Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

HỒI KÝ TRẦN ĐỘ - KỲ 1

1      2      3     4      5
Lời Đầu Sách
 Cái chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của Việt Nam hiện nay nó tàn bạo hơn cả chế độ Tần Thủy Hoàng và sự dã man của chủ nghĩa phát xít Hít-le - Trần Độ
Trong những lúc xum họp với các con cháu trong nhà, hoặc những khi gặp gỡ bạn bè cũ và mới, tôi thường hay kể chuyện ngày xưa. Chuyện ngày xưa của tôi thường là những mẩu chuyện đời thường vui hoặc buồn, sâu sắc hoặc thú vị, có cái phong vị khác lạ mà trong cuộc sống ngày nay không hay có. Những người nghe câu chuyện đó của tôi thường bảo tôi là nên ghi lại, nên viết hồi ký.

Để không phụ những lời thúc dục đó, tôi làm việc viết hồi ký bằng cách kể lại các mẩu chuyện đó. Những mẩu chuyện thường không có hệ thống, không theo biên niên sử, không có và không theo các sự kiện lịch sử, không có gì bổ sung cho lịch sử.
Dẫu rằng tôi cũng có trải qua cuộc sống trong các sự kiện lịch sử. Nhưng hoặc là lúc đó tôi còn nhỏ tuổi quá, hoặc tôi cũng không có vai trò gì quan trọng trong các sự kiện đó. Vả lại về những sự kiện lịch sử, thì đã có nhiều người viết, có nhiều sách đã được in. Tôi chỉ kể chuyện những kỷ niệm, vì thế tên sách của tôi là Chuyện ngày xưa. Những kỷ niệm này có hai giai đoạn (làm thành hai tập). Tập thứ nhất là từ trước 1945 đến 1975. Tập thứ hai là chung quanh công cuộc đổi mới, những niềm vui và niềm vui chưa trọn. Khi tôi kể chuyện, tôi cố gắng thực hiện lời khuyên của đồng chí Trường Chinh, một người anh lớn của tôi: Cần phải khách quan và không được tự đề cao mình.
Tôi mong rằng kỷ niệm đời tôi cũng giúp mọi người mua vui được một vài tiếng đồng hồ cho ai đọc nó. Xin thân ái, chào mừng người mở sách.
1955 - 1996
TRần Độ

Tôi sinh ra trong một gia đình công chức. Hồi năm sáu tuổi, tôi nghe người làng gọi bố tôi là quan phán.
Thời ấy các công chức đều là quan, quan Thông phán tức thư ký các toà, quan tham tá thuộc bậc cao hơn. Bố tôi là quan phán vì ông làm thư ký ở tòa Thông sứ tại Hà Nội.
Bố tôi xuất thân từ một gia đình nho giáo ở quê Thái Bình. Khác với Bác tôi đã nối nghiệp nhà trở thành là một nhà nho. Bố tôi lớn lên giữa buổi chữ Hán không còn được trọng dụng, ông đã chuyển sang học quốc ngữ để mưu cầu việc kiếm sống.
Nghe bạn bố bảo phải biết cả tiếng Pháp mới hòng có cơ may, ông đã tìm học tiếng Pháp đến mức viết và nói được. Rồi ông nhờ cậy chạy được một chân thư ký ở toà Thống sứ Bắc kỳ. Từ đó mỗi lần về quê, dân làng cứ trọng vọng gọi ông là quan Phán.
Với bà con tỉnh lẻ thì cứ là dân Hà Nội, hoặc là người từ Hà Nội về đã là điều đáng nể lắm rồi huống hồ là quan phán tòa Thống sứ, biết tiếng Tây là điều rất oai đến mức cả làng cũng tự hào lây. Tôi là con cái trong nhà, thâm tâm cũng lấy làm oai lắm, lại vừa nể sợ bố. Tôi không dám săn đón quấn quít bố như con nhà khác. Phần các cụ cũng rất xem trọng phép nhà, thương yêu con cái bao nhiêu để trong lòng, còn trong tiếp xúc hàng ngày thì giữ vẻ nghiêm nghị theo phép tắc. Cho đến ngày nay tâm khảm tôi vẫn còn lưu lại đậm nét về bố tôi thời ông ngoài ba mươi với dung nhan phương phi, dáng vẻ bệ vệ. Gia cảnh bố mẹ tôi chẳng lấy gì làm sung túc. Đến nỗi số tiền bố tôi vay ngày lên Hà Nội tìm việc làm cũng không trả nổi. Đến ngày ông qua đời, mẹ tôi phải thế nợ bằng một đám đất hương hỏa của nhà.
Mẹ tôi trước sau vẫn sống ở quê. Hai cụ sinh được 4 con. Trước tôi là hai chị gái. Chị đầu tên là Thi, lấy chồng làm y tá, ở góa từ ngoài ba mươi tuổi, nay đã ngoài bảy mươi vẫn sống tại quê nhà. Bà chị hai tên là Câu (Tạ Thị Câu), nhó hơn hai tuổi, tôi là con thứ ba. Sau khi sinh tôi, mẹ tôi đi hóỉ và cưới vợ hai cho bố tôi. Bà dì sống ở Hà Nội với bố tôi. Thời này, tôi cũng được lên Hà Nội sống với bố và dì để đi học. Đời sống công chức của bố tôi tuy không được phong lưu nhưng cũng có thể mướn người giúp việc và nuôi con ăn học.
Còn ở quê mẹ tôi khá lam lũ. bà vừa lo cày cấy, nuôi lợn gà lại còn phải chạy hàng xáo. Bà lặn lội đi mua thóc về tự xay giã làm gạo bán ở các chợ quê, lấy trấu để đun nấu và cám nuôi lợn gà. Thời này cứ hai hào làm một thùng thóc, tức là mười ký. Vậy là hai xu mua được ký thóc. Và lãi là tính từng xu chênh giữa giá bán gạo và tiền mua thóc. Tuy còn bé, tôi cũng nhiệt tình phụ mẹ một tay. Đứng cối giã gạo. Xuống ao lặn hụp vớt bèo. Song không vì thế mà mẹ tôi chịu ngơi tay. Bà lại đan cói làm các mặt hàng gia dụng đến tận khuya. Tinh mơ bà đã dậy đỏ lửa lo nồi cám lợn nấu cùng bèo ủ chua. Để thức khuya dậy sớm bà dùng thuốc lào, đến nghiện. Có lần bà say thuốc lào gục cả đầu vào bếp, thật thương tâm.
Bà chị thứ hai tôi bán hàng xén để kiếm sống, cũng là cái vỏ bọc thích hợp để bà hoạt động cách mạng. Khó mà biết bà làm việc gì là chính. Bà tham gia từ năm nào cũng không rõ. Với tôi, tuổi thiếu niên tôi đã được chị dìu dắt đi hoạt động. Nếu như mẹ tôi thầm lặng ủng hộ, kín đáo che chở cho tôi thì chị lại nhiệt thành kèm cặp trong hoạt động thực tế, từng bước rèn luyện thử thách cho đến khi tôi được kết nạp Đảng. Sau đó cả hai chị em đều thoát ly địa phương.
Hồi sau này vào khoảng 1942- 1943, chị tôi bị Pháp bắt và bị ở tù ở Hỏa lò (Hà Nội). Còn tôi thì bị đi đày ở Sơn La. Nghe tin thực dân Pháp chuyển tù Sơn la đi Côn Đảo, các tù nữ ở Hóa Lò Hà Nội đã xé quần áo tốt lấy vải thêu tặng anh em trên đường ra đảo. Chị tôi ngày đó hẳn đã đau lòng vì không thấy thằng em để tặng khăn dành cho nó. Chị đâu có hay là tôi đã được phép trốn và đã trốn thoát.
Vợ tôi là người ngồi tù cùng lúc với chị biết rằng chị đã mất 1943: thế là chị không được biết rằng thằng em còn sống, còn tiếp bước chị hoạt động đến ngày thắng lợi. Hôm nay, ghi lại những dòng này em lại thấy hiển hiện trước mặt người chị gái cao lớn, nhiệt tình và sôi nổi. Lại nhớ đến nỗi lo sợ ngày chị trả lễ cầu hôn. Hồi chị tôi 2l-22 tuổi, có nhà mang lễ đến xin cưới giữa lúc chị vắng nhà. Mẹ tôi có vẻ ưng thuận và bà lấy mấy quả hồng cho thằng con trai cưng là tôi. Giữa câu chuyện thì chị tôi đi chợ về nói: lấy chồng là việc của con sao mẹ tự đảm đương lấy! Chị về, bê cả mâm lễ đặt ra ngoài sân. Tôi cuống quít níu áo chị, xin Em lỡ ăn mấy quả hồng rồi. Chị nói ráo hoảnh Thì đi mua về trả người ta.
Chuyện tình duyên của chị tôi cũng như việc hoạt động cách mạng của chị, cả nhà chẳng ai biết rõ. Có lần chị đi về khuya khác thường, tôi hỏi thì chị nói: Tối qua tao đi lùng!. Tôi có biết trong làng có anh tên là Lùng, chị đi gặp anh này sao? Thể rồi tình thế buộc cả hai chị em phải đi thoát ly, rồi cùng bị bắt. Nghe phong phanh ngày trong tù chị có yêu, nhưng cũng chẳng lưu lại tung tích gì. Hồi tôi lên Hà Nội ở với bố thì dì tôi, rồi mẹ tôi đều có mang. Dì tôi sinh con trai. Nó mồ côi bố lúc ba tháng tuổi và mất khi được sáu tháng tuổi. Mẹ tôi sinh con gái được 3 ngày thì bố tôi qua đời. Thế là mọi công chuyện nhà dồn lên đôi vai mẹ tôi vốn đã quá tải.
Mẹ! Ký ức tôi cứ khắc sâu hình ảnh một phụ nữ nông thôn chân chất, lam lũ quanh năm vì chồng, vì đàn con. Có lẽ chẳng có lấy một lần bà nghĩ đến bản thân.
Tôi chẳng bao giờ quên được cảnh nằm ổ rơm cừng mẹ, nó thần tiên như chuyện cổ tích. Về mùa đông, ổ rơm là thứ sang trọng của người nghèo. Mẹ tôi cũng quây một ổ ở bếp. Sau một ngày lam lũ, bà lại ổ rơm nằm nghỉ, kéo chiếc chăn chiên phủ lên người. Tôi chui vào nằm gọn trong lòng mẹ sực mùi rơm, lấng nghe bà rủ rỉ kể truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa, cảnh gà mẹ ấp con nầy trong hương lúa lan tỏa đưa tôi tới những giấc mơ thần tiên ngày ấy và cả đến bây giờ. Tình mẫu tử ấp ủ tôi suốt đời.
Khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn bắt tôi phải tiếp tục đi học. Bà gởi tôi nhờ một anh lớn dẫn đi, từ nhà đến trường hơn một cây số. Đi học về tôi lo học bài thầy cho về nhà. Cứ xong bài tôi lại vui sướng reo lên khoe với mẹ tôi
- Mẹ ơi! Con thuộc bài rồi.
- Con mẹ giỏi quá...
- Con thương mẹ lắm!
Tôi tận hưởng sự dịu dàng âu yếm trong ánh mắt, trong âm sắc mẹ dành cho.
Đó là thứ không thể thiếu để tôi khôn lớn, là điều an ủi, khích lệ tôi trước những tình huống gian nan nguy hiểm của cuộc đời: một chân trời của tôi luôn có mẹ.
Những kỷ niệm về mẹ làm phong phú đời tôi. Mẹ tôi hàng năm cũng tranh thủ lên thăm chồng con. Tôi lnôn hăng hái đưa mẹ đi thăm phố phường để khoe Hà Nội với mẹ và cũng không bỏ lỡ dịp để được cùng mẹ thưởng thức của ngon vật lạ theo túi tiền. Chuyến tôi mời mẹ món tê cố cứ làm tôi nhớ hoài tê cố là món nước giải khát ngọt có đá. Vì sao gọi như vậy, đến nay tôi vẫn không rõ. Những cốc tê cố đầy đá đập vụn pha mấy thìa nước đường, với tiếng rao lanh lảnh đã thành một thứ giải khát mà ngày đó tuổi chúng tôi mơ ước nhất. Khi mẹ tôi thấy lạ không đám mua thì tôi nài ép bà lấy được. Thương con, rồi bà cũng thuận tình. Tôi sướng như mở cờ trong bụng, dành lấy một cốc ăn ngon lành trong khi thành cốc thứ hai đã đẫm nước, mẹ tôi vẫn nghi ngại. Tôi khích lệ và mẹ tôi cầm lấy, rồi hốt hoảng buông tay xuýt xoa như phải bỏng. Thế là ngon chẳng thấy đâu mà phải bỏ tiền đền chiếc cốc vỡ.
Làm hàng xáo nên thức ăn chính của mẹ tôi là cơm tấm muối vừng mặn chát. Ngoài ra, thứ gì đối với bà cũng lạ, cũng là phí tiền. Khi đã lớn, tôi đi đâu về vẫn không quên mua quà biến mẹ, dù biết chắc chắn là sẽ bị bà chửi: Cha tổ bố mày, mua phí tiền. Cứ mỗi lần mắng yêu con là cụ lại chửi như vậy. Ngày nay dù mẹ tôi không còn nhưng cái lệ ấy đã truyền lại cho bà chị và cô em gái tôi. Kỳ vừa rồi tôi đưa đứa cháu nội về thăm quê có nhắc lại chuyện này cho cháu nó biết và quả nhiên nó đã được chửi yêu như thế khi vừa tới nhà. Khoảng năm 1940 tôi vẫn hoạt động loanh quanh gần nhà. Đến 1941 mới thoát ly hẳn. Đến 1947-1948, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang mở rộng và quyết liệt thì tôi gặp mẹ rất bất ngờ.
Do Pháp tấn công lên Việt Bắc, nên quân ủy có ý định sơ tán cơ quan. Tôi được trao nhiệm vụ cầm đầu một đoàn văn nghệ sĩ đi vào khu 4 vừa đi khảo sát tình hình vừa là sơ tán. Đoàn của tôi có các ông Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến. Cùng đi còn một cán bộ chính trị và một cần vụ kiêm bảo vệ cho tôi. Cuộc càn của Pháp kết thúc, tôi đi từ khu 4 trở ra theo lối qua huyện Nghĩa Hưng, vượt sông Hồng rồi sang Thư Trì về Thái Bình mong để tranh thủ ghé thăm mẹ. Đến đoạn đường cái quan mà người làng tôi vẫn đi chợ, tôi lần xuống men thềm bờ ruộng để tránh gặp phải người quen. Được một đoạn thì tôi nhìn thấy mẹ tôi đang đi trên đường cái, đầu đội thúng hai tay vung vẩy, bước thong dong, có lẽ bà từ chợ về. Nhìn thấy mẹ, tôi bối rối quá. Bụng dạ thúc tôi chạy lên với mẹ, nhưng gặp giữa đường lại đột ngột thế này thì cụ xúc động quá làm sao giữ được bình tĩnh, cụ khóc lóc thì rầy rà to. Đang suy tính thì cụ cũng nhận ra tôi. Cụ giơ tay vẫy, tôi vẫy lại. Cụ biết, từ từ rẽ xuống ruộng đi tới gặp tôi. Hai mẹ con chl nói với nhau trong chốc lát. Tôi xin phép: Thôi con xin phép đi, vì công việc vội lắm, vả lại nói chuyện ở đây lâu không tiện. Để hóa trang tôi đã phải bôi đen răng và đội nói cời sùm sụp làm dân quê đi làm ruộng, nhưng không thể mất cảnh giác. Nét mặt mẹ tôi rất bịn rịn cứ nhìn tôi nhl muốn giữ chặt lấy đứa con trai, song miệng lại thốt lên:
- Thôi! con đi đi!
Đi được một quãng, tôi quay lại nhìn, mẹ tôi vẫn đứng nguyên đó, im lìm. Tôi. nhớ lại thấy mẹ tôi tay lần bao thắt lưng, tôi hiểu ý bà muốn cho tiền nên đã xua tay lắc đầu, liền đó mẹ tôi đưa giải ỵếm lên chấm mắt. Dù gặp chốc lát tôi đã được yên tâm về mẹ, về gia đình. Như đã kể trên, mẹ tôi đã cưới vợ hai cho bố tôi. Tuy như chị em một nhà. Sau khi mất chồng, mất con trai, dì tôi đi bước nữa. Vẫn không quên lui tới thăm hỏi mẹ con tôi. Đời chồng sau, bà có năm con đều là gái, làm bà càng thương tiếc đứa con trai đầu. Sau này, mỗi lần ghé quê, tôi đều tới thăm dì. Thấy tôi là bà lại dấm dứt khóc. Bà bảo tôi:.
- Nếu nó còn thì chắc chắn em nó sẽ theo anh, theo anh thì bây giờ nó cũng khá...
Tôi xót xa an ủi bà:
Dì ơi, dì đừng khóc thêm đau khổ. Đằng nào em nó cũng đã yên phận. Bây giờ con là con dì, con về thăm dì cũng là em nó vẫn nhớ dì đó. Trong số con gái của bà, có đứa út, kém tôi chừng mươi tuổi và thân với tôi nhất. Tôi cũng quý nó và mấy đứa con nó. Hiện nó là cán bộ thương nghiệp ở Thái Bình...
Lại nói về mẹ tôi. Ngày tôi vào chiến trường miền Nam, nhất là năm 1968, địch tung tin tôi bị chết. Các anh ở Tổng Cục Chính trị và Trung ương, có về thăm và xác định lại với cụ về sự thất thiệt. Khi được nghe cái băng cassette có tiếng nói của tôi thì cụ yên tâm ngay. Ngày trở ra miền Bắc, tôi trở về nhà. Gặp cụ tôi thưa:
- Đây con trở về với mẹ nguyên vẹn đây.
Bà nhìn tôi vẻ bằng lòng và nói:
- Thôi! được rồi. Nhưng bây giờ mẹ lại mong muốn điều này. Cái thằng Thắng (con trai đầu của tôi) phải lấy vợ đi chứ, gần ba mươi tuổi chứ nhỏ dại gì nữa. Có chắt nội thì mẹ nhắm mắt mới vui lòng.
Tiếc là sau đó ít lâu mẹ tôi mất (năm 1975). Cháu Thắng chưa kịp lấy vự. Mẹ tôi đổ bệnh giữa lúc tôi đang dồn sức sửa sang gian nhà tử tế hơn đền bù lại cả cuộc đời cụ sống lam lũ, ăn ở nhếch nhác quá. Chả là suốt thời kỳ tôi được phái vào chiến trường miền Nam thì lương của tôi vẫn để lại nhà. Vợ tôi nhận một phần nuôi các con ăn học, số còn lại đồng chí thư ký riêng của tôi cất giữ. Sau 1975, tôi trở ra Hà Nội, số tiền dành dụm đó khoảng mười mấy ngàn, tương đương mấy chục triệu bây giờ. Tôi trích ra khoảng năm ngàn, bàn với cô em gái là sửa cái nhà bằng tiền của mình có thì chẳng có gì phải e ngại. Về sau mới hay sự việc đâu có đơn giản như thế. Chỉ vì tôi là ông tướng, lại vừa vừa chiến trường ra. Trong dư luận thời đó đang đồn thổi câu: tướng tấn, tá tạ, úy kilo. Vậy là vấn đề của tôi trở thành vấn đề rất tế nhị. Đồng chí thư ký đã cùng chính quyền địa phương trao đổi kỹ hoàn cảnh của tôi. Các đồng chí ấy rất hiểu tôi cũng như hoàn cảnh gia đình mẹ tôi cho nên việc sửa nhà được thực hiện suôn sê. Giữa lúc công việc đang bộn bề thì mẹ tôi đổ bệnh và cũng chỉ kịp ở trong ngôi nhà mới được có hơn chục ngày. Lần sau cùng khi em gái tôi báo tin cụ ốm nặng, tôi về thăm. Thấy tôi cụ bảo:
- Thôi con cứ về đi. Công việc của chúng mày còn nhiều. ở lâu không tiện. Mẹ thì không biết lúc nào. Con chờ đợi thì ai lo công việc cho. Con ạ, con về lần này nữa là mẹ thỏa mãn lắm rồi. Con cứ yên tâm mà đi. Có thế nào em nó báo tin rồi con trở về cũng được.
Một tuần sau, bà cụ qua đời. Lời nói hôm nào trở thành lời trối trăng của cụ với tôi nhắc nhủ tôi suốt đời. Ngày tổ chức ma chay cho mẹ tôi, anh chị em chúng tôi đều thoả thuận lo cho chu tất, trang trọng. Cô em - Cô Xuyến, sống với mẹ tôi lâu ngày nhất. Mỗi lúc về thăm mẹ, tôi vẫn nói đùa: Mày thay tao làm trưởng nam rồi đấy! Hôm làm tang lễ nó rụt rè thưa: Xưa nay anh bảo gì em đều nghe theo. Còn hôm nay em xin anh để em mời đội bát âm cho thỏa vong linh mẹ. Các cụ van bảo: Sống dầu đèn, chết kèn trống. Em cũng hiểu như vậy có nệ cổ một tí, nhưng mong anh cho em lo. Để thỏa vong linh mẹ, để em gái báo hiếu với mẹ, tôi sốt sắng tán thành, lòng tôi nhớ thương mẹ vô hạn, nhưng không hiểu sao tôi không khóc được. Ký ức về cuộc sống của mẹ tôi cứ như một cuốn phim choán lấy tâm trí tôi. Cho tới đêm khuya tôi ngồi soạn bài điếu văn, lòng thắt lại khi viết dòng chữ: Suốt đời mẹ là những thử thách đợi chờ: chờ đợi chồng, chờ đợi con, rồi chờ đợi cháu. Đến đây tôi bật khóc vì thương mẹ quá. Lời điếu của tôi đã làm họ hàng và bà con thân quen xúc động sâu sắc và họ đồng tình cất bản văn đó vào hòm gia phả. Sau lễ tang, chị em tôi thỏa thuận giao mảnh vườn và ngôi nhà mẹ tôi ở cho cô Xuyến, là người từng sống lâu ngày với mẹ để lo việc nhang khói cúng mẹ, cũng là cách ghi công cô đã săn sóc mẹ bao lâu nay thay các anh chị.
Hết Chương 1 Xem Tiếp Chương 2

Chương 2: TUỔI THIẾU NIÊN
Tôi bắt đầu đi học vào khoảng 7, 8 tuổi, tức là vào những năm đầu của thập kỷ 30 (193l - 32). ở vùng tôi lúc đó, trong các làng có trường hương sư do thầy giáo, làng dạy và một số trúờng tiểu học Pháp-Việt. Các trường tiểu học hình như tiếng pháp gọi là Ecole Primaire plein exercice, có hệ thống lớp từ thấp đến cao như sau:
Lớp thấp nhất: lớp Đồng ấu. (Tiếng Pháp: Enfantin)
Lớp dự bị. (Tiếng Pháp: preparatoire)
Lớp cơ bản (Tiếng Pháp: Elementaire)
Sau đó đến
Lớp nhì năm thứ nhất (Moyen un)
Lớp nhì năm thứ nhì (Moyen deux)
Lớp nhất (Superieux)
Học hết lớp élementaire thì thi lấy bằng sơ học yếu lược, học xong lớp Supérieux thì thi lấy bằng Certificat, (bằng cao đẳng tiểu học) có lẽ tương đương với trình độ cấp 2 của ta hiện nay. Sau khi có bằng Certificat thì có 2 đường học tiếp trung học.
- Học theo hệ thành trung từ năm thứ nhất lên đến năm thứ tư sẽ thi lấy bằng trung học (tiếng Pháp: Diplome)
- Học theo một hệ khác năm năm thì thi lấy bằng tú tài, baccalauréat. Có tú tài văn chương, triết học (Bắc philo) và tú tài toán học ( Bắc math) và có tú tài toàn phần.
Có lú tài bản xứ (Bắc local) và tú tài Tây. Tú tài toàn phần và tú tài Tây thì có giá trị hơn. Thái Bình lúc ấy có 12 phủ Huyện. Đơn vị lớn hơn được gọi là phủ, nhỏ hơn là huyện hình như lúc ấy chỉ có 2 nơi gọi là phủ: Kiến Xương (nay là huyện Kiến Xương) và Tiên Hưng (nay nhập với huyện Đông Quan, thành huyện Đông Hưng). Làng tôi lúc đó tên là làng Thư Điền (nay là xã Tây Giang) ở bên cạnh làng Trình phố (nay là xã An Ninh). Cả hai làng lúc ấy đều thuộc phủ Kiến Xương. Nay cả 2 xã đều đã thuộc về huyện Tiền Hải.
*
* *
Tôi không hiển vì sao lúc ấy ở vùng tôi có mấy trường khác nhau. ở làng tôi (làng Thư Điền) có một trường hương sư hình như chỉ có lớp Đồng ấu, dự bị, cơ bản, do một hương sư (thầy giáo làng) phụ trách, ở Trình Phố có một trường sơ học Pháp Việt cũng chỉ có đến lớp cơ bản (élémentaire). Còn ở huyện lỵ Tiền Hải trong làng Ngoại đê. Địa điểm đó cách địa điểm huyện lỵ Tiền Hải hiện nay độ hơn một cây số. Huyện lỵ Tiền Hải hiện nay ở địa phận đầu xã tôi (xã Tây Giang). ở huyện lỵ Tiền Hải cũng như phủ lỵ Kiến Xương có truờng có lẽ là cao đẳng tiểu học, có đến lớp nhất (supérieux). Tôi bắt đầu đi học ở lớp Đồng ấu (Enfautin) tứ lớp l hiện nay ở trường Trình Phố. Trường này có nhiều trẻ em của các xã Thư Điền, Trình Phố và cả xã ở xa hơn l chút như Vũ Lăng, Rãng Thông, An Khang, Cao Mại, An Bồi... cũng về học. Cho nên tôi có rất nhiều bạn quen. Học sinh phần lớn là con trai mỗi lớp chỉ có 2-3 bạn gái, các bạn gái đều con cái nhà giàu có, có thế lực (con quan chức, địa chủ, phú nông) vì chỉ những nhà đó mới có điều kiện cho con gái đi học. Còn các bạn gái khác nói chung là không đi học và phải lao động kiếm sống rất sớm. Tuy vậy cũng có một số không nhỏ các bạn gái. biết đọc, biết viết và tham gia hoạt động cách mạng rất nhiều. Tuy vậy, tôi chỉ nhớ được một số kỷ niệm với các bạn trong làng tôi (Thư Điền). Vì chúng tôi cùng làng, nhà ở gần nhau cùng đi học, cùng chơi với nhau thân thiết nên có nhiều quan hệ chặt chẽ, gặp gỡ và hoạt động với nhau rất nhiều. Các bạn học của tôi hồi đó rất nhiều và cũng nhiều người trưởng thành sau trở tafnh cán bộ cách mạng quan trọng (như Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Trú, Ngô Duy Cảo, Vũ Trọng Kiên... ). Tôi cũng không biết được tin tức của hết các bạn, ai còn sống, ai đã mất rồi, chỉ biết là số đã mất cũng khá nhiều. Những người còn sống thì phần lớn đã ngoài 70 và đã nghỉ hưu từ lâu..
*
Vừa rồi, đầu năm 1997, có một dịp rnột nhóm 4 người lúc đó thân thiết nhất gặp nhau một bữa ôn lại chuyện cũ. Nhóm 4 người này có:
- Tôi là Tạ Ngọc Phách tức Trần Độ, người làng Thư Điền
- Ông Tạ Ngọc Giản tức vũ Trọng Kiên là chú họ tôi, theo quan hệ họ hàng.
- Ông Tô Hữu Hạnh, người làng Thư Điền.
- Ông Đặng Ngọc Trác tức Võ Quang Anh người gốc ở Hành Thiện (Nam Định) nhưng cư trú ở làng Trình Phố. Ông Trác hiện nay đang sống trong Thành phố Hồ Chí Minh vì lúc kháng chiến ông hoạt động nhiều ở Nam Bộ đã có lúc Tham mưu trưởng ở khu 9.
Trong 4 người: ông Tô Hữu Hạnh lớn tuổi hơn cả. Ông sinh năm 1920 hay 2l. Còn 3 chúng tôi đều sinh năm 1923.
Các bạn hè chơi thân với nhau thì cũng còn khá nhiều, khoảng hơn chục người. Nhưng gắn bó gần gũi và thường xuyên thân thiết với nhau nhiều, gần như là nhóm nòng cốt của lớp, thanh niên làng tôi lúc ấy chỉ là 4 chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi côn nhớ đến nhung ông Tạ Ngọc Lam, Lê Ngọc Chữ, Lê Ngọc Nam... cùng đều còn sống cả.
*
* *
Tình bạn chúng tôi thuở đó có những nét đặc sắc và thú vị. Chúng tôi đều là con của các gia đình nghèo. Chúng tôi không nghèo đến nỗi, không có gì ăn, mà chỉ là cha mẹ chúng tôi phải kiếm miếng ăn một cách vất vả cực nhọc. Chúng tôi thường đến nhà nhau, và do có nhiều điều tâm đầu ý hợp, nên chúng tôi đều coi nhà của mỗi người đều là nhà chung của cả nhóm. Chúng tôi lấy tên hiệu đều bắt đẩu bằng chữ Hồng, chỉ vì thấy nó hay, chứ không phải vì nó là màu đỏ Cộng sản. Tôi còn nhớ: Anh Hạnh lớn tuổi nhất tên là Hồng Minh, anh Trác cao kều tên là Hồng Nhật, tôi tên là Hồng Anh và rất nhiều Hồng nữa, tôi không nhớ hết khi chúng tôi tụ tập ở nhà ai, thì lập tức nhà ấy thành là của chung của chúng tôi. Chớng tôi học, ăn, chơi, đừ a nghịch tự do như ở nhà mình. lhững bậc ba mẹ chúng tôi cũng tự nhiên chấp nhận l tình trạng đó, và mắng mỗ, khuyên dạy chúng tói một cách cũng rất bình đẳng không:,. phần biệt. Chúng tôi haỵ tụ tập ở. nhà tôi, nhà anh Hạnh, nhà anh Giản chứ ít khi đến nhà anh Trác vì anh Trác ở làng khác (làng Trình Phố). Chúng tôi gọi nhà nhà chúng ta (notre maison) chứ không nói nhà anh, nhà tôi. Đặc biệt đối với mẹ chúng tôi, chúng tôi đều gọi là Mẹ chúng ta (notre mère) khi nào cần chỉ rõ mẹ nào thì chúng tôi nói Notre mère kèm theo tên anh con vào:Ví dụ norte mère Hạnh. Hình như chúng tôi ít khi nói đến bố, vì đa số chúng tôi đều mồ côi bố, và thông thường chúng tôi hay tiếp xúc với các mẹ và thường được các mẹ che chở, chu cấp cho nhiều. Suốt thời gian dài trong tuổi thiếu niên chúng tôi sống trong một tình cảm cộng đồng thân thiết như vậy ít nhất là cho đến lúc chúng tôi 13, 14 tuổi đã phân tán mỗi đứa đi một cuộc sống khác và xa nhau, nhưng lúc đó luôn luôn chúng tôi vẫn hỏi thăm nhau và hướng về những notre mère. Trong những dịp gặp nhau, hình như nội dung công việc hoc tập, chúng tôi ít quan tâm và cũng ít trao đổi bàn bạc, không có cảnh tổ học tập hay nhóm học tập như bây giờ. Hoàn cảnh xã hội lúc ấy có nhiều yếu tố tác động vào suy nghĩ chúng tôi. Vùng chúng tôi, phong trào cộng sản có từ sớm, từ những năm 30. Sau những trận khủng bố các năm đầu của 30, thì mỗi làng lại xuất hiện một thứ nhân vật hơi thần bí, mà dân làng thường nói là những người tình nghi. Dù là những người có quan hệ thế nào đó với các hoạt động cách mạng, mà bị các chức sắc ở làng và ở huyện tình nghi, họ bị liệt vào loại người phải coi chừng theo dõi. Có người còn gọi đầy đủ là người tình nghi cộng sản. Chúng tôi đều biết những người này. Họ thường là vào bậc cha chú và anh lớn của chúng tôi. Tự nhiên chúng tôi thấy rất thích và kính trọng các người tình nghi. Mà quả thật trong đời thường, đối với dân làng, họ là những người hiểu biết đứng đắn, đôi khi họ là tác giả các bài về phê phán một chuyện xấu xa nào đó của cánh hương chức quan lại, mà nhân dân rất thích đọc và truyền lại cho nhau nghe. Khi trong xóm có việc gì khó xừ, dân làng thường chờ đợi ý kiến của những người đó.
Lúc ấy ở tỉnh tôi (Thái Bình) quan đầu tỉnh người Việt Nam là một quan tổng đốc tên là Vi Văn Định. Ông này bị coi là một tay sai đẩc lực của Pháp và có một người cách mạng ở làng tôi tên là Tô Thúc Dịch. Ông này có kế hoạch ám sát để trừng trị Vi Văn Định, nhưng ông bị thất bại, bị bắt tra tấn dữ dội và bị đầy đi Côn Đảo. Ông Dịch là người lấy một bà cô họ của tôi nên cũng là có họ hàng. Sau việc đấy chúng tôi nghiễm nhiên trở thành người ngưỡng mộ và ủng hộ ông Tô Thúc Dịch và căm ghét cánh quan lại như Vi Văn Định, con ông Thúc Dịch tên là Tô Ngọc Thiếp cũng là một trong nhóm thiếu niên của tôi. Trong không khí như thế, chúng tôi, số thiếu niên học sinh khi gặp nhau thường bị hấp dẫn với thời cuộc, hay quan tâm tới chuyện đời, chúng tôi thấy như đường đi chúng tôi đã chọn sẵn rồi: chúng tôi thuộc về những người cách mạng, thuộc về những người tình nghi cộng sản và chúng tôi yên chí rnong lớn lên, chúng tôi nhất định sẽ làm những công việc như đánh Tây dành độc lập cho nước nhà. Chúng tôi mê mải đọc các chuyện cổ của Tầu vành, những truyện nghĩa hiệp, tôn thờ những người trung quân, ái quốc, những người nghĩa khí, cương trục, những người hy sinh cho dân cho nước, những người nghĩa hiệp, hay làm việc hào hiệp cứu dân độ thế.
Những cụm từ lay động tâm hồn chúng tôi rất sâu sắc là nhục mất nước vong quốc nô, giặc Pháp- giặc Tây... chúng tôi chưa biết nhiều đến những từ như cách mạng, cộng sản... Nhưng chúng tôi cũng đã trao đổi với nhau những ký hiệu bí mật: Congsan, CS... và chúng tôi đã loáng thoáng nghe thấy một tên người Nguyên ái Quốc. và chúng tôi nghe tên đó, như người: trong đêm tối nhìn thấy một ngôi sao sáng và gần gụi. Và chúng tôi bàn với nhau rất nhiều và không mệt mỏi về việc đánh Tây và phục quốc. Nhưng với đầu óc non nớt ngây thơ chỉ có thể cùng nhau tạo nên những chuyện đơn giản và ngây thơ. Chúng tôi tôn anh Tô Hữu Hạnh, người lớn tuổi nhất như huynh trưởng của chúng tôi và dự kiến rằng sau này chúng tôi sẽ một nhóm tướng lĩnh tổ chức đánh Tây để phục quốc. Thành công rồi, thì anh Hạnh sẽ làm vua, các anh khác là tể tướng, nguyên soái, riêng tôi, tôi xin đến lúc đó sẽ đi tu, không phải tu phật, mà tu Tiên ( trên núi để được ẩn dật, lánh đời, sống cuộc sống ở nơi hoang vắng như các vị tiên ông.
Thế rồi chúng tôi biết có một số anh tình nghi có võ, chúng tôi liền tổ chức xin các anh dạy võ cho. Chúng tôi tập thể thao thco kiểu ở trườìng, lại học võ Tầu cầc anh dạy và học cả đánh bốc để nâng cao bản lĩnh. Chúng tôi còn tổ chức một đội bón g đá ớ trong làng và lấy một bãi tha ma ở đầu làng gần một cái cầu, tên là cầu Các già làm nơi tập luyện và thi đấu với các đội bạn. Đội bóng cũng là nơi chúng tôi tập hợp để bàn chuyện và kể chuyện cho nhau nghe. Nói chung, chúng tôi đều me truyện Trung quốc, như Tam quốc chí, Thủy hử, Song phượng kỳ dnyên, Hán Sở tranh hùng... chúng tôi thường trao đổi với nhau về các nhân vật anh hùng trong các tiểu thuyết đó. rất thích thú với những hành vi ứng xử, những bản lĩnh cao cường, và tính cách đặc biệt của Gia cát Lượng, Quan vũ, Triệu Tử Long, Võ Tòng, Hoàng phủ Thiếu Hoa, Hạng Võ... và... và các loại tiểu thuyết khi học đến Supcrieuex, chúng tôi đã có thể đọc các tiểu thuyết ngắn và đơn giản bằng tiếng pháp. Chúng tôi đã biết đến Guy de Manpassant, Molière, Lamatin. Đặc biệt là tôi, tôi mê mải và say sưa đọc và tìm sách đọc... Khi tôi bắt đầu học Trung học tôi đã thuộc rất nhiều thơ Tố Hữu và đóng 2 cuốn sách bìa cứng rất đẹp, để chép thơ của Xuân Diệu và Huy Cận.
Những tình cảm và tư tưởng của chúng tôi cứ theo chiều hướng ấy mà phát triển.
***
Trong thời gian ấy, chúng tôi còn có một mối quan tâm và một niềm hào hứng khác cũng rất say sưa: hoạt động xã hội.
Chúng tôi hết sức chú ý đến một tình hình là ở một số xóm có nạn đói khủng khiếp diễn ra. Chúng tôi rủ nhau ngoài giờ học kéo đến thăm các gia đình nghèo ở những xóm này. Có một hình ảnh mà tôi còn nhớ đến bây giờ: chúng tôi vào một nhà, nhà vắng hết người lớn chỉ có 2 chị em còn bé. Đứa chị độ 10 tuổi bế đứa bé độ 3 -4 tuổi, hai đứa đều rách rưới gầy gò, chân tay khẳng khiu như cây sậy, 2 cái đầu thì to quá cỡ, 4 con mắt thô lố trong rất kinh hãi. Con chị thấy chúng tôi vội bế em chạy ra, nhưng khi nó bước qua ngưỡng cửa không cao lắm thì nó không đủ sức đỡ được 2 cái đầu to và nặng, nó và em nó bị ngã lăn kềnh ra, chúng tôi chạy đến đỡ vì, nghc tiếng kêu: cháu đói quá! Được thấy như vậy chúng tôi về vận động các học sinh bạn chúng tôi trong lớp quyên tiền và gạo, rồi chúng tôi mua gạo và tổ chức nấu cháo hết giờ học kéo đến từng nhà phân phát cho những người đó. Việc làm rất có tiếng vang, chúng tôi đi đến đâu, đều được các em bé và cả người lớn người già đón tiếp và đi theo chúng tôi để mong được nhận bố thí. Chúng tôi rất thương những người đói, nhưng việc làm chúng tôi nhỏ bé quá không thấm thía vào đâu. Trong khi ấy có một xóm ở gần trường là xóm của những địa chủ lớn. Các địa chủ phần lớn họ Đinh và con cái họ cùng học với chúng tôi và là bạn chúng tôi. Chúng tôi liền bàn bạc và thuyết phục các bạn ấy đưa chúng tôi về nhà để chúng tôi trực tiếp quyên góp các địa chủ, chỉ có họ mói có thể có một số lớn lương thực để cứu giúp dân được. Tôi nhớ, có một cuộc tôi đi vào nhà một địa chủ. Hình như ông ta tên là Huyện Tô. Ông ấy tên là Tô, còn chữ Huyện là chức danh mua bằng tiền, chứ không phải ông ấy là quan huyện. Con ông từng học với tôi và cũng là một người tương đối thân với tôi, nên tôi mới vào nhà ông.
Không ngờ, tôi được ông này trả lời như sau: Các cậu còn bé thế, tôi làm sao tin các cậu mà quyên với góp! Việc giúp người nghèo là việc tốt. Các cậu làm thế cũng là tốt nhưng chúng tôi người lớn, có làm việc cứu giúp gì chúng tôi tự đứng ra làm thì còn có tiếng tăm danh dự, chứ chúng tôi dại gì lại đưa tiền cho những trẻ con như các cậu.
Thế là chúng tôi thất bại. Những việc đó hình như cũng có tác động, một số địa chủ sau đó có đứng lên tổ chức phát chẩn cứu giúp một số dân nghèo qua cơn nguy kịch và chúng tôi cũng được dân làng yêu mến hơn.
*
*
Chúng tôi còn thích thú một loại hoạt động khác, mà chúng tôi mơ hồ cảm thấy như có được những hành vi nghĩa hiệp, cứu khốn phò nguy. Đó là chúng tôi tự vận động tổ chức trang bị cho mình mỗi người một cây gậy dùng gỗ chè gìa lấy từ trong các vườn chè một số gia đình thải ra, gậy dài độ l,2m đến l,5m, to bằng cổ tay. Tối tối, chúng tôi phân công nhau thành từng tốp, mỗi tốp 2 -3 người, đi tuần quanh xóm làng cho đến khuya để cảnh cáo và phòng bị các tên trộm hay đi ăn trộm ở các nhà. Tôi cũng nhớ là chúng tôi không có can thiệp được vụ nào có kết quả rõ rệt. Nhưng chúng tôi cũng tin rằng hoạt động đó của chúng tôi có góp phần bảo đảm an ninh cho dân làng. Chúng tôi cứ phải đi với nhau 2-3 người là vì dù sao chúng tôi cũng còn bé và còn sợ... ma.
Những hoạt động này kéo dài cho đến về sau này, khi hoạt động bí mật, thì chúng tôi là những đội viên thiếu niên bảo đảm an toàn và đưa đón cán bộ cấp trên về sống và hoạt động trong xã. Chúng tôi đón cán bộ đưa về chỗ ở, bố trí người canh gác và tiếp tế lương thực, đưa tin tức cho các cán bộ cấp trên về hoạt động trong xã. Đó là vào những năm l 940, chúng tôi bắt đầu bước vào tuổi thanh niên.
Ngày 2l/4/1997 chúng tôi có dịp họp mặt nhau 4 người. ở Hà Nội có tôi, ông Vũ Trọng Kiên, ông Tô Hữu Hạnh vào, ở Thành phố Hồ Chí Minh ra có vợ chồng ông Võ Quang Anh. Chúng tôi họp mặt ở nhà ông Vũ Trọng Kiên, có ông Hạnh đã 78 tuổi và 3 chúng tôi bằng tuổi nhau (đều 74-75). Anh Hạnh còn rất khỏe và đi tập đều ở Câu lạc bộ. Chúng tôi gặp nhau một buổi, ôn lại những kỷ niệm cũ và bảo nhau ghi lại như trên đây, tôi ghi.
Cuộc gặp nhau xúc động và rất vui vẻ. Tôi còn có một nhóm bạn khác, khi tôi đã học Trung học. Sau 1938 tôi đỗ bằng Certificat (Cao đẳng tiểu học), mẹ tôi lại chăm lo và khuyến khích tôi đi học nữa và tôi phải đi Hà Nội để học tiếp Trung học. Nhà tôi nghèo không có tiền ăn và tiền học. Mẹ tôi phải đi gặp gỡ các bạn của bố tôi trước, nhờ các cụ giúp đỡ. Và mẹ tôi gửi tôi ở nhà chị cả lấy chồng ở Hà Nội. Mẹ tôi chỉ lo được một tháng 3 đồng bạc đưa cho chị tôi, gọi là trả tiền ăn. Còn tiền học thì nhờ ông bạn bố tôi có người quen mở trường tư giúp đỡ cho tôi được học không phải nộp học phí. Trường đó lúc đó gọi trường Hàng Đẫy (tiếng pháp là Duvillier) ở phố Hàng Đẫy nay gọi là phố Nguyễn Thái Học - Hà Nội. Tôi học được hết năm thứ nhất (Thành chung) và nửa năm thứ hai. Rồi vì tôi cũng chán học và vì không có tiền, nên tôi bỏ học để về quê tham gia hoạt động cách mạng, lúc đó là cuối năm 1939 đầu năm 1940. Trong 2 năm học ở trường Anh P.L và anh K. Đ. thành một nhóm chơi thân với nhau: Anh P.L chơi đàn ghita havaien, anh K.Đ làm thơ, tôi thì thích văn chương. Cả 3 người đều thuộc loại nhà nghèo nên gắn bó bênh vực nhau chống lại sự khinh bỉ và bắt nạt của cánh con nhà giầu.
Sau năm 1940, thì mỗi người một số phận đi theo một ngả đời, cho đến năm 1975, không gặp mặt nhau, tuy vẫn hỏi thăm tin tức về nhau.
Anh P.L. sau đó đi học nông nghiệp ở Pháp và Anh, rồi thành một chuyên gia nông nghiệp tầm cỡ dưới chính quyền của Diệm và Thiệu. Anh chỉ thích làm chuyên môn mà không quan tâm chính trị và không màng quan chức. Sau năm 1975 vì hoàn cảnh gia đình, anh sang Mỹ và sống với gia đình (Vợ anh và 3 con anh). Anh sống ở mức sống trung lưu vì chị ấy và các con anh đều làm việc và có lương. Anh không phải dựa cháu nào. vào trợ cấp xã hội của Mỹ. Anh có trang trại nhỏ vì anh vẫn thực hiện chuyên môn của anh, trong trại anh. Tôi nhận thấy anh là một người yêu nước, cương trực và trọng nghĩa khí, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cao. Nhưng rất tiếc anh ít gặp điều kiện thuận lợi để sống được như ý mình.
Còn anh K. Đ thì do nhận một nhiệm vụ của cách mạng, anh phải sống suốt từ năm 1945 đến 1975 ở Sài gòn và cũng có 4 người con trai, hiện các cháu của anh đều làm ăn và sống ở nước ngoài. Chị vợ anh đã mất từ lâu (khoảng những năm 80). Anh đã tái hôn với một bà khác và có nhiều cháu nội.
Sau 1975, tôi liên lạc ngay được với anh K.Đ ở Sài Gòn, và chúng tôi lại khôi phục tình bạn xưa kia. Sau đó ít lâu tôi liên hệ được với anh P.L trong một dịp anh về thăm lại Tổ Quốc (hình như vào khoảng 90 hay 91). Từ đó chúng tôi cũng hay gặp nhau nhất là trong các dịp anh P.L về nước. Anh đã đưa 2 con trai của anh ở Mỹ về cưới vợ trong nước, một cô ở Sài Gòn và một cô ở Đà Nẵng. Cũng đôi khi 3 chúng tôi gặp nhau, cùng ngồi ôn lại những kỷ niệm xưa, và rất lấy làm vui sướng. Ba chúng tôi bằng tuổi nhau hoặc có chênh lệch thì chỉ một tuổi. Tuy 3 cuộc đời cách biệt và xa lạ nhau nhiều nhưng chúng tôi gặp lại nhau thì những tình cảm và kỷ niệm thời niên thiếu lại quyện chặt với chúng tôi. Kể ra cả 3 chúng tôi đều còn sống và gặp nhau vào lúc tuổi đã ngoại 70, trong hoàn cảnh đất nước đã hòa bình và đang phát triển. Chúng tôi đều thấy quãng đời hơn 50 năm của mỗi người đều có những ý nghĩ và ý vị rất lý thú.

Hết Chương 2 Xem Tiếp Chương 3:
Chương 3: VÀO ĐẢNG
Sau khi bố tôi mất, mẹ tôi ở vậy nuôi con, lặn lội và bao dung như bản chất bà vẫn có.
Vào khoảng 1940, tôi được tham gia một cuộc mit tinh bí mật tại địa phương. Cái cớ để tổ chức cuộc họp là kỷ niệm danh nhân Lý Thường Kiệt hay Phạm Ngũ Lão, lâu ngày tôi không còn nhớ rõ, nhưng chỉ là một trong hai nhân vật lịch sử nổi tiếng đó. Lần đó, tôi thấy -vai trò của bà chị tôi cực oai. Bà là người sắp đặt công việc, điều động nhân lực lại còn là đại diện cho Đảng Cộng sản đứng lên diễn thuyếr trước thiên hạ. Trong khi chuẩn bị, bà giao nhiệm vụ cho tôi là huy động thanh niên đi bảo vệ cuộc mít-tinh, vì rất có khả năng bị khủng bố. Đám trai trẻ chúng tôi được thế thì khoái trá hẹn nhau mỗi thằng sắm một cái gậy tre gộc để nếu xảy ra bất trắc thì dùng làm vũ khí chống trả. Quần áo thì cứ đồ nâu sẫm dễ kiếm và cũng tiện cho việc đi đêm. Cả nhóm chúng tôi hào hứng sôi nổi, bí mật thì thào, trao đổi, kín kín, hở hở ở nhà tôi. Mẹ tôi cứ lặng thinh như không hay biết gì cả.
Gần đến ngày tổ chức, bỗng cụ hỏi thật tự nhiên:
- Này, chúng mày cho mẹ đi với chứ? Điền chắc chắn là cụ chưa biết các con mình làm gì. Song lòng cụ có niềm tin vững chắc là bọn con mà tham gia thì việc đó là cần và cụ muốn cùng có mặt bên các con và khẩn khoản:
- Cho mẹ đi với.
Chị tôi khéo léo khước từ.
- Mẹ ạ, nhà chỉ ba mẹ con. Em nó và con đã nhận phần việc, không thể không có mặt. Mẹ cũng đi nữa thì đêm hôm nhà bỏ không ai trông sao? Bọn con đinh ninh có mẹ ở nhà mới dám nhận việc đấy chứ.
Nghe con gái trình hày như một sự phân công thỏa đáng, bà cụ lẳng lặng thu dọn nhà cửa. Nhìn vẻ nhẫn nhịn của bà thật đến rầu lòng. Chúng tôi ra đi với ánh mắt mẹ thỏa thuận và khuyến khích. Trước nay vẫn vậy, cụ như hiểu công việc của các con là quan trọng và tự nguyện giữ kín cho con cái. Cảnh chúng tôi đi đêm đi hôm thất thường cụ chẳng cật vấn, phàn nàn lấy một lần. ánh mắt bao dung của bà làm hai mẹ con thành đồng hội đồng thuyền.
Cuộc mít tinh đêm ấy tập hợp ngót ngàn ngườí tham dự. Thật là hùng vĩ! Quang cảnh chưa hề có. Bọn tuần phiên ở địa phương cũng đã đánh hơi được nên chúng ập tới xua đuổi và tìm cách bắt giữ những người chủ mưu.
Cũng nhờ có bố trí các trạm gác ở mỗi ngả đường nên có báo động là bà con cứ theo lối đã được phân định mà thoát, chỉ một hai người lớ ngớ bị bắt giữ nhưng không bị lộ vì họ chỉ là phần tử thấy lạ thì đi theo. Tôi chạy thoát sang thôn bên, đến nhà một người bạn thân, tính xin trú qua đêm.
Trong phút chộn rộn qua, lòng tôi cứ nóng như lửa đốt vì lo cho mẹ. Bên thôn tôi tiếng chó sủa dữ quá về phía khu vực nh à tôi. Bạn tôi bàn tính hay dt v khuyên tôi ở lại đến sáng hãy tính. Tôi không thể dằn lòng được nên quyết xin bạn ra về. Sự băn khoăn về mẹ làm tôi lao đi quên hết ngại ngùng. Đến cổng nhà, tay vừa đụng vào cánh cửa, tôi chưa kịp lên tiếng gọi thì lập tức cánh cửa mở và trước mắt là mẹ. Bà kéo ngay tôi vào nhà và giục:
- Thay quần áo đi! Lấy đồ trắng mặc vào rồi lên giường nằm đó.
Tôi xúc động líu ríu làm theo, lòng thắm đậm niềm vui sướng được mẹ chăm chút như vậy. Hẳn là khi xảy ra chuyện, nghe chộn rộn bà đã lo lắng lắm, đã đứng sau cánh cửa chờ con từ lúc ấy đến giờ, đã đánh thức, bảo vệ con cái. Khi tôi vừa cởi bộ quần áo nâu, bà liền lấy đem giũ xuống ao bên nhà để phi tang ngay. Đêm ấy, chị tôi không về. Chốc chốc mẹ tôi lại hỏi:
- Thế chị con đâu?
- Con không biết, hai chị em mỗi người chạy một ngả.
Càng về khuya mẹ tôi càng lộ vẻ bồn chồn lo lắng. Tôi phải trấn an:
- Mẹ ơi, chị con thành thạo mọi việc. Chính chị đã bày vẽ cho bọn con cách tuần phiên. Vì vậy con tin là chị ấy thoát yên lành, mẹ đi nghỉ đi, sáng sẽ hay. Mẹ như thế làm chị con lo lắm đây!
Sáng tinh mơ đã có một người gõ cửa hỏi mua giò. Trước nay chưa bao giờ có ai hỏi sớm như thế.
- Nhà có giò đấy, mời chị vào.
Chị là người mua giò thật hay là kẻ dò la! Tôi đang băn khoăn suy tính để đối phó, thì người đi mua hàng sà tới nhét vào bàn tay tôi mảnh giấy. Đó là tin chị tôi nhắn về. Chị đang ở điểm X, mẹ và em hãy yên tâm. Chiều chị về
Mãi hai ngày sau, tri huyện mới đi ô tô về làng lùng sục đe nẹt. Ngày ấy, cứ ô tô về làng là có chuyện nghiêm trọng. Hai chị em tôi cũng lo thắt ruột, bàn tính mọi việc nếu xảy ra điều chẳng lành! Song cả hai chúng tôi còn có ý định bám một thời gian nữa mới thoát ly.
ở làng có một người bạn gái nhỏ hơn chị tôi mấy tuổi cùng hoạt động. Chị này đến nhà tôi, vẻ hớt hải, hối thúc:
- Thôi chết, tại sao giờ nầy chị Thư còn ở nhà. Tụi nó đến bắt bây giờ đi ngay đi chớ. (Thư là bí danh của chị tôi thời ấy)
Miệng nói, chân bước, chị đă xông ngay vào buồng rút hết quần áo của hai chị em tôi nhét vào chiếc thúng mang theo. Hai chị em tôi chỉ còn kịp xin phép mẹ:
- Chúng con đi ít lâu, mẹ nhé!
Mẹ tôi bình thản đáp:
- ừ các con đi đi, yên tâm mà làm việc. Nhớ giữ gìn sức khỏe, đừng để thua chị kém em. ở nhà mẹ tự lo liệu được. Không phải bận tâm gì về mẹ cả.
Miệng an ủi chúng tôi, bà cụ tranh thủ xếp gọn lại quần áo của hai chị em tôi vào trong thúng. Tôi nhìn mẹ, lòng xót xa như xát muối:
- Thôi mẹ ơi, cứ xem như ngày nào con lên Hà Nội đi học. Đi rồi lại về với mẹ thôi mà.
Song, chuyến báo động đó không do địch lùng sục. Đúng như chị tôi đã cãi lại rằng tình hình đang yên tĩnh, chưa có dấu hiệu gì tỏ ra bị lộ, cứ lưu lại ít ngày nữa xem sao! Mà có tình hình gì nữa thì cũng không thể phó mặc quần chúng mà đi như thế. Chị kia cứ khăng khăng phải tránh đi mà tính toán đối phó nắm phần chắc hơn là để bị động với chúng. Về sau mới vỡ nhẽ là vì tình yêu mà chị ta đã bày ra chuyện như thế. Tôi cũng mới hay là được chị ấy yêu nồng nhiệt đến thế.
Lúc này và cả một thời gian dầi sau này, chính chị tôi giao công việc cho tôi. Chị đã là Đảng viên và trực tiếp dìu dắt tôi. Tôi thấy chị thỉnh thoảng lại đi vắng lâu, có khi đến hàng tuần lễ nhưng không rõ chị làm gì. Sau mới hay lúc đó, chị ấy đã là Tỉnh ủy viên. Những chuyến đi vắng nhà qua đêm là chị lên xứ ủy nhận chỉ thị. Trở về chị lại giao nhiệm vụ mới cho tôi và tôi dốc sức hoàn thành trách nhiệm, quên cả nguy hiểm.
Đơn vị hành chánh thời đó trên xã có tổng - trên tổng là phủ. Tôi được giao nhiệm vụ tổ chức thanh niên ở xã, rồi thống nhất tổ chức, thanh niên các xã lại thành đơn vị tổng và tôi được anh chị em bầu làm bí thư tổng. Đó là thời kỳ của tổ chức thanh niên Dân chủ lan chuyển thành Thanh niên phản đế. Tôi lại đứng ra liên hệ với các tổng khác, lập ra tổ chức thanh niên của phủ. Lúc hoạt động ở xã, tôi được chị gái giao nhiệm vụ lên nói chuyện ở nhiều buổi mít tinh, quanh các chủ đề truyền thống đấu tranh dành và bảo vệ độc lập dân tộc, tình hình thế giới và cảnh nước nhà lúc đó. Các cuộc nói chuyện của tôi gây được ấn tượng mạnh đồng thời tôi lại mở rộng được việc kết nạp hội viên mới. Rồi một hôm bỗng chị tôi hỏi:
- Thế chú có muốn tham gia một tổ chức cao hơn không? Tôi liền thắc mắc hỏi lại: Thế em chẳng tham gia tổ chức là gì?
Chị bảo:
- Tổ chức cao hơn kia.
- Cao hơn là tổ chức gì?
Tôi cứ cật vấn chị như vậy. Sở dĩ tôi hỏi là vì bấy lâu vẫn tưởng mình là cộng sản rồi, còn gọi tên này tên khác chẳng qua là cách gọi do yêu cầu giữ bí mật. Chị tôi liền bảo: đó là Đảng cộng sản, em có muốn tham gia tổ chức Đảng không? Thế thì em mong quá.. Thâm tâm tôi có chút bị hẫng vì bấy lâu vẫn tưởng mình là cộng sản. Song nỗi mừng thì vô hạn. Nghe thế, chị chẳng nói chẳng rằng trao tôi cuốn điều lệ Đảng. Mấy hôm sau, chị tôi bảo:
- Đi họp với chị!
Tôi băn khoăn hỏi:
- Họp gì thế chị.
- Đi rồi khắc biết.
Đến nơi, mới vỡ lẽ ra là họp chi bộ. Có khoảng năm sáu người, trong số đó có: chị Trương Thị Mỹ. Buổi họp đã tuyên bố kết nạp tôi là Đảng viên dự bị (lúc này vào khoảng đầu năm 1941). Thế là thoát ly vừa được hai tháng rồi đã được vinh dự đứng trong hàng ngũ tiên phong. Hai đồng chí phụ trách vùng tôi thời ấy là các anh Đào Năng An và Nguyễn Thượng Mẫn. Cả hai tỏ ra quan tâm đến lớp trẻ, đặc biệt là thanh niên có học hành ít nhiều. Tôi thuộc thành phần học sinh đáng lẽ phải dự bị trong sáu tháng, nhưng hai anh đã xét công nhận chính thức, đặc cách cho tôi trước thời hạn. Trở thành Đảng viên chính thức, tôi được phân công phụ trách một vùng với các chi bộ các xã ở trong phủ. Thời đó phủ Kiến Xương có một phủ ủy tức là ủy ban chấp hành Đảng trong phủ. Tôi được bầu vào phủ ủy và được chỉ định làm phó bí thư. Sau đó anh bí thư bị bắt, tôi trở thành bí thư phủ ủy. Đến cuộc họp toàn tỉnh là sau này lịch sử đảng bộ Thái Bình gọi là Đại hội, chủ toạ cuộc họp có đưa ra một danh sách đề cử vào ban chấp hành mà chân tỉnh ủy viên dự khuyết là Tạ Ngọc Phách (tức là tôi: Trần Độ). Danh sách đề cử đó được hội nghị tán thành. Rồi sau đó được phân công phụ trách thanh niên của tỉnh Thái Bình và là người bí thư tỉnh ủy đầu tiên ở địa phương. Với danh nghĩa là tỉnh ủy viên dự khuyết, phụ trách thanh vận, tôi tự tin lắm và cũng dám hoạt động mạnh hơn. Tôi phát triển nhiều cơ sở thanh niên, đặc biệt là dám xông vào vận động số thanh niên trung học ở thị xã. Tôi ra được tờ báo của Thanh niên. Tiếp theo là tổ chức Đại hội Đoàn thanh niên toàn tỉnh. Chưa kể việc tôi đi vận động nhiều cuộc đấu tranh khác. Chỉ trong vòng hai tháng mà tôi làm được như vậy kể cũng nhiều. Để phát triển thanh niên thị xã, nhất là số trung học tôi thích dừng cách kỳ bí ảnh hưởng của tiểu thuyết trinh thám. Tìm đối tượng thân quen mà tôi tin tưởng bồi dưỡng kỹ càng rồi sắp xếp cho họ bắt mối rộng ra. Cùng nhiệt huyết như nhau, nên công việc nhân mối cứ tăng theo cấp số nhân. Trong số này có con trai nhà văn nổi tiéng Nguyễn Công Hoan tức Nguyễn Tài Khoái. Tiếp xúc với Khoái, tôi giao trách nhiệm nhân mối thêm. Khoái vui vẻ nhận lời. Chính từ đấy mà tôi với bà Lê Minh gián tiếp biết nhau, nói cho đúng là qua Khoái tôi biết bà ấy, chứ bà không biết tôi. Được hơn một tháng, mấy vị làm hăng quá gần như công khai nên công việc bại lộ và bị bắt giữ. Trông số bị bắl này có cậu con trai ông Nguyễn Công Hoan - lúc này ông đang dạy học ở Thái Bình. Một số cậu khác cũng thuộc các gia đình công chức trong tỉnh. Điều đó đã làm tay công sứ Pháp ở Thái Bình phải suy tính và hắn đã ra lệnh thả hết.
Có thể nói hoạt động cách mạng của tôi bắt đầu năm 1938 là năm phong trào dân chủ lên cao, báo chí ra nhiều, cùng với việc ra đời mặt trận Bình dân. Từ thoái trào cách mạng sau Xô Viết Nghệ An 1930, đến lúc này lại nổi lên cao trào doi dân chủ khá mạnh và khá rộng.
Năm 1939, tôi làm báo Người mới cùng ông Nguyễn Thượng Khanh tức Trần mai Ninh ở Hà Nội. Trong cuộc ruồng bố của thực dân Pháp năm đó, tôi bị chúng bắt giữ. Nhưng không có chứng cứ gì để buộc tội, chúng phải thả tôi ra. Tôi lại đi học tiếp.
Cuối 1939 đầu 1940, những người tôi thân quen bị bắt nhiều. Cảm thấy mình bơ vơ trơ trọi giữa nơi đô hội này, tôi sinh chán học, bỏ học về quê hoạt động và được kết nạp Đảng năm 194l. Cho đến cuối 1941 đầu 1942, tôi lại bị bắt bị khảo tra ác liệt và chúng đưa ra tòa án Thái Bình xử tôi 15 năm tù. Tnước tòa tôi đã mạnh dạn vạch trần tội ác kẻ đi đô hộ và Chính phủ Nam triều và tôi chống án. Chúng phải gởi hồ sơ của tôi về tòa Thượng thẩm Hà Nội để xử lại. Đó là vào mùa thu 1942. Khởi đầu quãng đời hoạt động của tôi đã diễn ra như vậy. Giữa lúc phong trào bình đân đang lên cao cuốn hút lớp trẻ vốn sẵn sự quan tâm đến thời thế và tương lai đất nước. Chúng tôi, lớp trẻ được học hành ít nhiều, đến với cách mạng như một lẽ sống, tự nhiên, thoải mái, phần nào còn hứng thú vì tính ly kỳ, cái mạo hiểm của công việc cách mạng. Người ta bảo thanh niên đồng nghĩa với cách mạng, kể cũng có cơ sở.

Hết Chương 3 Xem Tiếp Chương 4
Chương 4: NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI:
Là một học sinh thôn quê đang độ tuổi 17-l8, tôi hoạt động với ít nhiều chất mạo hiểm, phưu lưu, ảnh hưởng của các nhân vật trong các truyện Tàu và truyện trinh thám nước ngoài mà tôi đọc bằng tiếng Pháp. Đứng vào hàng ngũ của tổ chức, tôi cũng chỉ hiểu một cách đại khái đấu tranh giai cấp là quyết liệt gay go. Trong hoạt động hàng ngày, tôi vẫn cảm thấy cái sức lực bẻ gãy sừng trâu của tuổi mới lớn chưa được ứng dụng và nhìn kẻ địch cũng tầm thường thôi. Việc qua mặt chúng, tôi tự thấy thừa sức. Hôm bị bắt - tôi bị bắt lần thứ hai vào cuối năm 1940 đầu 1941 tại Thái Bình, tôi đã nung nấu tìm cách thoát để tiếp tục hoạt động. Vì chúng cho tôi là nhân vật quan trọng nên để tôi ngồi cùng ô tô với chánh mật thám (hồi ấy là tên Lanec -em)[1]. Tôi đã tính cách chồm lên giàng tay tài xế cho xe lao xuống ruộng, tôi sẽ có cơ hội thoát. Nhưng lại nghĩ hai tay mình đã bị cùm, mà chúng nó thì đông làm sao thoát được.
Xe chạy đến sở mật thám tỉnh, ý định đó của tôi chỉ còn giữ trong đầu. Đêm đầu tiên ở nơi giam giữ ẩm thấp, tối tăm, đầy rệp, sặc mùi gỗ mục, hắc ín. Tôi nằm nghe tiếng muỗi bay như trấu, cùng tiếng rú ghê rợn từ một nơi đang tra tấn vọng tới. Rổi tình huống này cũng không làm tôi quan tâm nữa. Tôi chỉ thấy tiếc đến bồn chồn ruột gan, như là một nỗi đau khổ, tiếc đến đứt rnột những chương trình kế hoạch đang mở đầu hoạt động của tôi.
Những trận tra tấn mà tôi biết mình sắp phải trải qua vẫn chưa làm tôi bận tâm. Tôi nghĩ tới cuộc đấu tranh của Lê nin, của Đmitrốp trước kẻ thù, tôi nhớ lại những chuyện được nghe về tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Việt Nam khi bị bắt, rồi tôi tự xác định một cách gọn nhẹ, đơn giản là Không biết! Không biết! chỉ có thế cho đến chết...
Thế rồi cuộc chiến đấu diễn ra..
Tại sở mật thám Thái Bình, tôi đã qua gần một tháng trời thử thách, trực diện đương đầu với sự tàn bạo của kẻ thừ giai cấp. Chúng giam tôi qua ba nơi và ở mỗi nơi tôi lại có phát hiện mới mà truớc nay chưa hề nghĩ tới. Khi bị giam một mình ở một nơi riêng biệt (là cửa một chuồng xí) tôi luôn luôn căng thẳng chờ đợi, thoảng hơi thuốc thơm, tiếng chìa khóa tra ổ, một tiếng giầy, tôi đều chuẩn bị nhận một trận đòn thù. Rồi nhận ra quy luật hành sự của chúng, tôi lại chú ý tranh thủ những phút yên tĩnh. San khi tra tấn chúng vứt tôi và đóng cửa lại, bỏ mặc. Tối thiểu, tôi có mười phút yên tĩnh: Hoặc trong những bữa ăn hàng ngày, hoặc lúc chúng kéo nhau đi chơi bời hay lùng sục đâu đó. Những lúc như vậy tôi lại thả hồn vào một cuộc trốn táo tợn, phác một hoạt động cho chi bộ tôi phụ trách. Tôi hình dung ra một cuộc họp mặt sôi nổi, thắm thiết với mấy đứa bạn thân. Có lúc ước làm một Triệu Tử Long hay Tiết Nhân Quý để đảo lộn tình thế.
Thằng chánh mật thám trực tiếp hỏi cung tôi. Tôi vốn tự xem mình là con người bình thường. Trong buổi hỏi cung, tôi có được trạng thái bình thường và trả lời như thường. Chỉ đến những câu hỏi lục lọi của hắn thì tôi nói không biết. Xoay mãi, thằng Lanée-em lộ vẻ tức giận, đe dọa. Tôi vẫn đáp là: đã nói cả rồi còn các việc khác thì tôi không biết. Hắn lại giao tôi cho thằng Tây lai tên là Talông tra khảo. Thằng này có vóc người to khỏe, chân tay thân mình đẩy bắp thịt trông như một vận động viên có hạng, giữa lúc đó mà tôỉ cứ ao ước thầm là tập tành cho được như nó. Hắn biết tiếng Việt nhưng nói ngọng dấu. Xem ra hắn cũng lành nghề đồ tề lắm, thẳng tay đánh đập và chọn chỗ đích đáng trên người tôi để quất roi. Hắn xoay hỏi vặn vẹo, thì tôi bảo: tôi đã nói rồi, còn thì tôi không biết làm sao mà nói. Chiếc roi cặc bò trong tay hẩn lại vung vun vút. Mỗi nhát roi quất xiết lên da thịt rát bỏng như có lửa táp dao cắt nhưng chẳg mấy chốc chổ đó tê đi. Thằng Talông đổi chổ quất, khai thác cho hết sự đau đớn của cơ thể con người. Người tôi đầm đìa mồ hôi và máu, quằn quại dưới làn mưa roi... đến mức vãi phân vãi đái lênh láng. Bần thỉu hôi thối quá. Thằng Talông không chịu nổi phải ra lệnh đưa tôi đi.
Một dạo, chúng giam tôi chung với các đồng chí khác ở nhà giam lớn. Tôi sống qua những giờ phút tràn ngập tình yêu thương cách mạng. Sau buổi tra tấn trở về tôi được các đồng chí hết lòng nâng đỡ săn sóc như ruột thịt. Anh em nhẹ nhàng ôm ấp tôi, đỡ tôi nằm lên đùi để xoa bóp. Có lúc hết dầu xoa, anh em gom từng xu gửi mua ngoài về, tiếp tục xoa bóp cho toi. Đồng chí T. già ôm tôi trong lòng vỗ về: Khổ thân thằng con tôi. Nó đẹp thế này! Tôi đâu có nỡ đánh nó lấy một roi. Tiên sư đế quốc! Nó hành hạ con tôi... Sung sướng và kiêu hãnh, tôi nằm im trên bắp đùi xương xẩu của đồng chí già, lặng ngắm khuôn mặt nhăn nheo như khắc họa những ngày sóng gió của cách mạng thời kỳ 1930-1931 mà đồng chí từng trải qua và thường kể lại với lớp trẻ chúng tôi. Trong tôi, lắng đọng cái chất của cuộc đời đấu tranh, tình cảm bao la của con người chiến sĩ. Cùng lúc chúng bắt được chị cơ sở từng có cảm tình với tôi như tôi đã nói. Chúng dò la thế nào mà biết được chuyện đó. Thế là chúng đưa cả hai ra tra khảo cùng một lúc ở một chỗ. Đánh đập chán vẫn chẳng moi được gì chúng bày trò gợi ra cho chúng tôi cái viễn cảnh được tự do và vợ chồng sống với nhau cho thỏa. Cả hai chúng tôi chỉ im lặng nghe và rán sức chịu đau đớn. Tôi bắt đầu cảm giác người mình như cái bị vải, không còn cảm giác nhột, mà chỉ ê ẩm thôi. Thằng Talông thẳng tay quất đến vã mồ hôi mà tôi không còn cảm giác bị đốt bị cắt nữa.
Sức tôi cũng kiệt đi rõ rệt. Đến một hôm, chúng điệu tôi đi tra khảo. Vẫn những câu hỏi ấy và roi cặc hò vung vãi lên thân thể tàn tạ của tôi. Rồi chúng mang ra một bát cơm trắng cùng một bát cứt và đôi đũa
- Mày muốn ăn gì hả? Cơm đó, nói đi thì ăn. Không thì ăn cứt đi!
Tôi giận sôi lên buồn nôn nhưng quyết không để chúng kéo dài trò tra khảo này. Tôi bảo:
- Tôi không biết, làm sao mà nói! Rồi tôi thản nhiên bưng lấy bát cứt, cầm đôi đũa ghém lại như sắp và vào miệng.
Hắng, thằng Lanec thấy thế ngoảnh mặt đi. Tôi tiếp tục vun vén bát cứt. Lòng căm tức cũng giúp tôi bớt kinh tởm, càng nung nấu ý chí làm thất bại sự đểu cáng của chúng. Bữa đó mồm mép mặt mũi tôi đầy cứt và tôi cố tình làm vung vãi bál cứt, buộc chúng phải bó ra khỗi phòng. Chúng giở đến đòn tra điện. Tôi có nghe tả về đòn tra điện. Cái ma-nhê -to quay tay rít lên và dòng điện giật khắp cơ thể, buốt tận óc, buốt từng lỗ chân lông, cường độ giật tăng giảm theo tay quay mau hay thư thả. Ngày đó, bọn mật thám ở Thái Bình không có ma-nhê-to để tra. Chúng dùng đòng điộn thẩp sáng với các que sắt và lấy que đó quệt lén người tôi. Điện mạnh hơn nhiều, giật cũng kinh khủng hơn, để lại những vết cháy da thịt. Đau đớn lộng óc, buết không thể tả nổi, phần do điện giật, phần do da thịt bị đốt cháy. Tôi ngất đi khi nào không hay. Những giờ phút yên tĩnh - tức là không bị gọi đi tra tấn - tôi thường ngồi giữa các anh, các chị. Các anh bôi dầu, bắt chấy, các chị vạch từng tà áo bắt rận cho. Tất cả như đã quên hẳn tình huống của bản thân mà chỉ chăm lo cho tôi. Các chị trẻ tuổi cùng lứa kín đáo nhìn tôi lộ vẻ lo lắng pha sự khâm phục. Những ánh mắt đưa nhanh nhưng rất xao xuyến bám chặt lấy tâm tư tôi. Có lần chị S mạnh dạn đón tôi ở cửa chuồng xí để đưa tôi hai miếng kẹo lạc. Chị nói trong hơi thở gấp như cầu xin mà cũng như ra lệnh: ăn đi, cố giữ cho khỏe! Đến thời kỳ gay gắt nhất của đợt tra khảo, cứ đánh đập nhử đòn, chú dùng xích chặt chân tay tôi lại, vứt nằm còng queo tại dãy nhà để ô tô. Suốt ngày tôi chỉ rời nơi nằm khi chúng mang đi tra tấn hay khi tôi báo đi ỉa. Qua lại nơi này tôi chỉ thấy có người lái xe đến ngồi ở cửa đọc truyện kiếm hiệp và mấy đứa con lão đội L. gác nhà giam. Đến bữa ăn, một tù nhân mang cơm lại cho tôi. Người lái xe trạc tuổi ba mươi, trông mặt trái xoan trắng xanh với bộ tóc dày, mái tóc gọng kính vắt tai. Thoáng trông với cặp môi sắc nét và cằm vuông cũng có tướng lắm, nhưng nhìn kỹ thì rõ nét là một con người hời hợt thiển cận. Sáng sáng, anh tìm gặp lão L lấy chìa khóa mở gara, miệng huýt sáo huyên náo. Sau khi lau qua chiếc xe, thử máy nổ ròn là lẹ làng đi rửa tay rồi và nằm ngửa lên capô xe đọc truyện kiếm hiệp. Khi hứng chỉ cũng rên rỉ đôi câu vọng cổ, láy đi láy lại: Đời em nổi trôi như chiếc thuyền không lá. Hễ nghe chủ gọi, anh dạ vừa to vừa đằm và trình diện tức thời. Bất chợt chúng xuống thì anh như bị điện giật vừa đứng lập nghiêm kiểu cách nhà binh vừa chào to: Bông dua, xếp, theo sau là tiếng cười khạch khạch tâng nịnh ra mặt. Cứ như không có tôi đang co quắp trên nền gara. Nằm im, lặng ngắm anh, tôi không biết nên nói gì đưa chuyện. Sự tồn tại như vậy đã đến mấy ngày..
Đến hôm tôi hỏi mượn anh cuốn truyện thì anh nhìn tôi ra vẻ lạ lùng: Người anh em buổn à? Cũng thích đọc truyện sao? Anh đưa tôi cuốn truyện, không quên quảng cáo hết lời cho nó. Từ đó, cứ sáng tới mở cửa gara, anh không quên chào tôi Thế nào? Xa-va [2] chứ. Dù sao, giữa chúng tôi không còn băng giá. Nhưng rồi qua một sự kiện thì anh lại tránh mặt tôi. Hôm đó, như mọi lần, sau khi anh bông dua, xếp và cười nịnh thì tên chánh mật thám lại chỗ tôi nằm. Nó hỏi:
Thế nào? Mày có muốn chết không? Tao sẽ cho bắn mày!
- Tôi bình thản trả lời: Tôi không muốn chết. Nhưng bắn hay không là tuỳ ở các ông.
- Mày muốn sống thì phải nói!
- Tôi nói rồi và không có gì để nói nữa
- Mày dối trá!,
- Tùy các ông nghĩ.
Thằng chánh mật thám hầm hầm bỏ ra. Anh lái xe bàng hoàng nhìn tôi sau khi lấm lét nhìn tên chánh mật thám. Tên mật thám đã đi xa. Anh ngoảnh lại bảo tôi với một vẻ quan tâm mới:
- Chịu các bố thật! Cộng sản...
Từ đó anh không nằm ớ đầu xe, không ca vọng cổ. Chủ gọi, anh chạy ra ngoài đáp dợ chứ không dạ dòn tan như trước. Khi chủ xuống, anh cũng không nhiệt thành bông dua xếp. Và cái cười nịnh của anh cũng héo hắt trên đôi môi gượng gạo. Tôi bắt gặp những cái nhìn trộm đầy thiện ý của anh và tiếng hỏi người anh em đã thay bằng lời chào cậu mỗi sáng hai chúng tôi gặp mặt nhau.
Hôm tôi chịu một trận đòn kịch liệt, đến nỗi không lê bước được nữa. Đội L. phải dìu tôi về gara. Người tôi bê bết máu, dơ dáy, hắn cho tôi đi tắm ở gần nhà đang lúc vợ con nó chuẩn bị ăn cơm. Vợ chồng đội L có hai con gái là Thủy và Ngọc, đứa 10, đứa 8 tuổi. Hôm đó vợ đội L đã mời tôi một bát cơm và bảo em Thủy mang đến cho tôi. Hai em đã xúm lại bên tôi hỏi chuyện:
- Cậu có đau không, cậu?
- Cậu là cậu giáo có phải không, cậu?
- Tại sao cận 1ại thế này hở cậu?
Tôi chỉ biết cười và nói:
- Lớn lên lên các em sẽ hiểu.
Từ đó, các em gọi tôi là cậu giáo và nhiệt thành giới thiệu cậu giáo với bạn bè đồng lứa. Hàng ngày các em qua lại chỗ giam tôi và không quên vứt vào cho tôi lúc miếng đường, lúc cái kẹo, quả ổi... Chính đội L. cũng thay đổi cách đối xử với tôi bớt thô bạo đi.
Một buổi chiều, chỗ tôi thêm một người tù. Đội L bảo nhỏ với tôi rằng đó là tên tướng cướp mới sa cơ. Thế là bên tên tù cực kỳ nguy hiểm về chính trị, chúng nhét thêm tên tù nguy hỉểm về an ninh. Có thể chúng cho hai bên không dính dáng đến nhau nên nhốt chung cho tiện canh giữ.
Đây là một con người to con vạm vỡ, mái tóc đen dày, cờm cợp lút tai và gáy, dơ dáy, đôi mày rậm, trán ngắn và hẹp. Khi đến chỗ tôi, anh co rúm người, chân thất thểu bước, vẻ sợ hãi chưa tan, miệng hừ hừ liên hồi. Khi chỉ còn anh và tôi, anh ta cất tiếng bỏi:
- Cậu ơi! cậu... tội gì đấy?
Là tướng cướp phải là kẻ bản lĩnh cao cường, xem thường cái chết. Nhưng ở anh này tôi lại thấy dáng vẻ người nông dân bình thường, nhu nhược, sợ đòn tra tấn. Tôi cười hỏi lại:
- Tội tôi thì khó nói lắm! Bác là tướng cướp phải không?
- ấy nghề đời đói ăn vụng, túng làm liều. Mới mắc tội mắc nợ thế này!
- Sao bảo có gan ăn cướp, có gan chịu đòn kia mà...
- ái chà, thịt da nào không là thịt da. Mình đồng da sắt gì cho cam. Hôm nay, tôi phải chịu đòn xăng tan! ôi, chết! chết! Chịu sao nổi chứ! Cậu thư sinh thế này hằn chưa phải nếm mùi xăng tan nhỉ.
- Vô phép bác, một tháng nay tôi đã qua chừng 50 trận rồi.
- ủa! Cậu nói thật hay nói đùa vậy?
- Thế ban chiều bác không trông thấy lúc ăn cơm, tay tôi không cầm nổi đũa bát đấy à?
- à, à, phải. Này cậu ơi, thế cậu có biết đau không?
- Sao lại không đau! Nhưng bác bảo thế này đã là khổ lắm rồi à?
- Thế còn khổ đến đâu nữa? Cậu nhìn tôi đây này, chân xích tay xích, đánh cho vãi đái vãi cứt ra, cơm hôi, rau bã, ngủ vật vã khắp nơi thế này. Sống chết vợ con không hay! Vậy mà còn khổ thế nào hơn nữa, cậu? Xem ra cậu là người không biết đau đớn, không biết sướng khổ là thế nào hay sao ấy?
- Không đâu, bác ạ. Tôi cũng đau, cũng biết khổ, nhưng tôi nghĩ có khác bác.
- Cậu nghĩ thế nào?
- Tôi là cộng sản (hình như anh ta giật mình trong bóng tối). Tôi làm cách mạng là để thay đổi cả cuộc sống bất công này. Tôi biết trước thế nào cũng sẽ bị bắt, bị tra tấn, bị tù đày và. cũng có thể chúng sẽ bắn chúng tôi. Nhưng chúng tôi hiểu chúng tôi làm là đúng, là vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình và mọi người. Chóng chầy, chúng tôi sẽ thắng vì chúng tôi có đồng bào. Với chúng tôi thế này cũng là khổ và còn phải chịu vượt qua mọi khổ ải khác để cuộc sống chúng ta tốt hơn, đáng sống hơn.
Anh ta ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Thật là bụng dạ các cậu rộng bằng biển cả, bụng dạ mênh mông thật...
Sau đó, ông tướng cướp trở thành một học trò ngoan của cậu thư sinh. Nhân xin được thuốc lào ở dưới nhà giam đưa, tôi tặng anh ta. Và cái bụng dạ cộng sản mênh mông như biển cả lại càng được khẳng định.
Cuộc sống nào cũng để lại những chuỗi kỷ niệm vui buồn. Còn đây là những kỷ niệm một lần trải qua thì không bao giờ phai nhạt, là những kỷ niệm đã làm tôi hiểu rõ bản chất kẻ địch và cuộc chiến đấu với chúng tôi phải như thế nào. Giúp tôi nhận thức được đúng sức mạnh của mình, sức mạnh của cách mạng. ý chí của tôi được chắp cánh và những lời thơ của Tố Hữu cứ ngân vang:
Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc.
Là kỷ niệm về cách nhìn cuộc sống và sự làm người. Sự bình thường và cái khác thường chính là ở cái mục đính cuộc sống và cách sống của mỗi con người. Với tôi còn là kỷ niệm làm lòng tôi phơi phới. Sau một tháng thử thách đầu tiên sức chịu đòn tra. Trước sự hằn học, tàn bạo của kẻ thù, tôi đã trụ vững, đã bảo toàn được lực lượng cách mạng, đã giữ được trọn vẹn không để danh dự bị tì vết. Với chiến thắng đầu tiên này tôi thêm tin tưởng dấn bước. Ngẫm nghĩ kỹ, làm cách mạng mà vượt được đòn tra tấn của kẻ thù khi sa vào tay chúng cũng là điều hạnh phúc. Tham gia hoạt động ai cũng hiểu là rất có thể bị địch bắt và đòn chúng tra tấn thì có thể chết, nếm đủ mọi cực hình mà kẻ thù có thể nghĩ ra, thế những vẫn xem thường. Cái viễn cảnh đó còn là chất men ủ tính phiêu lưu mạo hiểm, ưa chất anh hùng của tuổi trẻ. Song khi phải trực diện đương đầu thì đó là cửa ải không phải ai cũng vượt qua được. Sự dao động quyến rũ lắm trước cực hình man rợ và thủ đoạn mơn trớn mua chuộc của kẻ thù, dù rằng dao động là thất bại, là chết nhục nhã.
Con đường dao động khơi ra mới đáng sợ nhất: là đầu hàng, là phản bội. Có những người đã dao động, đã trượt dài không gượng được trước sự thâm độc của kẻ thù và tuy là sống sót nhưng mỗi ngày sống là một ngày đau khổ, là sự nhục nhã ê chề trước đồng đội. Cũng là một cách thủ tiêu của kẻ thù đối với người cách mạng. Không thủ tiêu tính mạng thì thủ tiêu khí tiết, thủ tiêu danh dự và chúng biết cách tìm ra chỗ yếu của mỗi đối tượng để ra đòn. Trong số tôi quen biết, có đồng chí vốn là chỗ cốt cán rất được anh em tin cậy. Đồng chí lấy vợ là một cán bộ nữ rất đẹp. Khi vợ có mang thì chẳng may cả hai vợ chồng bị bắt (vào khoảng năm 1944). Địch biết đồng chí rất yêu vợ, thương con, chúng cứ nhè vào chỗ đó mà ra đòn và đã đánh gục. Khi cách mạng thành công anh vẫn được sử dụng làm cán bộ địch vận trong quân đội nhưng đời sống tâm tư thì rất nặng nề. Một đồng chí khác cũng hoạt động trước tôi, từng là cán bộ phong trào liên tỉnh. Bị địch bắt, những ngày đầu anh tỏ ra thật kiên cường. Đánh nứt thịt tóe máu, hỏi gì anh cũng nói: Revolutionnaire. Hai bên đối đầu và cầm cự nhau cứ như anh là người đồng da sắt. Đến một hôm, đòn địch ác liệt quá, anh buột miệng kêu đau. Kẻ địch thành thạo tra tấn và cũng nhạy bén trong sự nắm bắt diễn biến của tâm lý, chúng càng đánh dữ dội hơn để khoét sâu nỗi đau bắt đầu hành hạ anh. Từ một lời kêu đau thốt ra anh đã ngã gục trước cơn đau mà địch khai thác đến cùng, đánh đòn và mua chuộc. Anh cố gượng chống đỡ. Chúng vùi dập dữ hơn. Anh tuyệt thực chúng đợi đến lúc anh phải ăn. Địch có nghệ thuật dấn lên để anh buông xuôi hơn, bnông xuôi nữa. Và cuối cùng là anh dẫn chúng đi bắt đồng chí. Nhiều cơ sở anh biết đã bị vỡ. Anh ăn năn hối hận, nhưng hành động do sự yếu hèn của anh gây ra cho các đồng chí, cho cách mạng thì làm sao mà tháo gỡ được. Đây là sai lầm không có phương nào sửa chữa! Có một lần anh đã tâm sự với tôi Tớ là loại anh hùng cá nhân. Nó đánh mình đầu óc cứ như long ra, toàn thân ê ẩm tê buốt. Có lúc như tắt thở đến nơi và để buột ra tiếng kêu đau. Các trận đòn sau đẩy mình tới trạng thái buông xuôi với ý nghĩ như bài Quốc văn: Người đi đôi giày mới trên đương lầy học từ hồi còn bé. Càng gượng càng trượt dài đến chỗ mặc nó tới đâu thì tới. Cái anh hùng cá nhân của mình đã nhục nhã như vậy! Rút được bài học phải lượng sức mình thì đã chậm rồi.

HẾT CHƯƠNG 4 XEM TIẾP CHƯƠNG 5
CHƯƠNG 5:  NHỮNG KỶ NIỆM TRONG TÙ
Do tôi chống án vào mùa thu 1942 địch chuyển hồ sơ của tôi lên tòa thượng thẩm Hà Nội để xử lại. Khi từ biệt mẹ, tôi nói: Không bao giờ con ở hết 15 năm tù đâu. Mẹ cứ coi như con đi học xa, dăm năm rồi về thôi.
An ủi mẹ, tôi nói vậy nhưng thâm tâm cũng tính toán rằng: hết 15 năm tù, tôi mới 30 tuổi, còn trẻ chán để tiếp tục hoạt động.
Cảnh sống ở Hoả lò đã hút chúng tôi vào cuộc đấu tranh để sống còn. Có đến 70% tù nhân ốm đau. Có đồng chí mất máu nặng, chân tay cứ tím dần đi rồi chết. Trai tráng như tôi mà ngồi xuống đứng lên cũng lảo đảo, mất đổ đom đóm. Cuộc đấu tranh trong nhà tù không thể không có, song quá mới mẻ với lớp trẻ chúng tôi. Tôi vốn có sức khỏe, nhanh nhẹn, lại ham hoạt động. Các đồng chí lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm chú ý bồi dưỡng cho tôi. Đêm đêm, các đồng chí rủ rỉ nói chuyện bày mưu tính kế mọi đường. Cùng với một số anh em còn trụ lại, tôi được giao làm trật tự để lo đối phó mọi mặt. Tâm trí chúng tôi lúc này là suy nghĩ tổ chức đời sống, sẵn sàng đối phó với kẻ địch. Song vẫn thấy xúc động bồi hồi khi nghe tiếng guốc đi về đêm khuya với tiếng rao bánh chưng nóng sáng tinh mơ trong thơ Tố Hữu, nhưng lúc đó tôi xem như đã bước hẳn vào giai đoạn tù. Cuộc chiến đấu trước mắt là bảo vệ đời sống, tổ chức học tập, giữ vững lòng tin.
Thế rồi đoàn đồng chí Đ. (Tức Trần Đăng Ninh) vào, mang theo một không khí sôi sục. Anh nói chuyện Mặt trận Việt Minh, nói khí thế quần chúng đấu tranh. Tôi thấy anh Đ. không coi nhà tù là cái gì cả. Anh để lại trong tôi hình ảnh một chiến sĩ kiên cường bất khuất. Mình bận chiếc áo ngắn tay cùng chiếc quần đùi. Cánh tay bắp chân của anh gân guốc chắc nịch. Anh như quá tù túng khi rảo bước giữa hai cây bàng già cỗi trong sân nhà tù, đầu anh to, tóc cắt ngắn, cằm vuông với mấy sợi râu hung hung chĩa thẳng. Trên cặp môi dày thỉnh thoảng nở nụ cười chua chát cay đắng cho tình thế. Mắt anh hình nhài quạt, vẻ u uất nặng nề. Người anh nhự tạc bằng đá hoa cương, sẵn sàng xông pha bão tố, sẵn sàng chịu đựng và vượt qua mọi thử thách gian truân. Tư thế ấy, nét mặt ấy, tôi nhớ y nguyên trên đường đi Sơn La và những ngày đày ải tại đó. Anh vẫn thế trong chiến dịch Biên giới sau này.
Với những nét độc đáo, anh Đ đã thành hình tượng hấp dẫn, khuyấy động tâm hồn bọn tôi lúc ấy. Tôi còn được tham dự nhóm anh tổ chức vượt ngục và đã tham gia tích cực vào đó. Kế hoạch là đội lốt một lớp học chính trị với khoảng hai mươi ngày, do anh Đ. phụ trách, thời gian huấn luyện hơn hai mươi ngày, tập hợp vào một phòng nhỏ trong góc nhà tù chính trị. Chúng tôi phải tìm cách đào được một đường hầm để thoát ra ngoài mà địch không biết, đồng đội không hay. Hai mươi con người mới biết nhau, quen nhau từ khi mặc áo tù, những từ lúc tập trnng vào lớp đã gắn bó thành một khối chặt chẽ. Cảm tưởng của chúng tôi là hồi hộp, háo hức như một đoàn quân chuẩn bịt tấn công với tinh thần quyết tâm cao nhất để chọc thủng nền nhà lao Hỏa lò để mở một con đường hầm xuyên móng nhà tù mà ra.
Thực tế đã cho chúng tôi thấy mọi tính toán sai lệch quá xa. Cả nhóm đã họp lại bàn bạc, xem xét mọi mặt và quyết định thôi! Anh Đ cười cười, vỗ vai bọn trẻ chúng tôi, an ủi: Khó thật đấy! Thua keo này bày keo khác. Cần gì! Từ đó lớp học được tiến hành đúng với yêu cầu huấn luyện. Nỗi háo hức được vượt ngục chuyển thành ý chí phấn đấu mới, thầm lặng hơn nhưng vững chắc, sâu sắc hơn bao giờ hết.
Có hôm, tại nhà lao Hỏa lò, anh em vui chuyện cả vào giờ tắt đèn. Tên giám thị xuất hiện và không tiếc lời chửi bới, xúc phạm tù nhân. Là trật tự, tôi liền đứng ra phản đối lại. Hắn lập tức đi báo cáo với cấp trên. Tôi bị giám ngục Tây gọi ngay lên và phạt nằm xà lim một tháng. Vẫn hằn học, hắn xúi bẩy phải cùm tôi cả hai chân. Thế là giữa cái giá rét mùa đông, hai chân đút vào cùm, tôi phải nằm giữa sàn xi-măng không cho chăn chiếu trong hai tuần liền m ay mà còn mang theo được thêm một bộ quần áo tù. Tôi lấy áo trùm kín đầu, còn chiếc quần tôi đắp lên hai ống chân. Có đỡ lạnh chút ít và cũng ngăn được muỗi. Muỗi xà lim vừa nhiều, vừa dữ. Song, đến khoản rệp thì phải chịu bó tay. Đánh hơi lạ, chúng từ khe cùm kéo ra rúc vào mọi nơi mà cắn. Chỉ khi căng tròn như hạt đỗ đen thì mới chịu yên. Tình thế cứ như nằm giữa tổ kiến vàng. Tôi nhớ đến câu chuyện có tù nhân chết vì rệp cắn. Hai ống chân chỗ bị cùm rệp cắn nhiều quá thành sâu quảng không chữa khỏi mà chết. Thực hư ra sao không rõ, nhưng lúc này chỉ còn có cách cắn răng chịu đựng, lũ rệp đang châm chích khắp người.
Các xà lim khác cũng đầy người nhưng đều là thường phạm: có số vì gây gổ đánh nhau, phá quấy gì đó nên bị nhốt. Còn một số thì bị liệt là tù số đỏ nghĩa là đã bị bắt nhiều lần, nguy hiểm, phải giam cấm cố.Lần đầu tiên nằm xà lim, tôi rất bỡ ngỡ, nhưng chỉ có một mình, chả biết hỏi ai. Cơm có anh em nhà bếp mang tới. Còn nước có sẵn cả một gáo, phần để uống, phần dành để làm vệ sinh khi đi đại tiện. Hết thì họ lại đổ vào đầy. Tôi vốn bị lòi dom. Cảnh sống này thì bệnh càng dày vò.
Cả đêm và ngày, hai chân trong cùm, nằm nghĩ miên man đủ thứ chuyện. Nhớ lại chuyện bọn phát xít Đức hại tù chính trị bằng cách nhốt mỗi tù nhân trong từng xà lim mà trần và vách vẽ chi chít các vòng tròn với nhiều màu sặc sỡ. Cảnh tượng đó dần dần làm người tù loạn óc mà phát điên lên. Tôi tự nghĩ mình mà bị như thế thì cũng gay go đây. Nhưng điên thì chưa chắc!
Tôi lắng nghe những tiếng nói vọng tới xem có thể bắt chuyện với ai đó được không. Rồi tôi để ý đến lời nói chuyện của một anh chàng đang ba hoa bốc đồng. Hắn đang bốc phét pha tiếng Tây giả cầy đầy và đắc chí. Các xà lim khác xuýt xoa ra vẻ thán phục cậu này lắm. Tôi nảy ý nghĩ chọc ngang anh chàng ba bị này, cho có chuyện làm quen. Tôi lên tiếng hỏi:
- Này, anh nói tiếng Tây ơi, xà lim số mấy đấy!
- Số 6 đây, thằng nào hỏi gì đấy? 27 à!
- Anh số 6, chào anh, chuyện anh xem ra bố láo lắm. Mà tiếng Tây của anh thì càng bố láo đấy, học đâu ra vậy! Dân ta sẵn tiếng ta, việc gì dặm tiếng Tây giả cầy thế. Nghe chướng tai làm sao!
Có lẽ tôi là người đần tiên đã dám đụng đến uy danh một cõi cho nên hắn ta giẫy lên như đỉa phải vôi:
- ái chà, đ... mẹ thằng nào dám bảo ông là bố láo, giả cầy đấy, thằng nào xưng tên xem thử.....
- Này! vừa vừa thôi. Số 2 đây.
Giọng số 6 hơi dịu:
- Số 2 hả, mới vào hả! Tên gì, tội gì, tội gì đấy? Đâu tới hả!
- Trại D đến đây.
Nói đến trại D là cả nhà tù đều biết là nơi nhốt tù chính trị. Giọng số 6 bỗng trở nên nhẹ nhàng, bắt quen:
- Chính trị à! Thế thì em xin lỗi anh nhé. Đúng anh ở trại D tới à? Sao anh kín tiếng thế, em đâu biết!
Liền đó, các xà lim khác cũng nhao nhao hỏi thăm thật vui vẻ. Thế là tôi đã giao lưu được rồi. Và tai vạ cũng đến liền ngay. Sáng hôm sau số 6 lên tiếng hỏi:
- Anh số 2 ơi, cho chúng em nghe một bài hát của các anh đi. Rồi dạy bọn em với Các xà lim khác đều hưởng ứng lời đề nghị đó. Nó cũng gãi đúng chỗ ngứa của tôi. Tôi bèn lấy giọng hát to bài Tam bình. Đây là bài hát tủ của cán bộ thời đó
Bớ công nông, phất cờ lên
Đồng tâm chiến đấu giết loài sài lang
Theo ngọn cờ Mác Lênin
Phen ni mình quyết ra tay...
Này, hận này là hận sau cùng...
Tay đánh nhịp vào cùm, tôi hát với tất cả sự hăng say của tuổi trẻ. Lời ca vang vang trong xà lim, không khí trở thành nghiêm trang, hùng tráng. Cả dãy xà lim lắng nghe. Nhớ lại những một mặt hừng bừng hưng phấn, những ánh mắt rực sáng trong các cuộc mít tinh trước đây khi tôi hát bài này, tôi hình dung ra các khuôn mặt ở các xà lim lúc này, hẳn họ cũng đang bị lời ca thu hút khích lệ bản thân tôi cũng bốc lên, càng hát càng hăng hơn, say sưa hơn.
Bỗng miếng sắt nhỏ ở cửa xà lim tôi kêu soạch, cùng lúc một bộ mặt hiện ra rồi biến ngay. Tôi cũng kịp nhận ra thằng giám thị. Bíết là sẽ có chuyện chẳng lành, song sự hăng say vẫn nâng tiếng hát bay lên, vời vợi.
ít phút sau, một tên giám thị Tây hùng hổ chạy tới. Chẳng nó chẳng rằng hắn đánh tôi túi bụi bằng dùi cui. Tôi vừa gắng đỡ vừa phản đối lại: Tại sao lại đánh tôi tôi không làm gì mất trật tự. Nó cứ nện liên hồi. Tôi hiểu ra đây cũng là đòn trả thù của tên giám thị Đ. Trận đòn qua. Tôi tính cách đối phó lại. Các xà lim lại tới tấp tiếng hỏi thăm:
- Anh số 2 ơi! Nó đánh anh có đau lắm không,. ì
Đòn tù thù địch, ác liệt thật, song lại không làm người tù sợ. Nhiều anh em sau đó nài nỉ tôi dạy họ hát. Tôi đọc từng câu và họ rì rầm nhẩm lại đến thuộc lòng. Thế là chỉ ít hôm sau, cả xà lim đã thuộc bài hát. Từ đó bài hát đã thành là một sức mạnh của từng người, của cả dãy xà lim. Mấy hôm sau, tự nhiên tôi nổi máu cất tiếng hát, bởi sự thúc bách biểu lộ đồng cảm với anh em tù thường phạm, bởi như để chống lại một cái gì đó. Thằng giám thị Tây lại tới. Lần này, tôi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt nó và to: Đả đảo khủng bố, đả đảo đánh đập! . Thật sung sướng cho tôi! từ các xà lim bên cạnh, có tiếng hô hưởng ứng ngay. Tên giám ngục tức giận, giậm chân giậm cẳng, chửi bới ầm ĩ, nhưng không ra đòn. Hắn lúng túng, tránh ánh mắt của tôi, lấm lét nhìn quanh xà lim. Nhác thấy bộ quần áo tù tôi mang theo xếp để đầu sàn, hắn giận giữ vơ lấy và không quên trị tôi: phạt cả tháng cùm hai chân!.
Thế là hình phạt cùm nửa tháng nay kéo dài ra cả tháng. Dẫu sao với tôi cũng là một trận thắng. Anh số 6 thường gọi tôi để hỏi chuyện. Anh em ở các xà lim đã hát bài hát tôi truyền lại. Tôi liền bổ sung tiết mục ngâm thơ. Nhớ được bao nhiêu thơ của Tố Hữu, tôi dã ngâm giới thiệu cả. Tôi đọc và giảng giải kỹ hai bài Tâm tư trong tù và bài Hai đứa bé. Anh em ở dãy xà lim chăm chú nghe và tán thưởng. Còn tên giám thị thì từ đó vẫn tỏ ra hằn học với tôi những khi chúng tôi sinh hoạt , hắn đều lảng tránh như không hay biết. Suốt cả một tháng nằm xà lim cùm hai chân, tôi chỉ được đi tắm và thay quần áo có một lần. Tôi bị đi lỵ nhưng xin thuốc tên giám thị phòng không cho. Sau một tuần đi lỵ người tôi mệt quá, nghĩ chỉ còn cách chữa mẹo. Tôi quyết định nhịn ăn hai ngày liền sau đó chỉ ăn cơm với muối trắng. May sao, thế mà khỏi bệnh! Rồi cả cái tháng chịu hình phạt xà lim, cùm cả hai chân ấy cũng qua di. Với tôi không phải là thời gian vô nghĩa. Dường như lôi vừa khám phá ra một điều mới mẻ chưa hề biết. Đó là tình cảm quý mến, khâm phục của anh em tù thường phạm đối với tù chính trị. Hễ có người hết thời gian nằm xà lim, trước khi đi đều gửi tôi lời cho thân ái. Có tù mới đến thì anh em lại kín đáo giới thiệu với họ: số 2 là lù trại Đ đến... có nhiều bài hát, bài thơ nghe hay lắm! Những điều này làm tôi rất xúc động. Tôi cũng hiểu ra sức mạnh của cách mạng. Những bài hát, những lời thơ cách mạng có sức lay chuyển, thức tỉnh lòng người sâu xa đến vậy. Hôm tên giám thị Đ vào tháo cùm cho tôi, hắn vẫn hằn học đe:
- Cẩn thận! Không chừa thì còn nhiều phen được cùm!
Chẳng bận tâm! Tôi còn mải từ giã các bạn mới của tôi, lòng xốn xang một niềm vui khó tả. Vui vì hết hạn cùm xà lim, được trở về trại D đầy vinh dự với đồng chí mình. Vui vì một tháng tôi có thêm những bạn mới mà tiếng hát lời thơ cách mạng đã gieo mầm mới biết đâu là bước ngoặt cho cuộc đời họ. Trong năm 1942 đó, chúng nó đày chúng tôi lên Sơn La, chuyến đi tổ chức thành đoàn mà chúng tôi gọi là công voa tù. Từ Hỏa Lò chúng dồn tù lên ô tô hàng để đi Hòa Bình. Chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo việc tuyên truyền, trưng thu của các anh em tất cả khăn mặt màn đỏ tra vào những que ngắn làm cán. Lúc xe chạy qua các phố đông người chúng tôi giương ra làm cờ đỏ, đồng thời hát vang quốc tế ca và các bài hát cách mạng. Mọi người qua đường, sống dọc các phố xe đi qua đều bằng những cử chỉ kín đáo thể hiện với chúng tôi lòng cảm tình. Còn phía chúng tôi thì cố gắng bằng cách nói với nhân dân rằng đây là tù chính trị. Qua phố Khâm Thiên, tôi thấy có một cô gái dáng tiểu thương, mình bận áo tứ thân cứ chạy theo xe chúng tôi. Chị ta gào:
- Anh Diện, anh Diện!
Thì ra người ngồi bên tôi chính là Diện. Anh ta lộ vẻ rất xúc động. Tôi hỏi:
- Ai gọi anh đấy?.
Anh bảo nhỏ:
- Em gái tao, con ông cậu.
Sau này, khi chúng tôi trốn tù ra thì chính anh Diện đưa đến trốn ở nhà ông cậu. Chị này vốn có cảm tình cách mạng nên đã nhận đi liên lạc, bắt mối với anh Lưu đức Hiểu, rồi nhận chỉ thị của anh Hiểu về cho chúng tôi.
áp tải đoàn tù là một thiếu úy người Pháp. Hắn còn rất trẻ, mới từ Pháp sang, vừa hung hăng vừa lộ vẻ lo ngại. Chúng tôi hát, hắn chạy lên chạy xuống quát tháo ầm ĩ. Hắn chạy tới thì đầu hàng lắng lại, nhưng ở cuối hàng giọng hát lại bốc lên cao và cứ thế ngược lại làm hắn tức tối. Từ đầu cầu phao đi vào thị xã Hòa Bình, chúng tôi vẫn hát như thế. Mặt mũi tên thiêú úy non đến thảm hại. Nó nhét đoàn tù vào trường tiểu học. Mỗi phòng học nó nhốt mấy chục người, bắt khép kín cánh cửa kính lại. Các cửa đều có chấn song. Chúng tôi tuyệt thực không ăn đòi hắn để cửa mở cho khỏi bí hơi. Trong chuyến đi này có sẵn hai người đại diện của đoàn tù là ông Đào Năng An và ôn g Bùi Lâm. Ông Đào Năng An tuy có khai báo nhưng vẫn được tín nhiệm giao việc, ông là một nhà trí thức, nói tiếng Pháp rất thành thạo. Ông Bùi Lâm cũng thạo tiếng pháp, từng sống lâu năm ở Pháp nên ông thạo cả tiếng lóng và phát âm như người Pháp.
Khi chúng tôi đòi để cửa mở, lúc đầu thằng thiếu úy không chịu. Cả đoàn tuyên bố tuyệt thực. Hai ông đại diện đối thoại với nó, lý lẽ sắc bén, có tình. Sau cùng hắn chịu nhượng bộ, cho mở cửa và giao hẹn:
- Mở cửa thì các anh ăn chứ?
- Đồng ý! - Chúng tôi trả lời.
Vì đấu tranh giằng co lâu, nên trời đã tối, bữa cơm quá muộn. Anh em bụng đều đói. Được tù nhận ăn cơm, tên thiếu úy mừng rỡ, nó hối thúc gánh cơm vào. Gánh cơm năm chục người ăn mà chỉ có năm, bảy cái bát và chừng ấy đôi đũa. Các cấp trật tự liền đứng ra thu xếp số người ăn mỗi lần theo số bát đũa. ăn xong đi rửa sạch sẽ giao cho người được cử tiếp theo. Với cách đó, bữa ăn đã diễn ra trong trật tự, vệ sinh chặt chẽ, không hề chen lấn, lộn xộn. Cái kỷ cương bất ngờ này đã làm cho tên thiếu úy ngạc nhiên thật sự và bọn lính đâm ra nể tù.
Hôm sau cuốc bộ lên đường, chúng tôi vẫn hát, có bài hát bằng tiếng Pháp, lúc hùng dũng, lúc dịu dàng, đến mệt mới thôi. Đám lính tỏ ra thích thú, thấy anh em yên lặng đi, chúng lại nhắc:
- Các anh hát đi cho nó đỡ mệt,
Còn tên thiếu úy thì không lộ vẻ hung hăng nữa. Hắn đi lên đảo xuống cuối đoàn tù, ôn tồn hỏi chuyện. Nó sửng sốt thực sự khi thấy đông tù nhân đã trả lời nó bằng tiếng Pháp, không tồi. Chuyến đi chia thành nhiều chặng nghỉ, cách nhau khoảng 20 - 25km, có chặng dài nhất là 32 km. Đi được hai ba chặng gì đó thì trời tối vừa lúc tới một cái bản. Đoàn ghé lại nghỉ đêm ở đó. Các ông đại diện đã tranh thủ nói chuyện với tên thiếu úy Pháp. Hắn bảo vừa ở Pháp sang, chưa hiểu gì về Việt Nam cũng như về Đông Dương. Hắn thú nhận rằng:
- Nhận nhiệm vụ này, với tôi là việc rất phức tạp. áp tải một lúc hơn 100 người tù chính trị đi hàng trăm cây số, lại qua vùng rừng núi, tôi lo lắm. Tôi phải tỏ ra nghiêm khắc, phải trấn áp mới giữ được kỷ luật, thế mới hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng từ Hỏa Lò lên đến đây, tiếp xúc với các anh tôi thấy hoàn toàn khác với những điều mà tôi đã được căn dặn nhiều lần với nhiều quan chức thuộc địa. Trước hết tôi thấy các anh phần đông có học, có hiểu biết. Đặc biệt là cả đoàn đã tỏ rõ sự tôn trọng kỷ luật. Bữa cơm tối ở Hòa Bình làm tôi suy nghĩ nhiều lầm. Thú thật, trong hoàn cảnh lúc đó, sự lộn xộn, chuyện dành nhau ăn trước, ăn nhiều, tôi nghĩ là điều dĩ nhiên. Thế mà các anh tỏ ra rất văn minh, rất kỷ luật, cứ như một đội quân được rèn luyện kỹ càng. Sau mấy ngày đường tôi càng hiểu các anh. Dù chưa tới nơi, tôi cũng thành thật nói là rất yên tâm và cảm ơn các anh đã giúp tôi hoàn thành trách nhiệm.
Giữa đôi bên như thỏa thuận với nhau cách thức tiếp tục chuyến đi. Tay thiếu úy tỏ ra dễ chịu nhiều. Còn bọn lính thì lộ vẻ nể anh em tù. Lên tới cửa nhà tù Sơn La thì gặp thằng giám ngục Lơ Bông. Hắn đang đứng đó. Người hắn to béo. Trái với cái tên ông tốt bụng hắn là một tên thực dân đúng bản chất, gian ác và tàn bạo. Tên thiếu úy báo cáo chuýến đi, nhiệt thành khen đoàn có kỷ luật, biết giữ trật tự và có học. Chỉ vào tôi, lúc đứng ở đầu đoàn:
- Anh này nói tiếng Pháp tốt lắm, rất tích cực.
Thằng Lơ Bông giật phắt cái dùi cui trong tay người lính đứng cạnh hắn, nện vào đầu tôi và chửi:
- Quân mất dạy! Cu soong!
Nhà tù Sơn La lúc ấy đang nhốt đến năm trăm tù nhân, trong đó tù chính trị kể cả đoàn chúng tôi có đến 300. Các anh Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy, Trần Huy Liệu... một số đông khác đang bị giam giữ tại đó. Số tù kinh tế chừng 200 bị nhốt riêng, cách biệt với chúng tôi. Lúc đó tù chính trị cũng có hai loại: số đông là cộng sản, một số khác là Quốc dân đảng hoặc Đại Việt, có số gọi là tù Lạng Sơn đưa về. Gọi như thế vì cơ sở của họ ở Lạng Sơn bị vỡ lở, họ bị bắt. Sự phân biệt là ở miếng vải xanh đính ở ngực. Tù cộng sản mang miếng vải hình vuông, còn số còn lại là hình quả trám. Sự phân biệt này quan trọng lắm. Lính tráng cũng như dân chúng đều nể số vuông và tỏ ra thiếu cảm tình với số chéo .
Về việc quản lý nhà tù, đứng đầu là tên giám ngục, có một phụ tá già - tôi nghĩ lão chỉ là quản gia của giám ngục. Tù nhân thường gọi lão là bố già . Lão không có gì đặc sắc, cũng không hiểm ác. Khác với tên giám ngụ Lơ Bông, đúng là một tên thực dân hung ác và hiểm độc. Nó lấy tù lên làm văn thư cho nó. Khi chúng tôi lên thì người làm văn thư đang là anh Đào Đình Luống tức Nguyễn Đức Quỳ quê ở Thuận Thành (Bắc Ninh). Sau này cách mạng thành công, anh là thứ trưởng Bộ Văn hóa và đã mất. Anh rất giỏi tiếng pháp và thạo công việc văn thư, được giao giữ sổ sách và sắp đặt công việc ở nhà tù. Cũng nhờ anh, chúng tôi có được những tin tức cần thiết.
Nhà tù ở sát trại lính. Chỉ huy lính là một giám binh hàm quan một, quan hai gì đấy. Thằng giám binh này cũng cùng thằng giám ngục cai quản tù nhân. Còn đội lính khố xanh bên đó chính là lực lượng kiềm chế tù. Vọng gác trại lính trên cao kiểm soát sân nhà tù. Nhất cử nhất động không lọt qua được mắt lính canh. Bên nhà tù có cử một người làm y tá, nói là để giúp việc cho trại, thực chất là để giúp tù nhân. Lúc đó, anh Sao Đỏ đang đảm nhiệm công việc này. Anh Sao Đỏ- tên thật là Nguyễn Lương Bằng, mọi tù nhân đều có cảm tình, tôn xưng anh là anh Sao Đỏ hay anh Cả. Đến những người lớn tuổi hơn, chức trách cao hơn như anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt cũng gọi là Anh Cả, với ý nghĩ anh ấy là anh lớn trong tập thể. Từ đó cái tên Anh Cả trở thành bí danh của anh Nguyễn Lương Bằng. Anh trở thành y tá là từ chủ trương của tù nhân chính trị. Anh làm y tá nên có điều kiện huấn luyện cho một số đồng chí để anh em tù chăm sóc sức khỏe, bảo vệ nhau. Việc này không dễ. Học hỏi thì có sách chuyên môn hoặc có ai đó biết nhiều ít thì chỉ vẽ cho anh em khác. Nhưng đến việc thực hành, kể tù tập tiêm thì đáng ngại lắm. Có điều vì thương yêu nhau nên sẵn người tự nguyện đưa cơ thể mình để anh em luyện tập. Anh em đó nghĩ rằng nếu chẳng may mình có bị làm sao thì về sau đồng chí mình cũng tránh được tai họa. Đến đoàn tù chúng tôi lên cũng có tổ chức rèn cặp một số y tá mới. Chính anh Sao Đỏ đã huấn lnyện nhóm tôi và anh Hoàng Minh Chính, là lớp trẻ lúc đó. Chúng tôi cũng đưa đùi, chìa mông ra cho nhau thực hành tiêm thuốc chữa bệnh.
Anh Sao đỏ làm y tá, đã giúp được rất nhiều cho anh em tù vì y tá là có quyền liên hệ với trạm xá khai báo thuốc men, lĩnh thuốc cho anh em. Vì thế anh em cần thuốc gì thì báo với y tá chạy lo chto. Sơn La thời đó, bệnh sốt rét đái ra máu mà bây giờ gọi là sốt rét ác tính, đang hoành hành. đã bị sốt rét ác tính đái ra máu là dễ chết lắm. Nhưng cùng căn bệnh mà ở hai trại lại có hậu quả khác nhau. Nếu như ở bên trại tù, trung bình cứ mười người bệnh mới có một ca tử vong, ngược lại ở bên trại lính tình hình nguy kịch hơn nhiều, có tới chín người chết. Vì sao thế. Khi ngả bệnh sốt rét thì người tù được sự chăm sóc hết sức chu đáo của đồng đội. Ngoài anh Sao Đỏ y tá thì còn có đội Hồng thập tự do anh em lập ra. Và người bệnh được được chăm sóc 24 trên 24 giờ. Thường trực luôn có 4 người trông nom bệnh nhân, xoa bóp người cho đỡ tê mỏi, chăm lo vệ sinh chu đáo bất cứ lúc nào. Chế độ ăn uống cũng được quy định, chia làm ba cấp, cháo, cơm. Sốt 39 độ trở xuống thì gọi cháo đường. Ba ngày ăn như thế bệnh không đỡ thì được hưởng cháo cứu tế, tứ là cháo tim gan ăn với nước mắm thượng hạng. Cháo nầy ăn rất ngon nhưng chẳng ai mong muốn cả. Vì đã đến thế là thập tử nhất sinh rồi! Cơm cũng chia ra các cấp như vậy Cơm cứu tế là để bồi dưỡng cho những ai qua cơn ốm quá nặng để mau lấy lại sức.
Ông Bùi Lâm được giao phụ trách bếp, nấu cơm cứu tế, vì hồi ở pháp ông làm bồi bếp nên nấu ăn rất giỏi. Sau khi lo cho các bệnh nhân ăn uống ngon lành chu đáo phần ông thu dọn nồi chảo nấu. Thứ liếm được ông dùng lưỡi, nếu không ông dùng ngón tay quẹt sạch và đàng hoàng mút ngon lành. Anh em nhìn thấy cười nhạo. Ông thản niên cãi:
- Chúng mày ngu bỏ mẹ. Nói là thức ăn cao cấp thì đây mới thực là thứ cao cấp vì mọi tinh chất thực phẩm đều lắng ở đáy nồi. Sao lại bỏ phí.
Ông Bùi Lâm, mà về sau có thời làm chánh án tòa án tối cao, rồi đi làm đại sứ bên Đức, là người có phong cách sống rất thực tế và cởi mở.
Nhớ lại hồi còn ở Hỏa Lò Hà Nội, một thời kỳ anh em tù nhân phần đông bị lở bìu dái, nó cứ đỏ như quả cà độc dược, sưng tấy. Cho vải quần đụng phải là đau đến dàn dụa nước mắt. Anh em có sáng kiến tháo hết đũng quần đùi làm váy thì có dễ chịu hơn. Riêng ông Bùi Lâm đơn giản, thản nhiên đánh truồng. Ông lại là đại diện tù, chẳng lẽ ra tiếp giám thị, giám ngục mà cứ tồng ngồng như thế, ông bèn dặn chúng tôi
- Hễ chúng tới tìm, thì báo tao hay, để mặc quần làm việc.
Cái bệnh đến kỳ lạ. Anh em nghe ai mách bảo cách nào cũng theo chữa đều không khỏi. Tây cấp thuốc bôi cũng chẳng hiệu quả gì. Hằng trăm con người như thế trông khủng khiếp lắm. Thế rồi một thời gian sau, tự nhiên bệnh lành, cứ như cơn dịch bay qua.
ở Sơn La, chúng tôi còn lập ra một tổ chức lo nội thương và cả ngoại thương. Mấy ông được cử ra phụ trách kinh tế ở nhà tù sau này đều thành cán bộ kinh tế cao cấp của Nhà nước cách mạng, như ông Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân hay như ông Đặng Kim Giang làm Tổng cục Hậu cần quân đội nhân dân, ông Đổng là giám đốc nhà máy xi-măng Hải Phòng. ở nhà tù hoạt động kinh tế chủ yếu là buôn bán. Sự tháo vát, sáng tạo là tìm ra cách buôn bán ở nhà tù. Buổi đầu là bắt mối với các bà buôn có cảm tình với tù chính trị. Có bà thân mật với anh em đến nỗi người ta gán với ông Khuất Trí Tiến, ông Trần Đình Long, đùa là người tình , vì hai ông được giao trách nhiệm tiếp xúc với hai bà. Hai bà này lúc đó cũng chỉ ba, bốn mươi tuổi, là vợ công chức sống dư giả nên còn bắt mắt chán. Họ buôn hàng là: guốc Phi Mã , tức guốc cao gót, đang là thời trang của thiếu nữ Hà Nội, do tù chúng tôi chế tác. Mỗi lần được phái vào rừng lấy củi là chúng tôi chọn gỗ. Khi số đông anh em lao dịch thì số có tay nghề tập trung đẽo guốc. Guốc Phi Mã Sơn La rất ăn khách, làm bao nhiêu đều bán hết. Chúng tôi khai thác nguồn hàng ở các bản quanh trại: mộc nhĩ, nấm hương, mật gấu, mật ong, rừng có gì thành hàng hóa là chúng tôi thu gom gửi bán cho khách Hà Nội. Tiền đó hai bà lại mua hàng theo đơn của chúng tôi đặt như vải vóc, kim chỉ, đồ trang sức, đồ chơi. Chúng tôi kín đáo đưa hàng ra các bản với nhiều phương thức thích hợp: bán lâý tiền ngay, trao đổi hàng cũng có, ký gửi hàng cũng có...
Hàng may đo của chúng tôi rất được tín nhiệm. Các công chức và gia đình họ rất thích đặt chúng tôi may quần áo, kể cả việc đóng bộ đại lễ bằng tít-suy hay nhung vóc đắt tiền. Chúng tôi có thợ may tay nghề cao. Chính anh em từng làm ở các tiệm nổi tiếng ở Hà Thành như Sác Mốt Tràng Tiền. Là tù tất nhiên cái khó khăn chính là không có máy may. Mọi hàng đều khâu tay, nhưng chính điều này là cái giá không tìm được ở bất cứ hiệu may nà o. Cho nên các tay trưng diện lại rất ham có được bộ đồ may ở nhà tù Sơn La. Hàng cắt may kỹ và giá rẻ, giao đúng hạn. Sự tín nhiệm dày lên với năm tháng, đến mức các vị công chức đều thích mời tù thợ tới nhà đo may. Tiền công thu được khá lớn. Những hoạt động kinh tế kiểu trên đây chúng tôi đều nghĩ là ngoại thương tức khách hàng đều là người ngoài nhà tù. Giữa anh em tù cũng dần già phát sinh nhu cầu trao đổi. Ai đó có người nhà gửi cho thứ gì mà không dùng tới, muốn trao đổi, muốn mua bán thì có nội thương chứng kiến và thu phí theo % giá trị hàng hóa. Khi bị đưa đày Sơn La, anh em đã dự kiến cuộc sống sẽ cam go gấp bội so với lúc ở Hỏa Lò (Hà Nội). Anh em đã chủ động nghĩ cách tự cứu là làm kinh tế. Rồi cái khó chẳng bó nổi cái khôn, mà ngược lại càng làm anh em vắt óc tìm ra những nguồn việc mà trước đó chẳng ai nghĩ tới.
Hết sức kỳ công là chúng tôi tổ chức cất được cả rượu bán. Nhớ lại hồi ở Hỏa Lò có chế độ mắm, mè, trâu, đậu . Đấy là thực đơn hai ngày một. Ngày thứ nhất thì sáng ăn cá mắm, chiều cá mè luộc - sang ngày thứ hai: sáng thì thịt trâu luộc, chiền có món đậu phụ luộc. Thực đơn này cứ nối tiếp hết tuần, hết tháng đến hết năm. Ngày chủ nhật đặc cách có món thịt lợn luộc. Thức ăn làm cho tù cho nên không những đơn điệu về món mà còn nghèo nàn về hương vị. Sự chế biến cũng rất là lao tù. Chúng tôi có tranh biếm họa cảnh ăn thịt trâu. Hai tù nhân miệng cắn hai đầu miếng thịt bằng nửa ngón tay còn chân thì đạp vào ngực nhau để thêm sức mà giằng miếng thịt đứt ra làm hai! Còn thịt lợn thì chỉ sợ nó bay biến, phần mỗi người một miếng bằng nửa bao thuốc lá và thái mỏng tanh như tờ giấy. Cá mè luộc thì nửa sống nửa chín, đậu phụ thái ra thì có nhân thạch sùng. Rau muong luộc còn bám đầy trúng cóc, ăn phải là chết. Cơm thì chúng dùng nước vôi để nấu, nước lã pha vào suýt thịt trâu. Nhà bếp đã tiếp tay cho giám ngục hành hạ tù nhân chúng tôi như thế. ăn uống đã vậy, anh em còn bị đau ốm liên miên, ghẻ lở đầy người. Chẳng còn biết trông vào đâu được vì mục đích của tù ngục thực dân là hành hạ tù nhân để khuất phục họ.
Lúc đó tôi làm trật tự, bàn cách cứu tình trạng này bằng cách cải thiện bữa ăn. Chúng tôi thỏa thuận với nhau thực hiện cộng sản trong ăn uống . Ai có người nhà tới thăm nuôi thì tất cả các thứ nhận được đều tập trung, phân phối tùy theo sức khỏe và nhu cầu của từng người, phân phối từ quả chuối đến miếng giò và cả thuốc hút nữa. Kế đến, chúng tôi tổ chức chế biến lại bữa ăn hàng ngày. Cái khó là dụng cụ để nấu nướng. Cơm tù thường được đựng trong thùng gỗ cao 30 phân. Còn thức ăn thì đựng bằng cà mèn sắt tây, hay tôn lá. Ngày đó chưa có cà mèn nhôm. Sau một thời gian chúng tôi đã giấu, lấy được mấy thùng gỗ và ít cà mèn. Cả quần áo thủ được khi nhà, tù phơi ngoài sân. Thế là tích luỹ được nhiên liệu và dụng cụ cần thiết. Cả trại đồng lòng nhịn một bữa không ăn, dồn thêm các thức ăn người nhà thăm nuôi đưa cho, chế biến lại cho ngon miệng và nấu kỹ. Kết quả thật là khả quan. Ai cũng cảm thấy bữa ăn ngon hẳn. Rồi một tuần sau số người đau ốm giảm rõ rệt và mặt ai cũng tươi tỉnh. Nhưng sự yên vui của tù nhân là điều giám ngục phản đối. Việc một số thùng đựng cơm mất hút rồi số cà mèn cũng thu không đủ, chúng đã đi khám và tìm ra mưu kế của chúng tôi. Từ đó chúng tuyên bố cấm và chú ý kiểm tra hơn. Tuy việc nâng chất lượng bữa ăn chỉ tồn tại một thời gian ngắn nhưng tác dụng thì lâu bền. Anh em khỏe ra và năng động khắc phục hoàn cảnh. Tôi vốn ham làm báo. Nhân dịp Tết đến, tôi chủ trương ra tờ báo Xuân. Trước hết tôi nhắn ra ngoài gửi cho mấy tập giấy học sinh, mực tàu và bút. Việc này chỉ trại chúng tôi bàn định, thế mà tin lại lọt sang cả bên tù phụ nữ. Có một bà tài hoa xinh gái được nhiều người chú ý, đã gởi thư sang tôi xin tham gia viết báo và đề nghị tờ báo Xuân nhất thiết phải có phần đề tài phụ nữ. Tôi nhớ lại bìa số báo do tôi vẽ. Trong sân nhà tù Hỏa Lò vốn có hai cây bàng lâu năm, đang mùa đông, bàng rụng hết lá, trơ những cành. Tức cảnh này tôi trang trí bìa báo Xuân bằng hai cành bàng không lá bằng mực tàu đen. Chữ xuân bằng mực đỏ nổi bật làm cho bìa rất ấn tượng và bao hàm nhiều ý tứ. Số đó bên, phụ nữ cũng góp máy bài làm tờ báo thêm hấp dẫn, phong phú. Ngoài ra, còn có buổi diễn văn nghệ và tôi cũng thuộc lại diễn viên có hạng về đóng giả phụ nữ. Để làm tóc chúng tôi lấy quần áo gỡ ra thành sợi đem nhuộm hắc ín, khéo nhuộm, khéo chải cũng mượt và quyến rũ lắm. Lúc này đang diễn ra chiến tranh Pháp - Xiêm và thực dân Pháp bắt dân mình phải ra trận. Chúng tôi đã dàn dựng vớ kịch tỏ thái độ phản đối cuộc chiến tranh đó. Phản đối việc bắt dân Việt Nam phải chịu đựng chết chóc. Trại tù là một gian nhà dài chừng hai ba chục mét với hai bệ xi măng và lối đi. Trong trại có bảy mươi tám mươi tù nhân, mỗi người được một chiếc chiếu và một chiếc chăn chiên. Để dựng sân khấu chúng tôi khâu chăn lại, thứ dựng làm cánh gà thứ làm màn. Bố trí một người ngồi trên thành cửa sổ vắt vẻo để kéo màn, vừa canh chừng người nhà lao. Hễ chúng đi tuần thì giật dây bỏ màn xuống. Nhóm bên dưới thu dọn cất ngay. Đạo cụ trang trí sân khấu thì chúng tôi xếp các thùng đựng cơm rồi phủ chăn lên làm bàn, ghế, làm kệ... đủ thứ. Vì biểu diễn ở nhà dài nên chỉ dân nhà dài được xem. Hễ bọn tuần tra đến thì theo sự phân công, mỗi người một tay xóa ngay hiện trường. Còn diễn viên thì lủi vào góc tường nơi đặt thùng xí. Đó là hai cái thùng khá lớn, thừa sức đựng chất thải và ai đi thì cả phòng nhìn thấy. Điền đó cũng tiện cho tôi. Vì là trật tự, tôi phải quản lý bảng danh sách làm vệ sinh thùng. Có quy định như sau, mỗi đêm có nhiều người dùng tới thì theo danh sách mà điều bốn người đi đổ, còn đến chỉ hai người thì sáng hôm sau tự họ phải đưa chiếc thùng đi đổ.
ở Sơn La, hàng ngày người tù ra ngoài nhà tù làm việc. Nếu đi nhặt củi thì sáu người một xe bò. Mỗi xe lấy vài khúc củi chở về là được. Còn việc chẻ củi cho nhà bếp đã có tốp khác. Như thế thì cứ tìm được một cây củi là đủ tiêu chuẩn cho cả tuần lễ. Và chúng tôi có nhiều thì giờ để tìm hiểu dân tình quanh vừng hay đi khai thác hàng. Thường là những anh em thạo tiếng địa phương làm việc này. Dần già, Chúng tôi cũng tích lũy thành quỹ cải thiện đời sống. Ngoài bữa ăn thường ngày, tù chúng tôi còn đặt ra cả chế độ mỗi tuần có tiệc nhỏ. Ngày chủ nhật thì làm phở, bánh cuốn hoặc là cà phê bánh ngọt. Còn hàng tháng có tiệc to đủ măng, miến, mộc nhỉ, có cả giò chả... chẳng thua gì tiệc quê. Phải thừa nhận trong anh em mỗi người đều, có tay nghề của mình, khéo khêu gợi, khéo tổ chức thl họ dễ dàng thay đổi cuộc sống tù đầy. Tôi nhớ có lần cả nhà ba trăm con người cùng chén một bữa thịt chó y như kiểu đặc sản thịt chó nổi tiếng bây giờ. Bữa ăn dùng đến bảy, mười con chó to. Làm sao mà kiếm đủ cho cả trại. Đội nguyên liệu đã đi thăm dò nguồn và ngã giá mua trong dân. Lựa hôm trời lất phất mưa, họ đem áo tơi đi làm như mọi ngày. Lúc trở về cũng lụng thụng áo tơi đẫn ướt và bê bết bùn. Khi qua cổng thành tất có lính khám. Thế mà tốp chạy nguyên liệu vẫn đưa chó qua trót lọt. Thì ra trong số quàng áo mưa các anh em được giao nhiệm vụ đã cột chặt chó vào người rất gọn gàng. Lúc qua cổng họ lại khéo léo sắp xếp thu hút lính chú ý vào các điểm đã bố trí. Thế là cả đàn chó lọt cổng êm thấm, đến nỗi những anh em không được giao trách nhiệm này cũng chẳg hay biết. Cho nên như tới khi thấy lũ chó thì đã sửng sốt thật sự, cứ như từ trên trời rơi xuống. Các thứ gia vị cũng theo chó vào đầy đủ. Việc huy động người làm không khó. Vừa đưa ra lời dạm hỏi:
- Thằng nào làm chó!
Thì đã nhao nhao lên, đến hàng chục người:
- Tao! Để tao! Có tao mới thành nhựa mận!
Và họ thật sự lành nghề. Công việc chế biến thịt món nào ra món ấy, nấu nướng cứ êm ru. Chỉ có mùi thơm tỏa ra ngào ngạt làm ai cũng nhỏ nước giãi. Đó là những tiệc trong nội bộ tù với nhau. Đến bữa tiệc tết anh em mời cả các cai ngục. Có thể thằng quản nó cũng đánh hơi được nhưng nó cứ lờ đi vì bới ra thì chúng tôi cũng sẵn sàng đối phó lại. Cả hai bên đều chưa quên những cuộc đấu tranh gay gắt trong nhà tù. Ngay trước ngày đoàn chúng tôi chuyển lên thì Sơn La vừa trải cuộc đấu tranh có tên gọi là Xếp! đờ lô . Cuộc đấu tranh nổ ra (ngày l3-5-1941) vì tên giám ngục Sơn La rất tàn bạo, khắc nghiệt. Nó cố tình đầy đọa tù nhân về mọi mặt, hòng khuất phục, cứ như để trả thù. Anh em tuyên bố tuyệt thực. Nó đểu cáng hảo: Chúng mày nhịn ăn thì tao cho nhịn uống luôn! Nó nhét cả mấy trăm tù nhân xuống hầm ca-sô. Dưới đó chỉ có chục chiếc xà lim cùng một hành lang hẹp. Mỗi xà lim diện tích không quá hai mét vuông. Khi chúng tôi tới anh em thuật lại rằng, chỉ chen chân đứng, không thể nào ngồi được. Đã vậy nó lại không cung cấp nước. Nóng nực và đói khát cháy họng. May trời mưa, mọi người dơ quần áo ra hứng thấm nước rồi vắt chia nhau hớp một. Ngày bí quá phải uống cả nước tiểu. Gay go thế nên ngày đêm ca-sô sôi sục tiếng đòi hỏi:
- Đ mẹ, Xếp! đờ lô! Xếp! nước uống (Chef, de leau)[3]. Đờ lô đã thành là tiếng gọi của cuộc đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh này không thắng lợi hoàn toàn ngay sau đó, vì cuối cùng không chịu nổi anh em đòi nó phải đưa lên. Nhưng về sau những nguyện vọng của tù nhân từng bước nó đều thỏa mãn. Chúng tôi sau đã được hưởng thành quả của các cuộc đấu tranh trước đó. Đòi đọc báo, nó cấp báo. Đòi tự nấu lấy ăn, nó cũng thỏa thuận. Như thời ở Hỏa Lò, ăn bếp nhà thầu thì khổ không tả nổi. Tù nhân tự nấu lấy còn quản ngục cung cấp thực phẩm, tính tiêu chuẩn theo đầu người rồi nhân lên theo số tù trong ngày. Căn cứ vào đó, nó giao cho tù tổng số ký thịt theo đầu lợn trâu, rau thì lấy theo số ký ở vườn do tù làm, theo mức quy định. Tất nhiên.. anh em đâu chịu bó tay vì vườn tù làm nhiều rau và ngon nhất. Anh em cũng biết cách xoay sở để ăn cho thỏa thích. Sơn La thời đó có mấy loại vườn rau: vườn tù,vườn sứ, vườn trại lính. Mỗi vườn cung cấp theo đối tượng. Còn gạo thì theo đầu người, ngày là sáu lạng hoặc năm lạng rưỡi, tính ra thành thóc, nó bắt các bản quanh vùng nộp. Chúng tôi tổ chức xay giã lấy.. Thóc các bản phần lớn là thóc nếp. Cho nên chúng tôi phải thổi xôi. Chỉ có ngày tiệc lớn mới có dịp được ăn cơm tẻ. Là thóc nếp lại được xay giã nên có số gạo dôi ra, chúng tôi dùng để cất rượu. Rút kinh nghiệm cuộc đấu tranh Xếp! đờ lô anh em chú ý đến sự tích trữ các thứ để đủ sức đương đầu với sự tàn bạo của kẻ thù. Tôi không rõ các ông ấy đã làm như thế nào, nhưng tôi phát hiện lúc tới đã thấy các đầu tường, các góc nhà đều có hiện tượng trữ nước. Đến lúc nấu ra nhiều rượu quá, anh em tìm cách trữ lại cho các ngày lễ, ngày tết bộ phận phụ trách thì tìm cách dấu, còn anh em khác không được phân công thì xem như không hay biết. Hai lần tôi ở trong số liên quan tới công việc cất dấu. Tôi phụ trách nhà xay với mấy cối xay - nếu nay thì cũng là giám đốc nhà xay kia đấy. Tôi nhận thóc với định mức: 10kg thóc ra 7 kg gạo, 100kg thóc làm ra 70kg gạo, nhưng thực tế gạo thường nhiều hơn nên xay giã có dư hơn 5 -7kg, chưa kể khi cân gạo cho mình chẳng tội gì cân đúng, thường cân dôi ra. Cho nên số dư tích lại cà nhiều. Việc khiêng gạo cũng do tù làm, khênh bằng những đòn ống bương to, chắc, dài hai mét, (độ ba gióng, mỗi gióng sáu bảy chục phân). Bên trong chúng tôi thôm hết mắt thế là mỗi ống là một kho trữ gạo. Khi tôi phụ trách nhà xay, ông Bùi Lâm làm thủ kho. Giữa hai bên đã thỏa thuận cách thức lấy cắp gạo ở kho. Khi ông Lârn gọi:
- Độ ơi đem trả tao mấy đòn ống mày mượn hôm trước.
Theo lệnh, tôi mang hết ống sang. Đến hôm sau tôi hét tướng lên:
- Anh Lâm ơi! Cho mượn vài đòn ống đi khênh gạo
- Sang mà lấy!
Ông Lâm hét lại.
Thế là mấy đòn ống tôi giao sang rỗng thì nay vác về đầy gạo, cũng chục cân mỗi ống. Nhờ vậy khi quản ngục vô cớ hạ mức ăn của tù thì chúng tôi vẫn có thể ăn no để giữ sức.
Cuộc sống ở nhà tù của địch là như vậy, là một thứ đấu tranh trực diện ở mọi lĩnh vực, cho nên người cách mạng phải biết tổ chức giỏi và có sự lãnh đạo đúng đắn, kiên định mới hạn chế được sự đầy đọa của kẻ thù. Tôi xin kể lại cái tết nhà tù Sơn La năm 1942 sang 1943 để ta hình dung khả năng tổ chức kỳ lạ ấy. Bản thân tôi trực tiếp tham gia và đã không khỏi lác mắt. Công việc lo Tết giao cho tiểu ban xã hội và vật chất. Và họ đã làm thế nào thì không ai rõ. Nhưng giáp tết thấy hàng tết cứ chuyển về ùn ùn, cứ như đi chợ tết bên ngoài. Tiêu chuẩn đặt mỗi người hai cái bánh chưng, một nửa hay là một phần cân giò, có cả bóng, mực, đậu xanh cùng nhiều thức khác. Suốt ba ngày Tết, bữa nào cũng là tiệc và có đủ rượu ngon. Cả ba trăm con người đều đầy đủ như thế. Ngoài ra còn đem biếu cai ngục và biếu các cơ sở cảm tình. Ba ngày Tết, chế độ ăn uống đã vậy, anh em còn tổ chức nhà tù thành một nơi vui chơi, thu hút lính tráng, cư dân quanh vùng tới: Vui xuân ở đây trở thành hấp dẫn nhất thị xã. Các sòng bài, sòng bạc thu hút mạnh số cai và lính sát phạt nhau. Muốn đánh bạc ở đây thì phải dùng tiền nhà tù, anh em được phép đứng ra đổi cho khách chơi cứ như một ngân hàng vì có chiết khấu. Ban sáng anh đưa 10 đồng ra đổi thì được chừng 8 đồng tiền nhà tù. Có tiền anh có thể đem chơi bài, đánh bạc, ngoài ra có thể mua các thứ hàng ở căn tin như rượu, bánh, mứt. Đến chiều anh muốn đổi tiền nhà tù lấy tiền lưu thông thì tỉ lệ đó ngược lại. Cách này tạo ra một nguồn thu đáng kể. Còn một tiết mục do anh Xuân Thủy phụ trách là mở nhà hàng cô đầu. Và đặc biệt là chú ý đến vai trò tiếp tân để câu khách. Mấy cậu đẹp trai được chọn đóng con gái, tết tóc, má phấn môi son, mình mặc áo dài, chân đóng guốc cao gót, cũng mời chài, chuốc rượu, để chúng sờ soạng, tán tỉnh y như tiếp viên bây giờ. Thế mà cũng có khách ra trò. Có điều thú vị là, có một ông tên là Nguyễn Sinh biết rõ ông Lam là tiếp viên trai giả gái mà cứ mê mẩn. Nguyễn Lam ngồi đâu là tìm cớ sán lại tỉ tê, còn đánh ghen với bất cứ ai ngồi gần Nguyễn Lam. Ông ấy là một nhà thơ, không rõ sau ông làm gì, đi đâu! Bạn ù còn vậy, huống hồ bọn, lính tráng, quan binh càng hám gái, ham vui. Chúng tôi còn tổ chức diễn kịch bằng tiếng pháp để bọn Tây xem.
Nhà tù Sơn La cũng có trại dài khoảng 30 mét. Cách thức như trại dài ở Hỏa Lò. Còn trại hai gian hình vuông rộng vài chục mét và trại ba gian rộng hơn một ít. Mấy ngày Tết, chúng tôi thi nhau trang hoàng trại thật rực rỡ. Trại dài biến thành nhà hát. Tất cả việc đó chỉ làm trong đêm ba mươi tết là phải xong. Công việc lại không dễ.. Tường nhà tù thì phân nửa phía dưới vốn sơn hắc ín, nửa trên lâu ngày không sửa sang quét dọn nên rất bẩn. Thế mà sau một đêm, toàn bộ biến thành mầu hồng chạy chỉ vàng. Trại dài thành nhà hát mang biển tên pháp Palace với hai cành hoa đào giao nhau đóng khung trang trí, những lẵng hoa treo đây đó càng làm cho mặt tiền thên rực rỡ. Không rõ ban tổ chức xoay xở như thế nào mà sân khấn cũng có màn nhung thật sang trọng. Hồi đó tôi ở cùng phòng với anh Nguyễn Lương Bằng. Đó là phòng hai gian, trang trí thì cũng là hoa lá với câu đối Tết. Trọng điểm là làm sao để cho cái chuồng xí trong phòng đỡ chướng mắt người lui tới. Thế là nảy ra sáng kiến sửa lại cửa màn be và treo lên đó cái biển tiêu phòng chỉ rõ mà lại lịch sự nữa. Bên trại tập trung thì cải tạo thành nhà hát cô đầu cùng sòng bạc phục vụ máu đỏ đen của giới quan chức và lính tráng. Nhà hát cô đầu với bốn hoa khôi (trai giả gái) đã làm say đắm hao nhiêu khách tình, đến phải ngạc nhiên. Với tôi từ bé đến lúc ấy chưa bao giờ có cái tết no nê, ngon lành và hấp dẫn đến thế. Càng ngẫm nghĩ, tôi càng phục sự tháo vát và tài tổ chức của các ông ấy. Cũng có người lừng khừng, nhưng nói chung là hào hứng với sự phân công.
Thời chúng tôi mới lên thì thằng Cút Xô là chánh mật thám, đang làm công sứ Sơn La. Cút xô nổi tiếng một thời là tên diệt cộng và đàn áp tù nhân không run tay. Tiếp nó là thằng Robe trẻ hơn, có vợ người Huế. Mụ này mang em gái theo để trông con cho chúng. Hàng ngày nhà tù phải đưa người sang bổ củi, quét vườn, trồng rau và gánh nước. Chúng bắt cử cả một kíp tù để gánh nước cho các gia đình công chức, giám ngục, chọn tù chính trị làm bồi bếp cho nhà sứ, nhà giám ngục và giám binh. Với công sứ thì một bồi một bếp, còn lại là một tù nhân kiêm làm bồi bếp. Anh Nguyễn Thanh Bình lúc đó làm bồi bếp cho giám ngục rồi giám binh. (Sau này anh làm bộ trưởng bộ thủy lợi). Cứ một ngày lại phải cử bốn tù nhân, đó là những người có thể đảm đương công việc và quan trọng hơn là phải biết tiếng Pháp để giao dịch với chúng, hiểu được điều chúng sai bảo. Mặt mũi cũng cao ráo cho dễ coi. Có lần tôi cũng bị sung vào đội gánh nước, quét vườn cho nhà công sứ. Chẳng hiểu mụ vợ Việt của nó nghĩ thế nào nhưng đã tỏ ra có cảm tình với tù trong lúc chồng nó đi làm vắng. Cô em thì lấy cơm nguội bảo chúng tôi ăn cho đỡ đói. Nó bảo
- Các anh phải chịu đói. Tôi thương lắm!
Tất nhiên chúng tôi khước từ:
- Không! Chúng tôi không ăn. Cơm chúng tôi cũng đủ và tươm tất hơn ấy chứ.
Điều chúng tôi muốn nó hiểu là lòng bất bình. Ngày ấy chúng tôi mới 17 - 18 tuổi sàn sàn như nhau, cô em cũng cùng lứa với chúng tôi (khoảng 15 - 16 tuổi). Điều làm chúng tôi bất bình là nó cứ như là ở lớp người trên cao sang rủ lòng thương kẻ nghèo hèn. Nó cũng biết chúng tôi là thanh niên có học nên cũng có ve ngại, nể nang. ở lứa tuổi chúng tôi thì những chuyện lặt vặt như vậy cũng thành vấn đề để gán ghép chế diễu nhau, là chuyện tếu gây vui của tuổi trẻ. Còn những ông phụ trách điều hành thì nghiêm lắm và cũng chẳng lạ gì cảnh sống nhàn cư. vi bất thiện của giới phụ nữ nhà quan chức. Các ông ấy có cách để khống chế họ và bảo vệ anh em, không bị sai phái, lợi dụng quá giới hạn.
Đại khái cuộc sống ở nhà tù Sơn La là như thế. Cũng c6 một cuộc tuyệt thực cải thiện tình hình sinh hoạt trong tù. Rút kinh nghiệm lần trước, cuộc đấu tranh này ta tỉnh táo đưa ra yêu sách với sự chuẩn bị điều kiện để duy trì sức đấu tranh cho đến thắng lợi. Nguồn nước cầm hơi có dự trữ đủ dùng. Chi bộ còn bố trí môt số tù không tham gia để có thể hỗ trợ. Lần đó anh Xuân Thủy ở khu tập trung, đứng ngoài để lo nước nôi cho anh em, anh còn lo được cả nước đậu xanh, và nước trái cây cho số tuyệt thực.. Vì vậy tôi tham gia nhịn ăn đã năm ngày mà sức khỏe vẫn đảm bảo. Thực tế thì khó chịu nhất là ngày đầu, cái đói cứ muốn bẻ gãy ý chí đấu tranh. Sang ngày thứ hai có dịu đi chút ít nhưng cũng vẫn day dứt, phải gắng quên lãng cái đói đi. Sang ngày thứ ba thì xem như không nhịn nữa, không còn cảm giác đói và cũng chẳg có nhu cầu ãn. Tôi còn mải mê tham gia làm tờ báo đấu tranh với đầy đủ tin tửc sốt dẻo, sáng tác thơ ca thật là say sưa. Hôm cuộc đấu tranh kết thúc thắng lợi. Nó tới tháo cùm, với cảm giác hoàn toàn khoẻ mạnh, bình thường, tôi đứng phắt dậy và bị ngã quỵ ngay. Anh em liền mắng cho:
- Sao ngu vậy. Nằm mấy ngày nhịn đói rồi vùng dậy như vậy, có chết cũng phải.
Thế mới rõ cái cảm giác khoẻ mạnh như thường là ý chí thôi, còn về sinh lực thì đã bị ảnh hưởng nặng lắm.
Sau đó nhà bếp dọn cháo ra. Nhìn thấy cháo, cái đói bị đánh thức, thôi thúc ăn ngay. Tôi vốn có bệnh lòi dom chưa khỏi. Nhận được bát cháo tôi phù phù vài cái và húp đánh soạt gần hết bát. Vừa nuốt xong thì cháo chảy ra hậu môn nguyên xi. Đáng lý tôi phải húp dần và nuốt từ từ thì dạ dày và một mới hấp thụ được.
Thế là đời tù tội của tôi có hai lần tham dự đấu tranh, một lần ở nhà tù Hỏa Lò, tôi ở trong ban chỉ, đạo đấu tranh, chỉ độc cầm hơi bằng nước lá nên rất khó chịu. Còn lần này thì có sự chuẩn bị khá chu đáo nên có nhẹ nhàng hơn những vụ nghe kể ở Kômtum, Côn Đảo, và đem so với cuộc đấu tranh đờ lô ở Sơn La trước đó thì lần này bảo tồn được sức của anh em và đấu tranh đến thắng lợi.

HẾT CHƯƠNG 5 XEM TIẾP CHƯƠNG 6
CHƯƠNG 6 THOÁT KHỎI GÔNG XIỀNG

Tôi lên nhà tù Sơn La được hơn một năm. Vào khoảng cuối năm 1943, bọn thực dân Pháp có chủ trương chuyển dần một số lớn tù chính trị ở Sơn La đi Côn Đảo. Cho đến trước tết âm lịch, chúng đã đưa đi hai chuyến và đang chuẩn bị chuyến thứ ba, tôi phong phanh nghe tin như vậy.
Thực tình, từ lúc bị bắt, tư tưởng vượt ngục chẳng buông tha tôi. Hễ thảnh thơi là nó lại trỗi dậy. Có lẽ cũng là tâm trạng chung của một số đông lớp trả hiếu động. Tôi và Trần Diệp, chồng bà Lê Minh, rất tâm đầu ý hợp. Cả hai trạc tuổi nhau. Diệp tên thật là Khuê, cũng có mặt cùng tôi trong chuyến đào hầm vượt ngục ở Hỏa Lò. Chúng tôi ở gần nhau và đặc biệt là có chuyện nói với nhau không dứt.. Khuê cũng ham đọc truyện như tôi và cũng lắm tưởng tưởng kiểu học sinh. Khuê con nhà giàu, họ hàng cũng giầu nên bàn với tôi và được tôi nhiệt liệt hưởng ứng một kế hoạch vượt ngục đến là tân tiến ly kỳ. Khuê có bà chị tên Thanh, ở Hà Nội, mà tôi cũng có biết. Theo kế hoạch đó, chị Thanh sẽ thuê một ô tô du lịch lên Sơn La mang theo hai khẩu súng săn, hai bộ quần áo săn với đầy đủ giấy tờ, chị tìm nghỉ lại ở khách sạn tỉnh. Đến hôm chúng tôi ra rừng lấy củi sẽ báo chị địa điểm hẹn đón chúng tôi. Hai đứa lên ôtô thay quần áo rồi cùng chị dông thẳng về Hà Nội!
Để dự phòng, chúng tôi còn một kế hoạch ít hiện, đại hơn, như sau: Chị Thanh cùng một người nữa mang hai chiếc xe đạp lên Sơn La. Với xe đó chúng tôi sẽ phóng về xuôi. Đến Hòa Bình chúng tôi sẽ dựng dấu vết một vụ tai nạn, rồi lẩn vào rừng. Chị Thanh đợi ở một địa điểm xa đó để đưa đi tiếp. Khuê còn phấn chấn bàn là ra ngoài rồi chưa vội bắt liên lạc với tổ chức mà dành hẳn một năm tập cưỡi ngựa, đánh bốc, đấu kiếm, tập bơi, bắn súng lục để có bản lĩnh cao cường đối phó lại mọi tình huống bất trắc. Chuyện này cũng ly kỳ nhưng tôi không bắt bằng chuyện vượt ngục và ít nhiều tôi đã trải qua hoạt động quần chúng hơn Khuê, dù sao cái chất lãng mạn vẫn là giấc mơ đẹp. Thỉnh thoảng tôi lại dặn dò Khuê: Kiếm được súng lục, cho tớ với! Cậu nhớ bày tớ cách cưỡi ngựa nhé!...
Những câu chuyện như thế cột chặt chúng tôi lại như hình với bóng, xì xào không thôi. Chúng tôi làm các đồng chí trong chi bộ lo ngại. Và hình như có người theo dõi, tìm hiểu để ngăn chặn chúng tôi. Rồi ông Lê Đức Thọ chú ý đến tôi. Không biết ông từ đâu đến. Một hôm, ông Thọ vỗ vai tôi, nói chuyện rất chân tình, như người anh dặn dò đứa em nhỏ. Ông đề nghị tôi vào Đảng lại với điều kiện không được manh động, mà nên tham gia các hoạt động khác trong tù như ra báo chí, làm công tác xã hội..
Mùa thu năm 1943, tôi được chi bộ nhà tù Sơn La xét kết nạp vào chi bộ nhà tù. Sự kết nạp lại là chung cho mọi đảng viên tới nhà tù Sơn La sau khi qua thử thách một lần nữa. Vừa qua là thời kỳ tôi đang được thử thách mà tôi không biết nên cứ loay hoay như thế. Tôi trở lại say sưa hoạt động theo chủ trương của chi bộ.
Đến một hôm, đó là ngày 5-8- 1943, như mọi sáng sớm khác, các cửa trại tù mở tung để chúng tôi đi làm. Tôi ở trại Hai gian, cùng nơi anh Sao đỏ. Tôi không thấy nón của anh đâu cả, trong lúc cả dãy nón còn nguyên vì chưa ai đi làm. Khi xếp hàng điểm danh cũng không có anh Trân và anh Đ cũng vắng. Vẻ mặt các đồng chí trong ban lãnh đạo lộ vẻ nghiêm trọng. Tôi lưu ý sự thiếu tự nhiên của một số đồng chí khi nói cười. Chiều tối, bọn cai ngục lùa chúng tôi vào trại, cáu kỉnh điểm danh. Chúng lộ vẻ giận giữ tức tối. Chúng tôi tụm năm tụm ba bàn tán. Tôi tự hài lòng với sự tinh mắt sáng ý của mình.
Thực dân Pháp lấy nhà tù Sơn la làm nơi giam tù cộng sản là có lý do xác đáng. Sơn La nằm heo hút hẻo lánh giữa núi rừng trùng điệp, đường sá khó khăn, người Kinh lác đác. Ngoài lính khố xanh canh gác tù còn có một số trại lính khố đỏ và lê dương đóng bên thị xã. Chúng nắm chắc hệ thống phìa tạo và địa chú quanh vùng. Cứ có tù trốn là các bản đều đựợc báo động, trai tráng bị đẩy đi lùng từng khu suối lạch rừng, các trạm đón lõng được lập ngay ở mọi lối. Chúng treo giải thưởng 100 đồng cho ai đem được thủ cấp tù trốn về, 50 đồng cho ai bắt được tù trốn. Nãm 1942, ngay trước cửa nhà tù, địch đã treo đầu từ trốn trại để khủng bố. Đây là hai đồng chí tự động bỏ trốn, không thuộc thung thổ địa phương, không người dẫn đường, không chuẩn bị gì cả. Và cả hai đã bị bắt trở lại. Điều địch chú ý khai thác là dân trí vùng này thấp và chính vì thế mà vị trí nhà tù Sơn La thành ra hiểm trở. Ngay sau chuyến các đồng chí ta vừa trốn, tôi là trưởng nhóm tù đi làm vườn. Trong tốp lính áp giải có hai lính mới. Tôi lân la hỏi chuyện họ:
- Các anh có biết chúng tôi là ai không?
- Biết chứ!..
- Các anh có cho chúng tôi là người tốt không!
- Có cho chứ!
- Các anh có thương chúng tôi không?
- Thương chứ!
- Có người trốn có bắt không?
- Bắt chứ!
- Có chặt đầu không!
- Chặt chứ!
Trình độ là như vậy, và địch đã không bỏ qua. Lập nhà tù ở Sơn La, chúng đã lấy người Việt trị người Việt, đẩy người dân tộc ít người ra sức săn lùng tù trốn như việc theo mệnh lệnh của chúng hành hạ tù nhân hàng ngày.
Hiểu rõ âm mưu của kẻ địch, các đồng chí lãnh đạo hoạt động bây lâu nay đã vận động anh em, tất cả đều học tiếng Thái, tiếng Mường và đi sâu vào quần chúng tuyên truyền vận động. Quanh Sơn La lúc này, nhân dân đa số đã hiểu về tù chính trị tỏ ra yêu thương tù chính trị và bắt đầu xuất hiện những cá biệt tích cực. Đảng đã hình thành một số nhóm trung kiên trong các đồng bào ít người. Cuộc vượt ngục của các anh Sao Đỏ, Trân, anh Đ trót lọt chính là nhờ kết quả vận động chính trị lâu dài, bền bỉ trong đồng bào, cùng sự chuẩn bị vật chất khá chu đáo. Lại có người dẫn đường thành thạo. Đáng tiếc là khi anh Giá - người dẫn đường- trở về bị lộ, địch đã ám hại anh một cách hèn hạ. Đối với chúng tôi, bọn công sứ, giám binh, cai ngục ra sức khủng bố, tước nhiều quyền lợi. Chúng tôi đã đấu tranh tuyệt thực năm ngày. Chúng phải nhượng bộ trả lại hết.. Sau cuộc vượt ngục và đấu tranh trên, chúng tôi chuẩn bị ăn Tết mùa đông năm 1943, cũng to như Tết trước nhưng lấy ăn làm chủ yếu. Rủi thay cho tôi, đến ngày tiễn táo quân lên trời thì tôi lại bị kiết lỵ. Mấy năm trước, tuy có số rét nhưng chưa bao giờ tôi phải hưởng cháo cửu tế, song mấy lâu nay tối sốt luôn và đến lúc này như kiệt quệ hẳn. Hai ba ngày đi kiết tôi phải nằm một chỗ. Giáp Tết có đỡ chút ít, tôi nhúc chích ăn cháo. Đúng lúc đó bọn cai ngục vào lập danh sách để tổ chức một công voa về xuôi. Chúng chọn những người án nặng. án tôi mười lăm năm, dĩ nhiên không trật. Biết thế tôi rất thích thú dù đang rất yếu. Các đồng chí lo cho tôi, khuyên ngăn nên ở lại. Tôi cũng không nghe. Có anh quá lo cho tôi đến gặp bọn ghi tên bảo tôi đang đau yếu. Chúng nó hỏi tôi:
- Yếu thế nào? Có đau chân không?
Tôi bảo không, thế là chúng bảo đi được và ghi tên vào danh sách. Anh em ngao ngán. Hôm lên đường có đồng chí đến bắt tay tiễn tôi, bảo:
- Nếu có tin là có người chết dọc đường thì chúng tao cứ truy điệu mày nhé!
Lúc này đồng chí Tôn Hiệu đã yếu lắm rồi. Anh phải ở riêng một xà lim. Anh em thay phiên cử người ra trông nom anh. Khi đoàn lên đường anh muốn ra sân tiễn. Hai anh dìu đỡ anh ra giữa sân, anh gắng vẫy tay như dặn dò chúng tôi. Sức anh gần kiệt rồi. Được mấy ngày đường, đồng chí Quỳnh, là bí thư chi bộ đi đường nói với tôi: Tao đưa mày giữa 40 đồng đây, tiền của chi bộ đấy. Mày ở trong danh sách chi bộ bố trí cho trốn doc đường. Mày là người thứ tư được chỉ định. Nếu chỉ ba người ra thì không có mày. Nhưng cứ giữ tiền để khi đó mà dùng. Tôi như mở cờ trong bụng. Sướng vì được trốn, nhưng tôi vui sướng hơn cả là thấy mình được chi bộ tin cậy. Tôi thấy mình quan trọng hơn lên. Đoàn tù vẫn bình thản chuyển về xuôi. Tôi chỉ được thông báo là đến Suối Rút sẽ có người biết đường, chớp cơ hội đưa nhóm người được chỉ định đi trốn.
áp tải đoàn tù là một tên quan tây, cao lớn phệ bụng, cận thị nặng. Xem chừng nó ít quan tâm đến trách nhiệm. Thấy tôi ốm yếu, nó cho cưỡi một con ngựa để đi kịp tốp khoẻ. Nhờ thế, đến Mộc Châu thì tôi bình phục được. Chúng tôi mặc quần áo tù có đóng số PS Sơn La , từng đôi một bị xích cổ tay với nhau. Xích có lỗ có thể nới rộng hay thu hẹp. Thông thường chúng xích ở mắt thứ bảy nhưng như vậy tay rất đau, thậm chí còn tụ máu. Để thuận tiện, chúng tôi đấu tranh chống xích chặt làm tụ máu. Xích ở mắt thứ tám thì tay bé đã có thể rút ra được nhưng anh em còn đòi nới ra đến mắt thứ chín thứ mười. Thằng Tây và lính cũng để mặc. Chẳng hiểu bụng dạ thằng tây này ra sao nhưng hắn nói: Tôi tin là các anh không trốn. Các anh đừng làm khó dễ cho tôi... Suối Rút là một thị trấn nhỏ ven sông Đà, vốn là nơi đón đưa nhiều đoàn, chiến sĩ cách mạng đi đày qua đây.. Dân cư gồm có: người Thái, Hoa kiều và một số ít người Kinh. Chúng tôi có chuẩn bị một số cuộc tuyên truyền trong quần chúng. Sẽ có đồng chí thạo tiếng Pháp bám sát tên quan Một. Các đồng chí khác đi vào quần chúng theo ngôn ngữ nắm được. Bước vào thì trấn, đoàn sẽ hát các bài ca cách mạng của Việt Nam và Trung quốc.. Đoàn cũng quyết định: Không mua bán gì, vì mua thì dân không chịu lấy tiền hàng. Buổi chiều khi gần đến Suối Rút, đồng chí Quỳnh đến rỉ tai tôi là: Kế hoạch thất bại . Về sau tôi được hay, người nhận dẫn đường cho chúng tôi bảo rằng: đã lâu ngày không qua đây nên quên mất lối. Người đó là ông Chương, có biệt danh là Chương gáo . ở Hỏa Lò (Hà Nội), tù nhân không được dùng thứ gì khác ngoài cái gáo dừa để ăn, để uống. Vì vậy mỗi người đều có gáo của mình. Ngày tôi mới vào chưa có gáo, phải ăn bốc. Có người mách bảo: Anh Chương có gáo thừa, lại mà xin. Tôi bèn lễ phép gặp anh
- Thưa anh, em chưa có gáo, anh cho em xin một cái.
- Tiên sư bố đứa nào bảo mày thế?
Tôi ngạc nhiên thưa:
- Các anh nói anh còn thừa một, bảo em tới xin anh. Em thiếu gáo thật mà!
Mãi về sau tôi mới hiểu: anh ấy bị bệnh sa đì, dái như cái gáo to. Anh em đùa gọi là Chương gáo , xui dại tôi...
Nghe đồng chí Quỳnh nói, tôi như lăn xuống vực sâu, bàng hoàng, ngơ ngác. Đến đêm khuya, phần đau buồn vì kế hoạch trốn thất bại, phần xúc động trước tấm lòng của nhân dân ở thị trấn đối với anh em tù, tôi không ngủ được. Nằm trằn trọc ở tầng cao của lô côt đồn lính khố xanh ngay cạnh bờ sông. Trời lạnh, trăng sáng. Dòng sông Đà lặng lờ một dải bạc hoang văng. Giữa đêm khuya, từ một chiếc thuyền đỗ trên bến vắng, le lói ngọn đèn con, cất lên giọng ca sa mạc như sau sé nỗi lòng với tôi.
Sáng hôm sau, lúc đoàn chuẩn bị lên đường, đồng bào Suối Rút ra tiễn rất đông. Lại có dịp để chúng tôi nói với mọi người về mục đích đấu tranh của mình và cảnh sống của người dân mất nước, sự độc ác của thực dân phong kiến cùng những sách nhiễu của lính tráng, quan lại cường hào, chúng tôi kêu gọi đoàn kết để cứu nước. Đến lúc này nhiều bà, nhiều cô lấy áo thâm chấm mắt. Có tiếng nức nở. Tình cảm giữa bà con và tù nhân như ruột thịt.
Đến chợ Bờ, tôi cảm thấy được nhẹ nhõm hơn. Hầu như tôi đã xác định lại quyết tâm mới, cùng các đồng chí trong tù tích cực hoạt động đấu tranh và học tập, chờ thời cơ khác.
Chợ Bờ cách Suối Rút 12 km. Chúng tôi đến sớm, nhưng được lệnh nghỉ đêm ở đó, tù ngủ ở quán chợ, lính gác bao quanh. Chúng tôi công khai bỏ xích ra và từng người tự do đi lại trong lồng chợ. Tôi thấy một người tù tháo tút dệt của anh ta, lấy áo len, quần trắng mặt ra ngoài, rồi thò tay vứt mảnh vải ghi số và đi ra. Tôi đợi mười, mười lăm rồi hai mươi phút không thấy anh trở lại. Tôi tìm đồng chí Quỳnh, bí thư chi bộ đi đường, báo chuyện này. Anh lập tức cử hai người lấy cớ xin đi mua bán, có lính đi kèm để kiểm tra xác định chuyện. Một lúc sau, hai người trở về báo cáo là có trông thấy bóng người tù trốn đã vượt ngục được sang bên kia sông. Người tù trốn ấy tên là Lợi. Sau này hoạt động, lấy tên là Nguyễn Chương. Ngay khi hai đồng chí đi điều tra thì anh Diện đến bảo tôi: chúng mày xem đề nghị với thằng Quỳnh tổ chức trốn đi một chuyện. Anh Diện - tức Trần Cư - là một công nhân xe lửa, trẻ tuổi, hăng hái, thẫng thắn, nói ít làm nhiều, vốn rất thân thiết với tôi. Cứ như anh đang nói thay tôi những điều đang phát sinh trong lòng. Phải tháo cũi sổ lồng , còn tình huống thì phải tuỳ cơ ứng phó thôi, không thể nào có một kế hoạch chi tiết đầy đủ được. Như cỗ máy được phát động, tôi lao tới đồng chí Quỳnh. Đồng chí Diện cùng đi theo. Anh Quỳnh đang suy nghĩ cách đối phó việc có tù trốn nên lộ vẻ xúc động. Anh có tật những lúc này sinh nói lắp, bây giờ càng lắp tợn:
- Được. đ. đ. tao cho chúng mày đi! Nhưng... có thằng nào... biết đường không?
Đồng chí Diện bảo: Tao biết. Thật tình anh muốn nhanh chóng ngã ngũ chủ trương, nên nói liều. Nhưng sự mạo hiểm của anh lại rất được việc...
Đồng chí Quỳnh nói ngay:
- Chuẩn bị đi ngay, Độ, Diện và thêm Đệ (tức đồng chí Nguyễn Khang).
Anh đưa cho Diện mấy chục đồng và cho cả ba một gói thuốc ký ninh, paludrine...) anh Diện bỗng nói:.
- Này! Hay là Quỳnh đi đi, thằng Quỳnh ra nữa tốt hơn.
Đồng chí nói lắp nhiều quá... khó lọt. Ba thằng đã... tao ở lại... đối phó .
Diện bảo:
- Thế thì mày đi, lợi hơn. Tao ở lại đốí phó cho!
Đồng chí Quỳnh giận giữ:
- Đ. ai... chả muốn ra. Nhưng tao là... bí thư chi bộ. Tao có trách nhiệm... đối phó. Thôi đi đi. Muộn... mẹ nó bây giờ!
Đồng chí đột nhiên dịu dàng căn dặn: Cẩn thận nhé. Tao đưa thêm bộ quần áo đây!
Ngay lúc đó, tình thế khẩn trương choán hết mọi thứ. Nhưng sau này cứ nhớ lại là lòng tôi bồi hồi. Anh Quỳnh cũng là công nhân như anh Diện, khi cần hành động, các đồng chí tỏ ra dứt khoát lạ thường, ít vương vấn sự riêng tư. Chúng tôi hầu như không có gì phải chuẩn bị. Tôi được mẹ gửi lên cho hai chiếc áo phòng khi lạnh thì chiếc áo len tôi đã bán lấy tiền chuẩn bị trốn, còn chiếc áo vệ sinh tôi mặc trùm lên chiếc áo có số. Quần thì vẫn là quần nhà tù nhưng chữ số đã phai đi nhiều. Anh Đệ (Khang) chỉ tay lên quả đồi, hẹn: Tao lên kia thay quần áo. Ra đó cùng đi nhé!
Đang bữa ăn, tôi nuốt trệu trạo vài miếng và kêu đau bụng chạy lên đồi. Anh Diện theo sát tôi. Quanh quẩn mãi trên đồi, chẳng thấy anh Đệ mà trời thì sắp tối. Anh Diện bảo: Cứ ra bờ sông đã rồi tính sau. Tao cũng chẳng biết đường! . Loanh quanh mãi hết quán chợ - nơi anh em đang ăn cơm, lại đến nhà hàng. Bụng nóng như có lửa đốt. May sao khi xuống một lối dốc thấy thấp thoáng dòng sông. Chúng tôi hối hả vượt qua bụi rậm ra tới bờ, nhảy cừu trên bãi đá ven sông. Vừa đặt chân lên bãi cát thì anh Đệ trong bộ quần áo anh Quỳnh vừa cho, từ trong bụi nhảy ra gọi:
- Tụi mày làm gì mà lâu thế. Tao chờ sốt cả ruột. Cả 3 anh em đi dọc sông, tính mưu kế vượt tiếp, thì có tiếng gọi từ một chiếc thuyền nhỏ đang lững lờ gần đó.
- Này có về chợ Phượng không?
Chúng tôi liền bám ngay lấy chặng đường này: Chúng tôi mặc cả giá và lên thuyền. Thuyền này chở khách. Từ bến Phương Lâm (Hòa Bình) lên chợ Bờ, nay đang xuôi dòng. Trên thuyền chỉ có hai vợ chồng người lái. Chồng khoảng bốn mươi tuổi, gày gò ít chuyện trò, ít quan tâm đến xung quanh. Chị vợ chừng ba mươi tuổi khuôn mặt tròn, nhỏ, miệng vết nước trầu cắn chỉ, mất sắc sảo. Mọi việc trao đổi với chúng tôi chị làm hết, quyết định hết...!
Lên thuyền, anh Diện phân công: Đệ làm tổ trưởng phụ trách nội bộ và lo chung, tôi lo ngoại giao, giao thiệp. Có lẽ anh Diện thấy tôi hay nói nên giao như vậy. Còn anh thì chịu trách nhiệm kế hoạch hành động đối phó. Phân trách nhiệm xong, tôi sang khoang sau, nơi chị vợ cầm lái và chèo để nói chuyện. Sau khi hỏi mua mấy miếng sắn luộc ăn thì liền bị chị hỏi dồn
- Các bác có đói không! Về Phương Lâm rồi đi đân nữa? Hà Nội lên à? Vì việc gì đấy? ở chợ Bờ hay từ Suối Rút về?
Tôi lúng túng, ấp úng, cứ bấn lên vì bị bất ngờ. Anh Diện tới gỡ cho tôi.Rồi đồng chí đáp phác ra một cái cảnh của chúng tôi là cả ba đi làm thuê cho một gia đình người Hà Nội chạy máy bay Nhật, tản cư lên lên Suối Rút. Chúng tôi chạy đồ đạc cho ông bà chủ đưa lên Suối Rút hôm kia. Nay trở về để tiếp tục chuyển chuyến nữa...
Chị lái đò đệm tiếp những câu hỏi đi vặt chi tiết. Chúng tôi phải bày kế hoãn binh, vào khoang trước bàn tính với nhau. Thế là tôi mất chức ngoại giao. Đồng chí Diện kiêm luôn cả. Anh Diện trở lại tiếp tục câu chuyện ra vẻ tin cẩn chị lái đò lắm, tiết lộ điều bí mật của nhóm: Chúng tôi buôn thuốc phiện lậu. Tránh đoan nên phải đi đường sông. Đến Phương Lâm, chúng tôi muốn về thẳng Sơn Tây. Đây là chuyến đi dò đường thấy có thể được. Nếu chị tiếp tay với chúng tôi đoạn này trong các chuyến đi sau thì hay quá!
Chị lái đò giọng sành sỏi:
- Biết ngay mà, vải thưa che mắt thánh. Tin nhau nói thẳng thế có hay hơn không! Thoạt tiên tôi đã cảm thấy không bình thường, không bình thường. Rồi chị truy chúng tôi xem lần này có mang thuốc theo không. Chị nói trong không:
- Chở người mang thuốc phiện thế này cũng quá công phu đây! Chúng tôi phải thề độc, rồi mời chị cứ khám, mới làm chị ta tin...
Cuộc đàm phán trở thành thoải mái và kết cục như sau:
1/ Chị đồng ý ngay đêm nay chở chúng tôi thẳng tới Trung Hà. Chị bảo không nên về tận Sơn Tây nguy hiểm. Đến bến Trung Hà có đường tắt đi Sơn Tây an toàn hơn. Anh chồng phản đối, chị liền bảo:
- Thôi về bến Phượng, bố mày về nhà nghỉ. Tôi bảo cậu nó đi thay. Đàn ông đàn ang gì mà đụt!
Anh chồng đồng ý ngay.
2/ Vì chúng tôi quần áo lôi thôi quá, chị để lại cho một bộ quần áo cũ của chồng, một cái mũ và cái kính râm
3/ Chị bắt chúng tôi nằm im kín vào trong khoang. Chị lấy chăn của nhà phủ cho chúng tôi và dặn: Có gì để mặc chị ấy đối phó.
4/ Sau này có lãi phải chia cho chị ta một nửa. Chúng tôi nằm trong khoang vẫn chưa yên lòng. Có điều là đã lên thuyền thì có khác gì cá trên thớt. Chẳng còn cách gì khác. Chỉ còn nắm một chỗ là chị này quen buôn lậu và hám lợi. Vai mà chúng tôi đang đóng cũng là do chị nghi ngờ. Vẻ cởi mở, hồ hởi của chị ta khi bày mưu tính kế, làm chúng tôi có thể yên tâm.
Thuyền tới bến Phương Lâm trong đêm khuya. Từ xa chúng tôi đã nhận ra cả vạn thuyền kéo dài và trên bờ còn le lóí ánh đèn dầu quạnh vạch thành vệt dài lóng lánh trong dòng nước. Thuyền vừa ghé thì có tiếng quát: Hôm nay cấm đò ngang đáy nhé! Tôi nằm trong chăn hỏi vọng ra:
- Sao lại cấm đò... o...?
- Tù trốn.
Lạnh toát người, chúng tôi bấm nhau. Tôi nhanh nhẩu hỏi tiếp:
- Tù gì trốn đấy.
- Tù chính trị chứ tù gì!
Trong chăn, chúng tôi bấm nhau lia lịa, có vẻ hoảng, nghĩ cách ứng phó. Tôi bật ra hỏi tiếp:
- Có nhiều không?
- Tám tên.
Câu trả lời dứt khoát thế làm tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi biết chắc là các đồng chí ở Hòa Bình trốn và tại đây cũng có một nhà tù. Thời kỳ này Đảng có chủ trương tổ chức cho tù trốn ra ngoài để thêm cán bộ lãnh đạo phong trào đang lên cao. Chúng tôi đang phấn chấn thì chị lái đò ghé vào thì thào:
- Đã bảo các bố nằm im sao cứ léo nhéo mãi!
Tôi thì thầm hỏi chị:
- Ta tính sao?
- Tôi ghé bến để chồng tôi lên. Xong tôi lại lần thuyền dọc theo vạn để đi tiếp liền.
Chúng tôi thuyết phục vợ chồng anh cố thu xếp để đi ngay Trung Hà không lỡ việc. Cả hai đồng ý. Chúng tôi đỡ lo anh chồng lên bến lỡ nói lộ chuyện. Chị vợ tỏ ra rất thành thục cách ghé bến, cách lách vạn, chẳng mấy chốc thuyền đã thênh thang lướt giữa giòng. Tôi vùi đầu vào chăn đánh một giấc. Chắc hai anh thì ngủ ít hơn.
Thuyền cặp bến Trung Hà vào lúc chưa sáng rõ. Chị lái vẫn cẩn thận cho cặp thuyền ngoài bến, chỉ lối để chúng tôi tránh đồn lính đoan Trung Hà đầu làng. Chúng tôi trả tiền đò gần như gấp đôi với lời cảm tạ nhiệt thành. Trước khi lên bờ, chúng tôi đã thống nhất với nhau về trang phục của mỗi người. Lúc lên đến bờ, đồng chí Diện với tay lấy cái nón chị lái đò đang đội trên đầu giọng nửa đùa nửa thật:
- Chị cho tôi mượn cái nón làm kỷ niệm chuyến đi nhé!
Chị lái đò như do dự. Anh nói thêm:
- Thôi mà! tiếc nhau làm gì, còn làm ăn với nhau nhiều.
Anh bước lên bờ. Đi một đoạn, anh giải thích:
- Tao phải xin cái nón vì chỉ mới có một cái mũ. Có thêm chiếc nón, với cái kính râm cái mũ mua hôm qua, thêm vẻ tự nhiên cho mỗi thằng. Bây giờ đường sá đã thông thuộc. Chúng tôi tính tin tù trốn chưa về tới đây. Cần tranh thủ vượt thị xã Sơn Tây sớm, đến Phùng rẽ vào chùa Thầy. Tại đó, anh Diện liên lạc với cơ sở cũ. Nếu trở ngại thì về Hà Nội, anh Diện lo liệu việc ăn ở, Chúng tôi đi xe kéo một đoạn, gần đến Sơn Tây xuống đi bộ qua thị xã, qua cửa thành Sơn Tây, gặp một toán tù áo xanh đang rửa tay bên thành hào do một lính khố xanh cai quản. Hắn thúc giục, quát tháo. Mặc, anh em cứ kỳ cọ như không nghe, không thấy. Tên lính cầm roi quất, làm náo động cả đám. Dù biết đó là tù kinh tế, nhưng chúng tôi van mủi lòng.
Chúng tôi cảm thấy việc mình đang tự do đi lại là không thật và cảnh sống áp bức, đánh đập đang chờ đón mình. Chúng tôi lúng túng tìm lối rẽ Hà Nội. Cả ba cố tình đi sát nhau để trao đổi thì trước mặt xuất hiện một cô gái bận quần trắng áo lơ-muya màu hồng, che dù tha thướt bước. Đang lúng túng, tôi cũng cười bảo:
- Kìa, kìa tiên núi hiện lên đưa đường đấy. Cứ đi theo! Quả nhiên qua một lối rẽ chúng tôi trông thấy cái biển xanh chỉ đường với chữ Hà Nội. Khỏi thị xã một quãng, chúng tôi lên xe kéo đi Phùng, rồi rẽ chùa Thầy anh Đệ rảo bước lên trước với lời hẹn đón ở chùa Thầy với ký hiệu giao ước. Chuyện trớ trêu là cả anh Diện và tôi đều không biết chùa Thầy nên cứ lơ ngơ đi dọc làng mấy lần. Chẳng có cách gì bắt liên lạc, tôi huýt sáo một bài ca cách mạng cũng chẳng kết quả gì. Lượn mãi sợ bị nghi ngờ, hai chúng tôi ghé quán ăn bánh trừ bữa rồi tìm đường đi tắt về Hà Nội, lòng băn khoăn về hoàn cảnh của anh Đệ. Chín giờ tối đến cầu Giấy, chúng tôi thuê xe đi Khâm Thiên, tìm tới nhà cậu anh Diện. Đến một túp nhà lá lụp xụp trong ngõ chợ, chúng tôi gõ cửa m ột ông già tóc bạc ra mở cửa. Nhận ra anh Diện, ông đóng vội cửa kéo cả hai vào trong nhà, ôm lấy chúng tôi xoa đầu vuốt mặt... Chúng tôi nói rõ hoàn cảnh. Ông cụ bảo thế thì cứ ở lại đây cho yên ổn. Chúng tôi được ngủ một đêm đầu tin cậy thoải mái như ở nhà mình. Thế là có thể tin chắc cuộc trốn đã hoàn thành. Chỉ tiếc không rõ anh Đệ ra sao.

HẾT CHƯƠNG 6 XEM TIẾP CHƯƠNG 7
CHƯƠNG 7 NHỮNG NGÀY THÁNG TỰ DO ĐẦU TIÊN
Hóa ra ở tù có cái gian truân của cảnh trong tù, thoát khỏi nhà tù lại có cảnh gian truân của cảnh ngoài tù. Đó là sự gian truân liên tục của người cách mạng khi chưa cướp được chính quyền, khi những người cách mạng chỉ mới là những đốm lửa le lói trong đêm dày đặc, chỉ dựa vào vùng ánh sáng nhỏ bé của mình mà sống và hoạt động. Mấy ngày tự do đầu tiên của chúng tôi đầy những nỗi gian truân, vì chúng tôi mới chỉ thoát được cái lồng bé, song còn bị giam cầm trong cái lồng lớn của chủ nghĩa thực dân. Đất nước đâu đã có tự do! Đồng chí Diện đặt kế hoạch bắt liên lạc trước hết nhờ ông cậu tìm người em giai họ của đồng chí Diện vốn là một công nhân giác ngộ có hoạt động từ trước, nhờ anh đó qua tổ chức cơ sở nói với cán bộ, để báo cáo lên thành ủy rồi lên xứ ủy. Vì trốn ra không có sự bố trí trước ở ngoài, nên xứ ủy và trung ương phải thẩm tra rất kỹ. Chúng tôi phải viết tóm tắt báo cáo nói rõ cuộc trốn, họ tên và ngày giờ. Sau đó trung ương đã nhắn hỏi lại mấy điều để kiểm tra thêm, lúc ấy mới được chính thức bắt liên lạc. Chúng tôi phải chờ đợi như thế đến năm hôm. Năm ngày đó chúng tôi trong ở nhà ông cụ. Cụ cho chúng tôi ăn uống rất đầy đủ. Cụ cho là ở trong tù thì ăn uống khỏ cực lắm nên cụ thương muốn bù lại cho chút ít. Hẳn là ông cụ phải tốn kém vì chúng tôi nhiều. Chúng tôi được cụ cho uống bia, ăn thịt lợn luộc, thịt gà rán, tráng miệng bằng bánh rán. Chúng tôi nhớ lại hồi ở Hỏa Lò, nhiều lúc thiếu thốn ngồi tán với nhau về các món ăn ngoài đời cho đỡ thèm. Có anh đã theo dõi các cuộc tán gẫu đó rồi chép lại trên giấy gói thuốc thu thập được, thành cả tập dày tới trăm trang.
Bây giờ trước sự săn sóc của ông cụ, tôi thấy thật thỏa mãn, chỉ còn nghĩ đến những ngày hoạt động sắp tới thôi. Nhưng khổ thay, mấy ngày đó tôi bị kiết lỵ. Chúng tôi ở trong một gian buồng nhỏ, rất nhỏ với một cái giường cũ. Đêm đêm ngủ trên giường đó, kể cũng tiện. Vì gian buồng ở ngay cạnh đường nên chuyện hò với nhau đều phải nói thầm, Chúng tôi không được rời khỏi buồng nên đại tiểu tiện ngay ở thùng tro để góc buồng, đến đêm sẽ có người đưa đi đổ giúp. Xét đơn thuần về mặt nơi ăn chốn ở thì có thể nói chúng tôi vừa thoát khói nhà tù lại phải chui vào một cái cũi.
Năm ngày vừa bức bối vừa nóng ruột rồi cũng qua đi. Tuy có bị tù túng hơn thời nhà tù Sơn La, nhưng lại có sự hồi hộp của sự chờ đợi. Hơn nữa được sống giữa những người thân thuộc, giữa nhịp đập của cuộc sống đời thường cho nên sự bồn chồn thật khó tả. Chúng tôi nhận được tin nhắn của anh H. là cán bộ của Trung ương thời đó và vốn là chỗ quen biết của chúng tôi. Anh nhắn chúng tôi, hẹn gặp ở gần Cầu Giấy vào một buổi sáng sớm để anh dẫn đi. Trời ơi! Mừng quá! Chân tay tôi cứ run lên. Về được với Đảng rồi! Chuyến này thì tha hồ hoạt động. Cách mạng đang cần. Dứt khoát là được thả sức hoạt động. Chấm dứt những ngày ngồi trong tù mà mơ tuởng ước ao... Về được với Đảng rồi!.... Đầu óc tôi cứ rộn lên như bốc lửa. Thế là chúng tôi sửa soạn ra đi và từ biệt cụ chủ nhà. Cụ không dấu nổi sự xúc động. Cụ mừng cho chúng tôi đã gặp được cái gì quá lớn lao và đầy bí ẩn với cụ, nhưng lại không muốn để chúng tôi rời khỏi mình, điều mà cụ thừa biết là không thể được. Tiễn chân chúng tôi ra cửa, cụ không nói gì cả. Nỗi lòng mình cụ trút hết vào ánh mắt nhìn. Cái nhìn của cụ nói lên đủ nỗi lòng sầu kín thật khó tả hết.
Sáng sớm hôm đó, trời còn tối, chung tôi đã rời căn nhà nhỏ ra đi. Ngoài cụ không ai trông thấy. Bước ra đường, chúng tôi bâng khuâng như đi vào những nơi xa lạ. Chưa có quần áo nào khác hơn, chân vẫn mang đôi guốc mộc. Đầu tóc thì lút gáy, đâm chờm cả mang tai. Bệnh kiết lỵ của tôi lại tái phát. Sáng rõ mặt người, chúng tôi tới chỗ hẹn. Bà con trong vùng đã ra đồng làm. Tôi mót đi ngoài ngồi lâu quá. Anh Diện cử thả bộ trên đường chờ tôi. Bỗng nghc những câu nói lạ tai:
- Tiên sư bố nó, chỉ chờ mà ăn sẵn của người ta.
- Của ấy cứ phải cho nó vào ăn cơm mắm Hỏa Lò. Cứ vờ vờ ngồi thế kia rồi đợp của người ta đấy.
- Cho nó ra chợ...
- Sao lại cho nó ra chợ..
- ấy ở chợ hôm nay người ta chém mấy thằng ăn cắp đấy mà.
Thế là chúng tôi biết rõ những điều họ nói đó nhắm vào ai rồi. Biết không thể ngồi lân nữa, có thể gặp tai họa bất ngờ. Trông chúng tôi với đầu tóc và quần áo khác thường người ta dễ sinh nghi là quân ăn cắp lắm. Chúng tôi tụt guốc cấp nách, lấy dáng điệu thản nhiên đi khỏi chỗ đó. Gặp được anh H. Không có điều kiện kéo dài việc trao đổi chuyện trò, lát sau thì anh Diện và tôi mỗi người đi một ngả. Tôi được gặp chị Sáu ngay. Vóc người nhỏ thó chị tỏ ra rất nhanh nhẹn tháo vát. Vừa gặp, chị gọi tôi là cậu tôi gọi chị là chị, thâm tâm tôi vui mừng như được gặp chị hiền của mình vậy. Chị bận chiếc áo dài năm thân rất khéo, ra vẻ con người quen buôn bán ngược xuôi tất tưởi. Gặp ai chị cũng chào hỏi, tôi phục chị có mối thân quen rộng và tôi theo chị chào hỏi mọi người. Thấy có người tò mò ngắm tôi thì chị đon đả giới thiệu:
- ấy hôm nay đưa cậu nó mới ở ngược về sang bên sông chơi chốc lát. Khổ ở trên ngược về chả biết ăn mặc gì, đến lôi thôi lếch thếch như dân thua bạc ấy. Đến bờ sông Hồng, chỗ tiếp giáp giữa Hà Đông và Phúc Yên (vùng Chèm) chúng tôi xuống đò ngang. Nhìn sang bên kia sông, tôi hơi chột dạ khi thấy trên bờ có người bận áo dài thâm quần trắng che ô đi đi lại lại. Nhưng lòng tin tưởng hoàn toàn chị Sáu, tôi vững tin chị thông thuộc vùng này, thấy chị vẫn thản nhiên vui tươi.
Lên tới bờ, khi biết người mang ô kia là người đi đón. Vóc người nhỏ nhắn, trán cao da trắng, anh chào chúng tôi, thăm hỏi qua loa rồi dặn chị Sáu ít điều. Sau đó chúng tôi chia tay. Tôi yên chí đó là một đồng chí địa phương, chắc là một hương sư hay là một trưởng bạ giác ngộ trong làng đó. Chị Sáu dẫn tôi vào làng Hải Bối (còn gọi là làng Bỏi). Đấy là cơ quan nằm chờ kiểu như trạm xá của ta ngày nay vậy. Tôi tưởng sẽ đến nhà một đồng chí hoặc một gia đình cảm tình, giác ngộ cách mạng, tôi sẽ được sông tại đó thoải mái, tự do, có thể nói mọi chuyện như ở nhà mình. Hồi chưa vào tù, tôi đã từng sống ở nhiều gia đình như vậy. Nhưng dẫn tôi tới chị Sáu thản nhiên giới thiệu như sau:
- Gởi các cụ cậu nó vài hôm. Cậu nó mới ở ngược về. ở đây vài hôm chờ ông Cả đấy, các cụ ạ!
Chị lại dặn tôi thêm: Không có tuyên truyền gì cả... vì gia đình này không biết gì đâu . Tôi hỏi gặng thì chị cười và bảo: Thôi, cậu cứ biết ở đây vài hôm cái đã . Thế rồi chị đi. Tôi cảm thấy bơ vơ lo lắng, không biết xoay xở ra sao. Tôi bèn giả ốm để nằm lỳ trong buồng và tránh những đối đáp có thể nguy hiểm. Thế mà tôi lại ốm thật, lại tiếp lục đi lỵ.
Gia đình này gồm hai ông bà già. Ông làm ruộng, bà bán cơm ở chợ Bỏi. Người con trai trạc mười sáu mười bảy tuổi, cao lớn, khoẻ mạnh, nhưng vẻ ngốc nghếch thật thà. Anh ta có vợ rồi. Chị vợ có vẻ nhiều tuổi hơn, xinh giòn, chăm chỉ làm lụng suốt ngày. Suốt ngày tôi nằm trong buồng còn cả nhà đi vắng. Tối tối tôi ra ngồi uống nước cùng cụ ông. Cụ rất to lớn, khỏe mạnh, ít lời. Vợ chồng người con thì cứ như sợ người lạ ngồi lỳ ở bếp. Tôi được nhà cho mang cái tên là anh hai buôn gỗ. Bà cụ đôi lúc hỏi thãm sức khoẻ tôi và hỏi chừng bao giờ ông cả về. Tôi không rõ vở kịch chị Sáu sắp xếp ra sao nên trả lời qua quýt. Bệnh lỵ tôi bị ngày càng nặng. Đành áp dụng kinh nghiệm bản thân nhịn ăn vài ngày, sau đó chỉ ăn cơm với muối như hồi ở Hỏa Lò vậy. Bà cụ thấy tôi không ăn cơm, biết tôi bị lỵ nên thương lắm. Cụ kho thịt nạc bảo ăn, tôi không ăn. Cụ phàn nàn là sao lạ thế, khắc khổ gan góc đến thế. Cũng vì thấy thế mà cả gia đình có cảm tình đặc biệt với tôi.
Mấy hôm sau chị Sáu trở lại. Cả nhà phàn nàn với chị về chuyện tôi ăn cơm muối, không để gia đình săn sóc. Chị tất tưởi đi lấy thuốc lỵ và bảo. Anh Toàn sắp đến giao công tác. Nghe giọng chị nói đến anh Toàn rất tôn trọng. Tôi yên trí anh Toàn là cán bộ quan trọng lắm. Lòng phấn khởi, tôi chờ đợi... Thế rồi anh Toàn đến! Té ra anh Toàn là đồng chí bận áo dài thâm cầm ô hôm nọ chờ tôi ở bờ sông. Tôi khâm phục cách hoạt động của các đồng chí ở đây. Trước đây tôi mới chỉ biết một cách hoạt động cổ điển: đi lại thì mang quần áo nâu rách, còn ở thì phải tìm nhà đồng chí hoặc nhà quần chúng cách mạng. Còn ở đây thì thật là mới mẻ, ở nhà một bà hàng cơm không hay biết gì về cách mạng, đi lại thì ăn mặc quần áo kiểu lý dịch trong làng...
Gặp tôi, anh Toàn liền hỏi:
- Anh có biết chữ không?
- Có
- Có đọc nhanh không?
- Đọc được.
- Thế thì tốt lắm! Anh làm công tác thanh niên ở nông thôn thì tiện rồi.
Lúc đó da tôi đen xỉn, đầu tóc cợp cạp, trông vẻ cục mịch rất hợp với nông dân. Anh hẹn hôm sau sẽ giới thiệu đồng chí cán bộ phụ trách tôi đến giao công tác. Sướng quá tôi ra chợ cắt tóc và chuẩn bị lên đường.
Lúc ấy tôi vẫn chưa biết anh Toàn là đồng chí Trường Chinh.
Hôm sau chị Sáu và tôi đi ra khỏi làng, cứ dọc đê sông Hồng đến cây gạo Ba Đê để anh Toàn giới thiệu tôi với đồng chí Kiểm (Tức Ngô Thế Sơn bây giờ. Anh Kiểm chính là bạn học với tôi từ ngày còn bé. Anh là người làng bên cạnh. Khi anh Toàn và chị Sáu đã quay về một quãng xa, tôi và anh Kiểm mới phá lên cười với nhau. Tôi vui sướng bá lấy cổ anh ghé tai gọi tên cúng cơm của anh mà chửi một câu. Anh Kiểm cũng làm như thế với tôi. Chúng tôi nói với nhau bao nhiêu chuyện. Anh Kiểm chưa hề bị bắt, chỉ mới bị bắt hụt nhiều lần...
Hôm đó bọn tôi đi một mạch từ vùng Đông Anh giáp sông Hồng lên tận làng Kha Sơn thuộc huyện Phú Bình (Thái Nguyên) có lẽ đến 50 cây số. Ngày đi đầu tiên này của tôi thật là gian khổ. Từ trưa trở đi tôi mệt quá, hai bàn chân rát như phải bỏng, đùi đau như dần, còn bắp chân chuột rút cứng lại. Tôi cứ xin nghỉ luôn. Lúc đầu thì cứ một hai cây số, về sau chỉ gắng được 500m là quá sức lại xin nghỉ. Anh Kiểm đi khoẻ quá, tôi trông mà thèm được như anh. Trời đã chiều cứ hỏi còn bao xa anh lại nói: Còn 3, 4 cây . Tối mịt, mỗi lần hỏi anh vẫn bảo còn 3, 4 cây. Tôi sốt ruột hỏi: Thế ở đây có cơ sở không? cho tớ ngủ nhờ một tối mai đi, không có tớ chết đấy, không thể nào đi được nữa! Anh Kiểm lại cười và khuyến khích tôi. Tôi tự nghĩ yêu cầu như thế là vô lý nên cũng cười. Lại nghiến răng khập khiễng bước theo. Mỗi bước đi bàn chân nhức nhối như sắp vỡ bục ra, hai bắp đùi nhức nhối như bị giần, cảnh chịu đòn dai dẳng khổ hết nói. Trông thấy trước mắt một vệt đen dài, có le lói một ánh đèn như đom đóm. Anh Kiểm bảo: Kia rồi! tôi mừng rơn. Nhưng đường thì cứ như là lùi xa thêm nữa.
Tôi nghiến răng mà bước, mắt không rời con đom đóm đỏ miệng nhẩm tính: gắng hai trăm bước nữa... gắng ba trăm xem sao... Khi vào tới nhà, bước qua ngưỡng cửa tôi bổ nhào lên cái ổ rơm, nằm thẳng cẳng với cảm giác: thắng lợi hoàn toàn .
Vừa nằm. tôi vừa chào bác chủ nhà. Đây là cái trại nhỏ của gia đình bác Hiếu, một người miền xuôi lên đây. Trại chỉ có độc một căn nhà, ở xa các xóm và bên bìa rừng thông. Thật là lý tưởng để đóng cơ quan thời đó. Bác Hiếu và anh Kiểm liền pha rượu với mật ong cho tôi uống. Bữa cháo đó sao mà ngon vậy.
Kể từ ngày nằm gầm giường ở ngõ chợ Khâm Thiên chờ đợi bắt liên lạc, rồi những ngày phập phồng nằm ăn cơm muối ở làng Bỏi bên sông Hồng, đến hôm nay được nằm ở đây một cách hoàn toàn yên tâm về mọi mặt, về mọi chuyện. Rõ ràng cuộc vượt tù của tôi đã thắng lợi hoàn toàn! Thế là với Đảng tôi đã chiến thắng bọn đế quốc trong cái lồng bé và giờ đây với Đảng, toàn dân ta nhất định sẽ đập tan cái cái lồng lớn của chủ nghĩa thực dân Pháp.. Những con chim đã sổ lồng phải được bay xa.

HẾT CHƯƠNG 7 XEM TIẾP CHƯƠNG 8
1      2      3     4      5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét