khúc nghe đến ngượng cho họ.
Cho nên có những anh thích chơi bài mạt chược để giết thì giờ
trong khi chờ về nhà, đã rất kiên nhẫn cưa củi cao su ra, đẽo nhỏ, mài láng, tạo
nên những bộ mạt chược tưởng như mới mua ở chợ miền núi vậy. Từ đó, một sòng mạt
chược thường ngày chiếm gốc cây trứng cá ở giữa nhà số 3 với cái đường mương tồn
trữ “phân bón ưu việt xã hội chủ nghĩa”. Mùi hôi thúi từ nơi tồn trữ đó không
có nghĩa gì với các bạn ấy, mà thật ra có ngồi trong nhà thì mùi đó vẫn ngang
nhiên tạt ngang để sang nhà số 4 và những nhà khác nữa! Số sòng mạt chược dừng
lại ở con số 3, có nghĩa là đủ thỏa mãn nhu cầu của các anh mộ điệu.
Từ các sòng mạt chược giải trí nhìn sang một sinh hoạt khác đáng
khuyến khích. Đó là một số anh lén cắt dây kẽm gai, kiên nhẫn gở bỏ từng cái
gai, vỗ cho dây kẽm thẳng ra, cắt từng đoạn ngắn, đánh lại thành từng khoen, rồi
nối các khoen lại làm dây kéo nước giếng. Tuy nặng một chút, nhưng có mà sử dụng
vẫn hơn. Đến ăn cắp tôn rải rác trong khu trại. Tôn lợp nhà hay làm vách đều là
tôn dợn sóng, cho nên phải kiên nhẫn vỗ cho thẳng trước khi gò thành cái thùng
kéo nước giếng, hoặc đựng nước sử dụng trong ngày. Đến một sinh hoạt khác nữa
cũng đáng khuyến khích. Đó là có những anh đào rễ và củ hà thủ ô.
Không biết vì sao mà loại này thường mọc giữa những lớp hàng rào kẽm gai ngăn
cách giữa các khu trong trại. Hà thủ ô là loại dây leo, ít lá, trông có vẻ lơ
thơ tơ liễu buông mành, vậy mà phải đào liên tục từ 3 đến 5 ngày mới đến củ của
nó ở độ sâu thường thấy từ 2 đến 3 thước. Sự kiên nhẫn này thường được đền bù
cho những anh đào xới một mớ củ và rễ. Sau khi nâng niu cho mát tay, đem củ và
rễ hà thủ ô rửa sạch, xắc phơi khô nấu nước uống. Tôi thường được anh bạn trẻ
cùng quê Vĩnh Long cho một ly nhỏ, cho vào chút đường, uống rất ngon, và vào giấc
ngủ rất nhẹ nhàng. Lính canh cộng sản bắt gặp chui vào hàng rào kẽm gai là họ mắng
dữ lắm, nhưng cũng may là họ chưa bắt tại trận anh nào vạch hàng rào chui vào
nên chưa ai bị biệt giam.
Tôi nhớ có đọc bài viết về hà thủ ô, vì lâu quá nên trí nhớ còn
lưu giữ đôi nét. Là loại cây mọc hoang nhiều nhất ở Việt Nam, Trung Hoa, Đài
Loan, Nhật Bản. Trong ngành y dược Đông cũng như Tây, đều công nhận hà thủ ô là
loại dược thảo thường dùng trong các viện bào chế thuốc. Khi đào lên chưa chế
biến gì thì gọi là “hà thủ ô trắng”, nhiều nơi -nhất là Trung Hoa- đem nấu với
đậu đen được gọi là “hà thủ ô đỏ”. Khác biệt giữa hai loại hà thủ ô này là “hà
thủ ô đỏ” nhiều tính năng trị liệu hơn “hà thủ ô trắng”. Ngay trong anh em
chúng tôi, tác dụng cảm nhận được khi sử dụng hà thủ ô là dễ tiêu hóa, dễ ngủ,
khỏe khoắn, không bị bón, và nếu uống nhiều giúp cái bao tử dễ chịu
hơn.
Lại một kỳ công nữa của anh Nguyễn Văn Nhu (Đại Tá Quân Y). Khi ở
trại tập trung Long Giao, anh đã phát minh cái vòi tắm bông sen cực
nhỏ với vật liệu quá ư đơn giản, chỉ là cái lon đựng sữa bột guigoze do Hòa Lan
sản xuất. Tại trại tập trung Tam Hiệp này, anh hoàn thành cây đàn Banjo hoàn toàn
sử dụng vật liệu ngay trong trại, gồm: củi cao su, giây điện, và giây điện thoại.
Kết quả sản phẩm của anh, tuy âm thanh không thể sánh với cây đàn Banjo thứ thiệt,
nhưng vẫn cung cấp những âm thanh mềm mại trong bầu không khí của trại tập
trung thường xuyên căng thẳng. Có điều là sáng tạo này hiệu quả không cao như
phát minh vòi tắm bông sen kỳ diệu. Sau đó, anh Nhu còn dùng đất sét làm tô làm
chén ăn cơm nữa. Phải công nhận, bác sĩ Nhu là người rất kiên nhẫn nhưng lại rất
ít nói. Ít nói đến mức mà anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) em vợ của
anh, cầm trên tay mấy viên thuốc đến hỏi anh:
“Anh Tư, anh Tư, em bị cảm uống thuốc này được không?”
Xem một lúc, anh Nhu buông thỏng một câu: “Bộ muốn chết hả.”
(Năm 2004, tôi có dịp gặp Bác sĩ Nhu tại Houston, được biết anh
và gia đình ở Tampa, Florida. Cựu Đại Tá Nguyễn Kim Tây đã từ trần tại Dallas
dường như là năm 2005).
Đầu tháng 12/1975, họ cho phép viết thư về gia đình, đồng thời họ
cho nhận quà từ gia đình gởi đến nhân lễ Giáng Sinh. Từ vài ngày trước ngày 25
tháng 12, họ đưa xe về Bưu Điện Sài Gòn -nơi tập trung bưu kiện- và chuyên chở
về trại trong ngày. Rất nhiều anh em cùng trong Khối 2 nhận được quà từ gia
đình gởi đến, trong số đó có tôi. Tháo gói quà ra mà việc trước tiên là xem
thư. Ồ! Trong thư có vài tấm ảnh. Sau 6 tháng xa cách, trông thấy vợ con tôi mà
xót xa vô cùng! Vợ tôi ốm (gầy) hẳn đi! Các con tôi, tuy sức khỏe không kém nhiều,
nhưng nỗi buồn hiện rõ trên nét mặt và cả dáng đứng nữa! Vợ tôi nhắc lại hai lần
là tôi phải giữ gìn sức khỏe, vì trong mọi hoàn cảnh vợ con tôi “sống trong cảnh
sống của tôi”, và đó là điều mà tôi không được quên! Vợ tôi cho biết Ba Má tôi
đã dọn nhà về Nha Mân -quê Nội- mà không cho biết lý do, nhưng điều này tôi đã
biết hồi tháng trước (11/1975). Lúc ấy có anh bạn cấp Đại Úy nhờ các bạn bên
khu cấp Trung Tá chuyển tiếp qua khu cấp Đại Tá cho tôi biết, nhà Ba Má tôi ở
Vĩnh Long đã bị cộng sản tịch thu với lý do là “Ba Má của Đại Tá ngụy”.
Xem thư và ảnh xong tôi mới nâng niu gói bưu phẩm, phải nói cho
đúng là gói quà thân thương trên tay. Suy nghĩ như vậy mới cảm nhận được chiều
sâu của khối tình cảm từ vợ và các con tôi bàng bạc trên khắp những gói những hộp!
Nói nghe có vẻ như nhiều lắm, nhưng thật sự với 5 kí lô nên chỉ vài gói vài hộp
với đồ dùng linh tinh là đến trọng lượng giới hạn rồi. Bây giờ mới đến từng món
quà. Với cái quần pyjama trên tay, tôi sờ theo đường dây thun vì trong thư vợ
tôi có nói cái quần đã luồn thun rồi, ắt phải có cái nghĩa khác hơn là luồn
thun. Đúng vậy, lần lượt tôi nhẹ tay kéo ra được 4 tờ giấy bạc loại 10 đồng.
Đây là tiền giấy mà cộng sản vừa đổi vừa ăn cướp hồi tháng 9 vừa qua, và 1 đồng
mới này họ đánh giá bằng 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa. Số tiền này tôi nhờ anh
Nguyễn Trung Chánh (Đại Tá Quân Cụ) trong toán thợ rèn đi làm bên ngoài trại,
lén lút gởi nhà thầu cung cấp thực phẩm mua giùm đậu nành và đường tán làm sữa
uống.
Đổi tiền ngày 18/9/75 mà tôi nói họ vừa đổi vừa ăn cướp, vì mỗi
người dân có bao nhiêu tiền cứ mang đến đổi, nhưng họ chỉ đưa lại tối đa có 200
đồng (bằng 100.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa) dự trù cho mỗi gia đình 5 người chi
tiêu trong một tuần lễ, còn bao nhiêu thì họ giữ lại. Sau đó, mỗi khi cần tiền phải
làm đơn xin rút tiền và đơn này phải được Phường/Xã cứu xét. Còn họ có chấp thuận
hay không, nếu chấp thuận rút và cho rút bao nhiêu tiền là quyền của lãnh đạo cộng
sản địa phương. Thử ngược dòng lịch sử, chưa một chế độ nào kể từ thời phong kiến
Việt Nam, thời bị phong kiến Trung Hoa cai trị ngót ngàn năm, cho đến thời bị
thực dân Pháp cai trị hơn 80 năm, chỉ có thời cộng sản Việt Nam ngày nay mới có
cái quyết định ăn cướp cạn như vậy thôi. Hé nhìn ra thế giới, không một nước
văn minh nào có cái chính sách đổi tiền như lãnh đạo cộng sản Việt Nam cả.
Tiền của mình mà khi cần mua sắm phải xin phép họ, và chỉ khi được phép mới lấy
được tiền của mình mà xài. Trời đất ơi! Ngang ngược và man rợ không thể nào tưởng
tượng nỗi! Thế mà họ luôn vễnh mặt rồi vỗ ngực tự xưng là “cách mạng”! Thật là
tội nghiệp cho văn chương chữ nghĩa Việt Nam biết bao!
Một lon guigoze đựng đầy thịt heo nạc kho tiêu mà tôi tưởng chừng
như còn vương mùi thơm hột tiêu mà vợ tôi vừa cho vào vậy. Ngay sau khi xong
ngày nấu bếp, tôi với anh Nguyễn Ngọc Điệp, ngồi lại ăn chiều, và có lẽ trong đời
tôi cho đến lúc ấy chưa bao giờ tôi có được bữa ăn ngon đến như vậy quí vị quí
bạn à! Bởi vì sự thiếu ăn đã hơn 180 ngày qua, cho nên ngoài cái hương vị thông
thường ra, thức ăn còn có cả hương vị từ tình yêu thương của vợ của con tôi nữa.
Đêm đó hầu như tôi không ngủ được bao nhiêu, nhưng không cảm thấy
chút mệt mỏi nào. Bởi tôi hồi tưởng lại trong khoảng thời gian gần 3 năm kể từ
khi quen biết nhau (năm 1955) đến ngày hôn lễ (1958), chúng tôi trao đổi nhau
những quan niệm về cuộc sống lứa đôi. Theo đó, với quan niệm hạnh phúc gia
đình, chúng tôi hứa với nhau sẳn sàng chấp nhận những thiệt thòi để giữ được hạnh
phúc trong cuộc sống. Với các con thời thơ ấu, sức khỏe và niềm vui của các con
là hạnh phúc của chúng tôi. Với các con trong tuổi học hành, xây dựng tương lai
cho các con là hạnh phúc của chúng tôi. “Xây dựng tương lai” mà chúng tôi sử dụng
ở đây đặt trên nền tảng “Kiến Thức, Đạo Đức, Nghị Lực”. “Kiến thức”, do bẩm
sinh, do giáo dục gia đình, giáo dục học đường, và giáo dục xã hội. Kiến Thức
được “Đạo Đức” hòa vào sẽ giúp cho những sáng tạo thực hiện được mục đích góp
phần đưa xã hội phát triển theo nguyện vọng chung của xã hội. Nhưng nếu kiến thức
hòa với đạo đức mà thiếu “Nghị Lực”, e rằng khó vượt qua những khó khăn bất trắc
khi thực hiện. Và vân vân…
Đêm cuối cùng của năm 1975, anh Trần Tín (Đại Tá Quân Nhạc) đã
hát bài “Gói Quà Đầu Tiên” do chính anh vừa sáng tác. Lời ca chỉ là mớ ngôn ngữ
thường dùng trong cuộc sống chớ không văn chương gì sâu xa, nhưng đã gây xúc động
mạnh trong hầu hết anh em ngồi nghe, vì hình tượng gia đình đang ngày đêm hướng
về mình trong một tình cảm thân thương vô hạn! Anh vừa hát vừa khóc! Chúng tôi
vừa khóc vừa nghe!
Vào những ngày cuối năm âm lịch tức gần Tết Nguyên Đán đầu năm
1976, họ cho phép gia đình gởi bưu phẩm cho chúng tôi trong trại. Vẫn cách làm
như lần trước, họ cho xe về Bưu Điện Sài Gòn nhận và chở lên trại. Hầu hết là
bánh mứt, trà, cà phê, nghĩa là những thứ gói ghém “hương vị ngày Xuân”.
Đêm Giao Thừa. Một bàn thờ Tổ Quốc thu nhỏ thiết lập trong một
góc được che giấu khá kín đáo. Một nhóm bạn không nhiều lắm vì cần tránh ồn ào
dễ bị lính cộng sản rình rập bắt được thì nguy. Ngay lúc bên ngoài có tiếng
pháo đầu Xuân, là lúc chúng tôi lần lượt đứng trước bàn thờ cầu nguyện. Trong
giờ phút đầu tiên của Năm Mới, tôi nghĩ các bạn tôi cũng như tôi, trong cái
chung là giây phút nghiêm trang đó chúng tôi cảm nhận được sự xúc động từ nơi
sâu thẳm của tâm hồn đến rớm lệ! Còn cái riêng của mỗi người thể hiện qua nét
đăm chiêu nhăn nhúm, cho dẫu là đang bắt tay Chúc Mừng Năm Mới với nhau cũng vậy.
Ngày thường trong buồn ngoài vui, nhưng ngày Tết thì buồn cả trong ngoài.
Từng nhóm chúng tôi quây quần bên lon trà, lon cà phê với bánh mứt
bày trên “nắp bàn” là mảnh giấy ngay trên chỗ nằm. Câu chuyện chỉ là xoay quanh
nội dung Tết buồn và số phận long đong!
Đây có phải là cái Tết trong trại tù không, mặc dù đang ở trong
vòng rào chắc chắn của một khu trại, có lính cộng sản canh gác chặt chẻ, mất
quyền công dân, ấy vậy mà hầu như đa số anh em chúng tôi chưa công khai nhìn nhận
mình là tù! Từ hơn nửa năm qua, lúc nào cộng sản cũng nói chúng tôi là học tập
cải tạo, và gọi chúng tôi là những “cải tạo viên”. Phải công nhận sự dối trá với
những mỹ từ của cộng sản hay đến mức mình không nhận biết mình là tù, chỉ mới
chấp nhận bị nhốt để học tập thôi. Hay là tại mình không biết gì về cộng sản?
Có lẽ điểm này dễ được chấp nhận hơn.
Từ trại Long Giao chuyển đến đây đã hơn 3 tháng rồi mà chẳng thấy
họ đá động gì đến cái gọi là “học tập cải tạo”, ngoại trừ lo cơm hằng ngày và
thỉnh thoảng họ dắt ra ngoài trại làm những công tác lặt vặt. Chỉ có toán
cơ khí với bảy anh Đại Tá hằng ngày ra ngoài trại làm cuốc
xẻng. Do vậy mà những mẫu chuyện được mang ra bàn luận như lúc ở Long Giao. Tóm
tắt như thế này:
“Có thể đây là thời gian để họ phân loại chúng mình chăng?”
“Phân loại như thế nào và để làm gì?”
“Thì chỉ phỏng đoán thôi chớ ai mà biết bọn họ tính toán gì
đâu”.
“Tôi nghe toán cơ khí nói tụi nó (cộng sản) tính làm sạp gỗ cho
mình nằm đó. Nếu sự thể đúng như vậy thì còn lâu tụi mình mới về được”.
“Làm gì có chuyện đó. Có học cái quái gì đâu mà làm sạp với
không làm sạp.”
“Mấy hôm trước có anh nào bên Khối 1 nhận được thư nhà cho biết
là hồi tụi nó vô Hà Nội năm 1954, đã bắt sĩ quan mình đi học tập lâu nhất là 18
tháng đấy các anh ạ!”
“Giỡn sao cha nội. Thời đó tụi nó mới chiếm một nửa nước, còn
bây giờ nó nuốt trọn cả rồi thì tình hình khác chớ. Với lại cái thông cáo chỉ
nói có 30 ngày mà, các cha quên mau vậy?”
“Thôi đi bạn. Bây giờ là gần 7 lần 30 ngày rồi mà tụi nó có nói
gì với mình đâu. Tôi đếch tin chúng nó nữa.”
“Trong đám tụi mình, có lẽ chỉ có mấy cha chơi mạt chược là khỏe
thôi.”
“Khỏe! Thế nào là khỏe.” Bóp đầu bóp trán cả ngày mà khỏe nỗi
gì.”
“Tôi nói khỏe, tức là không bận tâm đến chuyện chung, chuyện
chính trị, chớ hổng phải khỏe là không mệt.”
“Ừ! Nói vậy còn nghe được.”
Đại để thì rất nhiều hội nghị bàn tròn bàn vuông với những mẫu
chuyện trao đổi râm ran như vậy, thế mà bánh mứt, trà, cà phê, thuốc lá sạch
trơn, nhưng không anh nào hình thành được một kết luận nào khả dĩ có chỗ mà
tin.
Chẳng bao lâu sau Tết Nguyên Đán, tất cả anh em cấp Đại Tá trong
4 Khối ở trong 8 nhà phải dồn lại, nhường chỗ cho anh em cấp Thiếu Tá ở doanh
trại của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo cũ từ Hóc Môn chuyển đến. Tụi cộng sản
gọi là trại Hóc Môn. Mỗi nhà đang từ 46 hoặc 47 người, nay tăng lên đến 72 người,
làm cho “cái cõi không gian bé tí” của mỗi anh em chúng tôi thu hẹp lại còn 42
phân tây (0.42m), tức vừa hơn 2 gang tay! Kích thước “cái body” của tôi còn nằm
ngửa và thẳng người được. Khi muốn ngồi dậy, hai tay khoanh trước ngực và từ từ
ngóc đầu ngồi dậy. Âu cũng là cách tập các bắp thịt bụng đó mà. Nhưng anh Điệp
(Nguyễn Ngọc) mà tôi thường gọi là người bề thế vì “cái body” của anh rộng rãi
lắm. Anh rất khổ sở về đêm. Do vậy mà vừa tối là anh ngủ say sưa vì lúc ấy anh
có thể nằm thong thả hơn nhiều. Trong đêm, mỗi khi ngồi dậy đã là khó, nhưng
khi vừa đứng dậy thì chỗ nằm bị hai anh bạn bên cạnh vô tình choán ngay. Nếu
không làm dấu để nhận ra chỗ nằm của mình thì không tài nào nằm đúng chỗ được,
mà mỗi lúc như vậy thì y như rằng tiếng càu nhàu cả đầu trên xóm dưới đều nghe.
Khi nhận ra chỗ nằm phải từ từ nghiêng người dùng vai lách dần hai bạn bên cạnh,
một lúc sau cũng nằm xuống được.
Thế rồi anh em chúng tôi được lệnh đi “lao động”. Nói rõ hơn là
đi cuốc đất đánh vồng trồng khoai mì mà bọn cộng sản gọi là trồng sắn. Trong tuần,
mỗi Khối đi làm vài ngày. Trong những ngày này, cứ mỗi sáng nghe loa phóng
thanh ra rả nhắc đi nhắc lại cái gọi là kỹ thuật trồng sắn. Nào là cách đánh vồng,
khoét một đường dài bao nhiêu, đoạn hom khoai mì dài 12 phân tây phải quay gốc
về hướng đông khi đặt xuống, hai tay phải vung đất lấp lại. Thế nhưng khi ra
khu đất sau trại, gần đường xe lửa xuyên Việt, mấy tên lính cộng sản lại hướng
dẫn theo cách khác:
“Các anh cứ đánh vồng, dùng cuốc cuốc nhẹ xuống và kéo thành một
đường dài, ném đoạn hom xuống đó mà chẳng cần xem hướng đông tây nam bắc gì cả,
dùng chân đùa đất lên và đạp xuống cho chặt là xong.”
“Thế tại sao kỹ thuật viên hướng dẫn qui cách qui trình gì đủ thứ
vậy bộ đội?” Một anh hỏi.
“Chuyên viên kỹ thuật họ chỉ biết lật sách ra mà đọc, còn tôi
làm theo kinh nghiệm. Thôi, các anh làm đi, đừng có đứng đó mà dài dòng.”
Mỗi khi ra trại đi làm, tụi nó dẫn theo cả Tiểu Đội lính với đầy
đủ súng đạn và cả máy truyền tin theo canh giữ chúng tôi, cứ như đi đánh trận vậy.
Lần thứ hai khi ra làm ở khu đất này, chúng tôi thấy có 3 nhóm dân có vẻ như
đang làm rẫy cách chúng tôi khoảng 30 thước. Nhìn kỹ, tôi nói với anh Điệp:
“Anh Điệp ơi! Có vẻ như đó là thân nhân trong số anh em mình
chớ không phải người dân vùng này làm rẫy đâu anh. Mắt anh Điệp
trông không rõ nên không có nhận xét gì, ngoại trừ suy đoán có thể như vậy lắm.”
Phụ nữ và trẻ con ăn mặc tươm tất của dân Sài Gòn cho dẫu Sài
Gòn bây giờ dưới quyền của cộng sản. Ba nhóm đó đứng chống cuốc nhiều hơn là cuốc,
và luôn nhìn về phía chúng tôi. Thỉnh thoảng mấy đứa trẻ nói lớn lên:
“Đường Trần Hưng Đạo nhé.”
“Đường Lê Văn Duyệt đây.”
Nhưng không một ai trong chúng tôi dám lên tiếng, vì cả Tiểu Đội
lính bao quanh chúng tôi chặt hơn, tụi nó quát tháo đuổi đi khi thấy mấy đứa trẻ
mon men đến gần chúng tôi. Rõ ràng là gia đình anh em chúng tôi tìm cách để gặp
người thân, nhưng không thể được. Điều đó nói lên tình cảm gia đình sâu nặng biết
bao, cho dẫu không còn người chồng người cha làm ra tiền cho gia đình, người vợ
thay vào đó gồng gánh cho cuộc sống gia đình, cùng lúc tìm mọi cách để thăm gặp
người bạn đời thân thương trong trại “học tập cải tạo”.
Một hành động khác rất có ý nghĩa làm cho bọn canh giữ tức giận
nhưng không làm gì được, trong khi anh em chúng tôi rất thích thú và thầm gởi lời
cám ơn theo đoàn xe lửa. Đó là mỗi khi đoàn xe lửa chạy ngang, trên nóc các toa
xe hầu như đứng đầy các thanh thiếu niên có chuẩn bị gạch đá, liệng tới tấp vào
đám lính cộng sản canh giữ chúng tôi. Một vài em còn trịch quần xuống trong khi
đoàn xe vẫn ung dung tốc độ từ từ vì chạy chậm lắm. Quả thật hành động trịch quần
như vậy xem chừng không lịch sự chút nào, nhưng từ góc độ chính trị thì đáng
cho anh em chúng tôi suy nghĩ về cách bày tỏ ý thức chính trị của người dân nhỏ
bé Việt Nam Cộng Hòa cũ đối với cộng sản.
Bên khu cấp Trung Tá chuyền tin qua cho biết, đã có anh nhận được
thư và tiền khi đi làm gần đường xe lửa do người nhà lén lút thâm nhập vào khu
trồng khoai mì.
Một buổi chiều khi cuốc đất trở về, trông thấy tụi nó đang kéo
dây và gắn hai cái loa khá lớn chỏ vào trại. Đường dây bắt đầu từ khu vực bộ chỉ
huy trại, tức Đoàn 775. Sau cơm chiều hôm ấy, anh em chúng tôi có đề tài để đồn
đoán, vừa giết thời gian cũng vừa nói lên tâm trạng “wait and see” của những
người chỉ được quanh quẩn sau những lớp hàng rào kẽm gai.
“Có thể là lễ ra về đang được chuẩn bị chăng?”
“Không phải đâu bạn ơi! Lễ gì mà kéo dây dài vậy. Hệ thống âm
thanh phải thiết trí ngay nơi tổ chức lễ chớ sao kéo vô trại làm chi.”
“Cách tổ chức của họ có chắc gì giống mình đâu mà khẳng định như
vậy.”
“Theo tôi, họ bắt mình nghe radio đến mức không ngủ được cho mà
coi. Họ hành hạ mình bằng cách làm cho mình điên lên đó.”
“Cũng dám lắm à.”
Và rồi sau đó, họ vào trại gọi các anh Khối Trưởng Khối Phó của
các Khối Thiếu Tá, Trung Tá, Đại Tá, ra bộ chỉ huy Đoàn 775 dự thính một phiên
tòa quân sự. Hóa ra hai cái loa chỏ vào trại buộc anh em chúng tôi
trong trại phải nghe cái gọi là tòa án quân sự Quân Khu 7 của họ.
Chánh thẩm tên Nguyễn Văn Ba, Trung Tá Đoàn Trưởng Đoàn 775. Nói cho dễ hiểu là
tên Đoàn Trưởng ngồi xử án. Bị can của phiên tòa là hai sĩ quan trong số anh em
chúng tôi bên khu Thiếu Tá. Đó là anh Thiếu Tá Bé và Thiếu Tá Thìn (?). Hai bạn
này khi ở trại Hóc Môn đã trốn trại và bị bắt lại. Từ khi chuyển đến đây (trại
Tam Hiệp) hai bạn bị nhốt trong hai cái conex. Conex là cái thùng sắt ngang khoảng
2 thước, dài có lẽ hơn bề ngang một chút, và cao cũng khoảng 2 thước. Loại này
do Hoa Kỳ viện trợ để quân đội sử dụng tồn trữ tạm khi chuyển hàng, vừa tránh
hư hỏng vừa tránh mất mát mà lại gọn gàng khi bốc dỡ nữa. Cái thùng như vậy mà
nhốt con người trong đó với sức nóng kinh khủng của miền Nam chỉ hai mùa mưa nắng!
Dã man đến thế là cùng!
Theo lời thuật của các anh dự phiên tòa kể lại rằng:
“Cái gọi là phiên tòa quân sự đã căn cứ vào lời tự khai sau đợt
học tập chính trị để kết tội hai anh bạn này. Họ gắn sự kiện du học trường Tình
Báo Hoa Kỳ ở Okinawa, Nhật Bản với sự trốn trại để tiếp tục hoạt động chống lại
họ, thế là họ tuyên án tử hình cả hai anh. Ngay lập tức, hai tên lính cộng sản
bước tới bịt mắt, lôi hai anh ra pháp trường, cột vào hai cột gỗ mới
dựng buổi sáng. Và rồi loạt đạn AK 47 nổ vang đã kết thúc sự sống của hai bạn!
Đầu ngoẻo về một bên, máu đẫm cả áo quần!. Bọn họ đem chôn xác hai anh ấy ở đâu
không ai biết.”
Sáng hôm sau, Khối 2 chúng tôi đi làm nhà ở cạnh “pháp trường”.
Tôi đến chỗ cột gỗ, máu dính lem nhem trên thân cột, còn nền đất pha cát đầy những
vệt máu đã khô! Anh Trần Văn Lễ đến cạnh tôi, cả hai chúng tôi lặng lẽ chào tiễn
biệt hai anh ấy cho dù lời chào muộn màng!
Xem lại vị trí của trại với vị trí pháp trường, có lẽ bọn họ chọn
nơi làm pháp trường khi mọi người thua trận đang theo dõi qua loa
phóng thanh, từ lúc nghe tuyên án cho đến lúc hai loạt đạn khô khan xé không
gian bay ngang các khu trại, như âm thanh đe dọa anh em chúng tôi thì phải? Tự
động rời hội trường trở vào nhà số 2, mọi người hoàn toàn im lặng chừng như mỗi
người có nỗi đau riêng của mình! Nhưng qua phiên tòa này, chúng tôi rút ra được
kinh nghiệm là những gì mà mình nghe lời họ để rồi khai báo trung thực, đó
chính là mình tự kết tội mình.. Khi bắt đầu viết bản tự khai, họ nói rồi nhắc
đi nhắc lại nhiều lần:
“Mấy anh làm gì cách mạng đều biết hết, nhưng cách mạng muốn thấy
các anh thành thật khai báo để cách mạng khoan hồng”.
Thưa quí vị quí bạn, nghe theo cộng sản là nguy lắm, thậm chí là
chết mất xác đó! Thật ra thì bọn họ không biết gì hết, mà họ chỉ căn cứ vào bản
tự khai của hai anh ấy, rồi dẫn đến bản án gần gủi với những bản án trong đấu tố
thời cải cách ruộng đất 1953-1956, tại những địa phương dưới sự kiểm soát của
lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vậy. Nghĩa là man rợ. Quả thật câu nói
của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại phiên họp của Quốc Hội lưỡng viện sau trận
chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968, có ý nghĩa vượt thời gian: “Đừng nghe những gì
cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Nhờ sự ám ảnh đó đã giúp
tôi chọn lọc trong khai báo.
Từ giữa tháng 04/1976, một số các bạn Đại Tá từng phục vụ tại
các cơ quan trung ương bị họ gọi đến văn phòng làm việc. Tôi là một trong số
đó. Họ dùng chữ “làm việc” nhưng theo tôi thì họ “thẩm vấn”. Hồi tháng 05/1975,
khi còn ở Sài Gòn tôi đã bị “làm việc” hai lần. Nhưng theo cách vừa đe vừa vuốt
trong từng câu hỏi, thật sự là cuộc thẩm vấn chớ không phải “làm việc” theo
cách hiểu rõ nghĩa trắng đen của mình. Họ gọi không liên tục, có khi hai ba
ngày liên tiếp, có khi cách vài ngày gọi một lần. Tôi tường thuật một số lần điển
hình điều mà họ gọi là làm việc trong khi tôi vẫn khẳng định là bị thẩm vấn.
Ngày đầu tiên bước vào gian phòng nhỏ hẹp ngay bên ngoài vòng
rào kẽm gai, hai tên mặc quân phục thẳng thớm nhưng không mũ mão lon lá gì hết
nên chẳng biết họ cấp bậc gì. Một tên có vẻ là trưởng đoàn hỏi tôi:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng. Tôi là Phạm Bá Hoa.”
“Hôm nay chúng tôi bắt đầu làm việc với anh về một số vấn đề.”
“Đây là lần thứ 3 sau ngày 30/4/1975, các anh thẩm vấn tôi. Và
tôi sẳn sàng về những điều tôi biết”.
“Có gì đâu mà anh cho là thẩm vấn, chỉ trao đổi với nhau thôi
mà.”
“Tôi sẽ cố gắng để hiểu như vậy.”
“Ở căn cứ Long Bình của mấy anh có mấy hầm bí mật? Chính xác là
chỗ nào? Và cất giấu những gì trong đó?”
“Khi còn ở Sài Gòn, tôi cũng nhận được câu hỏi tương tự. Và câu
trả lời là tôi không biết có hầm hay không có hầm. Đơn giản vì căn cứ Long Bình
rộng lớn lắm mà trong đó chỉ có Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận chúng tôi, cùng với một số
đơn vị Tiếp Vận đồn trú. Phần rộng lớn còn lại là những cơ sở kinh tế hoạt động.
Trong phạm vi các cơ sở của chúng tôi không có hầm bí mật nào cả, ngoại trừ hầm
nửa nổi nửa chìm sử dụng tồn trữ hàng cần nhiệt độ thấp như điện trì cho máy
truyền tin chẳng hạn. Với lại trong tổ chức Tiếp Vận chúng tôi không có khái niệm
về hầm bí mật như trong quân đội các anh.”
“Tôi chắc là trong một căn cứ rộng lớn như vậy phải có hầm bí mật
chứ?”
“Tôi quả quyết như vậy, còn anh tin thế nào là tùy anh. Tôi xin
nhấn mạnh là các cơ sở của ngành Tiếp Vận chúng tôi chỉ choán một phần đất nhỏ,
nên tôi không biết toàn bộ khu vực còn lại.”
Hắn im lặng, chừng như hắn đang tìm hiểu bên trong câu trả lời của
tôi có thành thật hay không, hoặc tìm câu khác “oánh” tiếp chăng?
Tôi tiếp:
“Tôi nghĩ, bây giờ các anh đã kiểm soát toàn bộ căn cứ Long Bình
của chúng tôi thì việc lục soát tìm kiếm có gì khó khăn đâu.”
“Thôi được, chúng tôi sang vấn đề khác. Về vận tải của các anh
như thế nào? Đường bộ lẫn đường thủy?”
“Chúng tôi có 5 Liên Đoàn Vận Tải tại 5 Vùng Tiếp Vận, phụ trách
vận chuyển trong phạm vi địa phương. Còn từ trung ương đến các Vùng do Liên
Đoàn Vận Tải trung ương trách nhiệm. Trong hệ thống tổ chức mỗi Sư Đoàn Lục
Quân có một Đại Đội Vận Tải. Hải Quân có Hải Đội Quân Vận Hạm. Và Không Quân có
những Phi Đoàn Vận Tải. Ngoài ra chúng tôi còn có các khế ước thuê mướn các
công ty dân sự cung cấp phương tiện vận chuyển đường bộ lẫn đường thủy nữa”.
“Khả năng trọng tải chung của các anh là bao nhiêu, kể cả phương
tiện dân sự mà các anh thuê mướn?”
“Tôi không nắm dữ kiện này, nhưng mọi nhu cầu vận chuyển các loại
hàng tiếp liệu của quân đội chúng tôi đều được cung ứng”.
“Về vận tải biển của các anh?”
“Ngành Tiếp Vận chúng tôi có khả năng vận chuyển dọc theo duyên
hải, nhưng không có khả năng viễn dương.”
“Vậy thì vũ khí khí tài mà Mỹ cho các anh đến bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi. Hoa Kỳ mướn tàu hàng chở đến cung cấp cho chúng
tôi.”
“Có trường hợp nào tàu biển cặp các cảng biển miền Trung không?”
“Có”.
“Ngắn gọn quá vậy. Anh cụ thể hơn cho chúng tôi biết?”
“Thí dụ về đạn dược. Chúng tôi thiết lập kế hoạch bổ sung cho
các Vùng Tiếp Vận tại các cảng Cam Ranh, Qui Nhơn, Đà Nẳng, rồi trao cho Hoa Kỳ.
Thế là Hoa Kỳ ký khế ước với các công ty vận tải đường biển, và chở hàng giao
thẳng các nơi theo yêu cầu của chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi tiết kiệm được
thời gian, chi phí, kho tồn trữ trung gian, và an toàn nữa.”
Đấy là buổi thẩm vấn đầu tiên tại trại Tam Hiệp, và là lần thẩm
vấn thứ ba kể từ sau ngày 30/04/1975. Trước khi ra cửa, hắn kêu tôi lại đưa tôi
mấy tờ giấy ô vuông (cũng gọi là giấy manh) và nói:
“Anh viết lại những gì anh đã nói với chúng tôi sáng nay. Đồng
thời tôi muốn anh vẽ những sơ đồ mô tả sự việc rõ hơn. Anh có một tuần để làm
việc này.”
“Anh nói mơ hồ quá. Anh cần sơ đồ gì tôi sẽ vẽ nếu tôi biết.”
“Sơ đồ vận chuyển đường thủy. Sơ đồ các Vùng Tiếp Vận của anh ở
đâu?”
“Tôi sẽ vẽ. Bây giờ tôi vào trại được chưa?”
“Được. Anh vào đi.”
Tuần sau, lính gác vào gọi tôi. Vẫn địa điểm cũ. Hai tên cộng sản
khác đang chụm đầu vào nhau. Tôi gõ cửa. Họ quay nhìn tôi, một trong hai tên
hơi gắt giọng:
“Anh tên Phạm Bá Hoa phải không?”
“Đúng. Tôi đây.” Tôi cũng có chút gắt giọng với hắn.
Im lặng một lúc. Sau khi hắn xem những trang giấy viết và hai sơ
đồ tôi trao khi bước vào, hắn lên tiếng:
“Sao anh nặng lời thế. Bài viết mà anh cho là tờ khai à.”
“Các anh có dùng từ ngữ gì đi nữa thì thực chất nó vẫn là tờ
khai mà.”
Tên kia chen vào:
“Thôi được. Cứ luận bàn cách dùng từ không khéo lại lạc đề. Anh
cho chúng tôi biết Tổng Cục Tiếp Vận của anh có cố vấn Mỹ không?”
“Từ cuối năm 1972 về trước thì có, sau đó thì không.”
“Họ đối với các anh như thế nào?”
“Anh có thể nêu câu hỏi rõ nghĩa một chút, vì tôi chưa hiểu ý
anh muốn hỏi gì.”
Mặt hắn bắt đầu đỏ lên: “Mỹ chỉ huy các anh phải không?”
“Xin lỗi hai anh nghe. Bộ cố vấn Trung Cộng với cố vấn Liên Xô
chỉ huy các anh hay sao mà anh hỏi tôi như vậy?”
Hắn đập tay xuống bàn nhưng không mạnh lắm:
“Anh trả lời câu hỏi của tôi. Anh phải nghiêm túc trước mặt
chúng tôi.”
“Lại xin lỗi hai anh. Tôi nêu câu hỏi một cách đúng đắn. Sở dĩ
tôi hỏi lại hai anh vì đây là lần đầu tiên tôi nghe như trong câu hỏi có tính
xác định Mỹ chỉ huy chúng tôi. Lạ tai lắm. Tôi trả lời là không. Cố vấn là
cố vấn, hoàn toàn không có vấn đề người Mỹ chỉ huy chúng tôi như trên màn ảnh
nhỏ mà các anh đã tạo dựng trong các vở kịch và tuồng cải lương mà tôi đã xem
khi chưa vào trại.”
Cả hai lại bắt đầu đỏ mặt. Lại gằn giọng: “Anh có thành thật
không?”
“Tùy hai anh đánh giá câu trả lời của tôi. Riêng với tôi thì tôi
rất thành thật.”
“Vậy anh cụ thể điều mà anh nói cố vấn là cố vấn.”
“Tháng 4/1962, lúc ấy tôi phục vụ tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh ở vùng
đồng bằng Cửu Long. Lần đầu tiên chúng tôi được Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện
không vận đổ quân ngay tại trận địa mà không cần nhẩy dù, đó là trực thăng H21
có hình dạng “trái chuối già”. Sĩ quan Hoa Kỳ hướng dẫn chúng tôi về kỹ thuật cất
cánh, khi bay, khi hạ cánh, về khả năng hỏa lực, nói chung là những gì thuộc về
khả năng và kỹ thuật của phi cơ. Cố vấn tại đơn vị hướng dẫn thực tập
lên quân xuống quân, còn chỉ huy khi thật sự lên quân xuống quân và tấn công
các anh là chúng tôi. Một trường hợp khác, tại chiến trường, tức là lúc đánh
nhau với các anh, cố vấn Hoa Kỳ tại các đơn vị đó là gạch nối giữa đơn vị trưởng
của chúng tôi với đơn vị Pháo Binh và Không Quân chiến thuật Hoa Kỳ, để yểm trợ
hỏa lực theo yêu cầu của cấp chỉ huy Việt Nam chúng tôi. Nói chung, Hoa Kỳ cố vấn
chúng tôi về kỹ thuật các loại quân dụng mà Hoa Kỳ viện trợ và kỹ thuật bảo trì
nó. Còn về chiến thuật, nhiều trường hợp, cố vấn Hoa Kỳ còn học kinh nghiệm từ
phía chúng tôi thì làm gì có việc chỉ huy chúng tôi như các anh hỏi. Tôi nói
Hoa Kỳ học chúng tôi, vì Hoa Kỳ không thể hiểu các anh như chúng tôi hiểu các
anh, bởi trong cuộc chiến này bao gồm cả vấn đề văn hoá khi nghiên cứu về chiến
lược chiến thuật”.
Im lặng một lúc, hắn hỏi: “Anh có chủ quan không?”
“Cũng tùy các anh thôi. Khi tôi trả lời các anh, tôi vẫn hiểu là
các anh có nhiều cách để phối kiểm câu trả lời của tôi, vì các anh muốn gọi bất
cứ ai trong số anh em chúng tôi ra làm việc thì gọi ra hỏi dễ dàng. Khi tôi hiểu
như vậy, dại gì tôi nói theo cách tôi nghĩ, vì chẳng những không có lợi gì cho
tôi mà trái lại có hại là cái chắc.”
Hắn nhìn thẳng tôi:
“Thôi được. Bây giờ chuyển sang đề tài khác. Ngành Mãi Dịch của
anh là gì?”
“Đúng như tên gọi của nó là dịch vụ mua hàng cho nhu cầu quân đội
chúng tôi mà trong nước có khả năng sản xuất.”
“Anh được cấp tiền như thế nào để mua hàng?”
“Cơ quan Mãi Dịch chúng tôi mua hàng nhưng không bao giờ được
ngân sách Quốc Phòng cấp một đồng bạc nào cả, nhưng mỗi năm tôi mua hàng trị
giá trên dưới 30 tỷ đồng (30.000.000.000,00).”
Với giọng ngạc nhiên, hắn hỏi: “Bằng cách nào?”
“Cơ quan Mãi Dịch chúng tôi chỉ trách nhiệm thiết lập khế
ước theo qui định quốc gia về nguyên tắc hành chánh mãi ước, theo đúng nhu cầu
kỹ thuật của từng món hàng và số lượng mà cơ quan đơn vị yêu cầu. Hằng năm,
ngân sách quốc phòng dành một ngân khoản thích hợp cho các cơ quan đơn vị trong
ngành Tiếp Vậnị, để thực hiện những mặt hàng cần thiết cho quân đội mà nền kỹ
nghệ trong nước sản xuất. Nhà thầu giao hàng trực tiếp cho các cơ quan đơn vị,
nhưng tiền thì nhận ở Bộ Quốc Phòng. Nói chung, cơ quan Mãi Dịch chúng tôi chỉ
làm nhiệm vụ kỹ thuật từ lúc gọi thầu đến khi tống đạt khế ước đến nhà thầu thi
hành, và góp phần kiểm soát phẩm chất cùng với số lượng hàng khi nhà thầu giao
tại các kho qui định trong khế ước.”
“Các anh lãnh lương của Mỹ bằng đô la chứ?”
“Tại sao Mỹ trả lương cho chúng tôi trong khi chúng tôi là quân
nhân Việt Nam, phục vụ cho Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam? Tôi quả quyết với các
anh rằng, ngân sách của Bộ Quốc Phòng chúng tôi trả lương cho toàn thể quân
nhân và công chức quốc phòng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa bằng đồng bạc Việt
Nam chúng tôi.”
“Vậy tiền Mỹ viện trợ cho các anh dùng vào khoản nào?”
Nghe hỏi mà phát tức, tôi hơi gắt giọng:
“Có vẻ như các anh cho rằng chúng tôi chia nhau bỏ túi số tiền
viện trợ phải không? Xin lỗi các anh, hằng năm Hoa Kỳ viện trợ cho quốc gia
chúng tôi với một khoản tiền nào đó, trên các văn bản cũng như trên báo chí
toàn là những con số về tiền, nhưng thực tế nó biến thành những món hàng mà chúng
tôi gọi là dụng cụ chiến tranh, từ Hoa Kỳ đi thẳng vào các kho tồn trữ của
chúng tôi từ trung ương đến các địa phương, nó cũng biến thành các khóa đào tạo
các ngành chuyên môn trên đất Hoa Kỳ. Nói vắn tắt, tiền Hoa Kỳ viện trợ nhưng
không phải viện trợ bằng tiền như các anh hiểu, mà là bằng dụng cụ chiến tranh
và các dịch vụ quân sự.”
Bọn họ im lặng một lúc, chừng như họ ngạc nhiên lắm thì phải.
Theo tôi biết, trong ngân sách quốc phòng có phần viện trợ của Hoa Kỳ là 25% mà
chúng tôi dùng nhóm chữ viện trợ chung đậu để chỉ số tiền đó, và nó bàng bạc
trong các chương ngân sách chớ không riêng cho khoản chi về lương.
“Bây giờ là câu hỏi chót. Anh có thể vẽ sơ đồ ngành Tiếp Vận của
anh chứ?”
“Được.”
Họ lại trao cho tôi mấy tờ giấy ô vuông và tôi có thời gian một
tuần làm việc này. Một tuần là thong thả vì chỉ cần vài ngày là xong, vì vậy mà
khi đến phiên nấu bếp tôi vẫn cùng các anh trong nhóm làm công việc này. Với lại
nấu bếp tuy có phần vất vả nhưng cũng vui vui.
Đây là một trong những chuyện vui pha chút ngậm ngùi! Đó là mỗi
sáng có một anh rất trẻ, tên Huệ, theo lời anh bạn ở Sư Đoàn 23 Bộ Binh thì anh
Huệ là Thiếu Úy phục vụ Đại Đội Thám Báo Sư Đoàn, đã một lần bị thương có ảnh
hưởng đến thần kinh. Cứ y như rằng, với cái lon guigoze trên tay khi
đến nhà bếp, anh vừa nói vừa cười nhưng không biết anh cười với ai nữa:
“Cho Thiếu Tướng gô nước cơm.”
Anh Điệp cười ngất và đáp: “Thiếu Tướng để đó, chờ cơm sôi tôi lấy
cho!”
Vì vết thương chạm thần kinh nên anh tự cho mình là “Thiếu Tướng,
Tư Lệnh Sư Đoàn 23B.” Cũng vì cái cấp bậc với cái chức vụ tự phong đó mà anh bị
quân cộng sản bắt. Lại có anh bạn trẻ khác cũng trong tình trạng không bình thường
như vậy, nhưng không do thương tích. Thường ngày, anh bạn này ăn xin ở chợ Bà
Chiểu, Gia Định. Ngày 30/04/1975, anh ta lượm được cái áo treillis có cấp hiệu
Thiếu Tá và vui vẻ mặc vào. Vài ngày sau anh bị công an cộng sản bắt vô trại tập
trung, lại ở chung với “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ”. Thế là “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ”
cử anh “Thiếu Tá” này vào chức “sĩ quan tùy viên”.
“Sư Đoàn 23B” là một đơn vị không hề có trong tổ chức Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, thế nhưng sư đoàn này lại là một đề tài mà khi thẩm vấn tôi,
họ cứ xoay quanh cái “sư đoàn” ấy.
Tuần lễ sau đó, thẩm vấn tái diễn. Vẫn hai tên cộng sản tuần trước.
Xem xong sơ đồ, họ bắt đầu:
“Địa bàn hoạt động của Sư Đoàn 23B ở đâu?”
Tôi nhìn trái rồi nhìn phải để xem họ hỏi tôi hay hỏi ai. Một
trong hai tên quát: “Tại sao không trả lời tôi mà anh quan sát địa
hình?”
Câu quát của hắn chừng như nghi ngờ tôi có ý định bỏ chạy thì phải.
“Tôi nhìn xem có phải anh hỏi tôi hay hỏi người nào khác, vì tôi
phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (có cơ hội là tôi nhấn mạnh chữ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) vừa đúng 21 năm, chưa bao giờ nghe nói đến sư
đoàn này, cho nên tôi nhìn xem có người nào khác ngoài tôi ra không, có gì đâu
mà anh định gắn cho tôi cái âm mưu trốn trại.”
“Vậy tại sao các anh có Tướng Nguyễn Huệ, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B?”
“Các anh tin lời anh ấy sao. Anh ta chưa đến tuổi 30 làm sao lên
đến cấp Tướng được. Theo chỗ tôi biết, anh ấy là Thiếu Úy phục vụ ở Sư Đoàn
23 Bộ Binh. Trong trận đánh với các anh, viên đạn AK đã gây thương tích cơ thể
làm chấn thương đến thần kinh anh ấy. Tôi chỉ biết đôi điều về anh ấy như vậy
thôi.”
“Không ai lại tự mình khai quân hàm (tức cấp bậc) với chức vụ
không có cả.”
“Có chớ. Anh Nguyễn Huệ khai với các anh đó.”
Vầng trán hắn nhăn nhúm cùng lúc với đôi mắt cau lại, chứng tỏ hắn
đang tức tôi lắm. Lại gằn giọng:
“Anh có khẳng định là quân đội mấy anh không có Thiếu Tướng Nguyễn
Huệ?”
“Chắc chắn là như vậy.”
“Anh nghĩ gì khi có người xác nhận quân đội các anh có Tướng Huệ?”
“Tôi không nghĩ gì hết mà tôi khẳng định người nào xác nhận như
vậy thì người đó cũng có vấn đề về thần kinh như anh bạn trẻ chúng tôi đang
mang cái tên Nguyễn Huệ. Còn tôi, cho đến bây giờ thần kinh tôi chưa có vấn đề.”
“Được. Chúng tôi tạm nghe như vậy. Về ngành Mãi Dịch của anh,
chúng tôi sẽ trở lại vào ngày khác. Bây giờ anh cho chúng tôi biết, Đồng Văn
Khuyên với Nguyễn Văn Chức của anh hiện nay ở đâu, và làm gì?”
“Tôi hoàn toàn không biết. Ngay cả gia đình tôi mà tôi cũng
không biết thì làm sao tôi biết hai vị ấy ở đâu.”
“Khi ông Khuyên bỏ chạy có từ giã anh không?”
“Trung Tướng Khuyên có đến văn phòng tôi trước khi đi, nhưng
không một lời từ giã. Nói cho đúng là cấp chỉ huy của tôi với tôi, chỉ nhìn
nhau mà không ai nói với ai lời nào cả.”
“Ông Khuyên đi bằng gì?”
“Đi bằng xe Jeep.”
Hắn đỏ mặt lên và chồm tới cứ như muốn tát tai tôi vậy:
“Chạy sang Mỹ mà đi bằng xe Jeep à?”
“Tôi đâu có nói với anh là Trung Tướng Khuyên sang Hoa Kỳ bằng
xe Jeep. Tôi trả lời chính xác theo câu hỏi của anh sao anh tức giận. Tôi nói
rõ thêm là lần sau cùng gặp cấp chỉ huy của tôi là lúc ông ngồi trên xe Jeep,
sau đó ông rời khỏi Tổng Cục Tiếp Vận để vào phi trường Tân Sơn Nhất. Còn ông ấy
có đi được hay không, hoặc có đi được mà đi bằng gì, tôi hoàn toàn không biết.”
Có vẻ như hắn cảm thấy bị hố, nên nhẹ giọng:
“Có người nói là ông Khuyên không đi được, anh nghĩ sao?”
“Tôi không nghĩ gì hết, vì tôi hoàn toàn không biết tin tức gì về
cấp chỉ huy của tôi sau khi xe Jeep đưa ông rời khỏi chỗ tôi đứng. Với lại ngay
bây giờ, tôi chưa biết số phận long đong của tôi sẽ ra sao, thì lòng dạ nào tôi
tìm hiểu về các cấp chỉ huy của tôi. ”
“Anh có biết Trung Tướng Trưởng không?” (Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng)
“Có. Tôi có biết Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, nhưng chưa bao giờ
làm việc dưới quyền ông, nên chỉ biết mà không hiểu gì về ông ấy.”
“Anh có tin tức gì về ông Trưởng không đi Mỹ mà đi Thái Lan
không?”
“Tôi lại hoàn toàn không biết.”
“Sao cái gì anh cũng trả lời không biết?”
“Những gì tôi biết thì tôi trả lời tôi biết, còn những gì tôi
không biết thì tôi trả lời không biết. Tôi còn nhớ sau khi học tập chính trị ở
trại Long Giao, anh giảng viên hướng dẫn khai báo, anh ấy nói là cách mạng biết
tất cả những việc mà chúng tôi đã làm, nhưng cách mạng muốn chúng tôi khai báo
thành thật để đánh giá kết quả học tập. Tôi nghĩ, nếu tôi nói không thành thật
thì các anh biết ngay thôi.”
Không hiểu hắn nghĩ gì về câu trả lời của tôi. Hắn nhìn thẳng
vào tôi:
“Tuần này anh viết cho tôi về tổ chức ngành Tiếp Vận.”
“Tuần trước tôi đã vẽ sơ đồ rồi mà.”
“Tôi có xem. Nhưng tuần này anh viết cụ thể hơn. Bây giờ anh vào
trại được rồi.”
Trở lại với anh “Tư Lệnh Sư Đoàn 23B và anh tùy viên của Tư Lệnh”.
Anh Nguyễn Huệ “Tư Lệnh Sư Đoàn 23B” những lúc tỉnh táo, anh nói
chuyện hóm hỉnh và ý nghĩa nữa. Trường hợp điển hình là trong khi chờ đợi lon
guigoze nước cơm sôi, anh tâm tình với nhóm nấu bếp chúng tôi rằng:
“Tôi xưng Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 23B, là tôi nói với cộng
sản chớ không phải tôi nói với các ông (có lẽ do anh quá trẻ nên gọi chúng tôi
bằng các ông thì phải). Các ông đừng buồn tôi”.
Anh ấy nói như vậy là lúc tỉnh, vì rõ ràng là những khi đến xin
nước cơm thì anh vẫn xưng Thiếu Tướng với chúng tôi, chắc lúc ấy không tỉnh
chăng?
Lại nói qua về “Thiếu Tá tùy viên của Tư Lệnh Sư Đoàn 23B”. Anh
này gần như hoàn toàn bất bình thường, tệ hơn nữa có thể nói là khật khùng. Chẳng
thấy anh ta nói chuyện với ai nhưng lúc nào cũng gắn sẳn nụ cười trên môi cứ
như đang cười với ai đó, mà thật ra có thấy ai đâu. Cười khơi khơi đó quí vị
quí bạn à! Cứ “tư lệnh” đi đâu thì “tùy viên” theo đến đó, đôi khi chậm trễ như
xuống nhà bếp chẳng hạn, chỉ một lúc sau thì anh ta cũng đến đứng hay ngồi bên
cạnh “sếp”, chờ xách lon guigoze nước cơm sôi cho “sếp”. Những chiều xem tivi ở
hội trường, thì ”tùy viên” có trách nhiệm choán chỗ trước, bằng cách xách hai
khúc gỗ cao su nhỏ dùng làm ghế ngồi cho “hai thầy trò”. Và y như rằng, ghế của
“tùy viên” ngay sau lưng ghế của “tư lệnh”. Nói cho cùng, có hai anh chàng này
đôi lúc cũng giúp cho nhiều người chung quanh đỡ buồn vì những hành động ngớ ngẩn
của hai anh ấy. Ngược lại, bọn cộng sản ở trại Tam Hiệp này bối rối vì không tìm
được “tông tích của Sư Đoàn 23B”.
Tôi lại ra ngoài trại cho họ thẩm vấn nữa đây. Lần này bọn họ ba
đứa, hai đứa cũ với một đứa gặp lần đầu. Câu đầu tiên là vỗ mặt liền:
“Anh có biết vì sao Mỹ thua trong chiến tranh xâm lược Việt Nam
không?”
“Xin lỗi các anh. Các anh muốn tôi trả lời theo bài học hay trả
lời theo cách nghĩ của tôi?”
Hắn gằn giọng: “Anh phải nghiêm túc khi trả lời câu hỏi
của tôi.”
“Tôi rất nghiêm chỉnh. Tôi hỏi như vậy để tôi trả lời đúng câu hỏi
của anh.”
“Tại sao anh hỏi chúng tôi câu đó?”
“Tại vì bài học chính trị số 1 có dạy chúng tôi về nguyên nhân
mà anh nêu trong câu hỏi rồi. Còn nếu anh muốn tôi trả lời theo cách nghĩ của
tôi thì khác với bài học, liệu anh có chấp nhận không?”
“Trao đổi với anh cũng căng đấy. Các đồng chí của tôi đã nói
đúng. Thôi, đừng có lý luận nữa, trả lời đi.”
“Lẽ ra câu ấy dùng cho tôi mới đúng, vì tôi hoàn toàn trong thế
bị động, bị thẩm vấn. Bây giờ tôi trả lời các anh theo cách nghĩ của tôi. Cuộc
chiến đã ngưng tiếng súng gần tròn một năm rồi mà tôi vẫn tự hỏi: Hoa Kỳ rút
quân đội khỏi Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là do Hoa Kỳ thay đổi chiến lược sau
khi bắt tay với Trung Hoa cộng sản, hay vì thất bại đúng nghĩa của nó? Mà cho
dù là nguyên nhân nào đi nữa, rõ ràng là chúng tôi thua trận, nhưng thua trận
mà bản thân tôi vẫn chưa lý giải được. Đó là điều luôn ám ảnh tôi, và cũng là
câu mà tôi trả lời các anh. Tôi nghĩ là các anh không hài lòng, vì chính tôi
cũng không hài lòng với tôi nữa mà.”
Cả bọn cùng nhìn thẳng vào tôi một lúc:
“Nếu như Mỹ bỏ rơi miền Nam, tại sao còn chở viện trợ tới cho
các anh bằng những phi cơ vận tải lớn.”
“Chính trị mà các anh, có chữ nào một nghĩa đâu. Giờ này viện trợ,
giờ sau chấm dứt, có gì lạ đâu. Và thực tế đã xảy ra như vậy đó.”
“Khi trả lời chúng tôi, có vẻ như anh bị mặc cảm thua trận phải
không?”
“Đây là lần thứ tư tôi nghe câu hỏi này từ phía các anh. Khi trả
lời các anh những lần trước đây cũng như ngay bây giờ, lúc nào tôi cũng ngẫng
cao đầu. Tôi quan niệm rằng, khi hai bên đánh nhau phải có bên thắng bên thua,
thậm chí khi gọi là huề cũng vẫn có bên thua bên thắng hiểu theo một ý nghĩa
nào đó. Chúng tôi đã thua và đang trong tay các anh, tôi mặc cảm có giải quyết
được gì đâu.”
Cả ba tên nhìn nhau, im lặng, rồi cùng nhìn tôi. Tôi không đoán
được trong đầu bọn họ nghĩ gì qua nét nhìn đó. Vài phút tiếp theo, một tên nói:
“Anh có thể vào trại, chúng tôi sẽ gặp lại anh.”
“Chào các anh.”
Thưa quí vị quí bạn, qua ba lần thẩm vấn tính ra là 15 ngày rồi,
bọn họ “xa luân chiến” nêu câu hỏi không ngưng nghỉ, có lẽ chiến thuật của họ
làm cho người bị thẩm vấn mệt mỏi trong suy nghĩ mà khai thật với họ chăng? Hoặc
bực tức rồi gây hấn với họ chăng? Kinh nghiệm qua những lần bị thẩm vấn khi còn
ở Sài Gòn cho tôi quan niệm rằng: “Giữ được sự bình tỉnh cũng là kềm chế được lời
nói của mình. Sự bình tỉnh giúp mình biết mình nên nói những gì, và mình hiểu họ
muốn gì trong câu hỏi, để mà trả lời.” Và tôi có nét nhìn chung là họ nêu nhiều
câu hỏi của một số vấn đề, nhưng quanh đi quẩn lại họ nhắm vào những câu sau
đây:
- Tại sao các anh thua nhanh vậy?
- Tướng Khuyên và Tướng Trưởng của anh ở đâu? Làm gì?
- Hầm bí mật chôn giấu vũ khí khí tài ở đâu?
- Và anh có mặc cảm thua trận phải không?
Kể ra cũng khá đau đầu vì bị họ luân phiên đặt câu hỏi, đi vòng
vòng rồi cuối cùng họ cũng xoáy vào những câu hỏi mà họ dự liệu trước. Cho nên
lúc nào cũng phải chuẩn bị tư tưởng để xung trận với họ. Đã khai như thế nào
khi vào trại phải ghi chép lại để nhớ mà khai khi bị thẩm vấn những lần kế tiếp,
vì sơ hở một chút có thể sẽ bị họ xoáy vào đó là rắc rối lắm. Trong những ngày
bị thẩm vấn, anh Nguyễn Ngọc Điệp thường nhắc tôi uống nước đường để tỉnh táo
mà đỡ đòn xa luân chiến của cộng sản. Cũng may là anh bạn trẻ, Đại Úy Không
Quân, hằng ngày vẫncho tôi ly nước hà thủ ô pha đường, ngon lắm.
Nhân đây xin nói một chút về anh bạn trẻ này. Anh là Đại Úy
Không Quân mà tôi quên tên, quê Vĩnh Long. Anh nói với tôi như sau: Cô ruột của
anh là bà Dương Quỳnh Hoa, Bộ Trưởng Y Tế trong Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam của kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, là tổ chức ngoại vi của lãnh đạo cộng sản
Việt Nam thành lập năm 1960. Sau ngày 30/04/1975, ba của anh đưa anh đến gặp bà
Quỳnh Hoa để xem bà có giúp gì được cho anh không. Bà Dương Quỳnh Hoa trả lời với
ba của anh một cách chua chát rằng:
“Không có cách nào giúp đâu anh. Thân em chưa biết ra sao thì
nói gì đến cháu!”
Thế là anh bạn trẻ vào trại tập trung.
Trung tuần tháng 06/1976, trong khi nhiều bạn đang theo dõi chương
trình trên màn ảnh nhỏ của đài truyền hình Sài Gòn mà họ đã gắn cái tên ông Hồ
vào đó, bất ngờ xướng ngôn viên công bố chính sách khoan hồng nhân đạo (!) cho
những sĩ quan viên chức cán bộ của Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ gọi là “ngụy quân
ngụy quyền”. Tôi không bao giờ xem cái tivi đó mà chỉ nghe các bạn xem xong về
thuật lại cho tất cả các bạn cùng nhà nghe. Vắn tắt thế này: “Đó là chính sách
cải tạo ba năm trong các trại tập trung.”
Kiểm điểm lại những văn kiện của họ công bố chánh thức về cái gọi
là chính sách đối với quân nhân viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, như
sau:
Tháng 05/1975, bản thông cáo về chính sách khoan hồng nhân đạo
10 điểm của cái gọi là chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, nhưng cầm chắc là không phải
do ông chánh phủ trời ơi đó viết đâu, mà lãnh đạo cộng sản tự làm nhưng gắn cái
tên ông kỹ sư đó vào cho ra vẻ không cộng sản thôi. Võ bọc ngụy trang đó.
Đầu tháng 06/1975, cái thông cáo gọi đi học tập mà trong nội
dung bảo chuẩn bị cho 30 ngày.
Và bây giờ, tháng 06/1976 là cái chính sách ba năm. Từ chính
sách chung chung, đến 30 ngày, rồi 3 năm.
Nói là làm của “cách mạng” đó quí vị quí bạn à! Liệu rồi đây sẽ
có chính sách bao nhiêu năm nữa? Không anh nào có can đảm suy đoán thêm. Thôi
thì cứ bám giữ cái thời gian 3 năm này để mà sống vậy, dù chưa biết cuộc sống sẽ
như thế nào!
Đây là đề tài lẽ ra ngay đêm nay bàn luận sôi nổi lắm, thế nhưng
bầu không khí trong căn nhà số 2 này lại yên lặng một cách lạ thường! Phải
chăng mỗi người trong chúng tôi đang có những suy nghĩ riêng tư của mình, và ngày
mai mới bắt đầu chăng? Nhưng chưa kịp sáng mai vì ngay trong đêm, lúc ấy khoảng
10 giờ, có tiếng của lính cộng sản đến từng nhà của cấp Đại Tá, với giọng ồn
ào:
“Tất cả các anh thức dậy, ra sân tập trung. Phải đi ngay tức
thì.”
Thế là tất cả 4 Khối bỗng dưng trở nên ồn ào hẳn lên. Ai nấy vội
mặc áo quần ra sân. Ngồi yên chỗ mới nhìn thấy khoảng 10 tên cộng sản đi tới đi
lui, không ai đoán được điều gì sắp xảy ra cho mình cả. Sau khi họ đến từng nhà
kiểm soát, biết chắc không còn ai trong các nhà đó, họ bắt đầu:
“Chúng tôi bắt đầu làm việc. Anh nào nghe thấy tên mình thì đứng
dậy sang phía bên này”. Vừa ra lệnh hắn vừa chỉ tay qua khu vực sân còn trống.
Họ đọc cả họ tên, cấp bậc, chức vụ, đơn vị của từng người. Đến
khi đọc xong danh sách, lượng người hai bên sân có thể nói là bằng nhau. Họ ra
lệnh tiếp:
“Các anh vừa nghe đọc tên mình, về nhà thu xếp và mang tất cả tư
trang ra đây trong vòng 15 phút. Các anh không có tên, ngồi yên tại chỗ.”
Tôi trong số còn ngồi lại. Anh em chúng tôi ngồi sát vào nhau
bàn luận nho nhỏ vì chúng nó cứ chầm chập nhìn chúng tôi. Những mẫu chuyện mà
chúng tôi rù rì với nhau như thế này:
“Về rồi các bạn ơi!”
“Về cái khỉ họ. Đêm qua chúng nó công bố chính sách 3 năm mà về
nỗi gì. Chúng nó đưa tụi mình đi trại khác đó.”
“Chúng nó dám đưa mình ra Bắc không?”
“Ông là gì của nó mà nó không dám.”
“Lúc nảy thằng cha Xê (trưởng khu cấp Đại Tá) nói là đi về hướng
Hóc Môn thì đâu phải ra Bắc.”
“Thì chỉ có về mới đi hướng đó thôi mà.”
“Mấy cha cứ nghe tụi nó hoài. Chừng nào sự việc tới hãy hay, chớ
cứ nghe chúng nó mà chết đó.”
“Từ 1 tháng trở thành 3 năm mà cứ tin chúng nó nữa à!”
Tôi không tham gia trong vụ bàn luận này, vì tôi nghĩ rằng: “Nếu
chuyển trại sao lại đọc lý lịch kỹ vậy, cứ đến chở đi như hai lần trước thôi.
Còn đi về, điều này chưa thể xảy ra, vì chúng nó mới công bố chính sách 3 năm,
nói trắng ra chúng nó nhốt mình ít nhất là 3 năm mà bây giờ mới vừa đúng 1 năm
làm sao về được. Với lại di chuyển ban đêm thì khó có được điều lành. Vậy thì
đi đâu? Làm gì? Tôi không thể nào có được kết luận”. Tôi đang bối rối!
Sau khi phân nửa sân bên kia đông nghẹt người trở lại với mớ
hành trang quá ư là lỉnh kỉnh luộm thuộm, vì mấy tháng nay ở trại này hầu như
anh nào cũng tạo được một số tài sản linh tinh, từ cái thùng kéo nước với sợi
dây nặng ơi là nặng, đến cái gàu cái rương cái hộp, đủ thứ hết vì cái gì cũng cần
thiết cả.
Số còn lại được lệnh trở về ngủ tiếp. Anh em chúng tôi trong mỗi
nhà kiểm điểm lại còn đúng một nửa, có nghĩa là số người đi một nửa. Hỏi chuyền
sang các nhà khác, cũng y chang như vậy. Những con số ra đi một nửa này làm
chúng tôi chú ý. Nếu đi về, tại sao lại đúng một nửa? Vậy, chắc là chuyển trại
rồi. Lần này đi một nửa, và một nửa còn lại sẽ đi lần sau. Lý giải này có vẻ chấp
nhận được. Thế là anh em chúng tôi trong tinh thần chuẩn bị, nhưng không đoán nỗi
sẽ đi đâu. Tôi vẫn mắc kẹt cái câu “tại sao chuyển trại mà họ đọc lý lịch kỹ
quá vậy?” Nhưng rồi tôi lại nghỉ: “Biết đâu đó cũng là cách họ đánh lừa mình
chăng? Họ cố tạo những yếu tố không thật sự cần thiết cho một hành trình chuyển
trại làm cho mình phán đoán sai cũng nên?” Đến đây có thể lý giải được phần nào
những bàn luận của anh em chúng tôi.
“Hơn 12 giờ rồi, làm ơn ngủ giùm các bạn ơi!”
“Trời ơi! Chuyện quan trọng phải bàn cho ra lẽ chớ. Vừa rồi có mấy
anh bên Khối 4 mò ra sát hàng rào, nhờ có ánh trăng mờ mờ nên thấy tụi nó xét đồ
đạc kỹ lắm. Thùng gàu dây kéo nước, lon guigoze, nó liệng hết trơn. Nghe nó nói
chỉ cho đem 1 cái lon guigoze, vì mỗi người chỉ được mang theo tối đa 20 kí lô
thôi.”
“Dám mấy chả đi bằng phi cơ lắm à!”
“Tôi không nghĩ chúng nó đưa chúng mình ra Bắc, mà tôi cho là tụi
nó đưa chúng mình vô rừng sâu nên không cho mang nặng vì đi bộ đường rừng mà,
còn rừng sâu ở đâu thì tôi chịu thua.”
Đến quá nửa đêm chúng tôi mới nghe đoàn xe rời khỏi trại.
“Bây giờ ngủ được rồi các bạn ơi!”
Thật ra chẳng mấy ai ngủ được thẳng giấc hết, bởi cái long đong
nghiệt ngã đối với bản thân như thế nào, chưa ai suy đoán nỗi!
Thế rồi … Tiếng kẻng gọi dậy. Mặt trời lên. Mọi việc vẫn phải diễn
tiến như thường ngày.
Toán nấu bếp gom ba toán làm một. Ra ngoài trại lãnh su-le vẫn
theo lượng 92 người ăn cho mỗi nhà và họ dặn ăn trong hai ngày. Đúng thôi, vì mỗi
nhà chỉ còn lại một nửa số người. Và rồi ngày hôm nay, thời gian có vẻ như trôi
qua một cách chậm chạp trong nỗi lo âu hay niềm vui xa xôi nào đó, tùy theo
cách nghĩ của mỗi người trong số chúng tôi. Chẳng hạn như nghĩ rằng ở lại là tội
nhẹ, mà tội nhẹ thì có thể về sớm. Có người trong nỗi lo vì cái số long đong
luôn đeo đẳng bên mình, trong khi chính mình không lý giải nỗi cái long đong
đó!
Ngày kế tiếp, họ lại gọi ra ngoài trại lãnh thêm một ít trái
su-le nữa, và họ dặn gộp lại số lượng lãnh hôm qua và hôm nay chia ra ăn trong
4 ngày. Đến tối họ lại bảo chia số su-le đó ra ăn trong 7 ngày. Hầu hết anh em
chúng tôi còn lại đều tin rằng, ít nhất cũng còn ở đây 7 ngày nữa kể từ hôm
nay, và tự cho mình cái thanh thản trong thời gian đó.
Nhưng lại bị lừa! Thế mới đau! Đau là vì từng cho rằng, lúc nào
cộng sản cũng nói dối, cũng tìm cách đánh lừa mà mình vẫn tin. Nhưng nghĩ cho
cùng, khi mà con người không có gì để bám víu cho cuộc sống long đong, thì bất
cứ gì xem như có thể bám được thì cứ bám còn hơn là buông xuôi! Đêm xuống từ
lâu, chuyện bàn cũng hết, nhưng chưa ai ngủ. Bị lừa là bất thình lình, một toán
lính cộng sản đi từng nhà ra cái lệnh giống hệt cái lệnh mà một nửa trong số
anh em chúng tôi đã di chuyển đi đâu không ai biết:
“Tất cả các anh thức dậy và ra sân tập trung ngay lập tức.”
Mọi người vừa ra khỏi mùng, họ nối thêm cái đuôi nghe rất khô
khan:
“Các anh mang theo tất cả tư
trang.”
Mang theo tư trang mà phải đi tức thì, cái lệnh nghe mà phát tức!
Thôi thì hơi sức đâu mà dồn ép chữ nghĩa, trong khi mọi người gần như ngỡ ngàng
về cái lệnh chia rau ăn 7 ngày mà lại dọn đi ngay trong đêm!
Vẫn cái cảnh cách đây một đêm, nghĩa là họ vẫn đọc tên, cấp bậc,
chức vụ, đơn vị, ai nghe tên mình thì đứng dậy và sang bên kia ngồi. Khi họ xếp
danh sách lại, thì số người còn ngồi tại chỗ chỉ khoảng hơn chục người mà hầu hết
là bác sĩ quân y. Sau khi họ cho số người còn lại vào nhà ngủ tiếp, họ ra lệnh
cho chúng tôi:
“Theo thứ tự từng danh sách, các anh mang tư trang ra ngoài trại
theo hướng dẫn của bộ đội.”
Mỗi danh sách là một B cùng ngồi một chỗ. Họ ra lệnh tiếp:
“Các anh bày tất cả tư trang ra trước mặt để chúng tôi kiểm
tra.”
Họ đi xét từng người, lục từng món. Thùng, gàu, dây kéo nước, họ
quẳng xuống cái đường mương cạn trước mặt. Có mấy cái lon guigoze chẳng cần biết,
họ chỉ cho để lại 1 cái còn bao nhiêu họ liệng luôn. Khi tôi thu xếp phần còn lại
vào cái túi đeo lưng, tôi thấy bốn tên lính cộng sản đứng dưới mương gom lại tất
cả những gì mà mấy tên lục xét liệng xuống đó. Thật là trắng trợn, đứa này lấy
của mình liệng xuống, đứa kia lượm lên làm của. Lục xét xong thì đám dưới mương
cũng gom đồ đạc xong. Tất cả chúng tôi nằm ngồi tại chỗ mà ngắm trăng bất đắc
dĩ!
Quá nửa đêm một chút, đoàn xe Molotova già cỗi kia mới đến. Tất
cả lên xe. Đoàn xe hướng về Sài Gòn. Chầm chậm. Dọc hai bên đường, lính cộng sản
tay cầm súng trong tư thế chiến đấu, giống như lúc chở chúng tôi từ khu đại học
xá Minh Mạng Sài Gòn lên Long Giao, rồi từ Long Giao xuống Tam Hiệp, Biên Hòa,
cũng vậy. Nghĩa là chỉ có một kế hoạch an ninh dùng cho 3 lần vận chuyển chúng
tôi. Chắc chắn là đám lính này giữ an ninh cho đoàn xe chúng tôi đây. Vậy là họ
sợ chúng tôi sẽ được ai đó giải thoát chăng? Nhưng chánh phủ nói
“học tập cải tạo” mà sao họ giữ chúng tôi kỹ quá? Vậy, sự thật là gì?
Đoàn xe vào lộ Hàng Xanh. Qua đường Chi Lăng. Rẽ lên đường Võ Di
Nguy. Tôi theo dõi đoạn đường đi qua, nhưng chưa đoán được họ đưa chúng tôi đi
đâu. Có lúc cứ tưởng là lên Ngã Năm Chuồng Chó để lên hướng Hóc Môn. Nhưng
không, đoàn xe rẽ vào Tân Sơn Nhất từ đường Võ Di Nguy. Chắc là họ cố ý nên cho
đoàn xe chạy vòng vèo trong khu vực Tân Sơn Nhất, để rồi cuối cùng dừng lại một
trong những “cái ụ” mà ngày trước Không Quân dùng che chắn phi cơ tránh đạn và
hỏa tiển của quân cộng sản.
Lúc đó là 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/06/1976, và là ngày thứ nhất
của năm thứ hai đối với tôi kể từ ngày “trình diện” họ tại khu đại học xá Minh
Mạng, Sài Gòn. Họ ra lệnh:
“Tất cả các anh tập trung vào đây (vào cái ụ chứa phi cơ), không
một ai tự ý ra khỏi khu vực này.”
Tôi nhìn lên đầu tường che chắn ụ này, đầy lính cộng sản đứng
bên trên, tay cầm súng cũng trong tư thế chiến đấu. Lần lượt các bạn nhìn thấy
nhiều giấy gói đồ vung vải trong ụ mới suy đoán một nửa các bạn đi trước đã có
mặt nơi đây. Từ đó suy đoán thêm, vậy là chúng ta sẽ đến cùng chỗ với các bạn
đi trước thôi. Trong số những mảnh giấy lượm được, có mẫu giấy còn nguyên tên của
anh Đại Tá Lê Ngọc Quỳnh, trước là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 7 Công Binh Kiến
Tạo ở Cần Thơ. Tôi nói với anh Lê Minh Luân (Không Quân):
“Anh Luân ơi! Tôi đoán chúng nó đưa mình ra Bắc à anh. Các bạn
đi trước đã ra đó rồi, chớ nếu chúng nó giữ mình ở miền Nam thì chúng không chở
bằng máy bay đâu.”
“Cầm chắc là thế rồi.”
Sau đó họ đem lương khô phân phối cho chúng tôi, mỗi khẩu phần
là một mẫu bánh như bánh in bày bán ở chợ Sài Gòn để ăn trong ngày. Lương khô
này do Trung Hoa cộng sản sản xuất, cứng hơn bánh in thường và rất mặn. Tôi ăn
ngay một miếng vì đói quá, miếng còn lại cho vào túi áo treillis đang mặc để ăn
sau. Trong thời gian ở trại Tam Hiệp, họ phát cho chúng tôi mỗi người một bộ
treillis mà họ đã lấy trong các kho của ngành Quân Nhu chúng tôi.
Hai chiếc phi cơ vận tải C130 mà trước kia là của Không Quân Việt
Nam Cộng Hòa, đang từ từ đến. Dừng hẳn lại. Bọn họ ra lệnh:
“Các anh được đi bằng máy bay, yêu cầu các anh phải tuân thủ sự
chỉ dẫn sắp xếp của chúng tôi trong thời gian di chuyển. Tư trang sắp xếp gọn
gàng. Vì điều kiện an ninh cần thiết, chúng tôi sẽ áp dụng một số biện pháp mà
lãnh đạo chúng tôi qui định. Hành lý cho lên trước. Các anh xếp hàng đôi, và
lên máy bay từng hai người một.”
Khi mọi người ngồi xong, động cơ máy bay hoạt động, cửa sau được
nâng lên cũng là lúc hai tên cộng sản xách theo hai xâu còng từ khoang lái máy
bay ra, mỗi đứa phụ trách một bên băng chúng tôi đang ngồi. Một tên “oắt tì”
hách dịch:
“Các anh cởi đồng hồ cất vào túi. Xắn tay áo lên. Các anh làm khẩn
trương để máy bay cất cánh.”
Rồi chúng nó lần lượt còng từng anh em chúng tôi. Tôi ngồi ở cuối
băng, bên trái tôi là cửa sau vừa được nâng sát lên. Bên phải tôi là anh Đại Tá
Nguyễn Văn Tài, Phòng 2 Tổng Tham Mưu. Họ bảo tôi:
“Hai tay kẹp ngược vào nhau như thế này.“
Vừa nói hắn vừa thực hành để tôi làm theo. Bàn tay trái hướng về
cùi chỏ tay phải, và tay phải làm ngược lại. Còng số 8 bóp vào crắc! Thế là hai
tay dính vào nhau! Tôi nhìn thấy hai giọt nước mắt của anh Tài từ từ trôi xuống!
Tôi thúc nhẹ cùi chỏ phải vào hông anh và nói khẽ:
“Anh Tài, anh giấu những giọt nước mắt đi, đừng để tụi nó coi
thường mình. Từ nay tôi dứt khoát tụi mình là tù của bọn nó chớ hổng phải học tập
gì hết”.
Buổi sáng, ánh mặt trời hướng Đông. Tôi ngồi ngược ánh nắng, và
phi cơ bay về bên trái, vậy là hướng ra miền Bắc rồi. Tôi nâng tay lên cố cho
hai ngón tay vào túi áo treillis để kẹp lấy miếng bánh in lương khô còn lại,
nhưng không vói tới. Thật ra tôi chưa thấy đói, nhưng muốn giữ cho thái độ
không bối rối khi suy nghĩ của tôi bảo tôi là tù chính trị của cộng sản! Một
tên cộng sản bước tới, gằn giọng:
“Anh làm gì thế?”
“Tôi muốn lấy lương khô ra ăn.”
Hắn mở nắp túi lấy ra đưa cho tôi, kèm theo câu :
“Các anh muốn gì thì nói chứ không được có bất cứ thái độ nào.”
Tiếng của bạn nào đó ngồi bên phải tôi một khoảng cách:
“Ta đang bay trên một vùng hoàn toàn lạ, có lẽ qua khỏi Bến Hải
rồi.”
Tên cộng sản lúc nảy quát:
“Các anh không được quan sát địa hình.”
CHƯƠNG 6 TRẠI TẬP TRUNG YÊN BÁI.
Sau hai vòng lượn, phi cơ đáp xuống một đường băng nào đó không
bằng phẳng, làm phi cơ nhảy tưng tưng. Phi cơ dừng hẳn. Động cơ tắt. Lại ra lệnh:
“Mọi người ngồi yên tại chỗ chờ mở còng.”
Ấy vậy mà khi xuống phi cơ có một anh (tôi quên tên) vẫn còn cái
còng trong tay. Mãi khi những chiếc Molotova lệt bệt tới, họ mới tìm được cái
chìa khóa mở còng. Tôi lượm được sợi dây ni-lông dùng cột lạp xưởng:
“Đúng là mình đến cùng địa điểm với các anh đi trước rồi, sợi
dây này đủ chứng minh điều đó.”
“Trên đất Bắc, nhất là ở cái phi trường đèo heo gió hú này làm
gì có lạp xưởng.”
Tôi trông thấy 2 chiếc phản lực cơ Mig họ giấu trong rừng chồi
bên ngoài phi trường một khoảng cách, đúng là 2 chiếc này tôi đã trông thấy
trên một tấm không ảnh hồi cuối năm 1974 do Phòng 2 Tổng Tham Mưu cho xem. Tôi
quay sang các bạn:
“Các anh ơi! Chắc chắn là chúng mình đang ở vùng núi trên đất Bắc
rồi, vì 2 chiếc Mig này tôi thấy trong không ảnh nhưng không nhớ chính xác nơi
đây.”
Anh Luân nói:
“Tôi là dân Bắc Kỳ chính cống mà cũng chịu. Không biết đây là
đâu nữa, vì mấy cây gồi này không nói lên được điều gì hết.”
Mỗi xe 20 người cùng với mớ hành lý ít ỏi. Tất cả ngồi trên đống
tài sản của mình vì chỉ có sàn xe chớ không có băng ngồi. Tôi ngồi khoảng giữa
xe. Ngoài tên lính cộng sản tài xế, còn có một tên ngồi cạnh, và hai tên nữa ngồi
trên tấm bửng xe, một tay vịn mui xe một tay cầm súng hướng vào trong xe. Mui
và hai bên hông xe phủ kín mít bằng “tấm bạt”, chỉ còn thấy một mảng trời xanh
nho nhỏ xa xa, qua khoảng trống giữa hai tên lính cộng sản ngồi trên bửng sau.
Tôi nhìn qua nhìn lại trong cái khoảng không gian bé xíu chỉ là do tò mò chớ thật
ra có biết đây là nơi nào đâu. Ấy vậy mà bị một tên quát:
“Anh kia, không được quan sát địa hình.”
“Tôi nhìn ra trước mặt tôi mà.”
“Anh không được lý luận.”
Tôi vừa cười vừa nhìn sang anh Luân, cũng bị quát:
“Tại sao anh cười?”
“Anh đâu có cấm tôi cười.”
Hắn quát to: “Im.”
Nghĩ sao không biết, đôi mắt hắn xoáy vào tôi, gằn giọng:
“Bọn ngoan cố.”
Gần như đám cộng sản này từ cấp lớn xuống đến cấp bé, khi thấy
đuối lý thì phun ra hai chữngoan cố để bịt miệng kẻ thù trước mặt.
Anh Luân nói khẽ:
“Nói với mấy thằng chó đẻ này làm mẹ gì cho thêm tức.”
Đoàn xe dừng lại. Chúng tôi từng hai người một, xuống
xe. Bên tay phải là thị xã Yên Bái nhưng phút chốc bị che khuất bởi một đám đàn
bà và đám “oắt tì” (con nít) kéo đến với thái độ sừng sỏ. Miệng hét tay xỉa xói
vào nhóm chúng tôi đang chầm chậm xuống bờ sông để lên phà. Họ đứng cách chúng
tôi khoảng chục thước, cùng lúc đến mấy chục cái miệng oan oác:
“Đồ bán nước. Giết hết chúng nó đi.”
“Đồ ăn thịt con nít. Đem bắn hết đi.”
“Bọn giặc lái giết người. Cho nó rục xương trong rừng đi.”
Đám lính cộng sản áp tải chúng tôi có vẻ hài lòng với nụ cười của
tụi nó khi thấy đám phụ nữ và trẻ con sỉ vả chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Lên
phà. Cho dẫu mỗi chúng tôi có suy nghĩ gì đi nữa, tôi nghĩ, cũng đều ngỡ ngàng
qua “cú sốc” đầu tiên kể từ ngày thua trận! Nhưng ngay bước đầu trên đất xã hội
chủ nghĩa 20 năm, sự kiện vừa qua chứng tỏ cộng sản đã nhồi nhét trong đầu người
dân từ bé đến lớn một lòng căm thù chúng tôi không thể nào tưởng tượng đến như
vậy. Họ nói chúng tôi ăn thịt con nít! Điều này làm tôi nhớ lại câu hỏi của một
tên cộng sản mà anh Nguyễn Kim Sơn giới thiệu là cán bộ, khi anh hướng dẫn đến
nhà tôi phỏng vấn có thu hình vào những ngày đầu tháng 5 năm 1975. Hắn hỏi tôi:
“Anh là Đại Tá, chắc anh giết nhiều con nít lắm mới được quân
hàm đó phải không?”
Rõ ràng là từ trong quân ra đến dân và từ già đến trẻ trên cái đất
xã hội chủ nghĩa này, chỉ có một cách hiểu một cách nói mà thôi!
Tiếng anh bạn bên cạnh kéo tôi lại thực tế:
“Đây là phà Ô Lâu trên thượng nguồn Sông Hồng. Ngày trước tôi có
qua phà này khi tham gia trận đánh Nghĩa Lộ. Vậy là tụi nó đưa mình vô cánh rừng
già phía Nam Yên Bái rồi.”
Phà Ô Lâu, chỉ là chiếc xà-lan có chiếc tàu kéo cặp bên hông đẩy
đi. Nó không giống bất cứ chiếc phà nào ở Mỹ Thuận hay Cần Thơ cả.
Cũ kỹ già nua mà lỗi thời nữa. Sông Hồng Hà mà tôi học trong sách “Quốc Văn
Giáo Khoa Thư” từ cuối những năm 30, bây giờ mới trông thấy, nhưng
là trông thấy trong một tình cảnh hoàn toàn ngoài ý muốn.
Phà vừa cặp bến, anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) xin đi cầu
(đại tiện) vì đau bụng chịu không nỗi nữa. Tụi nó không cho. Mãi đến khi thấy
anh Phúc nắm cái quần đi tới đi lui với dáng vẻ iquýnh quáng vì phân
bón xã hội chủ nghĩa ưu việt sắp … ra quần, chúng nó mới cho anh chui vô rừng
giải quyết.
Sang bên kia, đoàn xe lại lăn bánh trên đường liên tỉnh 37. Cuối
đường này nối vào đường liên tỉnh 32 đến Nghĩa Lộ, tiếp tục theo hướng tây bắc
sẽ đến Lai Châu. Lại có một đám đàn bà con nít “dàn chào” nữa. Họ đứng một bên
đường, ném đá vào xe trúng tấm bạt nghe lịch bịch. Khi xe qua khỏi, tôi thấy mấy
cái miệng nhóp nhép lia lịa. Họ chửi họ nghe luôn chớ chúng tôi có nghe gì đâu.
Nghĩ đến con người trong cái xã hội chủ nghĩa này mà tức cười, nhưng không dám
cười. Cười là bị quát mà. Họ chẳng khác những cái máy cát-xét, thu thế nào phát
ra thế ấy!
Khoảng 12 giờ trưa, đoàn xe dừng lại một ngã ba đường đất đá.
Nhìn thấy căn trại chỉ là mấy cái nhà ọp ẹp xa xa, có lẽ cũng cả cây số chớ
không ít. Ngay ngày đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi phải đội cái nắng oi bức của
mùa hè khắc nghiệt so với cái nắng hiền hòa trong Nam. Mọi người tay xách nách
mang, mồ hôi nhuễ nhoại. Trông thấy mấy anh mập quá kích thước, mang xách lỉnh
kỉnh vừa đi vừa thở một cách nặng nhọc mà áy náy, nhưng giờ phút này có ai tiếp
được ai đâu! Nhiều anh phải cả tiếng đồng hồ sau mới lê thê lếch thếch đến trại!
Khu vực này ở nam tây nam thị xã Yên Bái khoảng 6 cây số.
Ở đây gọi là “trại nhà ngói”. Trại này có một dãy nhà duy nhất lợp
ngói. Dài khoảng 20 thước và 6 thước ngang. Nối dài là một dãy nhà tranh dài
khoảng 10 thước. Xéo về bên trái là hai dãy nhà tranh đâu lưng nhau, cũng dài
khoảng ấy. Trước mặt dãy phía sau là cái nhà bếp với 4 cái chảo lớn. Ngoài cổng
vào có cái chuồng bò cũ, đã có một số anh đến trước ở trong đó. Hơn 300 Đại Tá
thua trận, chen chúc nhau trong mấy dãy nhà này, thì liệu cái cõi không gian bé
tí của mỗi chúng tôi được bao nhiêu? Hơn 20 anh em trong số chúng tôi vừa đến
-tôi trong số này- ở ngoài sân. Nói cho đúng là ở ngoài rừng. Chúng tôi chọn ở
cuối dãy nhà tranh, đạp cỏ cho rạp xuống rồi để đồ đạc lên, những gì có quai
máng thì máng lên nhánh cây rừng.
Anh Nguyễn Ngọc Điệp đến đây trong chuyến trước. Anh cho tôi
chén cơm độn bắp. Anh nói là chén cơm này anh để dành từ hôm qua, sáng một nửa
chiều một nửa để làm phần điểm tâm sáng hôm nay. Khi nghe bọn nó nói là chúng
tôi sắp đến nên anh nhịn ăn dành lại cho tôi! Thật lòng mà nói, bưng chén cơm
mà nước mắt rưng rưng, bởi … tôi đang đói!
Họ bảo chúng tôi tập trung ra sân và tổ chức mà họ gọi là “biên
chế” thành từng Tổ. Mỗi Tổ 20 người, do một sĩ quan làm “quản giáo”.
Tên Trung Úy phó trại trưởng, sau khi tổ chức xong, hắn phun ra bài học đầu tiên:
“Các anh là những người theo chân đế quốc, bóc lột nhân dân, đó
là tội chết. Nhưng đảng với nhà nước khoan hồng, không giết, lại cho các anh tập
trung để chúng tôi dạy dỗ các anh biết lao động, biết làm ăn lương thiện mà
nuôi vợ nuôi con. Chúng tôi được đảng với nhà nước giao trách nhiệm dạy dỗ các
anh. Chúng tôi là thầy của các anh, là cha mẹ của các anh …”
Nghe đến đây tôi cảm thấy lùng bùng lỗ tai. Cạnh tôi, anh Dương
Hiếu Nghĩa (Đại Tá Thiết Giáp) nói khẽ:
“Thằng chó đẻ này ngạo mạn quá!”
Tôi hỏi: “Anh biết nó tên gì không?” Anh Nghĩa đến đây trong đợt
trước.
“Không. Mà chi vậy?”
“Trái đất tròn mà anh.”
Hắn lại phun tiếp:
“Tất cả các anh phải ký gởi cho trại tất cả tư trang quí như: Đồng
hồ, dây chuyền, nhẫn, tiền. Còn quần áo tư (không do trại phát) phải cột lại
đem gởi vào kho. Ngay chiều nay, các anh phải thực hiện điều này. Về cách xưng
hô, các anh gọi các chiến sĩ là bộ đội, còn sĩ quan phải gọi là cán bộ. Khi muốn
báo cáo điều gì, phải đứng xa 6 mét (thước).”
Một anh đứng lên nêu câu hỏi:
“Thưa cán bộ, làm sao chúng tôi phân biệt được bộ đội với cán bộ?”
Ngưng một lúc, hắn đáp: “Dần dần các anh sẽ biết.”
Áo quần của tôi cho vào cái túi đeo lưng, cột chặt lại đem bỏ
vào kho. Áo quần do trại phát thì quấn vào cái khăn rằn, kẹp thêm cái gối nhỏ tôi
mang theo từ nhà làm gối nằm. Phần gọi là ký gởi ở bộ chỉ huy trại
là cái đồng hồ đeo tay và 35 đồng. Trong số này có 10 đồng mà vợ tôi bảo cứ
mang theo, nhỡ họ có đưa ra Bắc có mà xài. Sự thể đúng như linh tính của vợ
tôi.
Bữa ăn chiều là một chén cơm độn bắp thoạt trông cứ như cơm đậu
xanh cà, với một muỗng mắm xềng xệch giống như muỗng nước vừa múc từ trong hũ mắm
cá trèn hay cá sặc ra vậy.
Đêm xuống. Tôi nằm trên thảm cỏ rừng dưới bầu trời sao, nhiều
sương, ít gió! Vừa nhìn bầu trời vừa nhớ lại lời lẽ của tên cán bộ hồi chiều, dẫn
tôi trở lại những ngày bị thẩm vấn gần như tôi đôi co cãi lý thẳng thừng với bọn
họ. Bây giờ nghĩ lại, thấy mình chưa hẳn như “người điếc không sợ súng”, nhưng
quả tình là ngồi ngay miệng cọp mà không biết sợ cọp. Có lẽ do lúc ấy họ chưa
phân định cách xưng hô, cũng chưa gạch hẳn một khoảng cách như cái tên phó trại
này vừa gạch hồi chiều, trong khi tôi chưa cảm thấy mình là người tù chính trị,
nên vừa trả lời vừa có ý phản công lại họ. Nghĩ cho cùng, thế mà hay. Hay ở điểm
mình “dại khờ” về bản chất dối trá của chủ nghĩa cộng sản nên trong
tư thế bị thẩm vấn nhưng đôi lúc cũng vùng lên phản công được. Giờ thì khẳng định
mình trong tay họ rồi, không điếc nữa nhưng nhất thiết phải giữ cái thế của người
tù chính trị hoàn toàn đối nghịch với chúng. Miên man một lúc cũng thiếp đi
trong giấc ngủ dưới bầu trời đầy sao giữa rừng già trên đất Bắc!
Tiếng kẻng vang dội giữa rừng già tây bắc Hà Nội, lôi mọi người
ra khỏi chỗ nằm. Chiếc chiếu tôi nằm, phía dưới ướt đẫm, thấm cả lưng nữa. Tất
cả tôi trải ra phơi tại chỗ, nếu không, tối đến không thể nằm được.
Anh Điệp lại cho tôi nửa chén cơm độn bắp với vài hột muối. Tất
cả chúng tôi bị lùa lên núi đốn cây rừng cây chổm về cất căn trại. Gỗ rừng làm
cột, kèo, đòn tay, phần còn lại đều dùng cây chổm làm lá lợp nhà, làm vách, làm
vạt nằm. “Cây chổm” giống như cây nứa miền Nam, nhưng thân dầy một chút. Cưa từng
khúc dài 1.20 thước, đập giập rồi chẻ ra trải dài làm lá lợp nhà. Lợp xong, nằm
nhìn lên thấy mây bay gió thổi với trăng sao nhưng nước mưa lọt xuống rất ít. Kể
cũng lạ. Cũng cây chổm làm vạt giường nằm, mỗi cử động đầu này thì đầu kia nghe
trọn vẹn âm thanh. Mãi rồi cũng quen. Một tuần sau, 20 anh em chúng tôi dọn vào
bên trong dãy nhà vừa cất xong, không bị cái cảnh ban đêm nằm ngắm sao trời bất
đắc dĩ nữa.
Cơn bệnh tưởng chết.
Đúng một tháng sau ngày đặt chân lên đất Bắc, tôi bị đau với cơn
nóng liên tục ngày đêm. Ngay trước đó tôi rất khỏe. Lên núi đốn cây làm cột
nhà, vác nó từ trên núi về trại trên quảng đường dài hằng bảy tám cây số. Cất
nhà xong họ bắt đào giếng. Nền giếng là loại đất từa tựa như than bùn, màu xám
đậm, nhưng óng ánh dưới nắng trưa. Đặc biệt khi đào sâu xuống thì mùi càng nồng
nặc rất ư là ngột ngạt bốc lên khá mạnh, giống như có sức đẩy từ bên dưới vậy.
Chẳng biết có phải vì cái mùi đó mà tôi bị bệnh hay không, nhưng có điều là
ngày hôm sau, các bạn trong toán đào giếng với tôi lần lượt kẻ trước người sau
nằm la liệt, mà tôi là nặng nhất. Nặng đến mức không thể tự mình đi tiểu được nữa
mặc dầu cầu tiêu chỉ cách nhà tranh đang ở khoảng 20 thước. Mỗi lần như vậy,
tôi nhờ hai bạn xốc nách dìu tôi đi, nhưng cũng phải ngồi lại đến 2 lần mới đến
nơi được. Anh Điệp và anh Nghĩa (Dương Hiếu) cũng bệnh nhưng nhẹ hơn tôi nhiều,
hai anh luân phiên nấu cho tôi chén cháo bằng nhúm gạo với nhúm bắp lén xin các
bạn nhà bếp. Nhưng chỉ húp được vài muỗng mỗi lần.
Trong tình trạng như vậy cho đến ngày thứ 10, anh Nguyễn Văn Hướng
(Đại Tá, Quân Đoàn 3) hỏi tôi:
“Anh Hoa. Anh có thuốc Tifomycine không?”
“Có.” Tôi trả lời rất yếu, yếu đến mức anh Hướng phải kề tai sát
miệng tôi mới nghe được. Lúc ấy tôi không còn đủ lực để đẩy âm thanh ra ngoài
miệng nữa!
Anh Hướng kề miệng sát tai tôi:
“Anh cứ uống đại 10 viên trong một ngày xem sao. Tôi đã một lần
liều mạng uống như vậy và tôi hết bệnh. Có thể là anh bị bệnh thương hàn đó.”
Tôi nhờ anh Nghĩa đỡ đầu tôi dậy, anh Nguyễn Trọng Luật (Đại Tá,
Tỉnh Trưởng Darlac) kéo cái gọi là cái gối ra, mở bên trong tìm giùm ống thuốc.
Anh Điệp múc cho tôi chút nước cơm sôi và cho tôi uống thuốc. Uống năm lần
trong ngày, mỗi lần 2 viên. Trước khi cho tôi uống thuốc, anh Điệp cố ngăn tôi
đừng uống quá liều nguy hiểm lắm. Nhưng lúc ấy tôi không nghĩ là sống được, cứ
thà liều may ra. Thế rồi đêm đó tôi ngủ được.
Sáng ra, tôi cảm thấy cơn nóng gần như không còn, trong người sảng
khoái, không mệt mỏi như những ngày trước. Tôi thử lần từng bước sang nhà bếp,
xin anh bạn cho chút nước cơm để uống với miếng đường tán còn lại do vợ tôi gởi
cho hồi Tết. Trời đất ơi! Nếu như nước cam lồ làm cho người uống trở nên tỉnh
táo khỏe mạnh thì quả thật chén nước cơm với đường đã cho tôi cảm giác kỳ diệu
đó. Trưa hôm ấy, tôi ăn chén cơm độn bắp với những cọng măng cây chổm phơi khô
luộc chín, chấm vào muỗng mắm tôm quậy nát, nó ngon không thể tưởng được. Tôi
không nhớ rõ những bạn nào vì có đến mấy bạn góp chung lại cho tôi được gần
chén cơm độn bắp nữa, tôi ăn hết và ăn thật ngon. Ngày kế tiếp tôi uống 8 viên
trong 4 lần. Ngày kế tiếp nữa, tôi uống 6 viên trong 3 lần. Và tôi bình phục.
Khi viết lại những dòng này, vợ chồng tôi rất chân thành cám ơn
các bạn đã giúp tôi trong cơn kiệt sức ấy. Chính các bạn đã góp phần giúp tôi tồn
tại trong cuộc sống hôm nay.
Trở lại cơn bệnh. Trong trại không có một bác sĩ hay một y tá
nào của cộng sản cả. Chúng tôi có đau thì tự mà lo lấy. Chết thì họ đem chôn ở
đâu đó cũng không ai biết! Lính của họ cứ chết đâu chôn đó thì tù chính trị
chúng tôi có nghĩa gì!
Anh Nghĩa nói với tôi trong nụ cười:
“Tụi tôi không tin anh sống được.Nhưng mà con người có số mệnh,
tụi nó bỏ cho mình chết nhưng tụi mình vẫn cứ sống. Anh không chết trong trận
đau này thì anh sẽ không bao giờ chết trong tù đâu. Yên tâm.”
Tôi siết tay anh trong niềm vui vừa vượt qua cái chết:
“Chính tôi cũng không tin là tôi sống được khi tôi cảm thấy mất
hết sinh lực, thậm chí đến khả năng phát âm cũng không còn.”
(Năm 2005, anh Dương Hiếu Nghĩa vào chùa tu. Thời gian đầu ở Nam
California, sau đó chuyển sang Houston)
Lên rừng lấy củi.
Tuần sau đó, Tổ chúng tôi chuyển sang công tác lấy củi. Củi là
loại cây bồ đề trên đỉnh núi chớ không phải loại bồ đề trồng ở sân chùa trong
miền Nam. Cây này trồng chớ không phải mọc tự nhiên, họ giải thích cây bồ đề là
nguyên liệu làm giấy. Lúc trồng phải trồng với mật độ dày, khi lớn lên ngành
lâm nghiệp đốn bớt những cây không đủ tiêu chuẩn phát triển, và đó là những cây
chúng tôi tìm vác về trại làm củi. Cứ sáng sớm, sau khi lót dạ bằng nửa chén
cơm độn bắp dành lại từ chiều qua, xuống nhà bếp xin lon guigoze nước nấu chín,
cả Tổ kéo nhau lên núi. Ngày nào cũng vậy, tên quản giáo và tên võ trang dắt
chúng tôi đến chân núi ở khoảng cách thường là từ 6 cây số trở lên, rồi ra lệnh:
“Các anh mỗi người vác một bó ít nhất là 6 cây, mỗi cây dài
ít nhất là 5 mét. Nếu buổi sáng vác đủ chỉ tiêu, buổi chiều nghỉ. Nếu
không thì chiều đi nữa.”
Chúng nó thả chúng tôi lên núi nhưng đâu sợ chúng tôi trốn, vì rừng
núi ở mạn nam sông Hồng này mênh mông trùng trùng điệp điệp và hoàn toàn xa lạ
với chúng tôi, biết đường đâu mà trốn. Với lại nghe chúng nó nói là người dân
quanh vùng này được lệnh bắt nếu chúng tôi trốn trại hay họ nghi ngờ chúng tôi
có ý trốn trại.
Những vùng núi trồng cầy bồ đề do các Lâm Trường quản trị, có thể
do sự thỏa thuận giữa trại với bên Lâm Trường, nên bọn quản giáo bảo chúng tôi
leo lên các ngọn núi bồ đề, cứ thấy cây nào đã bị đốn ngã và khô thì vác về.
Thông thường những cây này dài từ 5 thước trở lên, đường kính ở gốc cũng bằng cổ
chân. Những cây bồ đề nằm rải rác đó đây trên đỉnh núi, sườn núi, và cả dưới
thung lũng nữa. Trong thời gian lên núi lấy củi bồ đề, trung bình mỗi
ngày đi bộ trên dưới 15 cây số kể cả khoảng 4 cây số trên núi. Những
anh bị tim như anh Cao Văn Ủy (Đại Tá Biệt Động Quân), anh Võ Hữu Hạnh (Đại Tá
Bộ Binh), không thể vác bó củi theo chỉ tiêu bọn họ bắt buộc. Anh em tiếp tay bằng
cách mỗi người cố gắng nhận giúp 1 cây, dù rằng anh nào cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt
vừa xanh vừa đỏ vì mệt dưới cái nắng oi bức của mùa hè đầu tiên trên đất Bắc khắc
nghiệt! Trên núi cao, khi cơn nắng “nổ đom đóm mắt” thì cơn khát bắt đầu hành hạ
ghê gớm lắm. Trong lon guigoze nước phải cho vào một ít muối để giữ mồ hôi, vì
lượng mồ hôi ra nhiều quá có thể ngất xỉu. Những lúc khát quá, anh em chúng tôi
cứ lội ra giữa dòng suối, úp mặt xuống dòng nước màu nâu sậm của lá rừng ngập dầy
bên dưới mà uống, dù biết rằng nước suối giữa rừng già là mầm bệnh kiết lỵ và sốt
rét. Từ trại Tam Hiệp, Biên Hòa, tôi mang theo 50 viên Vitamine C, tôi đã ngậm
hết từ vài tuần nay. Thuốc ngừa sốt rét do vợ tôi gởi trong gói quà
hồi Tết lúc ở trại Tam Hiệp, vẫn còn nhiều nên tôi vẫn uống hằng tuần.
Ngạc nhiên thứ nhất.
Một buổi chiếu, khi về ngang dòng suối cạn còn cách trại hơn cây
số, anh em chúng tôi dừng lại giữa suối rửa tay chân mặt mũi. Cùng đứng giữa
dòng suối cạn với chúng tôi là hai ông già rửa xe đạp, trong khi tiếng loa
phóng thanh từ khu cư xá Lâm Trường trên sườn đồi, oang oang tiếng người xướng
ngôn loan tin về vụ mùa thắng lợ” ở Hà Nam Ninh. Một trong hai ông già, vừa
rửa xe vừa chửi đổng:
“Bố tiên sư nó, vụ nào cũng thắng lợi mà năm nào dân cũng đói.
Nói khoét mãi mà không ngượng!”
Tôi ngẫng lên nhìn ông ta để đánh giá câu chửi của ông có phải
là thật không. Ông ta cũng nhìn tôi kèm theo nụ cười héo hắt. Thấy thế tôi hỏi
ông: “Có thật vậy không ông?”
Ông ta đáp ngay:
“Các anh sống trong Nam, các anh chưa hiểu được họ đâu. Tôi
khuyên các anh hãy hiểu ngược lại lời họ nói thì đúng sự thật.”
Cả hai ông đẩy xe đạp lên bờ, đạp tiếp. Tôi khều anh Thống:
“Anh có đồng ý với tôi rằng hai ông già này là người dân dưới chế
độ cộng sản nhưng không phải cộng sản?”
“Đúng. Tôi càng tin chắc là trong dân chúng cũng nhiều người như
vậy chứ không ít đâu.”
“Tôi nghe nói vùng này là vùng họ chỉ định cư trú số anh em quân
nhân viên chức bị kẹt lại hồi năm 1954, có thể do vậy mà họ có cảm tình với
mình, nên mình chưa thể đánh giá người dân ở vùng khác cũng như người dân vùng
này đâu anh.”
Lại giọng quát của thằng võ trang: “Các anh khẩn trương đi về.”
Bạn tôi trốn trại.
Trong thời gian chúng tôi lên núi tìm củi, có 4 anh trốn trại.
Chuyện như thế này: Hôm ấy có 2 Tổ đi đốn cây chổm cách trại khoảng 8 cây số, về
một hướng khác với hướng chúng tôi. Đến chiều trở về thì thiếu 4 anh: Anh Nguyễn
Phương Thành (Đại Tá, Sư Đoàn 7 Bộ Binh). Anh Võ Quế (Đại Tá Không Quân). Anh Đỗ
Trọng Huề (Đại Tá Hành Chánh Tài Chánh). Và anh Nguyễn Văn Thi (Đại Tá Pháo
Binh).
Tối đến, bọn cộng sản chia nhau rình rập các dãy nhà xem tù
chính trị bàn tán những gì may ra từ đó chúng nó có thể tìm ra manh mối các anh
ấy. Nghĩ vậy nên anh em chúng tôi rất thận trọng. Tôi chui sang nằm sát cạnh
anh Nghĩa và anh Nguyễn Xuân Dung (Đại Tá Thiết Giáp) để bàn luận chung quanh
việc các anh trốn trại. Tôi hỏi:
“Anh Nghĩa. Anh có nghĩ là các anh ấy có thật sự trốn trại hay bị
tai nạn như rắn cắn, trăn quấn, lọt hố sâu, hay bị cọp tha không?”
“Tôi cho là mấy ảnh trốn thật vì trong nhóm đó có anh Huề giỏi
tướng số tử vi lắm. Mấy tuần nay mấy ảnh đẩy xe cải tiến ra Sông Hồng lấy cát,
rất có thể mấy ảnh móc nối được với dân ngoài đó để tổ chức trốn trại. Chớ tai
nạn thì đâu đến nỗi một lúc bị đến bốn anh.”
“Cầu xin các anh ấy trốn thoát để có được tiếng nói của mình ra
bên ngoài, chớ cái kiểu họ giấu tụi mình trong tận cánh rừng già heo hút này chỉ
có Trời mới biết thôi.”
Anh Nguyễn Văn Của (Đại Tá Thiết Giáp, bạn cùng khóa với tôi)
chen vào:
“Trong nhóm có thằng Thành ngon lắm. Nó rất xông xáo, có thể
thoát được.”
“Anh Nghĩa. Anh có biết là trong toán lấy cát có anh Lại Đức Chuẩn
(Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) đã lén tiếp xúc được với bà con của ảnh không?” Tôi
hỏi.
“Có. Tôi có nghe.”
“Nếu được giúp đỡ của người địa phương thì mức độ hy vọng trốn
thoát cao hơn anh à! Biết đâu người mà anh nghĩ có thể đã móc nối là đây
chăng?”
“Không đoán nỗi.”
Và rồi 4 ngày sau. Trong lúc Tổ chúng tôi đang ngồi trên mái nhà
của bộ chỉ huy trại để kéo vĩ tre lên giằng mái tranh. Tôi chợt thấy từ xa và
khều nhẹ anh Luân:
“Trời ơi! Anh đi đầu giống anh Võ Quế quá Luân ơi!”
Anh Quế với anh Luân cùng phục vụ trong quân chủng Không Quân,
nhưng anh Luân biệt phái sang Tổng Cục Tiếp Vận, phụ trách chuyển vận hàng
không quân sự.
“Đúng. Vậy là mấy anh em mình bị bắt rồi.”
“Sao có ba anh hà. Còn một anh nữa đâu?”
“Chúng nó nhìn mình kìa. Làm đi.”
Một lúc sau, bọn chúng dắt cả ba anh vào trong sân căn nhà bộ chỉ
huy trại, trong khi Tổ chúng tôi làm xong trên mái nhà. Tất cả tuột xuống và
đem vật dụng còn lại vào kho. Tôi cố ý đi sát lại anh Võ Quế:
“Anh Thành đâu anh Quế?”
“Nó bị nhốt riêng rồi.”
Đến tối, chúng nó dắt ba anh lên Liên Trại, chắc là nhốt các anh
trên đó. Sáng hôm sau, thay vì đưa Tổ chúng tôi lên núi, bọn họ dắt chúng tôi
vòng ra triền núi bên kia dãy nhà ngói, để đào đất:
“Các anh đào 3 cái hầm sâu vào trong núi theo kích thước sau
đây: Mỗi hầm ngang 1 mét, sâu vào 2 mét. Cách 1 mét thì đào hầm thứ hai, rồi hầm
thứ ba cũng khoảng cách đó. Lòng hầm ngang 1 mét, dành 0.6 mét làm
chỗ nằm, còn 0.4 mét kia tiếp tục đào xuống 0.5 mét là thành cái giường nằm.”
Chúng ra lệnh, nhưng lúc nào cũng đứng bên cạnh thúc hối đào cho
nhanh. Đào xong, bọn họ dắt chúng tôi lên núi đốn cây lót làm trần bên trên, rồi
đổ đất lên như triền núi lúc chưa đào. Cánh cửa làm bằng cây chổm, có khóa. Cái
gọi là “giường nằm”, chỉ là đất sét ướt, ngang 0.6 mét x dài 2.0 mét x cao 0.5
mét. Tôi không rõ là chúng nó có cho các anh trải chiếu hay lót cái gì đó để
tránh lưng bị lạnh không, chỉ biết là khi làm xong vào lúc hoàng hôn thì bọn họ
dắt ba anh vào nhốt trong hầm này! Rồi mùa Đông, liệu các anh có chịu nỗi
không? Tuy tôi chưa biết mùa Đông nơi đây ra sao, nhưng nghe người dân vùng này
mô tả hãi hùng lắm.
Đêm nằm nghĩ lại, mỉa mai quá! Mình đào hầm để nhốt bạn mình!
Nhưng nghĩ cho cùng, không đào cũng không được với chúng nó. Và qua đó, chúng
tôi nhận thức rõ thêm về cách của chúng đối xử với tù chính trị chúng tôi!
“Liệu quốc tế làm cách nào để hiểu được mức độ tàn bạo nghiệt
ngã của cộng sản Việt Nam?”
Vài hôm sau, chúng tôi nghe mấy thằng võ trang nói với nhau là
anh Nguyễn Phương Thành đã tự tử trong hầm giam ở Liên Trại. Lại mấy ngày sau nữa,
chúng tôi mới biết là anh Thành đã chết thật sự, nhưng không rõ là anh ấy bị
chúng nó giết hay là anh tự tử. Anh Nguyễn Phương Thành, một Trung Đoàn Trưởng
rất can đảm của Sư Đoàn 7 Bộ
Binh.
Người Mỹ Tên Nam.
Tổ chúng tôi lại đi hái trà gần khu vực Liên Trại 1. Nơi đây có
cái máy phát điện với năng suất chỉ đủ cho khu vực bộ chỉ huy và các trại lân cận
với những áng sáng vàng vọt. Phụ trách kỹ thuật là một người Hoa Kỳ. Nếu nhìn từ
sau lưng thì vóc dáng anh ta chẳng khác gì người Việt Nam bao nhiêu. Tù chính
trị không được đến gần anh ta. Trong gian nhà tranh của anh ta bên kia đường
nhìn từ đồi trà, có một phụ nữ và một bé gái khoảng 2 tuổi (năm 1976), có lẽ là
vợ và con anh ta. Nhân lúc gạ chuyện với mấy tên bộ đội phụ trách điều hành nhà
máy xay lúa mà họ gọi là máy xay xát, và phụ trách an ninh máy phát điện, mới
biết thêm tin tức nhưng không rõ sự thật ra sao. Theo đó , anh ta là Trung Úy
Biệt Kích Hoa Kỳ (mũ nồi xanh), đã lái xe Jeep băng qua cầu Bến Hải đầu hàng
quân cộng sản tại đó. Anh ta lấy tên là Nam, nên gọi là anh Nam. Khi Đoàn 776
thành lập cách nay vài tháng, anh Nam này mới chuyển đến đây làm việc. Lương mỗi
tháng 75 đồng. Nghe nói anh ta nói được chút ít tiếng Việt. Nhưng anh em chúng
tôi chưa dám tin, vì chỉ riêng cái hành động một sĩ quan Hoa Kỳ lái xe băng qua
bên kia cầu Bến Hải mà vẫn còn sống, quả thật là khó tin.
Có những lúc anh ta như muốn tiếp xúc với chúng tôi, nhưng trong
những lần gặp thì anh ta không bao giờ đứng một mình, ít nhất bên cạnh cũng có
người đàn bà có vẻ như vợ anh ta. Một hôm, nhân lúc hái trà xong và trên đường
về trại, trông thấy anh ta đi sau một tên bộ đội, tôi cố lướt lên với hy vọng
nói được với anh ta vài câu, nhưng tên bộ đội bất chợt quay lại trông thấy, hắn
liền dừng lại rồi đi ngang với anh ta. Lỡ bộ, nhóm chúng tôi đi với tốc độ
nhanh hơn và qua mặt anh ta luôn.
Một dịp khác, khi đang làm cỏ ở lưng chừng đồi trà, tôi trông thấy
anh chàng Mỹ tên Nam lửng thửng từ chân đồi đi lên, tôi bước vội xuống thì một
tên bộ đội bên kia đường trông thấy, hắn nhanh chân băng qua đường theo sát anh
ta. Tôi quay lên đồi, không ngờ lại gặp anh chàng khật khùng “tùy viên của Thiếu
Tướng Nguyễn Huệ” lúc ở trại tập trung Tam Hiệp, từ bên kia triền đồi qua khu vực
chúng tôi. Vẫn nụ cười mà thật sự không rõ là anh ta cười với ai. Có lẽ cộng sản
cũng xếp anh ta vào loại tù chính trị nguy hiểm như chúng tôi hay sao mà đưa
anh ta từ trại Tam Hiệp, Biên Hòa, ra đây nữa.
Tháng 09/1976, tất cả tù chính trị cấp Đại Tá được lệnh chuyển từ
“trại nhà ngói” này đến một trại có tên là “Trại Cốc” nằm sâu trong một thung
lũng, cách trại này khoảng 4 cây số. Thế là chúng tôi gồng gánh mang vác đi bộ
thành một đoàn dài ngoằng, và nhiều anh gần như chỉ nhấc nỗi từng bước chân!
Trên đoạn đường đầy người gồng gánh đó, tôi gặp anh Đại Úy Nguyễn Ngọc Chươu
cũng dọn trại nhưng ngược chiều. Trong những năm 1956-1958, chúng tôi cùng phục
vụ ở Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 35 Sư Đoàn 12 Khinh Chiến ở Catecka, Pleiku, rồi
chuyển lên Kontum. Chúng tôi chỉ ôm nhau rồi chia tay ngay, để theo kịp các bạn!
“Trại Cốc”, gồm khu nhà của bộ chỉ huy trại trên sườn đồi
bên kia dòng suối nhỏ. Phần nhà cho hơn 300 Đại Tá chỉ có hai gian nhà tranh cấu
trúc như chữ L, dưới chân đồi bên này dòng suối. Dòng suối nhỏ này là nguồn
cung cấp nước duy nhất cho chúng tôi và đơn vị quân đội cộng sản canh giữ chúng
tôi. Nếu so sánh thì chúng tôi ở trại này chật hơn trại nhà ngói, nhưng có phần
sạch và thoáng hơn trại nhà ngói, nhất là có dòng nước thoạt xem là tốt.
Đêm đầu tiên tôi bị đau bụng dữ dội. Không thể nào chịu đựng được
tới sáng nên nửa đêm phải đi tiêu. Với cái đất Bắc xã hội chủ nghĩa
này không nói là đi tiêu hay đi cầu, mà nói là “đi ỉa”. Khổ nỗi là cái cầu tiêu
họ làm bên kia triền đồi, hoàn toàn vắng vẻ. Vừa ôm bụng vừa bấm bụng mà lần mò
trong đêm tối. Vừa bước ra khỏi nhà trại phải báo cáo theo nội qui của họ:
“Báo cáo bộ đội, tôi đi ỉa.”
Tối thui tối mịt. Chẳng cần thấy ai nhưng vẫn cứ báo cáo như vậy.
Cứ từng bước khập khễnh theo sự thúc giục của “tào tháo” trong khi trống ngực
đánh liên hồi vì rừng vắng giữa đêm khuya. Ngồi lên hai thanh cây rừng làm cái
việc “sản xuất phân bón ưu việt xã hội chủ nghĩa”, trong khi mắt láo liên
dù chỉ thấy lờ mờ chung quanh, tai lắng nghe khu rừng bên kia nhỡ có tiếng xào
xạc nặng nề của cọp của beo còn chạy cho kịp. Bỗng có tiếng bước chân chầm chậm,
tôi lên tiếng ngay:
“Có tôi đây.” Tôi nói khá lớn, vừa nói cho ai đó nghe, cũng
vừa tự trấn an do âm thanh dội lại từ đồi bên kia thật rõ ràng.
“Sao lâu thế?” Tên bộ đội đứng đâu đó hỏi tôi.
“Báo cáo bộ đội, tôi đau bụng.”
“Tại anh không quyết tâm chứ đau bụng gì lâu thế.”
“Đi ỉa cũng có quyết tâm sao bộ đội?”
“Anh không có quyết tâm làm sao nó ra. Khẩn trương lên.
Không có lý sự nữa.”
Tôi mỉm cười trong đêm tối, trong khi hắn càu nhàu:
“Các anh đừng tưởng qua mặt chúng tôi được nhé! Các anh không
thoát được chúng tôi đâu.”
“Tôi thiếu quyết tâm một chút mà bộ đội nói sang chuyện trốn trại
làm chi.”
“Khẩn trương lên, đừng có ở đó mà lý sự”.
Dù sao thì lượt vào tôi đi một cách “hiên ngang” vì có tên bộ đội
“hộ tống”. Sáng sớm, tôi thuật cho anh Dương Hiếu Nghĩa với anh Nguyễn Phán
nghe, hai bạn cười ngất.
Ngạc nhiên thứ hai.
Hôm ấy chúng nó dẫn chúng tôi đào lỗ trồng cột bằng cây rừng để
kéo dây điện thoại dọc theo đường đá lởm chởm, từ bộ chỉ huy Liên Trại 1 đến Trại
Cốc chúng tôi. Ngoài tên bộ đội cầm súng canh giữ, còn có tên quản giáo hướng
dẫn công tác. Hắn tự xưng là cán bộ binh chủng thông tin. Anh ta áng chừng 25
tuổi, ăn nói tương đối dễ chịu chớ không quát tháo mắng chửi như cái đám gặp
ngày đầu tiên. Nói chuyện với hắn một lúc mới biết, các trại tập trung tù chính
trị thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn này có đến hằng mấy chục trại lận. Chỉ
huy tất cả các trại là Đoàn 776, dưới Đoàn 776 có 6 Liên Trại, mà trại đang
giam giữ cấp Đại Tá chúng tôi là Trại 2 thuộc Liên Trại 1. Các Liên Trại kia nằm
rải rác đến sát biên giới Trung Hoa cộng sản. Thế là được biết thêm, tất cả tù
chính trị chúng tôi bị giữ ở vùng rừng núi này do Bộ Quốc Phòng của họ quản trị
chớ không phải Công An.
Những vị trí hắn chỉ chúng tôi đào lỗ hầu như toàn đá nên khá vất
vả. Mọi người mồ hôi nhỏ giọt từ hai bên má. Tên quản giáo đến cạnh nhóm chúng
tôi nói nhỏ:
“Các anh chưa quen lao động dưới cái nắng oi bức của mùa hè miền
Bắc nên mau mệt.”
Nói xong, anh ta hướng sang tên cầm súng và nói lớn:
“Các anh nghĩ giải lao 10 phút.”
Khi chúng tôi dừng tay, đến cạnh bếp đang nấu chảo nước sôi với
lá bàng. Lá bàng là loại lá lớn bằng bàn tay xòe, mùa này nó rụng quanh gốc
cây. Khi nấu nước, tên cầm súng bảo chúng tôi:
“Các anh lượm những lá bàng chuyển màu nâu (sắp khô) bỏ vào chảo
mà uống như uống chè (trà) cho đỡ khát”.
Khi tên cầm súng đến gốc cây bàng xa xa đằng kia ngồi, tên quản
giáo từng bước đến cạnh tôi với anh Trần Ngọc Thống (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu),
anh ta nói thật nhỏ, có lẽ sợ tên cầm súng nghe:
“Các anh có thiên đường mà các anh không biết giữ.”
Tôi nhìn anh Thống, anh Thống nhìn tôi. Tuy không nói ra, nhưng
chúng tôi ngầm hiểu với nhau “không rõ tên này muốn bẫy mình hay sao đây”, nên
hai đứa làm thinh. Chừng như hắn nhận ra điều đó, hắn nói tiếp:
“Tôi đã vào Sài Gòn và tôi đã hiểu các anh.”
Nói xong anh ta bước đi ngay.
Quí vị quí bạn thấy không, qua thái độ của anh chàng gọi là cán
bộ thông tin hay quản giáo vừa rồi, cho thấy giữa những người cộng sản với
nhau, họ cũng canh chừng nhau nữa, huống gì là chúng tôi.
Chúng tôi đến ngồi quây quần với các bạn cạnh chảo nước lá bàng
như là cùng nhau giải khát, rồi thuật lại hai câu nói của anh ta cho các bạn
nghe. Anh Thống nói:
“Tôi thấy thằng này tuy trẻ nhưng câu nói của nó đáng cho mình để
ý lắm.”
Tôi góp thêm:
“Hoặc nó nói thật, hoặc nó xỏ mình. Nhưng quan sát thái độ của
nó nhìn trước nhìn sau, và khi nói xong là vội vàng đi ngay, tôi nghĩ là hắn
nói thật. Vì hắn nói hắn đã vào Sài Gòn, được hiểu là hắn đã nghe tại chỗ về
mình, được thấy tận mắt về cuộc sống của người miền Nam mình rồi.”
Anh Lê Minh Luân (Đại Tá Không Quân) chen vào:
“Liệu trên đất Bắc xã hội chủ nghĩa 20 năm này có một thằng bộ đội
trẻ dám nhận xét ngược với đảng của nó không?”
“Chính tôi cũng tự hỏi như anh.”
Anh Thống tiếp lời:
“Tôi vẫn tin, không phải mọi người trên đất Bắc này đều là cộng
sản đâu. Riêng trường hợp thằng bộ đội này, tôi tin là hắn nói thật.”
Tôi tiếp lời anh Thống:
“Từ nay, anh em mình nên lắng nghe những mẫu chuyện của người
dân quanh vùng mà mình gặp, tôi chắc là mình có thể tìm hiểu được ý thức chính
trị của người dân đất Bắc xã hội chủ nghĩa này ra sao. Biết đâu mình sẽ ghi nhận
được nhiều điều mà mình không ngờ như trường hợp thằng nhóc này cũng như với
hai ông già rửa xe đạp hôm trước cũng nên.”
Xì xầm nhỏ to đến đây thì thằng cầm súng từ xa quát lớn:
“Đi làm đi. Thông tin cái gì đó?”
Chúng tôi không ai trả lời. Mạnh ai người ấy vác dụng cụ đào lỗ
trồng cột tiếp. Anh bộ đội quản giáo quay lại sát chúng tôi:
“Các anh cẩn thận trong mọi tình huống.”
Nói xong là anh ta đến với tên võ trang. Có lẽ nảy giờ anh ta
theo dõi chúng tôi to nhỏ với nhau nên anh ta sợ đến tai tên võ trang chăng?
Thêm một câu nói giúp chúng tôi tin hắn không phải là người cộng sản cuồng nhiệt,
nhưng nhất thiết phải giữ một khoảng cách nhất định khi tiếp xúc với bất cứ tên
cộng sản nào.
Ngạc nhiên thứ ba.
Vì trại chưa có rau nên họ chỉ định 6 người đi mua rau ở chợ Yên
Bái. Trong số này có tôi và anh Nghĩa. Một tên võ trang dẫn đi. Hắn đưa chúng
tôi 3 cái đòn khiêng và 3 cái bao bố (loại bao gạo 100 kí lô), nghĩa là hai người
một khiêng. Trên quảng đường đá lổm chổm chừng 6 cây số, chúng tôi đi ngang một
trại. Nhanh tay lẹ chân tiếp xúc với anh bạn đang cuốc đất bên đường, chúng tôi
được biết đây là Trại 1, giam giữ các anh cấp Trung Tá.
Đến bờ nam sông Hồng, hắn không đưa toán chúng tôi sang phà Ô
Lâu qua chợ Yên Bái mà ghé vào khu nhà bên nay Sông Hồng mua khoảng 150 kí lô
chuối xanh còn trên cây. Tôi trông thấy cây ớt hiểm chín đỏ mà phát thèm, thèm
chất cay của ớt để kích thích khẩu vị. Tôi mon men đến ông cụ đang ngồi hút thuốc
lào ở thềm nhà:
“Chào cụ. Cụ có thể cho tôi một trái ớt được không?”
“Ông ăn cay được không? Ớt này cay lắm đấy.”
“Dạ được.” Nói xong, tôi bước đến cây ớt cạnh thềm nhà. Ông cụ
lên tiếng:
“Ông ngồi đây xơi nước. Tôi bảo con gái tôi nó hái cho ông.”
Vừa nói ông vừa kéo cái ghế nhỏ cho tôi ngồi, vừa rót chun trà:
“Hồng à! Con vặt (hái) cho ông này nắm ớt rồi gói lại đàng hoàng
nghe con”.
“Cám ơn cụ.”
“Chè xanh đó. Xơi vào ông thấy thấm giọng và chống được cơn
khát. Mùa hè của chúng tôi oi bức hơn trong Nam nhiều. Các ông chưa quen nên
mau mệt lắm.”
Cô con gái đưa ông cụ một gói ớt lớn bằng cái chén ăn cơm. Ông cụ
cho tôi hết gói đó. Tôi nói:
“Cụ làm ơn nói với bộ đội võ trang giùm, nếu không thì tôi không
dám nhận.”
“Này anh bộ đội. Tôi cho ông này gói ớt đấy nhé!”
Ông chỉ nói thế chớ không xin phép tắc gì cả, chứng tỏ ông cụ
xem thường hắn. Chừng như hắn cũng nễ ông cụ, không biết có phải do hắn “tán”
con gái ông cụ mà hắn nễ không?
Sau lời cám ơn rối rít, tôi chạy lại các bạn đang may mấy bao
chuối. Tôi với anh Nghĩa một khiêng. Anh Nghĩa nghiêm giọng:
“Ông cụ này có thiện cảm với anh em mình đó.”
“Đúng anh. Ông ta gọi chúng mình là “các ông” với ý kính trọng,
chớ không như cái đám phụ nữ với con nít trong ngày đầu tiên trên đất Bắc mà
mình gặp ở gần phà Ô Lâu. Tôi nghĩ là rồi đây người dân vùng này sẽ nhìn mình tốt
hơn, và cư xử với mình tốt hơn. Rõ ràng là mình có cơ hội tiếp xúc với người
dân, mình với họ sẽ hiểu nhau hơn. Nghĩ cho cùng, đây cũng là một hình thức chiến
tranh chính trị
mà.”
Mỗi hai người khiêng 50 kí lô. Dọc đường nghỉ ba lần. Sáu cây số
chớ gần gủi gì đâu! Lần nghỉ thứ nhì do chúng tôi cố tình đi không nỗi để được
dừng lại gần cổng Trại 1. Tiếp xúc chớp nhoáng ngang qua hàng rào, chúng tôi được
biết thêm là tất cả các anh từ cấp Trung Tá trở xuống, họ đưa ra Bắc bằng tàu
chở hàng cặp vào bến thành phố Vinh hoặc Hải Phòng, từ đó đưa lên vùng rừng núi
Yên Bái này bằng xe lửa. Nhưng không phải tù chính trị được ngồi trong các toa
hành khách đâu, mà là bị chúng nó nhốt trong các toa chờ hàng hóa súc vật kín
mít, chỉ có những lỗ nhỏ sát trên nóc toa có không khí vào thôi. Anh Trung Tá
Hùng, bộ tham mưu Tổng Cục Chính Trị bị suyển, lại trong tình trạng ngột ngạt
trong toa chở hàng nên đã chết vì nghẹt thở trước khi đến trại này!
Số chuối xanh mua về, họ bảo các anh nhà bếp xắc từng
khoanh rồi chẻ làm hai cho vào chảo, cho thêm muối và bột ngọt vào, quậy những
thứ ấy vào nhau, gọi là “món ăn mặn” nhiều ngày của chúng tôi.
Ngạc nhiên thứ tư.
Cuối tháng 8 năm 1976, bọn họ cho chúng tôi viết thư về gia
đình. Vẫn cái cách hướng dẫn viết thư y chang bài bản như lúc ở trại Long Giao
(Long Khánh) với Tam Hiệp (Biên Hòa). Vẫn có sức khỏe tốt, lao động tốt, học tập
tốt, gia đình an tâm và chấp hành tốt những lệnh địa phương. Họ cho biết là các
địa phương đã thông báo cho các gia đình được gởi quà cứ mỗi ba tháng một lần,
với trọng lượng tối đa là 5 kí lô. Hầu hết anh em chúng tôi khi nhận thư gia
đình đều có mẫu tin trên báo “Nhân Dân”, mới biết được trong vùng rừng núi
Hoàng Liên Sơn và Lai Châu có tất cả 82 trại, đánh số mà họ gọi là “hòm thư” từ
AH 1 đến AH 82, thuộc Đoàn 776 giam giữ mà họ gọi là “quản lý giáo dục”. Bây giờ
thì chúng tôi tin con số đó là thật.
Lần đi chợ thứ nhì cũng dùng đòn khiêng. Lần này sang chợ Yên
Bái bằng con đò nhỏ chớ không phải bằng phà. Anh Nghĩa, anh Phán, anh Hồ Văn
Thành (Đại Tá Quân Vận), anh Luân, anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Quân Tiếp Vụ), và
tôi. Yên Bái nhỏ lắm, nhà cửa lụp xụp, không thể gọi là phố xá được. Có một dãy
khoảng chục căn bằng gạch, còn lại là nhà tranh. Các cửa hàng rải rác nhưng tất
cả có ghi hàng chữ quốc doanh hẳn hòi. Tiệm may thì trên bảng ghi “Cửa hàng đo
may”. Bên cạnh có “Cửa hàng bách hóa”, nhưng ôi thôi bên trong chỉ có khoảng chục
cái kệ với lơ thơ vài chục mặt hàng, mà là hàng hóa thô kệch quá sức. Bên ngoài
nhà chợ có nhà máy đường với cơ sở rất ư là ọp ẹp. Tôi nói nhỏ với
anh Phán: “Phán ơi! Chợ gì mà giống trại lính quá.”
“Trông chẳng giống làng xã gì của mình cả.”
“Thị xã Yên Bái xã hội chủ nghĩa, chẳng khác buôn làng của đồng
bào Thượng vùng Pleiku Kontum trong những năm 1950!”
Chuẩn bị đi chợ lần thứ ba. Tên võ trang ra lệnh:
“Các anh đi lấy 2 xe cải tiến. Hôm nay mua cải bắp.”
Tôi nhìn qua nhìn lại có ý tìm xe cải tiến, hắn thấy tôi làm
thinh mà cứ nhìn qua nhìn lại, hắn quát:
“Không đi lấy xe mà nhìn gì thế kia?”
“Tôi không thấy xe ở đâu làm sao lấy.”
“Thế cái gì kia?” Vừa gắt gỏng hắn vừa chỉ chiếc xe cút-kít ở gần
chuồng heo bên kia dòng suối.
“Cái đó là xe cải tiến hả bộ đội?”
Hắn trừng mắt nhìn tôi:
“Anh đùa à. Xe để đấy mà còn hỏi”.
“Không. Tôi không biết đó là xe cải tiến mà cán bộ”.
“Cái anh này buồn cười chưa. Thế các anh gọi nó là cái gì?”
‘Trong Nam chúng tôi gọi nó là “xe cút kít”.
“Ra lấy đi, đừng có đứng đó mà lý sự”.
Chúng tôi qua chiếc cầu nhỏ, lôi hai chiếc cút-kít từ trong bờ
rào ra. Chưa biết phải làm gì tiếp, hắn lại quát:
“Vào kho mượn giây để kéo. Đứng đó làm gì?”
Hóa ra chuyện như thế này. “Xe cải tiến” là chiếc xe mà những
năm 50 người Sài Gòn gọi là xe “cút-kít”, loại xe của những toán sửa
đường dùng chở gạch đá lặt vặt. Xe cút-kít bằng kim loại, có một bánh xe ở giữa
phía trước, cái thùng xe bầu xuống, hai chân đứng phía sau với hai cái càng để
đẩy. Với dạng xe đó được xã hội chủ nghĩa “cải tiến” phía trước có hai bánh xe
(thay vì một), cái thùng xe hình chữ nhật (thay vì bầu), phía sau cũng có hai
chân đứng, và hai cái càng để đẩy. Vật liệu đều bằng cây với ván. Theo họ nói
thì trọng lượng xe khi chở đầy vào khoảng 150 kí lô. Chiếc xe cải tiến vận chuyển
được những gì trong cái thùng hình chữ nhật đó, là do 3 “nhân lực” (không phải
mã lực) kéo và đẩy. Hai sợi dây cột hai bên cái thùng phía trước cho hai người
kéo, một sợi dây khác cột ở hai cái càng sau và người cầm càng máng lên vai cho
hai cái chân xe cao khỏi mặt đất, và ra sức đẩy tới. “Xe cải tiến chuyển động bằng
ba nhân lực” là như vậy.
Đến đám bắp cải của hợp tác xã nào đó sát bờ nam Sông Hồng,
trông thấy một cô gái mặc quần tây áo sơ-mi, mang giày ống, cổ quấn khăn quàng ấm,
tóc uốn dợn phần đuôi. Nhìn chung, cô ta là cô gái sáng sủa so với hai cô gái
đang trong rẫy bắp cải. Cô ta giao việc cho hai cô kia đang quần quật chặt gốc
bắp cải và mang vào sân nhà lều. Tên võ trang bảo chúng tôi đứng chờ, hắn đến
nói chuyện với cô gái mang giày ống chắc là về chuyện mua bán. Hắn trở lại anh
em chúng tôi:
“Đấy là con gái của nữ đồng chí lãnh đạo Công An Huyện (Trấn
Yên). Người ta đưa bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, cho lên xe cột lại. Các anh cẩn
thận, không được nói linh tinh nghe chưa?”
Nói xong, hắn đi về phía ngôi nhà gần bờ sông. Chẳng hiểu hắn muốn
dọa chúng tôi hay ngăn cấm chúng tôi nói chuyện với con gái của Công An quận
này? Khi nghe hắn nói cô này là con bà Trưởng Công An cũng hơi ớn, chỉ nghe hai
chữ Công An đã cảm thấy lạnh lùng rồi, huống chi là con gái của Trưởng Công An,
mà lại là Công An quận nữa chớ.
Một cô lo cân. Cân xong, cô kia chất sang một bên, lúc ấy có tiếng
của cô mang giày ống:
“Yến. Em gở hết những lá xanh bên ngoài rồi cân lại cho mấy anh
đó.”
Thế là hai cô gái phụ việc làm lại từ đầu mà chẳng nghe càu nhàu
gì cả, trong khi cô gái mang giày ống gọi chúng tôi đến nhận bắp cải. Đang chất
bắp cải lên xe, cô ta đứng cạnh tôi:
“Anh biết dùng lá cải bắp làm dưa ăn không?”
Tôi dùng chữ bắp cải còn cô ta dùng chữ cải bắp. Thấy cô ta nói
chuyện có vẻ nhẹ nhàng và tự nhiên, tôi đáp:
“Có. Tôi biết cách làm và cũng biết ăn nữa cô.”
“Tôi cho các anh những lá này, đem về cắt ra phơi một nắng,nấu
nước muối đổ vào. Vài hôm là ăn được.”
“Không được đâu cô.”
“ Anh vừa nói anh ăn được mà?.”
“Cô phải nói với anh bộ đội võ trang mới được. Nếu cô không nói
thì anh bộ đội võ trang cho là tôi ăn cắp, tôi sẽ bị phạt giam khi về trại.”
“Được. Tôi sẽ nói cho anh.”
Trong khi chờ tên võ trang trở lại, cô ta hỏi:
“Quê anh ở đâu?”
“Tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà trong Nam chúng tôi thường
gọi là Miền Tây, nhưng tôi sống ở Sài Gòn lâu rồi cô.”
“Anh có thường được thư gia đình không?”
Tôi khựng lại, vì không hiểu cô ta hỏi thật hay dò xét. Con của
Trưởng Công An quận mà. Thấy tôi ngập ngừng, cô ta nói:
“Tôi hỏi thật, anh đừng sợ. Tôi có vào Nam rồi. Tôi thấy người
miền Nam thành thật mà dễ mến nữa. Tôi nói thật đấy.”
Tôi có phần vững dạ:
“Vâng. Thỉnh thoảng thôi, vì người ta ấn định thời gian chớ
không phải lúc nào cũng được gởi đâu cô.”
“Lần sau các anh có ra đây, mang theo thư đưa tôi gởi cho. Các
anh đừng sợ. Tôi hỏi thêm, các anh có bị người ta đánh không?”
Tôi nhìn thẳng cô ta và chậm rãi trả lời để dò xem cô ta hỏi thật
hay giăng bẫy:
“Cám ơn cô. Chúng tôi không mang thư theo được đâu vì bộ đội võ
trang xét kỹ lắm. Về đánh đập thì tôi và các bạn cùng Tổ với tôi chưa bị, những
chửi rủa nhục mạ thì thường lắm, thường đến mức mỗi khi người ta bắt đầu thì
chúng tôi thuộc luôn mấy câu sau rồi. Đối với chúng tôi, điều đó còn đau hơn
đánh đập vì trình độ của chúng tôi ít nhất cũng phải tốt nghiệp
trung học rồi cô.”
Cô ta đứng yên một lúc, chừng như có chút xúc động:
“Họ có cho các anh ăn no không?”
“Nếu tôi nói với cô là chốc nữa đây tôi sẽ ăn hai củ khoai mì mà
cô gọi là sắn, để chiều về tôi ăn một lúc hai phần, cô có tin tôi không? Hai phần
gộp lại là hai chén cơm độn bắp, đó là hạnh phúc của chúng tôi!”
Cô ta xoay mặt ra bờ sông. Yên lặng. Tôi tiếp:
“Cô hỏi tôi những câu ẩn chứa tình người làm tôi cảm thấy ngại
ngùng. Ngại ngùng vì vị trí giữa cô với anh em chúng tôi là một khoảng cách
chính trị, mà chúng tôi là những người bị tù đày sau khi chúng tôi thua trận!”
“Vào Nam, tôi mới hiểu người miền Nam các anh. Trong ấy có người
thân của gia đình tôi vào đó từ năm 1954, cũng ở trong quân đội như mấy anh.
Tôi muốn giúp các anh điều gì chớ không có ý dò xét các anh. Bây giờ tôi phải
lo công việc.”
Nói xong cô ta trở lại nhà lều ở đầu đám rẫy. Có lẽ cô ta thấy
tên võ trang đang đến nên cô ta không nói nữa thì phải?
“Cám ơn cô.”
Tên bộ đội võ trang đến bảo chúng tôi ăn trưa rồi chuẩn bị về trại.
Nói xong, hắn quay lại nhà lúc nảy. Sáu anh em chúng tôi đang ngồi ăn khoai mì,
cô gái mang giày ống đi ngang, đứng nhìn:
“Các anh ăn thế làm sao no?”
“Tôi nói với cô rồi. Chúng tôi đâu có cách nào khác. Hai củ
khoai này là phần ăn của mỗi anh em chúng tôi đây!”
“Các anh ráng giữ sức khỏe để về với gia đình. Chào các anh. Tôi
về ăn trưa.”
“Chào cô.”
Phải nói rằng, sau cái lần nghe ông cụ già rửa xe đạp vạch trần
sự tuyên truyền dối trá trên làn sóng phát thanh, đến tên quản giáo nói như
trách chúng tôi có thiên đường mà không biết giữ,rồi đến lần mua chuối
xanh nhìn thấy thái độ của ông cụ đối xử với chúng tôi rất tình người, hôm nay
đến cô gái con bà Trưởng Công An quận mà họ gọi là huyện Trấn Yên này nói chuyện
với chúng tôi ẩn chứa sự thông cảm với chúng tôi, cho phép tôi nhận ra rằng:
“Không phải mọi người dân 20 năm xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc đều là cộng sản
dù họ sinh ra và lớn lên trong chính sách giáo dục của cộng sản, ngay cả cô con
gái của Trưởng Công An quận Trấn Yên này cũng vậy. Tôi nghĩ, chúng ta thua trận
gần hai năm rồi, nhưng có vẻ như chúng ta thắng cộng sản về chính nghĩa thì phải.
Bởi vì qua nét nhìn, người dân xã hội chủ nghĩa vùng rừng núi nơi đây dù chưa
thể xem là tiêu biểu cho cả miền Bắc, nhưng rõ ràng họ cư xử với chúng tôi có đạo
nghĩa. Tôi nghĩ, điều đó không mang ý nghĩa của lòng thương hại, mà là ý nghĩa
của sự đồng cảm ý thức chính trị. Phải chăng, sự thua trận của chúng ta lại
giúp cho người dân có cơ hội cũng như hoàn cảnh nhận định được chế độ nào là
chính nghĩa? Trong cái rủi (ro) có cái may (mắn), trong cái nguy (hiểm)
có cái cơ (hội) là thế. Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát để có được nhận định vững
vàng hơn”.
Tổ nấu bếp ở trại này là chuyên nghiệp, nghĩa là không luân
phiên như ở trại Long Giao hay Tam Hiệp trong Nam. Anh Nguyễn Kỳ Nguyện (Đại
Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) nấu nước, anh Cao Văn Phước (Đại Tá Quân Vận) với anh Lê
Ngọc Ẩn (Đại Tá Quân Cụ) nấu thức ăn, anh Nguyễn Hữu Phước (Đại Tá Quân Cảnh) nấu
cơm.
Cung cấp củi cho nhà bếp là Tổ của anh Tạ Đình Siêu (Đại
Tá Thiết Giáp). Họ ấn định “chỉ tiêu” mỗi người/một ngày một bó từ 25 đến 30 kí
lô. Ai lấy đủ thì nghỉ, bằng không thì chiều đi tiếp. Củi là chặt cây rừng trên
các đỉnh núi, cột lại từng bó. Xuống chân núi, phải qua sự kiểm soát của tên võ
trang. Hắn ngắm nghía xem chừng đủ chỉ tiêu thì hắn dắt về, giao cho nhà bếp.
Các bạn trong nhà bếp, cứ đẩy nguyên bó cây xanh tươi đó vào lò, một lúc thì
cháy thôi.
Tổ chúng tôi là Tổ cơ động, nên hết việc này họ bảo làm việc kia
mà hầu hết là leo núi đốn cây. Đầu tiên là đốn cây cung cấp cho mấy Tổ kia cất
thêm căn trại. Cứ sáng sớm, mỗi người lãnh vài củ khoai mì cho vào túi áo
treillis, lon guigoze nước chín xách tay, đến nhà kho gặp anh Tạ Văn Kiệt (năm
1955 là Quận Trưởng Quận Trà Ôn, Vĩnh Long) mượn dao. Tên võ trang dắt đến chân
núi, hắn chờ ở đó và chúng tôi cùng leo núi. Tổ chúng tôi 20 người, khi lao động
phải từ 17 người trở lên, nếu dưới con số đó thì tên quản giáo là Trung Úy Bật
hạch hỏi đủ điều. Nhức đầu lắm! Vì những cây dùng làm cột nhà có đường
kính từ 20 phân tây trở lên nên nặng lắm. Đến những cây dùng làm kèo làm đòn
tay cũng không phải là nhẹ. Anh em chúng tôi kết lại thành từng nhóm để giúp đỡ
lẫn nhau. Tôi, anh Hồ Văn Thành, anh Nguyễn Văn Sang (Đại Tá Tiếp Vận), anh Trần
Văn Lễ (Đại Tá Tiếp Vận) một nhóm. Anh Sang với anh Lễ kém sức khỏe, khi lên
núi xuống núi, hai anh bò nhiều hơn là đi, do vậy mà tôi với anh Thành trợ
giúp. Lên đỉnh núi, thường khi phải theo đường đỉnh đi từ núi này sang núi kia,
đôi khi phải xuống thung lũng tìm cây đúng với nhu cầu của Tổ cất nhà. Tôi với
anh Thành đốn cây, anh Sang với anh Lễ tìm chặt dây cột lại thành bó
để khi lăn xuống núi không bị văng tứ tung. Vác đến triền núi, hai người nắm chặt
hai đầu bó cây, tôi chụm hai tay lại rồi nói thật to cho âm thanh phóng đi xa để
báo động người bên dưới tránh xa dù có thấy hay không thấy người nào:
“Chú ý. Chú ý. Chúng tôi phóng cây xuống.”
Báo động xong, tôi đếm đếm một, hai, ba, hai bạn cùng buông tay
cho bó cây lăn xuống chân núi. Trông cái cảnh ấy gợi cho anh Lễ nhớ lại truyện
Trung Hoa ngày xưa. Anh vắn tắt cho bớt nỗi nhọc nhằn:
“Tôi nhớ cái trận đánh mà ông Tiết Nhơn Quý chinh đông chinh tây
gì đó, khi địch quân bao vây từ chân núi tiến lên, ông ta áp dụng chiến thuật
“dứt dây lăn gỗ” giống như chúng mình vừa rồi đẩy bó cây xuống núi. Vậy mà ổng
gây thiệt hại nặng nề cho quân địch vì không tránh vào đâu được.”
Anh em cười xòa, cùng nhau xuống núi.
Cũng cái hôm ấy, khi vác cây trên đường đỉnh để xuống núi, trông
thấy một ông có lẽ cũng khoảng 50-60 gì đó đang ngồi ôm đứa con trai trong
lòng, chúng tôi dừng lại nhưng cũng ngài ngại vì không biết thái độ ông ta đối
với chúng tôi ra sao. Thấy ông không có vẻ gì phản đối, tôi hỏi:
“Cháu làm sao mà ông ôm cháu vậy?”
Nhìn chúng tôi một lúc, ông đáp:
“Cháu nhà tôi bị sốt rét ông à! Ở đây người ta chỉ phát cho mỗi
thứ thuốc xuyên tâm liên không trị được gì hết.”
“Nếu ngày mai ông với cháu có đến đây, tôi sẽ tặng cháu vài viên
thuốc uống chống sốt rét. Ông cho cháu uống thử xem sao”.
“Cám ơn ông. Mai tôi chờ ở đây. Ông coi chừng mấy đứa bộ đội bắt
gặp là nó phạt ông đó.”
Ngày hôm sau là ngày chót của Tổ chúng tôi đốn cây trên núi này.
Tôi gặp ông già và đứa bé áng chừng 10 tuổi, nhưng thật sự thì cháu 16 tuổi.
Thiếu dinh dưỡng mà! Tôi đưa ông già 10 viên Chloroquine và dặn mỗi ngày uống một
viên. Tôi quá đổi ngạc nhiên về sự vui mừng của ông già:
“Ông cho cháu uống thử chớ tôi không dám chắc là cháu hết bệnh
ngay đâu, vì tôi không phải là thầy thuốc.”
“Tôi mừng vì ở miền Bắc này có bao giờ tôi trông thấy thuốc ngoại
đâu, tôi tin là cháu sẽ hết bệnh.”
Từ hôm sau tôi không có dịp gặp ông cho đến một hôm. Hôm ấy
chúng tôi sang dãy núi khác để đốn cây chổm lợp nhà, làm vách nhà, và làm vạt
giường nằm, xa hơn khu vực đốn cây làm cột nhà. Khi vừa lên đến đỉnh núi, tôi
trông thấy ông với đứa bé mạnh khỏe. Ông nhìn qua nhìn lại, tôi đoán là ông sợ
có thằng võ trang đi theo, tôi nói ngay:
“Bộ đội võ trang ở dưới đường chớ không theo chúng tôi. Ông sợ
anh ta trông thấy phải không?”
Hai bàn tay ông già nắm lấy tay tôi thật chặt, miệng ríu rít:
“Cả gia đình tôi cám ơn ông. Cháu chỉ uống viên đầu tiên là hết
sốt rét, tôi cho cháu uống thêm 2 viên nữa, mấy viên còn lại gia đình tôi chia
cho hai đứa cháu cũng bị sốt rét. Tất cả chúng nó khỏe hết rồi. Thuốc ngoại hay
lắm ông ơi!”
“Sao ông biết chúng tôi đốn cây ở đây mà chờ?”
“Mấy hôm tôi đến chỗ cũ không gặp ông, tôi phải tìm hỏi mãi mới
biết là Tổ đốn cây của ông đã chuyển sang đốn chổm. Tôi đoán mấy ông đốn ở núi
này nên tôi chờ. May quá, được gặp ông.”
Rồi ông xuống giọng như tâm tình:
“Gia đình tôi nghèo lắm, có cơm độn ngày hai bữa là khá rồi. Tôi
có mang biếu ông hai củ lang (khoai lang) ông nhận giùm tôi. Ơn của ông to lắm.”
Vừa nói ông vừa bước đến gốc cây, dùng tay bươi đám lá khô lôi
ra cái gói lá chuối, sau khi thổi bụi trên củ khoai, ông cầm hai tay run run đưa
tôi làm tôi xúc động thật sự. Sự xúc động của tôi một phần vì hai củ khoai mà
tôi nghĩ có thể ông trích trong phần ăn của gia đình ông, phần khác là thái độ
cùng cách xử sự của ông đối với anh em chúng tôi nói chung và với tôi nói
riêng. Ông đã lặn lội tìm cách gặp tôi để đền ơn mà không ngại núi rừng, cũng
không sợ bị tên quản giáo hay võ trang bắt gặp, nếu không phải là tấm lòng thì
ông đâu cần phải hành động như vậy. Nhưng ở đây tôi còn nhìn sang hai góc độ nữa:
Một là góc độ chính trị. Rõ ràng là người dân xã hội chủ nghĩa
nơi đây không phải ai cũng ủng hộ chế độ cộng sản. Sống trong lòng
chế độ nhưng sự phản kháng vẫn tiềm ẩn trong lòng họ, có cơ hội thích hợp là họ
bộc lộ như trường hợp ông già nêu trên.
Và hai là góc độ kinh tế. Cả một quốc gia chỉ uống toàn thuốc
“xuyên tâm liên” thì một dân tộc bệnh hoạn yếu đuối là đúng thôi! Tuy ông chưa
biết công hiệu của viên thuốc ra sao, chỉ cầm trong tay viên thuốc ngoại quốc
đã đủ làm cho ông tin tưởng con của ông hết bệnh rồi. Tội nghiệp cho người dân
20 năm xã hội chủ nghĩa này biết bao!
Anh Nguyễn Phán đi lạc.
Mời quí vị quí bạn thử theo chúng tôi lên núi đốn cây chổm một lần
nhé!
Đường dẫn đến vùng núi có nhiều cây chổm có dòng suối mà chúng
tôi phải lội qua. Lúc không mưa thì mực nước ngang lưng quần, khi mưa lớn hoặc
mưa nhỏ mà liên tiếp vài ngày, mực nước có thể cao đến tận cổ. Những lúc như vậy,
mọi người muốn mặc áo quần ướt hay khô là tùy. Muốn khô phải cởi trần trụi ra lội
sang bên kia bờ mặc lại, nếu muốn ướt cứ để nguyên qua suối. Rồi bắt đầu leo
núi. Độ dốc của núi này khá cao, có lúc chân bước lên là đầu gối chạm vào triền
núi. Anh nào lên đến đỉnh trước thì ngồi chờ, đủ mới đi. Phải theo đường đỉnh
qua ba ngọn núi, rồi tuột xuống lưng chừng thung lũng sâu mới tìm thấy rừng chổm.
Thung lũng này dốc cao lắm, không thể bước được mà là tuột dốc từ từ. Đốn được
một cây chổm đã khó vì nó chen chúc nhau rất dầy nên đưa được cây dao vào vị thế
để chặt không phải dễ. Chặt xong phải giữ nó lại, nếu không thì nó tuột luôn xuống
tận đáy thung lũng, vừa phí sức vừa không đủ số lượng mà tên quản giáo ấn
định!
Chưa hết, tôi phải chuyển ngược từng cây lên hướng đỉnh cho anh
Thành. Hành động này rất nguy hiểm! Nếu chẳng may anh Thành ở trên nắm không chắc,
cây chổm lao xuống sườn núi rất có thể nó đâm thẳng vào tôi một cách ngọt xớt
vì cho dẫu trông thấy nó lao xuống cũng không dễ gì tránh được vì chỗ đứng rất
khó xoay trở!
Anh Thành có sức khỏe, rất tốt với bạn nhưng thị lực rất kém,
suýt nữa anh bị cây chổm xé mặt khi luân phiên tôi đứng trên, anh đứng dưới đốn
chổm chuyền lên tôi. Anh chặt nhát dao thật mạnh, cây chổm ngã dần xuống hướng
triền núi, bất ngờ phần còn lại của gốc chổm tét làm hai và bật mạnh lên. Rất
may, trước khi xuống nhát dao anh đứng xéo qua một bên để giữ thế, nếu không thì
phần tét ra của cây chổm chém nát mặt anh chớ không vừa. Khi cây chổm bị tét ra
nó nhọn và rất bén, nó mà đâm vào da thịt con người thì khiếp lắm quí vị quí bạn
à!
Nhiều lần chúng tôi trông thấy bọn quản giáo với võ trang làm
heo, họ dùng ngọn cây chổm vạt nhọn, thọc vào cổ con heo. Cả cơ thể con heo oằn
oại miệng la eng éc. Con heo càng la, họ càng ấn sâu khúc chổm vào, rồi kéo ra
đẩy vào cho máu theo khúc chổm chảy vào cái thau phía dưới. Trông cách thọc huyết
heo của họ dã man quá! Vậy mà họ cười một cách thích thú, cứ như họ vừa lập được
thành tích vậy. Thật không thể tưởng tượng tính dã man của cái đám cháu của ông
Hồ!
Có một anh Thiếu Úy bị bắt khi Ban Mê Thuột bị tấn công chiếm
đóng hồi tháng 3 năm 1975, chúng nó đưa anh ấy ra Bắc trước, và năm 1976 nhập
vào chúng tôi trong Nam ra nhưng khác trại. Khi chặt chổm, chân trái của anh
sát cây chổm mà cây dao của anh rất bén, anh lại còn trẻ nên khỏe so với chúng
tôi. Chỉ một nhát dao cây chổm đứt lìa, nhưng bắp đùi của anh cũng bị chiều dài
lưỡi dao phập vào khá sâu. Về sau chúng tôi không rõ cái chân của anh như thế
nào nữa!
Họ ấn định chúng tôi mỗi người 10 cây, dài ít nhất là 5 thước.
Tuy “thịt cây chổm” không dầy bằng “thịt cây tre” nhưng 10 cây tươi cũng nặng lắm.
Khi tuột xuống triền chỉ có con dao trên tay đã thấy khó khăn, khi chuyển được
cây chổm trở lên càng khó khăn hơn nữa! Nhưng vẫn phải làm bằng tất cả sức lực
cộng với mức độ nguy hiểm không phải là thấp! Trở về đến đỉnh cuối cùng, chúng
tôi cùng nhau ngồi lại nghỉ chân trước khi xuống dòng suối, mạnh ai người ấy
moi hai củ khoai mì trong túi ra ăn. Ăn khoai mì, ăn cả mùi mồ hôi chen lẫn
trong mùi quần dơ với nước suối đục ngầu trong đó! Nhìn mặt trời ngã về tây khá
lâu, chúng tôi đồng ý với nhau là xuống núi, đưa những bó chổm qua bên kia dòng
suối. Chúng tôi tự quyết định với nhau, vì tên quản giáo với tên võ trang chờ
bên kia suối.
Tên võ trang đi tới đi lui nhìn mấy bó chổm. Xem chừng đủ số lượng
ấn định nên hắn làm thinh. Xong hắn đếm từng người, hắn hỏi vội:
“Anh Hoa. Còn một anh nữa đâu?”
“Tôi làm sao biết bộ đội.”
“Anh khẩn trương xem lại mất anh nào?”
Tên này thường dùng chữ “khẩn trương” khi thúc hối chúng tôi
nhanh lên, cho nên chúng tôi khi nói với nhau về hắn, không cần nói tên mà chỉ
dùng chữ “khẩn trương” là hiểu.
Tôi kiểm lại, mãi một lúc mới nhận ra:
“Báo cáo bộ đội, còn thiếu anh Phán. Anh ấy yếu lắm, có thể vì vậy
mà ảnh về chậm.”
Hắn quát ngay: “Các anh phải lên núi tìm. Khẩn trương lên.”
Trời đất ơi! Giờ này nghe nói đến lên núi, cơ thể như rã rời làm
sao mà đi nỗi. Anh em chúng tôi nhìn nhau như muốn nói với nhau rằng: “Tôi đuối
rồi”. Không ai nói năng gì cả. Hắn quát lớn hơn:
“Khẩn trương lên. Tại sao các anh ngồi yên đó?”
Không nhìn nhau nữa mà mỗi người nhìn thẳng về phía trước, chừng
như vừa lo cho bạn, vừa lo cho mình. Chẳng đặng đừng, tôi đứng dậy:
“Báo cáo bộ đội. Tôi đi.”
“Hai anh nữa đi với anh Hoa. Đề phòng nguy hiểm.”
Không hiểu chữ nguy hiểm mà hắn dùng, là hắn sợ thú rừng giùm
tôi hay sợ tôi nhân cơ hội này trốn trại?
“Không được đâu bộ đội. Các bạn tôi mệt lắm rồi, cần phải lấy sức
vác chổm về nữa. Một mình tôi đủ rồi.”
Nói xong là tôi đi luôn. Anh Hồ Văn Thành chạy theo. Tôi nói gì
anh ấy cứ một mực cùng đi với tôi. Thế là hai chúng tôi cởi áo quần lội qua suối.
Lên đến đỉnh núi đầu tiên là tôi với anh Thành luân phiên, dùng hai tay chụm lại
đưa lên miệng làm ống loa: “Anh Phán ơi! Anh Phán!”
Tôi gọi không to lắm nhưng giữ hơi ngân dài để âm thanh đi được xa. Từ trên cao
gọi xuống thung lũng âm thanh đi xa lắm. Cứ mỗi tiếng gọi, âm thanh từ các triền
núi chung quanh dội lại rất rõ. Hết đỉnh núi này sang đỉnh núi kia, tôi với anh
Thành đều cất tiếng gọi như vậy. Đến thung lũng thứ ba bên trái thung lũng cây
chổm, sau “tiếng loa” của anh Thành, tôi nghe tiếng anh Phán như xa lắm:
“Tôi .. đây .. nè!”
“Anh nghe tiếng chúng tôi rồi, anh hãy đi về hướng chúng tôi
đi.”
“Không .. được. Tôi .. không .. dám .. đi .. nữa. Tôi .. sợ .. lắm.”
“Anh ngồi yên đó. Khi tôi gọi thì anh lên tiếng để chúng tôi tìm
đến anh.”
Chúng tôi theo đường mòn quanh co xuống thung lũng theo hướng có
tiếng nói của anh ấy:
“Anh Phán ơi! Hãy lên tiếng giùm coi, chúng tôi xuống
đến thung lũng rồi.”
“Tôi . đây . nè. Tôi . đây . nè.”
“Tôi nhận ra hướng của anh rồi. Anh đứng dậy và nắm cái cọng gì
đó quơ qua quơ lại cho chúng tối thấy đi.”
Và rồi chúng tôi đến nơi. Hóa ra khi anh vác bó chổm lên đường đỉnh,
lại không để ý đến ngã ba nhỏ xíu để quẹo trái theo đường đỉnh mà ra điểm tập
trung, lại đi thẳng theo đường mòn xuống thung lũng bên
này.
“Tôi sợ quá hai anh ơi! Tôi nghĩ là chết ở đây chớ không thể nào
về được. Nghe tiếng hai anh tôi mừng quá, nhưng không đủ can đảm đứng dậy đi về
hướng mấy anh, sợ đi lạc xa nữa.”
“Bó chổm anh đâu?”
“Đằng kia kìa. Tôi không vác nỗi đâu. Về trại nó làm gì tôi thì
làm.”
“Tụi mình lớn tuổi rồi, không nên để thằng nhóc đó nó mắng. Bây
giờ tôi với anh Thành vác cho anh, nhưng từ chỗ tập trung về trại, anh cố gắng
nghe.”
Chúng tôi về đến điểm tập trung, tôi thuật lại sự kiện anh Phán
đi lạc, vậy mà hắn vẫn hạch hỏi:
“Tại sao anh đi lạc?”
Tôi đỡ lời vì anh Phán đâu đã hoàn hồn:
“Bộ đội thông cảm, anh Phán còn run sợ lắm, chưa đủ bình tỉnh để
trả lời bộ đội đâu. Nếu nhớ đường về thì đâu có ai đi lạc bao giờ.”
“Tất cả đi về.” Hắn quát nhưng nhẹ thôi.
Thừa lúc hắn đến phía trước kiểm lại từng người, tôi rút một cây
anh Thành rút một cây cho vào bó của chúng tôi, giúp anh Phán đỡ nặng. Chúng
tôi khệnh khạng rồi cũng về đến trại. Lội suối tắm xong, chờ lãnh phần ăn trưa
lẫn phần ăn chiều gộp lại ăn một lần cho no. Anh em khỏe muốn được đi lao động
“thông tầm” tức là đi từ sáng đến chiều, nhịn đói một chút để buổi chiều có được
hai phần ăn, tức hai cái bánh bột mì luộc. Gần đây chúng nó cho chúng tôi ăn
bánh bột mì luộc, trông như cái bánh bao nhưng hoàn toàn chỉ có bột mà thôi. Số
bột mì này do một quốc gia nào đó ở Châu Âu (dường như là Thụy Điển) viện trợ,
họ bán cho dân thay khẩu phần gạo + bắp, nhưng người dân không quen ăn nên đưa
vào trại tù chính trị chúng tôi. Bánh bao bột mì luộc bằng cái chén nhỏ, chấm với
muỗng nước muối và mấy cọng rau muống gọi là canh. Ở đây họ không cho ăn muối hột
vì họ sợ chúng tôi trữ lại để trốn trại, nên họ buộc nhà bếp bỏ muối vào nồi đổ
nước vô hòa tan, một muỗng nước muối là phần ăn mặn của mỗi tù chính trị chúng
tôi.
Ăn cắp thức ăn của trại.
Thường ngày trong mỗi bữa ăn, anh Nghĩa chuẩn bị một rổ rau má.
Rau má ở khu rừng này “mập” lắm, cọng lớn lá to. Anh Nghĩa rửa thuốc tím hẳn
hòi. Cứ mỗi miếng ăn kèm theo một cuộn rau má chấm mắm tôm. Buổi chiều ba anh
em chúng tôi -Anh Nghĩa, anh Điệp, và tôi- ăn no là nhờ độn rau má. Những hôm
tôi đi thông tầm có hai phần ăn trong bữa ăn chiều, tôi chia làm ba
phần nhưng anh Nghĩa với anh Điệp không nhận. Hai anh cho rằng tôi lên núi vất
vả, cần giữ sức khỏe hơn. Một hôm anh Nghĩa lần mò sang bên kia triền núi, nơi
có rẫy khoai lang họ đã đào lấy củ rồi, nhưng anh cũng mót được khoảng 20 củ chỉ
bằng ngón tay út. Anh lại mang cái gà-mèn xuống tận thung lũng nấu được lon
guigoze chè. Nuốt vào đến đâu nghe ngọt lịm đến đó. Thật lòng mà nói, không phải
chúng tôi ăn, mà là chúng tôi thưởng thức đến tận cùng cái chất bột của khoai
ngấm trong đường, cái chất ngọt của đường hòa trong chất the the của lá gừng ăn
cắp. Cho nên chỉ ăn có chén chè nhỏ xíu mà thời gian bằng cả bữa ăn. Ngon lắm
quí vị quí bạn à!
Do được ăn khoai lang, tôi nghĩ đến cách ăn cắp khoai mì mà người
miền Bắc gọi là sắn. Cứ sau Tết Nguyên Đán, chúng nó bắt tù chính trị chúng tôi
trồng khoai mì trên hằng chục ngọn đồi quanh trại giam, thế nhưng tên võ trang
ngồi trên chòi cao dễ bắt gặp lắm, vì khi mình nắm cây khoai mì kéo lên thì ngọn
cây lắc lư là nó báo động đến bắt ngay. Tôi nghĩ cách, và thực hành luôn. Tôi
may cái túi nhỏ, dùng cây kim tây ghim vào bên trong nách áo. Miếng kim khí mài
sẳn thay con dao đem ra ngoài trại giấu trước. Những khi lao động gần các ngọn
đồi khoai mì, giờ trưa chui vào khoảng giữa, dùng miếng kim khí như lưỡi dao
moi từ từ tránh đụng vào thân cây khoai mì, mỗi cây chỉ khứa lấy một củ thôi,
vì lấy hai củ cây sẽ ngã khi có gió. Chỉ cần 2 hoặc 4 củ tùy lớn nhỏ là đủ cho
một lần ăn. Lột võ chôn xuống đất ngay gọi là phi tang dấu tích. Xuống suối rửa,
khứa nhỏ, cho vào cái túi gài trong nách áo.
Đến giờ về, cứ thản nhiên vào cửa vì trên tay không mang theo gì
hết nên không bị xét. Chưa xong đâu. Khi về trại, nhét vào lon guigoze, cho vào
miếng đường tán, cho nước vào, đậy nắp lại, xách tòn teng đi xuống xuối như đi
lấy nước vậy. Nhà bếp sát lối đi xuống suối. Vì họ cấm nấu, nên khi ngang nhà bếp
phải nhìn trước ngó sau, lượm thanh cây nhỏ xỏ vào cái quai đẩy lon guigoze vào
sát một bên lò đang nấu. Bước ra tức thì và xuống suối làm bộ rửa
tay, rồi lên trại. Chừng một tiếng đồng hồ sau lại lảng vảng nhà bếp, thuận tiện
là kéo lon guigoze ra, xách về. Đến khi tiếng kẻng ngủ, tôi với anh Nghĩa mới
đem ra ăn. Ăn sớm sợ các anh khác thấy rồi nói tới nói lui đến tai tụi quản
giáo hay võ trang biết được là nguy lắm. Nếu còn đường thì ăn chè, hết đường
thì ăn khoai luộc, miễn no là được rồi.
Cũng vì ăn cắp mà tôi đã một lần bị hạch hỏi, nhưng từ đầu đến
cuối đều chối nên không bị phạt biệt giam. “Biệt giam” là nhốt vào một chỗ chật
hẹp, tay chân bị còng lại, khẩu phần ăn chỉ bằng một nửa. Mấy ngày họ mới cho
ra ngoài tắm một lần. Nhưng không phải tôi ăn cắp khoai mì mà là ăn cắp trứng
gà. Thật ra nói tôi ăn cắp cũng không hoàn toàn đúng, vì không phải tôi sang
chuồng gà ăn cắp. Chẳng là một hôm khi giao củi cho nhà bếp xong, tôi về chỗ nằm
thò tay lên cái kệ bằng cây chổm trên mái nhà để lấy quần áo xuống suối tắm. Dọc
theo vạc giường cây chổm làm chỗ ngủ của chúng tôi, nếu nằm ngửa
nhìn lên trần nhà thì trên đó có cái kệ để đồ dùng. Tôi đụng vật lạ trên đó như
là cái trứng, cầm xuống hóa ra là cái trứng gà. Tôi chưa biết phải làm sao, lúc
ấy các bạn Tổ bên kia tắm xong đang vào nhà, tôi vội bóp bể võ và cho cái trứng
tuột vào miệng ngay. Quí vị quí bạn ơi, tôi ăn sống cái trứng gà đó. Và ngày
nào tôi cũng “ăn cắp” một cái trứng gà và ăn như vậy. Thật tình tôi không biết
là con gà mái leo lên đó đẻ lúc nào, cứ có cái trứng là ăn mà chẳng cần biết gì
thêm. Một hôm khi vào nhà thì con gà kêu oác oác rồi cục tác cục tác. Hóa ra chị
gà ta hôm ấy đẻ “trễ giờ”, thay vì đẻ lúc sáng hay trưa gì đó, hôm nay đến chiều
mới đẻ nên tôi mới có dịp trông thấy. Thế nhưng thời gian tôi được ăn cái trứng
gà kéo dài chỉ được gần hai tuần thì tên quản giáo gọi tôi sang văn phòng trại: “Anh
ăn cắp trứng bao lâu rồi?”
“Tôi đâu có ăn cắp trứng cán bộ.”
Tôi có ý xỏ hắn khi tôi nhấn mạnh âm thanh trứng cán bộ!
“Con gà đẻ ở chỗ nằm của anh mà anh còn nói không có.”
“Không. Tôi không hề thấy con gà nào đến chỗ tôi cả. Nhưng mà gà
đẻ ở chuồng chớ sao đẻ ở chỗ tôi nằm”
Im lặng một lúc, hắn quát: “Tôi bắt gặp là anh biết tay
tôi.”
Thế là con gà mái bị nhốt vô chuồng nên không sang đẻ ở chỗ nằm
của tôi nữa. Cũng may, nếu nó không bị nhốt mà nó tiếp tục sang chỗ tôi để đẻ
thì nguy. Tôi biết anh bạn đã “báo cáo” sự việc đó, nhưng tôi thấy không nên viết
lại làm chi. Chuyện nhỏ mà.
Đốn cây.
Đốn cây rừng với cây chổm làm nhà, nhưng không có dây thì làm gì
cột với kèo và đòn tay dính vào nhau. “Cây dang” (có thể tôi viết không đúng chữ)
cũng là dòng họ của tre, trúc, chổm, dùng làm dây cột rất chắc. Nhưng loại này
mọc ở những chỗ nguy hiểm lắm, đốn dang khốn khổ hơn đốn chổm nhiều. Dang chẻ
được nhiều dây, rất dai.
Đây là đoạn đường chúng tôi lần mò từng bước đến rừng dang. Thời
tiết vào đông, vùng núi rừng Tây Bắc này nhiệt độ khá thấp so với đồng bằng
Sông Hồng. Nhóm chúng tôi đi đốn dang gồm năm người: Anh Huỳnh Thanh Sơn, anh Hồ
Văn Thành, tôi, và hai anh nữa mà tôi không nhớ. Tên võ trang dắt đi khoảng 3
cây số trên đường liên tỉnh Hoàng Liên Sơn - Lai Châu, đến ngã ba có cái lò gạch
bên đường là quẹo xuống suối với mực nước lưng chừng đầu gối. Lòng suối nhiều
đá lởm chởm. Chúng tôi phải bì bỏm ngược dòng suối dưới những tàng cây phủ xuống
đến mặt nước, có lúc phải dùng tay đẩy những cành lá sang một bên để có lối đi.
Trên thí ánh mặt trời không soi sáng được bao nhiêu, dưới thì nước mùa Đông quá
lạnh. Tấm vải nhựa dùng làm áo mưa phủ từ bờ vai xuống đến lưng quần, chống đỡ
phần nào cơn mưa phùn lất phất từ lúc ra khỏi trại.
Chúng tôi đi như vậy với khoảng cách tương đương đi trên đường,
mới đến khu rừng cây dang. Thân cây dang lớn hơn cây chổm nhưng ngắn. “Thịt cây
dang” rất dầy. Lóng cây dang ngắn so với lóng cây chổm hoặc cây nứa trong Nam.
Độ rỗng ruột như cây tầm vông trong Nam. Võ có những đốm mốc chớ không trơn
láng như cây chổm hay cây nứa. Cây dang không lên thẳng đứng mà lại oằn thấp gần
như song song với mặt đất. Chui vào chặt được nó rất khó, kéo được
nó ra khỏi “bà con dòng họ nó” càng khó hơn. Cuối cùng, mỗi người chúng tôi
cũng có được một bó 6 cây nhưng gian nan hơn 10 cây chổm rất nhiều. Dưới cơn
mưa nhẹ giữa đám rừng dang âm u với tiếng muỗi vo ve không ngưng nghỉ, chúng
tôi lôi trong túi ra mấy củ khoai mì pha trộn nhiều thứ mùi bên trong với những
vệt đen đúa bên ngoài. Sau khi gọi là ăn xong, vác bó dang lên vai bắt đầu bì bỏm
xuôi dòng suối cạn lởm chởm đá. Đến ngã ba có lò gạch là hết đoạn đường suối,
leo lên đường liên tỉnh, về trại.
Với những cây rừng, cây chổm, cây dang, hơn 300 tù chính trị cấp
Đại Tá chúng tôi đã nới nhà bếp vừa rộng vừa thoáng, gian trạm xá
trông cũng khang trang. Tổ chúng tôi lại đi đốn cây chổm làm hàng rào vòng
quanh trại để tự rào mình rào bạn! Lần này là loại chổm nhỏ bằng ngón chân cái
hoặc lớn hơn chút ít. Họ ấn định mỗi người 60 cây. Loại chổm nhỏ này trên các đỉnh
núi gần hơn loại chổm lớn, với lại 60 cây này chắc là nhẹ hơn 10 cây chổm lớn
vì vừa nhỏ vừa ngắn. Nhóm chúng tôi gọi là trợ giúp nhau, vẫn là anh Sang, anh
Lễ, anh Thành, và tôi. Lên đến đường đỉnh, tôi với anh Thành cứ đi trước chỉ cần
bẻ nhánh cây dọc đường làm dấu cho anh Sang với anh Lễ từ từ đến sau. Đốn đủ
cho 4 bó, cũng là lúc anh Sang với anh Lễ chặt dây xong. Cột lại chặt chẽ,
chúng tôi vác trở lại triền núi để thả xuống như ông Tiết Nhơn Quí trong truyện
dã sử Trung Hoa với chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” vậy. Bốn bó xuống núi xong,
tôi với anh Thành xuống trước, anh Sang với anh Lễ tuột xuống sau.
Kiểm điểm đủ người, tên võ trang bắt cả Tổ xếp hàng đôi để hắn
kiểm soát số lượng. Nó đếm từng bó, bó nào thiếu nó đẩy mạnh qua một bên. Cuối
cùng là nó mắng:
“Các anh là những người phản quốc, các anh đã bóc lột nhân dân,
bây giờ các anh còn qua mặt chúng tôi? Những bó tôi đẩy qua một bên, chỉ có hơn
50 cây thôi. Các anh bỏ cái tính gian dối đó đi, tập sống lương thiện để còn
nuôi vợ nuôi con. Lần này tôi tha, lần sau các anh biết tay tôi.”
Tất cả chúng tôi, mặt người nào người nấy dài xuống một cách thảm
hại, vì cái thằng nhóc con nó chửi như tát nước do thiếu vài cây chổm.
Hắn nói như quát một cách khô khan: “Về trại”.
Bó chổm lúc nảy không nặng bao nhiêu, nhưng bây giờ thì quá nặng!
Anh Lễ ra dấu bảo tôi chờ. Tôi chầm chậm đến khi anh lên ngang tôi. Anh nói:
“Theo anh, thằng chó đẻ này chửi tụi mình là do cá nhân nó hay
là do chính sách của tụi nó?”
“Thằng Bật quản giáo đứng im khi thằng võ trang chửi mình, tôi
không cho là vấn đề cá nhân, mà là chính sách của tụi nó sỉ nhục mình, hay ít
ra cũng là một loại chính sách không thành văn.”
Lại bệnh tưởng chết.
Hôm sau tôi vờ bệnh xuống trạm xá lấy thuốc uống. Khi đến Trại Cốc
này, chúng nó bắt buộc chúng tôi phải gói tất cả các loại thuốc lại và đem gởi ở
trạm xá, khi có bệnh thì đến xin nhận lại và uống tại chỗ. Anh Huỳnh Ngọc Lang
(Đại Tá An Ninh Quân Đội) là người giữ thuốc của chúng tôi. Nhân đến trạm xá, lần
đầu tiên trông thấy anh Dư Thành Nhựt (Đại Tá, Bộ Quốc Phòng) nhổ răng quá ư độc
đáo, nhưng rất công hiệu. Một anh từ ngoài bước vào, tay bụm hàm bên trái, mặt
nhăn nhó chứng tỏ là anh đau lắm. Đau răng mà quí vị quí bạn, nó thấu lên đầu
chớ giỡn đâu! Anh Nhựt chậm rãi như lúc nào:
“Chịu hết nỗi phải không? Tôi bảo đưa tôi nhổ mấy hôm nay mà
không chịu”
“Anh làm ơn nhổ giùm tôi đi. Chịu hết nỗi rồi.” Anh bệnh nhân
rên rỉ.
“Chờ tôi một phút là xong ngay.”
Mời quí vị quí bạn xem anh Dư Thành Nhựt nhổ răng như thế nào mà
ảnh nói tỉnh bơ. Anh Nhựt bảo:
“Nhắm mắt lại, chừng nào tôi bảo mở mới mở nghe chưa.”
Anh nắm tay anh “bệnh binh” dẫn đến sát cánh cửa, lấy sợi dây nhỏ
mà anh đã se sẳn, một đầu cột vào chân răng còn đầu kia cột vào cánh cửa. Anh
nói:
“Anh vẫn nhắm mắt nhé, ngẩng mặt lên trần nhà đi.”
Anh “bệnh binh” vừa ngẩng mặt lên thì anh Nhựt đẩy mạnh cánh cửa
nghe cái “phựt”, thế là cái răng theo sợi dây ra ngoài. Một chút máu rướm ra
khóe miệng. Sau khi nhét tí xíu bông gòn vào lỗ chân răng để cầm máu, anh nói:
“Anh ngồi nghỉ một chút, súc miệng, tôi thay miếng bông gòn khác
là về lán. Hôm nay anh ăn cháo, tôi qua nhà bếp ghi tên cho anh.”
Phải công nhận là anh Nhựt rất dạn tay. Tôi không rõ trước năm
1975, anh có học Đông Y hay không, nhưng khi anh được chỉ định vào trạm xá trại
này thì anh rất nhiệt tình, từ cạo gió, nhổ răng, đi rừng tìm những cây dược liệu
về cắt gọt phơi khô nấu nước cho anh em uống. Thật sự có bổ hay không thì không
ai quả quyết, nhưng có điều chắc chắn là nếu uống hết một tô thì “no bụng”. Vì
vậy mà nhiều anh em đến xin “nước bổ” của anh Nhựt. Tôi cũng vậy.
Giả vờ bệnh, không ngờ lại bệnh thiệt. Tại chỗ nằm, anh Nghĩa
bên phải và anh Nguyễn Phán bên trái tôi, mỗi người khoảng 7 tấc
(0.7m). Áng chừng giữa đêm, vì chúng nó bắt gởi đồng hồ nên chúng tôi không biết
giờ giấc gì hết mà chỉ áng chừng thôi. Tôi biết là tôi thức, nhưng không thể
nhúc nhích được để lay anh Nghĩa hay anh Phán thức dậy giúp đỡ, cũng không phát
âm thành tiếng để gọi hai anh ấy nữa. Tôi cứ ú ớ, và rên. Chắc cũng khá lâu. Bỗng
anh Nghĩa giật mình vì tiếng ú ớ của tôi. Tôi nghe anh gọi “Anh Hoa. Anh Hoa”,
nhưng không thể nào đáp lại được, quai hàm như cứng lại rồi. Anh Nghĩa lật đật
ngồi dậy, một tay đỡ đầu tôi một tay anh tìm hộp dầu cù là, vì thường ngày tôi
có nói với anh là tôi để nó dưới đầu nằm để khi anh ấy cần thì cứ sử
dụng, cũng là cách tôi dự phòng trường hợp này sau lần bị “thương hàn” suýt chết
ở trại nhà ngói. Anh xoa dầu vào tay, chân, ngực, cổ, và cạo gió. Tôi ấm người
và tỉnh lại. Thở ra một cái thật mạnh, giống như hơi thở bị dồn nén bên trong
bây giờ mới đẩy nó ra được là cảm thấy khỏe ngay. Anh nói:
“Anh bị trúng gió nặng quá. Tôi mà ngủ mê là anh dám đi luôn lắm.”
“Đúng. Lúc ấy tay chân tôi như đóng băng cứng lại, trong khi tôi
cảm thấy nghẹt thở có lẽ vì không đẩy hơi thở ra ngoài được. Cám ơn anh rất nhiều.
Đây là lần thứ hai tôi thoát chết nếu không có anh và các bạn.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét