Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

HỒI KÝ MỘT NGÀY GIỐNG TỐ CỦA TÂM PHONG - KỲ CUỐI

  1. 1      2      3      4
  2.  Kỳ 16

HỒI BA – Nhà tù
II – Trại cải tạo An thịnh
Ngày 28 tết, trung uý Nguyễn văn Hồng gọi tôi lên văn phòng, hắn hỏi:
– Gần đây, anh đã vi phạm nội quy?
– Thưa ông, tôi vi phạm gì? – Tôi bình tĩnh hỏi lại.
– Tại sao gặp ông Tưởng anh không chào?
– Thưa ông, đúng thế. Nhưng các ông biết một mà chẳng xét hai. Nếu từ trước đến nay, gặp ông Tưởng tôi không chào là sai, nhưng gần đây mới thế là do ông Tưởng.
– Anh nói láo dám đổ tội cho cán bộ à?
– Tôi xin ông hãy bình tâm lại để tôi được trình bầy cho rõ. Tôi biết mình là một thằng tù, khi gặp các ông buộc tôi phải chào trước, nhưng chào phải được đáp lại.
Gần đây, tôi chào ông Tưởng, để đáp lại lời chào, ông ấy coi tôi như vật vô tri, vô giác nên im lặng đi qua. Vì lẽ đó, lần sau gặp ông Tưởng, tôi nhận thấy không phải chào ông ấy nữa. Thưa ông, như thế sai do ai?
Trung uý Hồng dịu giọng:
– Chào một câu chẳng mất gì, anh ngang bướng chỉ thiệt đến thân thôi.
– Thưa ông, tôi biết ông Tưởng có quyền đưa tôi vào xà lim cùm cho đến chết, còn điều hơn, lẽ thiệt là do suy nghĩ của từng người.
Trung uý Hồng xoay sang chuyện khác.
– Bề ngoài tưởng anh chấp hành tốt nội quy của trại nhưng bên trong, anh là phần tử nguy hiểm, hành động rất tinh vi để che đậy bản chất phản cách mạng.
– Nếu tôi sai phạm gì, xin ông cho biết, tôi phải chịu kỷ luật?
– Ý thức, tư tưởng là trừu tượng, rất tiếc chúng tôi chưa có chứng cớ về cử chỉ hoặc lời nói của anh.
– Các ông là những người duy vật, muốn biết bản chất của người hay sự vật phải suy diễn từ hiện tượng. Nếu không có hiện tượng mà suy luận theo cảm tính, tôi e rằng các ông không phải là người duy vật nữa…
– Anh im đi – Hồng nói cướp lời – Hôm nay tôi chỉ báo động cho anh biết thế thôi. Anh nên nhớ, từ anh đến nhà kỷ luật chỉ cách nhau trong gang tấc.
Đến chiều, khi tù sắp đi làm, trung uý Hồng thông báo:
– Ba anh ở toán xây dựng là Nguyễn Tâm, Trần khắc Tụ, Vũ Thiêu ở lại trại để gặp ban giám thị.
Nghe xong, bác Tụ hoảng hốt hỏi tôi:
– Anh có đoán ra được tin này dữ hay lành không?
– Tất nhiên là tin dữ, có thể họ đưa mình vào nhà kỷ luật nếu không thì họ chuyển mình vào trại B.
– Theo tôi, chỉ có thể mình phải chuyển trại, còn kỷ luật họ chẳng có chứng cớ gì?
– Vâng, mình phải chuyển trại có nhiều khả năng hơn, nhưng muốn đưa mình vào nhà kỷ luật, họ cứ làm, họ cần gì chứng cớ. Cũng như hàng vạn người dân lương thiện họ đưa vào tù đã có chứng cớ gì đâu?
Sau khi tù đi làm hết, trung uý Hồng gọi chúng tôi ra cổng trại tuyên bố:
– Các anh là những thành phần cải tạo xấu nên quyết định của ban giám thị chuyển các anh vào trại B.
Dẫn giải đi đường, có trung uý Hồng và hai lính vũ trang. Cuộc chuyển trại đặc biệt này làm bác Tụ hoang mang lo sợ, còn tôi thấy thản nhiên, đồng thời cũng là một niềm vui, vì ở phân trại mới có Khoa, anh đã xa tôi gần mười tám tháng.
Trời tối đen như mực, chúng tôi mới được vào phòng giam cùng toán rau xanh. Khoa ở toán lâm sản cùng phòng. Khoa gặp lại tôi tay bắt mặt mừng, Khoa nói:
– Mày vào toán rau xanh đáng sợ lắm đấy.
– Đáng sợ gì? – Tôi hỏi.
– Quản giáo toán rau xanh là thượng sĩ Lã văn Hạp chuyên đấm đá tù. Ai ngang bướng đều đưa về toán ấy để hắn trị.
– Mày phải biết nếu tao không khéo để mắc một sai phạm nhỏ, ngay ở trại A, bọn cai ngục cũng có cớ để cùm tao. Người dạy hổ phải hiểu tính hung hãn của từng con vật thường diễn ra trong hoàn cảnh nào. Còn chúng ta muốn tránh những đòn thừa phải nhanh chóng hiểu được bản chất của từng tên cai ngục đang quản lý mình. Ngoài định mệnh hoặc phải trả giá để bảo vệ danh dự, chúng ta nên xác định thời kỳ những anh hùng phong kiến, những hiệp sỹ đã qua. Ngày nay, con người muốn tồn tại bên kẻ thù – loại kẻ thù nham hiểm và tàn bạo nhất – phải khu xử với chúng bằng sự khôn khéo và thủ đoạn. Chúng ta không nên quên truyện nằm gai nếm mật và Tôn Tẫn giả cuồng.
Khoa hỏi tôi:
– Tao muốn theo đạo, đi tu, mày nghĩ thế nào?
– Nếu mày có đức tin, đồng thời là lối thoát của tâm hồn mày thì cứ việc. Đến nay có lẽ mày hoàn toàn nhất trí với cái đẹp của Hegel.
– Đúng thế, trong thế giới mình đang tồn tại làm gì còn cái đẹp. Còn mày?
– Tao coi cuộc đời như canh bạc mà mình đã thua cháy túi. Xét cho cùng, như xưa kia tao đã nói, canh bạc này đối với chúng ta cũng chỉ có hoà thôi. Tao tôn trọng những ý thức của mình. Nếu phải bỏ xác ở nơi này, tao cũng trung thành gói ghém ý nguyện về cõi.

– Vào đây, ch
úng ta khó vượt qua chặng đường gian nan phía trước. Cuộc chiến đấu của mình cô đơn không chỗ dựa, không gửi gắm được một niềm tin. Xung quanh ta, đa số là những người hèn nhát, sa đoạ, mệt mỏi vì cuộc sống khắc nghiệt hàng ngày. Xa hơn, chính quyền Sài gòn không thể là đối thủ ngang sức với Cộng sản, họ sẽ thất bại. Rốt cuộc, đời chúng ta hy sinh vì những mục đích quá xa vời.
– Nhầm rồi Khoa ạ! Chiến đấu chống lại bất công, tàn bạo bao giờ cũng là một chân lý. Điều đáng buồn là sức mạnh của cái ác đang chiến thắng trên mảnh đất này, Nếu chúng ta hy sinh đời mình cho chân lý thì ý thức của mình vô cùng đẹp. Mặt khác, không phải chúng ta cô đơn, ngoài tổ quốc mình và thế giới Cộng sản, chúng ta có hàng tỷ người là đồng minh trong thế giới tự do.
– Nghĩ cuộc đời mình sao mà mù mịt thế? – Khoa nói – Nếu thành kẻ tử tù có thể còn là điều may mắn. Năm bảy năm nữa, họ tha mình để tiếp tục cho trọn đời nhục nhã vì sự hắt hủi của xã hội, sự bài xích, chế giễu của những thằng mê muội.
Dù sao tao vẫn mang quan niệm nhân dân là đàn cừu hay công cụ vô ý thức của lịch sử, họ a dua, phục tùng kẻ có quyền hành, kẻ cầm vũ khí, số đông uý tử, cầu sinh. Mày thử ước tính xem, có tới chín nhăm phần trăm đảng viên Cộng sản là bọn theo đóm ăn tàn, có biết gì học thuyết Marx – Lénine. Chính vì vậy, tao chỉ còn một lòng tin nơi đất Chúa.
– Đúng là điều đau lòng cho một dân tộc muốn có tự do, hạnh phúc lại sợ mất mát, hy sinh, phục tùng chế độ tàn bạo và bịp bợm. Bằng những lời ru ngủ ngọt ngào, êm ái của sự tuyên truyền xảo trá đầy hoa gấm, đại đa số người dân vẫn say sưa trong giấc ngủ triền miên. Đó là điều đáng thương của dân tộc chứ không đáng trách. Hàng nghìn năm Bắc thuộc, gần một thế kỷ Pháp thuộc rồi nối tiếp chế độ Cộng sản không có nhân quyền, thử hỏi có bao nhiêu người Việt nam ý thức được các quyền tự do, dân chủ? Cam chịu hoặc bằng lòng với kiếp sống nô lệ trở thành bản năng của đại đa số người dân.
Tôi hỏi thêm Khoa:
– Đứng bên bờ vực thẳm, tâm hồn mày còn cảm hứng bay bổng nữa không?
– Vẫn còn nhưng chẳng đáng là bao. Cuộc sống tại địa ngục này, các văn nghệ sỹ cũng phải cạn hoặc khô ráo nguồn cảm hứng.
Cách đây mấy tháng, tao dịch đoạn thơ của Đỗ phủ:
Đạm đạm trường dạ vũ,
Khoan khoan điểu lạc đề
Song tiền quan lạc điệp
Cô vạn sầu thê thê.
Dịch:
Mưa rơi thánh thót canh dài
Vẳng đưa khoan nhặt một vài tiếng chim,
Ngoài song lá rụng đầy thềm
Riêng ai tê tái nỗi niềm trong lao.
Gần đây, trong một đêm mất ngủ, nhìn vầng trăng qua song cửa (mấy lỗ vuông mèo chui) tao ngẫu hứng mấy vần:
Trăng rừng bềnh bồng
Trôi quá nhà lao
Sương đông lạnh buốt
Qua song lọt vào
Đêm nằm thổn thức
Ôm sầu mênh mông
Về đâu trăng hỡi
Số kiếp lênh đênh.
– Cầu mong chúa sẽ ban phước lành cho mày, đau khổ là đường lên ánh sáng.

* *

*
Sáng hôm sau ngay đầu giờ làm việc, quản giáo Lã văn Hạp gọi tôi, hắn nói:
– Chắc anh biết việc chuyển trại của các anh là đặc biệt. Không phải do biên chế lao động mà do tư tưởng xấu của các anh ở trại ngoài.
– Thưa ông, tôi đã vi phạm gì về tư tưởng?
– Tất nhiên về phần tư tưởng là trừu tượng, không thể có chứng cớ gì nhưng cũng nói xa để anh hiểu. Chẳng hạn, ban giám thị và cán bộ chúng tôi giải thích chủ trương của đảng và nói về chiến thắng hai miền cho phạm hết ngày này, qua ngày khác, trong khi đó, các anh chỉ tuôn ra vài lời là vô hiệu hoá sự giáo dục của chúng tôi.
– Thưa ông, thật là một điều kỳ quặc khi các ông đang nắm trong tay số phận của mọi thằng tù, tại sao họ không tin các ông mà lại tin tôi? Thực ra, ngoài miếng ăn hàng ngày, đa số tù ở đây không thể quan tâm đến một việc gì.
– Nếu anh chưa biết, tôi cũng nói trước, các anh ở trại này thường xì xào bàn tán tôi hay đánh phạm. Đúng đấy! Tôi phải dùng vũ lực với những anh hay vi phạm. Tôi khuyên anh nên tránh.
– Thưa ông, lũ tù tội đã là cơ nhục, tôi hy vọng rằng, không phải chịu thêm một nỗi nhục khác. Tuy nhiên, tôi xin lỗi ông trước, các ông muốn đánh đập một thằng tù có khó khăn gì nhưng có lẽ cũng chẳng hay gì?
– Anh nói đúng một phần, nhưng muốn bắt phạm cải tạo thì biện pháp trừng phạt là quyết định.
– Thưa ông, biện pháp trừng phạt không phải để tù cải tạo, mà chỉ làm cho tù sợ mà thôi…
Đang nói chuyện với tôi, hắn bỏ dở để chạy ra ngoài bắt quả tang bác Vũ quang Nghĩa lấy sắn trên đồi. Sau khi bác Nghĩa bị Hạp đấm đá một hồi tàn nhẫn, bác Nghĩa đau quá vật vã van xin, Hạp ra lệnh:
– Mày phải luộc ăn hết, nếu còn bỏ lại, ông gang mồm mày ra mà tọng vào.
Bác Nghĩa lấy đến bốn cân sắn, nếu luộc ăn một bữa thì sao mà hết? Bác sợ quá run lẩy bẩy. Bác bị hành từ tám giờ sáng đến chiều, vừa đau, vừa nhục. Theo lời đề nghị của Hạp với ban giám thị, đáng nhẽ bác phải vào nhà kỷ luật hai tuần nhưng do cơ thể bác đang tàn tạ lại ăn cố sắn bị bội thực và say, ốm một phen thập tử nhất sinh. May mà đúng vào dịp gia đình lên tiếp tế, nếu không trận ốm ấy có lẽ bác phải về bên kia thế giới.
Ngẫm nghĩ, đây cũng là một mẩu chuyện cười ra nước mắt, Lã văn Hạp xuất thân là một nông dân, có thể mới qua lớp i tờ, được toàn quyền gọi thày giáo là mày và xưng ông, toàn quyền đánh đập và giáo dục thày. Ngôn ngữ giáo dục dưới chế độ Cộng sản cũng đầy kịch tính, thằng vô học răn dạy thày giáo, kẻ mất hết tính người được coi là tấm gương cho người có lòng bác ái.
Hàng ngày Hạp hành hung những người vi phạm: lấy cắp rau, sắn hoặc đun nấu trong giờ làm việc. Nhiều người bảo Hạp đánh đập tù như một thằng nghiện phiện cũng không ngoa. Ngày nào không được đánh người, hắn tỏ ra hằn học, tức tối. Ngày nào hành hung được nhiều phạm, mặt hắn có vẻ dịu dàng dễ thương hơn. Người bị đòn nhiều nhất là bác Phúc mù người Hải phòng, thường xuyên bị Hạp đấm đá, có ngày hai ba lần. Một hôm từ sáng đến chiều Hạp chưa được hành hung ai, hắn gọi bác Phúc mù đến nhà lô, hắn quát:
– Ngày mai, ông đi họp, chắc chắn vắng mặt ông, mày sẽ vi phạm, ông phải đánh mày trước.
Nói xong, Hạp thoi ngay một quả đấm mạnh vào mặt bác, nạn nhân loạng choạng ngã sòng soài, liên tiếp hắn bồi thêm dăm ba cú đá vào mạng sườn, đau quá bác Phúc mù van xin rối rít:
– Tôi xin ông tha, ngày mai tôi không dám vi phạm, tôi xin ông, tôi xin ông! …
Chung quy lại, Hạp thường xuyên đấm đá hơn một chục người. Người vi phạm và bị đòn nhiều lần cũng thành một thói quen chịu đựng. Có người nói, họ muốn giết dần mình bằng cách cho ăn đói, để giành lại cuộc sống, giành lại mồ hôi mình đổ xuống đồi sắn, ruộng rau, mình phải lấy cắp lại. Đó là cách tự vệ, nếu họ bắt được phải trả giá cũng là lẽ bình thường.
Tù mà phải chịu khổ nhục là lẽ đương nhiên. Nhưng cái đói đã làm cho nhiều người không cần lưu ý đến nỗi nhục, họ nghĩ và hành động miễn sao có ăn là được, bất chấp mọi sự có thể xảy ra.
Nhân ngày 10 –8, ngày tôi hết án, Hạp gọi tôi vào nhà lô, hắn nói:
– Hiện nay chúng tôi chưa nhận được gì quyết định về anh. Tuy nhiên, anh phải xác định nếu chưa được về cũng là do anh cải tạo chưa tốt.
– Thưa ông, tôi biết số phận mình có lẽ còn rõ hơn ông, hiện nay tôi chưa được tha cũng là điều dễ hiểu. Còn phần cải tạo, các ông cứ đổ lỗi cho tôi chưa tốt, xin ông cho một ví dụ!
– Các anh vi phạm hằng ngày bị tôi đấm đá, thực ra chỉ thuộc phạm vi sinh hoạt không có gì nguy hiểm. Còn anh, mặc dù không sai phạm nhưng thường xuyên quan hệ với những phần tử xấu. Nếu anh làm tốt các tiêu chuẩn cải tạo, tại sao không bao giờ anh tố cáo sai phạm của người khác. Ngay trong phạm vi sinh hoạt hàng ngày anh phải thấy không anh này thì anh khác vi phạm nội quy, ăn cắp tài sản của trại, có đúng không?
– Thưa ông, ai xấu với chế độ nên mới phải vào đây, tôi biết ai là người xấu hơn ai. Mặt khác, hàng ngày tôi được nghe tù kêu khổ, trong đó có tôi. Điều đó là tất nhiên, tôi tố cáo cái gì? Còn vi phạm nội quy, tôi cũng như anh em khác, nếu có điều kiện thuận lợi, tôi cũng làm. Thưa ông, trong trại giam, còn một điều duy nhất, mong các ông châm chước, đó là tình thương lẫn nhau của những người đồng cảnh.
– Tôi phải trình bày với ban giám thị, đã bất lực về phương pháp giáo dục anh. Anh đừng tỏ thái độ gì tiêu cực sẽ không có lợi gì cho anh đâu. Mặt khác, tôi cũng khuyên anh đừng để tôi phải dùng vũ lực.

* *

*
Sáng 4 – 9, trước giờ đi làm, Hồ sĩ Tưởng thông báo ông Hồ chết, hắn nói:
– Chắc các anh đã biết, bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và cả thế giới đã từ trần. Hai ngày nay, chúng tôi đêm mất ngủ, ngày quên ăn, ai cũng khóc vì nhớ thương bác. Trong khi đó, đại bộ phận các anh thái độ nhởn nhơ, có một số anh tỏ vẻ vui mừng. Từ giờ phút này, tôi thay mặt ban giám thị ra lệnh, nếu anh nào tỏ thái độ hân hoan, cười đùa là hành động khiêu khích, chống đối, ngay tức khắc chúng tôi đưa vào nhà kỷ luật.
Một màn kịch được biểu diễn có hai loại diễn viên: một loại là cai ngục khoảng hơn hai chục tên, có mấy tên cuồng tín khóc thật, còn lại những dòng nước mắt cá sấu thi nhau chảy; một loại là tù gần năm trăm người mặt cúi xuống, lặng lẽ, nhiều người lấy tay che mặt để khỏi lộ vẻ vui mừng vì cái chết của tên bạo chúa. Thật kỳ quặc, những thân tàn héo vì đói khát, vì bị hành hạ phải đóng thành diễn viên thì làm sao cho thành đạt? Tất nhiên, để tránh tai vạ ai cũng phải cố gắng để khỏi bật ra tiếng cười.

Bên tù hình sự, có một thằng mắc bệnh tâm thần, tên là Hiệu. Nó bị tù đã bảy tám năm, nó phạm tội đi lang thang, nhặt nhạnh mọi thứ có thể ăn được cho vào mồm. Hiệu làm ảnh hưởng đến vẻ đẹp của xã hội chủ nghĩa bên ngoài nên người ta bắt Hiệu. Từ trại giáo dưỡng, Hải phòng, Hiệu được chuyển đến trại này giữa năm 1966. Quần áo, chăn màn, chiếu trại phát cho Hiệu, nó dùng đến khi nào rách không bao giờ giặt. Nó cũng chẳng bao giờ tắm, đi đại tiện không cần chùi hay rửa. Khi khát nước Hiệu bạ đâu uống đấy: nước cống, nước vũng đọng cũng được. Bắt được nhái, dế mèn hay các loài sâu bộ ăn được là Hiệu cho mồm nhai ngấu nghiến không
cần qua lửa. Do vậy, từ cơ thể nó bốc ra một mùi thối đặc biệt, khó chịu hơn các loại phân. Hiệu đi đến đâu là mọi người phải tránh xa. Buổi trưa hôm ấy Hiệu sang phòng giam chúng tôi, nhiều người sợ, lớn tiếng hò hét đuổi nhưng chẳng ai dám lại gần. Hiệu nói tiếng Nghệ –tĩnh khó nghe mà lại buồn cười. Một số người quên khuấy ngày phải tỏ thái độ buồn rầu để chịu tang ông Hồ nên trêu trọc Hiệu làm trò cười. Không may Phi Lân lên tóm được bốn người đưa ra bốt gác. Hồ sĩ Tưởng giữa trưa vào tuyên bố đưa bốn người này vào xà lim cùm một tháng. Trong số đó có một người bỏ mạng vì yếu quá. Một người là Phạm văn Được, sau khi được tha, anh nói nhỏ với tôi:
– Cha già dân tộc khi chết biến thành quỷ vương hay sao mà thiêng thế? Ông ấy tiếp tục giết người.
– Anh phải hiểu, hồn ma ông ấy còn ám ảnh dân tộc hết thế kỷ này và có thể lâu hơn nữa – Tôi trả lời.
Cùng trong thời gian đó, tôi được nghe mấy vần thơ không biết từ đâu bay tới:
Nghe nó chết toàn dân đều phấn khởi
Con cáo già tội lỗi đã thành ma,
Bao nhiêu năm miền Bắc sống rên la
Dưới nanh vuốt của tên bạo chúa…
Một buổi tối, bọn cai ngục cho tù xem bộ phim thời sự về tang lễ ông Hồ. Ai không muốn xem đều bị đấm đá, kéo cổ ra khỏi buồng giam. Tối hôm ấy, ngồi bên tôi, bác Phạm hải Cầm, bác bị tù vì mấy câu nói bất mãn với chế độ trong lúc say rượu. Nhìn lên màn ảnh, bác nhận ra con gái mình đi qua quan tài ông Hồ, đang khóc. Thế là bác Cầm cũng khóc. Tưởng bác khóc thương ông Hồ, tôi hỏi:
– Bác xót thương người đứng đầu chính quyền bỏ tù mình à?
– Anh nhầm, tôi khóc oán con tôi, không thương bố mà lại khóc thương người bỏ tù bố mình.
– Nếu thế không nên oán trách chị ấy bác ạ. Ngay đến thằng tù, họ còn muốn bắt phải khóc thương huống chi người ở ngoài, nếu không biết đóng kịch dễ thành tai hoạ.
Trong thời gian này, có bài bình luận đăng trên báo nhân dân phê phán bài viết của một nhà báo Mỹ với tiêu đề:
“Hồ Chí Minh Cộng sản hay là yêu nước? ”
Với sự hiểu biết hạn hẹp của mình, tôi có nhận xét đôi điều về bậc siêu nhân của thời đại.
Nếu không có ông ta, không có đảng Cộng sản sẽ không có cách mạng tháng tám, chậm nhất đến thập kỷ sáu mươi đất nước cũng được trao trả độc lập như các nước Đông nam á khác theo xu thế chung của thời đại. Mặt khác, nếu ông ta đi theo chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết mọi lực lượng của dân tộc thì tình hình đã thay đổi hẳn, trước hết được Hoa kỳ ủng hộ để chống lại thực dân Pháp. Ngược lại, ông ta theo chủ nghĩa Cộng sản, tôn Marx –Lénine làm sư phụ đưa đất nước vào cuộc chiến tranh triền miên, cốt nhục tương tàn, nồi da nấu thịt. Lợi dụng ước mong của một dân tộc sau hàng nghìn năm nô lệ, ông ta đã thành công trong sự tuyên truyền xảo trá đầy sức thuyết phục. Đang sống trong đêm đen, người dân không quản ngại hy sinh xương máu và tài sản theo ông ta tìm đường ra ánh sáng. Họ không ngờ rằng, sau khi sự thống trị của thực dân bị đập tan, ông ta đặt một ách thống trị nham hiểm, xảo quyệt và tàn bạo gấp nhiều lần thực dân, phong kiến.
Đỏ đầu làm tội chửa qua
Trắng răng làm tội bằng ba đỏ đầu
Những chiến tích, những sự kiện anh hùng như Điện biên phủ, người dân được gì ngoài những chiếc khăn tang, ngoài cuộc sống quằn quại mất tự do như thân trâu ngựa? Phải chăng những chiến tích, những sự kiện anh hùng chỉ bồi đắp uy tín và xây dựng ngai vàng của ông ta thêm vững chắc?
Ai tự nhận mình là học trò trung thành, xuất sắc của Marx – Lénine? Ai thực hiện thứ học thuyết ngoại lai cực kỳ vô nhân đạo, dùng các biện pháp chém giết, hành hình, đầy đoạ con người là kim chỉ nam trong hành động, đi đôi với guồng máy tuyên truyền bịp bợm, phỉnh phờ?
Nội các năm 1945 là một màn kịch nhà nước toàn dân, các ông Nguyễn tường Tam, Vũ hồng Khang sớm cao chạy xa bay mới tránh được lên đoạn đầu đài. Ân nhân của ông Hồ là cụ Nguyễn hải Thần đã giúp ông ta thoát khỏi nhà tù của Tưởng giới Thạch, may mà cụ Nguyễn hải Thần cũng nhanh chân mới thoát khỏi cảnh ông ta cắt đầu để trả nghĩa. Cuộc chiến tranh chống Pháp về danh nghĩa là cuộc chiến ái quốc nhưng ông ta đã lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc để phục vụ cho mục đích Cộng sản của mình. Trong cuộc chiến tranh này, ông ta không từ bỏ mọi biện pháp tàn bạo nào để giết người. Hàng vạn người dân lương thiện bỏ mạng vì sự nghi ngờ liên quan với địch: bắn, chém, buộc vào đá quẳng xuống sông, chôn sống, róc thịt chân tay cho chết dần…
Ai là người chịu trách nhiệm về thảm hoạ cải cách ruộng đất? Ngoài hàng chục vạn người chết oan, hàng triệu gia đình tan nát, ai tạo dựng một thời kỳ loạn luân “ông con, bà con – thằng bố, thằng ông, bà vợ – thằng chồng”. Nếu cụ Nguyễn sinh Sắc còn sống, là một nhà nho, cụ nghĩ gì việc đứa con trai mình ra lệnh đào tận móng những nét tinh hoa của thành tựu đạo đức đã được đúc kết hàng nghìn năm lịch sử? Cũng từ đó, nếp sống đạo đức của dân tộc bị băng hoại dần và khủng hoảng ngày thêm trầm trọng, đến nỗi tình thương và lòng nhân ái bị huỷ hoại ngay trong mỗi gia đình: con cái bạc ác với cha mẹ, vợ chửi lại chồng, anh em trong cảnh huynh đệ tương tàn. Một xã hội, quan hệ giữa con người với nhau như dã thú.

Ai đã ra lệnh thành lập các trại tập trung để tù đầy hàng chục vạn người vô tội, trong đó có hàng chục nghìn người bỏ mạng vì những cực hình? Ai
ưa nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp để cuộc sống của họ cơ cực dưới nanh vuốt của những tên chủ nhiệm như lãnh chúa miền quê? Với chính sách đưa người đi vùng kinh tế mới – một chính sách mang con bỏ chợ và lời tuyên bố “làm Hà nội trong sáng như pha lê”, ai có mưu đồ giải toả đô thành, đưa hàng vạn người ra khỏi thành phố để họ sống khắc khoải trong các miền rừng núi?
Lời tuyên bố của ông ta “không có gì quý hơn độc lập, tự do” thực chất là một chiêu bài lừa bịp. Đã là Cộng sản thì làm gì còn lòng yêu nước. Hơn hai thập kỷ qua, chính quyền của ông ta đã và đang làm mọi cách để thủ tiêu phong tục, tập quán cũng như di sản văn hoá của dân tộc. Nền chuyên chính vô sản có khác chi nền quân chủ chuyên chế khi xưa? Phải chăng nó có cái hơn hẳn về mặt tàn bạo và guồng máy kìm kẹp tinh vi, xảo quyệt nhằm tước đoạt quyền tự do của người dân? Là tay sai trung thành của cái gọi là phong trào Cộng sản quốc tế, với mưu đồ Cộng sản hoá miền Nam thì cuộc chiến để thực hiện mưu đồ ấy không thể là cuộc chiến vì độc lập, tự do. Ai chịu trách nhiệm cái chết của hàng triệu sinh mạng và sự tàn phá của cuộc chiến hiện nay?
Đất nước đang trong bóng tối của sự hoảng loạn. Thật đau lòng, một dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm đen tối, bao nhiêu thập kỷ nữa mới xuất hiện ánh bình minh và trên bầu trời thần Apolon ngự trị?

* *

*
Cuối năm 1969, để xoá mờ những hành động khủng bố, tàn sát ở trại giam này, họ chuyển tù phản cách mạng đi các trại khác. Sáng ngày 27 – 12, bọn cai ngục chuyển hàng trăm tù ra trại chính (trại A). Đến chiều, một tu sĩ ở nhà thờ Phát diệm là Vũ ngọc Ánh cũng bị đưa ra trại chính. Ánh bị tù từ năm mười sáu tuổi, thân phụ Ánh bị hành quyết hồi cải cách. Ánh có khuôn mặt giống bức tranh vẽ mặt đức mẹ Maria của Léonard de Vinci. Lúc đó, Khoa còn ở trại cũ, tưởng mỗi người đi một phương nên làm bài thơ tặng Ánh:
Chiều nay nắng nhạt vương sườn núi,
Lặng lẽ em đi dưới nẻo rừng,
Gánh nặng đường xa em yếu quá,
Thương thương chẳng khóc lệ rưng rưng.
Ra đi không một lời ly biệt,
Ta lặng nhìn nhau phút chia phôi,
Anh chắc lòng anh em đã biết,
Sắt son một dạ dù đôi nơi.
Ngẩn ngơ đứng dưới chiều sương lạnh,
Ngắm bóng em dần khuất nẻo xa,
Quạnh quẽ đìu hiu buồn vươn cánh,
Gió ngàn vi vút ánh dương tà.
Anh muốn đưa em mấy độ đường,
Cùng nhau chia sẻ nỗi ly hương,
Nhưng làm sao được hàng song sắt,
Xa cách còn hơn vạn dặm trường.
Cho anh gói lại bao ngày khổ
Của kiếp phong trần ở thế gian
Em giúp anh về dâng kính Mẹ
Lòng anh yêu mến Mẹ vô vàn.
Ánh hỡi từ nay xa cách mãi
Để lòng da diết nhớ thương em.
Khổ đau từ thuở còn thơ dại,
Giữa chốn lao tù em lớn lên.
Sóng gió, biển trần em vẫn đẹp
Thơm như hương nhuỵ của nhành lan.
Cùng em hái những ngày xuân thắm,
Xin kính dâng người yêu chứa chan.
Trưa ngày 28 –12, không kịp xếp hàng lấy nước ở toán, được sự đồng ý của trật tự trại, tôi xuống nhà bếp xin nước uống. Khi đi qua một phòng giam của tù hình sự, tôi thấy một thằng khoảng mười hai, mười ba tuổi, gầy như que củi, mặt lưỡi cày, đôi má nhăn nheo hóp lại, hai tai bị cắt chỉ còn lại nham nhở. Đầu năm tôi được tin ở trại này có một thằng bé trốn bị cắt tai, có lẽ là thằng này.
Hình dáng thằng bé kỳ quặc mà hình như tôi đã gặp nên chăm chú nhìn. Thằng bé đưa mắt nhìn lại tôi, đột ngột nó chạy lại đấm tôi túi bụi vào mặt và chửi tục:
– Đ… mẹ mày nhìn gì tao? Đ… mẹ thằng Bun ùm!
Vì yếu quá, tôi bị ngã, thằng bé cưỡi lên lưng tôi vừa đấm, vừa chửi loạn xạ. May lúc đó có trật tự đến nên nó bỏ chạy vào phòng giam, chẳng hiểu sao mới hơn chục tuổi mà côn đồ, hung hãn thế?
Căm giận và tủi nhục, tôi thất thểu về toán, nước cũng chẳng xin được.
Đến chiều, một thằng cùng toán với thằng bé, đến chỗ tôi, nó hỏi:
– Chú còn nhớ cháu không?
Thằng này xin vỏ chuối ngày tôi mới đến trại nên trả lời:
– Nhớ chứ.
– Cháu cứ tưởng chú họ Lưu hoá ra Bun ùm à?
– Đúng.
– Trưa nay, thằng con mú đánh chú có đau không?
– Bình thường thôi, nhưng sao gọi là con mú?
– Chuyện về nó hay lắm, chú muốn nghe phải cho cháu bắn hai phát
– Nhưng tôi không có đạn.
– Nếu chú đồng ý chiều nay ép rệp thì… à mà này, chú nuốt chậm gù phải không?
– Phải.
– Một suất tẻ chậm gù được thêm phát đạn. Nếu chú nhất trí chiều nay ép rệp, cháu về gặp thằng Phúc sờ L hụt đổi đem sang đây bắn ngay rồi bắt đầu câu chuyện. Bắn vài khói thuốc nâng cao sĩ diện kể chuyện mới có hứng thú.
– Sao gọi là Phúc sờ L hụt?
– Cũng là mẩu chuyện hấp dẫn ra trò, còn lẻ một phát đạn, chú cho cháu xin nốt, xin hầu chuyện chú ngay.
– Kể đi – Tôi nói.
– Bọn họ lưu có một lũ Phúc đều là vô phúc cả. Để phân biệt, đặt thêm cho mỗi đứa một tên đệm theo tính tình hoặc đặc điểm ngoại hình của nó: Phúc lắp, Phúc ngọng, Phúc câm, Phúc méo mồm, Phúc vổ, Phúc bẹp tai, Phúc xoăn, Phúc trố, Phúc chột, Phúc mù, Phúc mường, Phúc điếc, Phúc Băng cốc, Phúc lừa và Phúc sờ L hụt là một thằng…
Thằng này ở quê, nó đi câu cá, bơi lặn rất tài, tính tình hay nghịch ngợm. Vào một buổi trưa hè, một đứa con gái xinh xắn, mười sáu tuổi ra sông tắm. Không ngờ thằng Phúc câu cá ở bụi cây gần đó nhìn thấy, nó nhẹ nhàng lặn xuống đến sờ ả. Tội nghiệp, mới sờ vào người và mông ả, ả chạy ra chỗ khác hô hoán. Dân làng kéo ra, có cả bố ả, vô phúc cho thằng Phúc, bố ả là xã đội trưởng vốn có hiềm khích với gia đình nó. Cơ hội trả thù đã đến, ông xã đội trưởng buộc cho Phúc có hành động hiếp dâm. Phúc bị bắt và toà án xử Phúc năm năm tù. Từ đó, Phúc có tên là Phúc sờ L hụt.
Vào tù một năm, Phúc thành yêu quái hơn cả các bậc đàn anh lão luyện về buôn gian bán lậu và lừa. Ngày lễ, ngày tết, trại có mều, nó mua mấy suất đem kho kỹ, lấy nước ăn rồi cho nước và muối kho lại bán lấy vốn. Lấy bã chè sao lại, trộn lẫn vào chè để bán. Có thời gian các bậc đàn anh đều phải bó tay, riêng Phúc vẫn mang hàng lậu về trại. Một hôm nó mua một chiếc chăn len giá bốn lạng chè, nó nhờ bọn lâm sản đổi cho dân được một kí. Nó đổi chác cái gì đó cho bọn gánh rau tự giác lấy một bó rau muống để vào một cái túi to. Nó nói với một thằng trong toán, nếu mang rau qua bốt gác không khám thì thằng ấy được ăn, nếu khám thì làm như thế, như thế. Thằng ấy đồng ý. Trưa hôm đó, về bốt gác bị xếp hàng khám. Trật tự lục soát đến hàng cách nó một người, nó quát:
– Tao bảo mày nghe không, đưa túi hàng lậu ra?
– Việc gì đến mày? – Thằng cầm túi rau trả lời.
Tức khắc nó đấm thật mạnh vào mặt thằng kia lảo đảo ngã. Nó cầm túi rau quẳng thật xa về phía trước. Trật tự, vũ trang, cán bộ trực trại nhìn theo túi rau, nhanh như chớp, Phúc chuyển gói chè lên hàng trên đã khám rồi. Chuyến hàng lậu này Phúc thoát mà còn được cai ngục quản giáo khen là có thái độ đấu tranh với hành vi xấu của đồng bọn.
Một hôm làm bên cạnh lán lò rèn, Phúc thấy bác thợ nguội có cái lược sừng, cán dura đẹp quá, nó gạ đổi chác, bác thợ nguội không nghe, nó tuyên bố sẽ lấy cắp. Bác thợ nguội vừa dũa con dao cho một ông vũ trang, vừa bảo:
– Tao đố mày đấy.
Nói xong bác cho cái lược vào hòm, ngồi lên trên nắp hòm làm việc. Một lúc sau, hai thằng tù đuổi nhau và chửi tục. Một thằng chạy vào lán lò rèn cướp chiếc dao găm trên tay bác thợ nguội, đuổi theo thằng kia quát:
– Tao đâm chết mày!
Bác thợ nguội hoảng hốt chạy theo một quãng xa mới lấy được con dao găm. Khi hoàn hồn, bác sực nhớ ra, mở hòm xem thì cái lược đã mất rồi. Nào ngờ đâu, đó chỉ là màn kịch của thằng Phúc để lấy cắp chiếc lược mà thôi.
Nó làm một cái cân tiểu ly để cân rệp, mều, khoẳm hoặc sứa. Mãi sau người cùng chậu cơm với nó mới phát hiện được, suất ăn của nó bao giờ cũng nhiều hơn người khác. Bẻ cái cán cân bằng gỗ thấy bên trong cán rỗng như một ống nứa, có một thỏi chì dài ba phân di chuyển nhẹ nhàng. Bị một trận đòn đau, nó khai làm cái cán cân công phu lắm. Nó kiếm một cái gọng ô nhờ thợ nguội dũa một đầu như mũi khoan, nhờ bọn thợ mộc cho một thanh gỗ mềm to bằng cái cán dao, dài khoảng ba mươi phân. Để giữ bí mật, buổi tối Phúc buông màn vừa nằm vừa khoan mấy hôm sau mới thủng. Nó cho thỏi chì vào rồi nút hai đầu lại, lấy hai đầu lỗ khoan làm chuẩn, nó đẽo và gọt dần để thành cái cán cân bằng cái đũa. Phần điều chỉnh cân để được ít hay nhiều thì dễ thôi, ai cũng biết.
Sơ qua vài ba mánh khoé của thằng Phúc sờ L hụt để nó có thêm tên là thằng Phúc lừa.
Bây giờ cháu kể chuyện thằng con mú đánh chú nhé. Họ và tên nó là Phạm sinh Giang.
– Phạm sinh Giang à? – Tôi sửng sốt hỏi.
Nó là đứa con khốn nạn của chị Phạm bích Hằng.
– Vâng, cháu là bạn nối khố với nó ở chợ Bắc qua, hai đứa cùng xin ăn ban ngày và ban đêm cùng ôm nhau ngủ trên hè phố. Hai đứa cùng bị lùa vào khu một tuần và cùng đi trại giáo dưỡng một chuyến xe.
Khi vào khu, một ông trung uý hỏi cung nó, giống nó như bố với con:
– Họ tên mày là gì?
– Thưa ông, cháu là Phạm sinh Giang.
– Họ, tên mẹ mày?
– Mẹ cháu là Nguyễn thị Hà.
– Nói láo, mẹ mày là Phạm bích Hằng. Còn bố mày?
– Thưa ông, cháu không biết, mẹ cháu bảo bố cháu là một con quỷ.

– Mày nói láo – Ông trung uý quát, mặt ông hơi tá
i đi.
Quả thật cháu không biết nó có duyên nợ gì với ông mú này không? Những ngày còn ở khu, có lần ông ta cho thằng Giang một cái bánh mì, một lần một năm xôi. Xuất xứ thằng Giang có tên là con Mú từ đó.
Thời gian đầu vào trại thằng Giang ngoan lắm. Ai nói gì với nó, cũng gọi dạ bảo vâng. Tính tình nó mỗi ngày một thay đổi, đến nay nó hung tợn như một con thú dữ. Chẳng riêng gì nó, con nhà tử tế vào đây một thời gian nếu không lưu hoá thì cũng trở thành một đứa côn đồ hay lừa đảo, bê tha. Vừa qua thằng Giang gặp một tai hoạ, diễn biến như sau như sau: Cách tết mười hai ngày, một thằng cho nó vay một suất khoẳm ăn buổi sáng. Đến ba mươi tết thằng kia đòi nợ với cách tính cứ hai ngày không trả thì số nợ tăng gấp hai.
Thằng cho vay khoẳm tính theo cấp số cấp siếc gì đấy, nó bảo thằng Giang phải trả thành sáu mươi tư suất. Nó bắt phải trả ngay bằng cách lấy tất cả tiêu chuẩn ba ngày tết trừ rau. Thằng Giang hung hãn nhưng làm gì được nó, nó lớn hơn, gần hai mươi tuổi lại thuộc hội họ lưu Hải phòng mạnh nhất Bắc kỳ. Thằng Giang ngậm tăm mà chịu đựng. Họ lưu không như bên Bun ùm các chú đâu, nếu nói lộ chuyện đến tai quản giáo, chúng dùng luật giang hồ cho thằng Giang về chầu Diêm vương sớm. Ngay mùng ba tết đi làm, thằng Giang đói và mệt quá, chui vào bụi ngủ. Khi hết giờ làm việc, điểm danh về trại thấy thiếu người, ông vũ trang bắn ba phát súng báo động và tìm kiếm mãi. Ông trung uý quản giáo toán vớ được thằng Giang còn đang ngủ, lập tức ông lôi dậy và rút dao găm cắt luôn hai tai trước khi đưa nó vào nhà kỷ luật.
Thằng Giang bị cùm gần chết thì được đưa ra bệnh xá cấp cứu. Nó mới về toán đi làm được vài tháng nay.
Nghe đâu, ngày mai bọn Bun ùm các chú chuyển đi trại khác. May mà hôm nay là ngày chủ nhật, cháu mới được gặp chú và nói chuyện được dài. Để đền ơn chú đã cho cháu quả chuối khi xưa, cháu kể thêm một chuyện về thằng Phúc nữa. Thằng này quê ở Nghệ an. Hồi cải cách gia đình nó là địa chủ, nhà cửa bị trưng thu, bố mẹ nó bị bức tử và tự tử cả, chú bác, họ hàng chẳng ai dám cưu mang nó. Mới lên bảy tuổi, nó phải đi lang thang xin ăn. Nó nhảy tàu đến thành phố Nam định, ở đây các bậc đàn anh là họ lưu bao, ăn no nê. Một hôm nó phải thực hiện một phi vụ, ban đêm cùng các đàn anh trèo lên mái nhà cửa hàng bách hoá, lật ngói. Sau đó nó bám vào một sợi dây để các đàn anh thả xuống lấy trộm vải. Nếu lấy được hàng, nó buộc vào một đầu dây để các anh kéo lên. Tất nhiên nó cũng ra khỏi cửa hàng bằng cách đó. Nhưng khi thả nó xuống lại đúng quầy hàng bằng gỗ, động mạnh làm gã bảo vệ thức dậy bắt ngay. Mấy ngày hỏi cung chẳng có kết quả gì, mú dùng biện pháp tra tấn, trói hai tay nó treo lên xà nhà. Hai giờ sau, mú cởi trói để tiếp tục bắt nó khai tội, nó tuyên bố, các chú muốn giết cháu hay làm gì cũng được, từ bây giờ cháu không nói thêm một lời nào nữa. Tám năm sau, nó mười lăm tuổi, vẫn bé như đứa trẻ lên chín, lên mười nên nó có tên là Phúc còi. Thằng này mới cực kỳ hung hãn. Khi mâu thuẫn với ai, nó nói:
– Mày lớn hơn nên đánh được tao nhưng tao lại có gan chém được mày.
Đa số tù đều sợ nó. Có một thằng khi chia ăn cãi nhau, đấm đá nó. Vài ngày sau, toán đào hầm cho đơn vị vũ trang. Nó lấy được cái xẻng của bộ đội, đến sau lưng thằng kia chém hết sức vào cánh tay phải, cánh tay thằng kia gần đứt. Lần khác, một thằng cậy trong hội họ lưu Hải phòng bạt tai nó, đến sáng chủ nhật, thằng ấy chơi ở nhà ăn. Phúc còi lẻn xuống nhà bếp lấy trộm một con dao phay, bất ngờ lẻn đến chém thằng ấy. May mà thằng ấy đứng dựa cột nên nhát dao vướng, chỉ làm nó mất một mảng da đầu bằng nửa bàn tay, máu phun ra xối xả. Cả hai lần gây thương tật cho người khác, Phúc còi phải nằm xà lim sáu tháng và chuyển đi phân trại khác. Nếu không, nó cũng bị hội họ lưu trả thù giết chết.
Phúc còi nghiện thuốc lào nặng, nó thường ép rệp đổi lấy đạn để bắn. Một hôm, một người nhận tiếp tế có nhiều đạn, nó mang rệp đến đổi, người ấy không đồng ý. Nó xin một phát người kia cũng không cho. Đến đêm, nó lẻn đến chỗ nằm người ấy đánh bốt. Thằng Phúc còi mới là thằng vô phúc nhất, ông vũ trang tuần tra bên ngoài thấy động, nhìn vào lơ mơ vì phòng giam chỉ có một ngọn đèn dầu vặn nhỏ. Ông vũ trang quát:
– Anh nào kia, định trốn à, ra trình diện? Nếu không ra tôi bắn.
Thằng Phúc còi đứng áp sát vào vách im phăng phắc. Ông vũ trang nổ súng, một viên đạn xuyên qua đầu nó. Đời thằng Phúc còi kết thúc thì câu chuyện cháu kể đền ơn chú đến đây là hết.
Tôi nhìn thằng này cao hơn dạo trước được mươi phân nhưng thể xác nó vẫn quắt queo như cũ, tôi nói:
– Anh cũng cao lên đấy.
– Trẻ con vào tù nếu không chết, cũng phải dài ra chứ chú.
– Tên anh là gì?
– Cháu tên là Thưởng nên vào đây chịu phạt. Thời buổi này cũng lắm chuyện ngược đời, trong nhà tù, thằng Phúc thì vô phúc, thằng Nhân thì bất nhân, thằng Nghĩa thì bất nghĩa, thằng Hùng thì hèn, thằng Dũng thì nhát. Ngoài xã hội cũng vậy, cơ quan nào có kèm theo hai chữ nhân dân đều phản lại nhân dân: Công an nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, uỷ ban nhân dân… đều là những công cụ đàn áp nhân dân cả.
– Ít tuổi mà anh có ý nghĩ đáo để nhỉ? – Tôi nói.
– Từ cải cách, cháu đã mười ba năm bị đầy đoạ, trong đó có năm năm bị tù oan cũng phải làm cho cháu khôn lên đôi chút chứ.

Nếu ngày mai, chú chưa đi, buổi trưa cháu lẻn sang kể cho chú nghe một mẩu chuyện li kỳ nhất. Chú phải trả công cho cháu cả một suất rệp tẻ chậm gù. Hai anh em ruột cùng bị tù, một đứa tên là Đồng, một đứa tên là Chí, ở ngoà
i còn là đồng chí với nhau nhưng trong trại giam cắn xé nhau khốc liệt hơn cả chó với mèo. Tóm tắt câu chuyện như thế, thôi để dành trưa mai. Nói xong, thằng Thưởng về phòng giam nó lấy bát sang đựng suất cơm chiều của tôi hôm ấy.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: Trại cải tạo Vĩnh quang
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 17
HỒI BA – Nhà tù
III Trại cải tạo Vĩnh quang (1)
Đêm hôm ấy, phần lớn tù không ngủ được, bàn tán với nhau sẽ chuyển đến trại nào, đói là lẽ đương nhiên nhưng có thoát khỏi những cuộc tra tấn kéo dài vì ăn không? Hiện tại chúng tôi đang bị tra tấn. Nếu người nào giàu có ở bên ngoài, ăn chim quay, gà tần hoặc ăn yến một vài tuần liên tục thì những món ăn hảo hạng ấy không còn ngon miệng nữa. Trong trại giam, đến mùa sắn, tù phải ăn sắn sáng, cơm độn sắn, canh sắn vài ba tháng liền. Mỗi bữa chỉ được vài thìa cơm, còn lại tất cả đều là sắn. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay, ai có qua mới biết những cuộc tra tấn kiểu này nham hiểm đến chừng nào! Đói thắt bụng lại mà không ăn được, khi đi tù vớ được lá cây non, cỏ non, rau rừng… tranh nhau ăn sống. Có người mong được kiếp sống của một con trâu vài ngày ăn lá rau già cho đỡ xót ruột. Mùa hè vừa rồi, toán rau xanh của Lã văn Hạp trồng đến hai mẫu tây cà. Cả mùa ba tháng, món ăn thường xuyên của tù là cà: cà nấu muối và cà muối.
Tôi không biết dùng từ nào để diễn tả ngón đòn lạ lùng này? Sau mỗi cuộc tra tấn kéo dài, vốn dĩ thằng tù đã hom hem, tàn tạ lại càng thảm thiết hơn và góp phần làm nhiều người bỏ mạng. Có lẽ khi phát hoang, đất đồi trồng sắn, trong số những nạn nhân bất hạnh nhất của những cuộc tra tấn kiểu này, không ai nghĩ đó là cách đào huyệt để chôn mình?
Sáng hôm sau, cai ngục đưa tù ra nơi có ô tô để chuyển trại, tôi thấy Lê Thăng, hắn đeo quân hàm thượng uý. Hỏi người khác, tôi mới biết, hắn chuyển về trại này thay Lê Xuân Tam, làm phó giám thị trại A đã mấy tháng. Hắn già đi đôi chút nhưng khuôn mặt và hình dáng vẫn như xưa, hắn làm đội trưởng cải cách ở quê tôi. Cũng may mà tôi ở trại B nếu ở phân trại A, mà hắn biết, có lẽ tôi không có ngày về.
Người trực tiếp đến nhận tù là thượng uý Nguyễn huy Cự, giám thị trại tăng gia Phúc lập, tiền thân của trại Vĩnh quang sau này. Khi đọc danh sách tù chuyển trại, đến họ, tên và nguyên quán của tôi, Lê Thăng bảo với Hồ sĩ Tưởng:
– Tôi biết thằng này con địa chủ, cường hào hồi cải cách. Lúc đó nó còn ít tuổi mà ranh lắm. Rất tiếc ở đây, tôi không biết nó sớm.
– Thằng này theo hồ sơ còn phải tù mọt gông. Trong trại nó cũng gớm lắm, không mắc một sai phạm gì để có cớ đưa nó vào nhà kỷ luật – Tưởng nói.
– Các đồng chí còn thật thà quá. Biết bản chất của kẻ thù nguy hiểm, muốn diệt thì chứng cớ trong đầu mình chứ còn đâu ra nữa – Lê Thăng nói tiếp.
Người khác đứng gần, thính tai nghe trộm được nói lại với tôi, làm tôi rùng mình như vừa thoát chết.
Số tù ở trại tăng gia Phúc lập có khoảng năm trăm người chỉ có vài người dám phản ứng lại bọn cai ngục, còn lại đa số ngoan ngoãn như một đàn cừu, thực sự họ là bầy nô lệ đáng thương, răm rắp phục tùng, không dám hé răng. Vì đại bộ phận là nông dân, họ không hiểu gì chính trị, cũng chẳng biết gì hơn, ngoài việc trông chờ vào sự ban ơn của đảng.
Một dân tộc đến chín mươi nhăm phần trăm là người làm ruộng, thì bao giờ họ mới dám đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ?
Nghe nói, tù ở trại này cải tạo tốt còn do một động cơ khác nữa là cách thức cho gặp gia đình và nhận tiếp tế của ông chánh giám thị. Ông ta quy định, người cải tạo xấu không được gặp gia đình, không được nhận tiếp tế. Người cải tạo trung bình được gặp người nhà mười lăm phút và được nhận ba cân… Đến người cải tạo tốt gặp vợ, ở nhà hạnh phúc hai mươi bốn giờ và nhận tiếp tế không giới hạn. Thành ra, nhờ có cái ân sủng này, nhiều người đi tù mà vợ ở nhà vẫn có diễm phúc sinh con nở cái. Xem ra, sáng kiến của ông Nguyễn huy Cự cũng hay hay, thứ nhất, ông vắt cạn kiệt sức tù bằng lòng tự nguyện, thứ hai ông gián tiếp ra lệnh cho tạo hóa để những hài nhi ra đời mang tính di truyền của cha chúng là bệnh khom lưng, quỳ gối. Có lẽ từ ngàn xưa đến nay, không có một tên lãnh chúa nào có bộ óc ngang tầm với ông chánh giám thị trại tăng gia Phúc lập.
Sau ba ngày đến trại, tù mới tập họp để nghe biên chế về các toán. Thân Quân ngồi bên tôi, thấy Nguyễn huy Cự đến gần, anh nói to:
– Tao và có thể cả mày nữa không bị cái lệ làng ở đây trói buộc.
Nghe xong, ông giám thị liền hỏi:
– Anh nói cái lệ làng là cái gì thế?
– Cách thức cho gặp gia đình và nhận tiếp tế, thưa ông!
– Để bắt các anh cải tạo, anh tưởng chỉ có thế thôi à?
– Thưa ông, còn nhà kỷ luật nữa phải không ạ?
– Ở trại An Thịnh, anh đã vào chưa?
– Cộng lại ở nhiều trại, tôi sơ sơ mới có gần ba chục lần.
– Anh đã ở tù bao nhiêu năm? – Ông giám thị trố mắt, hỏi.
– Mới trên một giáp.
– Thế thì anh cải tạo xấu quá! – Nói xong, ông giám thị bỏ đi.
– Thưa ông, tôi muốn nếm mùi xà lim ở trại này, xin ông chiếu cố! – Thân Quân nói với.
– Với thái độ xấu của anh thì trước sau sẽ biết. – Ông giám thị ngoái cổ lại trả lời.
– Nếu được ngay bây giờ, tôi xin cảm ơn ông nhiều lắm!
Hơn một trăm tù nhân từ trại An Thịnh chuyển đến trại này, sau một tháng, kỷ cương khắc nghiệt của trại bị phá vỡ. Phản đối cán bộ trại giam, nghỉ lao động nhiều làm bọn cai ngục đau đầu, điên cuồng khủng bố, đưa vào xà lim cùm hàng loạt. Tất nhiên những hành động chống đối theo cách tự phát và liều lĩnh.
Tôi và Khoa ở trong toán rau xanh, quản giáo toán là Trần văn Phượng, nói ngọng. Hắn là nông dân mới thoát ly trở thành cai ngục. Và có lẽ hắn chỉ quen trông coi tù nhân thuần tuý gốc nông dân. Đến nay, hắn phải cai quản hai chục tù người ở thành phố, làm hắn lồng lộn quát tháo cả ngày. Thường xuyên hắn phải nghe lời phản đối, có khi quyết liệt. Hắn thường tuyên bố, các anh mới đến đều là phần tử xấu. Tuy là cai ngục, hắn có lòng tự ái của kẻ thống trị nhưng không giấu nổi nỗi tự ti, bất lực. Hắn lần lượt gặp tù mới đến, thường hắn bị dồn vào ngõ cụt về lý luận.
Đến lần gặp tôi, hắn hỏi:
– Ở trại An Thịnh, các anh bướng lắm à?
– Thưa ông, ở trại ấy chúng tôi bị dồn đến bờ vực của nạn chết đói, những kẻ cùng đường lâu ngày trở thành một thói quen – một thói quen tự vệ như một bản năng. Nếu những thân tàn như tôi cứ ngoan ngoãn phục tùng các ông, lao động quá sức mình lúc này chắc chắn là hành động tự sát.
Bí quá, hắn phát khùng:
– Các anh nhiều lý sự lắm, tôi trả lại ban giám thị hết.
Sau đó nghĩ sao hắn lại dịu giọng nói:
– Anh không phải là nông dân, tôi không bắt làm việc nặng nhưng không được kích động người khác. Tôi được ban giám thị cho biết, anh là phần tử nguy hiểm ở trại An Thịnh.
– Thưa ông, tôi nguy hiểm ở chỗ nào?
– Nguy hiểm ở cái mồm anh ấy, cơ thể yếu, nhưng cái mồm nói xấu chế độ thì không yếu.
– Thưa ông, cho tôi biết một bằng chứng?
– Rất tiếc hơn bốn năm tù, chưa một ông cán bộ nào bắt quả tang, vì anh hoạt động chống đối rất tinh vi, khôn khéo. Cũng vì lẽ đó, hết án anh chưa được đảng khoan hồng.
Tôi thoáng nghĩ, vận dụng lý luận nói với cái tên cai ngục vô học này cũng chẳng ích gì, nên tôi im lặng để buổi hắn gặp tôi chấm dứt.

* *

*
Tết năm ấy, trại chuyển về gần nên thân phụ Khoa cùng em gái đến thăm anh. Và lần đầu, chị Hoa cũng đến thăm tôi.
Do nghèo, lại không biết cuộc sống của em trong tù nên chị chỉ mang cho tôi vài cái bánh chưng và một vài đồ dùng. Tuy nhiên làm tôi vui mừng khôn xiết, nơi địa ngục trần gian này, tôi vẫn có thân nhân quan tâm đến. Cùng với niềm vui đó, chị Hoa cho biết, khi nào bất hoà, ông bố chồng và anh Hoàng nguyền rủa chị:
“Cho đi cải tạo với thằng Tâm”.
Câu nói của những người tối tăm, u mê ấy chẳng làm tôi lưu tâm đến. Đau lòng là lời nói của anh Quang. Anh nói, dại thì chết, cô bảo nó đừng bao giờ viết thư cho tôi, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến các cháu, tôi không có đứa em muốn theo địch. Niềm vui được gặp người thân tan biến trong khoảnh khắc để nỗi buồn tràn ngập. Anh Quang sao mà hèn thế? Từ hèn hạ dẫn anh đến mê muội, lẫn lộn trắng đen. Sao anh vội quên, ai là kẻ giết cha anh? Ai gây cho anh cảnh tan cửa nát nhà? Ai gây cho anh cảnh sống cơ cực, nhục nhã hàng chục năm để anh phải bỏ quê hương, đi khai hoang miền núi? Kẻ đó, nếu không gọi là thù hay địch thì gọi là gì? Còn đứa em anh có ý định ra đi để chống lại chế độ bất công, tàn bạo, muốn rửa hận cho cha cũng như hàng vạn người chết oan uổng mà lại là trốn theo địch ư? Những người hèn hạ như anh tôi hiện nay nhiều lắm. Điển hình là nhạc sĩ Phạm Tuyên đã, đang cúc cung tận tụy cho guồng máy tuyên truyền của Cộng sản. Có lẽ khối óc, con tim và cả dòng máu trong cơ thể hắn đã nhiễm thứ nọc độc “ảo vọng thiên đường trên cõi tục” biến hắn thành kẻ hèn hạ, cuồng tín, u mê, hắn mới quên cái chết thê thảm của cha mình – Nhà học giả Phạm Quỳnh. Nỗi buồn riêng với anh mình cũng là nỗi buồn chung cho cả dân tộc, bao giờ họ mới tỉnh ngộ và dám nổi dậy chống ách thống trị khắc nghiệt của bầy quỷ đỏ để giành lại nhân quyền và hạnh phúc?
Sau khi được gặp gia đình, không biết do sự huyền bí nào, Khoa cảm thấy cái chết sắp đến với mình? Anh nói với tôi:
– Có lẽ tao sắp vĩnh biệt mày, vĩnh biệt tất cả.
– Mày có giải thích được không hay là vật tự nó của Kant?
– Tao linh tính thần Hades sắp đến bắt mình, mày cứ cho là thuyết bất khả tri của Kant cũng được. À này, “cuộc đời tôi như đêm liên hoan đã tàn, chờ xe về nghỉ. Nay đã có rồi…”. Mày có biết câu nói ấy của ai không?
– Nhật ký của Pessorine trước giờ đấu súng.
– Không biết tử thần đưa tao trên hành trình về cõi bằng tàu, hay máy bay? Nếu phải đi bộ thì lâu lắm.
Đầu tháng tư năm 1970, tôi bị một trận ốm nặng, đường ruột cấp tính, may nhờ người bạn tù ở Hà nội có hàng trăm viên Chlorocid, tôi đã thoát chết. Thời gian này Khoa nghỉ lao động nhiều ngày để chăm sóc tôi. Lúc bệnh tôi nguy nan, Khoa nói:
– Tử thần muốn bắt mày đi cùng với tao chăng?
Khoa viết một bức thư cho gia đình với nội dung sau:

Ngày 20 /4 /1970.
Bố mẹ kính mến! Chị Hằng và các em Mai, Hải, Phượng, Khiêm thân mến! Đây là bức thư cuối cùng con gửi cho gia đình, mặc dù hiện nay con không mắc bệnh gì nhưng con cảm thấy sắp phải vĩnh biệt thế giới này. Bố mẹ sinh ra và nuôi dạy con đến ngày khôn lớn, chưa đền đáp được một chút công ơn sinh thành thì đời con bước vào những năm tháng tối tăm. Số mệnh của con đến nay không cho phép kéo dài thêm nữa. Vĩnh biệt thế giới này, về phần mình, con không có gì phải ân hận, chỉ đau lòng một nỗi bố mẹ không hoà thuận. Từ khi con trưởng thành, sự xung khắc với con vì mẹ mang quan niệm con lạc hậu với xã hội. Cũng vì quan niệm đó của mẹ đối với bố con để người phải về quê sống cô đơn, tủi nhục, xa đàn con dại. Con không dám trách gì mẹ, mẹ cũng như hàng triệu người đàn bà Việt nam chỉ đáng thương, chứ không đáng trách. Tuy nhiên, khi còn ở nhà, nhiều lần con xin mẹ, không nên vì các quan niệm khác nhau về xã hội mà gây nên cảnh bất hoà trong gia đình. Dù con và bố con có mang quan niệm tốt đẹp như mẹ thì gia đình ta cũng chẳng cải thiện được gì thêm, cũng vẫn khó khăn thiếu thốn. Trước khi đi xa, con cầu xin mẹ hãy bỏ mọi ý nghĩ mơ hồ về lịch sử dân tộc hiện nay, cùng bố con sống hoà thuận để có niềm vui trong mái ấm tình thương.
Bố mẹ hãy tha thứ cho con – một đứa con tội nghiệp và bất hiếu. Chị Hằng tha lỗi cho em, các em tha lỗi cho anh nhé! Chúc toàn gia mạnh khoẻ gặp mọi sự tốt lành.
Cuối cùng con gửi bố mẹ và cả nhà muôn vàn tình thương nhớ. Chào vĩnh biệt.

Bức thư này Khoa không được gửi vì tên quản giáo bảo anh cải tạo xấu.
Tôi ốm gần một tháng, đi không vững nên được chuyển sang toán những người già đan lát. Tối mùng ba tháng năm, tôi chuyển sang phòng khác. Cũng buổi tối hôm ấy, Khoa đi chào vĩnh biệt những người thân trong phòng. Có người bảo Khoa đùa cợt, có người bảo Khoa có dấu hiệu bệnh tâm thần. Tuy nhiên Khoa vẫn khẳng định ngày mai mình chết.
Đến ba giờ sáng, căn bệnh đường ruột bắt đầu phát, đau quá, Khoa hét thất thanh kêu cứu. Cán bộ trực trại là trung sĩ Minh đến quát nạt:
– Anh định quấy rối phải không? Tôi cho anh vào xà lim mà hét nhé?
Nhiều người thương Khoa, nhao nhao xin tên trực trại cho anh đi cấp cứu nhưng hắn nói:
– Ban đêm tôi chỉ có quyền đưa phạm vào nhà kỷ luật, không có chỗ nào cấp cứu phạm lúc này.
Nói xong hắn bỏ đi mặc cho Khoa kêu đau thảm thiết và nhiều người hô to kêu gọi xin cấp cứu cho anh.
Đến sáu giờ sáng, nhà giam mở cửa, những người thân vội đưa Khoa đến trạm xá nhưng ở đây chẳng có thứ thuốc nào. Chúng tôi thay nhau ra cổng xin tên trực trại cứu chữa cho Khoa nhưng hắn đều quát đuổi về phòng giam và lờ đi.
Tám giờ sáng, tên cai ngục y tá mới đến. Lúc này có thuốc tiên cũng không chữa được vì máu từ hậu môn Khoa chảy ra nhiều lần như vòi nước. Chẳng những thế, Khoa mắc bệnh đường ruột mà tên cai ngục lại cho uống thuốc giải độc. Khoa đau quá, mất lý trí kêu la thảm thiết. Tên y tá quát trấn áp Khoa liên tục.
– Ông Oang ơi, tôi đau đường ruột, không phải bị ngộ độc.
– Anh im mồm, đây là nhà tù, chữa thế nào là quyền của chúng tôi.
– Tôi đau quá không chịu được. Ông cho tôi uống thuốc ngủ hoặc thuốc mê ngất đi cũng được.
– Tôi tống cổ anh vào xà lim nghe chưa? Anh là thằng tù, không phải ở nhà anh hay bệnh viện mà la hét.
– Tôi sắp chết rồi, ông Oang ơi! Tôi muốn chết ngay. Ôi, đau quá!
– Anh có chết, chúng tôi chẳng thiệt gì. Ngược lại, xã hội bớt được một tên phản cách mạng.
Khoa kiệt sức, những lời kêu cứu thảm thiết nhỏ dần, cơ thể Khoa cũng chết dần, chết đến đâu Khoa biết và thông báo lại:
– Tâm ơi, chân tay tao chết rồi, không còn cảm giác nữa.
Chân tay anh lúc này nhợt nhạt, nhăn nheo và lạnh buốt. Tôi bấm mạnh vào bắp đùi nhưng anh không phản ứng gì.
– Tao chết đến bả vai và đến háng rồi.
Sau đó Khoa thều thào với tôi:
– Thế ra tao đi bằng tàu Apolo về cõi. Mày hãy nhớ, ghi lại cái chết thê thảm này và những năm tháng bất hạnh…
Khoa ú ớ không nói nữa. Thấy thế, tên cai ngục y tá bỏ ra ngoài. Hắn thong thả bước như người dạo chơi trong công viên. Vẻ mặt hắn rạng rỡ như vừa lập được một chiến công.
Thật trớ trêu, đến thời điểm đó, ông giám thị Nguyễn huy Cự mới có mặt. Ông ra lệnh mang hết tủ thuốc của cơ quan đến trạm xá để chữa cho cái xác không hồn. Ngay buổi trưa hôm ấy, ông cho người cáng xác Khoa (còn thoi thóp thở) đi bệnh viện.
Khoa đã yên nghỉ trên một quả đồi huyện Lập thạch tỉnh Vĩnh phú, Nghe người đưa anh đi kể lại, trên quả đồi âý có nhiều cây hoa trắng. Hàng ngày hoa nở để viếng linh hồn trong trắng của anh. Rồi hoa tàn rơi và huỷ hoại cùng với tấm thân trẻ trung của anh trên miền đất đau thương ấy.

Trong đời tôi đã từng chịu những tột đỉnh của đau thương: mẹ tôi chết thảm thê, tôi còn nhỏ tuổi chưa đủ ý thức để chịu hết nỗi đau này; bố tôi chết do bàn tay hung bạo của lũ vô thần, tôi không được nhìn mặt. Còn Khoa, tôi ở bên anh lúc cơ thể anh còn nguyên lành, tỉnh táo. Tôi đã chứng kiến bệnh tật tàn phá thể xác anh chết dần cùng với những lời kêu cứu thảm thiết nhỏ dần và tắt ngấm. Vĩnh biệt Khoa, tôi vĩnh biệt người bạn thuỷ chung, cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu đắng cay tủi nhục. Khúc nhạc êm đềm của tình bạn kéo dài gần một chục năm bỗng dưng tắt hẳn để cuộc
đời tôi thêm cô quạnh, đau đớn trong cái xã hội tàn bạo và ghê tởm này. Tôi khóc nấc lên như một đứa trẻ ngây thơ, khóc thương Khoa đến hết nước mắt và không còn biết khóc đến bao giờ?
Được tin Khoa chết, bố mẹ anh đến trại. Người ra nhà tiếp đón gặp gia đình về nói với tôi rằng, thân phụ Khoa khóc nức nở thương con, ông đưa cho người ấy xem giấy báo tử của Khoa với nội dung: “…với chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ, trại chúng tôi đã hết sức chạy chữa và chăm sóc anh Khoa ngay từ khi bị bệnh, nhưng do bệnh quá hiểm nghèo, anh Khoa đã qua đời ngày 4 – 5 tức là ngày 29 –3 âm lịch.

* *

Một buổi chiều đầu tháng sáu năm 1970, tôi được gặp ông đại diện viện kiểm sát tối cao, nguyên do có buổi gặp này đơn giản. Khi tôi về trại tăng gia Phúc lập, mỗi tháng được một đồng, một bằng chứng cho thấy tôi đã bị chuyển sang diện tập trung cải tạo. Nhân thể gặp ông cán bộ giáo dục hỏi ông về quyết định ấy, ông bảo tôi:
– Nếu thắc mắc thì anh làm đơn khiếu nại gửi lên bộ công an hoặc viện kiểm sát tối cao.
Tôi biết, họ đều là một duộc bất nhân, có kiện cáo cũng chẳng ích gì, cũng như khi xử án xong, tôi đã nói với Khoa vở kịch còn nhiều màn nữa thì đây là giai đoạn chuyển sang màn kịch khác. Tuy nhiên, do tính tò mò, tôi muốn được nghe giới thiệu nội dung của màn kịch mới này.
Ông viện kiểm sát tối cao nói:
– Sau khi nhận được đơn của anh, chúng tôi đã nghiên cứu kỹ hồ sơ tội lỗi và quá trình cải tạo của anh. Nay tôi thay mặt viện đến đây thông báo để anh biết, quyết định tập trung anh là hoàn toàn có cơ sở pháp lý.
– Thưa ông, cho tôi biết cơ sở pháp lý nào?
– Ngay trong những bản kiểm điểm hàng năm, anh nhận thường xuyên ăn rau sống, uống nước lã có phải vi phạm nội quy không?
– Thưa ông, đúng là tôi viết thế. Nhưng buộc tôi phải vi phạm điều mất vệ sinh này chứ tôi không muốn. Nhà bếp trại giam thường xuyên nấu rau không chín nghĩa là còn sống, đun nước uống không sôi coi như còn ở thể nước lã. Thưa ông, nếu không ăn rau, không uống nước của trại thì làm thế nào sống được? Mặt khác, tôi xin lỗi ông được hỏi điều khoản nào của pháp luật ghi tù nhân sống mất vệ sinh và đói khát phải kéo dài thời gian giam giữ?
– Anh hãy im, nghe tôi nói đã. Có lẽ anh chưa hiểu được chức năng của viện chúng tôi. Ngay trong lá đơn anh viết đã có câu vô lễ “nếu pháp luật còn có nơi công minh thì chắc chắn tôi sẽ được tha trong nay mai…”. Anh cho rằng, pháp luật không có sự công minh chăng? Hiện tại, anh đang trình bày với tôi – đại diện viện kiểm sát tối cao, anh tỏ thái độ bình thường như nói chuyện với bạn bè. Tôi xác định để anh rõ, cơ quan chúng tôi có thẩm quyền kiểm tra cả hội đồng chính phủ.
– Thưa ông, tôi hiểu. Tôi không dám có một biểu hiện phạm thượng hay thất lễ mà chỉ trình bày chân thật ý nghĩ của mình. Toà án nhân dân Hà nội xử tôi bốn năm tù. Trong thời gian đó, tôi không vi phạm nội quy của trại, tại sao tôi phải chuyển sang tập trung cải tạo? Tôi muốn hỏi ông về điều bí ẩn của pháp luật?
Đến lúc này, tôi thấy mặt ông viện kiểm sát đã đỏ lên, có lẽ ông không giữ được bình tĩnh nữa:
– Pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa phục vụ cách mạng, mang tính giai cấp và tính đảng. Mặc dù anh hết án nhưng hiện nay tha anh chưa có lợi, nhà nước cần phải giam giữ thêm. Án hay tập trung chỉ là cái mốc đối với phạm, co hay giãn của thời gian giam giữ là tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị bên ngoài. Riêng anh, tôi nói thẳng, cứ yên tâm mà cải tạo. Ý thức phản cách mạng của anh chưa sụp đổ và hoàn cảnh hiện nay, chính chúng tôi cũng chưa biết sẽ phải giam anh thêm bao nhiêu năm nữa.
– Thưa ông, tôi xin chân thành cảm ơn sự thẳng thắn của ông. Tôi cũng có ý nghĩ từ lâu như vậy.

* *

*
Từ trại An Thịnh chuyển về trại này, bác Nguyễn huy Cường. Xưa kia bác là lính lái xe cho phòng thông tin Mỹ tại Hà nội. Biết thân phận mình, bác ngoan ngoãn phục tùng chế độ nếu không nói là cúc cung tận tụy để cầu mong một cuộc sống bình an. Năm 1963, bác lên đường vào trại. Ngoài việc lao động như trâu ngựa, bác chấp hành nghiêm túc nội quy của trại giam. Nhiều lần bác được ban giám thị khen là cải tạo tốt. Năm 1969, gia đình bác được công an Hà nội tiết lộ, có thể bác được tha trong năm ấy nhưng bác lại gặp chuyện chẳng lành: Cuối năm 1968 ngài Richard nixon trúng cử tổng thống Mỹ. Năm 1971, sức đã tàn, bác ốm đau luôn phải nằm bệnh xá. Đồng thời bộ công an cử cán bộ đến trại hỏi bác thêm một tội. Năm 1953, phó tổng thống Nixon đến chợ Ghềnh, Ninh Bình, tại sao bắt tay bác?
Mặc dù nhiều lần bác trả lời:
– Tôi là lính lái xe, Nixon không cần biết tôi là ai cả, bộ công an không buông tha, họ hỏi cung bác liên tiếp. Bác Cường yếu quá không đi được, họ cho người cáng bác đi hỏi tội. Bệnh tật hành hạ lại thêm nỗi lo sợ tội trạng mới phát sinh, bác Cường vội vã lên đường về cõi. Ngài Richard nixon chắc chắn không bao giờ biết, cái bắt tay lịch sử của ngài đã giết một người Việt nam lương thiện.

* *

*
Từ Hoả lò đến trại một xe tù, trong đó có ba sinh viên học tổng hợp toán ở Ba lan. Khi đang học năm thứ ba, họ vào đại sứ quán Mỹ ở Vacsava, nói:
– Chúng tôi muốn trốn sang Hoa kỳ, đề nghị các ngài giúp đỡ.
Nhưng họ được trả lời:
– Các anh nên tìm hiểu rõ về Hoa kỳ trước khi đến. Các anh hãy đến Thuỵ điển – một nước trung lập, dân trí cao, họ sẽ nói rõ về Mỹ một cách khách quan. Từ đó các anh thực hiện điều mong ước của mình cũng chưa muộn.
Khi ra khỏi đại sứ quán ba sinh viên bị bắt ngay. Người lãnh đạo sinh viên của Việt nam tại Balan nói:
– Các anh mắc khuyết điểm, cấp trên đưa các anh về nước tiếp tục học.
Tàu liên vận đến ga Lạng sơn, cả ba bị khoá tay đưa về Hoả lò với tội danh phản quốc. Ngày xử án, toà hỏi:
– Các anh là con em của các gia đình cách mạng, được mọi sự ưu đãi của chế độ, tại sao có hành động trốn theo địch?
Hoàn trong nhóm sinh viên ấy, dáng người nhỏ nhắn, da trắng, hai mươi tuổi, trông anh dễ có cảm tình. Bố Hoàn là chuyên viên quân sự ở nước ngoài, mẹ làm ở sở giáo dục.
Hoàn đã trả lời toà:
– Thưa quý toà, tôi cực lực phản đối sự ưu đãi ấy, đó là điều bất công của xã hội. Biết bao người cùng tuổi tôi phải thất học vì nghèo khổ, nhiều người khác, mặc dù học giỏi vẫn không được vào đại học vì lý lịch gia đình. Đất nước có chiến tranh, chính những con người ấy phải cầm súng chiến đấu ngoài chiến trường. Trong khi đó, những con ông, cháu cha của chế độ như tôi vẫn ung dung học ở nước ngoài. mặc những đau thương, mất mát của dân tộc đã và đang gánh chịu. Khi về nước, những con ông, cháu cha của chế độ lại toạ hưởng trong những tháp ngà với những đặc quyền, đặc lợi. Chế độ phong kiến đã bị sụp đổ, nhưng bánh xe của đảng lại lăn theo vết đường mòn “con vua thì lại làm vua” và nhân dân vẫn là nạn nhân của lịch sử – lịch sử dân tộc hàng nghìn năm vẫn theo vết đường mòn đó.
– Những tên này tự giác li khai tầng lớp lao động, chống lại chế độ, phản lại tổ quốc – Ông công tố viên nói.
– Thưa quý toà, chúng tôi hiểu giai cấp lao động theo quan niệm của đảng là những đảng viên đang nắm giữ các quyền hành trong bộ máy thống trị của nhà nước. Chúng tôi từ bỏ tầng lớp thống trị để đứng về hàng triệu người bị áp bức, điều đó chứng tỏ, chúng tôi li khai chế độ. Mặt khác hàng vạn người Việt nam li hương có thể vì miếng cơm, manh áo cũng có thể để thực hiện một ước mơ góp phần mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Như thế sao lại gọi là phản quốc?
– Cả nước đang sục sôi khí thế chống Mỹ, cứu nước, các anh định đi theo giặc Mỹ, có phải các anh phản lại dân tộc không?
– Thưa quý toà! Giặc Mỹ xâm lược, đó là ngôn ngữ để tuyên truyền. Chúng tôi cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là một thảm hoạ cho nhân loại còn hơn cả thảm hoạ phát xít. Mỹ can thiệp để ngăn chặn mưu đồ Cộng sản hoá miền Nam cũng như chiến lược toàn cầu của Mỹ là ngăn chặn làn sóng đỏ. Thực chất của cuộc chiến này là sự đối đầu giữa hai phe Cộng sản và Tư bản.
Miền Nam có Mỹ giúp đỡ, miền Bắc lại có vũ khí, cố vấn quân sự của Liên xô, Trung quốc, như thế sao bảo Mỹ là xâm lược?
– Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Nhân dân miền Nam đã vùng lên phá ách kìm kẹp của Mỹ ngụy. Anh nghĩ gì về chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ?
– Thưa quý toà, chúng tôi không phải là những nhà hoạt động chính trị nên không rõ lắm, nhưng thế giới hiện nay, ngoài vài ba siêu cường, còn lại các nước khác, không phụ thuộc vào chủ nghĩa Tư bản thì phụ thuộc vào Cộng sản, rất ít quốc gia có chủ quyền, độc lập. Do sự tuyên truyền lừa bịp, nhân dân miền Nam tưởng rằng, chủ nghĩa Cộng sản tốt đẹp như thiên đường, họ bị xúi giục để đấu tranh Câu nói ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh chỉ đúng với chủ nghĩa Tư bản có tự do, có nhân quyền. Còn chế độ Cộng sản, người dân bị tước đoạt mọi quyền tự do, sống như một bầy nô lệ bị khoá mồm thì làm gì còn có đấu tranh?
Toà án phạt Hoàn tám năm tù, hai sinh viên kia bị án sáu năm. Sau khi xử, Hoàn được gặp mẹ, mẹ anh khóc và oán trách:
– Sao con ngu dại thế?
– Con không ngu đâu mẹ ạ, chống lại bất công là điều đúng đắn.
– Gia đình ta là gia đình cách mạng, bố mẹ đều là đảng viên, con chống lại chế độ tức là chống lại bố mẹ?
– Thưa mẹ con không dám thế, không thể có “cuộc hội đàm dùng đại bác với thần công” nhưng con và bố mẹ khác nhau về chính kiến. Con xin mẹ, hãy tha thứ cho con vì chân lý buộc con không thể đi cùng đường bố mẹ. Đành rằng, đường đi của con đầy những chông gai, bão tố, có thể gục ngã giữa chừng. Con dám tự hào rằng, trái tim con rung cảm trước chân lý không bị cám dỗ bởi bả vinh hoa được kết tinh bằng mồ hôi, nước mắt và máu của dân lành. Con đường đi của bố mẹ trước mắt có thênh thang, êm đẹp nhưng lịch sử mai sau, hàng nghìn năm sẽ lên án và nguyền rủa con đường ghê tởm ấy.
Tôi hỏi Hoàn:
– Cậu là người dũng cảm dám từ bỏ cuộc sống trong nhung lụa để bảo vệ chân lý. Dòng tư duy ấy, cậu hình thành đã lâu chưa?
– Xưa kia chúng em ngây thơ lắm, chẳng hiểu gì về chế độ, vả lại học cũng bình thường thôi, vì lý lịch gia đình tốt đẹp với chế độ nên được đi nước ngoài. Gần ba năm ở Ba lan, người bản xứ cho biết nỗi thống khổ của họ là thuộc địa của Liên xô. Họ giải thích sơ qua về chủ nghĩa Tư bản và chủ nghĩa Cộng sản. Em hỏi họ, người Ba lan tại sao theo chế độ Cộng sản? Họ trả lời, trước thế chiến thứ hai, Ba lan là một nước Tư bản, sau khi Liên xô giải phóng khỏi ách thống trị của phát xít, lại đặt ách thống trị của đế quốc Cộng sản ở nước này. Từ đó làm em suy nghĩ và phát hiện ra mặt trái của chế độ. Nhất là gần hai năm tù, em thấu hiểu nhiều hơn sự thối nát của xã hội.
– Có bao giờ cậu thấy hối hận hành động của mình không?
– Từ một cuộc sống đầy đủ, công danh và địa vị đang chờ đón mà hiện nay trở thành một thằng tù, tất nhiên làm em đôi khi hối tiếc. Song mỗi bước gian nan mà mình qua được là một niềm tự hào. Hơn nữa, để cho thiên hạ hiểu rằng, không phải ai cũng mờ mắt đi vì tiền tài, địa vị. Xin lỗi anh, cho phép em nhắc lại câu nói của Pavel, có thay đổi đi đôi chút: “Cái đáng quý nhất của con người là cuộc sống. Người ta chỉ sống có một lần, sống sao cho khỏi ân hận, xót xa vì những năm tháng trót sống vinh hoa trên sự đau khổ của người khác. Để khi nhắm mắt, xuôi tay có thể tự hào rằng, ta đã sớm tỉnh ngộ để hiến dâng cuộc đời cho sự nghiệp cao quý nhất của thế kỷ thứ hai mươi – Sự nghiệp giải phóng loài người khỏi ách thống trị của đế quốc Cộng sản. ”
Ngừng vài giây, Hoàn hỏi:
– Em nghe nói, anh giỏi toán và có trí nhớ kỳ diệu lắm phải không?
– Khi còn đi học, tôi có năng khiếu ấy nhưng chế độ đã vùi dập từ năm lên mười hai tuổi. Kể ra, nếu được sống ở một nước tự do và được học thành tài, tôi sẽ đóng góp được một phần nho nhỏ cho xã hội.

* *

*
Tháng năm 1972, do chiến tranh hai miền ác liệt, cục quản lý nhà giam lại bước vào mùa gặt hái. Trại Vĩnh quang tiếp nhận thêm nhiều tù mới, kể cả những sĩ quan ngụy được tha năm 1969 cũng lần lượt vào trại lần thứ hai.
Chẳng những thế, tù ở trại khác chuyển đến cũng nhiều: Phú sơn, Tân lập, Hồng ca, Hà bắc…
Những người có án, họ chuyển lên trại Phong quang. Chuyển về toán tôi, toán năm xây dựng, bác Trần văn An, người mà chị Bích Hằng đã có lần nói đến. Bác An ngoài sáu mươi tuổi, vẻ người khắc khổ. Tôi hỏi:
– Quê bác ở Thái bình và làm việc tại một nông trường ở Hà bắc phải không?
– Đúng, sao anh biết?
– Cháu không biết bác nhưng có người nói đến bác đã mười năm.
– Người ấy là ai?
– Xưa kia nhà bác cạnh nhà thày Lãm, nếu bác còn nhớ có lần bác đến Hà nội, bác đã nói chuyện với một người bán hàng xén, người đó là con gái của thày Lãm đấy.
– Tôi còn nhớ chị ấy nói, gia đình thày Lãm bị xoá sổ trong cải cách rồi.
– Thưa bác, gần như thế.
Tôi kể lại sự kiện đau thương của gia đình chị Bích Hằng cho bác An nghe, bác An khóc và kêu lên:
– Không phải xã hội loài người nữa, mà là hang ổ của loài dã thú.
– Tại sao bác cũng vào đây? – Tôi hỏi.
– Tôi nói cuộc sống làm thuê bên Thái, họ buộc cho tôi cái tội ca ngợi chế độ Tư bản, đưa ra toà xử bốn năm tù. Hết án, họ chuyển tôi sang tập trung cải tạo, tất cả ở tù đã tám năm rồi. Họ bảo tôi không chịu nhận tội và chưa cải tạo. Tôi trả lời, tôi chỉ có cái tội là nói thật, chính tôi cũng không biết mình phải cải tạo gì? Bởi vì tôi không thể lừa dối mình để thừa nhận trắng hoá đen, đen thành trắng. Một ngày làm thuê bên Thái mua được hàng chục bát phở là bị bóc lột, còn một ngày công chưa mua được ba bát là ưu việt, mang lại quyền lợi cho người lao động. Vì ngu bị lừa dối phải bỏ xác trong tù, tôi cũng không ân hận gì, chỉ đau lòng một nỗi thày Lãm đã cứu gia đình tôi thoát nạn chết đói năm ất đậu, tôi chưa đền ơn được. Ngược lại, vì hành động nhân ái ấy mà thày bị vu oan thành tội giết người. Thời đại này, con người độc ác hơn dã thú.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: Trại cải tạo Vĩnh quang (2)
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 18
HỒI BA – Nhà tù
III Trại cải tạo Vĩnh quang (2)
Trại này vừa tiếp quản hai tù binh là thám báo bị bắt ở chiến trường Lào. Một người là Nguyễn văn Cầu, hai mươi sáu tuổi, nguyên quán Lạng sơn, gia đình vào Nam năm 1954, một người là Nguyễn minh Châu, hai mươi hai tuổi ở thành phố Đà nẵng.
Cầu và Châu kể lại:
– Sau khi máy bay trực thăng thả ba lính Việt và ba lính Mỹ xuống một địa điểm tại vùng rừng núi Lào thì bị quân Cộng sản bao vây. Ba người Mỹ thoát nạn. Một lính Việt có tinh thần quyết chiến bị trúng đạn vào đầu, chết ngay. Còn lại hai đứa chúng tôi bàn nhau: mình chỉ là lính quèn, cứ xin hàng rồi ra sống ở miền Bắc. Lúc đó, Châu chợt nhớ ra thân phụ mình đi tù Côn đảo, nói với Cầu:
– Bố tao mấy năm trước là Việt cộng bị bắt quả tang truyền đơn và súng trong nhà, sau khi bị tù năm năm ở Côn đảo về thấy béo khoẻ bình thường. Bố tao bảo, đi tù cái khổ nhất là mất tự do, còn ăn uống có khổ nhưng theo thực đơn hàng ngày. Còn chúng ta bây giờ, nếu xin hàng, dù có bị giam giữ cũng chỉ mất một thời gian ngắn, sau đó mình là dân miền Bắc.
Thế là chúng tôi đồng thanh kêu, chúng em xin hàng các anh giải phóng. Họ ập tới trói gô cổ lại.
– Các anh không hiểu gì Cộng sản à? – Tôi hỏi.
– Nếu biết được như bây giờ thì đã muộn. Chúng tôi đã sống với nhiều lính chiêu hồi người miền Bắc. Nghe chúng nói chẳng ai tin. Nào là quy định mức ăn cho từng người, mỗi người dân một tháng chỉ được nhà nước bán cho một lạng thịt, nào là nhiều bữa mèo không có xương cá mà ăn. Bọn chiêu hồi bị đánh đập luôn, có đứa bị đánh chết vì chúng tôi cho là bịa đặt đời sống nhân dân miền Bắc.
Hai tù binh kể tiếp:
– Gần hai năm bị cái đói vò xé và hành hạ trong trại giam ở Lào, chúng tôi mới được đưa đến đây. Trước khi lên đường, một ông trung tá nói, ở miền núi khó khăn nên điều kiện sinh hoạt của các anh bị thiếu thốn. Nay cho các anh ra miền Bắc để thấy sự đổi mới của nông dân. Nông thôn đã cơ giới hoá trong nông nghiệp, không còn cảnh con trâu đi trước cái cầy, cái bừa theo sau như miền Nam nữa, nuôi trâu bò béo để làm nguồn thức phẩm. Còn trong trại cải tạo, ngoài việc đảm bảo đủ dinh dưỡng như đường, sữa, thịt hàng tuần phát thuốc lá cho những người nghiện, cơm được ăn no, ốm đau được chăm sóc chu đáo…
Nghe nói, chúng tôi tin tưởng và vui mừng đến nỗi trên tàu hoả luôn bám sát hai người dẫn giải từng bước, chỉ sợ lạc.
– Ba bốn ngày còn là dài, nếu thấy có lợi, chỉ cần một vài phút, Cộng sản vẫn lừa dối – Tôi nói.
– Trước kia ở miền Nam – Châu nói – tôi hay nghe đài thấy hiện tượng biểu tình, bãi công phản đối chính phủ thường xẩy ra ở các nước Tư bản. Trái lại, các nước xã hội chủ nghĩa hầu như không có, nhất là ở miền Bắc. Do vậy người miền Nam ngộ nhận chính quyền Cộng sản đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Bây giờ mới hiểu Cộng sản vừa tuyên truyền bịp bợm vừa bóp nghẹt các quyền tự do, trong lĩnh vực thông tin, ngôn luận, Cộng sản lại độc quyền.
– Chế độ Tư bản – tôi nói – như một quả bóng, có lúc căng có lúc mềm, còn chế độ Cộng sản như một trái bom, bề ngoài tưởng như yên tĩnh nhưng bên trong chứa đầy thuốc nổ: bất công, tàn bạo, bịp bợm, phỉnh phờ… Tới một thời điểm nào đó quả bom sẽ nổ tung.
– Nhân dân miền Nam sẽ không khuất phục sự cai trị của Cộng sản – Châu nói.
– Các anh phải biết hùm thiêng khi đã sa cơ, người miền Nam sao bằng dân Cô dắc, người Hunggary, Tiệp Khắc, Ba lan… cũng đành cựa quậy tuyệt vọng trước sự thống trị của đế quốc Liên xô.
– Nhân dân các nước ấy cứ phải chịu cuộc sống mất tự do mãi thế à?
– Chỉ khi nào đế quốc CS Liên xô suy yếu, tự nó sẽ tan rã và biến đổi thì các nước Đông âu và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa mới có cơ hội dần thay đổi và dần thoát ách thống trị của CS mà thôi. Nếu bây giờ nhân dân miền Nam hiểu được thảm hoạ CS, không sợ hy sinh, tổn thất cùng một lòng chống Cộng thì chưa muộn.

* *

*
Bác Đoàn văn Thích cùng ở phòng bảy Hoả lò với tôi, sau đó lên trại An Thịnh và cùng một chuyến xe với tôi đến trại này. Bác vẫn ở toán rau xanh Trần văn Phượng. Phượng vốn ghét bác từ ngày đến. Một buổi tối thứ bảy, nghe bài báo do ban văn hóa trại đọc, viết về chị jane fonda khi ở Việt nam, chị phản đối chiến tranh của Mỹ, về nước chị bị CIA và cảnh sát theo dõi. Chị làm đơn kiện lên toà án “Tôi là một công dân Hoa kỳ, CIA và cảnh sát theo dõi tôi là phạm vào hiến pháp…” Chị được bồi hoàn danh dự bằng Dollars.
Bác Thích hỏi bác Tụ:
– Bác có thấy ông công an hộ tịch to hơn Nixon chưa? Bác Tụ còn ngơ ngác thì bác Thích trả lời:
– Công an hộ tịch Việt Nam to hơn tổng thống Mỹ nhiều…
– Anh Thích nói láo cái gì? – Không ngờ Phượng ở ngoài nghe thấy, quát.
Tối chủ nhật, bác Thích đang chơi cờ tướng với một người. Cờ tàn, bác Thích bị chiếu tướng liên tục.
– Chiếu tướng!
– Thụt thượng – Bác Thích nói, không biết Phượng ở ngoài đang kiễng chân nhìn vào kiểm tra.
– Chiếu tướng!
– Thượng thụt – Bác Thích nói lại đúng lúc Phượng tụt xuống. Tưởng châm chọc mình, Phượng quát:
– Anh Thích đừng láo xược! – Nói xong, hắn bỏ về cơ quan. Sáng thứ hai, Phượng gọi bác Thích vào nhà lô hỏi tội:
– Anh nói ông công an hộ tịch Việt nam to hơn tổng thống Mỹ nhiều là nghĩa thế nào?
– Thưa ông, chị jane fonda phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt nam, Nixon bỏ tù chị ấy không được, cho người theo dõi chị không xong. Trong khi đó ở Việt nam, ông công an hộ tịch muốn bỏ tù ai là tuỳ thích. Như tôi chẳng hạn, ông công an hộ tịch đã vu khống để đưa tôi đi cải tạo.
– Nói láo, cứ như anh nói, chúng tôi muốn giết ai cũng được à?
– Thưa ông, đúng thế. Các ông muốn giết một thằng tù còn dễ hơn ông công an hộ tịch bỏ tù oan người khác.
– Anh thấy chúng tôi đã bắn ai chưa, ngoài những người trốn tránh cải tạo?
– Thưa ông, giết người không phải chỉ bằng súng đạn mà còn nhiều biện pháp khác đang sợ hơn. Chẳng hạn, ở trại An Thịnh, hàng trăm thằng tù bỏ mạng vì đói, vì ốm đau không có thuốc và các cực hình khác.
– Tôi không biết trại An Thịnh. Ở trại này, anh thấy chúng tôi đã giết oan ai?
– Thưa ông cũng nhiều chứ ạ. Tuy bị ốm mà chết nhưng nguyên nhân gây ra bệnh là do ăn đói, làm nhiều, cơ thể suy dinh dưỡng, điều kiện chăm sóc và chữa bệnh không có. Tôi thí dụ như anh Khoa chẳng hạn.
– Anh nói láo, anh Khoa chết ở bệnh viện, chết vì bệnh hiểm nghèo.
– Thưa ông, cả trại ai chẳng biết, đưa cái xác anh Khoa đến bệnh viện rồi cho vào quan tài chứ có kịp chữa chạy gì?
Bị dồn đến chỗ bí, Phượng xoay sang chuyện khác:
– Tối chủ nhật, anh đã láo xược châm biếm tôi.
– Thưa ông, tôi đang say mê đánh cờ, không biết ông ở ngoài, tôi nói tướng thụt thượng, thượng thụt, xin ông tha cho tội vô tình này.
– Anh cố tình châm biếm cán bộ mà còn bào chữa. Tôi đề nghị đưa anh đi kỷ luật.
Bác Thích trong nhà kỷ luật một tuần, chân cùm tê không đi được, phải lóp ngóp bò về phòng giam.

* *

*
Cuối tháng mười hai, do không quân Mỹ, máy bay B52 đánh phố Hà nội, trại giam phải phân tán nhiều nơi trong rừng. Cũng may là dịp cuối năm nên tù được nghỉ hai ngày viết kiểm điểm cải tạo trong năm. Bản kiểm điểm của Thân Quân lần này là một bản án tử hình không tuyên bố.
I Tư tưởng: Mùa đông giá lạnh mà ban đêm vẫn sấm chớp rền vang vì mưa bom, bão đạn. Người chết, nhà cửa đổ nát, phần lớn người Hà nội căm thù kẻ trực tiếp gây ra thảm hoạ này. Họ không hiểu, chết chóc, đau thương, tan nát là quy luật của chiến tranh. Và ai là kẻ thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh này?
Thương mình đã vậy. lại thương người miền Bắc, số đông dân chúng đang sống khổ sở, mất tự do trong cảnh chiến tranh tàn phá mà vẫn ngủ mê. Lại càng thương người dân miền Nam đang mong mỏi cái gọi là độc lập, tự do, họ có biết đâu, đó là một chiêu bài, là bóng tối.
Hiện nay, bố tôi đã hơn bảy mươi tuổi, nghe tin người còn sống làm tôi không vui lắm. Tôi mong bố tôi chết sớm hơn ngày miền Nam vào tay Cộng sản. Là đứa con bất hiếu, ra đi vì sự lừa bịp, không đền đáp được công ơn bố mẹ, tôi không muốn bố tôi phải chịu khổ nhục và thấy cảnh đau thương, vô đạo lý do chế độ Cộng sản gây ra. Chẳng những thế, nếu người còn sống phải thờ thêm một cha già nữa là ông Hồ – “cha già của dân tộc”. Nhiều người như tôi không thờ ông ta, phạm tội bất hiếu đã đành, còn những người đời trước như các vua Hùng, Hai bà Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… không biết để thờ vị “cha già dân tộc”, có phạm tội bất hiếu không?
Nhiều lần tôi đã viết, tôi ước Bắc Nam thống nhất, sum họp trong khúc nhạc, lời ca. Nếu phải đoàn tụ trong cảnh rên xiết thì đừng ai mong như thế.
Hãy tạm thời để chia cắt như nước Đức, Triều tiên chờ lịch sử nhân loại xoay vần.
II Lao động: mười lăm năm tù cũng là chặng thời gian triền miên đói khát, bị hành hạ và cùm kẹp trong xà lim. Tôi không tin có thần thánh và ma quỷ nhưng khoa học lý giải thế nào về sự tồn tại của tôi, vẫn là một con người đủ xương, đủ da, thiếu thịt, vẫn ngủ và làm việc?
III Học tập: Nhà văn nói láo, nhà báo nói càn, bọn giá áo túi cơm này đã biến thành những cái loa tuyên truyền sự giả nhân, giả nghĩa của những tên trùm lưu manh và tàn bạo. Không ít thì nhiều trong máu tôi cũng nhiễm mùi ô uế của chế độ xã hội chủ nghĩa.
IV Nội quy: Chẳng những tôi đã biến thành người nguyên thuỷ man rợ mà còn pha trộn chất lưu manh để tồn tại trong cái địa ngục trần gian này.
Khoảng hơn bốn mươi lần đưa Thân Quân vào xà lim cùm kẹp không khuất phục được ý chí của anh. Lần này, bọn cai ngục dùng móng cùm chặt, phải có búa đóng suốt vào cổ chân làm chân anh bị liệt. Và gần một tháng, trái tim bất khuất của Thân Quân đã ngừng đập. Vĩnh biệt người anh hùng vô danh, mười lăm năm liên tục chiến đấu quyết liệt chống lại chế độ nhà tù hà khắc và vạch trần bản chất xấu xa của chế độ, nhiều tù nhân cảm phục và xót thương anh, chắc chắn hình ảnh Thân Quân còn sống mãi trong tâm trí nhiều người.

* *

*
Cuối tháng một năm 1973, hiệp định Paris được ký kết, những điều khoản của hiệp định làm nhiều người có ý thức chính trị thất vọng. Có thể do thất bại về quân sự dẫn đến thất bại về mặt ngoại giao và trên bàn đàm phán, chính phủ Việt nam cộng hoà và Hoa kỳ đã bỏ rơi hàng chục vạn nạn nhân vì chiến tranh mà nhà cầm quyền Hà nội bỏ tù, trong số đó có nhiều người ủng hộ họ. Ông giám thị Nguyễn văn Chuân tuyên bố:
– Hoà bình đã lập lại. Các anh phải biết việc nhà nước đưa các anh đi cải tạo là vấn đề nội bộ. Chúng tôi sẽ tha dần nhưng chỉ khoan hồng những anh cải tạo tốt.
Tết năm ấy, tù được nới lỏng hơn thời gian trước bước ngoặt của lịch sử dân tộc, những tù nhân mang cảm nghĩ khác nhau, vui buồn xen lẫn. Có người vui vì hy vọng ngày về sắp đến, có người buồn vì tương lai ảm đạm, không còn một cứu cánh nào. Tuy nhiên, buồn là đúng. Dù còn trong trại giam hay được tha, số phận vẫn trong tay Cộng sản thì làm gì có niềm vui và hạnh phúc? Kể cả người có kinh tế gia đình khá giả ngoài miếng ăn, cũng như người khác, phải sống âm thầm, lặng lẽ, tủi nhục vì sự phân biệt đối xử và hắt hủi của cả xã hội.
Đêm giao thừa năm ấy, hầu như không ai ngủ được tụ tập thành từng nhóm dăm ba người ngồi uống trà bàn tán. Bác Bùi phúc Khu mời hàng chục người cùng đến uống trà. Bác Khu quê ở Hải hậu, Nam định, đi tù lần này từ năm 1961. Bác nói:
– Thời gian tới, trong số chúng ta sẽ có người về, kẻ ở lại, nghĩa là những cuộc chia tay sẽ diễn ra. Tất nhiên ai mà chẳng cầu mong những cuộc chia tay ấy. Đêm nay, tôi đề nghị mỗi người kể một vài kỉ niệm sâu sắc nhất trong đời mình.
Người kể mở đầu là anh Kiều duy Biệt:
Tôi bị bắt năm 1959. Gần một năm sau, đang trong tâm trạng lo âu, buồn tủi, vợ tôi nhận được thư chồng với địa chỉ công trường 75A Hà nội. Cô ấy cảm động vui mừng quá, ôm ba con nhỏ vào lòng khóc nức nở. Bởi vì chồng mình không phải trong các nhà tù mà lao động tại một công trường. Ngay hôm sau, cô ấy bắt đầu những cuộc hành trình tìm kiếm cái địa chỉ trên để tìm chồng. Nhưng nửa năm, vợ tôi đi khắp các phố phường và các xã trong bốn huyện ngoại thành chẳng tìm đâu ra cái địa chỉ công trường 75A Hà nội. Đến lúc đó, cô ấy mới hiểu địa chỉ trên chỉ là một mật danh. Năm 1961, vợ tôi lại bắt đầu những cuộc hành trình dài ngày đến các miền rừng núi Tây bắc và Việt bắc. Đến đâu cô ấy cũng hỏi thăm, nhất là cơ quan an ninh, đều vô hiệu quả. Có người còn bảo, vợ tôi mắc bệnh tâm thần vì địa chỉ một nơi, tìm một nẻo. Thế là thêm nửa năm nữa uổng công tốn của. Sau này, cô ấy mới hay, tôi bị giam giữ tại cổng trời Hà giang mà có lần cô ấy đã đến nhưng họ nói dối để không cho gặp. Tuy nhiên, sau khi nhận được thư chồng, vợ tôi có phần yên tâm vì trong thư có đoạn “Anh vẫn bình thường, mạnh khoẻ. Em không phải lo gì, nhà nước chu cấp cho anh đầy đủ”. Cô ấy không biết đó là một công thức mà mọi tù nhân phải viết để thư được chuyển mà sáu tháng mới có một lần được gửi.
Ai đến công trường này đều được nghe lời tuyên bố của ông giám thị trung tá Vũ Nhân: “Các anh đến đây không phải để cải tạo mà là để chịu sự trừng trị của pháp luật, của nền chuyên chính vô sản”. Nơi đây không mấy ai, nghĩ đến ngày về, đành buông thả cuộc đời trôi nổi theo dòng số phận và định mệnh. Thường lệ, ngày thứ sáu nghỉ lao động, cả toán họp để kiểm điểm ưu khuyết điểm của từng người trong tuần. Cũng ngày đó thường diễn ra những cuộc ra đi vĩnh viễn của những số phận bất hạnh nhất.
Tôi đơn cử một ví dụ, vào một chiều mùa đông, trời rét lắm, nước mặt giếng đóng băng thành một lớp dày. Toán đang ngồi kiểm điểm thì ông trung tá Vũ Nhân đến cùng hai cảnh sát làm mọi người như nín thở. Mở cặp hồ sơ ra xem rồi ông hỏi:
– Ở đây có anh nào là Trịnh xuân Nguyên.
– Có tôi – Bác Nguyên giật nẩy người, chân tay run lên lẩy bẩy trả lời.
– Anh là Việt kiều từ Tân đảo về nước năm 1960.
– Vâng, thưa ông!
– Anh đã nói không đội trời chung với Cộng sản phải không?
– Thưa ông, câu nói đó chưa đầy đủ. Tôi có nói rằng, nếu biết khổ thế này, tôi sẽ không về nước, không đội trời chung với Cộng sản.
– Bây giờ anh đi – Ông ra lệnh, giọng ông trung tá giữ vẻ bình thường như người nói chuyện. Vì đây cũng là việc bình thường, ông vẫn thường làm. Nói xong, ông bỏ đi để hai cảnh sát thi hành nhiệm vụ.
Bác Nguyên run rẩy đứng lên, dặn lại:
– Sổ lưu ký còn năm đồng xin biếu bác nào nghèo nhất, cái chăn bông xin cho bác Mão chưa có.
Theo lệnh, bác Nguyên phải cởi bỏ hết quần áo ấm, với bộ quần áo mỏng bọc thân, bác Nguyên ra đi chào mọi người:
– Chúc các bác ở lại may mắn, xin vĩnh biệt!
Sau một tuần, chúng tôi được tin của một tù tự giác, cơ thể bác Nguyên chỉ chịu được cực hình trong xà lim năm ngày, người ta đã đưa bác vào rừng sâu yên nghỉ.
– Anh có biết, trong xà lim ấy, những cực hình khủng khiếp thế nào không? – Một người hỏi.
– Đây là nhà khách vãng lai dành cho những người nghỉ chân trước khi về địa ngục, ngoài bọn đao phủ thì may ra Phật tổ Như lai và Chúa có biết chăng!
Anh Kiều duy Biệt nói tiếp:
- Năm 1969, tôi được tha, có đến thăm gia đình bác Nguyên, cảnh nhà tiêu điều xơ xác. Đứa con trai không có việc làm, đứa con gái lớn mới đi tập trung cải tạo về tội mại dâm. Vợ bác Nguyên gầy yếu, héo hon, hỏi tôi cuộc sống của chồng ở công trường và mắc bệnh gì đã dẫn đến tử vong? Một mặt tôi sợ phải trả giá đắt, mặt khác, không muốn người đàn bà này thêm đau khổ, tôi đành nói dối ở khu vực khác của công trường nên không biết. Bác ấy đưa tôi xem giấy báo tử của chồng, nội dung sau “Ban chỉ huy công trường 75A Hà nội thông báo, anh Trịnh xuân Nguyên bị mắc bệnh hiểm nghèo. Xuất phát từ chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ, chúng tôi đã tận tâm, tận lực cứu chữa và chăm sóc nhưng bệnh không qua khỏi. Anh Nguyên đã từ trần ngày 3 –1 – 1963 tại công trường; chúng tôi đã chôn cất anh Nguyên chu đáo…”
Không phải chỉ có ngày thứ sáu mà cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Gác phòng ban đêm là hai lính người Mèo, nghe và nói tiếng Kinh chưa thạo, hai khẩu AK lúc nào cũng chĩa vào phòng. Ai muốn đi đâu phải hô to và rõ ràng câu: Báo cáo ông bộ đội tôi đi… Nếu không rõ hoặc thêm bớt trong câu ấy, người lính Mèo lập tức khoá tay vào song sắt đến sáng. Bác Hóa quê ở Ninh bình đi tù từ năm 1950 với tội tình nghi làm mật vụ cho Pháp. Bác mới ngoài năm mươi tuổi nhưng rất già và yếu, dáng người lọm khọm, đi phải chống gậy. Hôm ấy trời rét như cắt thịt, bữa cơm chiều được mấy miếng thịt trâu, đến đêm bác Hoá đi ỉa chảy. Đi lần thứ ba, vì mệt, vì bệnh hành hạ cấp bách, bác ra khỏi chỗ nằm, vội hô:
– Bác cáo ông bộ đội, tôi mót ỉa quá, xin phép ông cho tôi đi…
Không đúng khẩu lệnh, lính Mèo khoá tay bác vào song cửa, nhiều người thương bác xin phép khoác chăn lên người bác nhưng chú lính Mèo ra lệnh cấm. Sau hai lần ỉa ra quần, bác xỉu dần, gần đến sáng thì tắt thở. Khi được tháo khoá tay, thân thể bác lạnh và cứng như khúc gỗ.
Đên Noel năm nào cũng có giáo dân ngoan đạo nhận bản án tử hình vì tội “đọc kinh”. Có thể họ không bắn, không chém, chỉ cho ăn cầm hơi, cùm và khoá tay trong hầm tối để chết dần.
Nếu ai được chuyển từ công trường 75A Hà nội đến các trại như chúng ta đang sống còn mừng hơn từ đây mình được tha về. Mỗi lần diễn ra cảnh ấy, những người được chuyển đi đều rơi những giọt lệ hân hoan vì đã thoát khỏi nghĩa địa khổng lồ tưởng như mình bị chôn vùi ở đó. Còn người ở lại ngậm ngùi với số phận, nhìn những người được đi mà để dòng nước mắt thi nhau chảy.
Tôi nghĩ rằng, công trường 75A Hà nội chỉ là một trong nhiều dịa danh chìm trong bóng đêm của chế độ.
Người thứ hai là anh Khúc văn Tư.
Anh Tư không nhìn ai, mặt hơi cúi xuống, chân trái co lên, khuỷu tay chống vào đầu gối, bàn tay tì trên trán, còn tay phải vê cậng chiếu rách. Anh bắt đầu kể, giọng thì thầm, cặp mắt rưng rưng lệ:
– Quê tôi ở Hải dương. Tôi lấy vợ năm hai mươi tuổi. Vợ tôi – cô Lê mười tám. Lê đẹp có tiếng cả vùng. Chẳng những thế, cô ấy dịu dàng, thông minh hoạt bát, được học hành cũng khá. Cả họ hàng, ai cũng mừng cho hạnh phúc của tôi. Riêng tôi, Lê còn là niềm kiêu hãnh vì biết bao chàng trai hơn mình theo đuổi cô ấy đến chồn chân, mỏi gối. Người ta bảo, tôi có số đào hoa, có cải mỏ hót hay nhưng đâu phải thế, như các bác, các anh đều biết, tôi chỉ là đứa quê mùa, vụng về và luộm thuộm. Thế mà…
Chúng tôi đều tham gia cách mạng, ngày cưới có cả cán bộ huyện về mừng, ông ta tuyên bố kết nạp cả hai vợ chồng tôi vào đảng. Quê tôi năm ấy – 1951, trong vùng tạm chiếm. Chúng tôi chung sống với nhau được một tuần thì Lê phải nhận một nhiệm vụ đặc biệt: xa chồng, xa hàng xóm, giả danh là người đi buôn bán đến đồn địch quyến rũ tên đồn trưởng để làm nội ứng. Ba tháng sau, tôi được tin bước đầu Lê đã thành công, là nhân tình của hắn. Tin đó làm tôi đau như dao cắt vì vợ mình đã biến thành trò chơi của kẻ khác, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, ngoài mặt tôi phải giữ thái độ bình thường. Đồng thời, tôi được giao nhiệm vụ, đóng vai trò là anh họ, đến gặp Lê để thu lượm tình hình. Mới qua một thời gian ngắn, Lê đã thay đổi rất nhiều. Có lẽ vì ăn trắng mặc trơn, lại được tô điểm qua son phấn, em lộng lẫy như một nàng tiên.
Khi tôi gặp Lê, có cả tên đồn trưởng. Cô ấy đóng vai người em họ thành đạt tuyệt vời. Vì lời xưng em và gọi anh của Lê với hắn đầy vẻ mặn nồng, âu yếm, còn với tôi có vẻ thờ ơ nhạt nhẽo. Cặp mắt Lê mỗi khi nhìn hắn như trào ra rào rạt sóng ái ân, còn với tôi, thường tình như người quen biết. Nụ cười của em mới cay độc làm sao! Nụ cười tươi mát đẹp như ánh trăng rằm em chỉ dành riêng cho hắn, còn với tôi thì gượng gạo như cánh hoa tàn héo dưới ánh nắng chiều. Lúc đó, tôi tự hỏi, em đóng kịch tuyệt vời hay đây là sự thật đắng cay?
Hắn yêu Lê nên trọng đãi tôi như khách quý. Rất tiếc buổi chiều hôm ấy, hắn luôn bám sát, không có một cơ hội nào để tôi gặp riêng Lê, tôi đành ở lại đêm tại nhà riêng của hắn cách đồn khoảng ba trăm mét, tất nhiên có cả Lê. Tôi nghỉ ở nhà ngoài, còn hắn và Lê ở buồng riêng. Đêm đó tôi không sao ngủ được, tưởng tượng những gì đang diễn ra giữa vợ tôi và kẻ thù.
Đã khuya, cái buồng kia vẫn sáng, tôi tò mò tìm đến khe hở của bức ngăn gian bằng gỗ nhìn vào. Rõ như thanh thiên bạch nhật, Lê trần truồng làm tình với thằng đồn trưởng.
Nếu vì nhiệm vụ cách mạng, cô ấy phải thụ động cam chịu, tôi cũng đành nhắm mắt bỏ qua nhưng pha làm tình ấy không diễn ra như thế. Hình như lúc đó, Lê đã quên tất cả, quên mất đảng, quên mất chồng để con quỷ trong lòng cô ấy tự do hành động. Lê nằm sấp đè lên hắn, hai tay ghì chặt lấy cổ, lấy lưng, hai chân dạng ra thẳng đuỗn. Cặp mắt em đê mê nhìn vào mặt hắn để tận hưởng những giây phút khoái lạc tột cùng của tình dục.
Không thể chịu nổi nữa, tôi đạp tung cánh cửa nhảy vào, ngay tức khắc kề sát súng ngắn bắn vào thái dương thằng đồn trưởng. Lê loạng choạng lăn xuống giường nằm ngửa. Không một lời hỏi tội, tôi bóp cò liên tiếp tặng cho em bốn viên kẹo đồng vào ngực. Trong phút giây ấy, trước mặt tôi chỉ có một kẻ thù – kẻ thù ghê tởm là Lê. Còn tên đồn trưởng, buộc tôi phải bắn, xét ra trong hành động này, hắn chẳng có tội tình gì. Một con đàn bà đẹp tự dâng thể xác mình thì có mấy thằng đàn ông từ chối? Sự việc xẩy ra, tôi tính sao đây? Về quê ư? Không ổn, sẽ bị kết tội phá hoại nhiệm vụ bí mật của đảng, giết vợ, giết đồng chí của mình. Nghĩ thế, sau khi tẩu thoát khỏi vòng nguy hiểm, tôi trốn lên Cao bằng làm thuê sinh sống.
Năm 1959, tôi trở về quê hương, công an huyện bắt tôi tra hỏi. Một mực tôi khai rằng, vì lòng căm thù kẻ địch bốc cao, tôi bắn tên đồn trưởng, không may lạc đạn vào Lê. Vì sợ tội, tôi phải bỏ đi nơi khác. Cũng may, chẳng có ai biết rõ sự việc này nên họ chỉ giam tôi sáu tháng. Năm 1962, tôi lên đường vào trại vì tội tình nghi trong cái quá khứ đáng nguyền rủa ấy.
Những ngày đầu tha hương, sống trên đất khách quê người, tôi thấy rõ sự sai lầm và xám hối. Nếu cách mạng là tốt đẹp, tôi có thể hy sinh đời mình chứ không thể hiến dâng vợ để làm kế mỹ nhân. Chắc chắn không phải riêng tôi mà còn nhiều người nữa cũng hiến dâng cách ấy. Dù họ có đủ nhẫn nại để chịu đựng thì rốt cuộc cách mạng đã mang lại cho họ những gì vinh quang để bù đắp nỗi nhục ê chề ấy? Hay chỉ là vật hy sinh để xây dựng và bảo vệ ngai vàng của tên bạo chúa? Mất cuộc đời có khi còn giành lại được vinh quang, còn nỗi nhơ nhuốc… thì không bao giờ, không còn cách nào rửa sạch. Tôi tự hỏi, tại sao khi ấy tôi lại đồng ý…? Lẽ ra phải tìm cách ngăn chặn vợ mình. Nếu Lê vì nhiệm vụ của đảng mà không nghe, tôi li dị dù có bị đoạ đầy, tù tội. Phải chăng vì sự cuồng tín đã làm tôi không còn lý trí, cái lòng tin tuyệt đối đã dẫn tôi đến tới xứ mù? Đến khi bừng tỉnh thì ôi thôi… đã kết thúc để mở màn cho tấn bi kịch của cuộc đời mình.
Người thứ ba, bác Hoàng kim Đa, quê ở Thái Nguyên. Bác Đa tham gia cách mạng bốn năm. Năm 1953 bác mắc bệnh đau dạ dày xin phục viên về quê làm ruộng. Sau này vì bất mãn với cuộc sống khó khăn trong hợp tác xã nông nghiệp, bác nói:
– Vì lý tưởng độc lập, tự do, người Việt nam không quản ngại hy sinh, gian khổ, không tiếc máu xương chống thực dân Pháp để có cuộc sống cơ cực ngày nay. Từ câu nói đó, bác phải đi cải tạo từ năm 1963. Tạo hoá dành cho bác cặp mắt bất nhân, hung hãn. Bác kể lại, giọng thâm trầm, vẻ buồn phảng phất trên nét mặt.
Tôi vào du kích năm mười tám tuổi. Cùng năm ấy, 1949, nơi ông Hoàng quốc Việt ở, có một lão say rượu nói câu: “đánh thế nào được Pháp”. Ông Việt biết chuyện, ra lệnh đưa lão đi bắn bỏ. Tôi và đồng đội nữa thi hành bản án vào buổi tối. Trói tội phạm vào cành cây ngả trên dòng sông Lô, mỗi đứa bắn ba phát đạn súng kíp, sau đó lấy đèn pin soi, thấy đầu lão gục xuống, mắt nhắm lại, mồm há hốc máu chảy ra xối xả. Yên tâm tội phạm đã lìa đời, chúng tôi cắt dây trói, thả xác trôi sông.
Lần đầu giết người, hai đứa xúc cảm mạnh, ngồi bên bờ sông nói chuyện:
– Lệnh của ông Việt ngặt quá. Theo ý tao, chỉ cần giam lão một tuần là hết vía. Nếu lệnh này được thi hành toàn quốc, phải có nhiều thằng nát rượu nói càn bỏ mạng.
Người đồng đội tôi phản đối:
– Sát nhất nhân vạn nhân cụ, nếu không răn đe kẻ khác thì cách mạng thành công sao được? Để nhanh chóng thu được thắng lợi cuối cùng, có lẽ đảng chủ trương dùng biện pháp cường đạo.
– Lão ấy gần nhà tao, tao biết lão hiền lành, có nát rượu bao giờ đâu? Có lẽ do định mệnh đã đến ngày…
Tôi đang nói dở thì nghe thấy tiếng chửi tục bên kia sông vọng lại:
– Đ… mẹ chúng mày! Tao chưa chết đâu, chúng mày nhớ nhé!
Chúng tôi giật mình hoảng hốt bàn nhau:
– Chắc lão không dám về, cứ báo cáo lên cấp trên thi hành bản án xong rồi.
Quả là may mắn, lão bỏ đi đâu mất tích, chúng tôi mới được bình an, vô sự. Mãi đến năm 1957, lão mới về quê. Lúc đó xét thấy tội của lão không đáng chết nên đến năm 1961, lão phải đi tập trung cải tạo. Còn tôi vì chuyện đó mà tăng thêm tội.
Năm 1951, cũng tại chiến khu Việt bắc, lực lượng an ninh bắt được bốn học sinh từ thị xã Vĩnh yên đến bị tình nghi là gián điệp. Khảo tra mãi, chúng đều khai là rủ nhau đi du lịch. Quyết định của cấp trên, chúng phải chết bằng những cực hình: cắt gân gót chân, róc thịt chân từ đầu gối xuống. Đêm đó, tôi từ nơi khác đến nhận nhiệm vụ thi hành bản án. Ba giờ sáng, chúng tôi bịt mắt, nhét dẻ vào mồm, trói tay đưa xuống vực, trói cả chân lại để hành hình. Đứa chết sớm nhất lúc tám giờ sáng, đứa sống dai dẳng nhất đến hai giờ chiều vẫn chưa tắt thở, thằng này tôi xử trí. Tôi tò mò giật mảnh vải bịt mắt ra xem mặt làm tôi giật mình hốt hoảng nhận ra, thằng Dũng, đứa con trai duy nhất của cô tôi.
Sau mấy giây, nó mở mắt, còn nhận ra tôi, sau khi tôi kéo dẻ ở mồm nó ra, nó thì thào:
– Em có tội gì mà anh lại…
Nó ú ớ rồi tắt thở. Cô tôi lấy chồng ở thị xã Vĩnh yên, chỉ được một thằng Dũng thì chú rể tôi ốm chết. Năm ấy, cô tôi mới hai mươi hai tuổi. bị ràng buộc nặng nề của lễ giáo phong kiến: phu tử tòng tử, mảnh đời xuân của cô tôi không dành cho ai nữa.

Tết năm ấy, cô tôi đưa con v
ề thăm ông bà ngoại. Dũng kém tôi hai tuổi. Mấy ngày tết, hai anh em cứ quấn quít bên nhau như một cặp tình nhân. Dũng còn nói:
– Năm nay thế nào em cũng đến thăm ông bà, các bác và gặp anh lần nữa.
Nào ngờ đâu, chúng tôi lại gặp nhau trong tình cảnh thê thảm, éo le này. Sự kiện bi thảm ấy, tôi đành giấu kín trong lòng hơn hai chục năm qua. Tôi lên án mình đã phạm tội giết người, tôi thương thằng Dũng quá, lại càng thương cô tôi sống héo mòn trong cảnh cô đơn sầu thảm vì sự mất tích của đứa con độc nhất.
Cái chết của đứa em họ tôi – một thanh niên trong trắng ở độ tuổi trưởng thành – là thành tích lớn nhất trong mấy năm tôi chiến đấu dưới “lá cờ vinh quang của đảng”.
Người thứ tư – Bác Hồ đức Mậu. Bác tham gia Việt minh năm hai mươi tuổi. Năm 1954 ra Bắc tập kết, năm 1955 là đội trưởng đội cải cách ruộng đất. Bác mang theo hai kí vàng bị lộ, phải nộp vào kho nhà nước. Xuất thân từ một gia đình giàu có ở thành phố Huế, quen sống phong lưu, tiền lương không đủ tiêu xài, bác bất mãn với chế độ nên phải đi tập trung cải tạo từ năm 1961. Bác có cặp mắt lươn gian giảo – dấu ấn của quá vãng nhiều tội ác. Bác kể lại chuyện đời, lời kể của bác nhỏ dần, có đoạn nghẹn ngào, nức nở:
– Tôi là con trong một gia đình của một dòng họ có tiếng tăm ở thành phố Huế. Ngày xưa thân phụ tôi có một ông bạn rất thân, đi học và quan hệ mật thiết với nhau từ thuở nhỏ. Khi hai ông trưởng thành xây dựng gia đình đã hẹn ước: đứa con đầu lòng một bên là trai, một bên là gái sẽ gả bán cho nhau. Tôi chào đời trước Hương, con ông bạn thân phụ tôi một tuổi. Hai đứa chơi với nhau từ thuở ấu thơ. Đến tuổi trưởng thành, hai đứa thương nhau lắm, vào nhà hát, rạp chiếu bóng cũng như đi du lịch chẳng mấy khi lẻ loi, đơn chiếc.
Năm 1948, theo tiếng gọi của cách mạng, tôi lên đường nhập ngũ, là biệt động. Hương tiễn chân tôi và nói:
– Em thương anh và mãi mãi đợi chờ!
Hai năm sau, tại căn cứ địa, đồng đội chúng tôi bắt được hai người tình nghi là gián điệp. Qua khe hở cửa buồng giam nhìn vào, thôi chết rồi, đó là hai bố con Hương. Tôi đau lòng quá muốn gặp cấp trên để thanh minh cho những thân nhân, khốn nỗi, tôi chỉ là thằng lính quèn…có khi bị kết tội là đồng bọn.
Bị tra hỏi nhiều lần, kể cả bức cung, đánh đập, một mực hai người chỉ khai về thăm quê, không có liên quan gì với địch. Sau đó, tôi được lệnh cho bố Hương đi ò trước mặt con gái, tôi trốn tránh nhiệm vụ kinh khủng này với lý do bị đau đầu. Người đồng đội tôi kể lại, đào một hố đủ người ngồi đến cổ, đặt bố Hương xuống đó và đất lèn xung quanh. Hương phải chứng kiến cuộc hành hình từ đầu đến khi bố mình tắt thở, em cũng ngất đi vì đau thương, hoảng sợ. Hôm sau, cấp trên lại giao nhiệm vụ cho tôi phải thi hành bản án với Hương. Tôi từ chối lần này không được, hình như họ khả nghi tôi có quan hệ với em. Người chỉ huy nói:
– Đồng chí phải hoàn thành nhiệm vụ đảng giao, nếu thương xót kẻ thù là có tội.
Sau hai năm xa cách, nay được gặp lại, tưởng tôi là cứu cánh, em ôm lấy tôi khóc nức nở. Dưới ánh trăng mờ, tôi nhìn em đẹp hơn xưa, ngực em nở căng phồng, cổ cao, khuôn mặt trái xoan, cặp mắt bồ câu hiền dịu. Trên đường tôi dẫn em về, em chỉ khóc thương bố chết thảm thê. Em không biết rằng, tôi sắp trở thành đao phủ kết liễu đời em.
Còn tôi, đầu óc quay cuồng như thằng loạn trí? Tha cho em ư? Không thể được, phải thế mạng đã đành, tôi còn mang tiếng là tên phản đảng, phản quốc. Nếu chỉ việc chết thay cho em, tôi đủ can trường. Bởi vì ngã xuống để bảo vệ người thương âu cũng là một tiếng thơm, nhưng lại mang tiếng phản đảng, phản quốc thì không thể và không bao giờ… Tôi đã vậy, cả họ Hồ tôi cũng nhục với bàn dân thiên hạ. Giết em ư? Thật khủng khiếp, tuy nhiên nếu đảng biết, tôi lại được ca ngợi là lập trường kiên định với kẻ thù. Thế là tôi quyết định.
Gần đến nhà, Hương khóc oà lên và nói:
– Anh thương ơi, em tạm biệt anh, em mãi mãi…!
Nhanh như cắt, tay trái tôi bịt mồm em và tay phải đặt một nhát dao găm vào trái tim ngây thơ đang rung cảm của em, dán lên lưng áo em bản án tử hình.
Trên đường về căn cứ địa, tôi gặp người quân báo đi ngược chiều, anh ta hớt hải hỏi:
– Xong rồi à?
– Phải, có việc gì?
– Chậm mất rồi, có lệnh trên tha bổng cho cô gái, vì hai bố con cô ấy chẳng có tội gì.
Nghe xong, tôi vật xuống đường ngất lịm. Người chỉ huy biết chuyện khuyên tôi:
– Chúng ta làm cách mạng vì tổ quốc, vì dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của triệu người, tất nhiên không tránh khỏi sai sót, nhầm lẫn. Thà giết nhầm một trăm người còn hơn bỏ sót một tên địch. Đồng chí nên vì lý tưởng cách mạng mà sớm qưên đi những mất mát riêng tư.
Mấy tháng sau, tôi nhận được thư của mẹ:
Huế ngày 23 –12 – 1950.
Mậu con, má báo tin cho con biết, ba má và toàn gia vẫn bình thường, mạnh khoẻ, riêng cậu con đi đâu mất tích hơn một tháng nay. Má rất đau buồn vì cậu – đứa em trai duy nhất của má. Con hãy thương má, hết lòng, hết sức tìm kiếm tin tức cậu. Chúc con may mắn, thực hiện được ước mong của má.

Gần một năm, tôi đi khắp nơi để dò la, tìm kiếm nhưng cậu tôi vẫn biền biệt tăm hơi. Cậu là một trí thức, quan hệ rộng, có thể bị cách mạng nghi ngờ mà bắt. Sau đó, tôi có
lệnh chuyển công tác đến một trại giam trong rừng. Tôi đi bộ đường rừng đến nơi thì trời đã tối. Hôm sau, trời chưa sáng rõ, trại giam nhận được lệnh: “địch đã bao vây, phải tiêu diệt khẩn những tên tội phạm”. Tiểu đội tôi phải đi phục kích đề phòng địch đến. Còn lại, đưa gần một trăm tội phạm trói lại thành một xâu dài. Đầu xâu tội phạm, ông chánh giám thị, cuối xâu ông phó dùng mã tấu thi hành nhiệm vụ. Khi hoàn thành lệnh của cấp trên, hai ông mệt quá nằm lăn ra bãi cỏ, thân thể và quần áo đỏ lòm như vừa bơi và lặn qua sông máu.
Lúc rút chạy, tôi đi lướt qua xác những nạn nhân, Trời đất hỡi, tôi giật mình suýt ngã khi chợt nhận ra cậu tôi trong số đó. Cậu chưa chết hẳn, một nhát mã tấu chém vào cổ cậu, máu còn đang chảy. Cậu đưa mắt nhìn tôi, mồm mấp máy như muốn nói điều gì? Tôi vội vã bước qua không dám nhìn cậu thêm lần nữa.
Hơn hai mươi năm qua, tôi đành giấu kín, không dám nói với má và những người thân cái chết thảm thương của cậu mình. Ra miền Bắc, tôi làm đội trưởng cải cách – một con thú khát máu trong số hàng vạn con thú khát máu khác mà các bác, các anh ở đây đều biết. Nếu tôi không mắc sai lầm vì lợi ích riêng tư, bất mãn với chế độ, tôi vẫn là đứa con ưu tú của thời đại – một kẻ mặt người dạ thú, biết lừa bịp, biết vu oan, giá hoạ, biết ngậm máu phun người và là tên đồ tể lành nghề, bậc nhất. Ở đây, nhiều người bị tù oan ức, riêng tôi là rất đúng. Tôi có tội nợ máu với đồng bào, trong số đó có thân nhân của mình. Chính xác hơn, tôi là một nạn nhân của sự lừa bịp và mê hoặc đã biến thành một tên đao phủ mất hết tính người, một con thú dữ. Nếu có Thượng đế, đức Phật và thần thánh, mười hai năm qua, tôi đã xám hối và cầu xin các ngài tha thứ cho một nạn nhân đáng nguyền rủa này.
Người thứ năm – anh Nguyễn văn Thắng ở Tế tiêu – Hà đông. Thắng đi bộ đội từ năm mười tám tuổi, vào Nam chiến đấu năm 1965. Năm 1970, bị địch bao vây, Thắng xuống hầm bí mật nhưng bị phát hiện. Quân đội miền Nam gọi Thắng lên hàng nhưng anh cố thủ. Sau đó họ ném lựu đạn cay và bắt sống Thắng. Thắng bị giam sáu tháng rồi được trả lại vũ khí, quân phục, giấy tờ và đưa về nơi đóng quân cũ tha. Quân đội Cộng sản nghi ngờ Thắng và bắt anh đưa vào trại cải tạo.
Thắng nói:
– Để góp chuyện với các bác, các anh, trong thời gian còn là bộ đội chiến đấu, cháu đã làm và cũng chứng kiến vài sự kiện đáng ghi nhớ trong đời, xin kể lại:
Cháu đóng quân ở Tây ninh, một hôm bắt được một người đàn bà khoảng bốn mươi tuổi, nghi là gián điệp. Theo lời khai của mụ, chồng tôi mất sớm để lại năm con dại, tôi phải buôn bán khắp nơi để nuôi các cháu. Nhiều lần quân giải phóng doạ dẫm, nếu không khai sự thật làm gián điệp sẽ bị trừng trị đích đáng, nhưng mụ một mực khai như vậy. Cấp trên giao cho cháu và hai lính nữa thi hành bản án. Đào một hố sâu như hố quan tài, một đồng đội của cháu quát:
– Không khai thật thì xuống kia.
Có lẽ tưởng là doạ, mụ nói:
– Các anh muốn giết tôi và cả năm đứa trẻ thì cứ việc.
Nói xong, mụ nhảy xuống hố. Một đồng đội vật mụ ngã xuống rồi cùng lấp đất.
Một cuộc tấn công vào đồn địch. Lực lượng địch yếu hơn phải rút chạy. Quân giải phóng truy kích và bắt được gần hai chục người đàn bà, bao gồm là vợ, nhân tình của binh lính Sài gòn. Trên đường dẫn giải bọn này, có một đứa con gái nét mặt dịu dàng, dễ thương, vừa đi, vừa khóc van xin:
– Các anh ơi, lần đầu em trót dại, xin các anh tha.
– Mày ở đây làm gì? – Cháu hỏi.
– Vì nhớ người thương nên ngày hôm qua em mới đến đây.
– Người thương mày cấp bậc gì?
– Anh ấy mới bị động viên mấy tháng thôi.
Nghe nói cháu cũng thương con bé nhưng bắt thì được chứ tha thì phải có lệnh của cấp trên. Đến trưa hôm ấy, cả bọn đói, xin ăn, đồng thời ông đại đội phó nhận được lệnh của sư đoàn, ông ta nói:
– Chúng mày phải xuống hầm mới được ăn, không được ngồi chung với quân giải phóng.
Cả bọn ngoan ngoãn phục tùng, ông đại đội phó cho một món ăn đặc biệt: hai quả lựu US rồi ông ra lệnh lấp cửa hầm.
Một hôm nhận được lệnh, một tiểu đoàn quân giải phóng cải trang quân ngụy Sài gòn vào một làng giáo dân chống Cộng thực hiện tam quang: đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Cháu và một đồng đội vào một gia đình, bắn chết hai vợ chồng và đốt nhà. Còn đứa con gái khoảng lên năm, lên sáu, sợ quá nằm úp mặt xuống đất, không dám khóc hoặc van xin. Chúng cháu định bỏ đi thì ông trung đội phó đến, ông đá vào con bé, thấy nó kêu: cháu lạy ông, ông quát:
– Các đồng chí còn thương xót kẻ thù à? Tại sao không xử trí con bé này đi?
Người đồng đội cháu định bắn thì ông ra lệnh:
– Phí đạn, quẳng nó vào đống lửa.
Chúng cháu, đứa cầm tay, đứa cầm chân con bé ném vào nhà đang cháy. Con bé hét thất thanh mấy giây rồi mới giãy giụa chết.
Người thứ sáu – bác Bùi phúc Khu.

Trước cách mạng tháng tám, thân phụ tôi là công chức tại thành phố Nam định, sau đó về quê ở huyện Hải hậu làm ruộng. Năm 1948, người lên thành phố chơi với bạn bè thuở trước nhưng không thấy người về nữa. Thân mẫu tôi cho rằng, họ đã cho bố tôi tắm mát ở sông Hồng. Thân mẫu tôi đưa tôi lên thành phố Nam định bu
ôn bán làm ăn, họ và tên tôi cũng được thay đổi. Năm 1950, tôi bị động viên vào lính. Năm 1951, trên một chiếc xe con bảo vệ quận trưởng có năm người lính. Bất ngờ bị Việt minh phục kích tấn công, chúng tôi xin hàng. Cả sáu người đều bị bắt, ngày nghỉ nhà dân, đêm đi, nơi đến là trại Kỳ sơn, Nghệ tĩnh. Đến được trại chỉ còn lại hai người, bốn người đã bị đâm chết trên đường vì chậm không theo kịp.
Trong phòng giam người nào cũng xanh xao gầy yếu, ghẻ lở, chấy rận bám đầy đầu và quần áo, chân bị cùm, nằm chật như nêm lại. Hai ngày đầu, tôi không thể nào ngủ được vì nóng, chấy rận tấn công, mặt khác lại lo buồn cuộc sống nghiệt ngã ở nơi đây, không còn hy vọng ngày về. Thật may mắn, tôi mang theo hai lạng cao hổ cốt, khi nhập trại cai ngục giữ lại. Ông giám thị có bố đang ốm nặng, hỏi tôi mua lại hai lạng cao này nhưng tôi đã biếu ông ta để hy vọng một đặc ân nào đó. Nhờ vậy, tôi được làm nhà bếp. Hàng ngày tôi thấy những cái chết rất lạ lùng, chết dễ như chơi. Chẳng hạn, một bữa có mấy miếng thịt trâu cũng làm vài người bỏ mạng. Có gì đâu, thịt trâu dai, răng yếu không nhai được, lại vừa đói, vừa thèm nên nuốt cố bị tắc thở.
Khu biệt lập, hầu hết bị xiềng chân, tôi không được vào. Cứ vài ba ngày, số tù lại bớt dần đi. Tôi hỏi cán bộ phụ trách nhà bếp thì được trả lời, ban đêm chuyển đi nơi khác. Buổi tối hàng ngày, tôi phải đi lấy thịt lợn cho cai ngục cách xa trại khoảng ba cây số. Một hôm, trên đường về đột nhiên tôi nhìn thấy trên quả đồi xa xa loé sáng và tiếng đạn nổ hàng tràng. Tôi tự trả lời, họ chuyển tù đi nơi khác bằng cách này đây. Từ đó, tôi lưu ý thấy nhiều lần nữa. Sau một thời gian, hiện tượng trên chấm dứt nhưng tù trong trại theo con số của nhà bếp vẫn bớt dần. Một buổi tối khác, bầu trời mây đen bao phủ dưới ánh trăng mờ. Tôi đến nơi lấy thịt thì nhà chủ làm chưa xong. Ông chủ nhà bảo tôi ra cây sung gần đó hái quả.
Tôi đến gốc cây, định trèo lên thì một bàn tay lạnh buốt nắm chân tôi lại. Thần kinh tôi tốt nhưng cũng phải rùng mình. Tôi cúi xuống nhìn thấy một người già, má hóp lại, râu ria lồm xồm, quần áo rách tả tơi, hai chân bị xiềng. Nạn nhân thì thào:
– Bác ơi, cứu tôi với!
– Tại sao bác ở đây? –Tôi hỏi.
– Họ chốn sống tôi, tôi hất đất ra được và bò đến đây.
– Từ bao giờ?
– Từ đêm hôm qua. Tôi đói lắm, xin bác bát cháo.
– Bác yên tâm nằm đây nhé – Nói xong, tôi quay về nhà chủ nói giả vờ:
– Sung ngon quá. Tôi đang nóng ruột, muốn ăn bát cháo, nhà có không?
– Chỉ còn cơm nguội thôi – Ông chủ trả lời.
Tôi lấy cơm nguội dùng chày giã cua nghiền ra và lấy nước đang luộc lòng lợn đổ vào khoắng lên thành cháo mang ra gốc cây sung cho nạn nhân ăn. Xúc cho nạn nhân ăn hai thìa, mồ hôi nạn nhân toát ra, mồm thì thào:
– Ngon quá, tôi cảm ơn bác.
– Quê bác ở đâu?
– Quê ở Hải hậu.
– Họ và tên bác là gì? – Tôi sửng sốt hỏi.
– Bùi phúc Đà… ạt…
Trời ơi đây là bố tôi, người định nói gì nữa thì tắt thở. Tôi thoáng nghĩ, biết làm sao bây giờ? Nếu tôi nhận bố mình, chắc chắn họ thủ tiêu tôi. Tôi liền quỳ xuống lạy người ba lạy và nói:
– Bố tha tội bất hiếu cho con.
Tôi định tháo xiềng cho người, nhưng họ tán chặt quá, muốn tháo phải có đe búa lò rèn. Tôi nắn đầu người lại cho ngay ngắn, vuốt mắt cho người nhắm lại rồi ra về. Tối hôm sau, tôi đến thì nhà chủ hỏi:
– Tối hôm qua, bác ra gốc sung có thấy gì không?
– Không có gì đâu? – Tôi ra vẻ ngạc nhiên trả lời.
– Đêm qua, một thằng tù nguy hiểm, chân bị xiềng, trốn đến đó bị chết, tôi báo ngay chính quyền địa phương. Sáng nay, họ cho lập biên bản báo trại giam rồi cho chôn nó ngay ở đấy, không có quan tài.
Sau ngày ấy, mỗi buổi tôi đi lấy thịt lợn cho cơ quan, tôi lại ra ngồi gốc sung khấn bố tôi nhưng chẳng lần nào có hương hoa. Đến nay đã hai mươi hai năm người vẫn yên nghỉ tại miền rừng núi đẫm máu ấy.
Năm 1954, sau ngày hoà bình lập lại, tôi được tha đợt đầu gồm sáu mươi tư người. Lúc công bố lệnh, có bốn người gầy yếu, chỉ còn một nắm xương, mừng quá chết ngay.
Còn lại sáu mươi người ra đến bến ô tô dài khoảng năm cây số, chết thêm mười hai người nữa, thành ra đi từ tám giờ sáng đến tối mới tới nơi. Trên đường đi, người còn khỏe bảo nhau mượn mai, cuốc chôn cất những người xấu số, tất nhiên cũng chẳng có quan tài…
Đến lúc đó, tiếng gà rừng và gà nhà gần xa thi nhau gáy đón chào ánh lê minh. Bác Khu nói tiếp:
– Mọi người chúng ta, ai cũng chịu nỗi gian truân hoặc chịu hoặc thấy cảnh đau thương của người khác. Thật là muôn hình, muôn vẻ, nếu ai cũng tường thuật lại những kỷ niệm sâu sắc đáng ghi nhớ trong đời mình phải bao nhiêu ngày tháng mới hết? Nhiều năm qua, tôi tự hỏi, thời đại này giống như thời đại nào trong lịch sử? Và tự trả lời, Tần thủy Hoàng, Neron thời cổ cũng như Staline, Hitler, Mao Trạch Đông là những tên đệ nhất về tàn bạo. Còn thời đại chúng ta đang sống chẳng những thế mà còn đểu cáng đệ nhất, bịp bợm phỉnh phờ đệ nhất, đổi trắng thay đen đệ nhất. Quả thực là thời đại có một không hai – thời đại Hồ chí Minh.
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 19
HỒI BA – Nhà tù
III Trại cải tạo Vĩnh quang (3)
Lý thuyết đấu tranh giai cấp là xương sống của chế độ Cộng sản, nó không bao giờ từ bỏ. Còn thực thi thứ lý thuyết kích thích thú tính ấy thì làm gì có hoà giải hoà hợp dân tộc thực sự. Thế mà sau hiệp định Paris hàng ngày báo chí và đài phát thanh tuôn ra không ngớt những luận điệu giả nhân, giả nghĩa:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Tình cốt nhục nghĩa đồng bào là trọng, môi hở răng lạnh, máu chảy ruột mềm vv… và vv…
Tôi cười ra nước mắt thương xót đồng bào miền Nam, nhất là hàng ngũ sĩ quan, binh lính Việt nam cộng hoà, họ vẫn nghe, vẫn tin tiếng nói của loài quỷ đỏ. Khi nào họ biết thì đã muộn cũng như hàng triệu người miền Bắc xưa kia khi thấy chúng hiện hình là loài yêu quái đã nằm gọn trong nanh vuốt của chúng. Đường Tăng mắc lừa yêu quái, có Tôn ngộ Không giải thoát, còn người miền Nam mắc lừa Cộng sản thì biết trông cậy vào ai nếu Hoa kỳ bỏ cuộc.
Tất nhiên lịch sử sẽ thay đổi nhưng vài ba thập kỷ đối với lịch sử là ngắn ngủi, còn đối với một đời người thì dài lắm. Đến lúc đó, nếu chúng tôi đã gục ngã gần hết, người còn lại cùng con cháu mình phải mang sổ ra thanh toán cho công bằng, cho sòng phẳng theo đúng luật đời: kẻ chơi gươm phải chết vì gươm. Tuy nhiên, tôi cũng ý thức được rằng, lấy máu để rửa máu sẽ không bao giờ sạch, sẽ không bao giờ hết mùi tanh hôi, sẽ hoá thành phân bón cho mầm oán hờn nảy sinh và phát triển.
Cuối mùa hè năm ấy, ông đại tá Lê hữu Qua, cục trưởng quản lý nhà giam đến trại. Nhờ sự có mặt của ông, mỗi thằng tù được mấy miếng thịt trâu. Trước ngày ông đến, bọn cai ngục tấp nập chuẩn bị để đón tiếp vị thủ trưởng của mình: Dọn vệ sinh đường sá phong quang, sạch đẹp, nhà cửa gọn gàng. Một con dê béo nhất đàn được mổ để làm món tái thui, mấy con lợn nặng hàng tạ được làm thịt để giã giò. Chim, gà và các loại gia cầm khác được làm lông không biết bao nhiêu? Ông đến trại có một ngày, từ chiều hôm trước đến trưa hôm sau. Ông đến vì mục đích bí mật gì không ai biết, nhưng bọn cai ngục chuyển lên xe ông đầy ắp thực phẩm, nông sản và lâm sản: bê thui một đùi, giò lụa vài ba chục ký, gà sống thiến vài ba chục con, trứng gà vài sọt hàng nghìn quả, đậu xanh hàng tạ, chè hảo hạng vài yến… Người ta bảo mấy chục ông cục trưởng cục công an thì ông cục trưởng cục quản lý nhà giam có nhiều đặc quyền, đặc lợi nhất cũng không ngoa, ông nắm trong tay tính mạng của hàng chục vạn tù. Ông đến trại để thu chiến lợi phẩm từ một cuộc chiến kéo dài hết năm này qua năm khác nhằm vắt kiệt sức những thằng tù, đồng thời đập tan ý thức phản cách mạng của chúng. Một xe hàng chiến lợi phẩm của ông là kết tinh của hàng trăm xe chứa mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu, thịt, xương của những thằng tù.
Giữa mùa thu, ông giám thị thiếu tá Nguyễn văn Chuân tập họp tù, nói chuyện vào ngày chủ nhật.
– Có anh hỏi chúng tôi, tại sao đài và báo chí đảng kêu gọi hoà giải, hoà hợp dân tộc mà tù không được tha hết. Tôi xin trả lời, đó là sách lược tuyên truyền của đảng đối với kẻ thù đang cầm vũ khí. Lập trường của cách mạng, không bao giờ người Cộng sản ngồi chung bàn tiệc, bàn trà với kẻ thù. Nếu bọn ngụy miền Nam có hạ vũ khí, cảnh cửa trại tập trung mở rộng để đón chúng. Còn các anh, nếu cải tạo tốt sẽ được tha với điều kiện có lợi cho cách mạng. Tôi nói thẳng, chúng tôi không hoà giải, hoà hợp với các anh.
Gần đây, tôi được nghe báo cáo, một phạm nào đó đã nói, nếu Việt nam có sự kiện như Chi lê sẽ gấp một trăm lần Chi lê. Anh ấy nói đúng, có thể gấp một nghìn lần cũng nên. Chúng tôi biết, đảng càng biết rõ hơn, nhưng cách mạng luôn cảnh giác, sự kiện đó không bao giờ có thể xẩy ra. Các anh nên biết, nếu có biến loạn cũng như trước đây nếu địch Bắc tiến cách trại một trăm cây số, chúng tôi có quyền tiêu diệt các anh rồi.
Một vấn đề nữa cũng cần nhắc đến để các anh rõ. Vừa qua ông cục trưởng về thăm trại, một số anh báo cáo việc chúng tôi đối xử với các anh thiếu nhân đạo. Ở đây có một số anh học cao, chắc cũng hiểu định nghĩa: nhà nước là một công cụ của một giai cấp để thống trị các giai cấp khác. Đương nhiên nhà nước của giai cấp vô sản, của đảng Cộng sản phải thống trị, chuyên chính với kẻ thù của mình. Kẻ thù đó, trước mặt chúng tôi là các anh. Người Cộng sản chỉ sợ mất lập trường giai cấp khoan nhượng, thương xót kẻ thù. Ở trại giam để một tên phản cách mạng trốn thoát, chúng tôi có tội với đảng. Ngược lại, thẳng tay trừng trị các anh, chúng tôi chẳng hề gì. Như ở trại An Thịnh, một thời tôi là đại uý chánh giám thị, có hàng trăm tù bỏ mạng chúng tôi vẫn được đảng tin cậy. Người Cộng sản bảo vệ và bênh vực quyền lợi cho nhau là điều hoàn toàn đúng, không có gì sai với chủ trương của đảng. Quả thật là nhiều anh ở đây còn ngây thơ lắm.
Ông giám thị nói đúng. Những ai đó đã quá ngờ nghệch nên mới báo cáo cuộc sống đói khổ của trại giam với ông cục trưởng. Đã là loài hổ báo thì con nào chẳng biết ăn thịt người, càng to càng hung dữ.

* *

*

Năm 1974, báo chí đăng nhiều lần tin về sự tuyên bố tuyệt thực của bà Ngô bá Thành trong trại giam của chính quyền Sài gòn làm tôi nhớ lại năm 1972 ở trại giam này, có một trung sĩ biệt kích là Phạm ngọc Ẩm trong chiến đoàn Lôi hổ. Ẩm phạm kỷ luật, trước toàn trại, cai ngục ra lệnh cùm Ẩm hai tuần. Ẩm tuyên bố: “tôi sẽ tuyệt thực để phản đối”. Anh không biết rằng, một ngườ
i dân thường tuyên bố như anh cũng phải ngồi tù mọt gông, còn trong nhà giam của Cộng sản, nếu tuyệt thực phải tuyệt luôn cả nước uống. Có gan làm được điều đó để chết cũng là mong muốn của họ. Nếu là người miền Bắc có gia đình, chỉ cần một giấy báo tử đổ vạ cho bệnh tật là xong xuôi, ai biết đến? Thời gian đó, anh đức Ân cũng trong xà lim nói với Ẩm:
– Cậu còn khờ dại lắm, chưa hiểu gì tàn bạo của Cộng sản. Đang mùa hè, nếu cậu không đủ nghị lực chịu khát sẽ trở thành một trò cười, một nỗi nhục.
Hai ngày sau, Ẩm đầu hàng vô điều kiện. Tên thiếu úy Vọng, cán bộ giáo dục đến xà lim hỏi Ẩm:
– Mày có gan tiếp tục tuyệt thực nữa đi? Có phải mày bắt chước kiểu đấu tranh của cái gọi là thế giới tự do không? Nên nhớ là người Cộng sản không khoan nhượng bất cứ một hình thức đấu tranh nào. Đấu tranh hoặc phản đối chế độ là hành động tự sát.
Nếu bà Ngô bá Thành cũng ở trong trại giam Cộng sản mà tuyên bố tuyệt thực, không biết bà có gan chịu được mấy ngày?

* *

*
Sau khi tha một số, đến tháng tám năm ấy, phần lớn tù phản cách mạng chuyển lên trại Phong Quang. Tháng tư năm 1975, trại Vĩnh Quang chỉ còn lại mười một người, trong số đó có Lê Cần là đặc biệt. Cuộc đời Cần vừa bi vừa hài lẫn lộn, chẳng những thế, vừa đáng thương, vừa hèn hạ, bất nhân. Đầu năm 1955, sau khi đã đi Nam, Cần trở về Hà nội tìm người yêu không thấy, Cần trọ ở khách sạn Đồng lợi ăn chực nằm chờ máy bay vào Nam. Hắn có biết đâu kế hoãn của Cộng sản. Khi hết thời hạn đi lại giữa hai miền, Cần bị bắt vào Hoả lò với tội danh phản quốc. Có thể Cần chỉ là một hạ sĩ quan nhưng hắn lại khai là thiếu tá. Cần bị toà án xử phạt năm năm tù. Năm 1960, Cần bị chuyển sang tập trung cải tạo đến nay đã hai mươi năm tù. Cả thời gian dài dằng dặc ấy, với bản chất hèn hạ và bất nhân, Cần trung thành với bọn cai ngục, hành hạ, ức hiếp tù nhân. Đầu những năm của thập kỷ sáu mươi, tù sợ toán trưởng hơn sợ bọn cai ngục. Toán trưởng như ông vua của một toán tù. “Ông vua” bất nhân như Cần, muốn bịa đặt để hại ai cũng được, chỉ một câu vu oan “nói xấu chế độ” có thể bị cùm đến chết trong xà lim. Người có gia đình tiếp tế, của ngon, vật lạ phải biếu toán trưởng, hắn nhận cho là điều may, từ chối hãy coi chừng, cùm kẹp hoặc các nhục hình khác đến dễ như chơi. Đến nỗi, một giám thị còn chút lương tâm có lần phải thốt lên:
– Chúng tôi không ngờ rằng, trong cái nhà tù này lại có thêm một bộ máy kìm kẹp nữa là các anh toán trưởng.
Ở trại An Thịnh, có lúc tù đang chết đói, Cần làm toán trưởng nhà bếp, ngoài việc đối xử với đồng cảnh tàn nhẫn hơn cai ngục, hàng ngày hắn còn bớt gạo tiêu chuẩn của tù với cái gọi là tiết kiệm, rút ra hàng tấn gạo trả lại bọn cai ngục. Mười hai năm làm toán trưởng, Cần tiếp tay cho bọn cai ngục hành hạ, giết hại nhiều người. Cần đã khai thác mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của đồng cảnh để đổi lấy lời khen của bọn cai ngục. Khi nào Cần bi quan với cuộc đời tù tội, thèm khát tự do thì tức khắc hắn được ăn bánh vẽ. Có lần cai ngục tuyên bố tha Cần, sau đó gọi hắn lên văn phòng, cán bộ giáo dục giải thích như sau:
– Hiện nay, anh là người tự do, nhưng có khó khăn là anh không có gia đình ở miền Bắc, vậy tha anh về đâu? Anh hãy lưu lại trại một thời gian, vẫn làm toán trưởng nhưng phải tốt hơn. Chúng tôi sẽ liên hệ với bộ, đưa anh đến một nơi thuận lợi để anh sinh cơ lập nghiệp làm lại cuộc đời.
Cần hân hoan chờ đợi một năm, hai năm… đến gần một chục năm, hắn như quả chanh – quả chanh đắng vắt hết nước cho đồng cảnh uống – bị vất ra bãi rác, hắn mới tỉnh ngộ, quyết định tha hắn chỉ là một màn kịch.
Năm 1973, Cần bị mù. Là chó săn trung thành với chủ không còn tác dụng, hắn giả vờ xám hối tội lỗi trước Chúa. Do vậy, hắn được các tu sĩ, giáo dân dang cánh tay bao dung, giúp đỡ, chăm sóc. Năm ấy, đang trong giai đoạn đầu thi hành hiệp định Paris, đấu tranh chính trị, hắn được đưa về Hà nội chữa mắt. Nhân đây, tôi dám khẳng định với ngài linh mục Nguyễn văn K… rằng, bản chất của Cần không thay đổi, hắn chỉ lợi dụng lòng tin và lòng bác ái của ngài.

* *

*
Tổng thống Mỹ Richard Nixon dính líu vào vụ Watergate phải từ chức, tạo ra một cơ hội để Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. Tháng 3 – 1975, chúng xé bỏ hiệp định Paris, mở đầu cuộc tấn công vào Buôn ma Thuột.
Cả tháng tư, tôi trải qua một cơn khủng hoảng về tinh thần như kẻ mất hồn. Nỗi băn khoăn, tia hy vọng nhỏ nhoi cho một nửa đất nước đến nay đã hoàn toàn bị dập tắt. Miền Nam đã rơi vào tay Cộng sản. Từ nay Sài gòn sống trong im lặng, không còn những cuộc biểu tình sôi động như xưa, nhưng không phải im lặng trong thanh bình, mà là im lìm, ngột ngạt dưới ách thống trị tàn bạo của Cộng sản. Những con chim họa mi Khánh Ly, Lệ Thu, Giao Linh… cũng từ nay ngừng hót trong các đài phát thanh và nhà hát ở các đô thị miền Nam. Thay vào đó là những bài ca cách mạng hừng hực chí căm thù và chiến thắng.
Trong lúc này, ông Nguyễn văn Thiệu ở hải ngoại, ông nghĩ gì về sự thất bại nhục nhã của quân đội chính phủ do ông làm tổng thống? Ai cũng biết, trước khi rời nhiệm sở, ông đã không tiếc lời nguyền rủa Mỹ đã bán đứng miền Nam cho Cộng sản. Nhưng sự sụp đổ của chính phủ Việt nam cộng hoà do nhiều nguyên nhân khác nữa, Mỹ bỏ cuộc chiến chỉ là điều kiện làm cho quân đội ông thất bại nhanh chóng mà thôi.

Ở miền Bắc, một đứa trẻ lên ba đã bi bô “bác Hồ kính yêu”, lên sáu tuổi đã biết căm thù “giặc Mỹ xâm lược”. Từ lũ trẻ ở trườn
g mẫu giáo đến các trường trung học, đại học, từ báo chí đài phát thanh đến văn học nghệ thuật, từ các tổ dân phố, xí nghiệp, nhà máy, công nông trường, bệnh viện, từ hải đảo xa xôi đến các vùng rừng núi hẻo lánh, ngày đêm họ không ngừng tuyên truyền bịp bợm và xuyên tạc. Người dân miền Bắc vốn đã không biết thế nào là nhân quyền, họ cam phận nghèo đói, mất tự do như một bản năng thì sự tuyên truyền của Cộng sản đã thấm vào máu thịt của nhiều người. Họ tin tưởng và sợ đảng hơn con chiên ngoan đạo kính chúa. Mấy ai trông thấy ma quỷ nhưng người nào cũng sợ, đó là truyền thuyết lâu đời. Người miền Bắc chưa một ngày sống dưới chế độ Tư bản nhưng qua sự tuyên truyền xảo quyệt, tinh vi, đổi trắng thay đen mấy chục năm, họ sợ chế độ Tư bản hơn sợ quỷ. Có người coi lính Mỹ ăn cả thịt người. Một bầu không khí chính trị bị đầu độc cực kỳ nghiêm trọng chưa từng thấy trong lịch sử.
Trong khi đó ở miền Nam, qua sự quảng cáo tuyệt vời, người dân coi chủ nghĩa Cộng sản là ước mơ của họ, là cái bánh thơm ngon, mới mẻ, đầy hấp dẫn hợp với khẩu vị tưởng tượng của họ hơn mọi loại bánh có từ trước đến nay.
Ngoài ra, nhiều người quan niệm rằng, cuộc chiến này giữa Mỹ và Cộng sản, không can dự và ảnh hưởng gì đến họ.
Nó làm cho guồng máy tâm lý chiến của ông vốn ngây thơ, ngờ nghệch trở nên vô hiệu. Nó dẫn chính phủ ông và chính phủ Hoa kỳ thất bại về mặt ngoại giao. Không kể đến thường dân và binh lính, ngay các tướng lĩnh và sĩ quan nhiều người không hoặc chưa hiểu được bản chất nham hiểm của Cộng sản. Một thầy thuốc không biết bệnh gì thì chữa làm sao cho khỏi bệnh? Một đoàn quân không biết bản chất và mưu đồ của kẻ thù thì làm sao có sự đồng tâm, hiệp lực để chiến đấu và chiến thắng? Cộng sản như bóng ma lúc hiện, lúc ẩn làm cho sức mạnh quân sự của Hoa kỳ giống như võ sĩ siêu nặng đấm vào bị bông hoặc đấm xuống nước, buộc người đồng minh Hoa kỳ phải bỏ cuộc chiến. Nếu chiến binh Việt nam cộng hoà chỉ hiểu một điều đơn giản là hạ vũ khí đầu hàng vô điều kiện, Cộng sản sẽ không tha tội, phải lần lượt vào các trại tập trung tẩy não, một điều đơn giản đó thôi, chắc chắn tình hình đã thay đổi. Không thể diễn ra một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh: hàng triệu quân được trang bị hiện đại không dám chống lại kẻ thù mà tháo chạy như vịt và đầu hàng. Nếu mọi trận chiến đấu đều như tử Xuân lộc do chuẩn tướng Lê minh Đảo chỉ huy thì Cộng sản không dễ dàng gì chiếm được miền Nam.
Một sự kiện nữa cũng cần nhắc tới, cái gọi là phong trào các đô thị miền nam nghĩa là những cuộc biểu tình chống chính phủ của nhân dân, sinh viên và tín đồ các giáo phái… Chắc ông hiểu rằng những hành động đó đều do Cộng sản tổ chức và xúi giục, khác với các cuộc biểu tình, bãi công phản đối vì mục đích kinh tế ở các nước Phương tây. Mặc dù người dân bị mê hoặc, tại sao ông để họ ủng hộ Cộng sản dễ dàng như diễu hành, dạo chơi mà không bị trừng phạt? Tại sao ông không ra lệnh nghênh tiếp những hành động đó bằng đại bác và súng máy? Đất nước đang có chiến tranh như võ sĩ lên võ đài, quyết định thắng bại phải do những nắm đấm, không thể áp dụng nền dân chủ kiểu phương tây trong giai đoạn đó.
Chưa kể đến thời kỳ 1955 – 1965, không biết đoàn kết lại để chống kẻ thù nguy hiểm, các phe phái chống nhau, nay đảo chính, mai lật đổ, tự mình làm suy yếu mình vì tranh giành địa vị. Trong giai đoạn này phải nói đến một sai lầm hết sức nghiêm trọng của ông Ngô đình Diệm về cái gọi là độc lập quốc gia. Nếu ông ta biết Hà nội chỉ là tay sai của phong trào Cộng sản quốc tế phát động chiến tranh nhằm Cộng sản hoá miền Nam thì tại sao ông lại không muốn sự hiện diện của quân đội đồng minh. Chính quyền của ông ta làm cách nào để chống lại cả phe Cộng sản?
Đồng minh lớn của chính quyền ông ta là Hoa kỳ, về chiến lược và chiến thuật, họ cũng mắc những sai lầm nghiêm trọng trong cuộc chiến ở cả hai miền.
Để xâm lược nam Triều tiên, không còn đường nào khác, quân đội của Kim nhật Thành phải tấn công qua vĩ tuyến 38. Còn cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng sản Bắc Việt nam vào miền Nam lại khác. Sau hiệp định Geneva, Cộng sản để lại những cán bộ nằm vùng, đưa quân đội theo đường mòn Hồ chí Minh, dùng Campuchia và Lào làm căn cứ địa để xâm nhập vào miền Nam, tạo cho chúng một công cụ tuyên truyền “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Tại sao quân đội Mỹ và đồng minh không vượt biên giới các nước đó để tiêu diệt kẻ thù ngay trong sào huyệt của chúng? Cuộc chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc, ngoài chiến lược sai lầm “leo thang từng bước” của tổng thống Johnson, nói chung biện pháp chiến tranh của Mỹ vẫn dè dặt, cầm chừng. Phải trả một giá rất đắt mà Mỹ không thực hiện được bao nhiêu trong mục đích làm rối loạn hậu phương của kẻ thù.
Tháng 4 –1975, thời gian Cộng sản tổng tấn công miền Nam là cơ hội Mỹ giành thắng lợi mau chóng nhất nếu họ tiếp tục tham chiến. Tại sao? Cộng sản vừa đánh vừa nghe ngóng sự phản ứng của Mỹ nên thời gian cưỡng chiếm miền Nam mới kéo dài gần hai tháng. Chúng lo sợ một sự kiện diễn ra giống như ở Triều tiên.
Từ năm 1965 đến năm 1972, Mỹ và đồng minh phải đi tìm và diệt quân chủ lực của kẻ thù trong rừng rậm không thu được mấy hiệu quả thì tháng 4–1975, chiến xa, thiết giáp và quân chủ lực của chúng đã xuất hiện phần lớn trong các đô thị miền Nam, Mỹ chỉ cần dùng hoả lực cực mạnh để bẻ gẫy xương sống của kẻ thù.

Đồng thời ở miền Bắc sự phòng thủ của Cộng sản rất yếu ớt vì đại bộ phận quân chính quy đã đưa vào Nam, còn lại chủ yếu là dân quân tự vệ. Xã hội miền Bắc từ năm 1974 không còn ổn định nữa. Nông dân bất mãn vì đời sống đói khổ trong các hợp tác xã nông nghiệp, nhất là giáo dân bị đàn áp thô bạo, đại đa số tu sĩ và con chiên ngoan đạo phải vào trại tập trung. Nhiều t
hanh niên khi bị bắt lính đã trốn tránh để ngồi tù. Ngay ở Hà nội, vấn đề an ninh không còn được giữ vững, nhà văn Nguyễn Khải viết một bài về thủ đô đăng trên báo nhân dân, đã phải thốt lên: “… Tôi đã trót nhận viết cho tờ báo đảng…”. Mặt khác, quan hệ Việt – Trung từ năm 1972 đã có nhiều mâu thuẫn, nhiều người Việt gốc Hoa phải đi tù, nhiều bài xã luận đăng trên báo nhân dân, quân đội nhân dân, Hà nội đã ám chỉ công kích Bắc kinh. Hơn nữa quan hệ Mỹ – Trung trong thời điểm đó đã được cải thiện. Trước thời cơ thuận lợi đó, tại sao Mỹ không chiếm một vùng đồng bằng sông Hồng, tạo điều kiện bắt Cộng sản phải triệt thoái hoàn toàn ở miền Nam. Nếu làm được như vậy, trong một thời gian ngắn với chi phí đổ thêm vào cuộc chiến không lớn, Mỹ trở thành kẻ chiến thắng.
Cũng phải nói thêm rằng, Mỹ bỏ miền Nam gây ra tâm trạng hoảng loạn trong quân đội của ông, dẫn đến thất bại vô cùng mau chóng và nhục nhã. Tôi không ngờ rằng, trong lúc miền Bắc rệu rã thì miền Nam lại nát bét hơn.
Phải bỏ miền Nam là nỗi nhục lớn nhất của Hoa kỳ trong hai trăm năm dựng nước. Nỗi nhục này còn kéo dài. Là một siêu cường về kinh tế và quân sự, bao nhiêu năm nữa Mỹ mới xoá được hội chứng Việt nam (Vietnam syndrom)
Khi Sài gòn sắp thất thủ, báo chí phương Tây đưa tin sẽ xảy ra cuộc tắm máu ở miền Nam. Qua đó tôi cho rằng, phương Tây chưa hiểu cách giết người tân kỳ của Cộng sản sau cải cách ruộng đất. Cộng sản chỉ tàn sát đẫm máu những người chống lại hoặc cản đường chúng còn đoàn quân bạc nhược, mất hết tinh thần, Cộng sản sẽ không gây ra cuộc tắm máu, chúng biến đoàn quân ấy thành bầy nô lệ làm ra của cải để không mang tiếng với thế giới là tàn bạo. Để máu của từng người lính, sĩ quan cộng hoà rỉ dần trong các vùng rừng núi, nếu có biến động gì, cho bầy nô lệ ấy lặng lẽ yên nghỉ trong rừng sâu rồi đổ lỗi cho bệnh tật là êm đẹp. Phương tây cần biết rằng, đối với thế giới, quỷ đỏ Việt nam luôn đóng vai những vị thánh sống giả nhân, giả nghĩa.

* *

*
Đầu tháng bảy năm ấy, chị Hoa và đứa con thứ hai của chị – cháu Biển đến thăm tôi. Đối với một người đa sầu đa cảm, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, cuộc đời triền miên bị đầy đoạ, mỗi lần được gặp người thân quả là một phần thưởng tinh thần vô giá. Tinh thần tôi đang suy sụp như đứng chơi vơi trong vũ trụ bao la không điểm tựa, việc đến thăm của chị và cháu mang lại cho tôi một nguồn sinh lực, một nguồn tình cảm. Tôi ghi nhận, đó là một công ơn. Tuy nhiên, tôi biết chị thương em không phải xuất phát từ lương tâm, ý thức bền vững “máu chảy ruột rà” mà theo cảm hứng xuất hiện một thời điểm nào đó rồi chợt tắt.
Cũng trong thời gian ấy, còn lại năm tù cách mạng, cai ngục chuyển sang toán chăn nuôi. Từ khi đó, chúng tôi đi làm không có vũ trang quản chế. Về toán này, tôi gặp lại Tạ Cung làm cùng toán xây dựng với tôi trên trại An Thịnh. Cuộc đời Cung là một chuỗi ngày đắng cay nối tiếp nhau. Năm 1951, Cung lên mười tuổi, cả nhà gồm bố mẹ, anh chị em bị một quả bom rơi trúng hầm trú ẩn. Riêng Cung đến chơi nhà bà ngoại nên thoát chết. Năm sau, bà ngoại mắc bệnh qua đời, Cung phải sống nhờ gia đình cậu, anh bị mợ đối xử tàn nhẫn. Do vậy năm 1953, Cung lên Hà nội bán báo kiếm ăn, ngày làm việc, đêm ngủ nhờ hè phố. Năm 1955, Cung bị bắt vào Hoả lò và sau đó đưa đến trại giáo dưỡng. Lúc đầu, Cung xác định tuy mất tự do, đói khổ nhưng là chỗ dung thân trong giai đoạn anh chưa đến tuổi trưởng thành. Những năm tháng gian nan cầm cố cứ kéo dài ra mãi, ngoài hai mươi tuổi, Cung nhận thấy tương lai cuộc đời mờ mịt, anh chán chường, ù lì, cả ngày chẳng nói một lời. Quản giáo toán tên nào cũng ghét anh, bởi vì Cung chẳng muốn làm gì nữa. Vì lẽ đó, Cung đã nếm nhiều hình phạt khắc nghiệt của trại giam.
Một hôm cả buổi sáng Cung chỉ chơi, đến trưa tù về trại ăn cơm, riêng Cung, quản giáo giữ lại, bắt làm. Hắn nói:
– Anh muốn về trại ăn cơm phải bào cả buổi trưa nay.
Cung chẳng nói năng gì, quét cầu bào rồi nằm nghỉ. Tên quản giáo lồng lộn quát:
– Anh không chịu cải tạo, muốn vào xà lim à?
– Tội tôi không cải tạo được. Đời thuở nào lại có tội vô gia cư? Tội ấy phải tù đến bao giờ? Còn xà lim, ông đừng doạ, tôi cũng quen rồi. Nếu bây giờ ông ra lệnh phải vào xà lim, tôi xin chấp hành ngay. Trưa nay ông không cho tôi về trại ăn cơm cũng chẳng can gì, để tối hoặc ngày mai ăn cũng được. Đôi khi muốn có một bữa no, tôi phải nhịn ăn hai ngày liền.
Tên quản giáo này mới bước vào nghề làm cai ngục. Những buổi trưa, hắn phải ra rừng, đứng trước cây chuối, tay chỉ trỏ, miệng la hét. Hắn coi cây chuối là đối tượng của mình để tập sự. Trưa hôm ấy, trước thái độ cứng rắn của Cung dồn hắn đến chỗ phải nhượng bộ:
– Hôm nay tôi tạm tha anh, cho về trại.
– Tôi xin ông, đã hơn một chục năm, chẳng khi nào về mùa hè tôi được nằm mát buổi trưa thế này, ông cho tôi nghỉ ở đây đến chiều làm luôn.
Tên quản giáo và Cung lời qua, tiếng lại mãi, anh mới về trại.
Sau mười lăm năm tù, Cung được tha ra nông trường làm việc. Cuộc sống mới đối với Cung cũng chỉ là đám mây đen. Người cùng làm việc luôn mạt sát, chế giễu anh là thằng lưu manh. Cung làm đơn gửi ban giám đốc nông trường xin giải quyết nhưng không ai chú ý đến lời kêu cứu của một đứa dân đen. Cuối cùng, để bảo vệ thể diện, Cung đã đánh nhau. Ở nông trường được sáu tháng, Cung lại vào tù với tội danh chưa chịu cải tạo thói xấu, gây rối trị an.
Cung nói với Cần:

– Anh đã hai mươi năm tù, tô
i có kém gì anh! Tôi phạm tội vô gia cư, anh đáng tội hơn tôi là xỏ nhầm giầy. Đã đi rồi còn quay lại để đâm đầu vào hang sói, như thế anh còn mắc tội ngu. Trong nhà tù, anh hoá thành thằng hèn, từ hèn dẫn đến tâm hồn lưu manh hoá, bất nhân.
– Cậu cứ bảo tớ là một thằng tướng cướp cũng được – Cần nói.
– Thế thì đề cao anh quá. Anh làm gì được cái vinh hạnh mang danh một tên tướng cướp. Bởi vì tướng cướp chỉ tàn bạo và gây tội ác chứ nó không hèn.
Tôi hỏi Cung:
– Anh có biết chuyện thằng Đồng và thằng Chí thế nào không?
– Tôi biết rõ – Cung trả lời.
– Nghe thằng Thưởng ở giáo dưỡng bên An Thịnh, nó bảo chuyện đó li kỳ lắm phải không?
– Với xã hội hiện nay thì chuyện đó cũng thường thôi. Tôi kể qua cho anh nghe nhé. Một ông giám đốc có tên là Tình, vợ chết sớm, lấy một người vợ kế vừa trẻ vừa đẹp. Hai đứa con riêng của ông ấy là Đồng và Chí hơn kém nhau một tuổi, hai đứa đều là đảng viên và cán bộ, cưới vợ cùng một năm. Thành ra, ba bố con có vợ sàn sàn nhau. Hai cô con dâu tham tiền, chài và làm tình với bố chồng. Còn dì ghẻ lại thèm của lạ với thanh niên nên làm tình với hai con riêng của chồng. Khi sự việc vỡ lở, ông Tình có quyền chức cao hơn, đưa hai con trai đi tù với tội cưỡng dâm dì ghẻ. Hai đứa trong tù lúc đầu thân nhau lắm, sau một thời gian hai đứa cùng nhận được thư của vợ đòi li dị và tố cáo lẫn nhau: anh là nhân tình của vợ em và ngược lại. Từ đó hai đứa cắn xé nhau khốc liệt. Em chém anh gẫy một dẻ xương sườn. Khi anh điều trị lành lại chém vào tay em. Đồng và Chí còn nói, khi được về sẽ hỏi tội bố theo luật giang hồ. Tóm lại, đó là một gia đình loạn luân theo cách quần hôn thời nguyên thuỷ và trở nên cảnh phụ tử, huynh đệ tương tàn. Xã hội này vẫn còn chán vạn chuyện ghê tởm hơn nhiều, tuy nhiên chuyện này thể hiện đầy đủ tính cách của tình đồng chí, hợp với vần thơ của ông Tố Hữu: “Rồi mai đây tất cả sẽ là chung”
Ngừng vài giây, Cung tỏ vẻ buồn rầu nói tiếp:
– Tôi biết bên các anh có ác cảm hoặc thành kiến với những tù nhân mang số chẵn, cho rằng họ không còn nhân phẩm nữa. Đành rằng ý nghĩ đó không sai, bởi vì những tội phạm giết người, cướp của, hiếp dâm, lừa đảo, trộm cắp… đều mang số chẵn. Nhưng các anh có hiểu rằng những số phận bất hạnh nhất của xã hội này cũng là những người mang số chẵn hay không? Như tôi chẳng hạn, chiến tranh đã cướp đi tính mạng của những thân nhân trong gia đình, tôi trở thành đứa con côi cút không nơi nương tựa, không được học hành, ngày kiếm sống ở đầu đường, xó chợ, đêm trú ngụ tại hè phố, gầm cầu. Từ cảnh đau thương cơ nhục ấy là cái tội dẫn tôi đến cuộc sống tù đầy đã hai chục năm và không biết còn tiếp diễn đến bao giờ? Ấy thế mà tôi còn một điều may mắn anh Tâm ạ. Điều may đó là tôi vẫn còn tỉnh táo để cảm nhận nỗi đau của mình và những người đồng cảnh. Bi thương hơn cả là những người đã, đang chịu nỗi đau, cơ nhục mà không còn cảm nhận gì ngoài những bản năng của một sinh vật để tồn tại. Anh còn nhớ thằng Hiệu ở trại An Thịnh không?
– Còn nhớ chứ – Tôi trả lời.
– Tôi chắc nhiều người biết và nhớ thằng mắc bệnh tâm thần ấy nhưng nguyên nhân nào đã xô đẩy nó đến cuộc sống man dại, mất vệ sinh có thể hơn cả người nguyên thuỷ thì ít ai tường. Tôi cũng kể qua về nó cho anh nghe nhé.
Bố mẹ thằng Hiệu khi lấy nhau rất nghèo, ngoài gian nhà tranh vách đất, không có một tấc đất cắm dùi. Được cả vợ lẫn chồng đều tham công, tiếc việc, thức khuya, dậy sớm, ăn sẻn để dành. Cả đời bố mẹ nó không dám bỏ tiền ra ăn một bát phở, thậm chí khi đi chợ mua sắm một thứ gì, có khát nước cũng không dám uống một bát chè tươi. Thị trấn Đức thọ cách nhà nó không xa mà bố mẹ nó chưa bao giờ đến vì sợ mất thì giờ làm việc. Nhờ vậy mà bố mẹ Hiệu xây được một ngôi nhà ngói và mua được một mẫu ruộng. Ngược lại, có một cặp vợ chồng được thừa hưởng một tài sản của ông cha rất khá: nhà cao, cửa rộng, vườn trên, ao dưới, tư điền vài ba mẫu. Nhưng cặp vợ chồng này chỉ muốn ăn ngon, lười biếng, bán dần tài sản để tiêu xài. Đến năm 1953 chỉ còn lại một túp lều tranh, vách nát. Thật trớ trêu vì thiên hạ đổi đời, hồi cải cách gia đình này thuộc thành phần cơ bản cố nông và cả hai vợ chồng đều là cốt cán. Còn gia đình thằng Hiệu bị quy lên địa chủ, tài sản bị trưng thu, đội chỉ cho lại gia đình nó một gian nhà tranh, tường đất trước kia vừa là bếp, vừa là chuồng lợn. Ngôi nhà ngói chia cho hai gia đình cố nông, trong đó có cặp vợ chồng ăn hoang, lười biếng ấy. Thằng Chí là đứa con của chúng, nhiều tuổi và lớn hơn thằng Hiệu. Khi dọn nhà đến ở một ngày, Chí quát bảo Hiệu:
– Hiệu! Từ nay, mỗi lần thấy tao, mày phải nói, chào ông nông dân ạ.
Không chịu nổi, Hiệu phản ứng lại:
– Mày còn trẻ con như tao, việc gì tao phải chào mày?
Thế là Chí chạy lại đánh Hiệu hộc máu mồm, máu mũi ra. Hiệu chạy vào nhà, bố mẹ nó khóc và khuyên:
– Con hãy gắng chịu, lúc này nó đánh con chết cũng được nữa là…
Hiệu chạy sang nhà nhà Chí, nói với bố mẹ thằng này, cả hai đều mắng, đuổi Hiệu về. Một sự ngẫu trùng quái ác: bố Chí tên là Hồ. Bực quá, Hiệu chạy ra sân chửi lại. Nếu chửi riêng rẽ từng người một thì không nguy hiểm mấy. Khốn nỗi, tên vị cha già dân tộc từ trẻ thơ đến người lớn cũng thuộc lòng như một phản xạ vô điều kiện, thằng Hiệu vô ý buột mồm ra:
– Cả lũ Hồ chí Minh mất dậy!

Lão Hồ chạy ra tóm cổ Hiệu dập đầu
xuống sân gạch, Hiệu bị ngất lịm. Bố mẹ nó từ trong nhà nhìn ra vừa khóc vừa van xin. Ngay khi đó, có một cán bộ đội đến, Lão Hồ kể lại sự việc, tên cán bộ nói:
– Đây là hành động chống phá cải cách, lăng mạ lãnh tụ của địch, đồng chí bắt ngay tên Hiệu giam lại.
Theo lệnh, lão Hồ xách Hiệu ra trụ sở đội trói gò cánh khuỷu lại trong lúc Hiệu vẫn hôn mê. Từ chiều đến tối, Hiệu tỉnh lại thì tên đội trưởng quát:
– Mày phải nhận tên Trù (bố Hiệu) đã xúi giục mày chửi bác, chống phá chính sách cải cách của đảng.
Hiệu một mực van xin:
– Thưa ông đội, không ai xúi con cả, con vô ý nói thế thôi, con lạy đội tha cho.
Tên đội trưởng ra lệnh trói Hiệu treo lủng lẳng trên xó nhà suốt đêm. Sáng hôm sau, bố Hiệu bị bắt, bị bức cung bằng nhiều biện pháp tra tấn dã man liên tục, không cho ăn uống gì, sau ba ngày ông tắt thở thì đội tha Hiệu. Nó mắc bệnh tâm thần từ đó. Trước cảnh đau thương ấy, mẹ Hiệu thắt cổ tự tử. Và cũng từ dạo đó Hiệu đi lang thang. Lúc đầu nó đi sang các làng bên, may có nhiều giáo dân thương người, cho nó ăn uống tử tế. Bệnh tâm thần mỗi ngày một nặng thêm, dần dà Hiệu đi không biết đường về nữa, nó cứ đi, đi mãi. Khi đói, Hiệu nhặt mọi thứ ăn được cho vào mồm: rau sống, quả xanh, ngô khoai sống, ếch nhái v v… Khi khát, vớ được nước gì Hiệu cũng uống: sông, hồ, ao, rãnh, vũng trâu tắm… Khi mệt Hiệu ngủ và vạ vật bất cứ chỗ nào: vệ đường, dưới gốc cây, bụi rậm…
Một xã hội thối nát nhưng luôn được tô son, trát phấn bề ngoài, ai cho phép Hiệu sống lang thang man dại làm ảnh hưởng đến cảnh quan mỹ miều của xã hội này? Tất nhiên những người như Hiệu phải tập trung lại một nơi với cái tên đượm lòng từ thiện: “trại giáo dưỡng”. Trời đất hỡi, chỉ có chúng tôi và may ra thượng đế mới thấu hiểu nơi gọi là giáo dưỡng con người ấy cũng tàn bạo và man rợ đến nhường nào, cũng giống như mọi nhà tù hà khắc khác không hơn, không kém.
Anh thử nghĩ xem, những cuộc hành quyết người tập thể của Staline hay lò thiêu người của Hiller tuy khủng khiếp nhưng không bi thảm như cuộc đời thằng Hiệu. Nếu cứ ngồi mà kể lại những truyện đau thương, ghê tởm của thời đại, và trường thọ đến hai ba trăm cũng không sao kể xiết.
Cung hỏi thêm:
– Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, có toà án Luxemberg xét xử những tên tội phạm, liệu sau này có toà án xử lũ vô thần đã gây thảm hoạ cho dân tộc mấy chục năm qua không?
Tôi trả lời:
– Chiến tranh thứ hai kéo dài sáu năm làm khoảng sáu mươi triệu người thiệt mạng. Còn chủ nghĩa Cộng sản sinh ra và tồn tại hơn nửa thế kỷ qua làm khoảng một phần ba nhân loại lầm than, cơ cực, hàng trăm triệu người thiệt mạng hoặc bị tù đầy nghiệt ngã. Chẳng những thế, nếp sống đạo đức, văn hoá của nhiều dân tộc bị suy đồi và đảo lộn. Phát xít và Cộng sản là hai anh em ruột của loài quỷ sứ. Phát xít gây tội ác bằng những cuộc chiến tranh đẫm máu với nước khác, bộ mặt tàn bạo của chúng sớm bị lộ nguyên hình, nên nhân loại hiệp sức lại tiêu diệt chúng. Còn Cộng sản với cái gọi là đấu tranh giai cấp chúng chỉ gây tội ác với người cùng dân tộc, cùng quốc gia. Tội ác của chúng lại được ngụy trang bằng guồng máy tuyên truyền bịp bợm khổng lồ, trong đó chúng vẽ ra một viễn cảnh huy hoàng, cái thiên đường trên cõi thế, làm cho quảng đại quần chúng của những nước lạc hậu vừa cuồng tín, vừa hoảng sợ, không phân biệt được giữa chân lý và sai lầm, giữa cái ác và cái thiện, tạo cho chúng một cơ hội trường tồn gấp nhiều lần phát xít. Tôi cho rằng, mai sau để chứng minh công lý thắng bạo tàn, nhân loại phải thành lập một toà án xét xử những kẻ đã gây ra tội ác khủng khiếp nhất trong lịch sử. Chúng ta cứ tạm đặt tên là toà án quốc tế Kremly.
– Sau này sự kiện ấy diễn ra, nếu mình còn sống, anh có ước vọng gì? – Cung hỏi.
– Tổ quốc mình máu đã nhuộm đỏ đất, tôi không muốn cảnh máu chảy, đầu rơi thêm nữa. Tôi hằng mong ước con người hãy khu xử với nhau bằng lòng khoan dung, độ lượng, gạt bỏ mọi oán thù. Bởi vì dùng một biện pháp tàn bạo để thanh toán một thế lực bạo tàn khi nó đã suy tàn không phải là cái đẹp của nhân bản trong một xã hội văn minh.
Trong toán chăn nuôi có mười hai người đi làm tự giác, hai người phạm tội tham ô, ở tù đã lâu, được giảm án sắp về.
Một người phạm tội giết người – Anh Trương văn Hội tuổi khoảng bốn mươi. Sáu tháng trước, anh còn là một đại uý bộ đội hậu cần. Một hôm anh đi công tác về khuya, đến nhà lúc một giờ đêm. Đèn vẫn sáng, vợ anh chưa đi ngủ, tóc rối tung, quần áo tả tơi, đang ngồi khóc tấm tức. Anh hỏi vợ đến lần thứ ba, vợ anh mới trả lời, chị vừa khóc, vừa kể lại: Trên đường đi làm về, em đến chợ xanh thì mưa nặng hạt, đường vắng ngắt, không ai qua lại. Ngược chiều, một lũ trẻ tuổi khoảng mười bảy, mười tám, chúng chặn em lại cướp giật xe và kéo em vào quán nước vắng chủ, tối tăm. Chúng trói em lại và nhét giẻ vào mồm rồi thay phiên nhau hiếp. Đứa thứ sáu, có lẽ vừa đến, em nhận ra tiếng nó:
– Trâu chậm uống nước đục, chúng mày cho tao cái xái năm vậy. Đúng là thằng Sơn, nhục quá anh ơi, đúng là con mình rồi. Em cố hết sức, cựa tuột dây trói và cào vào mặt nó. Hành động xong, chúng bỏ đi, một mình em thất thểu đi bộ về nhà.
Nghe vợ kể lại, ông đại uý run lên như lên cơn sốt. Ông định đi tìm con thì thằng Sơn dẫn xác về nhà, vết cào của mẹ trên mặt máu còn dính. Anh trói con vào song cửa, đóng vai quan toà:
– Mày biết mẹ mày tối nay thế nào không?
– Thưa bố, con không biết.
Anh bắt con cung khai hết tội của đồng bọn, anh ghi lại ra trình đồn và tuyên bố:
– Các đồng chí đi bắt ngay dồng bọn, còn thằng Sơn, tôi tự xử.
Về nhà mặc những lời van xin của vợ, đứng trước mặt con, anh tuyên phạt con án tử hình và bắn hai viên đạn súng ngắn vào thái dương con. Anh bị toà án phạt mười năm tù.
Người thứ hai, phạm tội làm nhục cô giáo đang giờ lên lớp – Nguyễn văn Lợi, mười bảy tuổi. Được nuồng chiều, Lợi ăn chơi lêu lổng. Cậy bố có quyền hành, Lợi chẳng coi ai ra gì. Có lần hắn hiếp một bé gái mười ba tuổi, nhiều người biết, bố mẹ em phẫn uất, muốn làm đơn tố cáo nhưng sợ đùa với lửa chẳng ai dám làm nhân chứng.
Lợi đang học lớp mười. Một cô giáo toán mới chuyển về trường, ngoài hai mươi tuổi, rất xinh. Lợi cùng bọn mất dạy bàn chuyện gẫu:
– Cô giáo đẹp, chắc cái ấy của cô cũng hấp dẫn lắm đấy?
– Nếu được nhìn thấy, nhịn ăn một tuần để tưởng tượng cũng không thấy đói.
– Chúng mày có thách tao không? – Lợi nói – Tao sẽ cho cả lớp xem, chỉ một chầu bia thôi.
– Chúng tao đố mày đấy.
– Xin cam đoan – Lợi bắt tay đồng bọn nhận lời thách thức.
Đến tiết toán, có một bài phương trình lượng giác, Lợi xung phong lên bảng giải. Cô giáo mỉm cười nói:
– Hôm nay, Lợi tiến bộ nhỉ, thật lạ lùng!
Nhưng công thức lượng giác không nhớ, Lợi lúng túng, mặt cứ nghệt ra làm cả lớp cười ầm lên. Cô giáo quay bảo học sinh trật tự thì bất ngờ Lợi móc tay vào cạp quần cô giáo kéo mạnh làm cả quần ngoài và quần lót của cô tụt xuống quá đầu gối, cô vội ngồi xuống nền nhà và hô hoán. Trước công luận của một trường trung học, Lợi bị bắt và xử mười tám tháng tù.
Đấy mới là con ông thiếu tá công an, các quan cách mạng, quyền chức càng cao, chẳng những bản thân mà con cái cũng tha hồ sống vô kỷ cương, tung hoành ngoài vòng pháp luật. Tôi được biết, đại đa số con cái các ông to đều sống ngoài kỷ cương như vậy mà cảnh sát, công cụ của nền chuyên chính cũng đành phải bó tay.
Còn lại tám người mắc tội hiếp dâm, tôi kể qua vài ba tội phạm.
Hà mạnh Tước ngoài năm mươi tuổi. Cuối năm 1974, Tước còn là trưởng phòng cấp bộ: vợ Tước ở quê cùng ba con gái lớn: hai mươi hai, hai mươi và mười tám tuổi, chưa ai có chồng nhưng đều có người yêu. Bà vợ nghe nhiều lời đồn đại về hiện tượng dâm ô của đức ông chồng, bảo con gái cả lên hầu hạ bố, đồng thời giám sát hành vi bất lương của Tước. Hắn nói với con:
– Mày lên đây sống với tao là thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn, được ở giữa thủ đô văn minh, tràn đầy ánh sáng. Chẳng những thế, mày không phải con một thường dân, mày sẽ có một tương lai huy hoàng với một thằng chồng là cán bộ. Nếu đã trót yêu thằng nào ở quê hãy cắt đứt ngay, mày vương vấn gì với cái xứ quê nhọc nhằn, khổ sở. Sau khi làm công tác tư tưởng, con gái hắn khấp khởi mừng thầm thì Tước cưỡng bức con làm tình với hắn như một cặp vợ chồng. Đến khi con gái có mang, Tước vội gả con cho một nhân viên cùng phòng. Tuy nhiên, ai được là rể ông trưởng phòng cấp bộ là một điều vinh hạnh.
Đứa con gái thứ hai cũng diễn ra tương tự nhưng đến đứa thứ ba trung thành với người yêu, chống lại quyết liệt trò loạn luân của bố. Cô ta tường thuật lại đầu đuôi với mẹ, hai chị biết chuyện em cũng than phiền tình cảnh của mình. Vợ Tước nổi cơn tam bành, làm đơn tố cáo chồng với cơ quan của Tước. Cơ quan chỉ kiểm điểm Tước. Nhiều ý kiến cho rằng: “Đồng chí Tước tận trung với đảng, một tấm gương sáng của cơ quan về đạo đức cách mạng, không thể vì những sai sót trong gia đình mà phủ nhận công lao của đồng chí”. Nhưng bà vợ có người anh họ chức quyền cao hơn Tước, đã tố cáo tội loạn luân của hắn trước cơ quan pháp luật. Tước phải đứng trước vành móng ngựa nhận tội. Tuy nhiên, vì có công cách mạng nên Tước chỉ bị phạt một năm tù.
Trương hữu Chung, ngoài hai mươi tuổi, người ở thành phố Hải phòng. Chung có một chị và ba em gái tuổi san sát nhau. Là đứa con trai độc nhất, Chung được bố mẹ nuông chiều quá đáng. Chị và các em Chung đều sợ gã như sợ cọp. Chung lần lượt cưỡng hiếp các em nhiều lần. Chị đã có chồng, Chung cũng không tha, gã nói:
– Rất tiếc trước khi chị đi lấy chồng, tôi còn khờ dại, nếu lớn như hiện nay, tôi phải dùng trước.
Đầu năm 1974, Chung lên đường nhập ngũ. Khi vắng Chung, chị và các em gã mới dám tỉ tê than thở cùng bố mẹ. Sáu tháng sau, Chung được nghỉ phép về nhà chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Vì sợ ảnh hưởng đến lý lịch của con, bố gã chỉ vỗ vai bảo nhỏ
– Vừa qua ở nhà, mày mất dạy lắm, chị và các em làm tuốt.
Chung ngang nhiên phản đối:
– Ông cổ hủ, quê mùa lắm, đẻ ra không dùng trước thì tôi phải dùng thay ông chứ còn gì nữa?
Nghe con nói trắng trợn, ông bố nổi giận lôi đình liền lấy gậy đánh Chung. Bằng mấy miếng đặc công vừa học được, gã phản công lại bố. Bố gã bị ngã phải đi bệnh viện. Ba em gái phẫn uất với người anh vừa loạn luân, vừa hỗn láo, làm đơn tố cáo.

Khi ra toà, Chung được giấy của đơn vị bộ đội gửi đến, viết: “… Anh Chung có ý thức học tập và rèn luyện tốt. Chúng tôi cho rằng, sai sót của anh Chung trong phạm vi sinh hoạt gia đình. Vậy đề nghị toà
chiếu cố, không vì một lỗi lầm nhỏ mà sự nghiệp cách mạng mất một chiến sĩ dũng cảm…”. Toà phạt Chung mười tám tháng tù.
Vũ đình Quản, hai mươi tuổi, dáng người thanh nhã, trắng trẻo, đẹp trai. Năm ngoái, gã còn là sinh viên năm thứ ba. Quản có một người dì ở Hà nội nên thường vào ngày chủ nhật, gã đến nhà dì chơi. Vì gia đình nghèo nên gã còn nhờ dì giúp đỡ để vượt qua những thiếu thốn ở trường đại học.
Dì Quản gần ba mươi tuổi, trước đi xung phong chống Mỹ, sau ba năm được về Hà nội làm kế toán một tổng công ty. Từ một cô gái nông thôn nghèo khổ, nay được sống ở thủ đô, dì ước mơ thoát khỏi cái lốt quê mùa, đua đòi, ăn diện để phô với làng xóm, quê hương. Nhưng tiến lương có hạn, dì phải tính sao đây? Dì không đẹp nhưng có duyên thầm, cặp mắt lẳng lơ. Để thực hiện ước mơ, dì tấn công ông phó tổng giám đốc bằng những làn sóng tình cực mạnh. Ông phó tổng giám đốc cũng xuất thân từ một nông dân, tham gia cách mạng từ thời kỳ chống Pháp. Nhiều năm được học tập và rèn luyện, ông vẫn trong vòng luẩn quẩn đần độn, kém phần nhạy cảm.
Tuy vậy, ông cũng nhanh chóng nhận được tín hiệu phát ra từ trái tim em. Nghĩ đến người chung chăn gối vừa già, vừa quá quê mùa, lòng ông xót xa ngao ngán. Ông quyết tâm làm cuộc cách mạng của cuộc đời mình và đáp lại tiếng gọi của tình yêu. Vì thế, ông tìm cách li dị vợ và lấy dì Quản.
Sau khi những ham muốn về tiền tài, ăn diện, nhà cao cửa rộng được mãn nguyện, dì lại nảy sinh bệnh đói về tình dục do đức ông chồng ngoài ngũ tuần không còn đủ sức đáp ứng cho thoả mãn. Nguy hiểm hơn nữa, dì thèm khát trò chơi lạ – cái sinh lực mãnh liệt của tuổi thanh xuân. Dì muốn đi ăn vụng ngoài nhà sợ lộ, dì dùng bí quyết “đóng cửa trong nhà bảo nhau”. Thế là Quản trở thành con mồi hấp dẫn của dì.
Khi ông chồng đi công tác vắng nhà, dì nói mở đầu với Quản:
– Anh tưởng tôi sung sướng lắm phải không? Được sống trên nhung lụa mới là một mặt, còn mặt khác là tình yêu tôi thua kém nhiều người.
Tưởng câu nói bình thường, Quản phân bua:
– Dì ạ, đời người có mấy ai được toàn vẹn, được mặt này, mất mặt khác.
– Nếu anh có thiện chí sẽ bù đắp cho tôi được một phần, xin anh hãy vì tôi mà giảm bớt sự thua kém ấy.
Quản còn ngơ ngác thì dì đóng cửa lại, cởi hết quần áo mình đến ôm lấy Quản, năn nỉ:
– Có gì đâu, anh vì tôi thế này thôi, anh cũng chẳng mất gì mà cả hai ta đều…
Không đủ lí trí để cưỡng lại thú tính, Quản ngoan ngoãn làm tình với dì. Từ hôm đó, không còn nhớ đến luân lý, đôi trai gái ấy trở thành cặp tình nhân vụng trộm, không được toà án lương tâm công nhận, lẽ dĩ nhiên cái trò ăn vụng bao giờ cũng hấp dẫn hơn sự bình thường. Theo yêu cầu của “em”, những ngày đức ông chồng đi vắng, sau giờ học “anh” phải có mặt để cùng truy hoan những trận mây mưa cuồng loạn với chu kỳ ngắn nhất, có vầng dương lẫn chị Hằng chứng giám. Rồi đến một buổi chiều thu ảm đạm, lất phất mưa rơi, cuộc hoan hỉ bướm hoa tưởng chừng đã kết thúc nhưng “em” vẫn ghì chặt lấy “anh” mơ màng hưởng lạc. Đột ngột đức ông chồng đẩy cửa vào nhà, phản ứng vô cùng mau lẹ, dì hất Quản ra và kêu to:
– Ối trời đất ơi, nó cưỡng hiếp tôi, nó cưỡng hiếp tôi! Anh ơi may quá, anh đã về kịp thời để bắt thằng loạn luân này.
Đức ông chồng tưởng vợ thật lòng, gọi công an bắt Quản. Ông quá yêu vợ, lại đần độn không phân biệt nổi trắng đen đứng về phía gian dâm buộc tội Quản. Rốt cuộc, Quản phải lĩnh án năm năm tù, đời gã cũng bắt đầu ảm đạm như chiều thu ấy.
Những phạm nhân như trên được ưu tiên, được tin dùng trong trại. Ngoài việc chăn nuôi tự giác, họ còn được làm trật tự, văn hoá trại, cấp dưỡng hoặc các toán trưởng tù hình sự. Những tấm gương cải tạo tốt cũng được lựa chọn trong số họ.
Tôi nhớ lời anh Phạm ngọc Đồng người Huế năm 1967 tại trại An Thịnh:
“Cô đầu, nhà thổ là một thực trạng xấu nhưng lại là nhu cầu của một xã hội chưa có nền văn minh cao. Trong chế độ phong kiến, con người nhất là phụ nữ bị ràng buộc khắt khe bởi lễ giáo Khổng mạnh, vậy mà các lầu xanh vẫn tồn tại. Còn xã hội hiện nay, về đạo đức, ngoài lòng tin tuyệt đối vào đảng và lòng căm thù… Không còn một tiêu chuẩn nào ràng buộc con người. Mặt khác, họ ca ngợi chủ nghĩa khoái lạc của Epicure, cộng thêm với sự khủng hoảng nghiêm trọng từ thời kỳ cải cách ruộng đất, con người được tự do hành động phi đạo lý mà không có toà án lương tâm xét xử. Trong khi đó, nhà nước lại ngăn cấm cô đầu, nhà thổ, một trong những nguyên nhân tạo ra những tội ác kì quái, hiếm có trong xã hội loài người…”
Một xã hội âm u xám xịt với vô số sự kiện vô luân lý, thế mà đài phát thanh, báo chí thường ca ngợi: “Thời đại ra ngõ gặp anh hùng”. Mai sau những nhà sử học, những nhà văn chân chính phải sửa lại là: thời đại ra ngõ gặp kẻ phạm tội. Cũng cần phải nói thêm rằng, một dân tộc có nhiều anh hùng thì dân tộc đó thường đê hèn, với đau thương và tàn phá của chiến tranh; anh hùng thường xuất hiện từ máu và nước mắt cũng như “nhất tướng công thành vạn cốt khô”.
Mời các bạn đón đọc phần tiếp theo: HỒI BỐN – Ngày về
Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 19
HỒI BỐN – Ngày về
Cuối tháng hai năm 1976, còn năm người tù phản cách mạng, chúng tôi được tha cả. Một niềm vui loé lên như người được cải tử hoàn sinh trong cõi lòng tôi sau khoảnh khắc lại tắt ngấm để nhường chỗ cho nỗi buồn mênh mông đang xâm lấn. Đành rằng từ nay sẽ chấm dứt bệnh đói kinh niên nhưng tôi lại nỗi tiếp những tháng năm cô đơn, vô vọng và tủi nhục. Gần mười một năm tù, chưa bao giờ tôi chịu khuất phục trước uy lực của kẻ thù, sẵn sàng chờ đón cái chết trong danh dự. Nay tuy thoát khỏi cái địa ngục trần gian ấy nhưng phía trước cuộc đời tôi những điều nan giải đang chờ đón lạnh lùng. Với thân tàn, hai bàn tay trắng, không nhà cửa, tôi biết đi đâu, về đâu, sống như sao trong bóng tối đang bao trùm lên tất cả. Tên tù khổ sai Janvaljan có thời thành ông thị trưởng Madeline, còn tôi có lẽ trọn vẹn cuộc đời tăm tối trong sự hắt hủi, vùi dập của xã hội, không lúc nào ra khỏi ống kính của kẻ thù.
Sáng hai mươi sáu tháng hai, tôi được cấp giấy tha của ban giám thị, họ cho tôi về với gia đình chị Hoa, nơi mười sáu năm trước, tôi không chịu nổi hai ngày. Còn hiện tại nơi đó dù có nhục đến mấy cũng buộc tôi cam chịu nếu không có gan kết thúc cuộc đời.
Họ cho chúng tôi đi nhờ ô tô tải ra thị xã Vĩnh yên. Gần trưa xe chuyển bánh, tôi nhìn lại trại giam lần cuối – một hình tượng của sự tàn bạo. Và nhìn lại khu nhà tiếp đón các trại viên, các loài hoa vẫn đua nhau khoe sắc thắm – một hình tượng của sự bịp bợm. Tàn bạo và bịp bợm, nhờ hai yếu tố quyết định này, từ hai bàn tay không, Cộng sản đã có cả một giang sơn hùng vĩ – Tổ quốc Việt nam.
Chúng tôi đi xe hoả từ thị xã Vĩnh yên về đến ga hàng Cỏ lúc mười hai giờ đêm. Trời rét và mưa tầm tã, với bộ bà ba gụ, người nào cũng run lên cầm cập.
– Chúng ta vào cửa hàng ăn chứ? – Anh Dương Chất đề nghị.
– Phải rồi, hôm nay mình đã ăn gì đâu? – Lê Cần nói.
– Ăn một thứ gì đó ít tiền thôi, tôi không có nhiều đâu – Rét quá bác Nông văn Lý líu lưỡi lại, lắp bắp mãi mới thành lời.
– Anh Tâm cùng ăn với chúng tôi cho vui hay về ngay nhà chị – Anh Phan du Lịch hỏi.
– Tôi sẽ ở lại với đồng bọn đến sáng ngày mai – Tôi nói.
– Cùng ăn với chúng tôi một bữa nữa rồi anh về cho cả nhà mừng.
– Đúng rồi, đúng rồi – Cả bọn tán thành ý kiến của anh Lịch.
– Bác Lý và các anh ạ, chưa chắc có ai mừng cho tôi đâu, riêng tôi cũng chẳng vui gì cho lắm. Nói thật là bệnh máu xám đang lây lan đến mọi tế bào của xã hội, ngay bố mẹ, vợ con có thể như người dưng nước lã nữa là… Trong số chúng ta, may ra được gia đình anh Lịch.
– Đúng rồi – Bác Lý nói – tôi đi tù hơn một chục năm, không nhận được một lời thăm hỏi của vợ con. Nay được về chắc gì chúng nó đã mừng. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, nhưng giọt máu đào đã hoá thành máu xám tanh hôi không quý bằng giọt nước. Trong số mình chỉ có anh Lịch là yên tâm, khi đi tù không sợ vợ bỏ, con hư, nay về được gia đình thương yêu chăm sóc.
– Tôi nhờ bề trên ban phước lành – Anh Lịch nói – không như nhiều người khác, vợ trẻ thì mất, vợ già thì lòng thòng, đĩ bợm, anh em xa lánh vì sợ liên quan, ảnh hưởng xấu. Một người đi tù là một gia đình tan tác, con cái thất học, hư hỏng đi vào con đường trộm cắp, lưu manh, gái làm tiền, lừa đảo.
– Tôi không có gia đình, ngoài cái dở cũng có cái hay, không phải lo buồn về chuyện vợ bỏ, con hư – Tôi nói.
– Mình được ra tù như con cá từ chậu nước ra sông, tại sao cậu bảo không vui gì cho lắm? – Cần hỏi – Tớ không có gia đình, không có họ hàng thân thích ở xứ Bắc hà này, tớ còn rạo rực niềm vui huống chi người khác.
– Anh Cần ạ, anh lạc quan quá đấy. Mình như con cá nằm trên thớt nay được thả vào chậu nước chứ đâu được ra sông. Anh nghĩ những phương kế gì để giải bài toán khó phía trước cuộc đời? Anh có vốn sống trong tù hai mươi mốt năm, nhưng cái xã hội vừa đặt chân tới, anh vô cùng xa lạ. Trong tù, anh không phải lo cơm ăn, áo mặc, còn ở cái xã hội này, nếu không có phương kế gì làm ra đồng tiền, bát gạo, anh cứ nằm chờ ngày tử thần hiếu khách đón về nơi đoàn tụ. Người quan tâm, thăm viếng anh là người hỏi tội.
– Cậu có hiểu nguyên nhân nào dẫn đến bệnh máu xám không? – Cần không phản đối, hỏi tôi sang chuyện khác.
– Phóng xạ nguyên tử gây ra bệnh máu trắng để huỷ diệt con người. Đấu tranh giai cấp gây ra bệnh máu xám để huỷ diệt tình người. Trong tù, họ sử dụng cái gọi là thực hiện bốn tiêu chuẩn cải tạo và biện pháp bình bầu mức ăn để tù nhân cắn xé lẫn nhau. ở ngoài, họ xúi giục người này theo dõi, tố cáo người kia, hồi cải cách: con tố bố, vợ tố chồng. Tất cả những hiện tượng đó là để thực hiện đấu tranh giai cấp của đảng. Vì thứ lý thuyết kích thích thú tính ấy mà lòng nhân ái bị tiêu diệt ngay trong mỗi gia đình. Những ai rơi vào cảnh phụ tử, phu phụ, huynh đệ tương tàn xin đừng oán trách lẫn nhau. Và xin họ hiểu rằng, đấu tranh giai cấp là thủ phạm.
– Theo cậu thì yếu tố nào đã đưa chế độ Cộng sản đến với sự tàn bạo nhất trong lịch sử?
– Mình vào ăn đã, nói chuyện sau – Đến trước cửa hàng ăn, bác Lý nói.

Mỗi người ăn một đồng cơm và một đồng thức ăn – một bát canh sườn nấu bắp cải. Ai cũng khen cơm ngo
n nhưng đắt quá, chỉ được hai lưng bát. Cô bán hàng đon đả trả lời:
– Gạo quê đấy, không phải mậu dịch đâu. Gạo quốc doanh đong ở ngoài chợ đen thì rẻ hơn nhưng vừa hẩm vừa nhiều thóc, sạn, không có khách ăn.
Cô gái chăm chú nhìn chúng tôi rồi hỏi:
– Xin lỗi, hình như các bác ở trại về?
– Sao em biết? – Cần hỏi.
– Từ quần áo đến thân thể những người như các bác, chẳng ai còn lạ gì. Người nào cũng xanh xao, gầy guộc như một nắm xương tàn.
– Người dân ghét chúng tôi lắm phải không?
– Nói gì đến người ngoài, người trong gia đình các bác còn sợ liên quan, không dám gần nữa là…
– Chúng tôi không phải loại người cướp của, sát nhân hay lưu manh, lừa đảo.
– Nếu là tù phản cách mạng thì người dân còn sợ và đáng ghét hơn. Nhiều lần cháu đi họp ở khối phố, chính quyền, công an nói: “Tội phạm hình sự là sản phẩm do tàn dư của bọn đế quốc, thực dân. Nếu tên nào cải tà quy chính sẽ được đảng mở cho con đường thoát. Còn tội phản cách mạng – tay sai của đế quốc, nếu có được tha cũng không cho phép chúng hoà nhập vào cộng đồng xã hội”
– Anh Cần thấy chưa? – Tôi hỏi.
– Thế đấy! Khi còn ở trong tù, tớ cứ tưởng họ trả lại tự do là có quyền công dân.
– Tự do à? Cả dân tộc cũng không có nữa là những tên tù phản cách mạng. Chúng mình từ lồng hẹp được ra lồng rộng chứ chế độ Cộng sản có tự do đâu mà trả. Còn quyền công dân về mặt hình thức thì có đấy, nghĩa là được đi bỏ phiếu nhưng không được lựa chọn. Nếu không theo ý đảng thì quyền này biến thành tai vạ như chơi.
Bụng đói như cào, trong một vài phút người nào cũng ăn ngấu nghiến hết bát cơm, có người còn nguyên thức ăn. Ăn thêm mỗi người một đồng cơm nữa mới tạm ấm dạ dầy. Bàn bên cạnh, một cặp vợ chồng trẻ vừa ăn vừa nhìn chúng tôi, cùng khúc khích cười. Có lẽ họ cười vì thấy bọn chết đói được ăn cơm gạo ngon.
– Kể ra có tiền thì già này phải ăn thêm một đồng nữa mới no.
– Nếu còn đói, bác cứ ăn đi, cháu sẽ chi tiền – Anh Lịch nói.
– Cảm ơn anh. Vừa từ nhà tù ra, anh cũng như tôi, tôi không dám… Mẹ kiếp làm điều ác thì thả sức, còn làm điều thiện chi li quá! Ngoài tiền tàu xe, người nào cũng đủ tiền ăn cầm hơi để về nhà.
Lúc đó đã gần hai giờ sáng, trời vẫn mưa nặng hạt, gió thổi mạnh. Trên hè phố, chỗ nào nước mưa cũng len lỏi hắt vào. Anh Lịch có mảnh vải đi mưa, năm người ngồi tụm lại lấy vải đi mưa che đầu. Từng cơn gió thổi ào ào, cành cây gẫy, lá rụng bay lả tả, gió mang theo nước mưa lạnh tạt vào người, chúng tôi ôm lấy nhau mà vẫn rét run lên.
– Cậu trả lời tớ câu hỏi lúc nãy đi – Cần nói.
– Về nhà mà ngủ anh Tâm ạ, ở đây làm gì cho khổ – Bác Lý nói.
– Hàng nghìn đêm trong ngục còn chịu đựng được, một đêm thành kẻ đầu đường xó chợ đã sao? Trong tù, đôi khi chúng ta va chạm với nhau vì hớp nước, vì ngọn rau, miếng khoai, mẩu sắn đó là do cảnh ngộ gây nên. Sắp đến giây phút chia tay, mình càng thấy quyến luyến mến thương nhau. Chấm dứt cảnh mắt trước mắt sau, vụng trộm chia nhau từng ngọn rau rừng luộc bằng ống bơ, ống nứa cũng là thời điểm chúng mình phải xa nhau – xa những người cảm thương sâu sắc cùng tồn tại một thời gian dài trong cái địa ngục cõi trần.
– Tâm nói đi – Cần lại giục.
– Mọi chế độ độc tài đều dẫn đến bất công và tàn bạo. Riêng chế độ Cộng sản, chẳng những thế mà còn thực thi lý thuyết đấu tranh giai cấp đã đưa thể chế này đến tột đỉnh của tội ác. Muốn chứng minh thì dài lắm, để chờ dịp khác. Bây giờ chúng ta hãy nghỉ đi.
Đêm trước thức trắng, đêm ấy mặc dù trời mưa rét, ướt át, cả bọn ôm lấy nhau ngủ. Còn tôi, vẫn thức sau khoảnh khắc thiếp đi lại tỉnh vì chợt nhớ đến những nỗi gian nan đang chờ đón.
Mười sáu năm trước, tôi không sống nổi trong gia đình chị Hoa hai ngày, bây giờ sẽ ra sao? Xưa kia trong thành phố, ít nhiều tôi được quyền lựa chọn, hiện nay quyền đó không còn nữa. Gia đình chị có làm nhục đến mấy tôi cũng đành cắn răng mà chịu nếu còn muốn sống. Phải chăng số phận đã buộc chặt tôi vào nơi ô nhục ấy? Tôi chạy trốn đi đâu cho yên trong cái lồng sắt khổng lồ với cái tội danh phản cách mạng – một tội ghê tởm hơn cả bệnh giang mai, ghẻ lở trong nhãn quan của mọi người? Thoát khỏi cái địa ngục cõi trần tôi sắp đến một nơi tù ngục mới. Trong cái địa ngục trần gian kia, bệnh đói kinh niên vò xé thì nơi tù ngục mới, nỗi nhục sẽ hành hạ tôi đến kiệt sức, mỏi mòn thêm. Nơi ở cũ, tôi có thể trả giá để bảo vệ lấy danh dự của một con người, còn nơi ở mới, phương kế tối ưu là tôi đành ngậm đắng nuốt cay. Trả giá với chị với anh rể và các cháu ư? Không thể được, nếu làm thế nỗi nhục càng tăng theo cấp số: tôi mang tiếng với bàn dân thiên hạ cũng nhúng tay vào cảnh cốt nhục tương tàn. Từ nạn nhân của sự tàn bạo, tôi trở thành nạn nhân của bệnh máu xám đang lây lan vào mọi gia đình. Là nạn nhân, lương tâm, ý thức không cho phép tôi trở thành tội phạm. Dù cùng cực đến mấy, tôi vẫn phải giữ đạo làm người, không để dính những vết nhơ của nền văn hoá Cộng sản –thứ văn hoá huỷ diệt tình người, kích thích oán hờn và dối trá…

Tôi đang miên man suy tưởng thì tiếng động cơ và chuông tàu điện vang lên làm cả bọn tỉnh dậy. Lúc này, mưa đã ngớt c
húng tôi bỏ mảnh vải mưa che đầu xuống. Cánh cửa nhà chúng tôi nghỉ ngoài hè phố từ từ mở. Một lão già bước ra, mắt dán vào cả bọn rồi quát:
– Ai cho các người ngồi ở đây? Các người phải đi ngay nếu không, tôi báo công an.
– Chỉ ngồi nhờ ngoài hè phố chứ làm hại ai đâu mà ông phải nặng lời – Dương Chất nói.
– Như thế còn nặng lời à? Các người nếu không phải là bọn lưu manh, trộm cắp thì là lũ phản động, bán nước chứ gì? Cút đi mau, không hơi đâu phân giải với chúng mày.
Không ai nói thêm gì nữa, lặng lẽ đứng dậy đi nơi khác.
– Ta cùng ăn cái gì đó rồi chia tay thôi, các anh ạ, kẻo nhỡ tàu xe – Bác Lý nói.
– Ta cùng đi ăn phở, đã hai mươi mốt năm không biết đến, tôi quên mùi vị của nó rồi – Cần đề nghị.
– Gần bảy chục mùa xuân mà chưa biết phở thế nào, tôi cũng muốn thưởng thức món này trước khi quy Phật – Bác Lý nở một nụ cười móm mém nói.
Chúng tôi vào một cửa hàng phở, mỗi người một bát một đồng. Bà bán hàng tỏ lòng thương cảm nói:
– Các bác đi trại về, tiền ít, sao không xếp hàng mua phở quốc doanh cho rẻ. Chúng tôi chịu thuế nặng, mang tiếng bán đắt mà chẳng lời lãi bao nhiêu.
– Cảm ơn bác, chúng tôi phải về quê xa, sợ nhỡ tàu xe – Anh Lịch nói.
– Tưởng các bác ở đây, chứ ở xa làm gì có thời gian. CNXH đồng nghĩa với cả ngày xếp hàng mà.
Ra khỏi cửa hàng, chúng tôi bịn rịn chia tay nhau. Anh Phạm du Lịch về Tiền hải, Thái bình, anh Dương Chất người Việt gốc Hoa về Cẩm phả, Quảng ninh. Bác Nông văn Lý, người dân tộc Mèo về Hà giang, bác xiết chặt tay tôi, nói:
– Tôi cứ tưởng bỏ xác trong tù, nay nhờ ông trời xui khiến cho tôi được về nhà nhìn thấy vợ con rồi mới chết, xin vĩnh biệt anh. Tôi chúc bác thượng lộ bình an.
– Chào cậu tớ về Nam hà đây – Cần nói.
– Anh làm gì mà vội thế? Hơn hai mươi năm xa cách Hà thành, nay nên ở lại một vài ngày để thăm đường xưa, phố cũ.
– Sau này ổn định sẽ hay, còn bây giờ tớ phải về quê hương mới.
Một giáo dân ở huyện Xuân thuỷ, Nam hà là Đỗ sinh Viên khi được tha năm 1973 có hứa với Cần, khi nào Cần được về sẽ đến nhà anh, anh sẽ giúp đỡ.
Ngừng trong giây lát rồi Cần reo lên:
– Thôi được rồi, tớ sẽ nghe lời cậu, biết đâu…
Mặt Cần rạng rỡ hẳn lên.
– Anh chợt nhớ ra điều gì mà vui thế?
– Nếu người ấy giữ lời hứa, tớ sẽ ở lại Hà nội cùng với cậu.
– Như thế nào anh có thể nói sơ qua cho tôi biết không?
– Chà, chà hay quá, suýt nữa thì quên mất! Tớ sẽ báo tin cho cậu sau.
Ngay chiều hôm ấy, Cần đi tìm gặp cố nhân, nhà ở khu tập thể bờ sông. Đến nhà, Cần hỏi:
– Chào chú Hoán. Chú còn nhớ tôi không?
Chủ nhà sững sờ một hồi lâu rồi nói:
– Không, không tôi không biết bác là ai cả?
– Trí nhớ chú tồi quá. Tôi là Cần đây.
– Cần là ai, tôi không nhớ… Mà hình như…
– Chú còn nhớ thời kỳ chú phạm pháp lái xe không? Chúng ta quen nhau ở Hỏa lò, chú hứa, khi nào tôi được về chú sẽ giúp. Nay tôi mới được tha và cầu mong tình thương rộng mở của chú.
Hoán ôm lấy Cần và nói:
– Em nhớ ra rồi. Em tưởng anh đã chết trong tù. Nói thật là hình ảnh của anh đã lùi về dĩ vãng trong ký ức em. Dù sao, em vẫn phải giữ lời ước hẹn.
Ngừng vài giây, Hoán nói tiếp:
– Em sẽ làm hết mình để giúp đỡ anh, song nếu có trở ngại gì mong anh thông cảm.
– Tôi biết chú Hoán ạ. Chính quyền sẽ ngăn cản việc giúp một tên tù phản cách mạng chứ gì?
– Vâng, đúng thế. Em sẽ nói với công an, anh là người anh họ của nhà em.
Về phía cơ quan an ninh chắc cũng biết rõ Cần chỉ là tên vô danh tiểu tốt trong hàng ngũ đối phương, bản chất Cần hèn hạ, tài năng không có. Hơn nữa, cơ thể Cần đã tàn tạ, mắt kém, đi lại loạng choạng, khó khăn. Cần không thể làm một việc gì có nguy hại cho cách mạng.
Do vậy, họ để Cần được sống trong gia đình Hoán. Hoán có một tấm lòng nhân hậu và dũng cảm vô cùng hiếm trong xã hội Việt nam thời Cộng sản. Anh như một bông hoa rực rỡ trong hoang mạc mênh mông.
Đời cũng thật trớ trêu, một kẻ vừa hèn hạ. vừa bất nhân, bất nghĩa như Cần lại nhận được sự giúp đỡ tận tình của những tấm lòng nhân ái. Sau này, ông Nguyễn văn K… và Hoán chắc phải hối tiếc vì bản chất của Cần không hề thay đổi.
* *
*

Chia tay những người đồng cảnh, tôi thất thểu về nhà chị. Nỗi buồn cô đơn, trống trải vò xé lòng tôi. Xe đạp, xe máy, xích lô len lách nhau xuôi ngược rợp đường. Trên hè phố, người qua lại tấp nập. Đi giữa nơi đô hội ồn ào mà sao tôi vẫn cảm thấy hoang vắng, bơ vơ. Dòng ngườ
i qua lại trên đường phố ném vào tôi những ánh mắt lơ láo. Ngược lại tôi chỉ trả họ với cái nhìn của nỗi buồn thương. Hơn ba thập kỷ, một thế lực tàn bạo, bịp bợm và xảo quyệt đệ nhất trong lịch sử, đã và đang dồn nén dân tộc vào một khuôn mẫu – ý thức hệ Marx – Lénine. Nó có thể tiếp tục chém giết người, xiềng xích, đoạ đầy thể xác con người nhưng nó không thể và không bao giờ tiêu diệt được những ý chí kiên cường, bất khuất vì tự do, dân chủ và nhân quyền của dân tộc. Đáng buồn là những ý chí ấy quá ít ỏi trong thời cường thịnh của Cộng sản, còn lại phần đông vì hèn yếu đã đưa họ đến cuồng tín, u mê.
Bỗng những âm thanh khủng khiếp vang lên từ một loa truyền thanh trước cửa ga:
Miền nam có bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng…
Những âm thanh làm tôi rùng mình hoảng sợ. Tôi rảo bước như muốn trốn chạy những âm thanh đó nhưng chạy đâu cho thoát? Chúng cứ đuổi theo bám sát tôi, làm đầu óc tôi choáng váng:
Việt nam Hồ chí minh!
Việt nam Hồ chí minh!
Những âm thanh như mũi dao nhọn khoét sâu vào vết thương tôi đã bị cách đây mười tháng. Vết thương lòng đau và còn đau mãi. Vết thương không phải của riêng tôi mà của dân tộc, trong đó có hàng triệu người phải vào trại tập trung cải não và hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Khi nào lịch sử còn mỉm cười với loài quỷ đỏ thì vết thương đó chưa lành. Thực ra, nó là dấu ấn khắc sâu vào trang sử bi thương của dân tộc sẽ không bao giờ lành cả. Nó là ngày quốc hận.
Những âm thanh làm tôi nhớ lại hồi tháng tư năm 1975. Cả tháng tôi trải qua một cơn khủng hoảng, như kẻ mất hồn vì những chiến thắng liên tiếp của Cộng sản ở miền Nam. Để tuyên truyền thắng lợi, bọn cai ngục cho đặt thêm một loa truyền thanh từ cổng trại dội vào. Lúc đó, tai tôi đã bị nghễnh ngãng hơn thời gian trước. Nguyên do làm tôi điếc thật đơn giản. Tháng tư năm 1970, tôi lâm bệnh đường ruột cấp tính, trại giam không có thuốc, không chạy chữa. Nhờ một người bạn tù là Nguyễn thanh San có hàng trăm viên Chlorocid, tôi uống thuốc không được sự hướng dẫn của thày thuốc, may mà khỏi bệnh thì thính giác bị suy yếu dần.
Trong phòng giam còn lại mười một người tù phản cách mạng, chỉ có anh Cần là thường xuyên theo dõi thời sự. Tôi không nghe rõ tin tức từ loa truyền thanh dội đến nên hỏi anh Cần. Vài ngày sau đó, có một con chó săn bẩm báo nên thượng uý phó giám thị thường xuyên vào trại doạ dẫm. Đứng trước tù toàn trại, hắn tuyên bố:
– Bầu trời miền Nam đang thay đổi. Bầu trời Vĩnh quang đã thay đổi hoàn toàn. Tôi thay mặt ban giám thị báo cho một vài anh trong nhóm phản cách mạng biết, từ nay chúng tôi không nhượng bộ các anh đâu.
Khi nói, hắn nhìn thẳng vào tôi và Cần. Ánh mắt của tên cai ngục vừa hung bạo, vừa dương dương tự đắc. Cần hoảng sợ, mặt tái nhợt hình như không còn giọt máu nào. Tôi biết, lúc này chỉ để một sơ suất nhỏ, chúng cũng có cớ để giết mình. Bị uy hiếp, Cần không dám nói chuyện với tôi nữa.
Một hôm, ở nơi lao động, Cần trông trước nhìn sau không thấy ai, anh ghé vào tai tôi nói:
– Sự thể thế này, chúng mình nên im lặng, giả câm giả điếc là hơn…
– Xem ra anh còn yêu cuộc đời khốn khổ của mình lắm. Còn tôi coi như mình đã chết rồi.
– Viêc quốc gia, đâu phải của riêng mình, nghĩ và buồn làm gì cho thêm kiệt sức nữa?
– Tôi hỏi anh, ai bỏ tù mình? Ai làm cuộc đời mình tàn héo? Kẻ nào đưa dân tộc đến đau thương, quằn quại? Nay kẻ thù đang đại thắng thì không đau lòng sao được?
– Cậu nói có lý nhưng lúc này không khéo léo thì nguy hiểm lắm, họ giết mình dễ như chơi. À này, tớ chỉ thông báo tin tức, thời sự với cậu bằng cách ra hiệu thôi. Nếu cậu nhất trí, từ tối hôm nay, khi nghe thấy tin buồn, tớ xoa đầu gối, nếu tin vui, tớ sờ tay lên má.
– Tôi nhất trí và cảm ơn anh trước.
– Nhân thể gặp cơ hội tốt, tớ thông báo tin khái quát, mất đến Nha trang, Khánh hoà rồi. Tớ cầu mong một sự kiện như ở Triều tiên lại diễn ra.
– Khó lắm, cuộc chiến kéo dài mà Mỹ không giành được một thắng lợi nào cơ bản, đành phải rút quân. Ông Nixon đã phải từ nhiệm. Tổng thống Foni có quyền hành gì phủ quyết quốc hội để tiếp tục can thiệp vào miền Nam?
– Thời điểm này là cơ hội tuyệt vời để Mỹ giành thắng lợi quyết định. Cậu có nghĩ, Mỹ bỏ cuộc chiến là một sai lầm nghiêm trọng hay không?
– Anh nói đúng. Ngoài ra người Mỹ cũng mắc những sai lầm nghiêm trọng khác.
– Cậu cho một dẫn chứng?
– Mặt trận giải phóng chỉ là cái đuôi con rắn, tại sao đánh rắn, Mỹ không đánh mạnh vào đầu? …
– Các anh không làm việc, đứng nói chuyện xuyên tạc đấy phải không? Đi làm ngay – Tên quản giáo đi đâu về nhìn thấy chúng tôi nói chuyện, hắn quát.
Từ hôm ấy, mỗi khi nghe bản tin thấy Cần xoa tay vào đầu gối là một lần như mũi kim nhọn đâm vào trái tim tôi. Thế là cả tháng tư tôi khóc, ngày sau khóc nhiều hơn ngày trước. Một tháng tư đen giông tố khủng khiếp nhất trong cuộc đời. Không phải tôi khóc vì thương tiếc cuộc đời mình, dù miền Nam còn hay mất vào tay Cộng sản, tôi vẫn nằm gọn trong tay chúng. Tôi khóc vì thế sự phũ phàng, cái ác đã chiến thắng, hoàn toàn chiến thắng, ngự trị cả tổ quốc Việt nam.
Vâng, tôi chỉ khóc thầm trong nỗi cô đơn, tủi nhục. Nước mắt tôi chảy khi mọi người xung quanh đang yên giấc, vì tia hy vọng nhỏ nhoi của tôi đến nay đã hoàn toàn bị dập tắt. trong cái thế giới u mê, ghê tởm và tàn bạo này, tôi tìm đâu ra một người bạn tri tâm để than thở nỗi đau. Hơn nữa, nước mắt tôi không may lọt vào ánh mắt của một tên cai ngục sẽ biến thành một bản án tử hình không tuyên bố.
Tôi oán trách người Mỹ bỏ miền Nam. Vì những sai lầm nghiêm trọng trong cuộc chiến, phải trả một giá rất đắt mà họ đã thất bại. Một cơ hội tốt nhất giành thắng lợi quyết định mà họ đã bỏ qua để hợp chủng quốc Hoa kỳ phải chịu một nỗi nhục nhất trong hai trăm năm dựng nước.

Đến bến xe Kim liên, tôi sực nhớ ra là mình đã đi quá đường. Tôi quay lại, rẽ sang phố Khâm thiên để về nhà chị. Chặng đường đến ô chợ dừa, tôi cứ quẩn quanh trong ý nghĩ, sống ở nhà chị sẽ ra sao, điều gì sẽ đến? Nhục mình cam chịu nuốt nhục nhưng không thể hạ mình để cầu xin một sự bình an. Phương kế tốt nhất là mình im lặng, tai giả điếc, mồm giả câm “Khốn cùng không nhục… không phải là người…”.
Gần đến ô chợ dừa, tôi đi chậm lại, hình như có ai đó cản bước và nhủ tôi rằng: “Từ một nhà tù đoạ đầy về thể xác, mày đang đến một nhà tù hành hạ về tinh thần”. Vâng, tôi biết lắm, nhưng tôi không thể cưỡng lại số phận đã an bài, cũng như dân tộc không thể chống lại cơn hôn mê của lịch sử đang nâng niu, o bế những con quỷ sứ.
Qua chợ dừa mươi bước, tôi dừng lại. Đứng trên đường nhìn xuống nhà chị, vẫn gian nhà lá lụp xụp ngày xưa. Bước mươi bước nữa là đặt chân vào nhà chị, sao tôi cảm thấy muôn trùng xa cách, cảm thấy ghê sợ, ngại ngần? Nhưng số trời đã quyết, có mấy ai “nhân định thắng thiên…”. Tôi đang bối rối thì chị Hoa từ trong nhà rảo bước đi ra và gọi:
– Tâm, em đã được về? Em quên nhà chị hay sao mà đứng mãi trên đường?
Chị dỡ gói hành lý trên tay tôi và dẫn tôi vào nhà. Anh Hoàng đi làm, ba cháu đi học, chỉ còn cháu nhỏ ở nhà. Chị nói với con:
– Sang, đây là cậu Tâm của con.
– Cậu ở đâu về đấy mẹ – Thằng Sang nũng nịu hỏi.
– Cậu ở xa về, con ạ!
– Con ra đầu ô chơi đây, mẹ ạ! – Nói xong, thằng bé chạy ra ngoài.
– Hôm nay, trời rét lắm, em không còn áo hay sao mà mặc thế này?
– Còn chiếc áo bông cũ, nhưng – Tôi lấy chiếc áo bông trong túi vải ra cho chị xem và nói tiếp.
– Khi đi, em mang theo chiếc áo bông này, vỏ áo rách, ruột bông cũng rách từ lâu, em vá víu hàng chục mảnh vải sọc xanh, sọc đỏ thế này, đi đường mặc không tiện.
– Khốn khổ, trong tù em phải mặc thứ này ư?
– Nó là bạn thân của em hơn chục mùa đông qua, nếu không có nó thì lấy gì mặc chống rét!
Chị lấy cái áo đại cán của anh Hoàng khoác vào người tôi và nói:
– Em mặc tạm cho đỡ rét.
– Phiền lắm, em chưa cần đến nó đâu! Em cũng quen với đói rét rồi.
– Không sao, chiếc áo cũ ấy mà – chị nói tiếp – đưa chị cái túi xem có những thứ gì?
– Toàn là giẻ rách thôi, và vài thứ lặt vặt – tôi trả lời và mở túi cho chị xem. Chị bới trong túi ra chiếc bàn chải đánh răng như còn mới, chị hỏi:
– Em mới mua thứ này à?
– Chị cho em năm 70 đấy, trong tù lấy tiền đâu ra mua.
– Sao còn mới thế?
– Mỗi lần dùng xong, em lấy hai thanh nứa kẹp và buộc lại.
– Thật tội nghiệp, nếu không ở tù cũng khó mà tin.
– Vâng từ cuộc sống của con người bị đẩy vào kiếp sống của loài vật, diễn ra muôn vàn hiện tượng man rợ, chị tin sao được! Chẳng hạn, một que tăm em dùng được hơn ba tháng.
– Vô lý quá! – Chị lắc đầu, nói.
– Có vẻ vô lý nhưng là sự thật. Trong Hoả lò không được phát tăm. Bữa đầu em thấy tù nhân lấy tăm từ cạp quần, vạt áo ra dùng rồi lại cất vào chỗ cũ. Em hỏi một bác già thì được trả lời:
– Phải tự tạo lấy mà dùng. Nếu cậu muốn, cứ lấy cắp một cái đũa, đến đêm dùng răng chẻ ra thành tăm. Cẩn thận, nếu bị lộ, họ kỷ luật đấy. Em làm theo ý kiến này. Vì sợ, em chỉ lấy và giấu đi ba que tăm dài dùng được mười tháng ở Hoả lò đến khi đi trại. Nếu kể cuộc sống man rợ trong tù, chị sẽ khó tin hơn… À này, Đản có hay xuống thăm chị không?
Mặt chị xịu lại đượm một vẻ buồn khó tả, mắt chị rơm rớm lệ, chị trả lời như nói một mình:
– Đản chết rồi!
– Chị ơi, Đản chết thật rồi sao? – Tôi kêu lên và không giữ nổi dòng nước mắt.
– Đản chết trong trận bom bi Mỹ năm 1967. Chị đã quyết định giấu em vì không muốn em chịu thêm đau khổ trong tù. Nhân thể, chị cũng báo cho em thêm một tin buồn nữa, chị Dền cũng đã chết năm 1969. Thương tâm nhât là cháu Diệu con chị Dền, năm tuổi mồ côi mẹ, phải chịu cảnh dì ghẻ con chồng. Tám tuổi mồ côi cha phải đi ở với chú bữa cháo, bữa rau. Chị và cả cậu nữa phải có trách nhiệm giúp đỡ cháu.
Tôi vật ra giường khóc nấc lên thương em tôi hiền lành, yếu đuối, sống khổ nhục, chết thảm thê. Thương chị cả tôi cả đời nghèo khổ, chết non. Trong số anh chị, chỉ có chị Dền là người nhân hậu, thương em.
Chị Hoa khóc không thành tiếng. Phải chăng chị cũng đang đau xót về cảnh tan nát, li biệt của gia đình?
– Đừng khóc nữa, em – Chị nghẹn ngào khuyên nhủ – Dù sao đau thương đã qua rồi, em cố gắng bình tâm lại, chị thấy em gầy yếu, tiều tụy quá chừng. À, họ quyết định chỗ ở của em thế nào, có ở Phó đức chính nữa không?
– Chị ạ, dựa vào lý lịch, trong giấy tha, họ quyết định em ở với chị. Em không muốn gây phiền phức cho ai nhưng không còn đường nào khác.
– Em cứ yên tâm ở đây. Chị nghĩ rằng, anh Hoàng và các cháu cũng bằng lòng.
– Em cũng ước mong như vậy. Tuy nhiên, cả nhà nên thông cảm cho em, phải ở nhờ bao giờ cũng là một nỗi đắng cay, em không muốn kéo dài tình trạng đó.
Đến mười hai giờ, ba cháu đi học về. Xưa kia chúng còn nhỏ, nay gặp và nhận cậu chúng cũng có vẻ vui mừng.
Trưa hôm ấy, tôi được ăn một bữa cơm ấm áp tình cảm gia đình, tâm hồn tôi có phần yên tâm, thanh thản. Và tự oán trách mình, vội nghĩ những điều không hay về gia đình chị. Tôi hy vọng rồi đây phải tự oán trách mình nhiều hơn nữa.
Đến ba giờ chiều, tôi mặc chiếc quần kaki cũ và chiếc áo đại cán của anh Hoàng đi tàu điện lên bờ hồ Hoàn kiếm. Rồi từ đó, tôi đi bộ đến thăm nơi ở cũ. Nhìn lại hồ Gươm phong cảnh vẫn quyến rũ, nên thơ: mưa rơi lất phất, tháp Rùa xa xa mờ ảo, mặt hồ gợn sóng lăn tăn, Thê húc yểu điệu uốn mình, chợt tôi nhớ lại một buổi chiều hè, Khoa rủ tôi đến thăm hồ lần cuối. Anh mơ màng nhìn hàng liễu rủ, cảm hứng buông mấy vần:

Buồn trông liễu rủ ven bờ,
Xa em luống những bao ngày nhớ thương.

Tôi thầm nhủ, Khoa ơi, không phải mày xa em (xa Thê húc) mà mày đã vĩnh biệt tất cả, từ bỏ cái thế giới tội ác và nhơ bẩn này. Nay còn đâu những buổi chiều êm đềm ấy và còn đâu những đêm tắm dưới ánh trăng vàng, chúng mình ngồi bên nhau tâm sự như một cặp tình nhân nồng thắm. Vĩnh biệt mày, tao vĩnh biệt một bạn tri tâm duy nhất để cuộc đời tao thêm cô quạnh, não nùng.
Trên đường đi tôi rẽ vào vườn hoa hàng Đậu, đứng nhìn ngôi nhà bác Vũ thị Hiền dạo trước, ngôi nhà có vẻ hoang tàn lạnh lẽo. Tôi có ý định hỏi thăm Nga đã được về chưa? Sau mấy phút ngại ngần, lưỡng lự, tôi đi nhanh đến dốc hàng Than. Sắp bước chân xuống bậc vào chùa, tôi đứng lại nghe tiếng hát ru từ xa vọng lại:

À ơi, Đồng đăng có phố Kỳ lừa,
Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh.
Ai lên xứ lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em…

Tiếng hát thân quen ấm áp làm sao!
Vào sân chùa, tôi đến góc nhà chùa ngoài, nơi gia đình anh Cương ở, người đi đâu vắng. Một bà tiểu đồng từ chùa trong ra, hỏi:
– Anh hỏi ai?
– Thưa bà, cháu đến thăm bác Cương.
– Bác ấy đang bận dưới bếp, anh đợi một lát.
Bà tiểu đồng này là bà Dậu rất nhân từ, phúc hậu. Sau mười một năm, tôi thấy bà không thay đổi bao nhiêu. Có lẽ do cơ thể tôi quá tàn tạ, già trước tuổi nhiều nên bà không nhận ra tôi nữa. Nói xong, bà tiểu đồng đi nơi khác. Tôi lẻn qua cửa góc chùa để ra một khu vườn nhỏ. Nhìn lại, phong cảnh cũ, cây ngọc lan vẫn như xưa, hoa vẫn toả hương thơm ngào ngạt, đàn chim xanh nhỏ xíu vẫn ríu rít trên cành. Ngoài song cửa chùa trong, vài cành liễu, lá mượt mà, tha thướt rủ. Bên trong đã vắng người xưa. Thay vào chỗ em ngồi là một bình sứ cổ lớn cắm một cành đào hoa nở rộ. Tiếng hát ru thân quen, ngọt ngào âu yếm vẫn văng vẳng bên tai:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm ở, canh chày…
Lòng tôi bồi hồi, xao xuyến và thầm kêu lên: “Chim ơi, đừng hát nữa, hãy bay đi; Hoa ơi, hãy ngừng toả hương thơm; gió ơi, hãy đứng im để những làn sóng âm thanh kia xô đập vào trái tim ta nhiều hơn nữa để ta hưởng những hương vị thoang thoảng còn vương lại trong dĩ vãng của ái tình thêm giây phút”. Thật khôi hài, trái tim kẻ khốn nạn vẫn rung lên khúc nhạc tình ca!
– Chú Tâm đấy à, về bao giờ?
– Chào anh. Em mới về sáng nay.
Anh Cương gầy và già hơn trước nhiều. Thấy tôi, anh nửa mừng, nửa sợ. Anh gọi nhỏ, âm thanh xào xạc như gió thổi qua một hàng cây. Tôi đang thả tâm hồn bay đến khoảng trời yêu thương, nhớ tiếc, tiếng nói của anh làm tôi giật mình bừng tỉnh.
– Họ cho chú về đâu?
– Về ô chợ dừa ở với chị em.
– Anh mừng cho chú. Cố gắng mà ổn định cuộc sống, tuy khó khăn hơn trước nhiều nhưng thời phải theo thời chứ biết sao?
– Mười một năm xa cách, bao giờ em cũng nhớ và biết ơn anh. Khi em đi, có lẽ để lại cho anh nhiều rắc rối?
– Nay ra đồn, mai lên khu, lên sở suốt mấy năm liền, gần đây họ mới để cho yên. Đúng là quít làm cam chịu tội lây.
– Khối phố họ có nói gì em không?
– Căng thẳng lắm, lần nào họp, công an chẳng nhắc đến chú là tên phản động nguy hiểm.

– Dù sao tai vạ đến với anh cũng đã qua r
ồi.
– Qua à? Chú nói dễ dàng thế? Thời đại này người dân có công họ mới mau quên. Đấy là chưa kể hồi cải cách, hàng vạn người có công hoá thành tử tội. Còn có tội hoặc liên quan với người có tội thì chẳng bao giờ…
– Vâng anh nói đúng nhưng khi em đã được tha, họ không hành anh như xưa nữa.
– Số tôi còn may đấy. Nếu chú trốn thoát thì tôi phải đi tù thay chú, cũng giống như nhiều bộ đội vào Nam chiến đấu lại chạy sang hàng ngũ đối phương để cả gia đình ở miền Bắc chịu tội thay. Tôi cũng mong được sống bình thường, bình thường chứ không phải bình yên đâu nhé.
– À, Nguyệt lấy chồng rồi phải không anh?
– Đã chín năm rồi, nó lấy con ông cán bộ cấp cao ở đầu phố Yên phụ kia kìa – Tôi thoáng nghĩ chồng Nguyệt có lẽ là anh ruột của Vân. Ngừng trong giây lát, anh Cương nhìn thẳng vào mặt tôi, nở một nụ cười hóm hỉnh, anh tiếp:
– Quái lạ, sao chú lại quan tâm, thăm hỏi đến con bé này?
– Vâng, anh thấy lạ lùng à?
– Có thể xưa kia chú đã – Anh Cương ngập ngừng – Chú nên quên mối tình vớ vẩn ấy đi. Tôi tưởng tù tội nhiều năm phải rèn chú thành con người thực tế.
– Không, anh ạ! Trong em bao giờ cũng có hai con người, một con người thực tế chịu đựng mọi nỗi đắng cay, khổ nhục, một con người trừu tượng sống lại những ngày thơ mộng trong quá vãng.
– Thì ra, chú vẫn như xưa. Hàng chục năm tù chỉ đầy đoạ chú về thể xác.
– Vâng, bạo lực chỉ làm thể xác em tàn tạ, còn tâm hồn vẫn thế. Nếu có thay đổi chăng đó là tâm hồn em càng rộng mở?
Chào tạm biệt anh Cương, tôi về đến nhà thì trời đã tối. Gặp tôi, anh Hoàng không hỏi han gì. Anh mỉm cười nhưng nét mặt anh có vẻ đăm chiêu.
Tháng 9 –1976.
1      2      3      4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét