Cái chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của Việt Nam hiện nay nó tàn bạo hơn cả chế độ Tần Thủy Hoàng và sự dã man của chủ nghĩa phát xít Hít-le - Trần Độ
Trong những lúc xum họp với các con cháu trong nhà, hoặc những
khi gặp gỡ bạn bè cũ và mới, tôi thường hay kể chuyện ngày xưa. Chuyện ngày xưa
của tôi thường là những mẩu chuyện đời thường vui hoặc buồn, sâu sắc hoặc thú
vị, có cái phong vị khác lạ mà trong cuộc sống ngày nay không hay có. Những
người nghe câu chuyện đó của tôi thường bảo tôi là nên ghi lại, nên viết hồi
ký.
Để không phụ những lời thúc dục đó, tôi làm việc viết hồi ký
bằng cách kể lại các mẩu chuyện đó. Những mẩu chuyện thường không có hệ thống,
không theo biên niên sử, không có và không theo các sự kiện lịch sử, không có
gì bổ sung cho lịch sử.
Dẫu rằng tôi cũng có trải qua cuộc sống trong các sự kiện lịch
sử. Nhưng hoặc là lúc đó tôi còn nhỏ tuổi quá, hoặc tôi cũng không có vai trò
gì quan trọng trong các sự kiện đó. Vả lại về những sự kiện lịch sử, thì đã có
nhiều người viết, có nhiều sách đã được in. Tôi chỉ kể chuyện những kỷ niệm, vì
thế tên sách của tôi là Chuyện ngày xưa. Những kỷ niệm này có hai giai đoạn
(làm thành hai tập). Tập thứ nhất là từ trước 1945 đến 1975. Tập thứ hai là
chung quanh công cuộc đổi mới, những niềm vui và niềm vui chưa trọn. Khi tôi kể
chuyện, tôi cố gắng thực hiện lời khuyên của đồng chí Trường Chinh, một người
anh lớn của tôi: Cần phải khách quan và không được tự đề cao mình.
Tôi mong rằng kỷ niệm đời tôi cũng giúp mọi người mua vui được
một vài tiếng đồng hồ cho ai đọc nó. Xin thân ái, chào mừng người mở sách.
1955 - 1996
TRần Độ
Tôi sinh ra trong một gia đình công chức. Hồi năm sáu tuổi, tôi
nghe người làng gọi bố tôi là quan phán.
Thời ấy các công chức đều là quan, quan Thông phán tức thư ký
các toà, quan tham tá thuộc bậc cao hơn. Bố tôi là quan phán vì ông làm thư ký
ở tòa Thông sứ tại Hà Nội.
Bố tôi xuất thân từ một gia đình nho giáo ở quê Thái Bình. Khác
với Bác tôi đã nối nghiệp nhà trở thành là một nhà nho. Bố tôi lớn lên giữa
buổi chữ Hán không còn được trọng dụng, ông đã chuyển sang học quốc ngữ để mưu
cầu việc kiếm sống.
Nghe bạn bố bảo phải biết cả tiếng Pháp mới hòng có cơ may, ông
đã tìm học tiếng Pháp đến mức viết và nói được. Rồi ông nhờ cậy chạy được một
chân thư ký ở toà Thống sứ Bắc kỳ. Từ đó mỗi lần về quê, dân làng cứ trọng vọng
gọi ông là quan Phán.
Với bà con tỉnh lẻ thì cứ là dân Hà Nội, hoặc là người từ Hà Nội
về đã là điều đáng nể lắm rồi huống hồ là quan phán tòa Thống sứ, biết tiếng
Tây là điều rất oai đến mức cả làng cũng tự hào lây. Tôi là con cái trong nhà,
thâm tâm cũng lấy làm oai lắm, lại vừa nể sợ bố. Tôi không dám săn đón quấn
quít bố như con nhà khác. Phần các cụ cũng rất xem trọng phép nhà, thương yêu
con cái bao nhiêu để trong lòng, còn trong tiếp xúc hàng ngày thì giữ vẻ nghiêm
nghị theo phép tắc. Cho đến ngày nay tâm khảm tôi vẫn còn lưu lại đậm nét về bố
tôi thời ông ngoài ba mươi với dung nhan phương phi, dáng vẻ bệ vệ. Gia cảnh bố
mẹ tôi chẳng lấy gì làm sung túc. Đến nỗi số tiền bố tôi vay ngày lên Hà Nội
tìm việc làm cũng không trả nổi. Đến ngày ông qua đời, mẹ tôi phải thế nợ bằng
một đám đất hương hỏa của nhà.
Mẹ tôi trước sau vẫn sống ở quê. Hai cụ sinh được 4 con. Trước
tôi là hai chị gái. Chị đầu tên là Thi, lấy chồng làm y tá, ở góa từ ngoài ba
mươi tuổi, nay đã ngoài bảy mươi vẫn sống tại quê nhà. Bà chị hai tên là Câu
(Tạ Thị Câu), nhó hơn hai tuổi, tôi là con thứ ba. Sau khi sinh tôi, mẹ tôi đi
hóỉ và cưới vợ hai cho bố tôi. Bà dì sống ở Hà Nội với bố tôi. Thời này, tôi
cũng được lên Hà Nội sống với bố và dì để đi học. Đời sống công chức của bố tôi
tuy không được phong lưu nhưng cũng có thể mướn người giúp việc và nuôi con ăn
học.
Còn ở quê mẹ tôi khá lam lũ. bà vừa lo cày cấy, nuôi lợn gà lại
còn phải chạy hàng xáo. Bà lặn lội đi mua thóc về tự xay giã làm gạo bán ở các
chợ quê, lấy trấu để đun nấu và cám nuôi lợn gà. Thời này cứ hai hào làm một
thùng thóc, tức là mười ký. Vậy là hai xu mua được ký thóc. Và lãi là tính từng
xu chênh giữa giá bán gạo và tiền mua thóc. Tuy còn bé, tôi cũng nhiệt tình phụ
mẹ một tay. Đứng cối giã gạo. Xuống ao lặn hụp vớt bèo. Song không vì thế mà mẹ
tôi chịu ngơi tay. Bà lại đan cói làm các mặt hàng gia dụng đến tận khuya. Tinh
mơ bà đã dậy đỏ lửa lo nồi cám lợn nấu cùng bèo ủ chua. Để thức khuya dậy sớm
bà dùng thuốc lào, đến nghiện. Có lần bà say thuốc lào gục cả đầu vào bếp, thật
thương tâm.
Bà chị thứ hai tôi bán hàng xén để kiếm sống, cũng là cái vỏ bọc
thích hợp để bà hoạt động cách mạng. Khó mà biết bà làm việc gì là chính. Bà
tham gia từ năm nào cũng không rõ. Với tôi, tuổi thiếu niên tôi đã được chị dìu
dắt đi hoạt động. Nếu như mẹ tôi thầm lặng ủng hộ, kín đáo che chở cho tôi thì
chị lại nhiệt thành kèm cặp trong hoạt động thực tế, từng bước rèn luyện thử
thách cho đến khi tôi được kết nạp Đảng. Sau đó cả hai chị em đều thoát ly địa
phương.
Hồi sau này vào khoảng 1942- 1943, chị tôi bị Pháp bắt và bị ở
tù ở Hỏa lò (Hà Nội). Còn tôi thì bị đi đày ở Sơn La. Nghe tin thực dân Pháp
chuyển tù Sơn la đi Côn Đảo, các tù nữ ở Hóa Lò Hà Nội đã xé quần áo tốt lấy
vải thêu tặng anh em trên đường ra đảo. Chị tôi ngày đó hẳn đã đau lòng vì
không thấy thằng em để tặng khăn dành cho nó. Chị đâu có hay là tôi đã được
phép trốn và đã trốn thoát.
Vợ tôi là người ngồi tù cùng lúc với chị biết rằng chị đã mất
1943: thế là chị không được biết rằng thằng em còn sống, còn tiếp bước chị hoạt
động đến ngày thắng lợi. Hôm nay, ghi lại những dòng này em lại thấy hiển hiện
trước mặt người chị gái cao lớn, nhiệt tình và sôi nổi. Lại nhớ đến nỗi lo sợ
ngày chị trả lễ cầu hôn. Hồi chị tôi 2l-22 tuổi, có nhà mang lễ đến xin cưới
giữa lúc chị vắng nhà. Mẹ tôi có vẻ ưng thuận và bà lấy mấy quả hồng cho thằng
con trai cưng là tôi. Giữa câu chuyện thì chị tôi đi chợ về nói: lấy chồng là
việc của con sao mẹ tự đảm đương lấy! Chị về, bê cả mâm lễ đặt ra ngoài sân.
Tôi cuống quít níu áo chị, xin Em lỡ ăn mấy quả hồng rồi. Chị nói ráo hoảnh Thì
đi mua về trả người ta.
Chuyện tình duyên của chị tôi cũng như việc hoạt động cách mạng
của chị, cả nhà chẳng ai biết rõ. Có lần chị đi về khuya khác thường, tôi hỏi
thì chị nói: Tối qua tao đi lùng!. Tôi có biết trong làng có anh tên là Lùng,
chị đi gặp anh này sao? Thể rồi tình thế buộc cả hai chị em phải đi thoát ly,
rồi cùng bị bắt. Nghe phong phanh ngày trong tù chị có yêu, nhưng cũng chẳng
lưu lại tung tích gì. Hồi tôi lên Hà Nội ở với bố thì dì tôi, rồi mẹ tôi đều có
mang. Dì tôi sinh con trai. Nó mồ côi bố lúc ba tháng tuổi và mất khi được sáu
tháng tuổi. Mẹ tôi sinh con gái được 3 ngày thì bố tôi qua đời. Thế là mọi công
chuyện nhà dồn lên đôi vai mẹ tôi vốn đã quá tải.
Mẹ! Ký ức tôi cứ khắc sâu hình ảnh một phụ nữ nông thôn chân
chất, lam lũ quanh năm vì chồng, vì đàn con. Có lẽ chẳng có lấy một lần bà nghĩ
đến bản thân.
Tôi chẳng bao giờ quên được cảnh nằm ổ rơm cừng mẹ, nó thần tiên
như chuyện cổ tích. Về mùa đông, ổ rơm là thứ sang trọng của người nghèo. Mẹ
tôi cũng quây một ổ ở bếp. Sau một ngày lam lũ, bà lại ổ rơm nằm nghỉ, kéo
chiếc chăn chiên phủ lên người. Tôi chui vào nằm gọn trong lòng mẹ sực mùi rơm,
lấng nghe bà rủ rỉ kể truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa, cảnh
gà mẹ ấp con nầy trong hương lúa lan tỏa đưa tôi tới những giấc mơ thần tiên
ngày ấy và cả đến bây giờ. Tình mẫu tử ấp ủ tôi suốt đời.
Khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn bắt tôi phải tiếp tục đi học. Bà gởi
tôi nhờ một anh lớn dẫn đi, từ nhà đến trường hơn một cây số. Đi học về tôi lo
học bài thầy cho về nhà. Cứ xong bài tôi lại vui sướng reo lên khoe với mẹ tôi
- Mẹ ơi! Con thuộc bài rồi.
- Con mẹ giỏi quá...
- Con thương mẹ lắm!
Tôi tận hưởng sự dịu dàng âu yếm trong ánh mắt, trong âm sắc mẹ
dành cho.
Đó là thứ không thể thiếu để tôi khôn lớn, là điều an ủi, khích
lệ tôi trước những tình huống gian nan nguy hiểm của cuộc đời: một chân trời
của tôi luôn có mẹ.
Những kỷ niệm về mẹ làm phong phú đời tôi. Mẹ tôi hàng năm cũng
tranh thủ lên thăm chồng con. Tôi lnôn hăng hái đưa mẹ đi thăm phố phường để
khoe Hà Nội với mẹ và cũng không bỏ lỡ dịp để được cùng mẹ thưởng thức của ngon
vật lạ theo túi tiền. Chuyến tôi mời mẹ món tê cố cứ làm tôi nhớ hoài tê cố là
món nước giải khát ngọt có đá. Vì sao gọi như vậy, đến nay tôi vẫn không rõ.
Những cốc tê cố đầy đá đập vụn pha mấy thìa nước đường, với tiếng rao lanh lảnh
đã thành một thứ giải khát mà ngày đó tuổi chúng tôi mơ ước nhất. Khi mẹ tôi
thấy lạ không đám mua thì tôi nài ép bà lấy được. Thương con, rồi bà cũng thuận
tình. Tôi sướng như mở cờ trong bụng, dành lấy một cốc ăn ngon lành trong khi
thành cốc thứ hai đã đẫm nước, mẹ tôi vẫn nghi ngại. Tôi khích lệ và mẹ tôi cầm
lấy, rồi hốt hoảng buông tay xuýt xoa như phải bỏng. Thế là ngon chẳng thấy đâu
mà phải bỏ tiền đền chiếc cốc vỡ.
Làm hàng xáo nên thức ăn chính của mẹ tôi là cơm tấm muối vừng
mặn chát. Ngoài ra, thứ gì đối với bà cũng lạ, cũng là phí tiền. Khi đã lớn,
tôi đi đâu về vẫn không quên mua quà biến mẹ, dù biết chắc chắn là sẽ bị bà
chửi: Cha tổ bố mày, mua phí tiền. Cứ mỗi lần mắng yêu con là cụ lại chửi như
vậy. Ngày nay dù mẹ tôi không còn nhưng cái lệ ấy đã truyền lại cho bà chị và
cô em gái tôi. Kỳ vừa rồi tôi đưa đứa cháu nội về thăm quê có nhắc lại chuyện
này cho cháu nó biết và quả nhiên nó đã được chửi yêu như thế khi vừa tới nhà.
Khoảng năm 1940 tôi vẫn hoạt động loanh quanh gần nhà. Đến 1941 mới thoát ly
hẳn. Đến 1947-1948, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang mở rộng và quyết
liệt thì tôi gặp mẹ rất bất ngờ.
Do Pháp tấn công lên Việt Bắc, nên quân ủy có ý định sơ tán cơ
quan. Tôi được trao nhiệm vụ cầm đầu một đoàn văn nghệ sĩ đi vào khu 4 vừa đi khảo
sát tình hình vừa là sơ tán. Đoàn của tôi có các ông Nguyễn Công Hoan, Nguyễn
Xuân Khoát, Mai Văn Hiến. Cùng đi còn một cán bộ chính trị và một cần vụ kiêm
bảo vệ cho tôi. Cuộc càn của Pháp kết thúc, tôi đi từ khu 4 trở ra theo lối qua
huyện Nghĩa Hưng, vượt sông Hồng rồi sang Thư Trì về Thái Bình mong để tranh
thủ ghé thăm mẹ. Đến đoạn đường cái quan mà người làng tôi vẫn đi chợ, tôi lần
xuống men thềm bờ ruộng để tránh gặp phải người quen. Được một đoạn thì tôi
nhìn thấy mẹ tôi đang đi trên đường cái, đầu đội thúng hai tay vung vẩy, bước
thong dong, có lẽ bà từ chợ về. Nhìn thấy mẹ, tôi bối rối quá. Bụng dạ thúc tôi
chạy lên với mẹ, nhưng gặp giữa đường lại đột ngột thế này thì cụ xúc động quá
làm sao giữ được bình tĩnh, cụ khóc lóc thì rầy rà to. Đang suy tính thì cụ
cũng nhận ra tôi. Cụ giơ tay vẫy, tôi vẫy lại. Cụ biết, từ từ rẽ xuống ruộng đi
tới gặp tôi. Hai mẹ con chl nói với nhau trong chốc lát. Tôi xin phép: Thôi con
xin phép đi, vì công việc vội lắm, vả lại nói chuyện ở đây lâu không tiện. Để hóa
trang tôi đã phải bôi đen răng và đội nói cời sùm sụp làm dân quê đi làm ruộng,
nhưng không thể mất cảnh giác. Nét mặt mẹ tôi rất bịn rịn cứ nhìn tôi nhl muốn
giữ chặt lấy đứa con trai, song miệng lại thốt lên:
- Thôi! con đi đi!
Đi được một quãng, tôi quay lại nhìn, mẹ tôi vẫn đứng nguyên đó,
im lìm. Tôi. nhớ lại thấy mẹ tôi tay lần bao thắt lưng, tôi hiểu ý bà
muốn cho tiền nên đã xua tay lắc đầu, liền đó mẹ tôi đưa giải ỵếm lên chấm mắt.
Dù gặp chốc lát tôi đã được yên tâm về mẹ, về gia đình. Như đã kể trên, mẹ tôi
đã cưới vợ hai cho bố tôi. Tuy như chị em một nhà. Sau khi mất chồng, mất con
trai, dì tôi đi bước nữa. Vẫn không quên lui tới thăm hỏi mẹ con tôi. Đời chồng
sau, bà có năm con đều là gái, làm bà càng thương tiếc đứa con trai đầu. Sau
này, mỗi lần ghé quê, tôi đều tới thăm dì. Thấy tôi là bà lại dấm dứt khóc. Bà
bảo tôi:.
- Nếu nó còn thì chắc chắn em nó sẽ theo anh, theo anh thì bây
giờ nó cũng khá...
Tôi xót xa an ủi bà:
Dì ơi, dì đừng khóc thêm đau khổ. Đằng nào em nó cũng đã yên
phận. Bây giờ con là con dì, con về thăm dì cũng là em nó vẫn nhớ dì đó. Trong
số con gái của bà, có đứa út, kém tôi chừng mươi tuổi và thân với tôi nhất. Tôi
cũng quý nó và mấy đứa con nó. Hiện nó là cán bộ thương nghiệp ở Thái Bình...
Lại nói về mẹ tôi. Ngày tôi vào chiến trường miền Nam, nhất là
năm 1968, địch tung tin tôi bị chết. Các anh ở Tổng Cục Chính trị và Trung
ương, có về thăm và xác định lại với cụ về sự thất thiệt. Khi được nghe cái
băng cassette có tiếng nói của tôi thì cụ yên tâm ngay. Ngày trở ra miền Bắc,
tôi trở về nhà. Gặp cụ tôi thưa:
- Đây con trở về với mẹ nguyên vẹn đây.
Bà nhìn tôi vẻ bằng lòng và nói:
- Thôi! được rồi. Nhưng bây giờ mẹ lại mong muốn điều này. Cái
thằng Thắng (con trai đầu của tôi) phải lấy vợ đi chứ, gần ba mươi tuổi chứ nhỏ
dại gì nữa. Có chắt nội thì mẹ nhắm mắt mới vui lòng.
Tiếc là sau đó ít lâu mẹ tôi mất (năm 1975). Cháu Thắng chưa kịp
lấy vự. Mẹ tôi đổ bệnh giữa lúc tôi đang dồn sức sửa sang gian nhà tử tế hơn
đền bù lại cả cuộc đời cụ sống lam lũ, ăn ở nhếch nhác quá. Chả là suốt thời kỳ
tôi được phái vào chiến trường miền Nam thì lương của tôi vẫn để lại nhà. Vợ
tôi nhận một phần nuôi các con ăn học, số còn lại đồng chí thư ký riêng của tôi
cất giữ. Sau 1975, tôi trở ra Hà Nội, số tiền dành dụm đó khoảng mười mấy ngàn,
tương đương mấy chục triệu bây giờ. Tôi trích ra khoảng năm ngàn, bàn với cô em
gái là sửa cái nhà bằng tiền của mình có thì chẳng có gì phải e ngại. Về sau
mới hay sự việc đâu có đơn giản như thế. Chỉ vì tôi là ông tướng, lại vừa vừa
chiến trường ra. Trong dư luận thời đó đang đồn thổi câu: tướng tấn, tá tạ, úy
kilo. Vậy là vấn đề của tôi trở thành vấn đề rất tế nhị. Đồng chí thư ký đã
cùng chính quyền địa phương trao đổi kỹ hoàn cảnh của tôi. Các đồng chí ấy rất
hiểu tôi cũng như hoàn cảnh gia đình mẹ tôi cho nên việc sửa nhà được thực hiện
suôn sê. Giữa lúc công việc đang bộn bề thì mẹ tôi đổ bệnh và cũng chỉ kịp ở
trong ngôi nhà mới được có hơn chục ngày. Lần sau cùng khi em gái tôi báo tin
cụ ốm nặng, tôi về thăm. Thấy tôi cụ bảo:
- Thôi con cứ về đi. Công việc của chúng mày còn nhiều. ở lâu
không tiện. Mẹ thì không biết lúc nào. Con chờ đợi thì ai lo công việc cho. Con
ạ, con về lần này nữa là mẹ thỏa mãn lắm rồi. Con cứ yên tâm mà đi. Có thế nào
em nó báo tin rồi con trở về cũng được.
Một tuần sau, bà cụ qua đời. Lời nói hôm nào trở thành lời trối
trăng của cụ với tôi nhắc nhủ tôi suốt đời. Ngày tổ chức ma chay cho mẹ tôi,
anh chị em chúng tôi đều thoả thuận lo cho chu tất, trang trọng. Cô em - Cô
Xuyến, sống với mẹ tôi lâu ngày nhất. Mỗi lúc về thăm mẹ, tôi vẫn nói đùa: Mày
thay tao làm trưởng nam rồi đấy! Hôm làm tang lễ nó rụt rè thưa: Xưa nay anh
bảo gì em đều nghe theo. Còn hôm nay em xin anh để em mời đội bát âm cho thỏa
vong linh mẹ. Các cụ van bảo: Sống dầu đèn, chết kèn trống. Em
cũng hiểu như vậy có nệ cổ một tí, nhưng mong anh cho em lo. Để thỏa vong linh
mẹ, để em gái báo hiếu với mẹ, tôi sốt sắng tán thành, lòng tôi nhớ thương mẹ
vô hạn, nhưng không hiểu sao tôi không khóc được. Ký ức về cuộc sống của mẹ tôi
cứ như một cuốn phim choán lấy tâm trí tôi. Cho tới đêm khuya tôi ngồi soạn bài
điếu văn, lòng thắt lại khi viết dòng chữ: Suốt đời mẹ là những thử thách đợi
chờ: chờ đợi chồng, chờ đợi con, rồi chờ đợi cháu. Đến đây tôi bật khóc vì
thương mẹ quá. Lời điếu của tôi đã làm họ hàng và bà con thân quen xúc động sâu
sắc và họ đồng tình cất bản văn đó vào hòm gia phả. Sau lễ tang, chị em tôi
thỏa thuận giao mảnh vườn và ngôi nhà mẹ tôi ở cho cô Xuyến, là người từng sống
lâu ngày với mẹ để lo việc nhang khói cúng mẹ, cũng là cách ghi công cô đã săn
sóc mẹ bao lâu nay thay các anh chị.
Hết Chương 1 Xem Tiếp Chương 2
Chương 2: TUỔI THIẾU NIÊN
Tôi bắt đầu đi học vào khoảng 7, 8 tuổi, tức là
vào những năm đầu của thập kỷ 30 (193l - 32). ở vùng tôi lúc đó, trong các làng
có trường hương sư do thầy giáo, làng dạy và một số trúờng tiểu học Pháp-Việt.
Các trường tiểu học hình như tiếng pháp gọi là Ecole Primaire plein exercice,
có hệ thống lớp từ thấp đến cao như sau:
Lớp thấp nhất: lớp Đồng ấu. (Tiếng Pháp:
Enfantin)
Lớp dự bị. (Tiếng Pháp: preparatoire)
Lớp cơ bản (Tiếng Pháp: Elementaire)
Sau đó đến
Lớp nhì năm thứ nhất (Moyen un)
Lớp nhì năm thứ nhì (Moyen deux)
Lớp nhất (Superieux)
Học hết lớp élementaire thì thi lấy bằng sơ
học yếu lược, học xong lớp Supérieux thì thi lấy bằng Certificat, (bằng cao
đẳng tiểu học) có lẽ tương đương với trình độ cấp 2 của ta hiện nay. Sau khi có
bằng Certificat thì có 2 đường học tiếp trung học.
- Học theo hệ thành trung từ năm thứ nhất lên
đến năm thứ tư sẽ thi lấy bằng trung học (tiếng Pháp: Diplome)
- Học theo một hệ khác năm năm thì thi lấy
bằng tú tài, baccalauréat. Có tú tài văn chương, triết học (Bắc philo) và tú
tài toán học ( Bắc math) và có tú tài toàn phần.
Có lú tài bản xứ (Bắc local) và tú tài Tây. Tú
tài toàn phần và tú tài Tây thì có giá trị hơn. Thái Bình lúc ấy có 12 phủ
Huyện. Đơn vị lớn hơn được gọi là phủ, nhỏ hơn là huyện hình như lúc ấy chỉ có
2 nơi gọi là phủ: Kiến Xương (nay là huyện Kiến Xương) và Tiên Hưng (nay nhập
với huyện Đông Quan, thành huyện Đông Hưng). Làng tôi lúc đó tên là làng Thư Điền
(nay là xã Tây Giang) ở bên cạnh làng Trình phố (nay là xã An Ninh). Cả hai
làng lúc ấy đều thuộc phủ Kiến Xương. Nay cả 2 xã đều đã thuộc về huyện Tiền
Hải.
*
* *
Tôi không hiển vì sao lúc ấy ở vùng tôi có mấy
trường khác nhau. ở làng tôi (làng Thư Điền) có một trường hương sư hình như
chỉ có lớp Đồng ấu, dự bị, cơ bản, do một hương sư (thầy giáo làng) phụ trách,
ở Trình Phố có một trường sơ học Pháp Việt cũng chỉ có đến lớp cơ bản
(élémentaire). Còn ở huyện lỵ Tiền Hải trong làng Ngoại đê. Địa điểm đó cách
địa điểm huyện lỵ Tiền Hải hiện nay độ hơn một cây số. Huyện lỵ Tiền Hải hiện
nay ở địa phận đầu xã tôi (xã Tây Giang). ở huyện lỵ Tiền Hải cũng như phủ lỵ
Kiến Xương có truờng có lẽ là cao đẳng tiểu học, có đến lớp nhất (supérieux).
Tôi bắt đầu đi học ở lớp Đồng ấu (Enfautin) tứ lớp l hiện nay ở trường Trình
Phố. Trường này có nhiều trẻ em của các xã Thư Điền, Trình Phố và cả xã ở xa
hơn l chút như Vũ Lăng, Rãng Thông, An Khang, Cao Mại, An Bồi... cũng về học.
Cho nên tôi có rất nhiều bạn quen. Học sinh phần lớn là con trai mỗi lớp chỉ có
2-3 bạn gái, các bạn gái đều con cái nhà giàu có, có thế lực (con quan chức,
địa chủ, phú nông) vì chỉ những nhà đó mới có điều kiện cho con gái đi học. Còn
các bạn gái khác nói chung là không đi học và phải lao động kiếm sống rất sớm.
Tuy vậy cũng có một số không nhỏ các bạn gái. biết đọc, biết viết và tham gia
hoạt động cách mạng rất nhiều. Tuy vậy, tôi chỉ nhớ được một số kỷ niệm với các
bạn trong làng tôi (Thư Điền). Vì chúng tôi cùng làng, nhà ở gần nhau cùng đi học,
cùng chơi với nhau thân thiết nên có nhiều quan hệ chặt chẽ, gặp gỡ và hoạt
động với nhau rất nhiều. Các bạn học của tôi hồi đó rất nhiều và cũng nhiều
người trưởng thành sau trở tafnh cán bộ cách mạng quan trọng (như Nguyễn Đức
Tâm, Trần Xuân Trú, Ngô Duy Cảo, Vũ Trọng Kiên... ). Tôi cũng không biết được
tin tức của hết các bạn, ai còn sống, ai đã mất rồi, chỉ biết là số đã mất cũng
khá nhiều. Những người còn sống thì phần lớn đã ngoài 70 và đã nghỉ hưu từ
lâu..
*
Vừa rồi, đầu năm 1997, có một dịp rnột nhóm 4
người lúc đó thân thiết nhất gặp nhau một bữa ôn lại chuyện cũ. Nhóm 4 người
này có:
- Tôi là Tạ Ngọc Phách tức Trần Độ, người làng
Thư Điền
- Ông Tạ Ngọc Giản tức vũ Trọng Kiên là chú họ
tôi, theo quan hệ họ hàng.
- Ông Tô Hữu Hạnh, người làng Thư Điền.
- Ông Đặng Ngọc Trác tức Võ Quang Anh người
gốc ở Hành Thiện (Nam Định) nhưng cư trú ở làng Trình Phố. Ông Trác hiện nay
đang sống trong Thành phố Hồ Chí Minh vì lúc kháng chiến ông hoạt động nhiều ở
Nam Bộ đã có lúc Tham mưu trưởng ở khu 9.
Trong 4 người: ông Tô Hữu Hạnh lớn tuổi hơn
cả. Ông sinh năm 1920 hay 2l. Còn 3 chúng tôi đều sinh năm 1923.
Các bạn hè chơi thân với nhau thì cũng còn khá
nhiều, khoảng hơn chục người. Nhưng gắn bó gần gũi và thường xuyên thân thiết
với nhau nhiều, gần như là nhóm nòng cốt của lớp, thanh niên làng tôi lúc ấy
chỉ là 4 chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi côn nhớ đến nhung ông Tạ Ngọc Lam, Lê
Ngọc Chữ, Lê Ngọc Nam... cùng đều còn sống cả.
*
* *
Tình bạn chúng tôi thuở đó có những nét đặc
sắc và thú vị. Chúng tôi đều là con của các gia đình nghèo. Chúng tôi không
nghèo đến nỗi, không có gì ăn, mà chỉ là cha mẹ chúng tôi phải kiếm miếng ăn
một cách vất vả cực nhọc. Chúng tôi thường đến nhà nhau, và do có nhiều điều
tâm đầu ý hợp, nên chúng tôi đều coi nhà của mỗi người đều là nhà chung của cả
nhóm. Chúng tôi lấy tên hiệu đều bắt đẩu bằng chữ Hồng, chỉ vì thấy nó hay, chứ
không phải vì nó là màu đỏ Cộng sản. Tôi còn nhớ: Anh Hạnh lớn tuổi nhất tên là
Hồng Minh, anh Trác cao kều tên là Hồng Nhật, tôi tên là Hồng Anh và rất nhiều
Hồng nữa, tôi không nhớ hết khi chúng tôi tụ tập ở nhà ai, thì lập tức nhà ấy
thành là của chung của chúng tôi. Chớng tôi học, ăn, chơi, đừ a nghịch tự do
như ở nhà mình. lhững bậc ba mẹ chúng tôi cũng tự nhiên chấp nhận l tình trạng
đó, và mắng mỗ, khuyên dạy chúng tói một cách cũng rất bình đẳng không:,. phần
biệt. Chúng tôi haỵ tụ tập ở. nhà tôi, nhà anh Hạnh, nhà anh Giản chứ ít khi
đến nhà anh Trác vì anh Trác ở làng khác (làng Trình Phố). Chúng tôi gọi nhà
nhà chúng ta (notre maison) chứ không nói nhà anh, nhà tôi. Đặc biệt đối với mẹ
chúng tôi, chúng tôi đều gọi là Mẹ chúng ta (notre mère) khi nào cần chỉ rõ mẹ
nào thì chúng tôi nói Notre mère kèm theo tên anh con vào:Ví dụ norte mère
Hạnh. Hình như chúng tôi ít khi nói đến bố, vì đa số chúng tôi đều mồ côi bố,
và thông thường chúng tôi hay tiếp xúc với các mẹ và thường được các mẹ che
chở, chu cấp cho nhiều. Suốt thời gian dài trong tuổi thiếu niên chúng tôi sống
trong một tình cảm cộng đồng thân thiết như vậy ít nhất là cho đến lúc chúng
tôi 13, 14 tuổi đã phân tán mỗi đứa đi một cuộc sống khác và xa nhau, nhưng lúc
đó luôn luôn chúng tôi vẫn hỏi thăm nhau và hướng về những notre mère. Trong
những dịp gặp nhau, hình như nội dung công việc hoc tập, chúng tôi ít quan tâm
và cũng ít trao đổi bàn bạc, không có cảnh tổ học tập hay nhóm học tập như bây
giờ. Hoàn cảnh xã hội lúc ấy có nhiều yếu tố tác động vào suy nghĩ chúng tôi.
Vùng chúng tôi, phong trào cộng sản có từ sớm, từ những năm 30. Sau những trận
khủng bố các năm đầu của 30, thì mỗi làng lại xuất hiện một thứ nhân vật hơi
thần bí, mà dân làng thường nói là những người tình nghi. Dù là những người có
quan hệ thế nào đó với các hoạt động cách mạng, mà bị các chức sắc ở làng và ở
huyện tình nghi, họ bị liệt vào loại người phải coi chừng theo dõi. Có người
còn gọi đầy đủ là người tình nghi cộng sản. Chúng tôi đều biết những người này.
Họ thường là vào bậc cha chú và anh lớn của chúng tôi. Tự nhiên chúng tôi thấy
rất thích và kính trọng các người tình nghi. Mà quả thật trong đời thường, đối
với dân làng, họ là những người hiểu biết đứng đắn, đôi khi họ là tác giả các
bài về phê phán một chuyện xấu xa nào đó của cánh hương chức quan lại, mà nhân
dân rất thích đọc và truyền lại cho nhau nghe. Khi trong xóm có việc gì khó xừ,
dân làng thường chờ đợi ý kiến của những người đó.
Lúc ấy ở tỉnh tôi (Thái Bình) quan đầu tỉnh
người Việt Nam là một quan tổng đốc tên là Vi Văn Định. Ông này bị coi là một
tay sai đẩc lực của Pháp và có một người cách mạng ở làng tôi tên là Tô Thúc
Dịch. Ông này có kế hoạch ám sát để trừng trị Vi Văn Định, nhưng ông bị thất
bại, bị bắt tra tấn dữ dội và bị đầy đi Côn Đảo. Ông Dịch là người lấy một bà
cô họ của tôi nên cũng là có họ hàng. Sau việc đấy chúng tôi nghiễm nhiên trở
thành người ngưỡng mộ và ủng hộ ông Tô Thúc Dịch và căm ghét cánh quan lại như
Vi Văn Định, con ông Thúc Dịch tên là Tô Ngọc Thiếp cũng là một trong nhóm
thiếu niên của tôi. Trong không khí như thế, chúng tôi, số thiếu niên học sinh
khi gặp nhau thường bị hấp dẫn với thời cuộc, hay quan tâm tới chuyện đời,
chúng tôi thấy như đường đi chúng tôi đã chọn sẵn rồi: chúng tôi thuộc về những
người cách mạng, thuộc về những người tình nghi cộng sản và chúng tôi yên chí
rnong lớn lên, chúng tôi nhất định sẽ làm những công việc như đánh Tây dành độc
lập cho nước nhà. Chúng tôi mê mải đọc các chuyện cổ của Tầu vành, những truyện
nghĩa hiệp, tôn thờ những người trung quân, ái quốc, những người nghĩa khí,
cương trục, những người hy sinh cho dân cho nước, những người nghĩa hiệp, hay
làm việc hào hiệp cứu dân độ thế.
Những cụm từ lay động tâm hồn chúng tôi rất
sâu sắc là nhục mất nước vong quốc nô, giặc Pháp- giặc Tây... chúng tôi chưa
biết nhiều đến những từ như cách mạng, cộng sản... Nhưng chúng tôi cũng đã trao
đổi với nhau những ký hiệu bí mật: Congsan, CS... và chúng tôi đã loáng thoáng
nghe thấy một tên người Nguyên ái Quốc. và chúng tôi nghe tên đó, như người:
trong đêm tối nhìn thấy một ngôi sao sáng và gần gụi. Và chúng tôi bàn với nhau
rất nhiều và không mệt mỏi về việc đánh Tây và phục quốc. Nhưng với đầu óc non
nớt ngây thơ chỉ có thể cùng nhau tạo nên những chuyện đơn giản và ngây thơ.
Chúng tôi tôn anh Tô Hữu Hạnh, người lớn tuổi nhất như huynh trưởng của chúng
tôi và dự kiến rằng sau này chúng tôi sẽ một nhóm tướng lĩnh tổ chức đánh Tây
để phục quốc. Thành công rồi, thì anh Hạnh sẽ làm vua, các anh khác là tể
tướng, nguyên soái, riêng tôi, tôi xin đến lúc đó sẽ đi tu, không phải tu phật,
mà tu Tiên ( trên núi để được ẩn dật, lánh đời, sống cuộc sống ở nơi hoang vắng
như các vị tiên ông.
Thế rồi chúng tôi biết có một số anh tình nghi
có võ, chúng tôi liền tổ chức xin các anh dạy võ cho. Chúng tôi tập thể thao
thco kiểu ở trườìng, lại học võ Tầu cầc anh dạy và học cả đánh bốc để nâng cao
bản lĩnh. Chúng tôi còn tổ chức một đội bón g đá ớ trong làng và lấy một bãi
tha ma ở đầu làng gần một cái cầu, tên là cầu Các già làm nơi tập luyện và thi
đấu với các đội bạn. Đội bóng cũng là nơi chúng tôi tập hợp để bàn chuyện và kể
chuyện cho nhau nghe. Nói chung, chúng tôi đều me truyện Trung quốc, như Tam
quốc chí, Thủy hử, Song phượng kỳ dnyên, Hán Sở tranh hùng... chúng tôi thường
trao đổi với nhau về các nhân vật anh hùng trong các tiểu thuyết đó. rất thích
thú với những hành vi ứng xử, những bản lĩnh cao cường, và tính cách đặc biệt
của Gia cát Lượng, Quan vũ, Triệu Tử Long, Võ Tòng, Hoàng phủ Thiếu Hoa, Hạng
Võ... và... và các loại tiểu thuyết khi học đến Supcrieuex, chúng tôi đã có thể
đọc các tiểu thuyết ngắn và đơn giản bằng tiếng pháp. Chúng tôi đã biết đến Guy
de Manpassant, Molière, Lamatin. Đặc biệt là tôi, tôi mê mải và say sưa đọc và
tìm sách đọc... Khi tôi bắt đầu học Trung học tôi đã thuộc rất nhiều thơ Tố Hữu
và đóng 2 cuốn sách bìa cứng rất đẹp, để chép thơ của Xuân Diệu và Huy Cận.
Những tình cảm và tư tưởng của chúng tôi cứ
theo chiều hướng ấy mà phát triển.
***
Trong thời gian ấy, chúng tôi còn có một mối
quan tâm và một niềm hào hứng khác cũng rất say sưa: hoạt động xã hội.
Chúng tôi hết sức chú ý đến một tình hình là ở
một số xóm có nạn đói khủng khiếp diễn ra. Chúng tôi rủ nhau ngoài giờ học kéo
đến thăm các gia đình nghèo ở những xóm này. Có một hình ảnh mà tôi còn nhớ đến
bây giờ: chúng tôi vào một nhà, nhà vắng hết người lớn chỉ có 2 chị em còn bé.
Đứa chị độ 10 tuổi bế đứa bé độ 3 -4 tuổi, hai đứa đều rách rưới gầy gò, chân
tay khẳng khiu như cây sậy, 2 cái đầu thì to quá cỡ, 4 con mắt thô lố trong rất
kinh hãi. Con chị thấy chúng tôi vội bế em chạy ra, nhưng khi nó bước qua
ngưỡng cửa không cao lắm thì nó không đủ sức đỡ được 2 cái đầu to và nặng, nó
và em nó bị ngã lăn kềnh ra, chúng tôi chạy đến đỡ vì, nghc tiếng kêu: cháu đói
quá! Được thấy như vậy chúng tôi về vận động các học sinh bạn chúng tôi trong
lớp quyên tiền và gạo, rồi chúng tôi mua gạo và tổ chức nấu cháo hết giờ học
kéo đến từng nhà phân phát cho những người đó. Việc làm rất có tiếng vang,
chúng tôi đi đến đâu, đều được các em bé và cả người lớn người già đón tiếp và
đi theo chúng tôi để mong được nhận bố thí. Chúng tôi rất thương những người
đói, nhưng việc làm chúng tôi nhỏ bé quá không thấm thía vào đâu. Trong khi ấy
có một xóm ở gần trường là xóm của những địa chủ lớn. Các địa chủ phần lớn họ
Đinh và con cái họ cùng học với chúng tôi và là bạn chúng tôi. Chúng tôi liền
bàn bạc và thuyết phục các bạn ấy đưa chúng tôi về nhà để chúng tôi trực tiếp
quyên góp các địa chủ, chỉ có họ mói có thể có một số lớn lương thực để cứu
giúp dân được. Tôi nhớ, có một cuộc tôi đi vào nhà một địa chủ. Hình như ông ta
tên là Huyện Tô. Ông ấy tên là Tô, còn chữ Huyện là chức danh mua bằng tiền,
chứ không phải ông ấy là quan huyện. Con ông từng học với tôi và cũng là một
người tương đối thân với tôi, nên tôi mới vào nhà ông.
Không ngờ, tôi được ông này trả lời như sau:
Các cậu còn bé thế, tôi làm sao tin các cậu mà quyên với góp! Việc giúp người
nghèo là việc tốt. Các cậu làm thế cũng là tốt nhưng chúng tôi người lớn, có
làm việc cứu giúp gì chúng tôi tự đứng ra làm thì còn có tiếng tăm danh dự, chứ
chúng tôi dại gì lại đưa tiền cho những trẻ con như các cậu.
Thế là chúng tôi thất bại. Những việc đó hình
như cũng có tác động, một số địa chủ sau đó có đứng lên tổ chức phát chẩn cứu
giúp một số dân nghèo qua cơn nguy kịch và chúng tôi cũng được dân làng yêu mến
hơn.
*
*
Chúng tôi còn thích thú một loại hoạt động
khác, mà chúng tôi mơ hồ cảm thấy như có được những hành vi nghĩa hiệp, cứu
khốn phò nguy. Đó là chúng tôi tự vận động tổ chức trang bị cho mình mỗi người
một cây gậy dùng gỗ chè gìa lấy từ trong các vườn chè một số gia đình thải ra,
gậy dài độ l,2m đến l,5m, to bằng cổ tay. Tối tối, chúng tôi phân công nhau
thành từng tốp, mỗi tốp 2 -3 người, đi tuần quanh xóm làng cho đến khuya để
cảnh cáo và phòng bị các tên trộm hay đi ăn trộm ở các nhà. Tôi cũng nhớ là
chúng tôi không có can thiệp được vụ nào có kết quả rõ rệt. Nhưng chúng tôi
cũng tin rằng hoạt động đó của chúng tôi có góp phần bảo đảm an ninh cho dân
làng. Chúng tôi cứ phải đi với nhau 2-3 người là vì dù sao chúng tôi cũng còn
bé và còn sợ... ma.
Những hoạt động này kéo dài cho đến về sau
này, khi hoạt động bí mật, thì chúng tôi là những đội viên thiếu niên bảo đảm
an toàn và đưa đón cán bộ cấp trên về sống và hoạt động trong xã. Chúng tôi đón
cán bộ đưa về chỗ ở, bố trí người canh gác và tiếp tế lương thực, đưa tin tức
cho các cán bộ cấp trên về hoạt động trong xã. Đó là vào những năm l 940, chúng
tôi bắt đầu bước vào tuổi thanh niên.
Ngày 2l/4/1997 chúng tôi có dịp họp mặt nhau 4
người. ở Hà Nội có tôi, ông Vũ Trọng Kiên, ông Tô Hữu Hạnh vào, ở Thành phố Hồ
Chí Minh ra có vợ chồng ông Võ Quang Anh. Chúng tôi họp mặt ở nhà ông Vũ Trọng
Kiên, có ông Hạnh đã 78 tuổi và 3 chúng tôi bằng tuổi nhau (đều 74-75). Anh
Hạnh còn rất khỏe và đi tập đều ở Câu lạc bộ. Chúng tôi gặp nhau một buổi, ôn
lại những kỷ niệm cũ và bảo nhau ghi lại như trên đây, tôi ghi.
Cuộc gặp nhau xúc động và rất vui vẻ. Tôi còn
có một nhóm bạn khác, khi tôi đã học Trung học. Sau 1938 tôi đỗ bằng Certificat
(Cao đẳng tiểu học), mẹ tôi lại chăm lo và khuyến khích tôi đi học nữa và tôi
phải đi Hà Nội để học tiếp Trung học. Nhà tôi nghèo không có tiền ăn và tiền
học. Mẹ tôi phải đi gặp gỡ các bạn của bố tôi trước, nhờ các cụ giúp đỡ. Và mẹ
tôi gửi tôi ở nhà chị cả lấy chồng ở Hà Nội. Mẹ tôi chỉ lo được một tháng 3
đồng bạc đưa cho chị tôi, gọi là trả tiền ăn. Còn tiền học thì nhờ ông bạn bố
tôi có người quen mở trường tư giúp đỡ cho tôi được học không phải nộp học phí.
Trường đó lúc đó gọi trường Hàng Đẫy (tiếng pháp là Duvillier) ở phố Hàng Đẫy
nay gọi là phố Nguyễn Thái Học - Hà Nội. Tôi học được hết năm thứ nhất (Thành
chung) và nửa năm thứ hai. Rồi vì tôi cũng chán học và vì không có tiền, nên
tôi bỏ học để về quê tham gia hoạt động cách mạng, lúc đó là cuối năm 1939 đầu
năm 1940. Trong 2 năm học ở trường Anh P.L và anh K. Đ. thành một nhóm chơi
thân với nhau: Anh P.L chơi đàn ghita havaien, anh K.Đ làm thơ, tôi thì thích văn
chương. Cả 3 người đều thuộc loại nhà nghèo nên gắn bó bênh vực nhau chống lại
sự khinh bỉ và bắt nạt của cánh con nhà giầu.
Sau năm 1940, thì mỗi người một số phận đi
theo một ngả đời, cho đến năm 1975, không gặp mặt nhau, tuy vẫn hỏi thăm tin
tức về nhau.
Anh P.L. sau đó đi học nông nghiệp ở Pháp và
Anh, rồi thành một chuyên gia nông nghiệp tầm cỡ dưới chính quyền của Diệm và
Thiệu. Anh chỉ thích làm chuyên môn mà không quan tâm chính trị và không màng
quan chức. Sau năm 1975 vì hoàn cảnh gia đình, anh sang Mỹ và sống với gia đình
(Vợ anh và 3 con anh). Anh sống ở mức sống trung lưu vì chị ấy và các con anh
đều làm việc và có lương. Anh không phải dựa cháu nào. vào trợ cấp xã hội của
Mỹ. Anh có trang trại nhỏ vì anh vẫn thực hiện chuyên môn của anh, trong trại
anh. Tôi nhận thấy anh là một người yêu nước, cương trực và trọng nghĩa khí, có
kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cao. Nhưng rất tiếc anh ít gặp điều kiện
thuận lợi để sống được như ý mình.
Còn anh K. Đ thì do nhận một nhiệm vụ của cách
mạng, anh phải sống suốt từ năm 1945 đến 1975 ở Sài gòn và cũng có 4 người con
trai, hiện các cháu của anh đều làm ăn và sống ở nước ngoài. Chị vợ anh đã mất
từ lâu (khoảng những năm 80). Anh đã tái hôn với một bà khác và có nhiều cháu
nội.
Sau 1975, tôi liên lạc ngay được với anh K.Đ ở
Sài Gòn, và chúng tôi lại khôi phục tình bạn xưa kia. Sau đó ít lâu tôi liên hệ
được với anh P.L trong một dịp anh về thăm lại Tổ Quốc (hình như vào khoảng 90
hay 91). Từ đó chúng tôi cũng hay gặp nhau nhất là trong các dịp anh P.L về nước.
Anh đã đưa 2 con trai của anh ở Mỹ về cưới vợ trong nước, một cô ở Sài Gòn và
một cô ở Đà Nẵng. Cũng đôi khi 3 chúng tôi gặp nhau, cùng ngồi ôn lại những kỷ
niệm xưa, và rất lấy làm vui sướng. Ba chúng tôi bằng tuổi nhau hoặc có chênh
lệch thì chỉ một tuổi. Tuy 3 cuộc đời cách biệt và xa lạ nhau nhiều nhưng chúng
tôi gặp lại nhau thì những tình cảm và kỷ niệm thời niên thiếu lại quyện chặt
với chúng tôi. Kể ra cả 3 chúng tôi đều còn sống và gặp nhau vào lúc tuổi đã
ngoại 70, trong hoàn cảnh đất nước đã hòa bình và đang phát triển. Chúng tôi
đều thấy quãng đời hơn 50 năm của mỗi người đều có những ý nghĩ và ý vị rất lý
thú.
Hết Chương 2 Xem Tiếp Chương 3:
Chương 3: VÀO ĐẢNG
Sau khi bố tôi mất, mẹ
tôi ở vậy nuôi con, lặn lội và bao dung như bản chất bà vẫn có.
Vào khoảng 1940, tôi
được tham gia một cuộc mit tinh bí mật tại địa phương. Cái cớ để tổ chức cuộc
họp là kỷ niệm danh nhân Lý Thường Kiệt hay Phạm Ngũ Lão, lâu ngày tôi không
còn nhớ rõ, nhưng chỉ là một trong hai nhân vật lịch sử nổi tiếng đó. Lần đó,
tôi thấy -vai trò của bà chị tôi cực oai. Bà là người sắp đặt công việc, điều
động nhân lực lại còn là đại diện cho Đảng Cộng sản đứng lên diễn thuyếr trước
thiên hạ. Trong khi chuẩn bị, bà giao nhiệm vụ cho tôi là huy động thanh niên
đi bảo vệ cuộc mít-tinh, vì rất có khả năng bị khủng bố. Đám trai trẻ chúng tôi
được thế thì khoái trá hẹn nhau mỗi thằng sắm một cái gậy tre gộc để nếu xảy ra
bất trắc thì dùng làm vũ khí chống trả. Quần áo thì cứ đồ nâu sẫm dễ kiếm và
cũng tiện cho việc đi đêm. Cả nhóm chúng tôi hào hứng sôi nổi, bí mật thì thào,
trao đổi, kín kín, hở hở ở nhà tôi. Mẹ tôi cứ lặng thinh như không hay biết gì
cả.
Gần đến ngày tổ chức,
bỗng cụ hỏi thật tự nhiên:
- Này, chúng mày cho
mẹ đi với chứ? Điền chắc chắn là cụ chưa biết các con mình làm gì. Song lòng cụ
có niềm tin vững chắc là bọn con mà tham gia thì việc đó là cần và cụ muốn cùng
có mặt bên các con và khẩn khoản:
- Cho mẹ đi với.
Chị tôi khéo léo khước
từ.
- Mẹ ạ, nhà chỉ ba mẹ
con. Em nó và con đã nhận phần việc, không thể không có mặt. Mẹ cũng đi nữa thì
đêm hôm nhà bỏ không ai trông sao? Bọn con đinh ninh có mẹ ở nhà mới dám nhận
việc đấy chứ.
Nghe con gái trình hày
như một sự phân công thỏa đáng, bà cụ lẳng lặng thu dọn nhà cửa. Nhìn vẻ nhẫn
nhịn của bà thật đến rầu lòng. Chúng tôi ra đi với ánh mắt mẹ thỏa thuận và
khuyến khích. Trước nay vẫn vậy, cụ như hiểu công việc của các con là quan
trọng và tự nguyện giữ kín cho con cái. Cảnh chúng tôi đi đêm đi hôm thất
thường cụ chẳng cật vấn, phàn nàn lấy một lần. ánh mắt bao dung của bà làm hai
mẹ con thành đồng hội đồng thuyền.
Cuộc mít tinh đêm ấy
tập hợp ngót ngàn ngườí tham dự. Thật là hùng vĩ! Quang cảnh chưa hề có. Bọn
tuần phiên ở địa phương cũng đã đánh hơi được nên chúng ập tới xua đuổi và tìm
cách bắt giữ những người chủ mưu.
Cũng nhờ có bố trí các
trạm gác ở mỗi ngả đường nên có báo động là bà con cứ theo lối đã được phân
định mà thoát, chỉ một hai người lớ ngớ bị bắt giữ nhưng không bị lộ vì họ chỉ
là phần tử thấy lạ thì đi theo. Tôi chạy thoát sang thôn bên, đến nhà một người
bạn thân, tính xin trú qua đêm.
Trong phút chộn rộn
qua, lòng tôi cứ nóng như lửa đốt vì lo cho mẹ. Bên thôn tôi tiếng chó sủa dữ
quá về phía khu vực nh à tôi. Bạn tôi bàn tính hay dt v khuyên tôi ở lại đến
sáng hãy tính. Tôi không thể dằn lòng được nên quyết xin bạn ra về. Sự băn
khoăn về mẹ làm tôi lao đi quên hết ngại ngùng. Đến cổng nhà, tay vừa đụng vào
cánh cửa, tôi chưa kịp lên tiếng gọi thì lập tức cánh cửa mở và trước mắt là
mẹ. Bà kéo ngay tôi vào nhà và giục:
- Thay quần áo đi! Lấy
đồ trắng mặc vào rồi lên giường nằm đó.
Tôi xúc động líu ríu
làm theo, lòng thắm đậm niềm vui sướng được mẹ chăm chút như vậy. Hẳn là khi
xảy ra chuyện, nghe chộn rộn bà đã lo lắng lắm, đã đứng sau cánh cửa chờ con từ
lúc ấy đến giờ, đã đánh thức, bảo vệ con cái. Khi tôi vừa cởi bộ quần áo nâu,
bà liền lấy đem giũ xuống ao bên nhà để phi tang ngay. Đêm ấy, chị tôi không
về. Chốc chốc mẹ tôi lại hỏi:
- Thế chị con đâu?
- Con không biết, hai
chị em mỗi người chạy một ngả.
Càng về khuya mẹ tôi
càng lộ vẻ bồn chồn lo lắng. Tôi phải trấn an:
- Mẹ ơi, chị con thành
thạo mọi việc. Chính chị đã bày vẽ cho bọn con cách tuần phiên. Vì vậy con tin
là chị ấy thoát yên lành, mẹ đi nghỉ đi, sáng sẽ hay. Mẹ như thế làm chị con lo
lắm đây!
Sáng tinh mơ đã có một
người gõ cửa hỏi mua giò. Trước nay chưa bao giờ có ai hỏi sớm như thế.
- Nhà có giò đấy, mời
chị vào.
Chị là người mua giò
thật hay là kẻ dò la! Tôi đang băn khoăn suy tính để đối phó, thì người đi mua
hàng sà tới nhét vào bàn tay tôi mảnh giấy. Đó là tin chị tôi nhắn về. Chị đang
ở điểm X, mẹ và em hãy yên tâm. Chiều chị về
Mãi hai ngày sau, tri
huyện mới đi ô tô về làng lùng sục đe nẹt. Ngày ấy, cứ ô tô về làng là có
chuyện nghiêm trọng. Hai chị em tôi cũng lo thắt ruột, bàn tính mọi việc nếu
xảy ra điều chẳng lành! Song cả hai chúng tôi còn có ý định bám một thời gian
nữa mới thoát ly.
ở làng có một người
bạn gái nhỏ hơn chị tôi mấy tuổi cùng hoạt động. Chị này đến nhà tôi, vẻ hớt
hải, hối thúc:
- Thôi chết, tại sao
giờ nầy chị Thư còn ở nhà. Tụi nó đến bắt bây giờ đi ngay đi chớ. (Thư là bí
danh của chị tôi thời ấy)
Miệng nói, chân bước,
chị đă xông ngay vào buồng rút hết quần áo của hai chị em tôi nhét vào chiếc
thúng mang theo. Hai chị em tôi chỉ còn kịp xin phép mẹ:
- Chúng con đi ít lâu,
mẹ nhé!
Mẹ tôi bình thản đáp:
- ừ các con đi đi, yên
tâm mà làm việc. Nhớ giữ gìn sức khỏe, đừng để thua chị kém em. ở nhà mẹ tự lo
liệu được. Không phải bận tâm gì về mẹ cả.
Miệng an ủi chúng tôi,
bà cụ tranh thủ xếp gọn lại quần áo của hai chị em tôi vào trong thúng. Tôi
nhìn mẹ, lòng xót xa như xát muối:
- Thôi mẹ ơi, cứ xem
như ngày nào con lên Hà Nội đi học. Đi rồi lại về với mẹ thôi mà.
Song, chuyến báo động
đó không do địch lùng sục. Đúng như chị tôi đã cãi lại rằng tình hình đang yên
tĩnh, chưa có dấu hiệu gì tỏ ra bị lộ, cứ lưu lại ít ngày nữa xem sao! Mà có
tình hình gì nữa thì cũng không thể phó mặc quần chúng mà đi như thế. Chị kia
cứ khăng khăng phải tránh đi mà tính toán đối phó nắm phần chắc hơn là để bị
động với chúng. Về sau mới vỡ nhẽ là vì tình yêu mà chị ta đã bày ra chuyện như
thế. Tôi cũng mới hay là được chị ấy yêu nồng nhiệt đến thế.
Lúc này và cả một thời
gian dầi sau này, chính chị tôi giao công việc cho tôi. Chị đã là Đảng viên và
trực tiếp dìu dắt tôi. Tôi thấy chị thỉnh thoảng lại đi vắng lâu, có khi đến
hàng tuần lễ nhưng không rõ chị làm gì. Sau mới hay lúc đó, chị ấy đã là Tỉnh
ủy viên. Những chuyến đi vắng nhà qua đêm là chị lên xứ ủy nhận chỉ thị. Trở về
chị lại giao nhiệm vụ mới cho tôi và tôi dốc sức hoàn thành trách nhiệm, quên
cả nguy hiểm.
Đơn vị hành chánh thời
đó trên xã có tổng - trên tổng là phủ. Tôi được giao nhiệm vụ tổ chức thanh
niên ở xã, rồi thống nhất tổ chức, thanh niên các xã lại thành đơn vị tổng và
tôi được anh chị em bầu làm bí thư tổng. Đó là thời kỳ của tổ chức thanh niên
Dân chủ lan chuyển thành Thanh niên phản đế. Tôi lại đứng ra liên hệ với các
tổng khác, lập ra tổ chức thanh niên của phủ. Lúc hoạt động ở xã, tôi được chị
gái giao nhiệm vụ lên nói chuyện ở nhiều buổi mít tinh, quanh các chủ đề truyền
thống đấu tranh dành và bảo vệ độc lập dân tộc, tình hình thế giới và cảnh nước
nhà lúc đó. Các cuộc nói chuyện của tôi gây được ấn tượng mạnh đồng thời tôi
lại mở rộng được việc kết nạp hội viên mới. Rồi một hôm bỗng chị tôi hỏi:
- Thế chú có muốn tham
gia một tổ chức cao hơn không? Tôi liền thắc mắc hỏi lại: Thế em chẳng tham gia
tổ chức là gì?
Chị bảo:
- Tổ chức cao hơn kia.
- Cao hơn là tổ chức
gì?
Tôi cứ cật vấn chị như
vậy. Sở dĩ tôi hỏi là vì bấy lâu vẫn tưởng mình là cộng sản rồi, còn gọi tên
này tên khác chẳng qua là cách gọi do yêu cầu giữ bí mật. Chị tôi liền bảo: đó
là Đảng cộng sản, em có muốn tham gia tổ chức Đảng không? Thế thì em mong quá..
Thâm tâm tôi có chút bị hẫng vì bấy lâu vẫn tưởng mình là cộng sản. Song nỗi
mừng thì vô hạn. Nghe thế, chị chẳng nói chẳng rằng trao tôi cuốn điều lệ Đảng.
Mấy hôm sau, chị tôi bảo:
- Đi họp với chị!
Tôi băn khoăn hỏi:
- Họp gì thế chị.
- Đi rồi khắc biết.
Đến nơi, mới vỡ lẽ ra
là họp chi bộ. Có khoảng năm sáu người, trong số đó có: chị Trương Thị Mỹ. Buổi
họp đã tuyên bố kết nạp tôi là Đảng viên dự bị (lúc này vào khoảng đầu năm
1941). Thế là thoát ly vừa được hai tháng rồi đã được vinh dự đứng trong hàng
ngũ tiên phong. Hai đồng chí phụ trách vùng tôi thời ấy là các anh Đào Năng An
và Nguyễn Thượng Mẫn. Cả hai tỏ ra quan tâm đến lớp trẻ, đặc biệt là thanh niên
có học hành ít nhiều. Tôi thuộc thành phần học sinh đáng lẽ phải dự bị trong
sáu tháng, nhưng hai anh đã xét công nhận chính thức, đặc cách cho tôi trước
thời hạn. Trở thành Đảng viên chính thức, tôi được phân công phụ trách một vùng
với các chi bộ các xã ở trong phủ. Thời đó phủ Kiến Xương có một phủ ủy tức là
ủy ban chấp hành Đảng trong phủ. Tôi được bầu vào phủ ủy và được chỉ định làm
phó bí thư. Sau đó anh bí thư bị bắt, tôi trở thành bí thư phủ ủy. Đến cuộc họp
toàn tỉnh là sau này lịch sử đảng bộ Thái Bình gọi là Đại hội, chủ toạ cuộc họp
có đưa ra một danh sách đề cử vào ban chấp hành mà chân tỉnh ủy viên dự khuyết
là Tạ Ngọc Phách (tức là tôi: Trần Độ). Danh sách đề cử đó được hội nghị tán
thành. Rồi sau đó được phân công phụ trách thanh niên của tỉnh Thái Bình và là
người bí thư tỉnh ủy đầu tiên ở địa phương. Với danh nghĩa là tỉnh ủy viên dự
khuyết, phụ trách thanh vận, tôi tự tin lắm và cũng dám hoạt động mạnh hơn. Tôi
phát triển nhiều cơ sở thanh niên, đặc biệt là dám xông vào vận động số thanh
niên trung học ở thị xã. Tôi ra được tờ báo của Thanh niên. Tiếp theo là tổ
chức Đại hội Đoàn thanh niên toàn tỉnh. Chưa kể việc tôi đi vận động nhiều cuộc
đấu tranh khác. Chỉ trong vòng hai tháng mà tôi làm được như vậy kể cũng nhiều.
Để phát triển thanh niên thị xã, nhất là số trung học tôi thích dừng cách kỳ bí
ảnh hưởng của tiểu thuyết trinh thám. Tìm đối tượng thân quen mà tôi tin tưởng
bồi dưỡng kỹ càng rồi sắp xếp cho họ bắt mối rộng ra. Cùng nhiệt huyết như
nhau, nên công việc nhân mối cứ tăng theo cấp số nhân. Trong số này có con trai
nhà văn nổi tiéng Nguyễn Công Hoan tức Nguyễn Tài Khoái. Tiếp xúc với Khoái,
tôi giao trách nhiệm nhân mối thêm. Khoái vui vẻ nhận lời. Chính từ đấy mà tôi
với bà Lê Minh gián tiếp biết nhau, nói cho đúng là qua Khoái tôi biết bà ấy,
chứ bà không biết tôi. Được hơn một tháng, mấy vị làm hăng quá gần như công
khai nên công việc bại lộ và bị bắt giữ. Trông số bị bắl này có cậu con trai
ông Nguyễn Công Hoan - lúc này ông đang dạy học ở Thái Bình. Một số cậu khác
cũng thuộc các gia đình công chức trong tỉnh. Điều đó đã làm tay công sứ Pháp ở
Thái Bình phải suy tính và hắn đã ra lệnh thả hết.
Có thể nói hoạt động
cách mạng của tôi bắt đầu năm 1938 là năm phong trào dân chủ lên cao, báo chí
ra nhiều, cùng với việc ra đời mặt trận Bình dân. Từ thoái trào cách mạng sau
Xô Viết Nghệ An 1930, đến lúc này lại nổi lên cao trào doi dân chủ khá mạnh và
khá rộng.
Năm 1939, tôi làm báo
Người mới cùng ông Nguyễn Thượng Khanh tức Trần mai Ninh ở Hà Nội. Trong cuộc
ruồng bố của thực dân Pháp năm đó, tôi bị chúng bắt giữ. Nhưng không có chứng
cứ gì để buộc tội, chúng phải thả tôi ra. Tôi lại đi học tiếp.
Cuối 1939 đầu 1940,
những người tôi thân quen bị bắt nhiều. Cảm thấy mình bơ vơ trơ trọi giữa nơi
đô hội này, tôi sinh chán học, bỏ học về quê hoạt động và được kết nạp Đảng năm
194l. Cho đến cuối 1941 đầu 1942, tôi lại bị bắt bị khảo tra ác liệt và chúng
đưa ra tòa án Thái Bình xử tôi 15 năm tù. Tnước tòa tôi đã mạnh dạn vạch trần
tội ác kẻ đi đô hộ và Chính phủ Nam triều và tôi chống án. Chúng phải gởi hồ sơ
của tôi về tòa Thượng thẩm Hà Nội để xử lại. Đó là vào mùa thu 1942. Khởi đầu
quãng đời hoạt động của tôi đã diễn ra như vậy. Giữa lúc phong trào bình đân
đang lên cao cuốn hút lớp trẻ vốn sẵn sự quan tâm đến thời thế và tương lai đất
nước. Chúng tôi, lớp trẻ được học hành ít nhiều, đến với cách mạng như một lẽ
sống, tự nhiên, thoải mái, phần nào còn hứng thú vì tính ly kỳ, cái mạo hiểm
của công việc cách mạng. Người ta bảo thanh niên đồng nghĩa với cách mạng, kể
cũng có cơ sở.
Hết Chương 3 Xem Tiếp Chương 4
Chương 4: NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI:
Là một học sinh
thôn quê đang độ tuổi 17-l8, tôi hoạt động với ít nhiều chất mạo hiểm, phưu
lưu, ảnh hưởng của các nhân vật trong các truyện Tàu và truyện trinh thám nước
ngoài mà tôi đọc bằng tiếng Pháp. Đứng vào hàng ngũ của tổ chức, tôi cũng chỉ
hiểu một cách đại khái đấu tranh giai cấp là quyết liệt gay go.
Trong hoạt động hàng ngày, tôi vẫn cảm thấy cái sức lực bẻ gãy sừng trâu của
tuổi mới lớn chưa được ứng dụng và nhìn kẻ địch cũng tầm thường thôi. Việc qua
mặt chúng, tôi tự thấy thừa sức. Hôm bị bắt - tôi bị bắt lần thứ hai vào cuối
năm 1940 đầu 1941 tại Thái Bình, tôi đã nung nấu tìm cách thoát để tiếp tục
hoạt động. Vì chúng cho tôi là nhân vật quan trọng nên để tôi ngồi cùng ô tô
với chánh mật thám (hồi ấy là tên Lanec -em)[1]. Tôi đã tính cách chồm lên giàng tay tài
xế cho xe lao xuống ruộng, tôi sẽ có cơ hội thoát. Nhưng lại nghĩ hai tay mình
đã bị cùm, mà chúng nó thì đông làm sao thoát được.
Xe chạy đến sở mật
thám tỉnh, ý định đó của tôi chỉ còn giữ trong đầu. Đêm đầu tiên ở nơi giam giữ
ẩm thấp, tối tăm, đầy rệp, sặc mùi gỗ mục, hắc ín. Tôi nằm nghe tiếng muỗi bay
như trấu, cùng tiếng rú ghê rợn từ một nơi đang tra tấn vọng tới. Rổi tình
huống này cũng không làm tôi quan tâm nữa. Tôi chỉ thấy tiếc đến bồn chồn ruột
gan, như là một nỗi đau khổ, tiếc đến đứt rnột những chương trình kế hoạch đang
mở đầu hoạt động của tôi.
Những trận tra tấn mà
tôi biết mình sắp phải trải qua vẫn chưa làm tôi bận tâm. Tôi nghĩ tới cuộc đấu
tranh của Lê nin, của Đmitrốp trước kẻ thù, tôi nhớ lại những chuyện được nghe
về tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Việt Nam khi bị bắt, rồi tôi tự xác
định một cách gọn nhẹ, đơn giản là Không biết! Không biết! chỉ có thế cho đến
chết...
Thế rồi cuộc chiến đấu
diễn ra..
Tại sở mật thám Thái
Bình, tôi đã qua gần một tháng trời thử thách, trực diện đương đầu với sự tàn
bạo của kẻ thừ giai cấp. Chúng giam tôi qua ba nơi và ở mỗi nơi tôi lại có phát
hiện mới mà truớc nay chưa hề nghĩ tới. Khi bị giam một mình ở một nơi riêng
biệt (là cửa một chuồng xí) tôi luôn luôn căng thẳng chờ đợi, thoảng hơi thuốc
thơm, tiếng chìa khóa tra ổ, một tiếng giầy, tôi đều chuẩn bị nhận một trận đòn
thù. Rồi nhận ra quy luật hành sự của chúng, tôi lại chú ý tranh thủ những phút
yên tĩnh. San khi tra tấn chúng vứt tôi và đóng cửa lại, bỏ mặc. Tối thiểu, tôi
có mười phút yên tĩnh: Hoặc trong những bữa ăn hàng ngày, hoặc lúc chúng kéo
nhau đi chơi bời hay lùng sục đâu đó. Những lúc như vậy tôi lại thả hồn vào một
cuộc trốn táo tợn, phác một hoạt động cho chi bộ tôi phụ trách. Tôi hình dung
ra một cuộc họp mặt sôi nổi, thắm thiết với mấy đứa bạn thân. Có lúc ước làm
một Triệu Tử Long hay Tiết Nhân Quý để đảo lộn tình thế.
Thằng chánh mật thám
trực tiếp hỏi cung tôi. Tôi vốn tự xem mình là con người bình thường. Trong
buổi hỏi cung, tôi có được trạng thái bình thường và trả lời như thường. Chỉ
đến những câu hỏi lục lọi của hắn thì tôi nói không biết. Xoay mãi, thằng
Lanée-em lộ vẻ tức giận, đe dọa. Tôi vẫn đáp là: đã nói cả rồi còn các việc
khác thì tôi không biết. Hắn lại giao tôi cho thằng Tây lai tên là Talông tra
khảo. Thằng này có vóc người to khỏe, chân tay thân mình đẩy bắp thịt trông như
một vận động viên có hạng, giữa lúc đó mà tôỉ cứ ao ước thầm là tập tành cho
được như nó. Hắn biết tiếng Việt nhưng nói ngọng dấu. Xem ra hắn cũng lành nghề
đồ tề lắm, thẳng tay đánh đập và chọn chỗ đích đáng trên người tôi để quất roi.
Hắn xoay hỏi vặn vẹo, thì tôi bảo: tôi đã nói rồi, còn thì tôi không biết làm
sao mà nói. Chiếc roi cặc bò trong tay hẩn lại vung vun vút. Mỗi nhát roi quất
xiết lên da thịt rát bỏng như có lửa táp dao cắt nhưng chẳg mấy chốc chổ đó tê
đi. Thằng Talông đổi chổ quất, khai thác cho hết sự đau đớn của cơ thể con
người. Người tôi đầm đìa mồ hôi và máu, quằn quại dưới làn mưa roi... đến mức
vãi phân vãi đái lênh láng. Bần thỉu hôi thối quá. Thằng Talông không chịu nổi
phải ra lệnh đưa tôi đi.
Một dạo, chúng giam
tôi chung với các đồng chí khác ở nhà giam lớn. Tôi sống qua những giờ phút
tràn ngập tình yêu thương cách mạng. Sau buổi tra tấn trở về tôi được các đồng
chí hết lòng nâng đỡ săn sóc như ruột thịt. Anh em nhẹ nhàng ôm ấp tôi, đỡ tôi
nằm lên đùi để xoa bóp. Có lúc hết dầu xoa, anh em gom từng xu gửi mua ngoài
về, tiếp tục xoa bóp cho toi. Đồng chí T. già ôm tôi trong lòng vỗ về: Khổ thân
thằng con tôi. Nó đẹp thế này! Tôi đâu có nỡ đánh nó lấy một roi. Tiên sư đế
quốc! Nó hành hạ con tôi... Sung sướng và kiêu hãnh, tôi nằm im trên bắp đùi
xương xẩu của đồng chí già, lặng ngắm khuôn mặt nhăn nheo như khắc họa những
ngày sóng gió của cách mạng thời kỳ 1930-1931 mà đồng chí từng trải qua và
thường kể lại với lớp trẻ chúng tôi. Trong tôi, lắng đọng cái chất của cuộc đời
đấu tranh, tình cảm bao la của con người chiến sĩ. Cùng lúc chúng bắt được chị
cơ sở từng có cảm tình với tôi như tôi đã nói. Chúng dò la thế nào mà biết được
chuyện đó. Thế là chúng đưa cả hai ra tra khảo cùng một lúc ở một chỗ. Đánh đập
chán vẫn chẳng moi được gì chúng bày trò gợi ra cho chúng tôi cái viễn cảnh
được tự do và vợ chồng sống với nhau cho thỏa. Cả hai chúng tôi chỉ im lặng
nghe và rán sức chịu đau đớn. Tôi bắt đầu cảm giác người mình như cái bị vải,
không còn cảm giác nhột, mà chỉ ê ẩm thôi. Thằng Talông thẳng tay quất đến vã
mồ hôi mà tôi không còn cảm giác bị đốt bị cắt nữa.
Sức tôi cũng kiệt đi
rõ rệt. Đến một hôm, chúng điệu tôi đi tra khảo. Vẫn những câu hỏi ấy và roi
cặc hò vung vãi lên thân thể tàn tạ của tôi. Rồi chúng mang ra một bát cơm
trắng cùng một bát cứt và đôi đũa
- Mày muốn ăn gì hả?
Cơm đó, nói đi thì ăn. Không thì ăn cứt đi!
Tôi giận sôi lên buồn
nôn nhưng quyết không để chúng kéo dài trò tra khảo này. Tôi bảo:
- Tôi không biết, làm
sao mà nói! Rồi tôi thản nhiên bưng lấy bát cứt, cầm đôi đũa ghém lại như sắp
và vào miệng.
Hắng, thằng Lanec thấy
thế ngoảnh mặt đi. Tôi tiếp tục vun vén bát cứt. Lòng căm tức cũng giúp tôi bớt
kinh tởm, càng nung nấu ý chí làm thất bại sự đểu cáng của chúng. Bữa đó mồm
mép mặt mũi tôi đầy cứt và tôi cố tình làm vung vãi bál cứt, buộc chúng phải bó
ra khỗi phòng. Chúng giở đến đòn tra điện. Tôi có nghe tả về đòn tra điện. Cái
ma-nhê -to quay tay rít lên và dòng điện giật khắp cơ thể, buốt tận óc, buốt
từng lỗ chân lông, cường độ giật tăng giảm theo tay quay mau hay thư thả. Ngày
đó, bọn mật thám ở Thái Bình không có ma-nhê-to để tra. Chúng dùng đòng điộn
thẩp sáng với các que sắt và lấy que đó quệt lén người tôi. Điện mạnh hơn
nhiều, giật cũng kinh khủng hơn, để lại những vết cháy da thịt. Đau đớn lộng
óc, buết không thể tả nổi, phần do điện giật, phần do da thịt bị đốt cháy. Tôi
ngất đi khi nào không hay. Những giờ phút yên tĩnh - tức là không bị gọi đi tra
tấn - tôi thường ngồi giữa các anh, các chị. Các anh bôi dầu, bắt chấy, các chị
vạch từng tà áo bắt rận cho. Tất cả như đã quên hẳn tình huống của bản thân mà
chỉ chăm lo cho tôi. Các chị trẻ tuổi cùng lứa kín đáo nhìn tôi lộ vẻ lo lắng
pha sự khâm phục. Những ánh mắt đưa nhanh nhưng rất xao xuyến bám chặt lấy tâm
tư tôi. Có lần chị S mạnh dạn đón tôi ở cửa chuồng xí để đưa tôi hai miếng kẹo
lạc. Chị nói trong hơi thở gấp như cầu xin mà cũng như ra lệnh: ăn đi, cố giữ
cho khỏe! Đến thời kỳ gay gắt nhất của đợt tra khảo, cứ đánh đập nhử đòn, chú
dùng xích chặt chân tay tôi lại, vứt nằm còng queo tại dãy nhà để ô tô. Suốt
ngày tôi chỉ rời nơi nằm khi chúng mang đi tra tấn hay khi tôi báo đi ỉa. Qua
lại nơi này tôi chỉ thấy có người lái xe đến ngồi ở cửa đọc truyện kiếm hiệp và
mấy đứa con lão đội L. gác nhà giam. Đến bữa ăn, một tù nhân mang cơm lại cho
tôi. Người lái xe trạc tuổi ba mươi, trông mặt trái xoan trắng xanh với bộ tóc
dày, mái tóc gọng kính vắt tai. Thoáng trông với cặp môi sắc nét và cằm vuông
cũng có tướng lắm, nhưng nhìn kỹ thì rõ nét là một con người hời hợt thiển cận.
Sáng sáng, anh tìm gặp lão L lấy chìa khóa mở gara, miệng huýt sáo huyên náo.
Sau khi lau qua chiếc xe, thử máy nổ ròn là lẹ làng đi rửa tay rồi và nằm ngửa
lên capô xe đọc truyện kiếm hiệp. Khi hứng chỉ cũng rên rỉ đôi câu vọng cổ, láy
đi láy lại: Đời em nổi trôi như chiếc thuyền không lá. Hễ nghe chủ gọi, anh dạ
vừa to vừa đằm và trình diện tức thời. Bất chợt chúng xuống thì anh như bị điện
giật vừa đứng lập nghiêm kiểu cách nhà binh vừa chào to: Bông dua, xếp, theo
sau là tiếng cười khạch khạch tâng nịnh ra mặt. Cứ như không có tôi đang co
quắp trên nền gara. Nằm im, lặng ngắm anh, tôi không biết nên nói gì đưa
chuyện. Sự tồn tại như vậy đã đến mấy ngày..
Đến hôm tôi hỏi mượn
anh cuốn truyện thì anh nhìn tôi ra vẻ lạ lùng: Người anh em buổn à? Cũng thích
đọc truyện sao? Anh đưa tôi cuốn truyện, không quên quảng cáo hết lời cho nó.
Từ đó, cứ sáng tới mở cửa gara, anh không quên chào tôi Thế nào? Xa-va [2] chứ. Dù sao, giữa chúng tôi không
còn băng giá. Nhưng rồi qua một sự kiện thì anh lại tránh mặt tôi. Hôm đó, như
mọi lần, sau khi anh bông dua, xếp và cười nịnh thì tên chánh mật thám lại chỗ
tôi nằm. Nó hỏi:
Thế nào? Mày có muốn
chết không? Tao sẽ cho bắn mày!
- Tôi bình thản trả
lời: Tôi không muốn chết. Nhưng bắn hay không là tuỳ ở các ông.
- Mày muốn sống thì
phải nói!
- Tôi nói rồi và không
có gì để nói nữa
- Mày dối trá!,
- Tùy các ông nghĩ.
Thằng chánh mật thám
hầm hầm bỏ ra. Anh lái xe bàng hoàng nhìn tôi sau khi lấm lét nhìn tên chánh
mật thám. Tên mật thám đã đi xa. Anh ngoảnh lại bảo tôi với một vẻ quan tâm
mới:
- Chịu các bố thật!
Cộng sản...
Từ đó anh không nằm ớ
đầu xe, không ca vọng cổ. Chủ gọi, anh chạy ra ngoài đáp dợ chứ không dạ dòn
tan như trước. Khi chủ xuống, anh cũng không nhiệt thành bông dua xếp. Và cái
cười nịnh của anh cũng héo hắt trên đôi môi gượng gạo. Tôi bắt gặp những cái
nhìn trộm đầy thiện ý của anh và tiếng hỏi người anh em đã thay bằng lời chào
cậu mỗi sáng hai chúng tôi gặp mặt nhau.
Hôm tôi chịu một trận
đòn kịch liệt, đến nỗi không lê bước được nữa. Đội L. phải dìu tôi về gara.
Người tôi bê bết máu, dơ dáy, hắn cho tôi đi tắm ở gần nhà đang lúc vợ con nó
chuẩn bị ăn cơm. Vợ chồng đội L có hai con gái là Thủy và Ngọc, đứa 10, đứa 8
tuổi. Hôm đó vợ đội L đã mời tôi một bát cơm và bảo em Thủy mang đến cho tôi.
Hai em đã xúm lại bên tôi hỏi chuyện:
- Cậu có đau không,
cậu?
- Cậu là cậu giáo có
phải không, cậu?
- Tại sao cận 1ại thế
này hở cậu?
Tôi chỉ biết cười và
nói:
- Lớn lên lên các em
sẽ hiểu.
Từ đó, các em gọi tôi
là cậu giáo và nhiệt thành giới thiệu cậu giáo với bạn bè đồng lứa. Hàng ngày
các em qua lại chỗ giam tôi và không quên vứt vào cho tôi lúc miếng đường, lúc
cái kẹo, quả ổi... Chính đội L. cũng thay đổi cách đối xử với tôi bớt thô bạo
đi.
Một buổi chiều, chỗ
tôi thêm một người tù. Đội L bảo nhỏ với tôi rằng đó là tên tướng cướp mới sa
cơ. Thế là bên tên tù cực kỳ nguy hiểm về chính trị, chúng nhét thêm tên tù
nguy hỉểm về an ninh. Có thể chúng cho hai bên không dính dáng đến nhau nên
nhốt chung cho tiện canh giữ.
Đây là một con người
to con vạm vỡ, mái tóc đen dày, cờm cợp lút tai và gáy, dơ dáy, đôi mày rậm,
trán ngắn và hẹp. Khi đến chỗ tôi, anh co rúm người, chân thất thểu bước, vẻ sợ
hãi chưa tan, miệng hừ hừ liên hồi. Khi chỉ còn anh và tôi, anh ta cất tiếng
bỏi:
- Cậu ơi! cậu... tội
gì đấy?
Là tướng cướp phải là
kẻ bản lĩnh cao cường, xem thường cái chết. Nhưng ở anh này tôi lại thấy dáng
vẻ người nông dân bình thường, nhu nhược, sợ đòn tra tấn. Tôi cười hỏi lại:
- Tội tôi thì khó nói
lắm! Bác là tướng cướp phải không?
- ấy nghề đời đói ăn
vụng, túng làm liều. Mới mắc tội mắc nợ thế này!
- Sao bảo có gan ăn
cướp, có gan chịu đòn kia mà...
- ái chà, thịt da nào
không là thịt da. Mình đồng da sắt gì cho cam. Hôm nay, tôi phải chịu đòn xăng
tan! ôi, chết! chết! Chịu sao nổi chứ! Cậu thư sinh thế này hằn chưa phải nếm
mùi xăng tan nhỉ.
- Vô phép bác, một
tháng nay tôi đã qua chừng 50 trận rồi.
- ủa! Cậu nói thật hay
nói đùa vậy?
- Thế ban chiều bác
không trông thấy lúc ăn cơm, tay tôi không cầm nổi đũa bát đấy à?
- à, à, phải. Này cậu
ơi, thế cậu có biết đau không?
- Sao lại không đau!
Nhưng bác bảo thế này đã là khổ lắm rồi à?
- Thế còn khổ đến đâu
nữa? Cậu nhìn tôi đây này, chân xích tay xích, đánh cho vãi đái vãi cứt ra, cơm
hôi, rau bã, ngủ vật vã khắp nơi thế này. Sống chết vợ con không hay! Vậy mà
còn khổ thế nào hơn nữa, cậu? Xem ra cậu là người không biết đau đớn, không
biết sướng khổ là thế nào hay sao ấy?
- Không đâu, bác ạ.
Tôi cũng đau, cũng biết khổ, nhưng tôi nghĩ có khác bác.
- Cậu nghĩ thế nào?
- Tôi là cộng sản
(hình như anh ta giật mình trong bóng tối). Tôi làm cách mạng là để thay đổi cả
cuộc sống bất công này. Tôi biết trước thế nào cũng sẽ bị bắt, bị tra tấn, bị
tù đày và. cũng có thể chúng sẽ bắn chúng tôi. Nhưng chúng tôi hiểu chúng tôi
làm là đúng, là vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình và mọi người. Chóng chầy,
chúng tôi sẽ thắng vì chúng tôi có đồng bào. Với chúng tôi thế này cũng là khổ
và còn phải chịu vượt qua mọi khổ ải khác để cuộc sống chúng ta tốt hơn, đáng
sống hơn.
Anh ta ngẫm nghĩ hồi
lâu rồi nói:
- Thật là bụng dạ các
cậu rộng bằng biển cả, bụng dạ mênh mông thật...
Sau đó, ông tướng cướp
trở thành một học trò ngoan của cậu thư sinh. Nhân xin được thuốc lào ở dưới
nhà giam đưa, tôi tặng anh ta. Và cái bụng dạ cộng sản mênh mông như biển cả
lại càng được khẳng định.
Cuộc sống nào cũng để
lại những chuỗi kỷ niệm vui buồn. Còn đây là những kỷ niệm một lần trải qua thì
không bao giờ phai nhạt, là những kỷ niệm đã làm tôi hiểu rõ bản chất kẻ địch
và cuộc chiến đấu với chúng tôi phải như thế nào. Giúp tôi nhận thức được đúng
sức mạnh của mình, sức mạnh của cách mạng. ý chí của tôi được chắp cánh và
những lời thơ của Tố Hữu cứ ngân vang:
Tôi chưa chết, nghĩa
là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục
của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu
mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một
loài thú độc.
Là kỷ niệm về cách
nhìn cuộc sống và sự làm người. Sự bình thường và cái khác thường chính là ở
cái mục đính cuộc sống và cách sống của mỗi con người. Với tôi còn là kỷ niệm
làm lòng tôi phơi phới. Sau một tháng thử thách đầu tiên sức chịu đòn tra.
Trước sự hằn học, tàn bạo của kẻ thù, tôi đã trụ vững, đã bảo toàn được lực
lượng cách mạng, đã giữ được trọn vẹn không để danh dự bị tì vết. Với chiến
thắng đầu tiên này tôi thêm tin tưởng dấn bước. Ngẫm nghĩ kỹ, làm cách mạng mà
vượt được đòn tra tấn của kẻ thù khi sa vào tay chúng cũng là điều hạnh phúc.
Tham gia hoạt động ai cũng hiểu là rất có thể bị địch bắt và đòn chúng tra tấn
thì có thể chết, nếm đủ mọi cực hình mà kẻ thù có thể nghĩ ra, thế những vẫn
xem thường. Cái viễn cảnh đó còn là chất men ủ tính phiêu lưu mạo hiểm, ưa chất
anh hùng của tuổi trẻ. Song khi phải trực diện đương đầu thì đó là cửa ải không
phải ai cũng vượt qua được. Sự dao động quyến rũ lắm trước cực hình man rợ và
thủ đoạn mơn trớn mua chuộc của kẻ thù, dù rằng dao động là thất bại, là chết
nhục nhã.
Con đường dao động
khơi ra mới đáng sợ nhất: là đầu hàng, là phản bội. Có những người đã dao động,
đã trượt dài không gượng được trước sự thâm độc của kẻ thù và tuy là sống sót
nhưng mỗi ngày sống là một ngày đau khổ, là sự nhục nhã ê chề trước đồng đội.
Cũng là một cách thủ tiêu của kẻ thù đối với người cách mạng. Không thủ tiêu
tính mạng thì thủ tiêu khí tiết, thủ tiêu danh dự và chúng biết cách tìm ra chỗ
yếu của mỗi đối tượng để ra đòn. Trong số tôi quen biết, có đồng chí vốn là chỗ
cốt cán rất được anh em tin cậy. Đồng chí lấy vợ là một cán bộ nữ rất đẹp. Khi
vợ có mang thì chẳng may cả hai vợ chồng bị bắt (vào khoảng năm 1944). Địch
biết đồng chí rất yêu vợ, thương con, chúng cứ nhè vào chỗ đó mà ra đòn và đã
đánh gục. Khi cách mạng thành công anh vẫn được sử dụng làm cán bộ địch vận
trong quân đội nhưng đời sống tâm tư thì rất nặng nề. Một đồng chí khác cũng
hoạt động trước tôi, từng là cán bộ phong trào liên tỉnh. Bị địch bắt, những
ngày đầu anh tỏ ra thật kiên cường. Đánh nứt thịt tóe máu, hỏi gì anh cũng nói:
Revolutionnaire. Hai bên đối đầu và cầm cự nhau cứ như anh là người đồng da
sắt. Đến một hôm, đòn địch ác liệt quá, anh buột miệng kêu đau. Kẻ địch thành
thạo tra tấn và cũng nhạy bén trong sự nắm bắt diễn biến của tâm lý, chúng càng
đánh dữ dội hơn để khoét sâu nỗi đau bắt đầu hành hạ anh. Từ một lời kêu đau
thốt ra anh đã ngã gục trước cơn đau mà địch khai thác đến cùng, đánh đòn và
mua chuộc. Anh cố gượng chống đỡ. Chúng vùi dập dữ hơn. Anh tuyệt thực chúng
đợi đến lúc anh phải ăn. Địch có nghệ thuật dấn lên để anh buông xuôi hơn,
bnông xuôi nữa. Và cuối cùng là anh dẫn chúng đi bắt đồng chí. Nhiều cơ sở anh
biết đã bị vỡ. Anh ăn năn hối hận, nhưng hành động do sự yếu hèn của anh gây ra
cho các đồng chí, cho cách mạng thì làm sao mà tháo gỡ được. Đây là sai lầm
không có phương nào sửa chữa! Có một lần anh đã tâm sự với tôi Tớ là loại anh
hùng cá nhân. Nó đánh mình đầu óc cứ như long ra, toàn thân ê ẩm tê buốt. Có
lúc như tắt thở đến nơi và để buột ra tiếng kêu đau. Các trận đòn sau đẩy mình
tới trạng thái buông xuôi với ý nghĩ như bài Quốc văn: Người đi đôi giày mới
trên đương lầy học từ hồi còn bé. Càng gượng càng trượt dài đến chỗ mặc nó tới đâu
thì tới. Cái anh hùng cá nhân của mình đã nhục nhã như vậy! Rút được bài học
phải lượng sức mình thì đã chậm rồi.
HẾT CHƯƠNG 4 XEM TIẾP CHƯƠNG 5
CHƯƠNG 5: NHỮNG KỶ NIỆM
TRONG TÙ
Do tôi chống án vào
mùa thu 1942 địch chuyển hồ sơ của tôi lên tòa thượng thẩm Hà Nội để xử lại.
Khi từ biệt mẹ, tôi nói: Không bao giờ con ở hết 15 năm tù đâu. Mẹ cứ coi như
con đi học xa, dăm năm rồi về thôi.
An ủi mẹ, tôi nói vậy
nhưng thâm tâm cũng tính toán rằng: hết 15 năm tù, tôi mới 30 tuổi, còn trẻ
chán để tiếp tục hoạt động.
Cảnh sống ở Hoả lò đã
hút chúng tôi vào cuộc đấu tranh để sống còn. Có đến 70% tù nhân ốm đau. Có
đồng chí mất máu nặng, chân tay cứ tím dần đi rồi chết. Trai tráng như tôi mà
ngồi xuống đứng lên cũng lảo đảo, mất đổ đom đóm. Cuộc đấu tranh trong nhà tù không
thể không có, song quá mới mẻ với lớp trẻ chúng tôi. Tôi vốn có sức khỏe, nhanh
nhẹn, lại ham hoạt động. Các đồng chí lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm chú ý bồi
dưỡng cho tôi. Đêm đêm, các đồng chí rủ rỉ nói chuyện bày mưu tính kế mọi
đường. Cùng với một số anh em còn trụ lại, tôi được giao làm trật tự để lo đối
phó mọi mặt. Tâm trí chúng tôi lúc này là suy nghĩ tổ chức đời sống, sẵn sàng
đối phó với kẻ địch. Song vẫn thấy xúc động bồi hồi khi nghe tiếng guốc đi về
đêm khuya với tiếng rao bánh chưng nóng sáng tinh mơ trong thơ Tố Hữu, nhưng
lúc đó tôi xem như đã bước hẳn vào giai đoạn tù. Cuộc chiến đấu trước mắt là
bảo vệ đời sống, tổ chức học tập, giữ vững lòng tin.
Thế rồi đoàn đồng chí
Đ. (Tức Trần Đăng Ninh) vào, mang theo một không khí sôi sục. Anh nói chuyện
Mặt trận Việt Minh, nói khí thế quần chúng đấu tranh. Tôi thấy anh Đ. không coi
nhà tù là cái gì cả. Anh để lại trong tôi hình ảnh một chiến sĩ kiên cường bất
khuất. Mình bận chiếc áo ngắn tay cùng chiếc quần đùi. Cánh tay bắp chân của
anh gân guốc chắc nịch. Anh như quá tù túng khi rảo bước giữa hai cây bàng già
cỗi trong sân nhà tù, đầu anh to, tóc cắt ngắn, cằm vuông với mấy sợi râu hung
hung chĩa thẳng. Trên cặp môi dày thỉnh thoảng nở nụ cười chua chát cay đắng
cho tình thế. Mắt anh hình nhài quạt, vẻ u uất nặng nề. Người anh nhự tạc bằng
đá hoa cương, sẵn sàng xông pha bão tố, sẵn sàng chịu đựng và vượt qua mọi thử
thách gian truân. Tư thế ấy, nét mặt ấy, tôi nhớ y nguyên trên đường đi Sơn La
và những ngày đày ải tại đó. Anh vẫn thế trong chiến dịch Biên giới sau này.
Với những nét độc đáo,
anh Đ đã thành hình tượng hấp dẫn, khuyấy động tâm hồn bọn tôi lúc ấy. Tôi còn
được tham dự nhóm anh tổ chức vượt ngục và đã tham gia tích cực vào đó. Kế
hoạch là đội lốt một lớp học chính trị với khoảng hai mươi ngày, do anh Đ. phụ
trách, thời gian huấn luyện hơn hai mươi ngày, tập hợp vào một phòng nhỏ trong
góc nhà tù chính trị. Chúng tôi phải tìm cách đào được một đường hầm để thoát
ra ngoài mà địch không biết, đồng đội không hay. Hai mươi con người mới biết
nhau, quen nhau từ khi mặc áo tù, những từ lúc tập trnng vào lớp đã gắn bó
thành một khối chặt chẽ. Cảm tưởng của chúng tôi là hồi hộp, háo hức như một
đoàn quân chuẩn bịt tấn công với tinh thần quyết tâm cao nhất để chọc thủng nền
nhà lao Hỏa lò để mở một con đường hầm xuyên móng nhà tù mà ra.
Thực tế đã cho chúng
tôi thấy mọi tính toán sai lệch quá xa. Cả nhóm đã họp lại bàn bạc, xem xét mọi
mặt và quyết định thôi! Anh Đ cười cười, vỗ vai bọn trẻ chúng tôi, an ủi: Khó
thật đấy! Thua keo này bày keo khác. Cần gì! Từ đó lớp học được tiến hành đúng
với yêu cầu huấn luyện. Nỗi háo hức được vượt ngục chuyển thành ý chí phấn đấu
mới, thầm lặng hơn nhưng vững chắc, sâu sắc hơn bao giờ hết.
Có hôm, tại nhà lao
Hỏa lò, anh em vui chuyện cả vào giờ tắt đèn. Tên giám thị xuất hiện và không
tiếc lời chửi bới, xúc phạm tù nhân. Là trật tự, tôi liền đứng ra phản đối lại.
Hắn lập tức đi báo cáo với cấp trên. Tôi bị giám ngục Tây gọi ngay lên và phạt
nằm xà lim một tháng. Vẫn hằn học, hắn xúi bẩy phải cùm tôi cả hai chân. Thế là
giữa cái giá rét mùa đông, hai chân đút vào cùm, tôi phải nằm giữa sàn xi-măng
không cho chăn chiếu trong hai tuần liền m ay mà còn mang theo được thêm một bộ
quần áo tù. Tôi lấy áo trùm kín đầu, còn chiếc quần tôi đắp lên hai ống chân.
Có đỡ lạnh chút ít và cũng ngăn được muỗi. Muỗi xà lim vừa nhiều, vừa dữ. Song,
đến khoản rệp thì phải chịu bó tay. Đánh hơi lạ, chúng từ khe cùm kéo ra rúc
vào mọi nơi mà cắn. Chỉ khi căng tròn như hạt đỗ đen thì mới chịu yên. Tình thế
cứ như nằm giữa tổ kiến vàng. Tôi nhớ đến câu chuyện có tù nhân chết vì rệp
cắn. Hai ống chân chỗ bị cùm rệp cắn nhiều quá thành sâu quảng không chữa khỏi
mà chết. Thực hư ra sao không rõ, nhưng lúc này chỉ còn có cách cắn răng chịu
đựng, lũ rệp đang châm chích khắp người.
Các xà lim khác cũng
đầy người nhưng đều là thường phạm: có số vì gây gổ đánh nhau, phá quấy gì đó
nên bị nhốt. Còn một số thì bị liệt là tù số đỏ nghĩa là đã bị bắt nhiều lần,
nguy hiểm, phải giam cấm cố.Lần đầu tiên nằm xà lim, tôi rất bỡ ngỡ, nhưng chỉ
có một mình, chả biết hỏi ai. Cơm có anh em nhà bếp mang tới. Còn nước có sẵn
cả một gáo, phần để uống, phần dành để làm vệ sinh khi đi đại tiện. Hết thì họ
lại đổ vào đầy. Tôi vốn bị lòi dom. Cảnh sống này thì bệnh càng dày vò.
Cả đêm và ngày, hai
chân trong cùm, nằm nghĩ miên man đủ thứ chuyện. Nhớ lại chuyện bọn phát xít
Đức hại tù chính trị bằng cách nhốt mỗi tù nhân trong từng xà lim mà trần và
vách vẽ chi chít các vòng tròn với nhiều màu sặc sỡ. Cảnh tượng đó dần dần làm
người tù loạn óc mà phát điên lên. Tôi tự nghĩ mình mà bị như thế thì cũng gay
go đây. Nhưng điên thì chưa chắc!
Tôi lắng nghe những
tiếng nói vọng tới xem có thể bắt chuyện với ai đó được không. Rồi tôi để ý đến
lời nói chuyện của một anh chàng đang ba hoa bốc đồng. Hắn đang bốc phét pha
tiếng Tây giả cầy đầy và đắc chí. Các xà lim khác xuýt xoa ra vẻ thán phục cậu
này lắm. Tôi nảy ý nghĩ chọc ngang anh chàng ba bị này, cho có chuyện làm quen.
Tôi lên tiếng hỏi:
- Này, anh nói tiếng
Tây ơi, xà lim số mấy đấy!
- Số 6 đây, thằng nào
hỏi gì đấy? 27 à!
- Anh số 6, chào anh,
chuyện anh xem ra bố láo lắm. Mà tiếng Tây của anh thì càng bố láo đấy, học đâu
ra vậy! Dân ta sẵn tiếng ta, việc gì dặm tiếng Tây giả cầy thế. Nghe chướng tai
làm sao!
Có lẽ tôi là người đần
tiên đã dám đụng đến uy danh một cõi cho nên hắn ta giẫy lên như đỉa phải vôi:
- ái chà, đ... mẹ
thằng nào dám bảo ông là bố láo, giả cầy đấy, thằng nào xưng tên xem thử.....
- Này! vừa vừa thôi.
Số 2 đây.
Giọng số 6 hơi dịu:
- Số 2 hả, mới vào hả!
Tên gì, tội gì, tội gì đấy? Đâu tới hả!
- Trại D đến đây.
Nói đến trại D là cả
nhà tù đều biết là nơi nhốt tù chính trị. Giọng số 6 bỗng trở nên nhẹ nhàng,
bắt quen:
- Chính trị à! Thế thì
em xin lỗi anh nhé. Đúng anh ở trại D tới à? Sao anh kín tiếng thế, em đâu
biết!
Liền đó, các xà lim
khác cũng nhao nhao hỏi thăm thật vui vẻ. Thế là tôi đã giao lưu được rồi. Và
tai vạ cũng đến liền ngay. Sáng hôm sau số 6 lên tiếng hỏi:
- Anh số 2 ơi, cho
chúng em nghe một bài hát của các anh đi. Rồi dạy bọn em với Các xà lim khác
đều hưởng ứng lời đề nghị đó. Nó cũng gãi đúng chỗ ngứa của tôi. Tôi bèn lấy
giọng hát to bài Tam bình. Đây là bài hát tủ của cán bộ thời đó
Bớ công nông, phất cờ
lên
Đồng tâm chiến đấu
giết loài sài lang
Theo ngọn cờ Mác Lênin
Phen ni mình quyết ra
tay...
Này, hận này là hận
sau cùng...
Tay đánh nhịp vào cùm,
tôi hát với tất cả sự hăng say của tuổi trẻ. Lời ca vang vang trong xà lim,
không khí trở thành nghiêm trang, hùng tráng. Cả dãy xà lim lắng nghe. Nhớ lại
những một mặt hừng bừng hưng phấn, những ánh mắt rực sáng trong các cuộc mít tinh
trước đây khi tôi hát bài này, tôi hình dung ra các khuôn mặt ở các xà lim lúc
này, hẳn họ cũng đang bị lời ca thu hút khích lệ bản thân tôi cũng bốc lên,
càng hát càng hăng hơn, say sưa hơn.
Bỗng miếng sắt nhỏ ở
cửa xà lim tôi kêu soạch, cùng lúc một bộ mặt hiện ra rồi biến ngay. Tôi cũng
kịp nhận ra thằng giám thị. Bíết là sẽ có chuyện chẳng lành, song sự hăng say
vẫn nâng tiếng hát bay lên, vời vợi.
ít phút sau, một tên
giám thị Tây hùng hổ chạy tới. Chẳng nó chẳng rằng hắn đánh tôi túi bụi bằng
dùi cui. Tôi vừa gắng đỡ vừa phản đối lại: Tại sao lại đánh tôi tôi không làm
gì mất trật tự. Nó cứ nện liên hồi. Tôi hiểu ra đây cũng là đòn trả thù của tên
giám thị Đ. Trận đòn qua. Tôi tính cách đối phó lại. Các xà lim lại tới tấp
tiếng hỏi thăm:
- Anh số 2 ơi! Nó đánh
anh có đau lắm không,. ì
Đòn tù thù địch, ác
liệt thật, song lại không làm người tù sợ. Nhiều anh em sau đó nài nỉ tôi dạy
họ hát. Tôi đọc từng câu và họ rì rầm nhẩm lại đến thuộc lòng. Thế là chỉ ít
hôm sau, cả xà lim đã thuộc bài hát. Từ đó bài hát đã thành là một sức mạnh của
từng người, của cả dãy xà lim. Mấy hôm sau, tự nhiên tôi nổi máu cất tiếng hát,
bởi sự thúc bách biểu lộ đồng cảm với anh em tù thường phạm, bởi như để chống
lại một cái gì đó. Thằng giám thị Tây lại tới. Lần này, tôi trừng mắt nhìn
thẳng vào mặt nó và to: Đả đảo khủng bố, đả đảo đánh đập! . Thật sung sướng cho
tôi! từ các xà lim bên cạnh, có tiếng hô hưởng ứng ngay. Tên giám ngục tức
giận, giậm chân giậm cẳng, chửi bới ầm ĩ, nhưng không ra đòn. Hắn lúng túng,
tránh ánh mắt của tôi, lấm lét nhìn quanh xà lim. Nhác thấy bộ quần áo tù tôi
mang theo xếp để đầu sàn, hắn giận giữ vơ lấy và không quên trị tôi: phạt cả
tháng cùm hai chân!.
Thế là hình phạt cùm
nửa tháng nay kéo dài ra cả tháng. Dẫu sao với tôi cũng là một trận thắng. Anh
số 6 thường gọi tôi để hỏi chuyện. Anh em ở các xà lim đã hát bài hát tôi
truyền lại. Tôi liền bổ sung tiết mục ngâm thơ. Nhớ được bao nhiêu thơ của Tố
Hữu, tôi dã ngâm giới thiệu cả. Tôi đọc và giảng giải kỹ hai bài Tâm tư trong
tù và bài Hai đứa bé. Anh em ở dãy xà lim chăm chú nghe và tán thưởng. Còn tên
giám thị thì từ đó vẫn tỏ ra hằn học với tôi những khi chúng tôi sinh hoạt ,
hắn đều lảng tránh như không hay biết. Suốt cả một tháng nằm xà lim cùm hai
chân, tôi chỉ được đi tắm và thay quần áo có một lần. Tôi bị đi lỵ nhưng xin
thuốc tên giám thị phòng không cho. Sau một tuần đi lỵ người tôi mệt quá, nghĩ
chỉ còn cách chữa mẹo. Tôi quyết định nhịn ăn hai ngày liền sau đó chỉ ăn cơm
với muối trắng. May sao, thế mà khỏi bệnh! Rồi cả cái tháng chịu hình phạt xà
lim, cùm cả hai chân ấy cũng qua di. Với tôi không phải là thời gian vô nghĩa.
Dường như lôi vừa khám phá ra một điều mới mẻ chưa hề biết. Đó là tình cảm quý
mến, khâm phục của anh em tù thường phạm đối với tù chính trị. Hễ có người hết
thời gian nằm xà lim, trước khi đi đều gửi tôi lời cho thân ái. Có tù mới đến
thì anh em lại kín đáo giới thiệu với họ: số 2 là lù trại Đ đến... có nhiều bài
hát, bài thơ nghe hay lắm! Những điều này làm tôi rất xúc động. Tôi cũng hiểu
ra sức mạnh của cách mạng. Những bài hát, những lời thơ cách mạng có sức lay
chuyển, thức tỉnh lòng người sâu xa đến vậy. Hôm tên giám thị Đ vào tháo cùm
cho tôi, hắn vẫn hằn học đe:
- Cẩn thận! Không chừa
thì còn nhiều phen được cùm!
Chẳng bận tâm! Tôi còn
mải từ giã các bạn mới của tôi, lòng xốn xang một niềm vui khó tả. Vui vì hết
hạn cùm xà lim, được trở về trại D đầy vinh dự với đồng chí mình. Vui vì một
tháng tôi có thêm những bạn mới mà tiếng hát lời thơ cách mạng đã gieo mầm mới
biết đâu là bước ngoặt cho cuộc đời họ. Trong năm 1942 đó, chúng nó đày chúng
tôi lên Sơn La, chuyến đi tổ chức thành đoàn mà chúng tôi gọi là công voa tù.
Từ Hỏa Lò chúng dồn tù lên ô tô hàng để đi Hòa Bình. Chúng tôi đã chuẩn bị chu
đáo việc tuyên truyền, trưng thu của các anh em tất cả khăn mặt màn đỏ tra vào
những que ngắn làm cán. Lúc xe chạy qua các phố đông người chúng tôi giương ra
làm cờ đỏ, đồng thời hát vang quốc tế ca và các bài hát cách mạng. Mọi người
qua đường, sống dọc các phố xe đi qua đều bằng những cử chỉ kín đáo thể hiện
với chúng tôi lòng cảm tình. Còn phía chúng tôi thì cố gắng bằng cách nói với
nhân dân rằng đây là tù chính trị. Qua phố Khâm Thiên, tôi thấy có một cô gái
dáng tiểu thương, mình bận áo tứ thân cứ chạy theo xe chúng tôi. Chị ta gào:
- Anh Diện, anh Diện!
Thì ra người ngồi bên
tôi chính là Diện. Anh ta lộ vẻ rất xúc động. Tôi hỏi:
- Ai gọi anh đấy?.
Anh bảo nhỏ:
- Em gái tao, con ông
cậu.
Sau này, khi chúng tôi
trốn tù ra thì chính anh Diện đưa đến trốn ở nhà ông cậu. Chị này vốn có cảm
tình cách mạng nên đã nhận đi liên lạc, bắt mối với anh Lưu đức Hiểu, rồi nhận
chỉ thị của anh Hiểu về cho chúng tôi.
áp tải đoàn tù là một
thiếu úy người Pháp. Hắn còn rất trẻ, mới từ Pháp sang, vừa hung hăng vừa lộ vẻ
lo ngại. Chúng tôi hát, hắn chạy lên chạy xuống quát tháo ầm ĩ. Hắn chạy tới
thì đầu hàng lắng lại, nhưng ở cuối hàng giọng hát lại bốc lên cao và cứ thế
ngược lại làm hắn tức tối. Từ đầu cầu phao đi vào thị xã Hòa Bình, chúng tôi
vẫn hát như thế. Mặt mũi tên thiêú úy non đến thảm hại. Nó nhét đoàn tù vào
trường tiểu học. Mỗi phòng học nó nhốt mấy chục người, bắt khép kín cánh cửa
kính lại. Các cửa đều có chấn song. Chúng tôi tuyệt thực không ăn đòi hắn để
cửa mở cho khỏi bí hơi. Trong chuyến đi này có sẵn hai người đại diện của đoàn
tù là ông Đào Năng An và ôn g Bùi Lâm. Ông Đào Năng An tuy có khai báo nhưng
vẫn được tín nhiệm giao việc, ông là một nhà trí thức, nói tiếng Pháp rất thành
thạo. Ông Bùi Lâm cũng thạo tiếng pháp, từng sống lâu năm ở Pháp nên ông thạo
cả tiếng lóng và phát âm như người Pháp.
Khi chúng tôi đòi để
cửa mở, lúc đầu thằng thiếu úy không chịu. Cả đoàn tuyên bố tuyệt thực. Hai ông
đại diện đối thoại với nó, lý lẽ sắc bén, có tình. Sau cùng hắn chịu nhượng bộ,
cho mở cửa và giao hẹn:
- Mở cửa thì các anh
ăn chứ?
- Đồng ý! - Chúng tôi
trả lời.
Vì đấu tranh giằng co
lâu, nên trời đã tối, bữa cơm quá muộn. Anh em bụng đều đói. Được tù nhận ăn
cơm, tên thiếu úy mừng rỡ, nó hối thúc gánh cơm vào. Gánh cơm năm chục người ăn
mà chỉ có năm, bảy cái bát và chừng ấy đôi đũa. Các cấp trật tự liền đứng ra
thu xếp số người ăn mỗi lần theo số bát đũa. ăn xong đi rửa sạch sẽ giao cho
người được cử tiếp theo. Với cách đó, bữa ăn đã diễn ra trong trật tự, vệ sinh
chặt chẽ, không hề chen lấn, lộn xộn. Cái kỷ cương bất ngờ này đã làm cho tên
thiếu úy ngạc nhiên thật sự và bọn lính đâm ra nể tù.
Hôm sau cuốc bộ lên
đường, chúng tôi vẫn hát, có bài hát bằng tiếng Pháp, lúc hùng dũng, lúc dịu
dàng, đến mệt mới thôi. Đám lính tỏ ra thích thú, thấy anh em yên lặng đi,
chúng lại nhắc:
- Các anh hát đi cho
nó đỡ mệt,
Còn tên thiếu úy thì
không lộ vẻ hung hăng nữa. Hắn đi lên đảo xuống cuối đoàn tù, ôn tồn hỏi
chuyện. Nó sửng sốt thực sự khi thấy đông tù nhân đã trả lời nó bằng tiếng
Pháp, không tồi. Chuyến đi chia thành nhiều chặng nghỉ, cách nhau khoảng 20 -
25km, có chặng dài nhất là 32 km. Đi được hai ba chặng gì đó thì trời tối vừa
lúc tới một cái bản. Đoàn ghé lại nghỉ đêm ở đó. Các ông đại diện đã tranh thủ
nói chuyện với tên thiếu úy Pháp. Hắn bảo vừa ở Pháp sang, chưa hiểu gì về Việt
Nam cũng như về Đông Dương. Hắn thú nhận rằng:
- Nhận nhiệm vụ này,
với tôi là việc rất phức tạp. áp tải một lúc hơn 100 người tù chính trị đi hàng
trăm cây số, lại qua vùng rừng núi, tôi lo lắm. Tôi phải tỏ ra nghiêm khắc,
phải trấn áp mới giữ được kỷ luật, thế mới hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng từ Hỏa Lò
lên đến đây, tiếp xúc với các anh tôi thấy hoàn toàn khác với những điều mà tôi
đã được căn dặn nhiều lần với nhiều quan chức thuộc địa. Trước hết tôi thấy các
anh phần đông có học, có hiểu biết. Đặc biệt là cả đoàn đã tỏ rõ sự tôn trọng
kỷ luật. Bữa cơm tối ở Hòa Bình làm tôi suy nghĩ nhiều lầm. Thú thật, trong
hoàn cảnh lúc đó, sự lộn xộn, chuyện dành nhau ăn trước, ăn nhiều, tôi nghĩ là
điều dĩ nhiên. Thế mà các anh tỏ ra rất văn minh, rất kỷ luật, cứ như một đội
quân được rèn luyện kỹ càng. Sau mấy ngày đường tôi càng hiểu các anh. Dù chưa
tới nơi, tôi cũng thành thật nói là rất yên tâm và cảm ơn các anh đã giúp tôi
hoàn thành trách nhiệm.
Giữa đôi bên như thỏa
thuận với nhau cách thức tiếp tục chuyến đi. Tay thiếu úy tỏ ra dễ chịu nhiều.
Còn bọn lính thì lộ vẻ nể anh em tù. Lên tới cửa nhà tù Sơn La thì gặp thằng
giám ngục Lơ Bông. Hắn đang đứng đó. Người hắn to béo. Trái với cái tên ông tốt
bụng hắn là một tên thực dân đúng bản chất, gian ác và tàn bạo. Tên thiếu úy
báo cáo chuýến đi, nhiệt thành khen đoàn có kỷ luật, biết giữ trật tự và có
học. Chỉ vào tôi, lúc đứng ở đầu đoàn:
- Anh này nói tiếng
Pháp tốt lắm, rất tích cực.
Thằng Lơ Bông giật
phắt cái dùi cui trong tay người lính đứng cạnh hắn, nện vào đầu tôi và chửi:
- Quân mất dạy! Cu
soong!
Nhà tù Sơn La lúc ấy
đang nhốt đến năm trăm tù nhân, trong đó tù chính trị kể cả đoàn chúng tôi có
đến 300. Các anh Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy, Trần Huy Liệu... một số đông khác
đang bị giam giữ tại đó. Số tù kinh tế chừng 200 bị nhốt riêng, cách biệt với chúng
tôi. Lúc đó tù chính trị cũng có hai loại: số đông là cộng sản, một số khác là
Quốc dân đảng hoặc Đại Việt, có số gọi là tù Lạng Sơn đưa về. Gọi như thế vì cơ
sở của họ ở Lạng Sơn bị vỡ lở, họ bị bắt. Sự phân biệt là ở miếng vải xanh đính
ở ngực. Tù cộng sản mang miếng vải hình vuông, còn số còn lại là hình quả trám.
Sự phân biệt này quan trọng lắm. Lính tráng cũng như dân chúng đều nể số vuông
và tỏ ra thiếu cảm tình với số chéo .
Về việc quản lý nhà
tù, đứng đầu là tên giám ngục, có một phụ tá già - tôi nghĩ lão chỉ là quản gia
của giám ngục. Tù nhân thường gọi lão là bố già . Lão không có gì đặc sắc, cũng
không hiểm ác. Khác với tên giám ngụ Lơ Bông, đúng là một tên thực dân hung ác
và hiểm độc. Nó lấy tù lên làm văn thư cho nó. Khi chúng tôi lên thì người làm
văn thư đang là anh Đào Đình Luống tức Nguyễn Đức Quỳ quê ở Thuận Thành (Bắc
Ninh). Sau này cách mạng thành công, anh là thứ trưởng Bộ Văn hóa và đã mất.
Anh rất giỏi tiếng pháp và thạo công việc văn thư, được giao giữ sổ sách và sắp
đặt công việc ở nhà tù. Cũng nhờ anh, chúng tôi có được những tin tức cần
thiết.
Nhà tù ở sát trại
lính. Chỉ huy lính là một giám binh hàm quan một, quan hai gì đấy. Thằng giám
binh này cũng cùng thằng giám ngục cai quản tù nhân. Còn đội lính khố xanh bên
đó chính là lực lượng kiềm chế tù. Vọng gác trại lính trên cao kiểm soát sân
nhà tù. Nhất cử nhất động không lọt qua được mắt lính canh. Bên nhà tù có cử
một người làm y tá, nói là để giúp việc cho trại, thực chất là để giúp tù nhân.
Lúc đó, anh Sao Đỏ đang đảm nhiệm công việc này. Anh Sao Đỏ- tên thật là Nguyễn
Lương Bằng, mọi tù nhân đều có cảm tình, tôn xưng anh là anh Sao Đỏ hay anh Cả.
Đến những người lớn tuổi hơn, chức trách cao hơn như anh Trường Chinh, Hoàng
Quốc Việt cũng gọi là Anh Cả, với ý nghĩ anh ấy là anh lớn trong tập thể. Từ đó
cái tên Anh Cả trở thành bí danh của anh Nguyễn Lương Bằng. Anh trở thành y tá
là từ chủ trương của tù nhân chính trị. Anh làm y tá nên có điều kiện huấn
luyện cho một số đồng chí để anh em tù chăm sóc sức khỏe, bảo vệ nhau. Việc này
không dễ. Học hỏi thì có sách chuyên môn hoặc có ai đó biết nhiều ít thì chỉ vẽ
cho anh em khác. Nhưng đến việc thực hành, kể tù tập tiêm thì đáng ngại lắm. Có
điều vì thương yêu nhau nên sẵn người tự nguyện đưa cơ thể mình để anh em luyện
tập. Anh em đó nghĩ rằng nếu chẳng may mình có bị làm sao thì về sau đồng chí
mình cũng tránh được tai họa. Đến đoàn tù chúng tôi lên cũng có tổ chức rèn cặp
một số y tá mới. Chính anh Sao Đỏ đã huấn lnyện nhóm tôi và anh Hoàng Minh
Chính, là lớp trẻ lúc đó. Chúng tôi cũng đưa đùi, chìa mông ra cho nhau thực
hành tiêm thuốc chữa bệnh.
Anh Sao đỏ làm y tá,
đã giúp được rất nhiều cho anh em tù vì y tá là có quyền liên hệ với trạm xá
khai báo thuốc men, lĩnh thuốc cho anh em. Vì thế anh em cần thuốc gì thì báo
với y tá chạy lo chto. Sơn La thời đó, bệnh sốt rét đái ra máu mà bây giờ gọi
là sốt rét ác tính, đang hoành hành. đã bị sốt rét ác tính đái ra máu là dễ
chết lắm. Nhưng cùng căn bệnh mà ở hai trại lại có hậu quả khác nhau. Nếu như ở
bên trại tù, trung bình cứ mười người bệnh mới có một ca tử vong, ngược lại ở
bên trại lính tình hình nguy kịch hơn nhiều, có tới chín người chết. Vì sao
thế. Khi ngả bệnh sốt rét thì người tù được sự chăm sóc hết sức chu đáo của
đồng đội. Ngoài anh Sao Đỏ y tá thì còn có đội Hồng thập tự do anh em lập ra.
Và người bệnh được được chăm sóc 24 trên 24 giờ. Thường trực luôn có 4 người
trông nom bệnh nhân, xoa bóp người cho đỡ tê mỏi, chăm lo vệ sinh chu đáo bất
cứ lúc nào. Chế độ ăn uống cũng được quy định, chia làm ba cấp, cháo, cơm. Sốt
39 độ trở xuống thì gọi cháo đường. Ba ngày ăn như thế bệnh không đỡ thì được
hưởng cháo cứu tế, tứ là cháo tim gan ăn với nước mắm thượng hạng. Cháo nầy ăn
rất ngon nhưng chẳng ai mong muốn cả. Vì đã đến thế là thập tử nhất sinh rồi!
Cơm cũng chia ra các cấp như vậy Cơm cứu tế là để bồi dưỡng cho những ai qua
cơn ốm quá nặng để mau lấy lại sức.
Ông Bùi Lâm được giao
phụ trách bếp, nấu cơm cứu tế, vì hồi ở pháp ông làm bồi bếp nên nấu ăn rất
giỏi. Sau khi lo cho các bệnh nhân ăn uống ngon lành chu đáo phần ông thu dọn
nồi chảo nấu. Thứ liếm được ông dùng lưỡi, nếu không ông dùng ngón tay quẹt
sạch và đàng hoàng mút ngon lành. Anh em nhìn thấy cười nhạo. Ông thản niên
cãi:
- Chúng mày ngu bỏ mẹ.
Nói là thức ăn cao cấp thì đây mới thực là thứ cao cấp vì mọi tinh chất thực
phẩm đều lắng ở đáy nồi. Sao lại bỏ phí.
Ông Bùi Lâm, mà về sau
có thời làm chánh án tòa án tối cao, rồi đi làm đại sứ bên Đức, là người có
phong cách sống rất thực tế và cởi mở.
Nhớ lại hồi còn ở Hỏa
Lò Hà Nội, một thời kỳ anh em tù nhân phần đông bị lở bìu dái, nó cứ đỏ như quả
cà độc dược, sưng tấy. Cho vải quần đụng phải là đau đến dàn dụa nước mắt. Anh
em có sáng kiến tháo hết đũng quần đùi làm váy thì có dễ chịu hơn. Riêng ông
Bùi Lâm đơn giản, thản nhiên đánh truồng. Ông lại là đại diện tù, chẳng lẽ ra
tiếp giám thị, giám ngục mà cứ tồng ngồng như thế, ông bèn dặn chúng tôi
- Hễ chúng tới tìm,
thì báo tao hay, để mặc quần làm việc.
Cái bệnh đến kỳ lạ.
Anh em nghe ai mách bảo cách nào cũng theo chữa đều không khỏi. Tây cấp thuốc
bôi cũng chẳng hiệu quả gì. Hằng trăm con người như thế trông khủng khiếp lắm.
Thế rồi một thời gian sau, tự nhiên bệnh lành, cứ như cơn dịch bay qua.
ở Sơn La, chúng tôi
còn lập ra một tổ chức lo nội thương và cả ngoại thương. Mấy ông được cử ra phụ
trách kinh tế ở nhà tù sau này đều thành cán bộ kinh tế cao cấp của Nhà nước
cách mạng, như ông Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân hay như ông Đặng Kim Giang
làm Tổng cục Hậu cần quân đội nhân dân, ông Đổng là giám đốc nhà máy xi-măng
Hải Phòng. ở nhà tù hoạt động kinh tế chủ yếu là buôn bán. Sự tháo vát, sáng
tạo là tìm ra cách buôn bán ở nhà tù. Buổi đầu là bắt mối với các bà buôn có
cảm tình với tù chính trị. Có bà thân mật với anh em đến nỗi người ta gán với
ông Khuất Trí Tiến, ông Trần Đình Long, đùa là người tình , vì hai ông được
giao trách nhiệm tiếp xúc với hai bà. Hai bà này lúc đó cũng chỉ ba, bốn mươi
tuổi, là vợ công chức sống dư giả nên còn bắt mắt chán. Họ buôn hàng là: guốc
Phi Mã , tức guốc cao gót, đang là thời trang của thiếu nữ Hà Nội, do tù chúng
tôi chế tác. Mỗi lần được phái vào rừng lấy củi là chúng tôi chọn gỗ. Khi số
đông anh em lao dịch thì số có tay nghề tập trung đẽo guốc. Guốc Phi Mã Sơn La
rất ăn khách, làm bao nhiêu đều bán hết. Chúng tôi khai thác nguồn hàng ở các
bản quanh trại: mộc nhĩ, nấm hương, mật gấu, mật ong, rừng có gì thành hàng hóa
là chúng tôi thu gom gửi bán cho khách Hà Nội. Tiền đó hai bà lại mua hàng theo
đơn của chúng tôi đặt như vải vóc, kim chỉ, đồ trang sức, đồ chơi. Chúng tôi
kín đáo đưa hàng ra các bản với nhiều phương thức thích hợp: bán lâý tiền ngay,
trao đổi hàng cũng có, ký gửi hàng cũng có...
Hàng may đo của chúng
tôi rất được tín nhiệm. Các công chức và gia đình họ rất thích đặt chúng tôi
may quần áo, kể cả việc đóng bộ đại lễ bằng tít-suy hay nhung vóc đắt tiền.
Chúng tôi có thợ may tay nghề cao. Chính anh em từng làm ở các tiệm nổi tiếng ở
Hà Thành như Sác Mốt Tràng Tiền. Là tù tất nhiên cái khó khăn chính là không có
máy may. Mọi hàng đều khâu tay, nhưng chính điều này là cái giá không tìm được
ở bất cứ hiệu may nà o. Cho nên các tay trưng diện lại rất ham có được bộ đồ
may ở nhà tù Sơn La. Hàng cắt may kỹ và giá rẻ, giao đúng hạn. Sự tín nhiệm dày
lên với năm tháng, đến mức các vị công chức đều thích mời tù thợ tới nhà đo
may. Tiền công thu được khá lớn. Những hoạt động kinh tế kiểu trên đây chúng
tôi đều nghĩ là ngoại thương tức khách hàng đều là người ngoài nhà tù. Giữa anh
em tù cũng dần già phát sinh nhu cầu trao đổi. Ai đó có người nhà gửi cho thứ
gì mà không dùng tới, muốn trao đổi, muốn mua bán thì có nội thương chứng kiến
và thu phí theo % giá trị hàng hóa. Khi bị đưa đày Sơn La, anh em
đã dự kiến cuộc sống sẽ cam go gấp bội so với lúc ở Hỏa Lò (Hà Nội). Anh em đã
chủ động nghĩ cách tự cứu là làm kinh tế. Rồi cái khó chẳng bó nổi cái khôn, mà
ngược lại càng làm anh em vắt óc tìm ra những nguồn việc mà trước đó chẳng ai
nghĩ tới.
Hết sức kỳ công là
chúng tôi tổ chức cất được cả rượu bán. Nhớ lại hồi ở Hỏa Lò có chế độ mắm, mè,
trâu, đậu . Đấy là thực đơn hai ngày một. Ngày thứ nhất thì sáng ăn cá mắm,
chiều cá mè luộc - sang ngày thứ hai: sáng thì thịt trâu luộc, chiền có món đậu
phụ luộc. Thực đơn này cứ nối tiếp hết tuần, hết tháng đến hết năm. Ngày chủ
nhật đặc cách có món thịt lợn luộc. Thức ăn làm cho tù cho nên không những đơn
điệu về món mà còn nghèo nàn về hương vị. Sự chế biến cũng rất là lao tù. Chúng
tôi có tranh biếm họa cảnh ăn thịt trâu. Hai tù nhân miệng cắn hai đầu miếng
thịt bằng nửa ngón tay còn chân thì đạp vào ngực nhau để thêm sức mà giằng
miếng thịt đứt ra làm hai! Còn thịt lợn thì chỉ sợ nó bay biến, phần mỗi người
một miếng bằng nửa bao thuốc lá và thái mỏng tanh như tờ giấy. Cá mè luộc thì
nửa sống nửa chín, đậu phụ thái ra thì có nhân thạch sùng. Rau muong luộc còn
bám đầy trúng cóc, ăn phải là chết. Cơm thì chúng dùng nước vôi để nấu, nước lã
pha vào suýt thịt trâu. Nhà bếp đã tiếp tay cho giám ngục hành hạ tù nhân chúng
tôi như thế. ăn uống đã vậy, anh em còn bị đau ốm liên miên, ghẻ lở đầy người.
Chẳng còn biết trông vào đâu được vì mục đích của tù ngục thực dân là hành hạ
tù nhân để khuất phục họ.
Lúc đó tôi làm trật
tự, bàn cách cứu tình trạng này bằng cách cải thiện bữa ăn. Chúng tôi thỏa
thuận với nhau thực hiện cộng sản trong ăn uống . Ai có người nhà tới thăm nuôi
thì tất cả các thứ nhận được đều tập trung, phân phối tùy theo sức khỏe và nhu
cầu của từng người, phân phối từ quả chuối đến miếng giò và cả thuốc hút nữa.
Kế đến, chúng tôi tổ chức chế biến lại bữa ăn hàng ngày. Cái khó là dụng cụ để
nấu nướng. Cơm tù thường được đựng trong thùng gỗ cao 30 phân. Còn thức ăn thì
đựng bằng cà mèn sắt tây, hay tôn lá. Ngày đó chưa có cà mèn nhôm. Sau một thời
gian chúng tôi đã giấu, lấy được mấy thùng gỗ và ít cà mèn. Cả quần áo thủ được
khi nhà, tù phơi ngoài sân. Thế là tích luỹ được nhiên liệu và dụng cụ cần
thiết. Cả trại đồng lòng nhịn một bữa không ăn, dồn thêm các thức ăn người nhà
thăm nuôi đưa cho, chế biến lại cho ngon miệng và nấu kỹ. Kết quả thật là khả
quan. Ai cũng cảm thấy bữa ăn ngon hẳn. Rồi một tuần sau số người đau ốm giảm
rõ rệt và mặt ai cũng tươi tỉnh. Nhưng sự yên vui của tù nhân là điều giám ngục
phản đối. Việc một số thùng đựng cơm mất hút rồi số cà mèn cũng thu không đủ,
chúng đã đi khám và tìm ra mưu kế của chúng tôi. Từ đó chúng tuyên bố cấm và
chú ý kiểm tra hơn. Tuy việc nâng chất lượng bữa ăn chỉ tồn tại một thời gian
ngắn nhưng tác dụng thì lâu bền. Anh em khỏe ra và năng động khắc phục hoàn
cảnh. Tôi vốn ham làm báo. Nhân dịp Tết đến, tôi chủ trương ra tờ báo Xuân.
Trước hết tôi nhắn ra ngoài gửi cho mấy tập giấy học sinh, mực tàu và bút. Việc
này chỉ trại chúng tôi bàn định, thế mà tin lại lọt sang cả bên tù phụ nữ. Có
một bà tài hoa xinh gái được nhiều người chú ý, đã gởi thư sang tôi xin tham
gia viết báo và đề nghị tờ báo Xuân nhất thiết phải có phần đề tài phụ nữ. Tôi
nhớ lại bìa số báo do tôi vẽ. Trong sân nhà tù Hỏa Lò vốn có hai cây bàng lâu
năm, đang mùa đông, bàng rụng hết lá, trơ những cành. Tức cảnh này tôi trang
trí bìa báo Xuân bằng hai cành bàng không lá bằng mực tàu đen. Chữ xuân bằng
mực đỏ nổi bật làm cho bìa rất ấn tượng và bao hàm nhiều ý tứ. Số đó bên, phụ
nữ cũng góp máy bài làm tờ báo thêm hấp dẫn, phong phú. Ngoài ra, còn có buổi
diễn văn nghệ và tôi cũng thuộc lại diễn viên có hạng về đóng giả phụ nữ. Để
làm tóc chúng tôi lấy quần áo gỡ ra thành sợi đem nhuộm hắc ín, khéo nhuộm,
khéo chải cũng mượt và quyến rũ lắm. Lúc này đang diễn ra chiến tranh Pháp -
Xiêm và thực dân Pháp bắt dân mình phải ra trận. Chúng tôi đã dàn dựng vớ kịch
tỏ thái độ phản đối cuộc chiến tranh đó. Phản đối việc bắt dân Việt Nam phải
chịu đựng chết chóc. Trại tù là một gian nhà dài chừng hai ba chục mét với hai
bệ xi măng và lối đi. Trong trại có bảy mươi tám mươi tù nhân, mỗi người được
một chiếc chiếu và một chiếc chăn chiên. Để dựng sân khấu chúng tôi khâu chăn
lại, thứ dựng làm cánh gà thứ làm màn. Bố trí một người ngồi trên thành cửa sổ
vắt vẻo để kéo màn, vừa canh chừng người nhà lao. Hễ chúng đi tuần thì giật dây
bỏ màn xuống. Nhóm bên dưới thu dọn cất ngay. Đạo cụ trang trí sân khấu thì
chúng tôi xếp các thùng đựng cơm rồi phủ chăn lên làm bàn, ghế, làm kệ... đủ thứ.
Vì biểu diễn ở nhà dài nên chỉ dân nhà dài được xem. Hễ bọn tuần tra đến thì
theo sự phân công, mỗi người một tay xóa ngay hiện trường. Còn diễn viên thì
lủi vào góc tường nơi đặt thùng xí. Đó là hai cái thùng khá lớn, thừa sức đựng
chất thải và ai đi thì cả phòng nhìn thấy. Điền đó cũng tiện cho tôi. Vì là
trật tự, tôi phải quản lý bảng danh sách làm vệ sinh thùng. Có quy định như
sau, mỗi đêm có nhiều người dùng tới thì theo danh sách mà điều bốn người đi
đổ, còn đến chỉ hai người thì sáng hôm sau tự họ phải đưa chiếc thùng đi đổ.
ở Sơn La, hàng ngày
người tù ra ngoài nhà tù làm việc. Nếu đi nhặt củi thì sáu người một xe bò. Mỗi
xe lấy vài khúc củi chở về là được. Còn việc chẻ củi cho nhà bếp đã có tốp
khác. Như thế thì cứ tìm được một cây củi là đủ tiêu chuẩn cho cả tuần lễ. Và
chúng tôi có nhiều thì giờ để tìm hiểu dân tình quanh vừng hay đi khai thác
hàng. Thường là những anh em thạo tiếng địa phương làm việc này. Dần già, Chúng
tôi cũng tích lũy thành quỹ cải thiện đời sống. Ngoài bữa ăn thường ngày, tù
chúng tôi còn đặt ra cả chế độ mỗi tuần có tiệc nhỏ. Ngày chủ nhật thì làm phở,
bánh cuốn hoặc là cà phê bánh ngọt. Còn hàng tháng có tiệc to đủ măng, miến,
mộc nhỉ, có cả giò chả... chẳng thua gì tiệc quê. Phải thừa nhận trong anh em
mỗi người đều, có tay nghề của mình, khéo khêu gợi, khéo tổ chức thl họ dễ dàng
thay đổi cuộc sống tù đầy. Tôi nhớ có lần cả nhà ba trăm con người cùng chén
một bữa thịt chó y như kiểu đặc sản thịt chó nổi tiếng bây giờ. Bữa ăn dùng đến
bảy, mười con chó to. Làm sao mà kiếm đủ cho cả trại. Đội nguyên liệu đã đi
thăm dò nguồn và ngã giá mua trong dân. Lựa hôm trời lất phất mưa, họ đem áo
tơi đi làm như mọi ngày. Lúc trở về cũng lụng thụng áo tơi đẫn ướt và bê bết
bùn. Khi qua cổng thành tất có lính khám. Thế mà tốp chạy nguyên liệu vẫn đưa
chó qua trót lọt. Thì ra trong số quàng áo mưa các anh em được giao nhiệm vụ đã
cột chặt chó vào người rất gọn gàng. Lúc qua cổng họ lại khéo léo sắp xếp thu
hút lính chú ý vào các điểm đã bố trí. Thế là cả đàn chó lọt cổng êm thấm, đến
nỗi những anh em không được giao trách nhiệm này cũng chẳg hay biết. Cho nên
như tới khi thấy lũ chó thì đã sửng sốt thật sự, cứ như từ trên trời rơi xuống.
Các thứ gia vị cũng theo chó vào đầy đủ. Việc huy động người làm không khó. Vừa
đưa ra lời dạm hỏi:
- Thằng nào làm chó!
Thì đã nhao nhao lên,
đến hàng chục người:
- Tao! Để tao! Có tao
mới thành nhựa mận!
Và họ thật sự lành
nghề. Công việc chế biến thịt món nào ra món ấy, nấu nướng cứ êm ru. Chỉ có mùi
thơm tỏa ra ngào ngạt làm ai cũng nhỏ nước giãi. Đó là những tiệc trong nội bộ
tù với nhau. Đến bữa tiệc tết anh em mời cả các cai ngục. Có thể thằng quản nó
cũng đánh hơi được nhưng nó cứ lờ đi vì bới ra thì chúng tôi cũng sẵn sàng đối
phó lại. Cả hai bên đều chưa quên những cuộc đấu tranh gay gắt trong nhà tù.
Ngay trước ngày đoàn chúng tôi chuyển lên thì Sơn La vừa trải cuộc đấu tranh có
tên gọi là Xếp! đờ lô . Cuộc đấu tranh nổ ra (ngày l3-5-1941) vì
tên giám ngục Sơn La rất tàn bạo, khắc nghiệt. Nó cố tình đầy đọa tù nhân về
mọi mặt, hòng khuất phục, cứ như để trả thù. Anh em tuyên bố tuyệt thực. Nó đểu
cáng hảo: Chúng mày nhịn ăn thì tao cho nhịn uống luôn! Nó nhét cả mấy trăm tù
nhân xuống hầm ca-sô. Dưới đó chỉ có chục chiếc xà lim cùng một hành lang hẹp.
Mỗi xà lim diện tích không quá hai mét vuông. Khi chúng tôi tới anh em thuật
lại rằng, chỉ chen chân đứng, không thể nào ngồi được. Đã vậy nó lại không cung
cấp nước. Nóng nực và đói khát cháy họng. May trời mưa, mọi người dơ quần áo ra
hứng thấm nước rồi vắt chia nhau hớp một. Ngày bí quá phải uống cả nước tiểu.
Gay go thế nên ngày đêm ca-sô sôi sục tiếng đòi hỏi:
- Đ mẹ, Xếp! đờ lô!
Xếp! nước uống (Chef, de leau)[3]. Đờ lô đã thành là tiếng gọi
của cuộc đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh này không thắng lợi hoàn toàn ngay sau
đó, vì cuối cùng không chịu nổi anh em đòi nó phải đưa lên. Nhưng về sau những
nguyện vọng của tù nhân từng bước nó đều thỏa mãn. Chúng tôi sau đã được hưởng
thành quả của các cuộc đấu tranh trước đó. Đòi đọc báo, nó cấp báo. Đòi tự nấu
lấy ăn, nó cũng thỏa thuận. Như thời ở Hỏa Lò, ăn bếp nhà thầu thì khổ không tả
nổi. Tù nhân tự nấu lấy còn quản ngục cung cấp thực phẩm, tính tiêu chuẩn theo
đầu người rồi nhân lên theo số tù trong ngày. Căn cứ vào đó, nó giao cho tù
tổng số ký thịt theo đầu lợn trâu, rau thì lấy theo số ký ở vườn do tù làm,
theo mức quy định. Tất nhiên.. anh em đâu chịu bó tay vì vườn tù làm nhiều rau
và ngon nhất. Anh em cũng biết cách xoay sở để ăn cho thỏa thích. Sơn La thời
đó có mấy loại vườn rau: vườn tù,vườn sứ, vườn trại lính. Mỗi vườn cung cấp
theo đối tượng. Còn gạo thì theo đầu người,
ngày là sáu lạng hoặc năm lạng rưỡi, tính ra thành thóc, nó bắt các bản
quanh vùng nộp. Chúng tôi tổ chức xay giã lấy.. Thóc các bản phần lớn là thóc
nếp. Cho nên chúng tôi phải thổi xôi. Chỉ có ngày tiệc lớn mới có dịp được ăn
cơm tẻ. Là thóc nếp lại được xay giã nên có số gạo dôi ra, chúng tôi dùng để
cất rượu. Rút kinh nghiệm cuộc đấu tranh Xếp! đờ lô anh em chú ý
đến sự tích trữ các thứ để đủ sức đương đầu với sự tàn bạo của kẻ thù. Tôi
không rõ các ông ấy đã làm như thế nào, nhưng tôi phát hiện lúc tới đã thấy các
đầu tường, các góc nhà đều có hiện tượng trữ nước. Đến lúc nấu ra nhiều rượu
quá, anh em tìm cách trữ lại cho các ngày lễ, ngày tết bộ phận phụ trách thì
tìm cách dấu, còn anh em khác không được phân công thì xem như không hay biết.
Hai lần tôi ở trong số liên quan tới công việc cất dấu. Tôi phụ trách nhà xay
với mấy cối xay - nếu nay thì cũng là giám đốc nhà xay kia đấy. Tôi nhận thóc
với định mức: 10kg thóc ra 7 kg gạo, 100kg thóc làm ra 70kg gạo, nhưng thực tế
gạo thường nhiều hơn nên xay giã có dư hơn 5 -7kg, chưa kể khi cân gạo cho mình
chẳng tội gì cân đúng, thường cân dôi ra. Cho nên số dư tích lại cà nhiều. Việc
khiêng gạo cũng do tù làm, khênh bằng những đòn ống bương to, chắc, dài hai
mét, (độ ba gióng, mỗi gióng sáu bảy chục phân). Bên trong chúng tôi thôm hết
mắt thế là mỗi ống là một kho trữ gạo. Khi tôi phụ trách nhà xay, ông Bùi Lâm
làm thủ kho. Giữa hai bên đã thỏa thuận cách thức lấy cắp gạo ở kho. Khi ông
Lârn gọi:
- Độ ơi đem trả tao
mấy đòn ống mày mượn hôm trước.
Theo lệnh, tôi mang
hết ống sang. Đến hôm sau tôi hét tướng lên:
- Anh Lâm ơi! Cho mượn
vài đòn ống đi khênh gạo
- Sang mà lấy!
Ông Lâm hét lại.
Thế là mấy đòn ống tôi
giao sang rỗng thì nay vác về đầy gạo, cũng chục cân mỗi ống. Nhờ vậy khi quản
ngục vô cớ hạ mức ăn của tù thì chúng tôi vẫn có thể ăn no để giữ sức.
Cuộc sống ở nhà tù của
địch là như vậy, là một thứ đấu tranh trực diện ở mọi lĩnh vực, cho nên người
cách mạng phải biết tổ chức giỏi và có sự lãnh đạo đúng đắn, kiên định mới hạn
chế được sự đầy đọa của kẻ thù. Tôi xin kể lại cái tết nhà tù Sơn La năm 1942
sang 1943 để ta hình dung khả năng tổ chức kỳ lạ ấy. Bản thân tôi trực tiếp
tham gia và đã không khỏi lác mắt. Công việc lo Tết giao cho tiểu ban xã hội và
vật chất. Và họ đã làm thế nào thì không ai rõ. Nhưng giáp tết thấy hàng tết cứ
chuyển về ùn ùn, cứ như đi chợ tết bên ngoài. Tiêu chuẩn đặt mỗi người hai cái
bánh chưng, một nửa hay là một phần cân giò, có cả bóng, mực, đậu xanh cùng
nhiều thức khác. Suốt ba ngày Tết, bữa nào cũng là tiệc và có đủ rượu ngon. Cả
ba trăm con người đều đầy đủ như thế. Ngoài ra còn đem biếu cai ngục và biếu
các cơ sở cảm tình. Ba ngày Tết, chế độ ăn uống đã vậy, anh em còn tổ chức nhà
tù thành một nơi vui chơi, thu hút lính tráng, cư dân quanh vùng tới: Vui xuân
ở đây trở thành hấp dẫn nhất thị xã. Các sòng bài, sòng bạc thu hút mạnh số cai
và lính sát phạt nhau. Muốn đánh bạc ở đây thì phải dùng tiền nhà tù, anh em
được phép đứng ra đổi cho khách chơi cứ như một ngân hàng vì có chiết khấu. Ban
sáng anh đưa 10 đồng ra đổi thì được chừng 8 đồng tiền nhà tù. Có tiền anh có
thể đem chơi bài, đánh bạc, ngoài ra có thể mua các thứ hàng ở căn tin như rượu,
bánh, mứt. Đến chiều anh muốn đổi tiền nhà tù lấy tiền lưu thông thì tỉ lệ đó
ngược lại. Cách này tạo ra một nguồn thu đáng kể. Còn một tiết mục do anh Xuân
Thủy phụ trách là mở nhà hàng cô đầu. Và đặc biệt là chú ý đến vai trò tiếp tân
để câu khách. Mấy cậu đẹp trai được chọn đóng con gái, tết tóc, má phấn môi
son, mình mặc áo dài, chân đóng guốc cao gót, cũng mời chài, chuốc rượu, để
chúng sờ soạng, tán tỉnh y như tiếp viên bây giờ. Thế mà cũng có khách ra trò.
Có điều thú vị là, có một ông tên là Nguyễn Sinh biết rõ ông Lam là tiếp viên
trai giả gái mà cứ mê mẩn. Nguyễn Lam ngồi đâu là tìm cớ sán lại tỉ tê, còn
đánh ghen với bất cứ ai ngồi gần Nguyễn Lam. Ông ấy là một nhà thơ, không rõ
sau ông làm gì, đi đâu! Bạn ù còn vậy, huống hồ bọn, lính tráng, quan binh càng
hám gái, ham vui. Chúng tôi còn tổ chức diễn kịch bằng tiếng pháp để bọn Tây
xem.
Nhà tù Sơn La cũng có
trại dài khoảng 30 mét. Cách thức như trại dài ở Hỏa Lò. Còn trại hai gian hình
vuông rộng vài chục mét và trại ba gian rộng hơn một ít. Mấy ngày Tết, chúng
tôi thi nhau trang hoàng trại thật rực rỡ. Trại dài biến thành nhà hát. Tất cả
việc đó chỉ làm trong đêm ba mươi tết là phải xong. Công việc lại không dễ..
Tường nhà tù thì phân nửa phía dưới vốn sơn hắc ín, nửa trên lâu ngày không sửa
sang quét dọn nên rất bẩn. Thế mà sau một đêm, toàn bộ biến thành mầu hồng chạy
chỉ vàng. Trại dài thành nhà hát mang biển tên pháp Palace với hai cành hoa đào
giao nhau đóng khung trang trí, những lẵng hoa treo đây đó càng làm cho mặt
tiền thên rực rỡ. Không rõ ban tổ chức xoay xở như thế nào mà sân khấn cũng có
màn nhung thật sang trọng. Hồi đó tôi ở cùng phòng với anh Nguyễn Lương Bằng.
Đó là phòng hai gian, trang trí thì cũng là hoa lá với câu đối Tết. Trọng điểm
là làm sao để cho cái chuồng xí trong phòng đỡ chướng mắt người lui tới. Thế là
nảy ra sáng kiến sửa lại cửa màn be và treo lên đó cái biển tiêu phòng chỉ rõ
mà lại lịch sự nữa. Bên trại tập trung thì cải tạo thành nhà hát cô đầu cùng
sòng bạc phục vụ máu đỏ đen của giới quan chức và lính tráng. Nhà hát cô đầu
với bốn hoa khôi (trai giả gái) đã làm say đắm hao nhiêu khách tình, đến phải
ngạc nhiên. Với tôi từ bé đến lúc ấy chưa bao giờ có cái tết no nê, ngon lành
và hấp dẫn đến thế. Càng ngẫm nghĩ, tôi càng phục sự tháo vát và tài tổ chức
của các ông ấy. Cũng có người lừng khừng, nhưng nói chung là hào hứng với sự
phân công.
Thời chúng tôi mới lên
thì thằng Cút Xô là chánh mật thám, đang làm công sứ Sơn La. Cút xô nổi tiếng
một thời là tên diệt cộng và đàn áp tù nhân không run tay. Tiếp nó là thằng
Robe trẻ hơn, có vợ người Huế. Mụ này mang em gái theo để trông con cho chúng.
Hàng ngày nhà tù phải đưa người sang bổ củi, quét vườn, trồng rau và gánh nước.
Chúng bắt cử cả một kíp tù để gánh nước cho các gia đình công chức, giám ngục,
chọn tù chính trị làm bồi bếp cho nhà sứ, nhà giám ngục và giám binh. Với công
sứ thì một bồi một bếp, còn lại là một tù nhân kiêm làm bồi bếp. Anh Nguyễn
Thanh Bình lúc đó làm bồi bếp cho giám ngục rồi giám binh. (Sau này anh làm bộ
trưởng bộ thủy lợi). Cứ một ngày lại phải cử bốn tù nhân, đó là những người có
thể đảm đương công việc và quan trọng hơn là phải biết tiếng Pháp để giao dịch
với chúng, hiểu được điều chúng sai bảo. Mặt mũi cũng cao ráo cho dễ coi. Có
lần tôi cũng bị sung vào đội gánh nước, quét vườn cho nhà công sứ. Chẳng hiểu
mụ vợ Việt của nó nghĩ thế nào nhưng đã tỏ ra có cảm tình với tù trong lúc
chồng nó đi làm vắng. Cô em thì lấy cơm nguội bảo chúng tôi ăn cho đỡ đói. Nó
bảo
- Các anh phải chịu
đói. Tôi thương lắm!
Tất nhiên chúng tôi
khước từ:
- Không! Chúng tôi
không ăn. Cơm chúng tôi cũng đủ và tươm tất hơn ấy chứ.
Điều chúng tôi muốn nó
hiểu là lòng bất bình. Ngày ấy chúng tôi mới 17 - 18 tuổi sàn sàn như nhau, cô
em cũng cùng lứa với chúng tôi (khoảng 15 - 16 tuổi). Điều làm chúng tôi bất
bình là nó cứ như là ở lớp người trên cao sang rủ lòng thương kẻ nghèo hèn. Nó
cũng biết chúng tôi là thanh niên có học nên cũng có ve ngại, nể nang. ở lứa
tuổi chúng tôi thì những chuyện lặt vặt như vậy cũng thành vấn đề để gán ghép
chế diễu nhau, là chuyện tếu gây vui của tuổi trẻ. Còn những ông phụ trách điều
hành thì nghiêm lắm và cũng chẳng lạ gì cảnh sống nhàn cư. vi bất thiện của
giới phụ nữ nhà quan chức. Các ông ấy có cách để khống chế họ và bảo vệ anh em,
không bị sai phái, lợi dụng quá giới hạn.
Đại khái cuộc sống ở
nhà tù Sơn La là như thế. Cũng c6 một cuộc tuyệt thực cải thiện tình hình sinh
hoạt trong tù. Rút kinh nghiệm lần trước, cuộc đấu tranh này ta tỉnh táo đưa ra
yêu sách với sự chuẩn bị điều kiện để duy trì sức đấu tranh cho đến thắng lợi.
Nguồn nước cầm hơi có dự trữ đủ dùng. Chi bộ còn bố trí môt số tù không tham
gia để có thể hỗ trợ. Lần đó anh Xuân Thủy ở khu tập trung, đứng ngoài để lo
nước nôi cho anh em, anh còn lo được cả nước đậu xanh, và nước trái cây cho số
tuyệt thực.. Vì vậy tôi tham gia nhịn ăn đã năm ngày mà sức khỏe vẫn đảm bảo.
Thực tế thì khó chịu nhất là ngày đầu, cái đói cứ muốn bẻ gãy ý chí đấu tranh.
Sang ngày thứ hai có dịu đi chút ít nhưng cũng vẫn day dứt, phải gắng quên lãng
cái đói đi. Sang ngày thứ ba thì xem như không nhịn nữa, không còn cảm giác đói
và cũng chẳg có nhu cầu ãn. Tôi còn mải mê tham gia làm tờ báo đấu tranh với
đầy đủ tin tửc sốt dẻo, sáng tác thơ ca thật là say sưa. Hôm cuộc đấu tranh kết
thúc thắng lợi. Nó tới tháo cùm, với cảm giác hoàn toàn khoẻ mạnh, bình thường,
tôi đứng phắt dậy và bị ngã quỵ ngay. Anh em liền mắng cho:
- Sao ngu vậy. Nằm mấy
ngày nhịn đói rồi vùng dậy như vậy, có chết cũng phải.
Thế mới rõ cái cảm
giác khoẻ mạnh như thường là ý chí thôi, còn về sinh lực thì đã bị ảnh hưởng
nặng lắm.
Sau đó nhà bếp dọn
cháo ra. Nhìn thấy cháo, cái đói bị đánh thức, thôi thúc ăn ngay. Tôi vốn có
bệnh lòi dom chưa khỏi. Nhận được bát cháo tôi phù phù vài cái và húp đánh soạt
gần hết bát. Vừa nuốt xong thì cháo chảy ra hậu môn nguyên xi. Đáng lý tôi phải
húp dần và nuốt từ từ thì dạ dày và một mới hấp thụ được.
Thế là đời tù tội của
tôi có hai lần tham dự đấu tranh, một lần ở nhà tù Hỏa Lò, tôi ở trong ban chỉ,
đạo đấu tranh, chỉ độc cầm hơi bằng nước lá nên rất khó chịu. Còn lần này thì
có sự chuẩn bị khá chu đáo nên có nhẹ nhàng hơn những vụ nghe kể ở Kômtum, Côn
Đảo, và đem so với cuộc đấu tranh đờ lô ở Sơn La trước đó thì lần này bảo tồn
được sức của anh em và đấu tranh đến thắng lợi.
HẾT CHƯƠNG 5 XEM TIẾP CHƯƠNG 6
CHƯƠNG 6 THOÁT KHỎI GÔNG XIỀNG
Tôi lên nhà tù Sơn La được hơn một năm. Vào khoảng cuối năm
1943, bọn thực dân Pháp có chủ trương chuyển dần một số lớn tù chính trị ở Sơn
La đi Côn Đảo. Cho đến trước tết âm lịch, chúng đã đưa đi hai chuyến và đang
chuẩn bị chuyến thứ ba, tôi phong phanh nghe tin như vậy.
Thực tình, từ lúc bị bắt, tư tưởng vượt ngục chẳng buông tha
tôi. Hễ thảnh thơi là nó lại trỗi dậy. Có lẽ cũng là tâm trạng chung của một số
đông lớp trả hiếu động. Tôi và Trần Diệp, chồng bà Lê Minh, rất tâm đầu ý hợp.
Cả hai trạc tuổi nhau. Diệp tên thật là Khuê, cũng có mặt cùng tôi trong chuyến
đào hầm vượt ngục ở Hỏa Lò. Chúng tôi ở gần nhau và đặc biệt là có chuyện nói
với nhau không dứt.. Khuê cũng ham đọc truyện như tôi và cũng lắm tưởng tưởng
kiểu học sinh. Khuê con nhà giàu, họ hàng cũng giầu nên bàn với tôi và được tôi
nhiệt liệt hưởng ứng một kế hoạch vượt ngục đến là tân tiến ly kỳ. Khuê có bà
chị tên Thanh, ở Hà Nội, mà tôi cũng có biết. Theo kế hoạch đó, chị Thanh sẽ
thuê một ô tô du lịch lên Sơn La mang theo hai khẩu súng săn, hai bộ quần áo
săn với đầy đủ giấy tờ, chị tìm nghỉ lại ở khách sạn tỉnh. Đến hôm chúng tôi ra
rừng lấy củi sẽ báo chị địa điểm hẹn đón chúng tôi. Hai đứa lên ôtô thay quần
áo rồi cùng chị dông thẳng về Hà Nội!
Để dự phòng, chúng tôi còn một kế hoạch ít hiện, đại hơn, như
sau: Chị Thanh cùng một người nữa mang hai chiếc xe đạp lên Sơn La. Với xe đó
chúng tôi sẽ phóng về xuôi. Đến Hòa Bình chúng tôi sẽ dựng dấu vết một vụ tai
nạn, rồi lẩn vào rừng. Chị Thanh đợi ở một địa điểm xa đó để đưa đi tiếp. Khuê còn
phấn chấn bàn là ra ngoài rồi chưa vội bắt liên lạc với tổ chức mà dành hẳn một
năm tập cưỡi ngựa, đánh bốc, đấu kiếm, tập bơi, bắn súng lục để có bản lĩnh cao
cường đối phó lại mọi tình huống bất trắc. Chuyện này cũng ly kỳ nhưng tôi
không bắt bằng chuyện vượt ngục và ít nhiều tôi đã trải qua hoạt động quần
chúng hơn Khuê, dù sao cái chất lãng mạn vẫn là giấc mơ đẹp. Thỉnh thoảng tôi
lại dặn dò Khuê: Kiếm được súng lục, cho tớ với! Cậu nhớ bày tớ cách cưỡi ngựa
nhé!...
Những câu chuyện như thế cột chặt chúng tôi lại như hình với
bóng, xì xào không thôi. Chúng tôi làm các đồng chí trong chi bộ lo ngại. Và
hình như có người theo dõi, tìm hiểu để ngăn chặn chúng tôi. Rồi ông Lê Đức Thọ
chú ý đến tôi. Không biết ông từ đâu đến. Một hôm, ông Thọ vỗ vai tôi, nói
chuyện rất chân tình, như người anh dặn dò đứa em nhỏ. Ông đề nghị tôi vào Đảng
lại với điều kiện không được manh động, mà nên tham gia các hoạt động khác
trong tù như ra báo chí, làm công tác xã hội..
Mùa thu năm 1943, tôi được chi bộ nhà tù Sơn La xét kết nạp vào
chi bộ nhà tù. Sự kết nạp lại là chung cho mọi đảng viên tới nhà tù Sơn La sau
khi qua thử thách một lần nữa. Vừa qua là thời kỳ tôi đang được thử thách mà
tôi không biết nên cứ loay hoay như thế. Tôi trở lại say sưa hoạt động theo chủ
trương của chi bộ.
Đến một hôm, đó là ngày 5-8- 1943, như mọi sáng sớm khác, các
cửa trại tù mở tung để chúng tôi đi làm. Tôi ở trại Hai gian, cùng nơi anh Sao
đỏ. Tôi không thấy nón của anh đâu cả, trong lúc cả dãy nón còn nguyên vì chưa
ai đi làm. Khi xếp hàng điểm danh cũng không có anh Trân và anh Đ cũng vắng. Vẻ
mặt các đồng chí trong ban lãnh đạo lộ vẻ nghiêm trọng. Tôi lưu ý sự thiếu tự
nhiên của một số đồng chí khi nói cười. Chiều tối, bọn cai ngục lùa chúng tôi
vào trại, cáu kỉnh điểm danh. Chúng lộ vẻ giận giữ tức tối. Chúng tôi tụm năm
tụm ba bàn tán. Tôi tự hài lòng với sự tinh mắt sáng ý của mình.
Thực dân Pháp lấy nhà tù Sơn la làm nơi giam tù cộng sản là có
lý do xác đáng. Sơn La nằm heo hút hẻo lánh giữa núi rừng trùng điệp, đường sá
khó khăn, người Kinh lác đác. Ngoài lính khố xanh canh gác tù còn có một số
trại lính khố đỏ và lê dương đóng bên thị xã. Chúng nắm chắc hệ thống phìa tạo
và địa chú quanh vùng. Cứ có tù trốn là các bản đều đựợc báo động, trai tráng
bị đẩy đi lùng từng khu suối lạch rừng, các trạm đón lõng được lập ngay ở mọi
lối. Chúng treo giải thưởng 100 đồng cho ai đem được thủ cấp tù trốn về, 50
đồng cho ai bắt được tù trốn. Nãm 1942, ngay trước cửa nhà tù, địch đã treo đầu
từ trốn trại để khủng bố. Đây là hai đồng chí tự động bỏ trốn, không thuộc
thung thổ địa phương, không người dẫn đường, không chuẩn bị gì cả. Và cả hai đã
bị bắt trở lại. Điều địch chú ý khai thác là dân trí vùng này thấp và chính vì
thế mà vị trí nhà tù Sơn La thành ra hiểm trở. Ngay sau chuyến các đồng chí ta vừa
trốn, tôi là trưởng nhóm tù đi làm vườn. Trong tốp lính áp giải có hai lính
mới. Tôi lân la hỏi chuyện họ:
- Các anh có biết chúng tôi là ai không?
- Biết chứ!..
- Các anh có cho chúng tôi là người tốt không!
- Có cho chứ!
- Các anh có thương chúng tôi không?
- Thương chứ!
- Có người trốn có bắt không?
- Bắt chứ!
- Có chặt đầu không!
- Chặt chứ!
Trình độ là như vậy, và địch đã không bỏ qua. Lập nhà tù ở Sơn
La, chúng đã lấy người Việt trị người Việt, đẩy người dân tộc ít người ra sức
săn lùng tù trốn như việc theo mệnh lệnh của chúng hành hạ tù nhân hàng ngày.
Hiểu rõ âm mưu của kẻ địch, các đồng chí lãnh đạo hoạt động bây
lâu nay đã vận động anh em, tất cả đều học tiếng Thái, tiếng Mường và đi sâu
vào quần chúng tuyên truyền vận động. Quanh Sơn La lúc này, nhân dân đa số đã
hiểu về tù chính trị tỏ ra yêu thương tù chính trị và bắt đầu xuất hiện những
cá biệt tích cực. Đảng đã hình thành một số nhóm trung kiên trong các đồng bào
ít người. Cuộc vượt ngục của các anh Sao Đỏ, Trân, anh Đ trót lọt chính là nhờ kết
quả vận động chính trị lâu dài, bền bỉ trong đồng bào, cùng sự chuẩn bị vật
chất khá chu đáo. Lại có người dẫn đường thành thạo. Đáng tiếc là khi anh Giá -
người dẫn đường- trở về bị lộ, địch đã ám hại anh một cách hèn hạ. Đối với
chúng tôi, bọn công sứ, giám binh, cai ngục ra sức khủng bố, tước nhiều quyền
lợi. Chúng tôi đã đấu tranh tuyệt thực năm ngày. Chúng phải nhượng bộ trả lại
hết.. Sau cuộc vượt ngục và đấu tranh trên, chúng tôi chuẩn bị ăn Tết mùa đông
năm 1943, cũng to như Tết trước nhưng lấy ăn làm chủ yếu. Rủi thay cho tôi, đến
ngày tiễn táo quân lên trời thì tôi lại bị kiết lỵ. Mấy năm trước, tuy có số
rét nhưng chưa bao giờ tôi phải hưởng cháo cửu tế, song mấy lâu nay tối sốt
luôn và đến lúc này như kiệt quệ hẳn. Hai ba ngày đi kiết tôi phải nằm một chỗ.
Giáp Tết có đỡ chút ít, tôi nhúc chích ăn cháo. Đúng lúc đó bọn cai ngục vào
lập danh sách để tổ chức một công voa về xuôi. Chúng chọn những người án nặng.
án tôi mười lăm năm, dĩ nhiên không trật. Biết thế tôi rất thích thú dù đang
rất yếu. Các đồng chí lo cho tôi, khuyên ngăn nên ở lại. Tôi cũng không nghe.
Có anh quá lo cho tôi đến gặp bọn ghi tên bảo tôi đang đau yếu. Chúng nó hỏi
tôi:
- Yếu thế nào? Có đau chân không?
Tôi bảo không, thế là chúng bảo đi được và ghi tên vào danh
sách. Anh em ngao ngán. Hôm lên đường có đồng chí đến bắt tay tiễn tôi, bảo:
- Nếu có tin là có người chết dọc đường thì chúng tao cứ truy
điệu mày nhé!
Lúc này đồng chí Tôn Hiệu đã yếu lắm rồi. Anh phải ở riêng một
xà lim. Anh em thay phiên cử người ra trông nom anh. Khi đoàn lên đường anh
muốn ra sân tiễn. Hai anh dìu đỡ anh ra giữa sân, anh gắng vẫy tay như dặn dò
chúng tôi. Sức anh gần kiệt rồi. Được mấy ngày đường, đồng chí Quỳnh, là bí thư
chi bộ đi đường nói với tôi: Tao đưa mày giữa 40 đồng đây, tiền của chi bộ đấy.
Mày ở trong danh sách chi bộ bố trí cho trốn doc đường. Mày là người thứ tư
được chỉ định. Nếu chỉ ba người ra thì không có mày. Nhưng cứ giữ tiền để khi
đó mà dùng. Tôi như mở cờ trong bụng. Sướng vì được trốn, nhưng tôi vui sướng
hơn cả là thấy mình được chi bộ tin cậy. Tôi thấy mình quan trọng hơn lên. Đoàn
tù vẫn bình thản chuyển về xuôi. Tôi chỉ được thông báo là đến Suối Rút sẽ có
người biết đường, chớp cơ hội đưa nhóm người được chỉ định đi trốn.
áp tải đoàn tù là một tên quan tây, cao lớn phệ bụng, cận thị
nặng. Xem chừng nó ít quan tâm đến trách nhiệm. Thấy tôi ốm yếu, nó cho cưỡi
một con ngựa để đi kịp tốp khoẻ. Nhờ thế, đến Mộc Châu thì tôi bình phục được.
Chúng tôi mặc quần áo tù có đóng số PS Sơn La , từng đôi một bị xích cổ tay với
nhau. Xích có lỗ có thể nới rộng hay thu hẹp. Thông thường chúng xích ở mắt thứ
bảy nhưng như vậy tay rất đau, thậm chí còn tụ máu. Để thuận tiện, chúng tôi
đấu tranh chống xích chặt làm tụ máu. Xích ở mắt thứ tám thì tay bé đã có thể
rút ra được nhưng anh em còn đòi nới ra đến mắt thứ chín thứ mười. Thằng Tây và
lính cũng để mặc. Chẳng hiểu bụng dạ thằng tây này ra sao nhưng hắn nói: Tôi
tin là các anh không trốn. Các anh đừng làm khó dễ cho tôi... Suối Rút là một
thị trấn nhỏ ven sông Đà, vốn là nơi đón đưa nhiều đoàn, chiến sĩ cách mạng đi
đày qua đây.. Dân cư gồm có: người Thái, Hoa kiều và một số ít người Kinh.
Chúng tôi có chuẩn bị một số cuộc tuyên truyền trong quần chúng. Sẽ có đồng chí
thạo tiếng Pháp bám sát tên quan Một. Các đồng chí khác đi vào quần chúng theo
ngôn ngữ nắm được. Bước vào thì trấn, đoàn sẽ hát các bài ca cách mạng của Việt
Nam và Trung quốc.. Đoàn cũng quyết định: Không mua bán gì, vì mua thì dân
không chịu lấy tiền hàng. Buổi chiều khi gần đến Suối Rút, đồng chí Quỳnh đến
rỉ tai tôi là: Kế hoạch thất bại . Về sau tôi được hay, người nhận dẫn đường
cho chúng tôi bảo rằng: đã lâu ngày không qua đây nên quên mất lối. Người đó là
ông Chương, có biệt danh là Chương gáo . ở Hỏa Lò (Hà Nội), tù nhân không được
dùng thứ gì khác ngoài cái gáo dừa để ăn, để uống. Vì vậy mỗi người đều có gáo
của mình. Ngày tôi mới vào chưa có gáo, phải ăn bốc. Có người mách bảo: Anh
Chương có gáo thừa, lại mà xin. Tôi bèn lễ phép gặp anh
- Thưa anh, em chưa có gáo, anh cho em xin một cái.
- Tiên sư bố đứa nào bảo mày thế?
Tôi ngạc nhiên thưa:
- Các anh nói anh còn thừa một, bảo em tới xin anh. Em thiếu gáo
thật mà!
Mãi về sau tôi mới hiểu: anh ấy bị bệnh sa đì, dái như cái gáo
to. Anh em đùa gọi là Chương gáo , xui dại tôi...
Nghe đồng chí Quỳnh nói, tôi như lăn xuống vực sâu, bàng hoàng,
ngơ ngác. Đến đêm khuya, phần đau buồn vì kế hoạch trốn thất bại, phần xúc động
trước tấm lòng của nhân dân ở thị trấn đối với anh em tù, tôi không ngủ được.
Nằm trằn trọc ở tầng cao của lô côt đồn lính khố xanh ngay cạnh bờ sông. Trời
lạnh, trăng sáng. Dòng sông Đà lặng lờ một dải bạc hoang văng. Giữa đêm khuya,
từ một chiếc thuyền đỗ trên bến vắng, le lói ngọn đèn con, cất lên giọng ca sa
mạc như sau sé nỗi lòng với tôi.
Sáng hôm sau, lúc đoàn chuẩn bị lên đường, đồng bào Suối Rút ra
tiễn rất đông. Lại có dịp để chúng tôi nói với mọi người về mục đích đấu tranh
của mình và cảnh sống của người dân mất nước, sự độc ác của thực dân phong kiến
cùng những sách nhiễu của lính tráng, quan lại cường hào, chúng tôi kêu gọi
đoàn kết để cứu nước. Đến lúc này nhiều bà, nhiều cô lấy áo thâm chấm mắt. Có
tiếng nức nở. Tình cảm giữa bà con và tù nhân như ruột thịt.
Đến chợ Bờ, tôi cảm thấy được nhẹ nhõm hơn. Hầu như tôi đã xác
định lại quyết tâm mới, cùng các đồng chí trong tù tích cực hoạt động đấu tranh
và học tập, chờ thời cơ khác.
Chợ Bờ cách Suối Rút 12 km. Chúng tôi đến sớm, nhưng được lệnh
nghỉ đêm ở đó, tù ngủ ở quán chợ, lính gác bao quanh. Chúng tôi công khai bỏ
xích ra và từng người tự do đi lại trong lồng chợ. Tôi thấy một người tù tháo
tút dệt của anh ta, lấy áo len, quần trắng mặt ra ngoài, rồi thò tay vứt mảnh
vải ghi số và đi ra. Tôi đợi mười, mười lăm rồi hai mươi phút không thấy anh
trở lại. Tôi tìm đồng chí Quỳnh, bí thư chi bộ đi đường, báo chuyện này. Anh
lập tức cử hai người lấy cớ xin đi mua bán, có lính đi kèm để kiểm tra xác định
chuyện. Một lúc sau, hai người trở về báo cáo là có trông thấy bóng người tù
trốn đã vượt ngục được sang bên kia sông. Người tù trốn ấy tên là Lợi. Sau này
hoạt động, lấy tên là Nguyễn Chương. Ngay khi hai đồng chí đi điều tra thì anh
Diện đến bảo tôi: chúng mày xem đề nghị với thằng Quỳnh tổ chức trốn đi một
chuyện. Anh Diện - tức Trần Cư - là một công nhân xe lửa, trẻ tuổi, hăng hái,
thẫng thắn, nói ít làm nhiều, vốn rất thân thiết với tôi. Cứ như anh đang nói
thay tôi những điều đang phát sinh trong lòng. Phải tháo cũi sổ lồng , còn tình
huống thì phải tuỳ cơ ứng phó thôi, không thể nào có một kế hoạch chi tiết đầy
đủ được. Như cỗ máy được phát động, tôi lao tới đồng chí Quỳnh. Đồng chí Diện
cùng đi theo. Anh Quỳnh đang suy nghĩ cách đối phó việc có tù trốn nên lộ vẻ
xúc động. Anh có tật những lúc này sinh nói lắp, bây giờ càng lắp tợn:
- Được. đ. đ. tao cho chúng mày đi! Nhưng... có thằng nào...
biết đường không?
Đồng chí Diện bảo: Tao biết. Thật tình anh muốn nhanh chóng ngã
ngũ chủ trương, nên nói liều. Nhưng sự mạo hiểm của anh lại rất được việc...
Đồng chí Quỳnh nói ngay:
- Chuẩn bị đi ngay, Độ, Diện và thêm Đệ (tức đồng chí Nguyễn
Khang).
Anh đưa cho Diện mấy chục đồng và cho cả ba một gói thuốc ký
ninh, paludrine...) anh Diện bỗng nói:.
- Này! Hay là Quỳnh đi đi, thằng Quỳnh ra nữa tốt hơn.
Đồng chí nói lắp nhiều quá... khó lọt. Ba thằng đã... tao ở
lại... đối phó .
Diện bảo:
- Thế thì mày đi, lợi hơn. Tao ở lại đốí phó cho!
Đồng chí Quỳnh giận giữ:
- Đ. ai... chả muốn ra. Nhưng tao là... bí thư chi bộ. Tao có
trách nhiệm... đối phó. Thôi đi đi. Muộn... mẹ nó bây giờ!
Đồng chí đột nhiên dịu dàng căn dặn: Cẩn thận nhé. Tao đưa thêm
bộ quần áo đây!
Ngay lúc đó, tình thế khẩn trương choán hết mọi thứ. Nhưng sau
này cứ nhớ lại là lòng tôi bồi hồi. Anh Quỳnh cũng là công nhân như anh Diện,
khi cần hành động, các đồng chí tỏ ra dứt khoát lạ thường, ít vương vấn sự
riêng tư. Chúng tôi hầu như không có gì phải chuẩn bị. Tôi được mẹ gửi lên cho
hai chiếc áo phòng khi lạnh thì chiếc áo len tôi đã bán lấy tiền chuẩn bị trốn,
còn chiếc áo vệ sinh tôi mặc trùm lên chiếc áo có số. Quần thì vẫn là quần nhà
tù nhưng chữ số đã phai đi nhiều. Anh Đệ (Khang) chỉ tay lên quả đồi, hẹn: Tao
lên kia thay quần áo. Ra đó cùng đi nhé!
Đang bữa ăn, tôi nuốt trệu trạo vài miếng và kêu đau bụng chạy
lên đồi. Anh Diện theo sát tôi. Quanh quẩn mãi trên đồi, chẳng thấy anh Đệ mà
trời thì sắp tối. Anh Diện bảo: Cứ ra bờ sông đã rồi tính sau. Tao cũng chẳng
biết đường! . Loanh quanh mãi hết quán chợ - nơi anh em đang ăn cơm, lại đến
nhà hàng. Bụng nóng như có lửa đốt. May sao khi xuống một lối dốc thấy thấp
thoáng dòng sông. Chúng tôi hối hả vượt qua bụi rậm ra tới bờ, nhảy cừu trên
bãi đá ven sông. Vừa đặt chân lên bãi cát thì anh Đệ trong bộ quần áo anh Quỳnh
vừa cho, từ trong bụi nhảy ra gọi:
- Tụi mày làm gì mà lâu thế. Tao chờ sốt cả ruột. Cả 3 anh em đi
dọc sông, tính mưu kế vượt tiếp, thì có tiếng gọi từ một chiếc thuyền nhỏ đang
lững lờ gần đó.
- Này có về chợ Phượng không?
Chúng tôi liền bám ngay lấy chặng đường này: Chúng tôi mặc cả
giá và lên thuyền. Thuyền này chở khách. Từ bến Phương Lâm (Hòa Bình) lên chợ
Bờ, nay đang xuôi dòng. Trên thuyền chỉ có hai vợ chồng người lái. Chồng khoảng
bốn mươi tuổi, gày gò ít chuyện trò, ít quan tâm đến xung quanh. Chị vợ chừng
ba mươi tuổi khuôn mặt tròn, nhỏ, miệng vết nước trầu cắn chỉ,
mất sắc sảo. Mọi việc trao đổi với chúng tôi chị làm hết, quyết định hết...!
Lên thuyền, anh Diện phân công: Đệ làm tổ trưởng phụ trách nội
bộ và lo chung, tôi lo ngoại giao, giao thiệp. Có lẽ anh Diện thấy tôi hay nói
nên giao như vậy. Còn anh thì chịu trách nhiệm kế hoạch hành động đối phó. Phân
trách nhiệm xong, tôi sang khoang sau, nơi chị vợ cầm lái và chèo để nói
chuyện. Sau khi hỏi mua mấy miếng sắn luộc ăn thì liền bị chị hỏi dồn
- Các bác có đói không! Về Phương Lâm rồi đi đân nữa? Hà Nội lên
à? Vì việc gì đấy? ở chợ Bờ hay từ Suối Rút về?
Tôi lúng túng, ấp úng, cứ bấn lên vì bị bất ngờ. Anh Diện tới gỡ
cho tôi.Rồi đồng chí đáp phác ra một cái cảnh của chúng tôi là cả ba đi làm
thuê cho một gia đình người Hà Nội chạy máy bay Nhật, tản cư lên lên Suối Rút.
Chúng tôi chạy đồ đạc cho ông bà chủ đưa lên Suối Rút hôm kia. Nay trở về để
tiếp tục chuyển chuyến nữa...
Chị lái đò đệm tiếp những câu hỏi đi vặt chi tiết. Chúng tôi
phải bày kế hoãn binh, vào khoang trước bàn tính với nhau. Thế là tôi mất chức
ngoại giao. Đồng chí Diện kiêm luôn cả. Anh Diện trở lại tiếp tục câu chuyện ra
vẻ tin cẩn chị lái đò lắm, tiết lộ điều bí mật của nhóm: Chúng tôi buôn thuốc
phiện lậu. Tránh đoan nên phải đi đường sông. Đến Phương Lâm, chúng tôi muốn về
thẳng Sơn Tây. Đây là chuyến đi dò đường thấy có thể được. Nếu chị tiếp tay với
chúng tôi đoạn này trong các chuyến đi sau thì hay quá!
Chị lái đò giọng sành sỏi:
- Biết ngay mà, vải thưa che mắt thánh. Tin nhau nói thẳng thế
có hay hơn không! Thoạt tiên tôi đã cảm thấy không bình thường, không bình
thường. Rồi chị truy chúng tôi xem lần này có mang thuốc theo không. Chị nói
trong không:
- Chở người mang thuốc phiện thế này cũng quá công phu đây!
Chúng tôi phải thề độc, rồi mời chị cứ khám, mới làm chị ta tin...
Cuộc đàm phán trở thành thoải mái và kết cục như sau:
1/ Chị đồng ý ngay đêm nay chở chúng tôi thẳng tới Trung Hà. Chị
bảo không nên về tận Sơn Tây nguy hiểm. Đến bến Trung Hà có
đường tắt đi Sơn Tây an toàn hơn. Anh chồng phản đối, chị liền bảo:
- Thôi về bến Phượng, bố mày về nhà nghỉ. Tôi bảo cậu nó đi
thay. Đàn ông đàn ang gì mà đụt!
Anh chồng đồng ý ngay.
2/ Vì chúng tôi quần áo lôi thôi quá, chị để lại cho một bộ quần
áo cũ của chồng, một cái mũ và cái kính râm
3/ Chị bắt chúng tôi nằm im kín vào trong khoang. Chị lấy chăn
của nhà phủ cho chúng tôi và dặn: Có gì để mặc chị ấy đối phó.
4/ Sau này có lãi phải chia cho chị ta một nửa. Chúng tôi nằm
trong khoang vẫn chưa yên lòng. Có điều là đã lên thuyền thì có khác gì cá trên
thớt. Chẳng còn cách gì khác. Chỉ còn nắm một chỗ là chị này quen buôn lậu và
hám lợi. Vai mà chúng tôi đang đóng cũng là do chị nghi ngờ. Vẻ cởi mở, hồ hởi
của chị ta khi bày mưu tính kế, làm chúng tôi có thể yên tâm.
Thuyền tới bến Phương Lâm trong đêm khuya. Từ xa chúng tôi đã
nhận ra cả vạn thuyền kéo dài và trên bờ còn le lóí ánh đèn dầu quạnh vạch
thành vệt dài lóng lánh trong dòng nước. Thuyền vừa ghé thì có tiếng quát: Hôm
nay cấm đò ngang đáy nhé! Tôi nằm trong chăn hỏi vọng ra:
- Sao lại cấm đò... o...?
- Tù trốn.
Lạnh toát người, chúng tôi bấm nhau. Tôi nhanh nhẩu hỏi tiếp:
- Tù gì trốn đấy.
- Tù chính trị chứ tù gì!
Trong chăn, chúng tôi bấm nhau lia lịa, có vẻ hoảng, nghĩ cách
ứng phó. Tôi bật ra hỏi tiếp:
- Có nhiều không?
- Tám tên.
Câu trả lời dứt khoát thế làm tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi
biết chắc là các đồng chí ở Hòa Bình trốn và tại đây cũng có một nhà tù. Thời
kỳ này Đảng có chủ trương tổ chức cho tù trốn ra ngoài để thêm cán bộ lãnh đạo
phong trào đang lên cao. Chúng tôi đang phấn chấn thì chị lái đò ghé vào thì
thào:
- Đã bảo các bố nằm im sao cứ léo nhéo mãi!
Tôi thì thầm hỏi chị:
- Ta tính sao?
- Tôi ghé bến để chồng tôi lên. Xong tôi lại lần thuyền dọc theo
vạn để đi tiếp liền.
Chúng tôi thuyết phục vợ chồng anh cố thu xếp để đi ngay Trung
Hà không lỡ việc. Cả hai đồng ý. Chúng tôi đỡ lo anh chồng lên bến lỡ nói lộ
chuyện. Chị vợ tỏ ra rất thành thục cách ghé bến, cách lách vạn, chẳng mấy chốc
thuyền đã thênh thang lướt giữa giòng. Tôi vùi đầu vào chăn đánh một giấc. Chắc
hai anh thì ngủ ít hơn.
Thuyền cặp bến Trung Hà vào lúc chưa sáng rõ. Chị lái vẫn cẩn
thận cho cặp thuyền ngoài bến, chỉ lối để chúng tôi tránh đồn lính đoan Trung
Hà đầu làng. Chúng tôi trả tiền đò gần như gấp đôi với lời cảm tạ nhiệt thành.
Trước khi lên bờ, chúng tôi đã thống nhất với nhau về trang phục của mỗi người.
Lúc lên đến bờ, đồng chí Diện với tay lấy cái nón chị lái đò đang đội trên đầu
giọng nửa đùa nửa thật:
- Chị cho tôi mượn cái nón làm kỷ niệm chuyến đi nhé!
Chị lái đò như do dự. Anh nói thêm:
- Thôi mà! tiếc nhau làm gì, còn làm ăn với nhau nhiều.
Anh bước lên bờ. Đi một đoạn, anh giải thích:
- Tao phải xin cái nón vì chỉ mới có một cái mũ. Có thêm chiếc
nón, với cái kính râm cái mũ mua hôm qua, thêm vẻ tự nhiên cho mỗi thằng. Bây
giờ đường sá đã thông thuộc. Chúng tôi tính tin tù trốn chưa về tới đây. Cần
tranh thủ vượt thị xã Sơn Tây sớm, đến Phùng rẽ vào chùa Thầy. Tại đó, anh Diện
liên lạc với cơ sở cũ. Nếu trở ngại thì về Hà Nội, anh Diện lo liệu việc ăn ở,
Chúng tôi đi xe kéo một đoạn, gần đến Sơn Tây xuống đi bộ qua thị xã, qua cửa
thành Sơn Tây, gặp một toán tù áo xanh đang rửa tay bên thành hào do một lính
khố xanh cai quản. Hắn thúc giục, quát tháo. Mặc, anh em cứ kỳ cọ như không nghe,
không thấy. Tên lính cầm roi quất, làm náo động cả đám. Dù biết đó là tù kinh
tế, nhưng chúng tôi van mủi lòng.
Chúng tôi cảm thấy việc mình đang tự do đi lại là không thật và
cảnh sống áp bức, đánh đập đang chờ đón mình. Chúng tôi lúng túng tìm lối rẽ Hà
Nội. Cả ba cố tình đi sát nhau để trao đổi thì trước mặt xuất hiện một cô gái
bận quần trắng áo lơ-muya màu hồng, che dù tha thướt bước. Đang lúng túng, tôi
cũng cười bảo:
- Kìa, kìa tiên núi hiện lên đưa đường đấy. Cứ đi theo! Quả
nhiên qua một lối rẽ chúng tôi trông thấy cái biển xanh chỉ đường với chữ Hà
Nội. Khỏi thị xã một quãng, chúng tôi lên xe kéo đi Phùng, rồi rẽ chùa Thầy anh
Đệ rảo bước lên trước với lời hẹn đón ở chùa Thầy với ký hiệu giao ước. Chuyện
trớ trêu là cả anh Diện và tôi đều không biết chùa Thầy nên cứ lơ ngơ đi dọc
làng mấy lần. Chẳng có cách gì bắt liên lạc, tôi huýt sáo một bài ca cách mạng
cũng chẳng kết quả gì. Lượn mãi sợ bị nghi ngờ, hai chúng tôi ghé quán ăn bánh
trừ bữa rồi tìm đường đi tắt về Hà Nội, lòng băn khoăn về hoàn cảnh của anh Đệ.
Chín giờ tối đến cầu Giấy, chúng tôi thuê xe đi Khâm Thiên, tìm tới nhà cậu anh
Diện. Đến một túp nhà lá lụp xụp trong ngõ chợ, chúng tôi gõ cửa m ột ông già
tóc bạc ra mở cửa. Nhận ra anh Diện, ông đóng vội cửa kéo cả hai vào trong nhà,
ôm lấy chúng tôi xoa đầu vuốt mặt... Chúng tôi nói rõ hoàn cảnh. Ông cụ bảo thế
thì cứ ở lại đây cho yên ổn. Chúng tôi được ngủ một đêm đầu tin cậy thoải mái
như ở nhà mình. Thế là có thể tin chắc cuộc trốn đã hoàn thành. Chỉ tiếc không
rõ anh Đệ ra sao.
HẾT CHƯƠNG 6 XEM TIẾP CHƯƠNG 7
CHƯƠNG 7 NHỮNG NGÀY THÁNG TỰ DO ĐẦU TIÊN
Hóa ra ở tù có cái gian truân của cảnh trong tù, thoát khỏi nhà
tù lại có cảnh gian truân của cảnh ngoài tù. Đó là sự gian truân liên tục của
người cách mạng khi chưa cướp được chính quyền, khi những người cách mạng chỉ
mới là những đốm lửa le lói trong đêm dày đặc, chỉ dựa vào vùng ánh sáng nhỏ bé
của mình mà sống và hoạt động. Mấy ngày tự do đầu tiên của chúng tôi đầy những
nỗi gian truân, vì chúng tôi mới chỉ thoát được cái lồng bé, song còn bị giam
cầm trong cái lồng lớn của chủ nghĩa thực dân. Đất nước đâu đã có tự do! Đồng
chí Diện đặt kế hoạch bắt liên lạc trước hết nhờ ông cậu tìm người em giai họ
của đồng chí Diện vốn là một công nhân giác ngộ có hoạt động từ trước, nhờ anh
đó qua tổ chức cơ sở nói với cán bộ, để báo cáo lên thành ủy rồi lên xứ ủy. Vì
trốn ra không có sự bố trí trước ở ngoài, nên xứ ủy và trung ương phải thẩm tra
rất kỹ. Chúng tôi phải viết tóm tắt báo cáo nói rõ cuộc trốn, họ tên và ngày
giờ. Sau đó trung ương đã nhắn hỏi lại mấy điều để kiểm tra thêm, lúc ấy mới
được chính thức bắt liên lạc. Chúng tôi phải chờ đợi như thế đến năm hôm. Năm
ngày đó chúng tôi trong ở nhà ông cụ. Cụ cho chúng tôi ăn uống rất đầy đủ. Cụ
cho là ở trong tù thì ăn uống khỏ cực lắm nên cụ thương muốn bù lại cho chút
ít. Hẳn là ông cụ phải tốn kém vì chúng tôi nhiều. Chúng tôi được cụ cho uống
bia, ăn thịt lợn luộc, thịt gà rán, tráng miệng bằng bánh rán. Chúng tôi nhớ
lại hồi ở Hỏa Lò, nhiều lúc thiếu thốn ngồi tán với nhau về các món ăn ngoài
đời cho đỡ thèm. Có anh đã theo dõi các cuộc tán gẫu đó rồi chép lại trên giấy
gói thuốc thu thập được, thành cả tập dày tới trăm trang.
Bây giờ trước sự săn sóc của ông cụ, tôi thấy thật thỏa mãn, chỉ
còn nghĩ đến những ngày hoạt động sắp tới thôi. Nhưng khổ thay, mấy ngày đó tôi
bị kiết lỵ. Chúng tôi ở trong một gian buồng nhỏ, rất nhỏ với một cái giường
cũ. Đêm đêm ngủ trên giường đó, kể cũng tiện. Vì gian buồng ở ngay cạnh đường
nên chuyện hò với nhau đều phải nói thầm, Chúng tôi không được rời khỏi buồng
nên đại tiểu tiện ngay ở thùng tro để góc buồng, đến đêm sẽ có người đưa đi đổ
giúp. Xét đơn thuần về mặt nơi ăn chốn ở thì có thể nói chúng tôi vừa thoát
khói nhà tù lại phải chui vào một cái cũi.
Năm ngày vừa bức bối vừa nóng ruột rồi cũng qua đi. Tuy có bị tù
túng hơn thời nhà tù Sơn La, nhưng lại có sự hồi hộp của sự chờ đợi. Hơn nữa
được sống giữa những người thân thuộc, giữa nhịp đập của cuộc sống đời thường
cho nên sự bồn chồn thật khó tả. Chúng tôi nhận được tin nhắn của anh H. là cán
bộ của Trung ương thời đó và vốn là chỗ quen biết của chúng tôi. Anh nhắn chúng
tôi, hẹn gặp ở gần Cầu Giấy vào một buổi sáng sớm để anh dẫn đi. Trời ơi! Mừng
quá! Chân tay tôi cứ run lên. Về được với Đảng rồi! Chuyến này thì tha hồ hoạt
động. Cách mạng đang cần. Dứt khoát là được thả sức hoạt động. Chấm dứt những
ngày ngồi trong tù mà mơ tuởng ước ao... Về được với Đảng rồi!.... Đầu óc tôi
cứ rộn lên như bốc lửa. Thế là chúng tôi sửa soạn ra đi và từ biệt cụ chủ nhà.
Cụ không dấu nổi sự xúc động. Cụ mừng cho chúng tôi đã gặp được cái gì quá lớn
lao và đầy bí ẩn với cụ, nhưng lại không muốn để chúng tôi rời khỏi mình, điều
mà cụ thừa biết là không thể được. Tiễn chân chúng tôi ra cửa, cụ không nói gì
cả. Nỗi lòng mình cụ trút hết vào ánh mắt nhìn. Cái nhìn của cụ nói lên đủ nỗi
lòng sầu kín thật khó tả hết.
Sáng sớm hôm đó, trời còn tối, chung tôi đã rời căn nhà nhỏ ra
đi. Ngoài cụ không ai trông thấy. Bước ra đường, chúng tôi bâng khuâng như đi
vào những nơi xa lạ. Chưa có quần áo nào khác hơn, chân vẫn mang đôi guốc mộc.
Đầu tóc thì lút gáy, đâm chờm cả mang tai. Bệnh kiết lỵ của tôi lại tái phát.
Sáng rõ mặt người, chúng tôi tới chỗ hẹn. Bà con trong vùng đã ra đồng làm. Tôi
mót đi ngoài ngồi lâu quá. Anh Diện cử thả bộ trên đường chờ tôi. Bỗng nghc
những câu nói lạ tai:
- Tiên sư bố nó, chỉ chờ mà ăn sẵn của người ta.
- Của ấy cứ phải cho nó vào ăn cơm mắm Hỏa Lò. Cứ vờ vờ ngồi thế
kia rồi đợp của người ta đấy.
- Cho nó ra chợ...
- Sao lại cho nó ra chợ..
- ấy ở chợ hôm nay người ta chém mấy thằng ăn cắp đấy mà.
Thế là chúng tôi biết rõ những điều họ nói đó nhắm vào ai rồi.
Biết không thể ngồi lân nữa, có thể gặp tai họa bất ngờ. Trông chúng tôi với
đầu tóc và quần áo khác thường người ta dễ sinh nghi là quân ăn cắp lắm. Chúng
tôi tụt guốc cấp nách, lấy dáng điệu thản nhiên đi khỏi chỗ đó. Gặp được anh H.
Không có điều kiện kéo dài việc trao đổi chuyện trò, lát sau thì anh Diện và
tôi mỗi người đi một ngả. Tôi được gặp chị Sáu ngay. Vóc người nhỏ thó chị tỏ
ra rất nhanh nhẹn tháo vát. Vừa gặp, chị gọi tôi là cậu tôi gọi chị là chị,
thâm tâm tôi vui mừng như được gặp chị hiền của mình vậy. Chị bận chiếc áo dài
năm thân rất khéo, ra vẻ con người quen buôn bán ngược xuôi tất tưởi. Gặp ai
chị cũng chào hỏi, tôi phục chị có mối thân quen rộng và tôi theo chị chào hỏi
mọi người. Thấy có người tò mò ngắm tôi thì chị đon đả giới thiệu:
- ấy hôm nay đưa cậu nó mới ở ngược về sang bên sông chơi chốc
lát. Khổ ở trên ngược về chả biết ăn mặc gì, đến lôi thôi lếch thếch như dân
thua bạc ấy. Đến bờ sông Hồng, chỗ tiếp giáp giữa Hà Đông và Phúc Yên (vùng
Chèm) chúng tôi xuống đò ngang. Nhìn sang bên kia sông, tôi hơi chột dạ khi
thấy trên bờ có người bận áo dài thâm quần trắng che ô đi đi lại lại. Nhưng
lòng tin tưởng hoàn toàn chị Sáu, tôi vững tin chị thông thuộc vùng này, thấy
chị vẫn thản nhiên vui tươi.
Lên tới bờ, khi biết người mang ô kia là người đi đón. Vóc người
nhỏ nhắn, trán cao da trắng, anh chào chúng tôi, thăm hỏi qua loa rồi dặn chị
Sáu ít điều. Sau đó chúng tôi chia tay. Tôi yên chí đó là một đồng chí địa
phương, chắc là một hương sư hay là một trưởng bạ giác ngộ trong làng đó. Chị
Sáu dẫn tôi vào làng Hải Bối (còn gọi là làng Bỏi). Đấy là cơ quan nằm chờ kiểu
như trạm xá của ta ngày nay vậy. Tôi tưởng sẽ đến nhà một đồng chí hoặc một gia
đình cảm tình, giác ngộ cách mạng, tôi sẽ được sông tại đó thoải mái, tự do, có
thể nói mọi chuyện như ở nhà mình. Hồi chưa vào tù, tôi đã từng sống ở nhiều
gia đình như vậy. Nhưng dẫn tôi tới chị Sáu thản nhiên giới thiệu như sau:
- Gởi các cụ cậu nó vài hôm. Cậu nó mới ở ngược về. ở đây vài
hôm chờ ông Cả đấy, các cụ ạ!
Chị lại dặn tôi thêm: Không có tuyên truyền gì cả... vì gia đình
này không biết gì đâu . Tôi hỏi gặng thì chị cười và bảo: Thôi, cậu cứ biết ở
đây vài hôm cái đã . Thế rồi chị đi. Tôi cảm thấy bơ vơ lo lắng, không biết
xoay xở ra sao. Tôi bèn giả ốm để nằm lỳ trong buồng và tránh những đối đáp có
thể nguy hiểm. Thế mà tôi lại ốm thật, lại tiếp lục đi lỵ.
Gia đình này gồm hai ông bà già. Ông làm ruộng, bà bán cơm ở chợ
Bỏi. Người con trai trạc mười sáu mười bảy tuổi, cao lớn, khoẻ mạnh, nhưng vẻ
ngốc nghếch thật thà. Anh ta có vợ rồi. Chị vợ có vẻ nhiều tuổi hơn, xinh giòn,
chăm chỉ làm lụng suốt ngày. Suốt ngày tôi nằm trong buồng còn cả nhà đi vắng.
Tối tối tôi ra ngồi uống nước cùng cụ ông. Cụ rất to lớn, khỏe mạnh, ít lời. Vợ
chồng người con thì cứ như sợ người lạ ngồi lỳ ở bếp. Tôi được nhà cho mang cái
tên là anh hai buôn gỗ. Bà cụ đôi lúc hỏi thãm sức khoẻ tôi và hỏi chừng bao
giờ ông cả về. Tôi không rõ vở kịch chị Sáu sắp xếp ra sao nên trả lời qua
quýt. Bệnh lỵ tôi bị ngày càng nặng. Đành áp dụng kinh nghiệm bản thân nhịn ăn
vài ngày, sau đó chỉ ăn cơm với muối như hồi ở Hỏa Lò vậy. Bà cụ thấy tôi không
ăn cơm, biết tôi bị lỵ nên thương lắm. Cụ kho thịt nạc bảo ăn, tôi không ăn. Cụ
phàn nàn là sao lạ thế, khắc khổ gan góc đến thế. Cũng vì thấy thế mà cả gia
đình có cảm tình đặc biệt với tôi.
Mấy hôm sau chị Sáu trở lại. Cả nhà phàn nàn với chị về chuyện
tôi ăn cơm muối, không để gia đình săn sóc. Chị tất tưởi đi lấy thuốc lỵ và
bảo. Anh Toàn sắp đến giao công tác. Nghe giọng chị nói đến anh Toàn rất tôn
trọng. Tôi yên trí anh Toàn là cán bộ quan trọng lắm. Lòng phấn khởi, tôi chờ
đợi... Thế rồi anh Toàn đến! Té ra anh Toàn là đồng chí bận áo dài thâm cầm ô
hôm nọ chờ tôi ở bờ sông. Tôi khâm phục cách hoạt động của các đồng chí ở đây.
Trước đây tôi mới chỉ biết một cách hoạt động cổ điển: đi lại thì mang quần áo
nâu rách, còn ở thì phải tìm nhà đồng chí hoặc nhà quần chúng cách mạng. Còn ở
đây thì thật là mới mẻ, ở nhà một bà hàng cơm không hay biết gì về cách mạng,
đi lại thì ăn mặc quần áo kiểu lý dịch trong làng...
Gặp tôi, anh Toàn liền hỏi:
- Anh có biết chữ không?
- Có
- Có đọc nhanh không?
- Đọc được.
- Thế thì tốt lắm! Anh làm công tác thanh niên ở nông thôn thì
tiện rồi.
Lúc đó da tôi đen xỉn, đầu tóc cợp cạp, trông vẻ cục mịch rất
hợp với nông dân. Anh hẹn hôm sau sẽ giới thiệu đồng chí cán bộ phụ trách tôi
đến giao công tác. Sướng quá tôi ra chợ cắt tóc và chuẩn bị lên đường.
Lúc ấy tôi vẫn chưa biết anh Toàn là đồng chí Trường Chinh.
Hôm sau chị Sáu và tôi đi ra khỏi làng, cứ dọc đê sông Hồng đến
cây gạo Ba Đê để anh Toàn giới thiệu tôi với đồng chí Kiểm (Tức Ngô Thế Sơn bây
giờ. Anh Kiểm chính là bạn học với tôi từ ngày còn bé. Anh là người làng bên
cạnh. Khi anh Toàn và chị Sáu đã quay về một quãng xa, tôi và anh Kiểm mới phá
lên cười với nhau. Tôi vui sướng bá lấy cổ anh ghé tai gọi tên cúng cơm của anh
mà chửi một câu. Anh Kiểm cũng làm như thế với tôi. Chúng tôi nói với nhau bao
nhiêu chuyện. Anh Kiểm chưa hề bị bắt, chỉ mới bị bắt hụt nhiều lần...
Hôm đó bọn tôi đi một mạch từ vùng Đông Anh giáp sông Hồng lên
tận làng Kha Sơn thuộc huyện Phú Bình (Thái Nguyên) có lẽ đến 50 cây số. Ngày
đi đầu tiên này của tôi thật là gian khổ. Từ trưa trở đi tôi mệt quá, hai bàn
chân rát như phải bỏng, đùi đau như dần, còn bắp chân chuột rút cứng lại. Tôi
cứ xin nghỉ luôn. Lúc đầu thì cứ một hai cây số, về sau chỉ gắng được 500m là
quá sức lại xin nghỉ. Anh Kiểm đi khoẻ quá, tôi trông mà thèm được như anh.
Trời đã chiều cứ hỏi còn bao xa anh lại nói: Còn 3, 4 cây . Tối mịt, mỗi lần
hỏi anh vẫn bảo còn 3, 4 cây. Tôi sốt ruột hỏi: Thế ở đây có cơ sở không? cho
tớ ngủ nhờ một tối mai đi, không có tớ chết đấy, không thể nào đi được nữa! Anh
Kiểm lại cười và khuyến khích tôi. Tôi tự nghĩ yêu cầu như thế là vô lý nên
cũng cười. Lại nghiến răng khập khiễng bước theo. Mỗi bước đi bàn chân nhức
nhối như sắp vỡ bục ra, hai bắp đùi nhức nhối như bị giần, cảnh chịu đòn dai
dẳng khổ hết nói. Trông thấy trước mắt một vệt đen dài, có le lói một ánh đèn
như đom đóm. Anh Kiểm bảo: Kia rồi! tôi mừng rơn. Nhưng đường thì cứ như là lùi
xa thêm nữa.
Tôi nghiến răng mà bước, mắt không rời con đom đóm đỏ miệng nhẩm
tính: gắng hai trăm bước nữa... gắng ba trăm xem sao... Khi vào tới nhà, bước
qua ngưỡng cửa tôi bổ nhào lên cái ổ rơm, nằm thẳng cẳng với cảm giác: thắng
lợi hoàn toàn .
Vừa nằm. tôi vừa chào bác chủ nhà. Đây là cái trại nhỏ của gia
đình bác Hiếu, một người miền xuôi lên đây. Trại chỉ có độc một căn nhà, ở xa
các xóm và bên bìa rừng thông. Thật là lý tưởng để đóng cơ quan thời đó. Bác
Hiếu và anh Kiểm liền pha rượu với mật ong cho tôi uống. Bữa cháo đó sao mà
ngon vậy.
Kể từ ngày nằm gầm giường ở ngõ chợ Khâm Thiên chờ đợi bắt liên
lạc, rồi những ngày phập phồng nằm ăn cơm muối ở làng Bỏi bên sông Hồng, đến
hôm nay được nằm ở đây một cách hoàn toàn yên tâm về mọi mặt, về mọi chuyện. Rõ
ràng cuộc vượt tù của tôi đã thắng lợi hoàn toàn! Thế là với Đảng tôi đã chiến
thắng bọn đế quốc trong cái lồng bé và giờ đây với Đảng, toàn dân ta nhất định
sẽ đập tan cái cái lồng lớn của chủ nghĩa thực dân Pháp.. Những con chim đã sổ
lồng phải được bay xa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét