I
Chiều ngày mồng 9 tháng 3 nãm 1945 tôi có việc
về nhà anh T. Cơ sở cách mạng ở làng Ngọc Giang. Một căn nhà lá lụp xụp tối
tăm, nép mình trong một vườn chuối rậm rạp, nền nhà ẩm thấp, hơi đất bốc lên
hôi và lạnh. Tôi đến giữa lúc anh chị T. và hai cháu đã ngồi quanh mâm cơm. Gọi
là mâm cơm, theo cách nói thông thường thực ra chỉ là cái mẹt nhỏ, với một ít
củ chuối rau sam và rau má luộc. Anh chị chào đón tôi niềm nở. Trên khuôn mặt
vàng sạm, hốc hác, răn reo của anh chị, đôi mắt và nụ cười vẫn ánh lên một niềm
tin tưởng lạc quan và tình cảm thân thiết. Các cháu yêu quá không thể nhảy đến
với tôi được.
Chỉ đến khi tôi ngồi xuống gần bên, các cháu mới xích lại gần và
ngã đầu vào lòng tôi để tôi vỗ về. Hai anh chị vồn vã mời tôi cùng ăn cơm.
Thường thường những gia đình cơ sở và cán bộ cách mạng đều có một tình cảm đặc
biệt thân thiết với nhau như ruột thịt. Vì vậy tôi cũng để chèo kéo, vui vẻ
ngồi xuống ngay. Anh liền xoay cái mẹt cho món rau quay sang phía tôi ngồi.
Trong bữa ăn củ chuối, rau vốn là món ưu tiên cho các cháu, nay anh chị dành ưu
tiên đãi khách là tôi. Tôi dứt khoát để các cháu ăn, thế là cái mẹt cứ quay đi
quay lại, chị nhìn tôi như van lơn tôi nhận đi. Thấy vậy tôi gắp rau vào bát
cho hai cháu và dỗ các cháu ăn. Anh chị bảo: Chúng nó ăn rồi đó. Tôi hiểu thời
buổi đó ngọn rau dại cũng chẳng đủ mà ăn, nói gì đến dư dật. Là vài ngọn ran
đưa đi đẩy lại, lá rau tình rau nghĩa, biển hiện tấm lòng vì cách mạng của anh
chị T., của tầng lớp nông dân nghèo khổ. Thời kỳ ấy, nhân dân ta đang lâm nạn
đói. Củ chuối, rau dại cũng không có đủ mà ăn. Khắp các chợ ven đường cái lớn,
bờ đê, đi đến đâu cũng thấy đồng bào mình lếch thếch kéo nhau đi ăn xin hoặc
nằm co quắp đợi chết. Dọc đường, hầu như ngày nào tôi cũng gặp cảnh chết đói
thê thảm. Trên đường rẽ về nhà anh chị T. tôi thấy trước một bãi cỏ có một cuốn
chiếu rách, bên cạnh là chiếc bị thủng và chiếc gậy còn vất chỏng chơ. Lật
chiếu ra, tôi nhìn thấy một người mẹ ôm đứa con. Cả hai đều khô đét chết cứng
từ bao giờ!
Ngồi ăn củ chuối với anh chị T. tôi cứ nghẹn ứ
cổ và nhớ lại cảnh tượng dọc đường, vì tình cảnh anh chị T. và các cháu bé. Tôi
cảm thấy yêu cầu của cách mạng mình phải lật đổ bọn thống trị thật là cấp thiết
và đang từng giờ từng phút đốt cháy ruột gan tôi. Các đồng chí hoạt động cách
mạng hồi này cũng thiếu thốn nhiều, có khi nhịn đói mấy bữa liền, có khi chỉ
vài hạt ngô rang bỏ túi vừa đi công tác vừa ăn dần, uống nước nhiều cho trương
bụng. Có hôm tôi và anh Thiệp có sáng kiến mua một chiếc bánh đa nướng bẻ vụn,
ăn rí rách cả ngày và uống nước. Thế là thế cho cả hai bữa cơm. Thật là nhất cử
lưỡng tiện. Chúng tôi còn tìm ra nhiều thứ để ăn thay cơm như rau dền luộc, rau
má, dây sắn, bã đậu, thân cây đu đủ... Có lần tôi phải nhờ nhà cơ sở làm cho
bánh cám để anh em ăn chữa bệnh phù. Bánh cám cũng là thứ thay lương thực có
chất lượng nhất, lại cất dành được lâu, mang đi dễ dàng. Nhưng có lẽ gia đình
ấy cũng biết được ý đồ của chúng tôi nên thỉnh thoảng lại cho kèm một nắm cơm
còn họ thì ăn cám thay...
Mải suy nghĩ, có lúc tôi nhai uể oải. Vợ chồng
anh T. lại gắp rau mời. Đang ăn, bỗng phía Hà Nội có tiếng súng nổ lớn, một
tiếng, hai tiếng rồi nổ liên hồi cuối cùng thì rền như sấm. Chúng tôi chạy ra
sân đứng nhìn về phía Hà Nội. Anh chị T. cuống quýt hỏi tôi:
- Súng gì đấy anh? Tình hình thế nào đây!
Lúc đầu tôi cũng không hiểu. Nhưng chợt nhớ
lại các nhận định của Trung ương về mân thuẫn Nhật - Pháp, tôi thầm đoán có lẽ
chúng nó đã đánh nhau, và nói với anh chị T. như thế. Tuy nhiên tôi vẫn chưa
thật tin vào phán đoán của mình. Có thể là đây đó quần chúng tự phát nổi dậy
cướp chính quyền đánh lại phát xít Nhật cũng nên! Có thể là sự việc gì khác mà
tôi chưa nghĩ tới. Phía Hà Nội, súng vẫn nổ dữ dội. Anh chị T. đứng ngổi không
yên, chạy ra chạy vào hoài. Mấy cháu bé cũng bỏ cả nắm rau ngước nhìn chúng tôi,
chờ đợi, dò hỏi. Tôi suy nghĩ mông lung. Thực chất tình hình là gì. Hành động
của chúng tôi phải như thế nào? Lúc này các đồng chí Trung ương lại đi vắng,
tôi không biết tìm hỏi ai. Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn nói với anh chị T. bằng một
giọng tin tưởng, chắc chắn:
- Đúng Nhật - Pháp đánh nhau đấy. Anh chị ở
nhà. Tôi đi lên kia nghe ngóng xem sao?
Tôi đi, anh chị T. còn dặn với theo, có gì nhớ
về cho anh chị biết tin.
Trong đêm đó, trên dọc đường đê ngược lên làng
chài (Võng La) tôi hy vọng đón được nhanh những tin tức về Hà Nội về, vì làng
này có bến Hối, nơi qua lại của nhân dân Chèm và là một trong những mối giao
thông giữa Hà Nội với các tỉnh Trung Du. Nhưng dù nóng ruột mấy tôi cũng vẫn
phải chờ đến ngày mai. Sớm hôm sau tôi lại lên bến Hối để nghe ngóng. Vẫn chỉ
thấy nhân dân Hà Nội đang tải cư lũ lượt trên đê. Họ kháo chuyện:
- Nhật đánh Tây, chiếm hết Hà Nội rồi!
- Tây yếu lắm, có chống cự gì đâu. Toàn là
súng Nhật cả đấy!
Tôi gặp một số người, hỏi chuyện và đi tới xác
định được Nhật đánh Pháp, Pháp thua phải đầu hàng, binh lính chúng tan rã cả.
Tôi lại vội vàng theo đê trở xuôi về vùng dưới đi tìm anh Thiệp, cũng là cán bộ
đi công tác như tôi và hy vọng sẽ gặp các đồng chí Trung ương để được biết rõ
tình hình và chủ trương kịp thời để giải thích cho quần chúng.
Tôi tất tưởi đi... Xung quanh tôi vẫn lác đác
có người Hà Nội hốt hoảng đi về. Bỗng một tiếng nói từ dưới cánh đồng vọng lên:
- Đấy đấy! Một tay nữa! Đẹp ghê!
Tiếng đẹp ghê kéo dài ra tỏ rõ ý châm biếm.
Tôi giật mình tự hỏi: có phải họ nói mình không. Nhưng để bảo đảm an toàn thì
cứ phải cẩn thậnn kéo nghiêng nón che mặt. Tôi còn để ý kiểm tra lại cách ăn
mặc và cử chỉ của mình. Chẳng lẽ họ phát hiện ra mình là cán bộ Việt Minh hay
sao? Chẳng lẽ vùng này đang có vụ bắt bớ, lùng sục cán bộ ta? Nếu thật vậy, sao
dân lại nói giọng châm biếm?...
Tôi đang lo lắng thì có tiếng nói thêm:
- Từ sáng đến giờ khối ra rồi đấy! Cháy nhà ra
mặt chuột mọi ngày thì quần áo nhà binh coi đến hách dịch: thế mà hôm nay lại
phải đội lốt bà con nhà quê mình đấy! Tôi thở phào nhẹ nhõm, thì ra họ nói về
đám lính khố đỏ tan rã, cải trang chạy trốn. Tôi trấn tĩnh lại và đàng hoàng bỏ
nón ra bước đi một cách tự tin, mạnh dạn và nhìn vào những người đang tản cư
hằng cặp một dò xét để tỏ rõ mình cũng là người đang quan sát bọn lính đào ngũ
đây. Thái độ của tôi có hiệu quả nhanh chóng. Một vài tiếng xì xào: Không phải!
Tay này không phải. Cánh kia họ đi từng tốp kia mà!.
Tôi mỉm cười, thầm nghĩ: dân chúng lúc này giá
trị thật! Có khi Tây cũng phải mặc quần áo giả dân để tìm đường chạy trốn. Tôi
tự giục mình: Đi tìm các anh mau lên để sơm được biết rõ tình hình. Đế Quốc
Pháp và bè lũ tay sai đang tan rã, nhất định cách mạng đang ở trong tình thế
mới.
Nhớ cách đây hai năm, tôi biết trong một nghị
quyết của Ban thường vụ Trung ương Đảng đã có đoạn nói về Nhật Pháp xung đột và
phân tích những mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp rất có lợi cho cách mạng Đông
Dương. Quả nhiên đến nay Nhìật đã đảo chính Pháp. Tình thế có nhiều thuận lợi
cho cách mạng. Nhưng bây giờ nên làm gì, hành động như thế nào, đã nên tổ chức
lực lượng phát động quần chúng khởi nghĩa chưa? Tôi càng mong chúng, được biết
ý kiến của các đồng chí cấp trên. Một sự mong mỏi vừa tha thiết vừa nôn nóng.
Nó không khác gì hồi còn bé mỗi lần gặp phải khó khăn gì tôi lại mong gặp mẹ hoặc
chị để được nghe những lời ân cần chỉ bảo.
Mấy hôm sau, tôi được gặp anh Trường Chinh, m
ừng quá suýt nữa tôi reo lên. Tôi im lặng nghe anh phổ biến chỉ thị của Ban
thường vụ Trung ương Đảng nói về Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.
Nghe anh nói câu nào cũng giải đáp đúng thắc mắc của mình, tôi sung sướng,
thỉnh thoảng lại ngồi xích gần anh thêm một chút. Anh phân tích tỉ mỉ nhưng tôi
chỉ nhớ rõ mấy điểm như sau:
- Tình hình như vậy, ta khởi nghĩa được chưa!
Anh đặt câu hỏi rồi giải đáp luôn:
- Trung ương nhận định như thế này: Mặc dầu
tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông
Duơng hiện nay chưa thực chín muồi... Bọn thống trị Nhật Pháp có sự chia rẽ sâu
sắc. Tuy hàng ngũ bọn Pháp ở Đông Dương hoang mang tan rã, nhưng xét riêng bọn
thống trị Nhật, ta thấy chúng chưa chia rẽ, hoang mang, do dự đến cực điểm. Các
tầng lớp nhân dân đứng giữa tất nhiên phải qua suốt thời kỳ chán ngán những kết
quả tai hại của cuộc đảo chính, lúc ấy mới ngả hẳn về phe cách mạng, mới quyết
tâm giúp đỡ đội tiền phong.
- Trừ những nơi có địa hình, địa thế, có bộ
đội chiến đấu không kể, nói chung toàn quốc, đội tiên phong còn đang lúng túng
ở chỗ sửa soạn khởi nghĩa, chưa sẵn sàng chiến đấu... [4]
Tôi lắng nghe như nuốt từng lời từng ý: Tình
thế chưa chín muồi để tổng khởi nghĩa nhưng tình thế cho phép và nhất định đã
đến lúc phải thay đổi phương thức hoạt động để đẩy phong trào tới chỗ chín
muồi. Phương thức cũ không còn thích hợp. Thời kỳ tiền khởi nghĩa phải có
phương thức hoạt động mạnh dạn hơn, sôi nổi hơn. Ví dụ: ruít tinh biểu tình,
cảnh cáo, tiểu trừ những tên phản động gian ác, diễn thuyết và treo cờ. Anh
Trường Chinh nhấn mạnh nhiều lần câu: Phải thay đổi mọi hình thức hoạt động và
đấu tranh cho hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa . Anh nói thêm: Phải tổ chức cổ
động, tuyên truyền, động viên quần chúng nhân dân mau chóng tiến lên mặt trận
cách mạng, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa. Phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa .
Cuối cùng anh phân tích: khi nào thì tổng khởi
nghĩa bùng nổ và thắng lợi... Những từ tổng khởi nghĩa... bùng nổ và thắng lợi
cứ quấn quýt lấy tôi từ đấy. Tôi mỉm cười sung sướng, đổi tư thế ngồi và cựa
quậy luôn, còn anh Trường Chinh lúc nào cũng bình tĩnh và thận trọng. Anh bảo:
Như vậy, từ nay đội công tác được phép hoạt động với những hình thức cao hơn,
chứ không phải tuyệt đối bí mật như trước.
Từ trước, vì cần an toàn cho ATK, chúng tôi
không được hoạt động những hình thức rầm rộ như rải truyền đơn, treo băng cờ và
mít tinh v. v... mà chỉ lần mò gây cơ sở bí mật. Khi nghe anh nói: Thay đổi
phương thức tôi đã ngứa ngáy muốn hỏi nay lại được anh chính thức nêu ra, tôi
thấy rạo rực phấn khởi và nóng ruột muốn làm ngay.
Hàng loạt những dự kiến hoạt động mới lần lượt
diễn ra trong óc tôi. Nào là mít tinh ở nơi này, nơi nọ để vận động quần chúng,
nào là sẽ cảnh cáo mấy tên địa chủ cường hào phản động trước làm tay sai cho đế
quốc Pháp nay lại theo phát xít Nhật hại đồng bào, và có thể phải xử một tên tay
sai nguy hiểm của Nhật đã gây trở ngại cho phong trào. Những quán chợ Cổ Loa sẽ
là những nơi treo cờ, dán biểu ngữ rất tuyệt. Và nhất là cây gạo Ba đê chỗ ngã
ba đường ấy, nơi bấy nay những người hoạt động cách mạng chúng tôi thường hẹn
hò gặp gỡ nhau, nay sẽ là nơi để các biểu ngữ cách mạng hẹn hò với mọi người,
với nhân dần những điều trọng đại nhất, thiết thực nhất. Chà, được treo một lá
cờ cách mạng trên ngọn cây gạo Ba đê hiên ngang cao ngất ấy thì còn gì sung
sướng bằng. Tôi cảm thấy phải hoạt động như thế mới hết được cái sức của đội
công tác, mới đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân, mới làm phong trào bùng
lên nhanh chóg. Đã bao lần ở những chỗ đông người, nhân dân ngang nhiên bàn tán
về Việt minh mà chúng tôi cứ phải lờ đi: đã bao lần các tổ chức Cứu quốc yêu
nước cần mít tinh yêu cầu chúng tôi cảnh cáo Việt gian, yêu cầu chúng tôi họp
quần chúng cảm tình, nói chuyện... Phen này thì... phải làm hết, làm đầy đủ
những yêu cầu đó. Có lẽ anh Trường Chinh đoán được ý nghĩ của tôi, anh căn dặn
với thái độ ân cần mà vẫn nghiêm nghị:
- Phát xít Nhật và cộng sản cũng không đội
trời chung, nên dù hoạt động bằng phương pháp nào cũng cần phải thận trọng,
cảnh giác.
Il
Đội công tác gồm những đồng chí được lựa chọn
về hoạt động ở ATK, nơi cơ quan trung ương làm việc. Những đồng chí ở đội công
tác vừa đã trải qua thử thách, vừa có khả năng công tác quần chúng, vừa làm
được mọi công tác sự vụ giúp việc cho Trung ương, bảo đảm bí mật và an toàn cho
cơ quan đầu não. Nhiệm vụ đội công tác là phải tổ chức gây cơ sở quần chúng,
giác ngộ quần chúng để quần chúng giúp đỡ che dấu cho cán bộ từ các nơi về
Trung ương làm việc, tránh không để địch phát hiện, lùng sục. Từ khi được nghe
anh Trường Chinh phân tích tình hình, giao nhiệm vụ, các đồng chí trong đội
công tác đều phấn khởi. Ngoài nhiệm vụ như cũ đội còn làm mọi việc chuẩn bị
tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi bàn bạc kỹ càng, chúng tôi nhất trí
tổ chức ngay một cuột mít tinh lớn để tuyên truyền rộng rãi đường lối chính
sách của Đảng, tập dượt đấu tranh cho quần chúng, đưa khí thế chiến đấu của
quần chúng tiến lên kịp với tình thế của cách mạng.
Chúng tôi tỏa về các cơ sở khai hội với các
hội cứu quốc, giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động đi mít tinh trong các tầng
lớp quần chúng cảm tình với cách mạng, với Việt Minh, vận động cả những người
đã có nghe tiếng Việt Minh nhưng lừng khừng không phản đối, cả những người muốn
theo Việt minh nhưng còn rụt rè, do dự và cả những người tò mò muôn đi xem lực
lượng Việt minh ra sao.
Đây là dịp rất tốt để nhân dân trực tiếp thấy
được Việt minh, nghe được tiếng nói của Việt minh và cũng chính là lúc nhân dân
tự thấy được sức mạnh của mình. Do đó mà thấy ra sức mạnh của cách mạng. Chúng
tôi đặt nhiều hy vọng vào dịp này lắm. Được tin có mít tinh, quần chúng phấn
khởi và nóng lòng mong muốn được đi lắm. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải giữ bí
mật không cho bọn chính quyền tay sai của phát xít Nhật biết, đề phòng chúng
đàn áp khủng bố.
Một buổi tối cuối xuân, trời lạnh, không trăng
sao, mây đến dày đặc. Tiếng dế ri rỉ đơn điệu, ếch nhái, ễnh ương kêu oàm oạp.
Mọi vật như chìm đắm trong đêm. Thỉnh thoảng đàng đông lại có một tia chớp giật
sáng lòe, loằng ngoằng như báo tin sắp có giông tố. Tại một bãi tha ma đầu làng
Xuân Trạch, saulàng Dâu mấy thanh niên tự vệ và tôi trồng một cây tre cao vút
làm cột cờ. Trồng xong, tôi hướng về các ngả đường quay tít chiếc đèn pin bọc
giấy bóng xong làm tín hiệu cho mọi người biết mà đi tới. Những người đi dự mít
tinh đều dùng mật khẩu.
Hỏi: Ai, đi đâu.
Đáp: Tôi đi lấy thuốc cho cháu.
- Cháu làm sao?
- Cháu đau bụng.
Hôm ấy có một chị đang đi, bỗng có tiếng hỏi
dõng dạc:
- Ai, đi đâu!.
- Tôi đi lấy thuốc cho cháu.
Để tăng thêm vẻ hách dịch, người hỏi quát to
hơn.
- Lấy thuốc gì mà đi khuya thế này?
Người phụ nữ lập tức quát trở lại:
- Anh là tuần làng nào, hả?
Anh tuần đinh đột nhiên luống cuống xun xoe:
- Cháu... cháu tuần làng Dâu ạ.
Ngay sau đó, bốn năm người vừa cụ già, vừa
thanh niên, ập đến vây quanh anh tuần. Anh ta sợ hãi, run bần bật. Có lẽ anh ta
không kịp đoán đó là hào lý hay Việt Minh gì cả. Như cái máy, anh ta dựa cái
gậy vào vai, đứng lom khom, hai tay chắp lại, miệng lắp bắp:
- Xin các cụ, các ông, cháu chót dại...
Có tiếng nói như ra lệnh:
- Dẫn anh này về địa điểm. Đi!
Anh tuần van lạy:
- Xin... xin các cụ, các ông tha cho...
Người phụ nữ bị anh tuần quát lúc đầu, bây giờ
mới dịu dàng, chững chạc:
- Thôi đi theo chúng tôi, mau lên! Không việc
gì mà sợ!
Anh tuần lẩy bẩy đi về phía ánh sáng xanh. Anh
run đến nỗi hai hàm răng va vào nhau lập cập. Tớí bãi tha ma, anh tuần giật
mình đứng sững lại. Trước mặt anh ta, có tới dăm trăm con người đứng quây thành
vòng tròn quanh mô đất lớn. Chính giữa có một cột cờ cao vút cờ đỏ sao vàng bay
phấp phới lung linh trong ánh sáng của các bó đuốpc lớn. Hai thanh niên tự vệ
quần nâu áo nâu, nai nịt gọn gàng, vác hai khẩu súng trường đứng nghiêm trang.
Anh tuần đinh ngồi ủ rũ dưới chân mô đất, mặt cúi gầm, thỉnh thoảng ngước lên
nhìn trộm mọi người, lộ vẻ lo sợ và bỡ ngỡ, hoang mang. Trong số đồng bào đi dự
mít tinh thỉnh thoảng vọng ra tiếng nói ríu rít của các em thiếu niên, tiếng
cười khúc khích của các cô gái và giọng khàn khàn của các cụ già. Nhưng số đông
hơn cả là thanh niên. Người nào cũng mang giáo, mác, đinh ba... giơ lên trời
tua tủa. Chúng tôi phân công anh em thanh niên canh gác các ngả đường hết sức
cẩn mật. Nhưng đến khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện, họ đều kéo về nghe, quên
cả nhiệm vụ. Anh Thiệp đứng lên mô đất nói giọng tha thiết: - Hỡi đồng bào yêu
nước.... Mọi người im phắc gần như nín thở. Anh rất xúc động, nhắc lại từng lời
đoạn văn của anh Trường Chinh: Quê hương ta xơ xác, đất nước ta điên tàn....
Đang mít tinh thì trời đổ mưa như trút nước. Hàng trăm con người đứng sát vào
nhau thành một khối trơ trơ trước cơn bão nước. Sấm sét vang trời, đất trời như
đang cơn trở dạ. Tiếp theo anh Thiệp là tôi, tôi phải hét lên át mưa, át tiếng
sấm chớp. Mai kia chúng ta bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt. Chúng ta càng
phải xiết chặt hàng ngũ vượt qua làn mưa đạn... Cuối cùng tôi hô bà con không
nộp thóc cho quân phát xít Nhật, không trồng đay cho phát xít Nhật. Lợi dụng
trời vẫn mưa nặng hạt, tôi rút súng lục bắn lên trời một phát để động viên khí
thế và cũng để thị uy, áp đảo bọn tay sai, nếu chúng lén tới rình mò. Tiếng
súng nổ giòn, tinh thần quần chúng càng bốc cao. Mưa gió cũng trở thành vô nghĩa.
Anh em thanh niên hát vang: Cờ Việt. Minh phất phới bay cao!...
Sáng hôm sau, khắp vùng Đông Anh, dân làng bàn
tán: Hôm qua Việt Minh về ở cánh đồng làng Xuân Trạch đông lắm, đến bảy tám
ngàn người. Họ thổi cơm ăn, hát bài cách mạng, rồi bắt súng lệnh, kéo quân biến
đi đâu mất trong đêm. Bên làng Dâu thỉnh thoảng có người đến hỏi thăm anh tuần
đinh bị Việt Minh giữ ở cánh đồng. Anh Tuần kể lại ghê gớm hơn lời đồn đại
nhiều. Một viên lý trưởng tỏ vẻ thức thời giọng xu nịnh:
- Giỏi lắm! Việt Minh người ta giỏi! Lão vừa
nói vừa nháy mắt - ấy! Nhưng phải kín mồm kín miệng không chết cả lũ bây giờ!
Sau cuộc mít tinh phong trào được đẩy lên rất
mau. Trước đây đi Bắt rể xâu chuỗi có khi hàng mấy tháng trời, hàng năm mới
tuyên truyền tổ chức được một vài người. Các cuộc họp quần chúng để nói chuyện
tình hình, tuyên truyền chú trương, đường lối của Đảng, đông lắm cũng chỉ được
mươi mười lăm người mà phải hết sức bí mật. Nay có hàng trăm người nghe nói
chuyện một lúc gây ấn tượng sâu sắc với cách mạng. Quần chúng nông dân khi thấy
lực lượng cách mạng không còn là những tổ chức lẻ tẻ năm ba người mà là hàng
trăm hàng ngàn người đoàn kết lại để đấu tranh. Cả giai cấp, cả dân tộc đâu đâu
cũng như thế thì họ tin cách mạng rất mạnh, nhất định sẽ đánh đuổi được phát
xít Nhật. Hồi này, nhân lúc bọn Nhật chưa ổn định được bộ máy thống trị của
chúng, ở các cơ sở nhiều nơi đã nổi lên phong trào phá kho thóc. Có nơi do chi
bộ địa phương chủ trương và lãnh đạo, nhưng cũng có nơi quần chúng tự phát.
Việc phá kho thóc vừa giải quyết ngay được một yêu cầu cấp thiết là cứu đói vừa
là thúc đẩy sự tan rã của chính quyền tay sai và càng nâng cao thanh thế của
Việt minh. ở vùng chúng tôi phụ trách cũng vậy. Một hôm khoảng gần chiều, đột
nhiên trống ngũ liên thúc ầm ầm. Rồi tiếng gọi nhau í ới:
- Bà con ơi! Ra đình mà lấy thóc! Việt Minh về
phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo.
Đang cơn đói khổ, được tin chia thóc, người
nào cũng sướng như được trời cho của xách thúng, sách bị, quẩy quang gánh lao
ra đình. Phút chốc cửa kho bị phá tung, nhân dân lần lượt vào xúc thóc theo sự
chỉ định của một anh đứng bên ngoài kho. Trong kho còn một ông mặc áo the, đội
khăn xếp luôn miệng nói: Chống sưu cao thuế nặng. phải lật đổ bọn thống trị....
Mọi người nhìn kỹ ra đó là người cùng làng. Chính là một cán bộ địa phương của
ta. Dân làng kể lại rằng: ông mặc áo the ấy đã điềm nhiên đi vào đình nổi trống
ngũ liên, hô hào phá kho thóc. ở ngoài những thanh niên, nông dân khác - đã
được tổ chức đi theo đồng chí đó - liền hò la hưởng ứng. Bọn hào lý tưởng là Việt
Minh ở đâu về, lực lượng lớn, chúng vội lẩn tránh thật kỹ không dám lộ mặt. Và
sau đấy, chúng vẫn cứ tưởng hôm ấy Việt minh từ nơi xa tới làm chuyện đó thật..
Nhưng dần dần bọn phát xít Nhật cũng ổn định được bọn chính quyền tay sai.
Chúng lại tiếp tục đàn áp, chống phá phong trào cách mạng. Hồi này cơ quan in
báo Cờ giải phóng của Đảng đặt ở làng Vân Nội. Một hôm do có mâu thuẫn giữa bọn
cường hào với nhau về một việc gì đó, chúng đi lùng sục nhau. Một tên đâm bổ
ngay vào cơ quan in của ta. Đồng chí Tuấn đang làm việc tưởng là chúng đến bắt,
bèn nổ súng tự vệ. Thế là tình hình trở nên náo động! Bọn hương lý tay sai dẫn
lính Nhật về bao vây canh gác kín làng. Việc này cũng đã khiến cho anh Trường
Chinh và những đồng chí trong đội công tác như anh Cư, chị Sáu phải một phen
vất vả. Anh Cư đi xe đạp giả làm ông giáo về làng để xem xét tình hình đã bị
bọn Nhật đuổi bắt. Đến một đoạn đường anh phải vất xe đạp, dẫm gãy nan hoa để
chúng khỏi lấy xe đuổi theo, rồi chạy tót xuống cánh đồng ngô. Lần khác, chập
choạng tối, anh vận giả đàn bà về gần được đến nơi nhưng nếu không nhanh mắt,
nhanh chân thì chỉ một chút nữa, là sa lưới. Về sau nhờ sự tận tình giúp đỡ của
một số anh chị em trong các hội cứu quốc làng bên mượn cớ vào làng Vân Nội mua
thóc, mới chuyển được hết tài liệu của cơ quan in báo.
Nhắc đến việc này, tôi không thể quên được
chuyện đòn vạ mà tôi đã phải htng lấy.
Cùng buổi tối hôm chuyển tài liệu ấy, tôi đeo
khẩu súng lục cối xay Xanh tê-chiên đi theo anh chị em để chỉ huy và bảo vệ.
Trước đây tôi hay đội nón chóp, giả làm hương lý để che mắt tuần đinh mỗi khi
qua các điểm canh. Nếu gặp tay nào ra hỏi, tôi thường lấy giọng bề trên hoạch
hoẹ, nên mọi việc điều trôi chảy cả. Đêm ấy cũng đi qua một điểm canh, nghe có
tiếng nói rì rầm tôi vẫn ung dung bước. Bỗng có tiếng hỏi:
- Ai? đi đâu?
Ra vẻ hương lý, tôi e hèm thật to, không thèm
trả lời. Có tiếng hỏi theo. Tôi có bốc cái máu kẻ cả lên, quát to
- Tuần làng nào đấy? Lão đây.
Cánh tuần đinh chửi luôn:
- A! Tổ cha thằng nào gớm thật! Cứ đánh bỏ mẹ
nó đi xem nó là lão gì nào!
Tôi hơi chột dạ và hối hận mình đã lỡ lời.
Nhưng không lui được nữa, đồng thời cũng ỷ lại vào khẩu súng giắt trong người,
tôi quát to hơn:
- Đừng có láo! Chúng bay không biết lão à?
Thế là tôi bị luôn hai ba nhát gậy phang vào
người
- Này láo n y! Này láo này! Mày không biết bố
con ông ở đây à?
Tôi thấy nguy quá và cân nhắc mãi, thấy phải
dùng đến súng dọa để tự giải thoát mới được. Tôi rút súng giơ lên trời bắn. Tôi
không định bắn họ mà chỉ để thị uy rồi tuyên truyền thuyết phục họ. Nhưng khốn
nỗi, súng không nổ. Bóp hai ba phát liền chỉ nghe tiếng cạch cạch cạch. Trong
đêm tối, tôi sờ cối xay thấy đủ đạn lại tiếp tục bắn. Nhưng súng vẫn tịt. Tôi
vội giắt súng vào bụng, nghĩ đối phó cách khác. Có thể cánh tuần đinh này tự ái
với lời nói ngang của tôi, cũng có thể là để tỏ vẻ ta đây canh phòng cẩn mật để
bọn hương lý biết, cũng có thể mượn sự nhá nhem tối, lợi dụng chức trách để
choảng bọn hương lý tay sai một trận. Nếu là trường hợp sau cùng thì có bị đòn
đau tôi cũng khoái. Nhưng dù sao tôi cũng phải đấu dịu:
- Anh em đấy à? Thế mà tôi không hay! Canh
phòng cẩn mật thế tốt lắm!
Cánh tuần đinh được nước, chửi thêm:
- Tổ bố mày, mày lại láo với chúng ông à?
Chúng ông thì gô cổ mày lại...
May sao tốp đi đong thóc vừa tới. Biết chuyện,
mấy chị xô đến vừa cười cợt vừa khẩn khoản:
- Thôi làm gì mà bắt hớ nhau thế này, trời tối
người ta đi qua không nhìn thấy gì nhỡ mồm một tí, đánh thế chưa đủ à? Gớm! ông
Trương ơi, ông làm gì mà bắt người làng tôi đấy! Lại cái anh hai phải gió này.
Một chị dúi tay khẽ vào người tôi - đã đi qua cửa các ông lại còn ăn nói bậy
bạ, trêu gan các ông ấy làm gì!
Thế là hôm ấy các quần chúng tốt của Đảng đã
gỡ thoát cho tôi. Sau đó tôi phải uống nước cua sống và bóp lá bưởi nóng mấy
ngày liền mới đỡ đau.
ấy thế nhưng vẫn còn là may vì tôi nghĩ lại,
nếu lúc ấy súng mà nổ thì còn lôi thôi to. Việc này tôi còn dấu anh Truờng
Chinh đến bây giờ. Có lẽ anh đọc mấy dòng này mới biết rằng lúc nguy hiểm đó
lại còn có cái chuyện dại dột quá chừng ấy của tôi.
III
Hồi ấy Cổ Loa không những là nơi có một số cơ
quan Trung ương đóng mà còn là cửa ngõ từ ATK đi chiến khu, nên thường xuyên có
cán bộ qua lại. Nhưng cũng ở đây, chúng tôi gặp một trở ngại không nhỏ: tên lý
Khanh đứng ra tổ chức thanh niên thân Nhật, thường dẫn Nhật về địa phương đe
dọa nguy hiểm, khủng bố những người có quan hệ cách mạng. Đã có lần hắn tổ chức
bắt hụt anh Nguyễn Lương Bằng, anh Văn Tiến Dũng và một số anh khác chúng tôi
nhiều lần viết thư can ngăn và cắnh cáo hắn. Nhưng chứng nào vẫn tật ấy càng
ngày hắn càng hung hăng. Để mãi vậy thì rất nguy hiểm không những cho phong
trào địa phương đang lúc lên mà còn ảnh hưởng đến các vùng lân cậu, tới sự chỉ
đạo trước mắt, thậm chí còn ảnh hưởng tới cả công việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa
sắp tới. Chúng tôi tổ chức một số thanh niện cứu quốc của ta lẩn vào hoạt động
trong bọn thanh niên thân Nhật do tên lý trưởng kia phụ trách. Số thanh niên
của ta có nhiệm vụ làm nòng cốt lãnh đạo và tuyên truyền cách mạng trong đám.
Thế là tổ chức thanh niên thân Nhật bề ngoài có vẻ hoạt động sôi nổi nhưng thật
chất bên trong là lực lượng thanh niên chiến đấu của ta, sẵn sàng hành động
theo chỉ thị của Việt minh. Lý Khanh không hay biết gì, nên vẫn chống phá cách
mạng ngày càng trắng trợn hơn. Hắn 1ùng bắt thanh niên đi lính cho Nhật. Có anh
bị hắn bắt nhốt trong nhà. Các đồng chí ở địa phương phải vận động quần chúng
kéo đến nhà hắn đấu tranh, nhưng hắ lì không nghe. Có một anh cùng làng bị hắn
nghi là Việt minh và lùng bắt ráo riết. Ngày ngày hắn đi từng nhà đốc thúc thu
thầu dầu và thóc cho giặt Nhật và đòi dân đút lót. Quần chúng rất uất ức. Các
đoàn thể cứu quốc ở đây đã nhiều lần đề nghị cho xử tên lý Khanh. Chúng tôi báo
cáo lên và xin ý kiến của Trung ương. Trung ương cân nhắc rất kỹ, cho kiểm tra
chu đáo rồi mới đồng ý cho chúng tội xử hắn. Chúng tôi phân công anh Thiệp bố
trí thanh niên cứu quốc cải trang canh gác các ngã đường, sẵn sàng ngăn chặn
bọn Nhật ở nơi khác về ứng cứu. Anh Hoàng Tùng và anh Cư làm nhiệm vụ trực tiếp
trừng trị tên Khanh. Trước khi vào việc, chúng tôi bàn nhau phải thử súng. Hồi
đó trình độ hiểu biết của chúng tôi về vũ khí còn rất kém cỏi. Chúng tôi cứ
tưởng rằng cứ chĩa súng bắn vào nước thì tiếng đạn sẽ nhỏ, nên anh Hoàng Tùng
ngồi trên cầu ao chĩa súng xuống bắn một phát. Tất nhiên tiếng nổ vẫn cứ to như
thường. Chúng tôi lo quá! Nhưng cũng may là cái ao đó ở nơi vắng vẻ nên không
xảy ra chuyện gì đáng tiếc.
Hôm sau là phiên chợ Cổ Loa. Giữa lúc mọi
ngươi đi lại mua bán rất đông, tên lý Khanh tụ tập thanh niên thân Nhật làm lễ
tế cờ ba gạch - cờ của chính quyền tay sai ngày đó. Một số thanh niên cứu quốc,
anh Hoàng Tùng và anh Cư đến đó trước. Tên lý Khanh vừa tới, lập tức hai thanh
niên khoẻ mạnh khóa luôn hai tay hắn lại. Anh Hoàng Tùng và anh Cư chĩa luôn
hai nòng súng lục vào ngực hắn. Lý Khanh bàng hoàng ngơ ngác, mặt không còn hột
máu, miệng ú ớ chưa kịp kêu thì tiếng súng lục đã nổ giòn, kết liễu cuộc đời
buôn dân bán nước của hắn. Các thanh niên của ta chạy tóc ra hô hoán:
Việt minh xử lý Khanh rồi!
- Đội danh dự Hà Nội về xử Việt gian!
Tiếng sú ng nổ, tiếng hò la vang khắp nơi.
Đồng bào đi chợ chạy ngược chạy xuôi nhốn nháo. Chúng tôi trà trộn ngay vào
đồng bào, trở về cơ sở. Tin đồn đội danh dự Hà Nội về xử tử Việt gian loang đi
rất nhanh. Ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhõm phấn khởi. Họ bàn tán công khai và tỏ
vẻ tự hào, thích thú như chính tay mình vừa được trực tiếp khử tên chó săn ấy.
Sở dĩ chúng tôi tung tin đội danh dự Hà Nội về là để làm lạc hướng theo dõi của
bọn mật thám tay sai Nhật, bảo đảm cho Cổ Loa và an toàn khu khỏi bị khủng bố.
Trấn áp được bọn phản cách mạng, phong trào
quần chúng ngày càng phát triển. hơn. Những tên phản động khác rút vầo hoạt
động ngầm, hoặc cũng phải dè chừng đôi chút. Để tiếp tục tấn công kẻ thù, đội
công tác thấy cần phải cảnh cáo tên lý trưởng làng Xuân Trạch. Hắn cũng chống
đối cách mạng, nhưng ở mức độ thấp hơn lý Khanh. Phải đe hắn, và tiến tới
thuyết phục hắn. Tuy không hy vọng hắn theo ta nhưng ít nhất cũng làm cho hắn
phải làm ngơ trước những hoạt động của ta.
Sau khi chuẩn bị kế hoạch chu đáo, anh Thiệp
và tôi nhận nhiệm vụ đến gặp hắn. Chúng tôi mượn được hai chiếc xe đạp cọc
cạch, phụ tùng xăm lốp mọi cái đều rão, rách, vá lung tung. Ngồi trên xe mà cứ
rung rung như đi qua cầu treo. Tôi nghĩ lúc rút lui mà cả hai xe đều bẹp lốp
phải dắt lếch thếch thì gay go. ấy thế, nhưng hồi đó có xe để đi là ghê lắm
rồi! Ai mà đuổi kịp.
Đến Xuân Trạch, sau khi bố trí cho các anh
thanh niên địa phương Ng... Th... V... N... canh gác xong anh Thiệp cùng tôi
đến nhà lý trưởng. Gặp một người đứng ở cổng, tôi nói:
- Tôi muốn gặp ông lý..
Dáng chừng thấy chúng tôi bận quần trắng, áo
the, đội nón chóp ra vẻ chức dịch, người kia dẫn chúng tôi vào ngay, không hỏi
vặn vẹo gì. Tên lý trưởng đang nằm hút thuốc phiện, thấy chúng tôi hắn gật đầu,
rồi lên tiếng gọi người hầu pha nước tiếp khách. Chúng tôi ngồi đàng hoàng trên
ghế tràng kỷ, im lặng nhìn chằm chằm vào mặt hắn để dò xét thái độ và đánh đòn
tâm lý. Sau khi người nhà hắn đã đi ra cả, anh Thiệp nói: Chúng tôi là cán bộ
của Việt Minh đến nói chuyện với ông. Sắc mặt hắn hơi biến đổi, nhưng hắn vẫn
tỏ vẻ cứng cỏi:
- Vâng, có gì ông cứ nói.
Anh Thiệp bảo luôn cho hắn biết là phát xít
Nhật rồi cũng chung số phận như bọn Pháp trước đây và khuyên hắn không được làm
tay sai cho Nhật, không được chống phá phong trào cách mạng.
Hắn ngồi xoay người lại, mặt câng câng:
- Các ông dạy thế thì biết thế, chứ tôi cứ ăn
ở phải phép thì thôi chứ.
Tôi trừng mắt, bẳn giọng:
- Phải phép là phải phép với ai? Nếu ông ăn ở
phải phép với phát xít Nhật...
Tôi nhô người ra, chau mày: - thì ông noi
gương lý trưởng làng Cổ Loa đấy. Chúng tôi không dọa suông đâu và có đủ điều
kiện để thực hiện.
Tên lý trưởng mặt tái xanh hơn, ngồi quay đi
giọng lửng lơ:
- Vâng, việc đó thì...
Tôi vòng tay ra bên sườn rút súng lục ra, đặt
trước mặt hắn, tay vẫn giữ báng súng, hỏi vặn:
- Thì sao?
Tôi im lặng và có cảm giác nét mặt mình rất
nghiêm khắc, cứng rắn. Tên lý trưởng cũng im lặng nhưng thất sắc dần, rồi lờ đờ
như kẻ mất hồn, không khí căng thẳng nặng nề. Anh Thiệp nói thêm:
- Chúng tôi đến đây còn muốn để ông suy nghĩ.
Chúng tôi không thích đổ máu. Thế nhưng khi đã cần... - anh hất hàm - thì ông
biết đấy chúng tôi không do dự.
Mỗi lúc, lời nói của chúng tôi càng có hiệu
lực mạnh mẽ. Tay tên lý trưởng đang cầm chén nước run lên bần bật không đưa nổi
lên miệng, mặt hắn xám ngoét, hắn khúm núm lắp bắp:
- Dạ! Vâng ạ! Các ông dạy sao con xin làm vậy.
Tôi hạ giọng bảo hắn:
- Tình thế ngày càng rõ ràng, vận nước sắp
đến! Lúc này đã là người Việt Nam thì phải hiệp lực nhau lại đánh đuổi phát xít
Nhật, giải phóng giống nòi. Nếu kẻ nào không chịu cải tà quy chính tiếp tục làm
tay sai cho quân cướp nước thì nhất định sẽ bị nhân dân trừng trị.
Tên lý trưởng cúi đầu im lặng. Người hắn run
run.
Trở ra chúng tôi dắt xe đạp đi rất đàng hoàng
và bình tĩnh. Thấy chúng tôi làm việc có kết quả anh em thanh niên địa phương
đứng gác bên ngoài sướng lắm, yểm hộ cho chúng tôi rút đi thật xa. Từ đó, uy
thế Việt Minh vùng này càng lớn, phong trào cách mạng của quần chúng càng lên
cao.
Sau đó, chúng tôi tiếp tục đột nhập một số nhà
hào lý khác tuyên truyền thuyết phục hay cảnh cáo. Do đó chúng tôi đã tranh thủ
hoặc cô lập được khá nhiều tay.
ở làng C.T có một viên phó lý âm mưu tập hợp
thanh niên rèn dao đánh kiếm, thành lập lực lượng võ trang riêng để gây vốn
chính trị, chờ thời cơ. Y cũng đã nghe tiếng Việt minh nhưng vẫn chưa chịu bắt
liên lạc. Y thường bảo: Dưới tay tôi có độ trăm mũi kiếm, Việt minh chắc gì hơn
tôi! Sau vài lần tôi đưa sách báo và đi lại nói chuyện, thấy chuyển biến không
được là bao, chúng tôi bất đắc dĩ phải đưa súng lục ra để cho y biết rõ ràng
Việt Minh có lực lượng vũ trang và hơn hẳn lực lượng y có. Quả nhiên anh phó lý
đó đã ngả hẳn về ta và còn bố trí cho tôi đóng bộ thật sang làm vai con cụ
chánh tổng đi đến thuyết phục tiên chỉ trong làng là người bà con của anh ta.
Giải quyết món hào lý tương đối ổn, chúng tôi
tính đến chuyện các quan. Tên tri huyện sau khi bị chúng tôi cảnh cáo, hắn
hoảng sợ trao quyền lại cho thừa phái, rồi bỏ về quê sống an phận. Ta tha tội
chết cho hắn.
Tình hình lúc này rát sôi nổi, tin tức về Việt
minh, về các đội du kích ở chiến khu được đồng bào bàn tán công khai ở các phố,
các chợ. Ai cũng tưởng tượng là cảnh Việt Minh có một đội quân to lớn đang tung
hoành khắp các dãy núi ở Việt Bắc và sắp tiến quân về xuôi đánh tan giặc Nhật.
Người ta tô vẽ nên nhiều chuyện thần kỳ. Và khi nói với nhau những chuyện như
vậy người ta cũng không quên mô tả những thất bại của bọn Nhật thật thảm hại để
thoả nỗi nất ức bấy lâu nay. Ai cũng mong đợi một sự kiện sẽ xảy ra vô cùng ác
liệt gay go nhưng cũng hết sức tốt lành. Nhiều người náo nức đi tìm Việt Minh.
Thanh niên nô nức xin đi chiến khu. Hai tiếng chiến khu lúc ấy đối với tuổi trẻ
sao mà hấp dẫn đến thế! Nhiệm vụ chuẩn bị tổng khởi nghĩa đòi hỏi phải có lực
lượng vũ trang. Các đội tự vệ chiến đấu được tổ chức rất nhanh chóng. Các đoàn
viên thanh niên cứu quốc rất hăng hái và sẵn sàng chiến đấu. Vấn đề vũ khí lúc
áy cũng có nhiều thuận lợi. Bên cạnh việc tìm kiếm súng ống đạn dược của Pháp
bỏ lại trong lúc chúng bị hất cẳng, anh em còn tìm mua của những người lấy trộm
trong các đồn Nhật. Thanh niên làng Xuân Trạch kiếm được một khẩu đại liên,
nhiều làng khác sắm được súng trường, Tôi được các anh chỉ định phụ trách huấn
luyện quân sự cho những đội tự vệ trong khu tôi và cả trong khu anh Thiệp. Vốn
liếng quân sự học trong mười lăm ngày ở chiến khu năm trước giò đây được đem ra
sử đụng rất tốt. Lúc ấy tôi huấn luyện chung theo phương pháp nào, chẳng có
sách vở, cứ nhớ đâu dạy cái ấy thường là nghiêm... nghỉ - đi đều bước các tư
thế bắn và cách bắn. Chỉ thế thôi. Thêm vào đấy là các cuộc nói chuyện về chiên
thuật du kích. Những danh từ hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh, dương đông
kích tây được nhắc nhiều lần, nghe ghê lắm. Mấy tay trí thức ở địa phương cứ
đồn là tôi học ở tận trường Hoàng Phố bên Tàu về. Họ cho rằng cán bộ đã học
quân sự là phải học trường Hoàng phố, mà học trường đó ra là ghê lắm!
Đêm đêm dù có trăng hay trời tối, chúng tôi
đều tập cả. Nhỡ phải đêm mưa thì kéo nhau vào một căn nhà hẻo lánh, dọn hết các
thứ đốt đèn lên và tập. Có điều là những trường hợp như vậy, thì không dám hô
to. Chỉ hô vừa nghe, nhưng nghe ra cũng đanh lắm, có đủ dự lệnh và động lệnh
hẳn hoi.
Trên khắp các bãi sông, trong các mảnh vườn xa
làng xóm, đêm nào cũng rậm rịch tiếng chân tiếng cười nói lao xao của nam nữ
thanh niên. Tất cả những thứ đó đã tạo nên một hơi thở rạo sức nơi thôn dã. Anh
em trai gái đều rất nhiệt tình và hồn hậu ngày ấy, về sau đều có mặt trong đội
giải phóng quân đầu tiên ở địa phương chúng tôi. Và cũng trong số thanh niên ấy
đã có nhiều người trở thành cán bộ ưu tú của quân đội ta.
IV
Đầu tháng tám năm 1945 chúng tôi mở một lớp
huấn luyện chính trị ở Chèm. Lớp học đang sôi nổi thì có tin Nhật đầu hàng đồng
minh. Tôi vội vã trở về Đông Anh tìm các đồng chí trong đội công tác để bàn
cách hành động trong tình hình mới.
Qua sông Hồng, đang đi trên đê làng Chài tôi
lấy làm lạ khi thấy một chiếc ô tô cắm lá cờ đỏ sao vàng, trên có người cầm loa
dõng dạc kêu gọi đồng bào đi hộ đê. Có lẽ Hà Nội đã cướp chính quyền rồi chăng?
Nghĩ vậy, tôi càng sải bước rõ nhanh đi tìm
các đồng chí trong đội. May quá, anh Thiệp và cả chị Diệp (cùng trong đội) cũng
đang đi ngược tìm tôi. Chúng tôi kéo nhau vào ngay làng Ruộng, cách đê sông
Hồng vài chục thước để họp. Trong những ngày giờ vô cùng khẩn trương ấy, các
anh Trường Chinh, Lê Đức Thọ lại đi công tác cả. Đội của chúng tôi chỉ có ba
người ở nhà anh Thiệp, chị Diệp và tôi. Chúng tôi rất lo lắng tuy hăng hái
nhưng gặp việc lớn như thế, cả ba chúng tôi đều thận trọng. Song nếu cứ chờ các
anh về mới hành động thì lại chậm trễ, mất thời cơ. Nghĩ vậy, chúng tôi cứ mang
vấn đề vận động quần chúng khởi nghĩa ra bàn. Chúng tôi liền dựa vào nội dung
chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của ban thường vụ Trung
ương để phân tích tình hình cụ thể ở địa phương chúng tôi phụ trách và xét tới
các sự liên quan đến tình hình chung.
Phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh, chính
quyền tay sai đang hoang mang cực độ. Đó là một trong những điền kiện tốt để
tổng khởi nghĩa. Nhưng bọn Nhật đóng ở huyện lỵ Đông Anh này qua tình hình
chúng tôi nắm được, vẫn chưa cam phận, còn tỏ nhiều thái độ hung hăng ngạo
ngược. Điều này buộc chúng tôi phải suy tính thật chín chắn. Chúng tôi còn tự
đặt những câu hỏi khác để thảo luận:
- Tổ chức biểu tình đi cướp chính quyền liệu
đã được đông đảo quần chúng hưởng ứng chưa? Quần chúng đã thật quyết tâm chưa!
- Lực lượng vũ trang có đủ sức đánh bại kẻ
địch, nếu chúng ngoan cố chống lại không?
Chúng tôi cũng tự kiểm điểm bản thân và đánh
giá xem các cán bộ cơ sở sắp tham gia dẫn đầu cuộc biểu tình khởi nghĩa này đã
kiên quyết dốc lòng hy sinh chưa? Đang họp bàn thì tiếng trống ngũ liên rùng
rùng tù ngoài đê vọng vào. Tiếng người chạy rậm rịch... Có một bà nào đó kêu
lên:
- ối giời ôi! Làng nước ơi! Ra cứu đê, làng
nước ơi!
Một thanh niên cứu quốc của địa phương đang
canh gác cho cuộc họp nghe vậy, vào gặp chúng tôi, thì thầm:
- Mặc kệ! Nước to nữa cũng không vỡ đê được
đâu. Mà dù có vỡ đê cũng cứ khởi nghĩa, các anh chị ạ.
Lời nói của anh thanh niên này cũng là một
khía cạnh biển hiện quyết tâm khởi nghĩa của quần chúng. Nhưng không thể bỏ mặc
công việc chống lụt được. Chúng tôi ngừng cuộc họp và cùng nhau chạy lên đê xem
xét tình hình cụ thể. Nước vẫn mỗi lúc một dâng cao. Bà con đổ ra đê mỗi lúc
một đông. Chúng tôi liền mời các cụ già và một số thanh niên cốt cán đến trao đổi
mấy vấn đề cần thiết rồi lại vội vã chạy về, tiếp tục cuộc họp.
Sau khi phân tích kỹ lưỡng, chúng tôi quyết
định vận động quần chúng gấp rút biểu tình khởi nghĩa cướp chính quyền ở khu
vực chúng tôi phụ trách, đồng thời vẫn để một lực lượng tiếp tục việc hộ đê.
Lúc này tôi phụ trách công tác đội trong an
toàn khu của trung ương vùng ven sông Hồng thuộc Phú Yên, phương thức hoạt động
là tuyệt đối an toàn, không rải truyền đơn, không mít tinh.
Sau đấy, chúng tội nhận được lệnh tổng khởi
nghĩa của Kỳ bộ Việt minh gởi xuống. Chúng tôi quyết định tổ chức một cuộc biểu
tình võ trang thật lớn để cướp huyện và lập chính quyền nhân dân, chẳng cần bí
mật gì nữa. Tôi ngang nhiên đạp xe đi khắp vùng khai hội cấp tốc của các ủy ban
dân tộc giải phóng và các ủy ban chấp hành Việt minh. Xe tôi thường bị níu lại
vì rất nhiều người muốn hỏi tin tức. Có những cụ già nháy mắt nhìn tôi hóm
hỉnh: Cố lên cho lão nhờ cút ruợu. Uống rồi chết cũng hả. Những khẩu súng bấy
lâu bị giam hãm trong những ống tre, mái bếp, nay được đưa ra lau chùi cẩn
thận, những con dao mã tấu, những thanh gươm các kiểu được mang ra mài và bôi
dầu sáng loáng.
Nước sông vẫn mênh mông. Nhưng nhà cao nhất ở
các làng ngoài bãi đã bị ngập tới mái, sóng đã tràn lên mặt đê. Có tin đồn đê ở
Vĩnh Yên bị vỡ rồi. Một vài nhà trong đồng đã chạy thóc gạo và làm lều trên đê.
Trâu bò dồn lên kín mặt đê, mỗi quãng lại có người coi trâu nấu cơm, khói bay
nghi ngút. Mọi người lo lắng cuống cuồng, trâu bò cũng lầm lỳ buồn bã.. Trời
vẫn xam xám nằng nặng, gió cứ vi vu đều đều. Sóng từng lớp rào rào, dữ dội.
Không khí khởi nghĩa cũng tràn ngập khắp mọi nơi, sôi nổi không kém.
Tôi đặt làng Ruộng làm tổng hành dinh. Sau khi
đã họp với anh Thiệp chị Diệp và phân công rõ rệt, tôi sẽ làm tổng chỉ huy cuộc
biểu tình và địa điểm biểu tình sẽ là ngã ba Cây gạo Ba Đê, một nơi mà mọi bà
con trong vùng từ già chí trẻ đều biết. Chiều nay nước đứng không làm dân làng
yên tâm mà mọi người càng lo lắng, vì có người đạp xe ngược đê mười cây số để
xem xét thì thấy quả là nước đã trắng xóa trong đồng có lẽ sắp tràn về tới đây.
Lại thêm tin ở chỗ điếm canh đê đầu làng bị thẩm thấu. Nhất là tin dân làng bên
kia, sông muốn gửi nước bên này. (Vì họ định sang phá đê bên này, chịu thiệt
thòi một bên để cứu lúa một bên).
Thành ra dân làng Ruộng cũng như nhiều làng
khác đều lo chuyện nước lụt. Dưới ánh trăng mờ người ta tíu tít gồng gánh lên
đê. Nào chuyển thóc, gạo, ngô, khoai lên những chỗ cao nhất, nào gởi nhau đồ
thờ quần áo: nào chạy trâu bò, trên đê cảnh huyên náo gọi nhau, van la, quát
nạt nhốn nháo. Rất ít tiếng cười. Đội hộ đê lo phát hiện kịp thời chỗ thẩm
thấu. Thỉnh thoảng họ lại trao đổi với nhau về mức nước để mà thất vọng. Nước
mà lên nữa, sẽ tràn đê, còn nếu rút đi thì tất có vỡ đê ở đâu rồi. Trời lầm lỳ
u ám. Con sông đầy ắp nước cứ cuồn cuộn, mênh mang như con quái vật khổng lồ.
Thế nhưng ủy ban dân tộc giải phóng cứ họp. Có
mấy việc gấp rút phải làm để chuẩn bị cho cuộc biểu tình cướp chính quyền ngày
mai:
1/ Thảo những lời kêu gọi thật mạnh mẽ, hào
hùng.
2/ Viết biểu ngữ và hẹn ngày giờ tập trung đi
biểu tình.
3/ Tổ chức mít tinh ngay tại làng để cổ động
cho cuộc biểu tình.
Ngoài Hà Nồi phong trào đã rầm rộ lầm rồi, cả
một vùng kinh thành náo động, tiếng vang khua rộn khắp nơi. Dân chúng xôn xao
bàn tán, chờ đợi, ai nấy đều náo nức sửa soạn cướp chính quyền, say sưa khởi
nghĩa. Nhưng dòng nước lũ tai ác kia cứ ám ảnh họ. Mọi người hớt hải bồn chồn.
Mỗi người chúng tôi đều thấy ngoài việc cướp chính quyền ra còn phải làm cái gì
nữa rất quan trọng để giải quyết lũ lụt. Song chưa ai nghĩ ra việc gì cụ thể
cả. Chỉ có lo thôi!
Các anh trong ủy ban dân tộc giải phóng làng
Ruộng sau khi mua đủ giấy, bút lông, mực tàu phẩm đỏ về, cứ mươi lăm phút lại
chạy thật nhanh về nhà xem xét nhà cửa thế nào, rồi trở lại hì hục trải rộng
những tờ giấy ra phản, phủ phục viết lia viết lịa, xong mỗi tờ giấy lại say sưa
ngắm nghía. Đã mười một giờ khuya, trăng lẩn trong mây, sáng mờ mờ. Trong làng
vẫn rậm rịch người đi lại. Chỗ chúng tôi, người ra vào tấp nập. Tôi phải ngừng
tay viết để trả lời đủ thứ câu hỏi hoặc để xem các kiểu dao kiếm, gậy bà con
mang tới hỏi ý kiến. Rất nhiều anh em hăm hở khuấy hồ và tình nguyện đi dán
khẩn hiệu trong làng. Người được nhận may cờ cứ khăng khăng đòi may khổ lớn để
chiếm giải hôm mít tinh biểu tình. Người nhận lo cán cờ cũng vất vả ngược xuôi
tìm cây tre cho ưng ý. Việc lập ủy ban nhân dân hàng xã được bàn đến nhiều
nhất. Nào là việc thu các bằng, sắc, triện, việc bầu chủ tịch, cách bầu, các
đối phó với hương lý, kỳ hào, việc chọn một phụ nữ đi bầu vào ủy ban. Ai cũng
say sưa náo nức. Viêc mình được tự tay bầu ra ủy ban là dân có quyền rồi. Những
dòng chữ cũng như đang nhảy múa...
Tuy thế tiếng trống ngữ liên đang đổ dồn cũng
làm nỗi vui mừng không trọn vẹn. Tiếng chó sủa vang khắp làng... Thật là một
đêm đầy ắp niềm vui lớn và nỗi lo cũng thắt lòng..
Bỗng lệnh tù và báo động khẩn cấp ngoài đê.
Mấy chị tay ẵm con nhỏ giật bắn mình, ơi ới gọi những đứa lớn, kêu la đầy kinh
hoàng: ối giời ơi! Làng nước ơi! Ra cứu đê mau!. Đám đàn ông trầm tĩnh hơn,
tỉnh táo đi lấy cuốc, mai chạy ra. Một anh giúp tôi thu xếp giấy mực nói giọng
đau đớn tha thiết.
- Thôi rồi anh ạ! Thế này thì còn khởi nghĩa
làm sao! Sao cái vận nước mình nó oái oăm thế!.
Anh như sắp bật khóc! Tôi chưa biết phải nói
gì với anh, cứ lo thu xếp gọn các thứ để lao ra với mọi người.
- Phải! Anh ra với chúng tôi! Nhỡ có chuyện gì
anh khuyến khích dân làng vài câu cho đỡ buồn anh nhé!
Tôi nghẹn ngào với ý nghĩ: Mình chỉ có ít kinh
nghiệm lãnh đạo dân chúng chống Pháp, chống Nhật, còn chống nước lũ thì biết
làm sao đây! Những con người này sẽ hăng hái bao nhiêu nếu cần chiến đấu!
Tôi giắt khẩu súng vào người, xong cảm tháy
không tự tin lắm, khác với những lần khi khai hội trù gian trước đây. Anh thanh
niên thì hăm hở nhắc:
- Súng đâu! Đem theo đi nhé!
Một cụ già lật đật bước vào thở dốc:
- Hỏng! Hỏng! Hỏng tất!
Chạy, vào giường cụ vớ lấy cái điếu cày vừa
thông vừa nói tiếp:
- Các cụ đi ra đi! Ra hết đi! Tôi cũng ra bây
giờ, nguy quá!
Tiếng trống, tiếng mõ đổ dồn. Tiếng tù và trầm
trầm rên rỉ kéo dài. Tiếng trẻ con khóc. Tiếng người lớn thúc giục. Tôi theo
anh thanh niên chạy ra đến đầu làng thì thấy lố nhố trên đê người và người. Mấy
anh tay cầm gậy cho hay:
- Có ba chiếc thuyền từ từ tiến vào. Tuần canh
đê hỏi tluyền nào họ không trả lời. Tưởng là thuyền bên kia sông sang gởi nước
nên báo động. Nhưng họ đã quay ra giữa dòng rồi. Như thế là tình hình chưa đến
nỗi nào. Mọi người lục đục trở về nhà. Mối lo chưa tan hẳn nhưng cũng tạm yên
tâm tiếp tục công việc chuẩn bị. Rồi có tin: nước đứng rồi, nơi thẩm thấu không
còn rỉ nước. Mấy bà cũng chen vào xem chúng tôi viết và hỏi dò xem họ có được
đi biểu tình không.
Sáng hôm sau, các điếm canh đều phủ kín biểu
ngữ. Nơi nào người dân cũng chen chúc đọc. Trên đê làng Ruộng, lác đác mấy cái
lều nhỏ. Trời âm u. Nước lững lờ trôi. Còn lòng người thì nao nức đến khó tả.
- Giặc Nhật đã đầu hàng. Thời cơ khởi nghĩa đã
tới.
- Quốc dân đồng bào mau mau nổi dậy cướp chính
quyển!
- Cách mạng thành công muôn năm!
Các câu chữ truyền miệng lan đi như cơn lốc
không ai nghĩ đến làm ăn gì cả, chỉ khấn trời cho nước rút mau và phen này có
chết cũng thơm thịt khắp nơi sát khí đùng đùng. Nhìn họ tôi sung sướng nghĩ tới
tờ hịch của đức thánh Trần học thuở truớc.
Tờ mờ sáng hôm sau, hàng ngàn người đổ ra chật
cả đường làng, mặt đê. Các cụ già, trẻ em cũng tham gia. Dòng người cứ dài ra
mãi. Nhân dân từ Vọng La đổ lên, Xuân Trạch kéo đến, Cổ Loa đi ra... các nơi
khác trong toàn vùng đổ về tập trung tại Cây gạo Ba Đê. Giữa lúc tôi đang làm
nhiệm vụ tổng chỉ huy sắp xếp và chỉnh đốn đội ngũ, đột nhiên một bà trong đám
đông chạy đến trước mặt tôi, đon đả nói:
- Ô thế hóa ra là cậu à? Hôm nay cậu khác hẳn
đi đấy!
Sau một phút trấn tỉnh, tôi nhận ra bà và mỉm
cười:
- Chào bà, vâng, tôi...
Chả là, suốt từ khi được phân công về phụ
trách vùng này, hầu như ngày nào cũng có việc phải đi qua chỗ ngã ba này, phần
nào cũng ỷ vào việc thay hình đổi dạng thường xuyên của mình - hôm thì áo the
quần trắng, hôm thì đóng bộ tây vào, hôm thì quần nâu áo vải - nên tôi thường
đánh bạo nghỉ ở quán bà uống chén nước, ăn bát bún hay vài cái kẹo ngay ở gốc
cây gạo. Và tôi cứ đinh ninh là bà chủ quán đông khách thế sẽ không nhận mặt
được ai! Vả lại tôi rất thích được ngồi nghỉ lại đây. Từ gốc gạo này tôi có thể
phóng tầm mắt nhìn bao quát được cả vùng rộng lớn các làng xã ven đê. Mỗi khi
dừng mắt lại làng nào lại hiện ra hình ảnh thân thương của các đồng chí, các
bạn vào sinh ra tử cùng với cảnh đời và công việc của họ. Tôi cảm thấy mình ấm
lòng và nhiệt thành thêm. Cũng chính bên gốc gạo Ba Đê này, sau bao năm tháng
bị tù đày chỉ ước ao có ngày trở lại hoạt động cho cách mạng, và lan, đầu tiên
tôi được đồng chí Trường Chinh giao công tác cũng trên đê này. Còn bao nhiêu
cuộc hẹn hò gặp gỡ các đồng chí khác.
Thấy tôi ngập ngừng lúng túng bà nói vui:
- Giờ thì biết rõ. Cậu là tướng Việt Minh rồi.
Thôi, lâu nay cậu ăn bún gà của lão mãi, hôm nay cậu phải cho lão ăn cháo
gan... Nhật đấy!
Nói xong bà tất tưởi quay lại đội ngũ. Tôi bất
giác mỉm cười, thầm nghĩ: Một bà bán quán cũng quyết tâm đánh Nhật! Khối quần
chúng đông đảo này nhất định sẽ đập tan bọn phát xít, giành chính quyền hôm
nay.
Sau khi chúng tôi nói mấy lời về tình hình, về
thời cơ cướp chính quyền, anh em thanh niên hát bài Tiến quân ca và đoàn rầm rộ
xuất phát. Đi đầu là lá cờ đỏ chói lọi bay phần phật. Bốn thanh niên tự vệ
chiến đấú khiêng khẩu đại liên, tiếp đến đội tự vệ với hơn chục khẩu súng
trường rồi đến các khối quần chúng đi theo từng xã. Trong đoàn có một ông già
trước đi lính kèn cho Pháp lại còn giữ được cái kèn, thỉnh thoảng ông thổi toe
toe. Chẳng hiểu là bài gì, nhưng lúc bấy giờ tiếng kèn có vai trò quan trọng
làm thêm phấn chấn đoàn người đi đổi đời. Từng quãng chúng tôi đặt súng nổ lên
trời ít phát. Quần chúng sôi nổi hô khẩu hiệu:
- Đả đảo bọn phát xít! Cách mạng thành công
muôn năm!
Tiếng hô vang động như sấm rền. Kiếm, dao,
giáo, mác lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đoàn đi tới đâu, quần chúng tại chỗ lại
tự động nhập đội ngũ. Chúng tôi lòng rất phấn chấn, vững tin vào quần chúng.
Bây giờ bọn tay sai phản động chắc chắng dám ngo ngoe. Nhưng phải đề phòng bọn
phát xít vì bản chất chúng rất tàn bạo. Nhất định quần chúng sẽ toàn thắng,
nhưng nếu không chuẩn bị đối phó với tình huống quyết liệt thì sẽ bị lúng túng.
Chúng tôi nghĩ tới cách áp dụng những điều mà đã được học tập dự kiến các việc
như cầt dây điện thoại, đốn ngã cây, phá đường cô lập lực lượng Nhật đóng ở
Đông Anh để bảo đảm việc cướp chính quyền được nhanh chóng.
Lúc ấy dù gặp cản trở gì, quyết tâm khởi nghĩa
dành chính quyền cũng không hề nao núng, ngược lại còn bốc mạnh hơn. Chị Điệp
nai nịt gọn gàng, tay lăm lăm khẩu súng lục, dây súng quấn vào cổ tay. Anh
Thiệp và tôi cũng vậy luôn luôn ở tư thế tiến công...
Khoảng gần trưa, đoàn biểu tình kéo tới huyện.
Lúc này, anh em công nhân hỏa xa Đông Anh đã đến phối hợp cùng làm nhiệm vụ
chiếm huyện. Tên tri huyện đã bỏ trốn từ lâu, nên việc cướp chính quyền không
gặp khó khăn phức tạp. Chúng tôi chuyển sang trại lính Nhật. Quần chúng quây
quanh trại, hô khẩu hiệu. Tôi được cử ra giao thiệp với bọn Nhật. Anh Thiệp chỉ
huy tự vệ sẵn sàng... Nếu lúc nói chuyện bọn Nhật giở trò thì quân ta lập tức
đánh trả. Chị Điệp đôn đốc đội ngũ quần chúng giữ trò trợ công.
Bọn Nhật có một tiểu đội. Khi chúng tôi vào
đến phố huyện thì gặp tên chỉ huy cùng mấy tên lính. Chúng tôi tìm ngay thông
ngôn và bắt đầu thuyết phục. Tên chỉ huy đội mũ lưỡi trai bằng vải, áo quần,
màu cứt ngựa, gặp tôi nó hơi ngơ ngác một lúc rồi nhìn ngang nhìn ngửa quan sát
lực lượng của ta. Tôi bảo hắn:
- Nhật đã đầu hàng đồng minh. Việt Nam hiện
nay Việt Minh đã làm chủ. Chúng tôi đã có chính quyền Cách mạng. Vậy các anh
phải nộp vũ khí, giao trại lính cho chúng tôi. Chúng tôi bảo đảm đưa các anh về
Hà Nội an toàn. Tên chỉ huy suy nghĩ một lát rồi nói ngập ngừng:
- Cho tôi gọi điện thoại về Hà Nội vì chúng
tôi cần có lệnh từ Hà Nội.
Tôi đoán có thể là hắn âm mưu gọi xin quân
tiếp viện, tôi bảo hắn luôn:
- Mọi đường giây đều đã bị cắt. Nếu các anh
làm theo lời chúng tôi thì sẽ được bảo đảm an toàn đưa về tới Hà Nội. Hắn lấm
lét nhìn hai bên miệng lẩm bẩm hồi dài nhưng rất nhỏ. Mấy tên lính đi theo lảng
dần. Còn người thông ngôn thì mặt tái đi. Tôi cho là hắn vừa nói điều gì quan
trọng với chúng nó. Nhìn vào trong trại thấy bọn lính đeo vũ khí và tập hợp về
một phía lại tỏa ra khuân vác hòm xiểng chắc là hòm đạn - về phía nhà kiên cố.
Rõ ràng bọn chúng chuẩn bị đánh lại ta rồi. Bên ngoài quần chúng cũng thấy như
thế, nên đã tiến sát bao quanh lấy tôi, miệng hô khẩu hiện vang động. Tôi bình
tĩnh bảo tên chỉ huy:
- Các anh không nên nổ súng vào nhân dân chúng
tôi. Làm thế, buộc lòng chúng tôi phải tiêu diệt các anh.
Hắn vừa lùi, vừa lầu bầu, tỏ vẻ cục cằn và láo
xược. Tôi bảo hắn:
- Nên nhớ rằng, chiến tranh đã kết thúc, các
anh sắp được hồi hương...
Tôi đang nói thì tên Nhật chạy tụt hẳn vào
trong trại. Tôi giận sôi lên. Quần chúng cũng căm phẫn sôi sục. Bên trong, tên
chỉ huy Nhật khoát tay ra hiệu. Bọn lính bắn ra Khí thế quần chúng như một chảo
dầu sôi. Tiếng súng của bọn Nhật khác nào một tia lửa bắn vào làm bùng to lên
lên đám cháy lớn. Quần chúng gào thét. Các đội viên tự vệ được lệnh lập tức tản
ra bắn vào trong trại. Các tổ phụ nữ vừa hô khẩu hiệu dương cao cờ ào lên.
Tiếng kèn của ông già vang lên, thôi thúc. Thanh niên vung kiếm múa gậy xông
vào. Chúng tôi cố ngăn lại chỉ để các đội tự vệ có súng xáp vào chiến đấu. Khẩu
đại liên đặt ngay cổng trại nổ rầm rầm. Anh em công nhân xe lửa Đông Anh ném
tới tấp lựu đạn vào trại. Quần chúng không ngừng hô: Đả đảo phát xít Nhật nhặt
đủ thứ ném vào. Anh Môn là Bí thư chi bộ làng Xuân Trạch dẫn đầu một tốp thanh
niên lao lên, bị trúng đạn ở đùi, máu chảy đẫm ống quần. Anh vẫn thản nhiên
động viên:
- Bà con giữ vững tinh thần. Tôi thấy chúng
chết hai thằng rồi!
Anh thét lên lên:
- Anh em tiến lên!
Xô tới gần cửa trại, anh lại bị thương vào
tay. Anh muốn dấu không để mọi người biết, nhưng các đồng chí vội kéo anh ra
chỗ khuất, băng bó. Vừa được băng xong anh lại vùng ra, hô:
- Anh em xông lên! Tiêu diệt quân phát xít!.
Tiến được mấy bước, anh ngã xuống, miệng vẫn
không ngớt hô:
- Xông lên! Anh em xông lên!.
Tin anh Môn hy sinh truyền đi và sôi sục căm
thù:
- Trả thù cho anh Môn!.
- Tiêu diệt phát xít Nhật!
Quần chúng càng xiết chặt vòng vây. Bọn Nhật
tập trung bắn ra phía cổng. Một anh lấy mũ chụp lên đầu chiếc gậy đưa thập thò
trên đầu mép tường. Anh khác đứng bên đưa mũi súng chờ sẵn. Mấy tên Nhật nhỏm
lên bắn chiếc mũ, bị anh hắn trước. Một tên đổ xuống dãy đành đạch. Anh G. cũng
là thanh niên, nhưng lùn quá, co kiễng chân cũng không sao bắn được qua tường
liền rón rén đến bên cửa sổ, chĩa súng bắn chết một tên khác. Sướng quá anh,
khoe:
- Bà con ơi! Thịt thêm một tên nữa!
Gina lúc đó, mấy anh chạy lại níu lấy áo tôi
- Anh! Lại chữa hộ chúng em khẩu súng máy,
đang bắn thì nó tắt!
Người đứng bên tôi liền gạt đi:
- Thôi, anh đang bận!
ở hướng khác chị Điệp cầm súng lục bò sát
tường ló đầu lên cửa sổ dò xét. Đoàng! Chị phục ngay xuống rồi nhô lên bắn trả
lại.
Anh Thiệp vẫn hò hét ở cổng trại.
- Bình tĩnh, giữ vững hàng ngũ!
Một bà trạc năm mươi, tay phất cao cờ đỏ miệng
la lớn:
- Anh chị em tiến tới! Tiến tới!
Một ông cụ quần xắn đến gối, xách kiếm chạy
ngược, chạy xuôi, góp kế:
- Đốt! Đốt nhà!
Quần chúng hưởng ứng:
- Phải đấy. Ném rơm vào! Ném rơm vào!
- Ra phố lấy rượu, dầu hỏa nữa! Mau lên!
Nhóm thanh niên hăng hái lao đi..
- Rơm đâu, ném hết vào!
- Trèo lên mái, dỡ ngói tống xuống!
Em Diệp một thiếu niên mười hai tuổi nhanh
nhẹn nói:
- Em bé, em trèo cho!
- Không được! Để tôi trèo!
Tiếng hò hét, ai cũng gào như quát. Ai cũng
đầy hào hứng góp sức mình hạ bốt..
Trận chiến đấu đến hàng tiếng đồng hồ cử sôi
sục như thế, càng về sau càng dữ dội hơn.
Tiếng súng của địch thưa dần. Và làn đạn từ,
trong bắn ra cứ bay lên ngọn cây. Sau một cuộc hội ý chớp nhoáng, chúng tôi
cùng thống nhất nhận định: Bọn Nhật chỉ còn vài thằng bị thương, ta vào được
rồi. Lập tức tôi hạ lệnh xung phong. Cả dòng thác người ập vào trại địch. Bọn
địch bị tiêu diệt. Anh Thiệp, chị Diệp và các đồng chí đảng viên các xã cùng
tôi hô đến khản cả tiếng đồng bào mới chịu ngừng tay.
Sau khi đã làm chủ hoàn toàn được huyện, ủy
ban khởi nghĩa phân công: Chị Diệp chịu trách nhiệm cùng quần chúng chôn cất
bọn giặc đã chết thu dọn chiến trường. Anh Thiệp và tôi đi lập chính quyền và
tổ chức lực lượng võ trang ở địa phương. Tới huyện đường, chỉ còn là cảnh hoang
tàn vô chủ. Chiếc ô tô hòm nằm chỏng chơ, cửa ngõ đổ nát hoang tàn, giấy tờ sổ
sách vung vãi...
ủy ban khởi nghĩa và đại biểu quần chúng nhất
trí cử anh Thiệp làm chủ tịch huyện chị Điệp là phó chủ tịch. Sau đó chúng tôi
tổ chức đội vũ trang thoát ly gọi là giải phóng quân. Có đến hàng trăm thanh
niên nhập ngũ. Chúng tôi phảí gọi danh sách và giải thích là hiện nay mới tạm tổ
chức một đơn vị nhỏ, sẽ tổ chức lớn hơn và gọi thêm sau. Tập hợp thành đội ngũ
xong, chúng tôi cử luôn anh em đi mai phục các ngả đường đón đánh Nhật nơi khác
kéo tới.
Ngay sau đó, chúng tôi tổ chức lễ truy điệu và
an táng đồng chí Môn. Chúng tôi lấy một lá cờ đỏ sao vàng phủ lên người đồng
chí. Hàng trăm người đứng im lặng mặc niệm, tỏ lòng thương nhớ anh, biết ơn anh
và càng nung nấu căm thù bọn phát xít xâm lược.
Đám tang đồng chí được cử hành rất trọng thể
ngay chiều hôm ấy. Để bảo đảm an toàn, chính quyền huyện tạm dời về làng Cổ
Loa, vì ở đó là cơ sở vững mạnh của ta. Địa thế lại hiểm trở, xa đường cái lớn,
Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ...
Tới đình Cổ Loa, trời xẩm tối. Chính quyền
nhân dân bắt tay vào việc ngay. Trước tiên là phân công thêm một số cán bộ và
thanh niên cùng nhân dân tiếp tục hộ đê chống lục. Nước sông Hồng đã lại dâng
lên, tràn qua đê, chảy xiết ghê người. Tai họa vỡ đê từng phút, từng giây...
* * *
Trong thời gian chuẩn bị khởi nghĩa cho đến
hôm biểu tình cướp chính quyền, độị công tác chúng tôi suốt ngày đêm bận rộn,
có những buổi quên cả ăn uống. Tuy vậy người nào cũng cảm thấy mình khỏe mạnh,
vui sướng hơn trước. Nước sông Hồng vẫn mênh mông. Ngoài bãi nhiều nhà ngập sát
mái. Có nơi nước trào vào cánh đồng. Dân làng làm lều kín mặt đê. Tuy bị lụt
lội uy hiếp, nhưng mọi người rất hồ hởi, gặp chúng tôi ai cũng xúm lại nói
chuyện tình hình. Một cụ bảo:
- Sung sướng quá! Chính quyền về tay mình, bây
giờ có chết cũng sướng!
Mọi công việc vẫn được tiến hành khẩn trương.
Chúng tôi đi dọc đê, tới từng làng thu triện và các giấy tờ của hội đồng hương
chính, tuyên bố lập chính quyền cánh mạng. Đồng bào tập trung mít tinh ngay
trên mặt đê. Chúng tôi đọc danh sách ủy ban nhân dân cách mạng địa phương do
cán bộ hay quần chúng tích cực giới thiệu và bảo đảm. Nhiều nơi chúng tôi đang
tổ chức lập chính quyền ở làng này thì làng bên đồng bào cũng mít tinh rầm rộ
chờ đợi. Lập chính quyền đến đâu, tổ chức đội ngũ tự vệ đến đó. Công tác ở Đông
Anh một thời gian nữa thì tôi được lệnh gọi về Thủ Đô - nơi xuất kích cướp
chính quyền ngày nọ - các đồng chí tiễn tôi đã trở lại, nhưng biết bao nhiêu kỷ
niệm từ những ngày chúng tôi còn tay trắng bụng trơn, đi trăng về thầm cho đến
những ngày chúng tôi đứng trong đội ngũ điệp trùng tay cờ tay giáo cứ quấn quít
tâm trí tôi. Và những con người ấy, việc ấy trong những ngày tháng Tám lịch sử
ấy tôi không thể nào quên được... Cứ đi được một quãng, tôi lại ngoái lại tần
ngần nhìn mãi cây gạo Ba Đê
HẾT CHƯƠNG 8 XEM TIẾP CHƯƠNG 9
CHƯƠNG 9 KỶ NIỆM VỀ “BÁC HỒ”
Tôi vào bộ đội ngày 19 tháng 08 năm 1945 với cái chức chính trị
viên khu và đã gặp ngay những chuyện oái oăm trở thành kỷ niệm vui của một thời
làm cán bộ quân sự. Là chính trị viên thì công việc hàng đầu là hoạt động của
chi bộ. Công tác chi bộ ở đơn vị làm gì và làm như thế nào, khác nhau và chỗ
giống với chi bộ bên ngoài ra sao? Tình hình lại hết sức khẩn trương, nóng
bỏng, không chần chừ được. Để gỡ sự lúng túng đó tôi với đến ông Trường Chinh.
Mời được Tổng bí thư đến dự hội nghị chi bộ là vinh hạnh lớn nhất đối với anh
chị em đảng viên. Còn tôi thì kín đáo học cách ông cụ khai hội cùng những điều
cần đưa ra thảo luận và lấy nghị quyết. Cụ cũng không câu nệ gì cả mà vui vẻ
tham dự. Là quần đội cách mạng của nhân dân, là tổng bí thư của Đảng lãnh đạo,
suy cho cùng thì việc có mặt đồng chí Trủờng Chinh ở cuộc họp rất có ý nghĩa
cho cả hai phía, là một sự cần thiết nữa. Còn đối vơí anh phụ trách cộng tác
chính trị ở đơn vị là tôi thì nhờ Tổng bí thư mà thu được bài học vỡ lòng quan
trọng để làm cẩm nang. Cũng cùng thời gian này, chính trị viên Trần Độ được Bác
Hồ nhận xét góp ý về vấn đề làm người cán bộ trong quân đội cách mạng. Thời kỳ
còn đóng ở trại Bảo an binh cũ trước cửa rạp Tháng tám, anh Vương Thừa Vũ là
khu trưởng và tôi là chính trị viên, khi là hai thủ trưởng của một đơn vị quân
sự lớn mà vẫn cái bát, đôi đũa liền tay. Với thủ trưởng thì nhà bếp có bày
riêng cho một rổ, bên là cơm, bên rau muống luộc, thêm tí thịt kho hay cá kho
tuỳ bữa. Bát đũa thì mỗi người đều tự lo. ăn xong, có người thu dọn rổ, còn bàn
ăn thì thực khách tự lau dọn. Chén đũa tự rửa và của ai người nấy mang về chỗ ở
của mình mà cất. Chỗ ngủ qua đêm của mỗi anh là cái bàn làm việc, không màn
không mền, không gối.
Cứ co ro trên mặt bàn suốt đêm. Đời sống tư lệnh cũng y như các
chiến sĩ. Tôi thấy cứ điệu này thì tạm bợ quá, lấy đâu ra sức lực mà trụ lâu
dài, làm ăn gì được. Trăn trở mãi, rồi tôi nhớ tới truyện tàu, họ có nói tới
công việc hỏa đầu quân, lo cơm nước cho bộ đội. Điều đó khác vơí tình cảnh
chúng tôi lúc đó. Hàng ngày cứ một dàn bốn năm cô gái má phấn môi son, áo dài
màu tha thướt đến làm bếp cho bộ đội. phải thừa nhận, chị em rất chí tình lo
toan công việc ăn uống, ríu rít hồn nhiên, mang tới một không khí thanh bình
cho đơn vị. Nhưng cơm thì khi sống khi khê, bữa no bữa đói nhiều hôm đến hai
giờ chiều vẫn chưa có ăn. Còn chị em thì đầu tắt mặt tối. Các chị em vốn thành
thạo trong khuôn gia đình thì cái bếp đại táo này đâu có đất, có điều kiện cho
anh chị em đua tài. Xem ra người nấu như kẻ ăn đã đến lúc mệt nhoài mà bữa cơm
ngày càng tồi tệ. Chúng tôi thấy phải có lính bếp bếp núc tử tế mà chuyên
trách. Tôi cho đăng tuyển hỏa đầu quân với điều kiện là biết làm bếp, sức khỏe
tốt. Sau kỳ báo đầu tiên đã đông người kéo đến. Mấy chục đầu bếp của các nhà
hàng rất nổi tiếng ở Hà Nội lúc đó như Mỹ Kinh cũng xin đầu quân. Họ được tuyển
vào đơn vị. Từ khi có hỏa đầu quân thì việc ăn uống của đơn vị thay đổi cơ bản:
cơm ngon, canh ngọt, thức ăn thay đổi. ăn đúng giờ quy định, theo đúng quy chế
phục vụ. Một hôm, chúng tôi nhận được thông báo là Hồ Chủ Tịch sẽ tới thăm đơn
vị. Tin đó làm cả ban chỉ huy bấn lớn vì không ai biết đón tiếp Chủ tịch nuớc
thì phải như thế nào. Quân đội chưa có điều lệnh, Nhà nước chưa có duy định
nghi thức nào cả. Vậy nghi lễ đón Chủ tịch Nước thì phải như thế nào? Hẳn là
không thể xuềnh xoàng được. Tôi lại là chính trị viên, phải làm sao thể hiện
đúng yêu cầu ý nghĩa chính trị khi nghênh tiếp. Quân phục lúc bấy giờ chưa có,
nhảy vào kho quân nhu lính khố xanh vớ được thứ gì bận thứ đó. Cả đơn vị muốn
đồng phục thì chỉ mặc quần sooc và đi dép da trâu. Không đẹp, không lịch sự,
nhưng cũng là trang phục nghiêm chỉnh trong điều kiện có thể. Còn mình đứng ra
trục tiếp đón Bác mà lại quần sooc có nên không? Tôi lo lắng thật sự, đưa ra
ban tham mưu bàn. Các đồng chí đều nghĩ đến điều tôi đang quan tâm, bàn rằng
phải đi mượn một bộ com-plê và phải kiếm cả cà vát thắt cho ra vẻ lễ phục vì cụ
là Chủ tịch nước cơ mà. Tôi nghe bùi tai, yên trí như thế mới phải phép với Chủ
tịch nước. Khi Bác từ trên xe bước xuống, khoan thai đi vào, tôi với tư cách là
chủ nhà đón khách quý hăm hở ra chào Bác. Tôi bỗng lúng ta lúng túng không biết
nên chào thế nào. Chẳng lẽ trang phục như tôi lúc đó mà lại chào kiểu nhà binh?
Tôi nhanh trí đứng nghiêm cung kính chào Bác. Bác đưa tay ra bắt tay tôi và nắm
lấy luôn. Tay kia Bác nắm lấy cà vát tôi đang mang. Bác hỏi: Chú làm gì ở đây!.
Tôi lễ phép thưa: Báo cáo Bác, cháu là chính trị viên. Bác bèn bảo:
- Là chính trị viên mà ăn mặc thế này ư? Đi đâu mà phô-côn [5] cà -vạt thể này?
Bác chỉ anh em trong đơn vị đứng trong hàng ngũ, nói tiếp:
- Quân đội thì phải đồng cam cộng khổ, mà chú ]à chính trị viên,
chú lại muốn làm giai cấp khác với anh em sao?.
Tôi sa vào cảnh trời trồng, vừa muốn thưa với lòng cung kính
nhất: Bác ơi! Hôm nay đoàn Bác đến. Cháu chạy đi mượn bộ quần áo làm lễ phục
dón Bác cho phải phép. Vừa cảm thấy vô duyên không dám nói vì Bác đang đề cập
đến một nội dung đáng phải chú ý hơn, làm việc thanh minh của tôi trở thành khó
nói. Thế là đành chết cay chết đắng chịu trời trồng, đất không nứt ra để chui
xuống.
Chào hỏi xong, Bác hỏi:
- Bếp đâu!
Tôi dẫn Bác đi thăm nhà bếp. May mà chúng tôi đã có hỏa đầu
quân. Bác quan sát xong hỏi tiếp: Chuồng xí đâu?. Tôi đưa Bác đi. Bác lại hỏi:
Thế còn vườn rau. Tôi thưa: Dạ, chưa có vườn. Bác chỉ đám đất cỏ kế đó nói: Thế
đất này để làm gì? phải tãng gia chứ. Bác đi vào phòng khách rồi nói năm điều
bộ đội cần thực hiện cho tốt. Một lần khác, Bác cho gọi Đàm Quang Trung và tôi
lên chỗ làm việc của lìác ở Bắc bộ phủ. Lúc này anh Vương Thừa Vũ không làm khu
trưởng nữa mà là anh Quang Trung. Thời đó, cán bộ bận bộ đại cán loại áo bốn
túi, cổ bẻ. Nhìn sang Quang Trung, tôi thấy anh mang cà vát đàng hoàng. Bụng hư
hư thực thực, tôi không nói gì với Quang Trung. Song đến khi hai thằng sắp hàng
trước chiếc bàn. Bác đang ngổi làm việc, tôi liếc sang thì cổ áo anh Quang
Trung đã không mang cà vạt nữa. Thl ra khi bước lên cầu thang, cậu ta đã lột ra
đút túi và gài kín cổ áo thật chỉnh tề. Tôi lại cứ để cổ bẻ. Ông cụ nhìn, chỉ
tôi hỏi:
- Chú là bộ đội sao ăn mặc thế này? Chú không hiểu là quân phục
của quân đội là phải gài kín cổ cho đứng đắn. Đừng có chuyện ăn chơi như thế.
Nói xong, Bác cho mỗi thằng điếu thuốc châm lửa hút. Tôi vội
vàng đưa hai tay lên cổ cài cúc áo. Lúng túng thế nào đầu lửa châm một phát vào
ngay cổ. Càng đau hơn! Trên đường về, tôi trách Quang Trung:
- Cậu đếch phổ biến kinh nghiệm cho anh em. Chỉ biết lo cho thân
cậu, để mình bị thuốc châm rát cổ.
Đúng như các cụ ngày xưa thường nói: chẳng có cái dại nào giống
cái dại nào! Tuy thế càng về sau, những chuyện này lại thành những kỷ niệm thật
êm đềm. Rõ ràng ông cụ rất nghiêm, không bỏ qua bất cứ thiếu sót nào, đồng thời
rất mực thân ái, rất tình cảm. Do vậy cái nghiêm khắc cùng lòng nhân ái làm ta
nhớ khắc sâu trong lòng thành những kỷ niệm khó quên. Nó làm ta gần Bác thêm,
yêu Bác hơn. Sức cảm hóa của Bác thật kỳ diệu. Tôi còn được tiếp xúc nhiều lần
với Bác. Mỗi lần Bác gọi lên, tâm trạng đều không yên, biết là có chuyện Bác
mới cho gọi. Nhưng cái e dè ấy lại mau chóng bị một nỗi vui được gặp Bác lấn
át. Rút cuộc là một cảm xúc lâng lâng sâu lắng dần, đó là nỗi vui sướng, là
hạnh phúc được hưởng điều mình mong ước ngày đêm là được gặp Bác. Quá trình làm
việc tôi cũng có dịp tiếp xúc, được làm việc với nhiều đồng chí lãnh đạo cấp
trên. Nhưng không một ai gieo cho tôi thứ tình cảm lạ lùng này: nó nâng tôi
lên, làm tôi tự tin hơn, hưng phấn lao tới những gì tốt đẹp hơn, nhân văn hơn.
Tôi hoạt động quân sự. Nhưng ngày lịch sử 19 tháng 12 năm 1946,
ngày kháng chiến toàn quốc lại chẳng có gì để nói. Công việc ngày đó hoàn toàn
là do ông Vũ bày mưu tính kế, đề ra kế hoạch. Tôi chỉ làm việc phóng môtô đi hô
hào tự vệ đắp ụ chặn đường. Ông Vũ cũng có ý đưa ra bàn bạc, nhưng hễ ông ấy
nói gì, thì tôi đồng ý luôn. Sau này khi tôi đã kiếm được ít kiến thức quân sự
thì tất nhiên có khác. Thế mới nên tướng chứ. Ra khỏi Hà Nội thì tôi được chỉ
định làm phó chính ủy Liên khu II, tức từ vùng Hà Đông, Sơn Tây xuống tới Hà
Nam, Ninh Bình. Ông Hoàng Sâm là khu trưởng, ông Lê Hiến Mai là chính ủy. Tôi
đươc bổ nhiệm làm phó chính ủy, nhưng đồng thời là quyền chính ủy. Ông Vương
Thừa Vũ vẫn chỉ huy ở Hà Nội làm khu trưởng khu ll. Ông Hoàng Sâm và ông Lê
Hiến Mai chỉ huy bộ đi tiến về miền Tây, gọi tắt Tây tiến. Anh em đùa nói là
mình rút đến đâu Tây theo tới đó, đúng là Tây tiến thật...
Hồi này, nhận chức vụ, tôi đã biết sơ sơ công việc của anh chính
trị viên phải làm rồi. Lúc này có bà tên gọi là Ba Hoán là cán bộ cách mạng
thoát ly làm kinh tế rất tháo vát, giỏi giang đang làm nhiệm vụ như một chủ
nhiệm hậu cần của liên khu. Về hôm trước thì hôm sau tôi tìm đến gặp bà. ý định
của tôi là nắm tình hình theo kiểu chị em trò chuyện với nhau. Tôi hỏi:
- Chị à, gạo nước ra sao? Bộ đội có đủ gạo ăn không? Dự trữ được
bao nhiêu?
- Khắp chỗ có kho hết, chỗ nào cũng có.
Bà trả lời kiểu chung chung như thế, không nói có bao nhiêu tấn,
bao nhiên tạ. Tôi lại hỏi: Thế còn quần áo cho anh em? Bà đi lại chỗ mấy cô
đang ngồi may ở ba chiếc máy khâu, nói:
- Đấy thợ và máy! Liên khu có đủ hết.
Tôi hỏi thêm:
- Thế còn tiền tiêu vặt cho anh em, có không chị?
Đến đây bà ta lộ vẻ cáu kỉnh:
- Anh kiểm tra tôi đấy à?
Một sự phản ứng bất ngờ. Tôi thanh minh để xoa dịu:
- Xin chị! Chả là tôi mới về đây, chưa biết tình hình các mặt ra
sao cả. Chị là chủ nhiệm hậu cần của liên khu, là người nắm đầy đủ các vấn đề
này, tất nhiên có thể giúp tôi biết tình hình chính xác nhất. Tôi không dám
kiểm tra kiểm triếc gì đâu!
Dù vậy bà ta cũng không cho biết gì thêm. Hôm sau có người báo
lại cho tôi hay: Bá ta đã hỏi anh ta về tôi: Cái tay ấy đã là đảng viên chưa?.
Đó cũng là điều biểu hiện sự hiểu biết của bà ấy về tổ chức quân đội cách mạng.
Được bổ nhiệm là phó chính ủy liên khu mà bà ấy vẫn cho là có thể chưa phải
đảng viên! Người ấy đã trả lời bà: Tôi nghĩ phải là đảng viên rồi, mà còn là
đảng viên lâu năm nữa mới được bổ nhiệm là phó chính ủy chứ!. Bà ấy còn đe:
- Gớm thật. Muốn kiểm tra tôi. Là đảng viên thì tôi chịu, nếu
không thì sẽ biết tay tôi!
Nghe anh em kể chuyện về tính nết của bà này tôi mới hay: Trương
Công Cẩn lúc ấy là chính ủy trung đoàn, được bà ta ưa đặc biệt. Mỗi lần gặp bà
là Cẩn chị chị em em ngọt như mía lùi, không quên biếu chị một gói thuốc lá.
Vốn là người nghiện thuốc nặng, bà còn mong quà nào hơn nữa. Đáp lại nghĩa của
em biếu chị thì chị hào hiệp với em khi cân gạo. Cần bao nhiên có bấy nhiêu,
thậm chí chị còn rộng rãi hơn cả em mong đợi. Còn ai đó làm việc với bà mà theo
nguyên tắc thì sẽ được bà nguyên tắc hơn, gây khó dễ thậm chí còn bị mắng té
tát. Bà tự nhận mình là người nắm tay hòm chìa khóa trong liên khu, không một
chi tiêu nhỏ nào không do bà quyết định. Sau này, tôi không còn biết bà ta làm
ở đâu nhưng bộ dạng cái bà cách mạng ấy chẳng làm sao quên được. Một người đàn
bà trắng trẻo béo tốt, trong ngoài năm mươi luôn luôn lên mặt bà chị cả, xem
tất cả là em út trong nhà. Đến tư lệnh cũng phải xin ý kiến của bà. Về quân nhu
lương thực thì bà tự cho mình được toàn quyền, còn kế hoạch tác chiến thì bà
lại tự cho mình không cần biết tới. Thê là cứ vừa ý bà, khéo xin khéo nịnh thì
xong mọi việc. Còn với ai bà cho là láo xược (với bà) thì cứ đợi đấy! Trước anh
Hoàng Sâm là anh Văn Tiến Dũng làm khu trưởng và chính anh đã xếp chị này vào
nhiệm vụ đó. Để công việc trôi chảy tôi cũng tới cuộn thuốc lá cho bà, chuyện
trò. Rồi quan hệ dần dần được cải thiện. Sau đó ít lâu, bộ đội Tây tiến cũng
rút về và có lẽ vai trò của tôi ở đó cũng không cần thiết nữa, cấp trên điều
tôi lên Việt Bắc. Trước khi chuyển, tôi được dự hội nghị chính trị viên toàn
quốc. Cuộc họp khá long trọng, tuy chưa có nề nếp quy củ như ngày nay. Các ông
Lê Hiếu Mai, Hoàng Sâm, Vương Thừa Vũ đều tới dự. Thành viên có đến năm sáu
chục chính trị viên ở các đơn vị từ trung đoàn trở lên. Khai mạc cuộc họp có cử
quân nhạc hẫn hoi. Lẽ dĩ nhiên, nội dung cuộc họp là bàn công tác chính trị mà
mỗi người đang nhận thức theo cách nghĩ của mình. Sự lớ ngớ của các đại biểu
đến là buồn cười. Hôm tập hợp để làm lễ khai mạc, chưa đến giờ quy định nhưng
không khí rời rạc, trầm lắng. Đội kèn nổi lên giật giọng toét toe, toét toe
giữa không gian tĩnh mịch, im ắng. Thế là cả hội trường cũng giật nảy người
đứng lên... chào cờ. Chỉ huy quân nhạc phải lên xin lỗi: Chưa phải nhạc chào
cờ. Chúng tôi xin phục vụ hội nghị và dạo kèn cho sôi nổ. Khi nào đến nhạc chào
cờ, các đồng chí mới phải đứng lên. Chính tôi cũng bật dậy đứng nghiêm trang,
nhưng rồi biết ngay là mình đã lầm. Ông Lê Hiến Mai ngồi bên cũng đã hích tôi
thúc dục: Đứng dậy chào cờ. Rồi quay sang hỏi Kèn chào cờ đổi rồi à cậu? cái ấu
trĩ của buổi ban đầu là như vậy và khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều việc.
Tôi lên Việt Bắc được giao trách nhiệm ở cục chính trị, lúc ấy
gọi là cục chính trị chứ chưa phải là tổng cục. Năm 1947 ông Văn Tiến Dũng là
cục trưởng cục chính trị. Tôi được nghỉ phép. Một thời gian để thu xếp việc nhà
vì gia đình tôi đã lên đó. Chính là lúc vợ tôi sinh đứa con đầu lòng. Cứ vài
hôm tôi lại đến cục chính trị để xem được bố trí công tác thế nào. Sau đó tôi
được làm phó phòng tuyên truyền, trưởng phòng là ông Lê Tất Đắc. Trước đó đă có
một phó phòng là anh Phan Phúc Tường. Tôi về đó, thêm một phó phòng nữa. ít lâu
sau, các ông ấy phân công tôi phụ trách báo, làm chủ nhiệm tờ Vệ quốc quân vốn
thuộc phòng quản lý. Ông Phan Phúc Tường phụ trách công tác huấn luyện và ông
Lê Tất Đắc phụ trách chung. Chức vụ chính thức của tôi là phó phòng tuyên
truyền vừa là chủ nhiệm báo Vệ Quốc Quân, chủ nhiệm cũ là anh Ngô Điền đi nhận
công tác khác. Khi giao thiệp với các cơ quan thì cái chức chủ nhiệm xem ra oai
hơn. Vì rằng chủ nhiệm là thủ trưởng một đơn vị đàng hoàng, lại là một tờ báo,
là cơ quan ngôn luận, hơn đứt các cơ quan hành chính. Bộ quốc phòng thời đó có
Bộ tổng tham mưu. Các cơ quan nhỏ hơn gọi là Cục như Cục tác chiến, Cục quân
huấn, Cục quân lực. Thế là Cục chính trị bên này cũng chỉ là đơn vị ngang hàng.
Mình là phó phòng tức là dưới hai bậc. Mỗi lần họp hành, bên chính trị không ai
được ngồi ngang hàng với tham mưu cả. Mình thuộc loại cán bộ phục vụ điếu đóm
chỉ ngồi ghế xếp, nghĩ cũng tủi thân lắm! Khổ nỗi họ vốn là bạn bè quen biết
thân thiết. Như Vũ Văn Cẩn - Cục trưởng quân y, Đỗ Đức Kiên - Cục trưởng cục
tác chiến đều là bạn cũ quen thân. Đến ngày tôi đưa danh thiếp chủ nhiệm báo Vệ
quốc quân thì được xếp ngồi cùng hàng các cục trưởng. Điền oái oăm này không
khỏi gây nên so sánh suy nghĩ.
Những cuộc hội nghị đều có nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ
đã từng bước thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến thu thắng lợi mới lớn hơn nhưng
cũng còn những chuyện bên lề rất đáng ghi nhớ. Như hội nghị tổng kết chiến dịch
Đông Bắc thì nổi tiếng là mục mác xung kích. Đại đoàn 308 ngày đó đánh các đồn
đều dùng mác. Và hội nghị có trưng bày mác xung kích.
Các hội nghị thường có mời các bà ở Trung ương hội phụ nữ tới lo
bếp núc. Bác Hồ đến thì việc đầu tien là Bác vào bếp ngó ngó xem xem rồi hỏi:
Lần này có thứ gì văn hoá cao?. Vậy là Bác quan niệm bếp là văn hoá. Bữa ăn hội
nghị có gì kha khá, Bác gọi là văn hoá cao, sút kém tức là văn hoá thấp. Bác
thường đi thăm bộ đội, thăm cả các tù binh. Phong cách bình dị của Bác lưu lại
ở mọi nơi Bác tới ấn tượng đặc biệt ưu ái. Mỗi lần được gặp Bác, lòng mỗi người
lại cảm thấy phấn chấn hơn, ấp áp tình nghĩa hơn bởi những lời dặn dò rất đời
thường nhưng lại rất Hồ Chí Minh.
Một lần sau chiến dịch biên giới Bác tới thăm một đơn vị.Giữa
khoảng không lớn, cả đơn vi tập kết hàng ngũ chỉnh tề đón Bác. Lòng ai cũng xốn
xang dược đón Bác tới thăm. Sau khi hỏi han tình hình chuẩn bị, Bác hướng tới
các chiến sĩ:
- Các chú có vui không
Cả đơn vị đồng thanh đáp: Vui lắm ạ!
- Các chú được ăn no không.
- Thưa Bác no lắm ạ.
Bác lại hỏi tiếp:
- Các chú... có... ỉa bậy... không?
Đến câu hỏi quá bất ngờ này cả hàng quân im ắng. Như đụng phải
tim đen, lác đác có cậu kín đáo cấu véo người đứng bên cạnh và rúc rích cười.
Rồi có tiếng trả lời dè dặt:
- Thưa... thưa... thưa... có ạ!
Bác lướt nhìn bao dung, nhẹ nhàng nhắc nhủ:
- Các chú nên nhớ rằng đi ỉa cũng phải có chính sách, nghĩa là
giữ vệ sinh chu địa phương, làm vừa lòng nhân dân sở tại. Nhớ đào hố tiêu. Có
vội đến đâu thì các chú nào cũng luôn luôn có xẻng, quân dụng bên người làm cái
hố mèo vậy. Đi xong lấp đất kín đáo sạch sẽ. Được vậy thì dân mới quý, mới
thương. Các chú ỉa bậy thì ở đâu dân cũng ngại các chú đến lắm!
Lại một lần Bác đến thăm sư đoàn tôi ở rừng Phú Thọ. Đơn vị dựng
lán tạm bợ. Ban chỉ huy sư đoàn có được mấy căn nhà nhó, cũng là tranh tre cả.
ở một căn có thêm được chiếc giường con. Lúc tôi đang có mặt tại đó thì anh
quản trị dọn cơm lên mời Bác. giữa lớc Bác đang hút thuốc. Điếu thuốc mới cháy
hết 1/3, Bác đưa anh điếu thuốc hút dở nói:
- Này chú, cho chú điếu thuốc. Chú biết không, gái đẹp một con,
thuốc ngon nửa điếu. Đừng coi thường thuốc hớt dở!
Anh quản trị mừng rỡ đón điếu thuốc Bác đưa, tắt lửa để dành và
xin lui ra. Ai cũng rất trân trọng sự chân tình của Bác.
Đến tối, ban chỉ huy sư đoàn đưa Bác ra chỗ tập hợp. Anh Tấn dẫn
đầu, đi liền sau là Bác và cán bộ văn phòng rồi đến số cán bộ địa phương và các
cán bộ trung đoàn và sư đoàn. Quãng đường cũng đến hai mươi phút, đường rừng
phải đi hàng một kéo dài. Sắp đến nơi tập trung thì nghe ting Bác hô: Đứng lại
kéo dài. Cả đoàn dừng lại chưa hiểu vì sao thì lại nghe Bác hô tiếp: đái! Đi
đường đông người lại đi hàng một dài thành đoàn như hôm đó, với sự kích thích
buồn đái thường xảy ra thì việc giải quyết đi giải như vậy cũng là tổ chức cần
thiết và rất hợp với điều mong muốn của đông người lúc đó. Lại có tiếng hô:
- Đái xong. Đi.
Cả đoàn người chuyển động tiếp, thảnh thơi, trật tự không ùn tắc
giữa đêm rừng tối như bưng hôm đó... Lát sau đến bãi cỏ nơi cả đơn vị tập trung
chờ. Đặc điểm tuổi tác thời đó thì cán bộ thì trẻ, còn lính đa số là nông dân
còn lớn tuổi. Bác nói ngắn gọn và thiết thực.
- Bác đến thăm các chú. Bác chúc các chú sức khỏe, chúc chiến
thắng. Bác không có quà gì. Bắc muốn hôn các chú. Nhưng đơn vị đông, vậy cử đại
diện lên với Bác.
Cả đoàn quân náo động trước lời đề nghị. Được Bác ôm và ôm hôn
Bác thì còn phần thưởng nào bằng. Nhưng lời đề nghị Bác nêu ra bất ngờ quá làm
mọi người lúng túng. Đang như vậy thì một cán bộ trẻ đứng gần Bác đã bước lên
xung phong nhận vinh hạnh Bác giành cho giữa tiếng reo cười nồng nhiệt của cả
đơn vị.
Kỷ niệm về Bác thì còn nhiều, tôi chỉ ghi lại đây một vài kỷ
niệm nhỏ của đời thường, giản dị mà có ý nghĩa sâu sắc
HẾT CHƯƠNG 9 XEM TIÊP CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 10 CHÚNG TÔI LÀM
BÁO VỆ QUỐC QUÂN
Trước cách mạng tháng Tám, ở chiến khu, quân đội ta còn lấy tên
là Quân giải phóng, lúc đó báo quân giải phóng cũng đã ra được hai số rồi. Cách
mạng tháng Tám thành công, đồng chí Võ Nguyên Giáp gọi tôi đến giao nhiệm vụ
tiếp tục ra tờ Quân giải phóng, và phải tiếp tục ngay số 3. May mà trong những
năm 39, 40 tôi đã hoạt động như người giúp việc cho đồng chí Nguyễn Thường
Khanh (tức nhà văn, nhà báo Trần Mai Ninh) nên không đến nỗi lúng túng, dẫu
công việc làm báo quả là mới mẻ đối với tôi. Báo ra bốn trang. Tên báo in chữ
đỏ chói, giống như tờ báo Cờ giải phóng của Đảng. Nhờ lực lượng tuyên truyền
giỏi, nhờ những mẩu tin viết rõ ràng, ngắn gọn, kip thời, nhờ sự lanh lẹ và
linh hoạt của các chú thiếu nhi bán báo, nên tờ Quân giải phóng bán rất chạy.
Tôi rất phấn khởi.
Nhưng đến số 5 thì báo phải đổi tên. Vì sao phải đổi tên! Bác Hồ
cho gọi tôi lên giải thích. Bọn Tàu Tưởng sắp bám gót quân đồng minh vào nước
ta. Chúng đòi tước vũ khí quân đội. Chính phủ ta giải thích cho chúng rõ, ta
chưa có quân đội, chỉ có quân khởi nghĩa, do đó quân đội ta cần phải đổi tên
lại là Vệ quốc đoàn. Chừ đoàn có nghĩa là đoàn thể, chứ không phải là quân đội.
Vì vậy tờ báo không thể mang tên Quân giải phóng.
Việc đổi tên báo quả là một vấn đề! Cầm chắc số lượng in sẽ bị
hạ. Tên báo lại không được in màu đỏ như Cờ giải phóng, tờ báo của Đảng mà nhân
dân tin cậy và háo hức đọc. Chúng tôi lấy tên báo là chiến thắng. Đúng như tôt
dự đoán số lượng báo hạ hẳn, ít người mua. Dù vậy tờ báo vẫn phải ra. Mỗi tuần
một kỳ, mỗi số 8 trang, có khi mười trang.
Thời kỳ này, có sự lục đục giữa bọn Quốc dân đảng và Đại Việt
trong sự tranh chấp Bộ quốc phòng. Ta dùng chính sách mềm mỏng. Bên cạnh bộ
quốc phòng ta thành lập Quân sự ủy viên hội gọi tắt là Qnân ủy hội thuộc của
Chính phủ liên hiệp, có Vũ Hồng Khanh tham gia, cũng có cục chính trị do đồng
chí Trần Huy Liệu làm cục trưởng, tôi làm phụ tá. Còn Bộ quốc phòng cũng có cục
chính trị do trung ương đảng ta trục tiếp chỉ đạo.
Lúc đó trong quân đội ta có hai tờ báo: tờ Sao vàng và tờ Chiến
thắng. Đồng chí Trần Huy Liệu phụ trách tờ Sao Vàng.
Kháng chiến bùng nổ tôi vẫn phải làm chính ủy khu llà Nội. Cục
chính trị chuyển lên Việt Bắc, Bộ tham mưu lúc này gồm có nhiều cục như Cục
quân giới, Cục chính trị... Cục chính trị do đồng chí Văn Tiến Dũng phụ trách.
Đến lúc này tờ báo của quân đội xuát hiện lại và lấy lên là Vệ
quốc quân. Số l ra ngày 22-3 -1947. Trên tờ báo ghi rõ: Tờ báo của Quân đội
Việt Nam Đến số 5, báo ra mỗi tuần hai kỳ, đến số 9 lại ra mỗi tuần một kỳ.
Trên đầu tờ báo ghi thêm: Chính trị Cục, bộ tổng chỉ huy phát hành Khi báo ra
đến số 8 ( 19-6-1947) tôi được chính thức giao nhiệm vụ phụ trách.
Nhưng đến số 2l, mới đề rõ chủ nhiệm là Trần Độ.
Lúc ấy ngoài Trung ương có tờ Quân du kích, Vui sống, Vệ quốc
quân, các quân khu khác cũng đều có báo..
Việt Bắc: Báo Quyết Thắng
Khu II: Báo Chiến Đấu
Khu IIl: Báo Quân Bạch Đằng..
Khu IV: Báo Chiến sĩ
Khu X: Báo Vệ quốc.
Khu Xl: Báo Thủ đô
Khu XII: Báo Xông pha,
ít lâu sau, tất cả các khu đều nhất loạt đổi tên thành báo Vệ
Quôc Quân như Vệ Quốc quân khu II, Vệ quốc quân khu IX...
Công tác ở toà soạn Vệ quốc quân có: Trần Độ, Tân Sắc (Thôi
Hữu), Thâm Tâm, Từ Bích Hoàng, Trúc Kỳ và các họa sĩ Mai Văn Hiến, Dương Bích
Liên. Anh Vũ Cao cùng tham gia ban biên tập, nhưng không ghi tên. Ngoài ra, một
số đồng chí cán bộ quân đội cũng tham gia vào bộ biên tập mở rộng. Về nội dung,
mấy số đầu Vệ quốc quân mới chỉ có mấy chuyên mục chiến tranh. Các bút danh
mang rõ dấn ấn quân sự như: Nguyễn Văn Bơm, Liên Thanh, Ba-dô-ca...
Từ số 8 trở đi, báo hứng thú dần lên với thơ, truyện ngắn, bút ký,
phóng sự. Có cả mục Những chuyện vui buồn điểm bích báo các đơn vị của các khu.
Tôi nhớ nhất số 12 có truyện ngắn Nhập vào hàng ngũ của Tuấn Vinh: số 13 có Nhx
mẩu chuyện vui buồn của Trần Độ: số 21 (ngày 15 -8- 1948) có bài Lên Cấm Sơn
của Tân Sắc: số 23 có bài bút ký Chiến sự Hà Nội của Tô Hoài, số 24 có Bức thư
chính trị của Nguyễn Tuân.
Trần Đăng viết bút ký, phóng sự như Thất Khê, Lũng phầy, Trận
phục kích Lũng Phầy, Vũ Tú Nam cũng đăng truyện ngắn Người lính miền Tây. Có
một lần báo tổ chức cuộc thi viết truyện. Truyện Vết xe hằn trên đường của
Hoàng Điệp được giải khuyến khích. Không có giải nhất.
Ngoài truyện ngắn, Vệ Quốc quân cũng đăng khá nhiều thơ. Những
bài Lên Côn Sơn, Viếng bạn có tiếng vang rộng rãi. Có chiến sĩ chỉ viết và đăng
được một bài thơ đã hy sinh như Phạm Lương với bài thơ Chiến sĩ Lũng Vài. Thời
gian này tôi cũng viết và viết khá nhiều loại như phóng sự, bút ký, truyện
ngắn, bình luận, xã luận. Tôi rất hay viết và say viết.
Đặc biệt có hai số báo liên tiếp đăng tin buồn, làm mọi người
bàng hoàng, xúc động.
Số 48-49 đăng tin mất Hoàng Lộc, số Xuân 50 đăng tin Trần Đăng
hy sinh vào ngày 26-12-1949. Nhớ lại Trần Đăng những ngày đầu về toà soạn báo,
khoảng 1948 (trước đấy anh làm thư ký trong Tổng bộ tham mưu). Toà soạn của
chúng tôi đóng ở gần bộ tham mưa, nên anh thường hay qua chơi. Anh thường kể
cho chúng tôi nghe những chuyện hay ở mặt trận. Chúng tôi rất quý mến anh. Anh
đề nghị xin về làm phóng viên cho báo. Chúng tôi đồng ý ngay và xin với Bộ tổng
tham mưu. Bài báo đầu tiên của anh in vào số 21 ngày 15/8/1948 Vài suy nghĩ về
văn nghệ trong giai đoạn chiên lược lần thứ mười hai.
Thâm Tâm làm thư ký toà soạn. Anh có biệt tài bao sân. Báo thiếu
mục nào là anh lập tức cố bài ngay để lấp chỗ trống. Làm nhiều, nhưng anh không
hề kêu ca. Còn anh Từ Bích Hoàng thì hiền như con gái. Từ Bích Hoàng là sinh
viên y khoa. Nếu tôi nhớ không nhầm thì tên thật anh là Trần Hồng. Tôi vẫn nhớ
như in có lần gặp anh trong bộ com-lê bằng đũi đứng gác trước doanh trại ở Hà
Nội. Mai Văn Hiến làm hoạ sĩ cho báo. Người to lớn như Tây. Rất say mê vẽ cảnh.
Nhiều lần lạc đơn vị. Do mũi giống như Tây nên hay bị du kích bắt giữ lại,
chúng tôi phải đến xin anh về.
Dương Bích Liên thì thâm trầm. Có lần để trình bày cho số báo kỷ
niệm 19-8, anh vẽ hình một anh vệ quốc rất gầy. Chúng tôi có ý băn khoăn. Anh
tranh luận với chúng tôi: Bộ đội chúng ta từ nông dân mà ra, gầy là tất nhién.
Có thế tờ tranh mới toát lên tinh thần vùng lên của lìhững ngườì nghèo khổ.
Chúng tôi phải chiều anh. Có một chuyện khá vui. Tình hình kháng chiến đòi hỏi
các cơ quan phải quân sự hóa, nghĩa là phải luôn luôn ngăn nầp, trật tự để có
thể sẵn sàng di chuyển và chiến đầu..
Tôi thường báo động tập hợp anh em để kiểm tra tác phong quân
sự. Cái lệnh báo động bất ngờ. Anh em toà soạn khẩn trương chạy ra địa điểm tập
hợp với ba lô, hành trang đầy đủ. Mai Văn Hiến vào Dương Bích Liên cũng có mặt
kịp thời nhưng ba lô lép kẹp. Hai anh tỏ ra rất lúng túng. Tôi nghi ngờ, cho
kiểm tra ngay nơi các anh ở. Chị chủ nhà tươi cười ngăn tôi lại không cho vào
nhà. Tôi cứ vào. Trên chiếc trõng tre, chỗ các anh làm việc thấy lùm lùm một
chiếc chiếu. Hóa ra các anh Hiến và Liên đang làm việc, đồ đạc còn lung tung.
Nghe liếng còi tập hợp, các anh cuống quá, chưa biết làm thế nào thì chị chú
nhà hiến kế, các anh không kịp đắn đo, theo ngay. Tôi vừa buồn cười vừa cảm
động trước tình quân dân thắm thiết và ngây thơ đó.
Phải nói rằng trong những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ,
tình quân dân rất khăng khít. Cơ quan chúng tôi cùng với cơ quan tuyên truyền
đóng chung một bản. Chúng tôi đóng ở bản Vẹ, chợ Chu, huyện Định Hóa, Thái
Nguyên. Ngoài làm báo chúng tôi còn có nhiệm vụ tuyên truyền. Thường hình thức
tuyên truyền chính là mỗi chiều phát tin bàng loa giấy. Nhờ đó mà chính sách
của Đảng và tin chiến thắng ở chiến trường được thông báo kịp thời xuống tận
dân bản. Ngoài việc phát tin chiến sự và các chủ trương chính sách, chúng tôi
còn phát những bài viết về tình hình trong bản, nên được dân bản rất hoan
nghênh. Dân thường ngóng đợi chúng tôi đến để được nghe phát thanh của Bộ đội.
ở bản Vẹ ngày mùa có sinh hoạl giã cốm rất vui. Bộ đội chúng tôi
cũng tham gia giã cốm cùng với anh em thanh niên. Nhất là những đêm trăng sáng.
Tôi cũng rất thích tham gia. Dân làng rất quý trọng cán bộ. Anh Tân Sắc co làm
bài thơ Mùa cốm mới. Bài thơ này anh làm để cho vui nội bộ, không có ý đăng
báo. Xin trích lại đây hai đoạn:.
Rồi cốm lên tàn, xanh rười rượi.
Lửa hồng củi đượm., chảo rang thơm
Đêm trăng, chày đập vang thôn bản
Phấn cốm bay bay phủ lá ngàn.
Đàn trẻ nô đùa quanh cối trăng.
Tiếng ca lay động cả đêm rừng,...
Vài anh đồng chí ngừng tay giã.
Hương cốm tình dân, thấm dạ vàng.
Bài thơ này chỉ còn tìm thấy được hai đoạn này thôi. Toàn bài có
lẽ có đến sáu hay tám đoạn.
Xin nói về hội nghị văn nghệ toàn quân. Hay có thể gọi là hội
nghị văn nghệ quân đội. Hội nghị tổ chức ngày 9-4-1949. Người tham dự không
phải chỉ có anh em văn nghệ sĩ trong quân đội mà còn có các anh em văn nghệ sĩ
quen biết khác. Lúc ấy các văn nghệ sĩ kháng chiến có thể chia ra làm ba nhóm:
- Nhóm thứ nhất gổm anh em, công tác trong phòng tuyên truyền bộ
đội và báo Vệ quốc quân như các anh Thâm Tâm, Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến,
Thế Lữ, Phạm Văn Khoa, Tân Sắc, Nguyễn Công Hoan (lúc ấy đang làm giám đốc
trường văn hóa quân đội).
- Nhóm thử hai gồm các văn nghệ sĩ đi với các đơn vị, làm công
tác chính trị ở các trung đoàn như Nam Cao, Nguyễn huy Tưởng...
- Nhóm thứ ba gồm các anh em văn nghệ sĩ ở cơ quan văn nghệ,
nhưng thường xuyên tham gia chiên dịch như, Tô Hoài, Nguyễn Tuân. Các anh ấy
tuy không trong quân đội nhưng sinh hoạt như anh em bộ đội. Đại đoàn 308 là đơn
vị kết nghĩa của các anh.
Anh Thế Lữ, Lưu Hữu Phước, Phạm Văn Khoa tổ chức những đội văn
nghệ phục vụ hội nghị. Anh Thế Lữ chính thức tham gia đội kịch. Anh Phạm Văn
Khoa cũng tham gia, nhưng không có chức danh. Anh viết kịch bản, đóng vai, lại
có khi làm cả quản lý... Hội nghị tiến hành trong bảy ngày. Có tổ chức triển
lãm. Anh Võ Nguyên Giáp, anh Tố Hữu cũng đến dự (ngày 16-4- 1949). Nội dung hội
nghị xoay quanh những vấn đề chính sau đây:
- Văn nghệ phục vụ quân đội để chiến thắng. Phải xây dựng một
nền văn nghệ mới, tiêu biểu cho thời đại mới, xứng đáng với cuộc kháng chiến vĩ
đại của dân tộc. Trong nhiệm vụ phục vụ quân đội chiến đấu gom lại có mấy vấn
đề chính:
+ Phong trào đầu quân...
+ Phong trào rèn luyện cán bộ và huấn luyện bộ đội..
+ Chuẩn bị các chiến dịch và vận động dân chủ.
+ công tác địch hậu.
+ Tình đoàn kết quân dân.
+ Sự phát triển của các binh chủng: Bộ binh, pháo binh, công
binh...
+ Công tác địch vận.
Qua nội dung những đề tài trên có thể hình dung được sự phát
triển của cuộc kháng chiến. Năm 1949 quân đội ta mới ở thời kỳ thường xuyên
phải chuẩn bị đối phó, đề phòng đich tấn công, nên năm nào hết ùa hè cũng có
công tác chuẩn bi thu đông. Đến năm 1950, đã có chiến dịch biên giới, rồi dến
chiến dịch Điện Biên phủ. Nội dung chuẩn bị thu đông lúc này lại là chuẩn bị
tấn công địch ở các chiến dịch. Bên cạnh bộ binh đã có pháo binh, công binh,
cao xạ...
Tôi còn nhớ như in những ngày chuẩn bị đi chiến dịch sao mà náo
nức lạ lùng! Ai cũng phấn khởi. Anh em hăm hở viết bích báo, làm thơ ca, hò vè.
Cơ quan tòa soạn chúng tôi cũng có tờ bích báo, lấy tên Cù. Anh em phong cho
tôi là thừa tướng của nước Cù và có một Feuilleton [6] do Thâm Tâm là tác giả lấy tên là Cù
Quốc chí diễn nghĩa. Rất nhiều bài có nội dung vui nhộn được đăng trên bích
báo. Cũng có những bài có nội dung phê bình nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Mỗi tờ
bích báo của đơn vị có thể xem là linh hồn của đơn vị ấy.
Trong kháng chiến chống Pháp các văn nghệ sĩ được nhân dân hết
sức quý trọng. Lý do chính là anh em rất gần gũi, đi sát quần chúng. Tôi càng
thấy rõ điều đó khi rời tờ báo về công tác tại các đơn vị.
Trong những buổi mít tinh hoặc hội họp, anh em văn nghệ sĩ
thường ngâm thơ, hát hò, kể chuyện cho dân nghe. Tôi còn nhớ, mỗi lần anh
Nguyễn Xuân Khoát hát hài Thằng Bờm họặc Con Voi đều được quần chúng hoan hô
nhiệt liệt. Trong những buổi sinh hoạt với anh em, tôi cũng hay kể những mẫu
chuyện tôi được xem trong các sách văn học nước ngoài như Cơn bão táp, Suối
thép, Đội thanh niên cận vệ... anh em rất thích.
Tuy trong thời gian ấy, hình thức văn nghệ còn quá đơn sơ, nhưng
vẫn có sức hấp dẫn và có tác dụng giáo dục.
Xin nêu một ví dụ cụ thể là vở kịch Thúng thóc, lấy từ câu
chuyện kễ khổ của một chiến sĩ. Câu chuyện làm xúc động mọi người. Chúng tôi
lấy câu chuyện đó, sáng tác tập thể thành vở kịch Thúng thóc. Vở kịch này có
sức kích động rất mạnh. ở địa điểm diễn vở, chúng tôi phải đào sẵn giao thông
hào. Vì mỗi lần vở diễn đến đoạn địa chủ cướp bóc thì thế nào diễn viên đóng
vai địa chủ cũng bị quần chúng ném đá tới tấp, anh ta phải vội nhảy vào giao
thông hào mới khỏi bị tai nạn. Có chiến sĩ xem xong vở này, đi lang thang như
người mất hồn. Có những trạm quân y phải chuẩn bị sẵn thuốc men đề phòng khi có
chiến sĩ nào xúc động bị ngất hoặc có ai bị ném đá.
Tôi cũng bị một lần hú vía. Do là chính ủy, nên tôi ngồi hàng
ghế đầu. Có anh rỉ tai bảo tôi nên lui vào phía sau để tránh bị đá ném. Tôi
không nghe. Đang lúc say sưa xem, đến đọan địa chủ hắt nước sôi vào anh cố
nông, thì vèo vèo, hàng loạt đá bay đến. Tôi vội ngồi thụp xuống. Sân khấu bỗng
vắng tanh. Anh em diễn viên chạy trốn hết. Nhưng một lúc sau, vở kịch lại được
diễn tiếp, nhưng phải tiếp ngay màn thắng lợi là màn cuối cùng. Kết thúc là
những tràng pháo tay nổ ran. Khi kịch diễn cảnh nông dân vùng lên đánh đổ địa
chủ, nọi người hả hê ra về. Thật vui vẻ, sôi nổi. Chẳng ai còn nhớ chuyện ném
đá vừa xảy ra. Bài học quan trọng rút ra ở đây là văn nghệ sĩ phải khơi đúng
nguyện vọng, tâm trạng của quần chúng. Quần chúng sẽ ủng hộ nhiệt liệt.
*
* *
Thế mà đã hơn 30 năm qua. Nhó lại những ngày kháng chiến rất
gian khổ, ăn uống sơ sài, quần áo chẳng có gì, đồ đạc cũng không, nhưng sao ấm
cúng thế. Tòa soạn báo chúng tôi như một gia đình, chia sẻ với nhau từng niềm
vui nỗi buồn, từng mẩu khoai, củ sắn, nhường nhịn nhau từng bát cơm, manh áo.
Đầu năm 1950, tôi được giao phụ trách Chính ủy Trung đoàn Sông
Lô mà anh Lê Trọng Tấn đang làm Trung đoàn trưởng. Tôi không theo dõi được tờ
báo nữa. Sau này Trung đoàn Sông Lô phát triển thành Đại đoàn 312. Tôi được chỉ
định làm phó Chính ủy rồi Chính ủy Đại đoàn. Tôi lại tiếp tục chỉ đạo cơ quan
chính trị của Đại đoàn, ra tờ báo riêng của Đại đoàn (in đá) lấy tên là Anh
dũng. Trong khoảng 3-4 năm, tờ báo ra được khoảng trên dưới 20 số khá đều. Tôi
tiếp tục viết nhiều bài xã luận cho các số báo Anh dũng. Tôi còn tiếp tục viết
bút ký, truyện ngắn, bình luận, đặc biệt là hay dịch và lược dịch các truyện
chiến đấu của nhân dân Liên Xô, in và phát cho bộ đội đọc trong lúc hành quân
vào chiến dịch.
Ngoài những tác phẩm văn học đáng chú ý của các nhà văn chuyên
nghiệp, những hoạt động văn học nghệ thuật của bộ đội cũng tạo nên một mạng
lưới rộng rãi, góp phần đáng kể vào bức tranh chung của văn học trong kháng
chiến chống Pháp. Trên đây tôi xin cung cấp ít kỷ niệm riêng để chứng minh sự
kiện đó.
HẾT CHƯƠNG 10 XEM TIÊP
CHƯƠNG 11
CHƯƠNG 11 TƯỚNG NGUYỄN
SƠN VÀ TÔI
Ông Nguyễn Sơn có vóc người vạm vỡ rắn chắc khuôn mặt vuông, tóc
quăn và rậm, da bánh mật. Ngày tôi biết ông ấy, không rõ ông đã bao nhiêu tuổi
nhưng mặt đã có nếp nhăn. Tôi thấy ngay rằng ông là bậc đần anh, một đàn anh đã
tham dự cuộc Trường chinh bên Trung Quốc. Còn ông thì xem xét cái này cái kia,
không nói gì song qua thái độ biểu hiện xem chừng ông có ý xem thường. Ông cũng
hỏi dăm ba câu như: Cậu năm nay bao nhiêu tuổi? Hà Nội thì bộ đội được bao
nhiêu! Bộ đội ở những đâu? Thành phần trong các đơn vị như thế nào! Loanh quanh
những vấn đề tương tự như thế. Phần tôi trong lần gặp ấy có ấn tượng được gặp
vị mà cụ Hồ thường bảo là Thân kinh bách chiến, nghĩa là một vị tướng chỉ huy
cực kỳ dày dạn chiến trận ở nơi nổi tiếng ác liệt. Tôi lưu ý đến ông cũng là
điểm ấy. Cho đến ngày ông làm tư lệnh quân khu IV, ông là người có sáng kiến tổ
chức đại hội tập sau đấy các quân khu bắt chước tổ chức theo.
Đại hội đầu tiên tổ chức ở Thanh Hóa. Núi Nương là nơi diễn lập
các môn.
Tôi và Thanh dẫn đầu một đoàn các bộ văn nghệ sĩ như các ông
Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến, Nguyễn Công Hoan. Nói là đi vào khu 4 công tác
nhưng dụng ý của lãnh đạo là sơ tán anh em khỏi Việt Bắc, tránh trận càn của
địch lên Việt Bắc vào gần cuối năm 1947. Khi tôi tới trình giấy tờ, ông Sơn
thấy danh sách có tên mấy nhà văn, liền hẹn mời đích danh các ông, còn cán bộ
chính trị, ông không nhắc tới.
Tôi liền dẫn mấy ông nhà văn vào phòng khách, là gian đầu của
cái nhà tranh vách đất, có bộ ghế mây cũng tươm tất. Tôi kéo ghế ngồi lại. Ông
Sơn chào khách Hôm nay thấy có các anh văn nghệ sĩ, tôi mời các anh lại nói
chuyện văn nghệ chơi. Nhìn thấy tôi cũng ngồi lại, ông chỉ vào mặt bảo: Mày
ngồi đây làm gì. Mày thì biết chó gì văn nghệ?.
Ông bổ báng như vậy, nhưng tôi cũng hiểu là lời nói thân tình
theo phong cách của ông. Hơn nữa ông ấy cũng nói một sự thật - tức là tôi mới
là học trò đi bộ đội thì chưa biết gì nhiều thật. Còn các vị kia đều là người
có tên tuổi, đều có tác phẩm, ông ấy muốn nói chuyện với họ. Tôi đáp: Tôi muốn
ngồi nghe các anh nơi chuyện để học tập!. Ông ấy liền bảo: ừ, thì cứ ngồi đấy.
Rồi ông ấy bắt đầu câu chuyện. Ông bình luận trên trời dưới đất. Phải thừa nhận
là nhờ ông mà tôi mới đọc được chữ Trung Quốc và cũng mới biết được tên một số
tác giả lớn của nước Nga như Macxim Gorki, Erenbua, Phadeép và các ông Lecmôntôp,
Trecnưsepski, Gô gôn. Hôm ấy ông ta nhắc đến hết, làm tôi hoang mang thật sự.
Tìm đâu được Gôgôn để đọc mà ông ấy ca ngợi đến thế. Lần đầu tiên tôi được nghe
dến tên tác giả Những linh hồn chết. Mà ông ấy thì thông kim bác cổ. Tôi hỏi
ông, đọc Gôgôn bằng tiếng gì? ông nói bằng tiếng Trung Quốc - không lẽ Trung
Quốc đã dịch Gôgôn từ thời ấy! Vừa trò chuyện, ông đưa cả rượu và kẹo ra mời
khách, thật sự là một cuộc tiếp xúc rất là văn nghệ, không có công tác công
tiếc gì cả. Thời ấy, dân văn nghệ tập trung ở khu 4 khá đông. Ông Nguyễn Tuân
biết có ông Nguyễn Công Hoan vào thì nhắn mời đi uống cà phê một chầu. Tôi là
trưởng đoàn nên cứ các ông ấy đi đâu thì tôi cũng có thể đi theo. Tôi biết hai
ông này mà gặp nhau ắt có lắm chuyện thú vị nên tôi đi cùng. Tôi rất sung sướng
được ngồi với hai nhà văn lớn mà thời đi học đã bò ra đọc các tác phẩm của các
vị. Tôi ngồi hóng chuyện và quả là lý thú thật.
Ông Nguyễn Công Hoan là người rất vui tính thích hài hước. Ông
đã khởi đầu bằng một câu chuyện hài về ăn uống làm chúng tôi cười nôn ruột,
tiếc là lâu ngày tôi quên nội dung. Ông Nguyễn Tuân hưởng ứng đáp lễ, dí dỏm kể
chuyện đi ăn mì, thật khó mà tái hiện đầy đủ cái chất Nguyễn Tuân ngất ngưởng
ông rủ rỉ tả cái tiệm mì của một Hoa kiều. Ông vào gọi một bát mì, ngồi mãi
không thấy gì mới giục:
- Sao lâu thế.
- Dạ xin xong ngay đây ạ
Tay chạy bàn đem ngay bát nước mắm để trên bàn. Mình yên chí
ngồi đợi với hy vọng có ăn ngay. Nhưng đã lâu lắm vẫn không thấy bưng mì lên.
Mình lại dục, nó lại giòn giã cao giọng đáo:
- Dạ. Có ngay đây!
Một đĩa rau thơm tiếp lời dạ theo ra bên bát nước mắm.
Và không còn gì hơn nữa đến hàng chục phút. Bụng như sôi lên.
Lần thứ ba này mình không thèm dục mà là quát thẳng thừng. Thêm được đủ bộ cái
bát con, đôi đũa và cái thìa. Và chỉ có thế! Lại đành bấm bụng ngồi đợi...
đợi... đến gần phát khùng thật sự thì nó mới bưng bát mỳ ra. Một bát mỳ khói
bốc nghi ngút. Nguyễn Tuân đến lúc này cũng đói mềm, tính ăn ngay. Chỉ sự chờ
chực đã làm mỳ quá ngon rồi. Nhưng vẫn tính thận trọng hay quan sát trước khi
ăn và thấy bát mỳ có một con ruồi chết trong đó. Đang đói meo nhưng vì bực quá
quên cả đói mình mới gọi bồi lại: Lại.. lại.. lại.. đây!, Nguyễn Tuân tự nghĩ
mình là trí thức nên đắn đo giữ cử chỉ hành động như thế nào cho tế nhị chứ
không muốn trở thành thô lỗ như kẻ phàm ăn khác. Tên bồi lại gần hỏi: Thưa cái
gì ạ?
Tớ không thèm nói mà chỉ tay vào bát mỳ có dụng ý trách nó là
bát mỳ có ruồi chết. Nó nhìn và trả lời thật thản nhiên:
- ờ... bát mỳ, thưa bát mỳ đấy mà!
Tức lộn ruột mà vẫn phải giữ tư thế trí thức, mình chỉ vào con
ruồi. Hình như nó vẫn chưa nhìn ra, nó lại bảo:
- ờ.. bát mỳ dấy mà!
Đến nước này cứ trí thức lịch sự không xong mình mới bảo:
- Nhưng mà có một con ruồi!
Nó chăm chú nhìn con ruồi, ngẩng lên bảo:
- ờ con ruồi nó chết đấy mà.
Tức quá mình quát to:
- Nhưng ruồi nó chết trong bát mỳ!
Nó bình thân đáp lại:.
- ờ, tại mỳ nóng quá đấy mà!
Thế là Nguyễn Tuân bụng đói cồn cào phải đứng lên trả tiền bái
mỳ di ra không dám ăn, cũng không dám không trả tiền vì phải giữ tư thế của...
vị trí thức.
Câu chuyện là thế nhưng cái chất Nguyễn Tuân làm cho nó rất mực
bi hài.
Lại một lần không biết đi đâu đấy, quân khu đưa xe díp đón cả
doàn, bảy tên lên xe đi hơn chục cây sớ. Thế là sau đó ông Nguyễn Công Hoan hễ
đi bộ là than thở: úi giời, mình đi xe díp nó quen rồi, giờ đi bộ sao ngại quá.
Chục cây số đi xe tai hại thế làm Nguyễn Công Hoan muốn quên thói quen đi bộ.
Đi với các vị thì cứ như vậy chuyện không đâu cũng được các ông chế biến, làm
cả đoàn vui cười dọc đường.
Sau đó chúng tôi gặp lại ông Nguyễn Sơn ở đại hội. Vẫn thói quen
mặt bộ Pijama lụa, lụa nâu hay lụa đà, đạp xe đua đi chơi phố. Ông ấy tính rất
bình dân và dân chúng ở đây đều biết Nguyễn Sơn. Có buổi văn công biểu diễn văn
nghệ nhưng chuẩn bị chưa kịp để mở màn thì ông ra... diễn thuyết. Một buổi diễn
thuyết không chủ đề, không có dàn bài gì cả. Ông kể hết chuyện nó đến chuyện
kia, chuyện các làng đánh du kích thiên biến vạn hóa. Ta chiến thắng ra sao!
Kháng chiến nhất định thắng lợi vì sao! Cách nói của ông thật nôm na và không kém
hài hước làm cho nghe cười tức bụng. Nhiều lúc khán thính giả rộ lên vỗ tay
nhiệt liệt. Nói một thôi, ông lại vạch màn ngó vào trong hỏi: Xong chưa? Rồi
ông lại đóng màn quay ra bảo: Văn công vẫn chưa chuẩn bị xong, tôi xin phép lại
nói tiếp nhé. Cứ thế đến ba lần. Mỗi lần trở lại. Ông vẫn tiếp tục câu chuyện
vừa dừng lại và đám đông lại vui cười như sấm. Lần ấy, tôi trú ở nhà một chị độ
ba mươi tuổi, đã có con, cũng rất ham xem văn công. ở nông thôn kháng chiến hễ
có buổi văn công biểu diễn là không một ai bỏ qua. Thấy chị, tôi hỏi cảm tưởng:
Chị thấy văn nghệ thế nào. Hay, hay lắm, vui lắm! - Thế tiết mục nào chị thích
nhất? - Thích nhất tiết mục ông Sơn. Với chị, ông Sơn đã thành là tiết mục văn
nghệ hay nhất! Tôi cứ nhớ mãi lời nhận xét đánh giá đó.
Đúng là ông Nguyễn Sơn rất được quần chúng ưa mến. Còn giới trí
thức thì đánh giá ông là nhà hùng biện. Người ta đồn nhiều và tỏ rõ sự thán
phục ông trong việc nói truyện Kiều, điều này tôi không được biết. Còn thỉnh
thoảng nghe ông nói về văn nghệ thì tôi bái phục sự hiểu biết của ông ấy, kể cả
về văn học thế giới. Hồi ông ấy mới về nước, tôi thừa nhận ông có nhiều điều
bất bình, như khi phong ông là thiếu tướng thì định không nhận. Mọi người đến
mừng thì ông đã vặc lại: Chúc mừng cái đ. gì! Tao thừa tướng chứ thiếu.... sao!
Đợt phong đầu tiên năm ấy có mấy ông: ông Văn Đại tướng. Ông Nguyễn Bình trung
tướng, rồi các ông Hoàng Sâm, Nguyễn Sơn... Điều đó cho ta thấy rõ là ông không
bằng lòng cách sử dụng ông và cấp bậc phong. Thoạt tiên ông là tư lệnh quân khu
V hay là chỉ huy mặt trận trong đó thì tôi không nắm chắc, chỉ biết là lúc đó
ông có viết một bài phân tích kinh nghiệm trận đánh, tên bài là Trận Phú Phong,
còn ông đánh đấm ra sao tôi không rõ. Sau đó ông ấy ra làm tư lệnh khu IV, ông
ra ngay tờ báo mang Tiền Phong hay gì đó, ông viết nhiều bài trong đó, chủ yếu
là về quân sự. Ông phê bình chế độ chính ủy tối hậu quyết định mà ông không tán
thành. Chắc là ông có những ý kiến động các ông khác. Thế rồi ông xin trở lại
Trung Quốc và Bác Hồ đồng ý.
Cũng dịp này tôi được phái sang Trung Quốc chuẩn bị việc đưa
quân sang huấn luyện. Ông Nguyễn Sơn được tổ chức ghép vào cùng đi với chúng
tôi. Đến biên giới thì có xe GMC đón đi Nam Ninh. Cả đoàn phấn khởi vui sướng
lắm. Yên vị trên xe, ông Nguyễn Sơn bảo:
- Thế là tao cùng đi với chúng mày!
Tôi đáp:
- Được đi cùng anh vui lắm.
Dọc đường tôi có hỏi:.
- Tại sao anh đòi trở lại Trung Quốc như vậy?
- Trung Quốc mới là tổ quốc của tao.
- Thế về Trung Quốc anh định làm gì?
- Tao có ý định lập một đoàn kinh kịch! Tao sẽ làm trưởng đoàn
dẫn quân đi diễn khắp các nước trên thế giới.
Tôi hỏi:
- Thế liệu anh anh có về Việt Nam diễn không?
- Đi các nước thì đi chứ không thèm về Việt Nam.
Trên đường đi ông ấy giải thích để tôi hiểu kinh kịch. Đường đi
từ Tĩnh Tây đến Nam sinh thì mấy trăm cây số phải qua một vùng không an toàn
còn nhiều thổ phỉ và tàn quân Tưởng Giới Thạch, qua cái đèo gọi là Ma Thiên
Lĩnh. Ông Nguyễn Sơn giải thích Ma Thiên Lĩnh là núi chọc trời, ở Trung Quốc
thì có nhiều. Ngày trước tôi đọc chuyện tàu co tên này, nay được đi qua thấy
vừa thích thú vừa phiêu lưu. Bộ phận quân sự ở Tĩnh tây ngày đó tôi không biết
là cấp gì những đã lưu chúng tôi lại, nói để tổ chức chuyến đi cho chu đáo. Lúc
lên xe họ đưa tôi và ông Sơn lên chiếc có chữ đặc đẳng an toàn. Ông Sơn bảo: Xe
này tốt lắm đây. Bên này có mấy cấp an toàn, đi loại xe này là thuộc cấp an
toàn cao nhất, lái xe là loại rất giỏi, là những người lái một thời gian dài
không để xe va quẹt, không để xảy ra tai nạn thì được phong là đặc đẳng an
toàn. Có quí chúng mình lắm thì mới bố trí như thế này. Tay lái này quả thực là
giỏi. Anh là đại đội trưởng chỉ huy đại đội, tuyên bố:
Dọc đường đi xin đồng chí Hồng Thủy làm chỉ huy trưởng, trực
tiếp chỉ huy. Chúng tôi nhất nhất tuân lệnh đồng chí! Ông Nguyễn Sơn thời ở Trung
Quốc lấy tên là Hồng Thủy, là Đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Ông từ chối,
nói:
- Không được. Tao là khách. Việc chỉ huy là ở chúng mày. Quân
đội chúng mày sao tao lại chỉ huy!
Tay kia nhất định không chịu. Thế là ông Sơn buộc phải nhận chỉ
huy. Đi qua Ma Thiên Lĩnh còn thấy xác xe hàng bị cướp đổ nghiêng hai bên lề
đường, đồ đạc quần áo vương vãi xung quanh mấy xác xe, tuyệt không thấy người.
Tay đại đội trưởng báo cáo ông Sơn kế hoạch đi tiếp. Cả đoàn xe có đến cả chục
chiếc tạm thời dừng lại. Phái một trung đội đi lên trước chiếm lấy một điểm cao
có thể khống chế được một vùng với đường kính vừa tầm đạn. Đoàn xe tiến lên sau
và cứ thế cuốn chiếu qua quãng đường dài mấy chục cây số. Tay lái chiếc xe tôi
ngồi phóng ghê lắm. Đặc biệt là cậu ta cứ đổ dốc là tắt máy, là lối đi rất mạo
hiểm, xe lao như tảng đá lăn dốc. Không thuộc đường, tay lái không nhạy, không
chắc thì không thể tránh nổi tay nạn. Ông Nguyễn Sơn cũng lạnh gáy, ông ấy nói
riêng với tôi: Tao ghê thằng này quá! Tao không sợ trời, không sợ đất mà sợ
thằng lái này Sau, ông phải bảo tay đại đội trưởng nhắc tay lái kìm hãm bớt lối
đi quá mạo hiểm. Từ đó, khi đổ dốc xe vẫn giữ máy nhưng máu hăng của lái xe vẫn
không giảm. Đoạn đường vun vút quạ quắt, vòng cua này bẻ cua kia cứ lẹ làng như
cỗ máy tự động điều khiển, xe cứ trôi đều êm ru. Phải thừa nhận tay này lái hay
như một nghệ nhân điều khiển xe, làm người ngồi vừa sợ vừa thú vị. Chuyến đi
kéo dài hai ba ngày. Thường đến đêm thì đoàn xe dừng lại ở một thị trấn để xã
hơi là dịp ông Sơn rủ tôi đi uống rượu: Phải làm chén rượu! Mày đi với tao!. Tô
nhận lời nhưng giao hẹn trước: Tôi đi nhưng không biết uống ruợu. Tôi ngồi chơi
với anh, còn anh uống nhé!. Ông nhất định không nghe, buộc tôi nhất quyết phải
uống. Đến là khổ sở. Đến Nam Ninh hai chúng tôi được đón vào một cái biệt thự.
Người đầu tiên đến thăm là bí thư Trương. Ông tới thăm Hồng Thủy chứ không phải
để thăm tôi. Hai ông gặp nhau mừng ra mặt, chuyện trò rôm rả. Còn tôi thì chầu
rìa. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới bảo tôi rằng mai vào Quân khu mà gặp
đồng chí tư lệnh Quân khu nắm tình hình. Chỉ thế thôi! ông Trương từng cùng ông
Sơn dự cuộc Trường chinh nên nay gặp nhau tay bắt mặt mừng là phải, ông Trương
còn mời ông Sơn xem buổi kinh kịch ở Nam Ninh. Ông Sơn bảo tôi: Mấy hôm nữa mày
đi xem với tao. Tao sẽ giải thích thêm để mày hiểu thế nào là kinh kịch. Hôm
sau tôi định vào làm việc với Quân khu. Tôi phàn nàn với ông Sơn: Tôi không
biết tiếng Trung Quốc mà phiên dịch thì không có!. Ông Sơn liền bảo:
- Tao sẽ phiên dịch cho mày nhưng mà mày định bàn những gì với
Quân khu. Nói truớc cho tao nghe, tao sẽ dịch cho. Tôi cho ông hay là phải bàn
định ngày giờ đưa bộ đội sang, chỗ ăn ngủ của bộ đội, chế độ ăn uống cung cấp
như thế nào? Việc lĩnh vũ khí chương trình huấn luyện ra sao. Nghe tôi nói xong
ông ấy bảo:
- ờ, thế thì được rồi.
Khi tới nơi, ông gặp ông Lý Thiên Hữu, cũng lại là bạn thân cũ.
Các ông đón chào nhau cực kỳ niềm nở, còn với tôi thì nhạt nhẽo và trong câu
chuyện tôi lại giữ vai trò ngồi chầu rìa. Ông Sơn bắt đầu câu chuyện của chúng
tôi với ông Lý. Nửa giờ trôi qua, ông Sơn nói với tôi:
- Thôi xong rồi, đi về.
Rồi ông ấy lại nói:
- Thôi thế này nhá! Mày lấy sổ ra ghi: Tao đã thảo luận với ông
Lý rồi. Ông ấy đồng ý những điểm này rồi: ngày giờ sang này, quân trang quân
dụng này, chế độ ăn, chế độ tiên vặt như thế này, cán bộ, chuyên gia huấn
luyện, cố vấn bao giờ tới và đón tiếp ra sao, ba tháng học bắt đầu từ ngày nào
và kết thúc lúc nào... Thôi, tao đã bàn đủ các vấn đề đó, mày cứ thế mà làm.
Xong nhé..! Đi về! Thật đúng là phiên dịch bố! Ông ấy bảo mình thông báo trước
rồi căn cứ vào đó ông ta bàn bạc hết.
Phần tôi đúng là chầu rìa vì suốt buổi không phải nói một câu,
không được hỏi lấy một lần. Nhưng nghĩ lại thì ông ấy làm thế cũng phải vì hiểu
biết của ông ta bao trùm lên những chuyện mình cần đưa ra. Hơn nữa, tiếng tăm
ông ấy thông thạo như tiếng mẹ đẻ. Chuyện để dịch từng câu nói chỉ thêm lủng
củng phiền hà mất thì giờ vô ích. Những điều phải xử lý ông ấy làm chính xác
hơn là có mình tham gia. Tôi thừa nhận cung cách của ông vừa gọn, lại đạt mọi
yêu cầu nên cũng chẳng tự ái gì cả, cảm thấy nhẹ mình. Đến bữa đi xem chiếu
bóng. Xảy ra chuyện ông cần vụ của tôi thú vị quá cứ ồ à như ở chỗ không người.
Trước khi đi xem, anh thư ký cẩn thận nhắc tôi: Anh phải dặn tay cần vụ đi thì
giữ im lặng mà xem, cứ rống lên làm anh em xấu hổ. Trước khi lên xe tôi căn
dặn:Này xem thấy gì hay không được la tướng lên người ta cười đấy. Thế mà đến
cảnh con trâu đi lại nó lại hét to: Trâu bước. Đến cảnh em bé trèo cưỡi trâu
thổi sáo thì cậu ta thật sự quên mình đang ở đầu nói cười như vừa có một khám
phá vĩ đại. Ngượng quá tôi cấu đùi nó khá đau mà nó cứ như không hay biết....
Hôm đi xem kinh kịch là đi cùng ông Trương và cả ông Lý. Lúc chờ
màn, tôi thấy ông Trương bảo ông Hồng Thủy lên nói chuyện. Tôi tò mò hỏi: Ông
ấy bảo nói cái gì đấy?. Ông Sơn cười rồi nói: Ông ấy bảo tao lên nói chuyện
ngày xưa đi trường chinh với bộ đội giải phóng. Thời ấy cứ đến buổi xem văn
nghệ, khoảng thời gian đầu chờ màn mở thì lại thượng tao lên nói chuyện với khán
giả. Nhưng mà bây giờ ở đây nói thế nào được. Ông kia cứ giục: Hồng Thủy lên
nói đi. Sau đó ngồi xem buổi diễn kinh kịch, ông Sơn giải thích cho tôi hiểu
từng động tác của diễn viên dụng ý miêu tả cái gì. Phải thừa nhận ông hiểu rất
sành sỏi và có cách thưởng thức thật tinh tế. Nhiệm vụ hoàn thành, tôi trở về
nước, còn ông Sơn tiếp tục đi. Tỉnh Nam Ninh tổ chức bữa tiệc tiễn đưa tôi,
đồng thời cũng tiễn đưa ông Sơn lên đường, mà cũng là cách để ông Sơn tiễn tôi
trở về. Tiệc thì có rượu, người được tiễn phải uống rượu đáp lại thịnh tình của
chủ bữa tiệc. Đó là chuyện cực hình đối với tôi. Tôi không uống được rượu, đến
bia cũng làm tôi khó chịu. Từ hôm đến đến giờ, bạn bày rượu ra uống, tôi cứ cầm
lên đặt xuống hoài. Hôm nay tướng Sơn ngồi bên cứ dọa: Này người ta mời mà
không cố gắng uống thì chẳng há là khinh người ra sao? Mình đang muốn nhờ vả
thì phải rán làm vui lòng người ta chứ!. Nghĩ lời ông cũng có lý, tôi không dám
từ choí. Tướng Sơn lại ép: Mày uống mà không cạn chén là không được đâu! Có
uống cạn với thái độ sởi lởi thì mới làm người ta vui lòng. Tan tiệc, tôi phải
nắm chặt tay vịn cầu thang nơi lết nổi về tới phòng ngủ. Sáng hôm sau: ông ấy
vui vẻ hỏi thăm: Thế nào đêm qua về thấy thế nào?. Nhìn ông thấy lộ vẻ thích
thú như đã thực hiện được một trò đùa. Lúc chia tay, tôi rất bùi ngùi, nghĩ
bụng: Một con người đất nước đang cần mà lại bỏ ra đi! Ông lưu lại nơi tôi một
sự luyến tiếc ray rứt. Suốt cả chặng đường ông đã đối xử với tôi rất thân tình
và đầy cá tính Nguyễn Sơn.
Sau này tôi có nghe người ta nói lại là ở Trung Quốc ông lầm cục
trưởng Cục điều lệnh mà cấp là thiếu tướng hay trung tướng gì đó. Về sau bị đau
ốm, ông đoán mình không qua nổi, có nguyện vọng muốn chết ở Việt Nam nên đã đưa
ông về điều trị ở bệnh viện 108. Ông Nguyễn Sơn mất 1956. Ông sinh năm 1908,
thọ được 49 tuổi. Ra đi quyết không trở lại mà khi chết lại tha thiết muốn về
nước! Đó là cái uẩn khúc của tâm linh con người!
Ngày 31-12-1993 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức một cuộc
sinh hoạt tưởng niệm tướng Nguyễn Sơn lần thứ 85 ngày sinh, có rất nhiều bài
viết hay
HẾT CHƯƠNG 11 XEM TIẾP
CHƯƠNG 12
CHƯƠNG 12 CON NGỰA CHIẾN
CỦA TÔI
Khi từ chiến khu 2 lên Việt Bắc, một người bạn tặng tôi một con
ngựa, lông màu hồng ánh vàng, mượt mà lắm. Vóc nó vừa phải, lưng vừa tầm vai
tôi. Ngực nó nở tròn, bụng thon, chân mảnh. Trông nó đến là đẹp nhưng biết nó
thuộc nòi ngựa đua nên tôi chưa dám cưỡi. Việc đi ngựa tôi vốn chưa thành thục.
Trước đây được ông Vương Thừa Vũ huấn luyện một lần tôi đà dùng ngựa đi họp mà
tới nơi chỉ cờn nằm không thể nào ngồi dậy được. Toàn thân đau ê ẩm. Không dám
cưỡi, cũng không dám dắt, tôi phải nhờ người đưa nó lên Việt Bắc. Tôi giao nó
cho cậu bé cần vụ người Tày: Mày luyện nó giúp tao! Nó giữ lắm, hết sức hăng
máu. Tao vừa cầm lấy cương là nó cất tung bốn vó. Cứ lên lưng là nó phi hoặc
dừng lại chứ không đi nước kiệu. Mày luyện cẩn thận vào nhé!. Cậu bé rất chịu
khó và thạo việc, mấy tháng sau mới báo cáo đã luyện được rồi.
Lúc đó tôi chưa nhận công tác chính thức. Gia đình tôi ở chợ Chu
cách mười cây số, đi về, tôi vẫn thường dùng xe đạp hoặc đi bộ. Hôm ấy tôi tính
đi ngựa cho nhanh. Cậu cần vụ giữ cẩn thận để tôi lên ngựa rồi mới trao cương.
Mđi cầm lấy đây cương, thế là nó bốc, nó đạp. Tôi lúng túng tuột tay. Cậu cần
vụ đưa lại dây cương, bảo: Anh cứ kiên nhẫn vuốt ve nó, tay cương nhẹ nhẹ mà
lên lưng đừng để dây cương động vào mõm nó. Cậu cần vụ lại cẩn thận giữ con
ngựa để tôi trèo lên. Cậu ta vừa bỗ tay ra thì con ngựa phóng lên phi vọt. Bị
xô trật khỏi yên, tôi rơi uỵch xuống, con ngựa này đặc biệt thú vì là cứ người
cưỡi ngã là nó đứng lại ngay lập tức. Không phải ngựa nào cũng có nết đó. Chính
ông Phạm Ngọc Mậu đã bị ngựa kéo lê đến hàng cây số, suýt mất mạng. Ông anh kết
nghĩa của tôi cũng từng bị ngựa kéo lê mấy chục mét, ê ẩm cả người, về nhà phải
phục thuốc mất mấy ngày. Lần thứ hai, chuẩn bị chu đáo lôi lại leo lên. Con
ngựa lại lao vút, luồn qua mấy cây tre ngả ngang đường. May mà tôi nhanh mắt
cúi đầu bám chặt lưng nó nên không bi thương. Cuối cùng tôi đành đánh bộ đi
công tác. Trên đường về tôi bước ung dung, thảnh thơi ngắm cảnh. Ngoảnh lại
thấy phía xa có đốm đen di động. Chốc lát hiện rõ một kỵ sĩ hiên ngang phi ngựa
tới. Anh ta nằm dán mình vào lưng ngựa đang phi như mũi tên lao. Tôi đứng ngây
ra vì nước phi khá đẹp. Đúng là con ngựa của tôi còn kỵ sĩ là Phan Văn Khoa!
Không rõ thời đó ông ta làm gì nhưng chắc chắn là chưa làm phim. Trông thấy
tôi, Khoa hét tướng lên: Ngựa hay quá. Lần thứ hai, anh chưa dứt lời thì cả
người và ngựa vút qua tôi. Bị hơi gió thốc rơi mũ, ông ấy ngoái lại nhờ: Nhặt hộ
tao cái mũ. Bụng đầy buồn tủi, tôi cúi nhặt mũ mang về cho ông ta. Bóng dáng
con ngựa phi và kỵ sĩ khảm khắc tận óc cứ như diễu cợt đùa dai cái vụng về của
tôi. Ông Khoa phi thử, phi chơi chừng mười cây số rồi quay trở lại. Đưa ngựa
trả cho tôi, ông ấy bảo:
- Ngựa của anh thật tuyệt vời, anh kiếm được ở đâu thế!
- Kiếm đâu! Anh em ở dưới khu IIl cho tớ làm kỷ niệm, đưa lên để
đi đường rừng cho tiện.
- Bán lại cho tớ, tớ xin trả năm ngàn.
- Đã bảo là ngựa kỷ niệm, sao lại bán? Năm ngàn chứ mười ngàn
tôi cũng không bán. Không bao giờ bán! Tôi để tôi đi. Nay chưa đi được nhưng
rồi sẽ được!
Suốt thời gian tới ở báo Vệ quốc quân, con ngựa này luôn gắn bó
với tôi trong các chuyến công tác. Nó phi bay mà lại dai sức lắm. Từ Đại Từ về
đến khu vực chợ Chu có đến hơn hai mươi cây số. Mặc dù anh em khác đi xe đạp
thường khởi hành sớm, mãi lâu sau tôi mới lên đường nhưng con ngựa đưa tôi vượt
xa mọi người. Đạp xe hai mươi cây số đường núi, cua dốc hiểm trở quả cũng vất
vả khó nhọc. Đi ngựa giúp tôi thảnh thơi, đàng hoàng hơn. Tôi cũng học được của
người nuôi ngựa nhiều chỉ dẫn quan trọng:
- Con ngựa này khôn lắm, nhưng anh phải biết chịu khó săn sóc
nó. Anh chú ý mấy việc này: Một là khi anh rửa mặt xong thì đem nước ấy cho nó
uống. Hai là đi đâu về, áo anh đang đẩm mồ hôi, anh cởi áo trùm lên đầu nó. Để
làm gì? Để cho nó quen hơi và nó biết anh là chủ. Từ chỗ quen hơi và hiểu rằng
chủ mến yêu mình, anh sẽ thấy nó rất thuần với anh, còn kẻ khác thì hãy xem
chừng...
Tôi kiên trì thực hiện điều chỉ dẫn đó. Quả nhiên con ngựa gắn
bó với tôi, dù không như con chó nhưng nó rất mật thiết, cả nó và tôi đều cảm
nhận rõ. Tôi đặc biệt hiểu nó qua đôi mắt nó nhìn. ánh mắt nó nhìn mình thể
hiện rõ nó thương mình ra sao, hoặc là nó đang buồn hay giận giữ gì đó. Khi tôi
đến gần vuốt ve mơn trớn, nó để lộ nỗi vui sướng. Nó giẫm chân, ngoắt đuôi, gục
đầu vào mặt tôi mà dụi như mơn trớn tôi. Những lúc tôi đi xa ít ngày, khi trở
về cơ quan, còn cách xa trăm thước mà con ngựa đã nhảy cẫng lên hí rất dài. Dù
vội, tôi cũng ghé lại với nó chốc lát!
Bấy giờ con ngựa tiện dụng hơn xe đạp nhiều vì đi ngựa nhanh
hơn, ít mệt hơn. Chỉ phải có người chăm sóc nó, phải cho ngựa ăn trứng gà, mật
ong hoặc lá mán ở trong rừng. Kiếm các thứ đó đâu có dễ. Con ngựa của tôi được
nuôi nấng đầy đủ nên rất béo tốt, da hóng lông mượt mà. Đơn vị tôi có ông kế
toán tutởng cậu thị nặng, nhưng rất ham đi ngựa. Một hôm mượn ngựa của tôi đi
chợ cách bốn, năm cây số. Như đã nói trên con ngựa này cứ người lạ cưỡi là nó
phi, không thể cho nó di nước kiệu như khi tôi cưỡi được. Và ông kế toán của
chúng tôi đã được phi đi và phi trở về, hình dạng đến thảm hại: quần áo xộc
xệch, kính lòng thòng trước ngực, mặt nhăn nhó đau khổ. Gặp tôi, ông ta vừa thở
vừa nói: Thôi, tôi xin cạch ngựa quý của ông! Khiếp quá, điều khiển không được!.
Nguyễn Đắc, giám đốc xưởng phim một lần mượn ngựa của tôi đi, trở về cũng bảo
xin cạch không đám mượn nữa vì vừa bị nó hạ xuống đất đánh bịch! Có hôm tôi đến
họp ở văn phòng tổng cục chính trị. Đây là cái nhà sàn, người họp phía trên,
ngựa nghẽo buộc phía dưới. Xong cuộc họp tôi xuống không thấy ngựa đâu cả. Thì
ra có cậu đã lén lấy ngựa tôi đi và vừa bị quật ngã gãy hai xương sườn phải đưa
đi điều trị. Hai tháng sau mới trở về và từ đó cũng cạch con ngựa...
Ngày ấy có lão Lê Đức Nhân là một trong các cố vấn binh vận của
ta về người Đức, cũng mê ngựa và có ngựa. Con ngựa tay này cao to rất đẹp mã.
So với ngựa của tôi nó hiên ngang hơn hẳn - thế mà ông ấy gặp ngựa tôi thì ca
ngợi hết lời, tôn xưng là như gió. Mỗi lần hai bên gặp nhau dọc đường, ông vui vẻ
cho ngựa mình né sang bên rồi đặt tay lên ngực chào: Bông dua Như gió mà chẳng
thèm chào, thảm nhìn tôi lấy một cái. Lão bao lần gạ gẫm đổi, dĩ nhiên là không
được.
Ngành tuyên huấn thời ấy do ông Trường Chinh chủ trì. Các ủy
viên gồm có tôi và các ông Lê Quang Đạo, Hà Xuân Trường, Trần Lâm, Hoàng Tuấn,
Lưu Văn Lợi. Các cuộc họp thường có đủ mặt các vị này để nghe ông Trường Chinh
hướng dẫn tình hình sẽ diễn biến như thế nào? Nên đề cao cái gì? Chú ý cái gì
dự đoán tư tưởng quần chúng diễn biến ra sao? Công tác tuyên huấn phải làm thế
nào. Mỗi lần đi họp tôi có Như gió nên cứ ung dung, các bố khác thì ra đi bộ từ
sớm. Ước lượng các ông ấy đã đến chỗ bãi cỏ dài độ trăm thước, tôi mới leo lên
lưng ngựa phi chỉ vút một cái là đã vượt lên trước mọi người. Trần Lâm đã có
lời mô tả: Độ có con ngựa hay thật! Mới nghe tiếng vó lộp bộp, lộp bộp từ xa xa
đã thấy đánh ào qua như làn gió và nó biến mất ở phía trước. Lúc bấy giờ các
ông Văn Tiến Dũng, Phan Phúc Tường, Lê Tất Đắc, Lưu Văn Lợi... đều có ngựa. Một
dịp Tết, chúng tôi kéo nhau đi mừng Xuân, chúctết Cục trưởng Văn Tiến Dũng, mỗi
người một con ngựa. Con ngựa của ông Phan Phúc Tường dữ ghê gớm, chỉ tội dữ
cắn, dữ đá chứ không dữ chạy. Ông ấy dừng lại ở đâu phải cột ngựa bằng hai xích
sắt. Thế mà hễ đành hơi có ngựa cái là nó giựt đứt cả xích. Lúc đến thì lẻ tẻ
từng ông nên không xảy ra chuyện gì. Ngựa tôi là ngựa cái nên tôi phải phòng
xa. Khi ra về, Phan Phúc Tường cũng cao giọng cảnh cáo: Coi chừng ngựa tao! Nó
chạy thì xoàng, nhưng đuổi gái thì ghê đấy!. Tôi vội vã phóc lên phi trước. Thế
mà con kia lao lên đuổi. Tôi nghĩ làm sao nó có tốc độ như ngựa của mình được.
Chỉ chốc lát thì bị bỏ rơi thôi. ôi chao nó đuổi! Trước nay, chẳng có ngựa đực
nào đuổi kịp con cái của tôi được. Nhưng ngựa Phan Phúc Tường cứ si mê đuổi. Và
nó đuổi kịp. Nó bám sát đuôi ngựa tôi rồi cứ chồm chồm tính nhảy lên sau lưng
tôi. Phi thì nó phi theo. Đi chậm lại thì nó chồm lên lưng. Bí quá! Tôi đành
xuống ngựa tìm mãi mới có được cành tre dài bốn năm thước xua phía sau ngựa,
vất vả nhiều lắm mới về tới nhà. Còn Phan Phúc Tường thì bị ngựa hất ngã khi nó
chồm lên ngựa tôi.
Con ngựa đực của ông Văn Tiến Dũng thì chết vì nhảy ngựa cái.
Trong một ngày nó nhảy đến mười bốn lần và lăn ra chết. Ông Văn Tiến Dũng đang
làm việc thấy cậu cần vụ vào thưa:.
Báo cáo đồng chí..
- Báo cáo gì?
- Con ngựa của đồng chí hy sinh rồi ạ..
- Hy sinh vì sao?.
- Báo cáo đồng chí, hy sinh vì ái tình!
Lại một lần, tôi một mình dùng ngựa đi. Giữa đường gặp một ông
đang ngồi nghỉ. Con ngựa đực của ông ta buộc gần đó. Đánh hơi ngựa của tôi, nó
giựt đứt giây cương đuổi theo, bám riết. Đường vắng vẻ chẳng biết nhờ ai cản
giúp, mà cứ nhủng nhẳng thì chẳng làm sao đi được, Tôi cố nghĩ cho ra cách cắt
cái đuôi nó. Một ý nghĩ tinh nghịch thoảng qua. Tôi xuống ngựa buộc nó vào gốc
cây bên đường và bảo: Thôi cho nó làm cho xong đi rồi mà đi!. Thế mà xong được
đấy!.
Có những cuộc họp ở Bộ Tổng tư lệnh đến khuya. Mọi người đều ngủ
lại, còn tôi thì cứ ra về. Vài chục cây số đường rừng, tôi leo lên lưng ngựa
bảo nó về. Tôi chỉ việc ôm cổ nó mà gà gật, mà tránh các cành cây ngang đường
là được. Con ngựa khắc về tới nhà. Tôi cũng thích nói chuyện với nó, buông lời
nói khích lệ, khen ngợi và buông những cái vuốt ve mơn trớn. Nó có vẻ lắng nghe
và như hiểu được lòng chủ. Nó cứ lững thững bước, đến đúng cửa chuồng ngựa thì
dừng lại. ít lâu sau nó đẻ một con ngựa con, cũng nhỏ con và tưng tưng như con
mẹ. Thế là từ đó tôi có ngoài ngựa cưỡi còn lẽo đẽo một chú ngựa con phía sau.
Con ngựa gắn bó với tôi đến mức như tôi có thể điều khiển nó bằng
ý nghĩ. Nó như đoán được ý muốn của tôi qua một động thái giây cương nhẹ nhàng.
Đang phi ào ào, tôi muốn chuyển sang đi thong thả, chỉ cần nhổm đít lên là nó
viết ý chuyển sang đi nước kiệu. Còn đang nước kiệu, tôi quặp chặt hai ống chân
vào bụng nó là nó phi ngay. Cũng có lần tôi bị ngã, ngã khá đau. Đó là hôm nó
đang phi thì trời đổ mưa nặng hạt. Đường trơn, nó đưa cả bốn chân lên tảng đá
nên trượt. Cả bốn chân nó chựng lại và tôi bị hất lộn ngược qua đầu nó. Tôi
cũng đã bị ngã xe đạp. Ngã xe đạp thì ta biết khi mất đà, còn ngã ngựa thì chỉ
khi đã nằm bò trên đất mới hay bị ngã rồi. Lần ngã này khá đau vì lưng tôi lúc
đó đeo ba lô, bị ba lô xiết vào xây xát cả lưng.
Sau này tôi ra đơn vị 209, tôi vẫn còn mang con ngựa theo... Đến
lần tôi sang Trung Quốc luyện quân mấy tháng trở về, lòng khấp khởi mừng gặp
lại ngựa quý. Nhưng được biết là nó đã chết vì những lý do nghe lơ mơ lắm. Điều
chắc chắn là sự chăm sóc nuôi nấng nó, ân cần với nó không được như tôi lúc ở
nhà, như anh cần vụ vừa nắm vững kỷ thuật vừa rất có trách nhiệm. Nó chết tôi
tiếc ngơ tiếc ngẩn mấy lâu. Về sau tôi còn đi nhiều ngựa khác nhưng không có
con nào được như ngựa của tôi. Sang Lào tôi cũng đã chú ý chọn con ngựa hay.
Ngựa Lào đặc biệt có nước kiệu đặc biệt, gọi là kiệu Lào, khác với nưỡc kiệu
kiểu người pháp đi. Đi kiệu Tây biết nhún theo thì không sao, không biết nhún
thì đau lưng lắm. Kiệu Lào thì không phải nhún không phải nó chạy mà chỉ là
bước gấp băng băng và đi từ ngày này qua ngày khác với tốc độ trung bình 7
km/giờ. Ngựa Lào thật dai sức! Trở lại con ngựa quý của tôi.
Dùng nó thì khó đi ngựa đàn. Nó không chịu đi sau con nào cả.
Một chuyến tôi đi công tác cùng đoàn của anh Văn, ngựa của anh ấy cũng loại cực
kỳ hay. Tôi lùi xuống đi phía sau, anh em không rõ cứ trách tôi sao không nhập
đoàn cho vui. Song nếu tôi thúc lên thì không có cách kìm giữ con ngựa tôi cả.
Nó cứ bước lên đi trước mọi con khác. Như thế sao tiện với anh Văn. Đấy con
ngựa của tôi lưu lại cho tôi những kỷ niệm như vậy. Tôi cũng không hiểu những
điều đó nó thừa hưởng từ nòi giống nó hay là do cậu chăn nuôi đã luyện cho nó.
Bây giờ tôi vẫn thương tiếc nó.
HẾT CHƯƠNG 12 XEM TIẾP CHƯƠNG 13
CHƯƠNG 13 LẦN ĐẦU TIÊN RA
TRẬN
Năm 1950, tôi ra đơn vị, được ít lâu thì có nhiệm vụ đưa bộ đội
sang biên giới huấn luyện và nhận viện trợ vũ khí. Toàn bộ trung đoàn trang bị
lại mới mẻ và đồng bộ. Tôi được cử đi tiền trạm sang giao thiệp với các nhà
chức trách Trung Quốc trước để bố trí chỗ ăn ở, luyện tập, nhận vũ khí viện
trợ. Đơn vị đi sang sau. Khi tôi ở bên đó và sắp huấn luyện xong thì biết tin ở
nhà đang chuẩn bị chiến dịch Biên giới, song không hiểu qui mô như thế nào,
đánh ra làm sao. Tuy vậy, tôi cho là cần phải đưa trung đoàn trở về ngay biên
giới. Chỗ chúng tôi chỉ cách Cao Bằng mấy chục cây số thôi và biết sẽ được tham
gia chiến dịch. Đây là chiến dịch đầu tiên, lại được tham gia thì náo nức vô
cừng. Tôi nhận được thư của anh Tấn. Bấy giờ anh Tấn đã cùng bộ tổng tư lệnh
lên biên giới chuẩn bị chiến trường. Anh Võ Nguyên Giáp trực tiếp đi chuẩn bị.
Anh Tấn đi cùng đoàn và từ đó viết thư cho tôi. Anh ấy kể chuyện ở nhà đang
chuẩn bị ra sao và cũng có phác qua phương án. Tôi hiểu là sẽ tập trung đánh và
giải phóng Cao Bằng. Anh Tấn cũng cẩn thận và bảo chưa có quyết định ngã ngũ và
có thể có phương án khác đang thảo luận. Anh dặn: Cậu cố thu xếp đưa anh em về
để tham gia chiến dịch.
Chúng tôi cũng vừa kết thúc huấn luyện. Thu xếp xong xuôi, tôi
tự động cho anh em về nước, tranh thủ đi thanh toán với nhân dân địa phương
chào các cố vấn. Anh em trong đơn vị thì thu dọn để lúc bốc về là lên đường
được ngay. Hôm ra về, bộ đội xuất phát sau, tôi cưỡi ngựa cùng một anh cần vụ
bảo vệ đi về trước tìm anh Tấn để thu xếp chỗ trú quân và nhận nhiệm vụ. Tôi về
với tâm trạng rất phấn khởi, tự cảm thấy mình làm được việc và lại kịp thời.
Phải lần tìm mãi mới vào được đúng chổ của anh Văn. Trông thấy tôi, anh lộ vẻ
ngạc nhiên, hỏi: Cậu ở đâu về Tôi vừa bên Hoa Đồng về! Tôi đưa bộ đội về để
tham gia chiến dịch.
Đang tươi cười nghe vậy anh Văn nghiêm mặt hỏi:
- Lệnh đâu mà cậu trở về!
Câu hỏi của anh làm tôi bừng tỉnh, bụng nghĩ: Bỏ mẹ rồi! Quân
đội là phải có lệnh! Thư anh Tấn gởi là mang tính chất bạn bè đồng nghiệp, đồng
sự trao đổi với nhau thôi mà mình lại bốc bộ đội về. Tôi ớ ra không biết trả
lời như thế nào, cứ lúng ba lúng búng: Tôi nhận được thư anh Tấn thấy nói là
đang chuẩn bị chiến dịch nên tôi đưa anh em về chuẩn bị cho kịp. Ông Văn phẩy
tay dứt khoát: Trở lại ngay lập tức! Phải giữ bí mật mà cậu lại lục tục đưa cả
một đoàn quân lớn như thế thì lộ hết kế hoạch chiến dịch. Hỏng hết! Cậu đáng bị
kỷ luật! Quay trở lại ngay lập tức! Không lôi thôi gì cả!.
Thế thì bao nhiêu náo nức đang nóng cả đầu lụi tắt hết. Tôi tái
mặt, chào anh Văn rồi nhảy lên ngựa quay trở lại. May sao bộ đội mới xuất phát
chưa qua biên giới. Chao ôi! Trở lại thì phải làm bao nhiêu chuyện mới vừa
thanh toán xong. Lại ăn ở làm sao? sinh hoạt thế nào lập tành ra sao? Còn một
ít tiền thì chi phí thế nào cho đủ nuôi quân mà không để thiệt hại cho dân! ở
lại chờ lệnh, đó là quân lệnh! Cái kỷ niệm vô tổ chức này cứ nhức nhói mãi.
Khoảng một tuần sau mới nhận được lệnh về tham gia chíến dịch.
Đơn vị tôi nhận nhiệm vụ cùng đơn vị ông Chu Huy Mân (trung đoàn 174) đánh Đông
Khê. Trận đánh bắt đầu. Với tôi cũng là bắt đầu tham gia đánh trận. Trước đó
nói là bộ dội đánh ở Hà Nội nhưng chưa thể gọi là trận mạc được. Còn lúc này ở
Đông Khê là trận đánh có tổ chức, có chỉ huy, với đơn vị lớn đàng hoàng. Tôi
với anh Tấn đến ngày xuất quân đi vào trận địa cứ thao thức, bàn lên bàn xuống.
Chuyện gì cũng thấy chưa ổn, lo khổ lo sở đến chẳng buồn ăn uống. Thời ấy bữa
ăn cũng đã có gì đâu. Nhà bếp thổi cho mỗi người một nắm cơm ăn với muối vừng
và ít thịt rang. Suốt đêm hôm đó, nằm ở chỉ huy sở cùng với các cố vấn Trung
Quốc, mọi người cứ thao thức, đi ra đi vào, dò hỏi tình hình. Ông Tấn khoái trá
khoe với tôi: Lần này chỉ huy chiến đấu có têlêphôn nhé!. Trước đó lệnh chỉ huy
toàn chạy bộ mà truyền. Mấy tay cố vấn thì yêu cầu: các đồng chí đi nghỉ đi để
lại có sức mà chỉ huy, mà chiến đấu! Cứ thức như thế này thì không được! Tôi
lại lấy làm ngạc nhiên tại sao lại cứ phải đi nghỉ! Mai có sự kiện ghê gớm đến
thế mà hôm nay ngủ được sao? Thật là lời khuyên dở hơi! Tôi liền hỏi họ:
- Như các đồng chí có nhiều kinh nghiệm thì trước trận đánh các
đồng chí làm gì?
Tay cố vấn này cũng tinh nghịch trả lời:
- Trước trận đánh một bữa no, xong là chúng tôi đi ngủ. Như thế
mới giữ được sức, cân bằng thần kinh ngày mai chỉ huy sáng suốt. Nến cứ thức
suốt đêm, mai người nó mụ đi thì nguy hiểm lắm!
Nghe cũng có lý, anh Tấn và tôi đi nằm, nhưng chẳng làm sao ngủ
được, cả hai thao thức suốt đêm, sáng hôm sau triển khai trận đánh. Trận đánh
có nhiều chuyện xúc động lắm, kể ra đây cả cũng khó đầy đủ, khó nói đến nơi đến
chốn. Đánh một đêm không xong phải rút quân về củng cố. Cán bộ chúng tôi chia
nhau xuống các đơn vị động viên anh em, giải quyết các vấn đề. Gặp anh Hoàng
Cầm lúc ấy là tiểu đoàn trưởng thấy anh đang lộ vẻ bực mình với đại đội trưởng
Trần Cừ. Anh nói: Thằng Cừ nó khóc ở ngoài kia, tôi mắng cho một mẻ mà nó chưa
chịu!. Tôi tìm gặp Trần Cừ. Qua câu chuyện tìm hiểu ra Trần Cừ thấy đại đội của
cậu ta thương vong nhiều quá, toàn là những anh em thân thiết trước nay, buồn
quá mà khóc. Anh Hoàng Cầm thì lo tinh thần đơn vị sa sút, tối lại đánh tiếp sợ
khó thắng? Tôi cùng anh Hoàng Cầm nói chuyện nhiều với Trần Cừ. Thì ra Trần Cừ
đau lòng vì bạn bè chứ không hề sa sút tinh thần chiến đấu. Đêm hôm sau, anh
chiến đấu rất quyết liệt và thực hiện lấy thân mình lấp lỗ châu mai, là gương
anh hùng đầu tiên trong quân đội ta.
Một kỷ niệm khác ở chiến dịch Biên giới là dân công lên tiền
tuyến. Sau trận đlnh Đông Khê ta còn đánh vận động diệt binh đoàn Lơpa và
Sactông. Hai binh đoàn này, một từ Cao Bằng về và một từ Lạng Sơn lên, định hợp
quân chiếm lại Đông Khê nhưng lại rơi vào tay ta. Đánh vận động thì mỗi đơn vị
quân đội bổ sung một đơn vị dân công để vận tải đạn dược, lương thực và thương
binh, tuyệt đại đa số là người địa phương và phần là các cô người Tầy rất dễ
thương. Các cô vừa đẹp vừa vui nhộn, quen leo núi, dáng đi rất uyển chuyển.
Đứng ngắm thấy đẹp quá tôi gọi mọi người: - Xem này, xem này, một đoàn văn công
đang biểu diển. Họ đi như múa vậy. Ngoài việc tập trung thành lực lượng vận tải
rất cơ động, hoàn cảnh nào cũng bám sát bảo đảm hậu cần cho bộ đội chiến đấu,
họ còn được phân bổ đi phục vụ ban chỉ huy, về các trạm y tế săn sóc thương
bệnh binh, vận chuyển thương binh về tuyến sau. Dân công chính là nhân dân sát
cánh với bộ đội để giành từng chiến công, để giải quyết mọi hậu quả sau trận
đánh. Một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng nhất của chiến tranh nhân dân. Ban chỉ
huy trung đoàn của tôi cũng có một tiểu đội dân công phục vụ việc đưa đường,
chở gạo, muối, nấu ăn... Tiểu dội này săn sóc ban chỉ huy rất tận tình. Nhìn
bữa ăn của anh em chỉ có cơm nắm chấm muối vừng hoặc thức ăn sơ sài, các cô bàn
đi kiếm rau rừng. Bình thường các cô vẫn anh anh em em thân tình nhưng khi định
làm gì lại khép nép thưa gửi. Một cô đánh bạo đến trưdc ông Tấn:
- Báo cáo ông Tấn!
Nghe vậy anh Tấn hỏi:
- Cô cần gì?
- Ông Tấn cho phép em leo cái cây này.
Cô vừa nói vừa chỉ lên cây
- Leo làm gì!
- Lấy rau cho bộ đội ăn!
- ờ, nhưng phải cẩn thận không ngã!
Hôm đó, ban chỉ huy được bữa rau ngon sau bao ngày xót ruột vì
ăn không có rau. Cái cây cô kia xin trèo có nõn lá làm rau ăn hết sức ngon. Có
cô thì xin phép đi vào rừng. Lúc về mang theo một bọc nào bưởi, nào ổi và các
thứ trái cây rừng, vứt trên bàn ban chỉ huy bảo: ăn đi. Phải nói bộ đội mà vắng
dân công thì như cá thiếu nước. Và trong thực tế thì có nhiều thiên bí sử, tình
sử giữa hai bên, chẳng ai mong muốn nhưng mà cũng khó mà ngăn nổi. Nói về thái
độ tình cảm của chị em đối với bộ đội ta phải xác định sự hy sinh của họ vô bờ
bến, gian lao không tính, nguy hiểm không sờn! Sự anh dũng, cái anh hùng của
dân công và bộ đội không kém cạnh nhau mà đã nâng nhau lên đến đỉnh cao.
Sau chiến thắng của chiến dịch, bộ chỉ huy lập một ban thu nhận
chiến lợi phẩm. Có anh em đã đụng phải một hầm rượu, đủ cho lính đồn của địch
uống cả năm. Các thứ thuốc lá, bánh kẹo, bơ sữa nhiều lắm. Đó là chưa kể súng
ống, quân trang, quân dụng, máy móc, thuốc Lơ Mo lấy về cả kho. Ông Đinh Đức
Thiện đem pha trộn với thuốc ta hút. Các đơn vi cũng lấy hút. Thuốc này một
người hút khói thơm lan cả một vùng. Sôcôla thì lính mình nông dân chê đắng.
Tôi thích chụp ảnh cũng đi mò phim. Có chỗ thấy cả đống nhưng không dùng được
nữa vì anh em không biết tưởng kẹo đã bóc ra cả. Cuộn phim cũng bọc giấy bạc
như kẹo. Hôm tôi đi qua Đông Khê vừa giải phóng, thấy một nhóm chiến sỹ đang
ngồi nhai bánh, ăn kẹo. Cán bộ thu dọn chiến trường đến quát tháo đòi kỷ luật,
bắt anh em đưa nộp hết bất cứ thứ gì đã thu nhặt được với cái lẽ: chiến lợi
phẩm lớn nhỏ đều là tài sản quốc gia, là chiến quả đổi bằng xương máu. Với máu
thanh niên vốn xôi nổi, tôi rất ghét cái thói lên lớp dạy đời, nên đứng lên cãi
lại. Tôi cũng nói ngang ngược không kém: Các anh có biết chiến thắng này do ai
không? Và ai đổ xương máu ở chiến trường này. Có phải là những người lính
không? Trớc khi đi vào trận đánh họ vui vẻ ăn bưởi rừng, ổi ma thay cơm, măng
rừng thay thịt cá. Bây giờ chiến thắng rồi, có tí chút chất tươi vui vẻ với
nhau. Các anh phải lên lớp làm gì nặng nề thế! Thôi các anh đi đi. Đây là đơn
vị chúng tôi. Chúng tôi chịu trách nhiệm ở đây không cho ai lấy. Sau tay này
báo cáo với ông Trần Đăng Ninh, trưởng ban thu dọn chiến trường - vốn là người rất
nghiêm khắc. Trong một cuộc họp sư kết chiến dịch mấy chục người ông Ninh phát
biểu nhiều điều, trong đó có điều tôi không ngờ tới: Một chính ủy trung đoàn
nói như thế này đây... Như thế là không được, là vô kỷ luật! Thế là cộng với
cái tội vô kỷ luật nào đó, ông ấy đề nghị Quân ủy mặt trận thi hành kỷ luật và
tôi bị cảnh cáo trong chiến địch.
Thực tình tôi rất thương anh em chiến sĩ. Hồi chuẩn bị chiến
địch, cả thời gian dài lương thực thiếu thốn phải vào rừng kiếm các thức ăn
thay cơm, phải nói là ai cũng chịu đói khổ. Thấy anh em đụng tới chiến lợi phẩm
như những thứ lặt vặt đó, tôi không cho là vi phạm kỷ luật chiến trường, không
nỡ nặng lời với họ. Với lời phân tích của ông Trần Đăng Ninh cho là khuyết điểm
thì tôi cũng đành chịu. Hôm về dự tổng kết chiến dịch ở vùng chợ Chu, tôi lo
ngay ngáy. Sau khi bị kỷ luật tôi cũng buồn. Buồn vì sự kém cỏi không đủ trình
độ xử lý các công việc cho tốt. Giữa lúc mọi người vui sướng phấn khởi về chiến
thắng, riêng tôi vừa buồn vừa lo, về dự tổng kết mà lòng ngay ngáy.
Anh Trường Chinh gọi tôi lên gặp trước hôm khai mạc hội nghị.
Tôi toát mồ hôi: Thôi chết! Chuyện tôi ớ chiến trường đã đến tai các ông. Bị
đổi công tác khác thì nguy! Mới khởi đầu có đã thế này mà phải thay đổi thì
uổng quá . Một cảm giác đau đớn lan tỏa trong tôi. Tối hôm tôi lên gặp anh
Trường Chinh, ra đi lòng bâng khuâng lo lắng cực độ. Mỗi bước đi tới lòng càng
quặn thắt. Tôi cũng nghĩ anh Trường Chinh vốn rất thân tình với tôi, xem tôi
như em út, nay có chuyện nghiệm trọng thế này biết trình hày với anh thế nào?
Điều tôi lo nhất là phải chuyển đổi công tác vì tôi đang say bám đơn vị mà
kháng chiến, thấy ở đó có nhiều ý nghĩa.
Thấy tôi tới, anh Trường Chinh nhỏ nhẹ hỏi thăm tôi đã chiến đấu
như thế nào, bộ đội ta ra làm sao, đánh nhau có kinh nghiệm gì hay không. Nỗi
lo của tôi tiêu tan dần theo câu chuyện và anh cũng chẳng nói gì đến khuyết
điểm của tôi cả. Thái độ của anh vẫn thân tình từ tốn như xưa. Rồi chính tôi tự
nói ra: Trong chiến dịch này tới có một khuyết điểm. Tôi thuật lại với anh chuyện
tôi bị kỷ luật. Anh ấy chăm chú nghe rồi thân ái khuyên: chuyện đó rút kinh
nghiệm thế là tốt, về cố gắng sửa chữa để tiến bộ. Cuộc chiến đấu còn dài, phải
rút kinh nghiệm để chiến thắng lớn hơn, không có gì phải lo lắng.
Tôi sướng quá, yên tâm dự tổng kết. Có Bác Hồ đến, cuộc họp càng
sôi nổi vui vẻ. Trên đường trở về đơn vị, căn cứ của sư đoàn chúng tôi đóng ỏ
Phú Thọ, tôi cùng anh Tấn đi cùng đường bằng xe đạp. Cứ gặp máy bay địch rà
đường thì cả hai vứt xe chui bụi rậm. Nó bay qua, lại đạp xe thong dong, tán đủ
thứ chuyện. Tôi bảo: Chiến dịch này mình tiêu diệt nói năm tiểu đoàn. Cả Đông
Dương, Pháp nó có 45 tiểu đoàn. Vậy thì chín chiến địch là xong ráo, là dành
được độc 1ập!. Thật là thứ lập luận đơn giản máy móc nhưng ông Tấn nghe cũng
cười ha hả ra vẻ hưởng ứng. Sau đó ông Tấn thông báo với tôi là chuyến này đơn
vị sẽ phát triển lên cỡ đại đoàn, mà trung đoàn Sông Lô là nòng cốt. Sự phát
triển đó rất phù hợp với mong ước của chúng tôi nên rất vui sướng.
Dần dần không biết băng con đường nào, bằng công văn hay do bộ
Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ mà tin ấy ngày càng lan ra. Rằng đại đoàn thành lập
sẽ có 209, tức trung đoàn Sông Lô, thêm trung đoàn Lao Hà (tỉnh Lào Cai và Hà
Giang) mới được mang danh hiệu là Thành đồng biên giới, tức là trung đoàn 165, Trung
đoàn thứ 3 sẽ thành lập mới, lấy tên sư đoàn 308 một tiểu đoàn độc lập, tiểu
đoàn 16 huấn luyện tân binh và tiểu đoàn 11, tức là tiểu đoàn đã lập thành tích
lớn điệt cứ điểm Phủ thông trên đường số 3 và tiểu đoàn 428, đơn vị trực thuộc
của quân khu 1, tức là quân khu Việt Bắc. Tôi với ông Tấn bàn nhau đặt tên cho
trung đoàn mới này. Vì nó gồm ba tiểu đoàn 16, 428 và 11 bèn lấy 3 con số đầu
ghép lại thành tên trung đoàn 141. Bộ Tổng tư lệnh bổ nhiệm ngay anh Nam Long
làm trung đoàn trưởng, anh Mặc Ninh làm chính ủy, hình như có cả anh Trần
Nguyên Độ nữa. Trong cả trung đoàn, tiểu đoàn 11 được coi là anh cả vì thành
tích oanh liệt diệt Phủ thông. Đồn Phủ thông cách thị xã Bắc Cạn 20 km về phía
Bắc, án ngữ ngã ba Bắc Cạn, Ngân Sơn, chợ Rã. Địch chốt ở đây nhằm giữ con
đường huyết mạch từ Cao Bằng đi Bắc Cạn làm lá chắn từ xa bảo vệ quân Pháp đóng
ở thị xã Bắc Cạn và khống chế uy hiếp vùng chợ Rã, Lượng Thượng, Na Rì. Đồn có
150 lính Âu-Phi giữ, trang bị mạnh. Trận đánh tuy không dứt điểm nhưng tiểu
đoàn 11 đã chiến đấu dũng cảm, diệt gần hết quân địch, cung cấp nhiều kinh
nghiệm quý về đánh công kiên, tiểu đoàn được Bộ Tổng tư lệnh tặng danh hiệu
Tiểu đoàn Phú thông.
Chúng tôi rất mừng, yên tâm có được đơn vị như thế. Về đến nơi,
chúng tôi bắt tay ngay vào tiếp nhận ba tiểu đoàn trên và lập ban chỉ huy trung
đoàn, rồi lập trung đoàn ủy. Bộ Tổng tư lệnh cũng ra quyết định thành lập đại
đoàn được gọi là Đại đoàn 312. Thế là sau 304 đến 308 rồi 312, không rõ có ý
nghĩa gì nhưng cứ cách nhau số 4 con số. Tiếp theo còn có 316 và 320. Sau đó lệ
này không giữ nữa, miền Trung có đại đoàn 325. Khi lập bộ chỉ huy, anh Tấn được
chỉ định là đại đoàn trưởng, tôi thì chính thức là phó chính ủy nhưng là quyền
chính ủy. Tôi làm luôn bí thư đảng ủy gồm các anh Nam Long, Mặc Ninh, Lê Thùy
(Trung đoàn trưởng 165). Tôi nhớ buổi họp đầu tiên có cả anh Đào Đình Luyện.
Khi làm việc tiếp nhận và hình thành tổ chức trung đoàn 14 thì
phải nhận ngay tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo, tức là chiến dịch Trung du ở
vùng Vinh Yên. Lúc này chúng tôi mới có trong tay hai trung đoàn 141, 209 còn
trung đoàn 165 ở biên giới chưa về kịp. Thế là đơn vị tham gia chiến dịch với
lực lượng hai trung đoàn. Chúng tôi triển khai kế hoạch đánh đồn Ba Huyên theo
phương châm Trung Quốc là: Đánh điểm diệt viện tức là đánh một điểm buộc địch
phải cho quân đến cứu viện thì đón đánh chúng ngoài công sự, có lợi cho ta hơn,
để dành thắng lợi và tiêu diệt sinh lực chúng nhiều hơn. Nhưng thằng Đờ-lát
Đờ-tax-xi nhi lúc ấy đang triển khai kế hoạch của nó và nó bình định dữ lắm nên
nó ra tay trước (chẳng hiểu nó có biết kế hoạch của ta không!). Đúng vào đêm
chúng tôi chuẩn bị xuất quân đánh Ba Huyên thì chúng nó tiến lên. Pháo chúng nó
nã vào vùng ta trú quân. Trước hôm đó, chúng tôi đã làm lễ thành lập sư đoàn,
tập hợp cả hai trung đoàn lại làm mít tinh rất nghiêm trang, tạo khí thế cho
việc xuất quân. Một cánh quân của nó tiến vào đã đụng phải 141 và 209 ở nơi trú
quân. Thế là diễn ra trận đánh nổi tiếng gọi là tận Liên Sơn, Xuân Trạch. Một
tiểu đoàn Âu Phi đã bị diệt gọn, mở đầu cho cả chiến dịch về sau của sư đoàn.
Còn trận đánh Ba Huyên thì bộ tư lệnh sư đoàn cho lùi lại. Nói là bộ tư lệnh
thật ra đã có gì đâu. Mới có vài cán bộ tham mưu, vài ông chính trị, vài ông
hậu cần lo vận tải, quân y. Tôi còn nhớ lúc đó ngồi chuẩn bị chiến dịch tôi là
chính ủy cũng chỉ có một cái hố cá. nhân, ngồi bên đó để nghe báo cáo và thảo
chỉ thị. Đi theo chiến dịch có các nhà báo, nhà văn.. Họ kéo đến chỗ tôi. Sư
doàn chưa có nhà khách, đến hố cá nhân cho khách tránh bom đạn cũng chưa chuẩn
bị được. Bí quá không biết giải quyết tiếp đón sao cho chu đáo, chỉ còn cách
giới thiệu họ xuống các trung đoàn. Tôi nói: Xuống đó còn có chuyện mà viết, ở
đây chỉ có báo cáo. Sau đó chiến dịch diễn biến, đánh quanh Vĩnh Yên, vùng thị
xã, là những trận đánh nổi tiếng. Chuyện anh Hoàng Cầm chiến đấu về sau truyền
đi rất thú vị. Một mình anh giữa cánh đồng quần nhau với máy bay địch bắn phá.
Ông cứ xem hướng nó lượn, nằm ém vào bờ ruộng đối lại, tạo một góc nhỏ nhất và
thoát khỏi làn đạn của địch. Hai liên lạc viên đi với ông đều bị tử thương. Một
cán bộ tiểu đoàn là anh Hồ Kỳ Lân cũng hy sinh. Còn ông ấy không việc gì. Phải
thừa nhận động tác chiến đấu của ông giỏi lắm và trước sự nguy hiểm ông ấy rất
bình tĩnh. Xong chiến dịch chúng tôi kéo nhau về họp tổng kết: Đại đoàn bắt đầu
ra quân, anh em đã chiến đấu rất dũng cảm góp phần quan trọng vào thắng lợi của
chiến dịch. Trở về đất Phú Thọ hình như là 30 Tết, tôi mới triệu tập cuộc họp
đảng ủy đầu tiên ngay đêm hôm đó. Cũng là lẩn đầu tiên ngồi bên nhau đủ mặt,
làm tôi xúc động sâu sắc. Tôi nêu ý kiến: Lần đầu tien chúng mình gặp nhau,
chưa hiểu đời riêng của nhau như thế nào. Tôi đề nghị để xây dựng mối quan hệ
mật thiết làm việc với nhau lâu dài về sau, xin mỗi đồng chí tự thuật cuộc đời
mình với anh em.
Buổi họp thành buổi tâm sự hết sức chân thành cứ tuần tự kể cho
nhau nghe cuộc đời mình, hoàn cảnh gia đình xuất thân, tuổi ấu thơ, tiếp xúc
với cách mạng, ngày vào Đảng, quá trình trong quân đội, lời tự nhận xét và
những mong muốn trong tập thể này. Tối đó đèn sáng thâu đêm, có nhậu lai rai
với bánh chưng, càng về khuya, câu chuyện càng đằm thẩm. Nhiều anh em cũng như
tôi bộc bạch cả những sự non yếu của mình với dụng ý để hiểu nhau thật đầy đủ,
thông cảm và khoan dung để toàn tâm toàn ý lao vào công việc. Sau cuộc nói
chuyện tôi cảm thấy chúng tôi gần nhau hơn, tình cảm bạn bè nhen nhóm lên.
Chúng tôi bàn cả kế hoạch xây dựng sư đoàn, bố trí tổ chức và cán bộ, chọn chỗ
đóng quân, đặt kế hoạch huán luyện... Tất cả biểu thị quyết tâm xây dựng đại
đoàn vững mạnh thi đua với 308. ít lâu sau trung đoàn 165 mới về tới nơi, cũng
vừa lúc nhận nhiệm vụ đi dự chiến dịch Hoàng Hoa Thám đánh ở đường 18 dốc Đông
Triều thuộc tlnh Quảng Ninh ngày nay. Cả đại đoàn kéo quân suốt từ Vĩnh Yên
-Phú Thọ đi qua Thái Nguyên sang Bắc Giang, đi lên vùng Bắc Bắc Giang rồi đổ
xuống Quảng Yên. Cuộc hành quân kéo dài ngày nhưng không gian khổ bằng lên Tây
Bắc sau này. Mười ngày hành quân vất vả đến ngày 20-21 tháng 3 năm 1951 đại
đoàn đến vị trí an toàn. Ngày 23 tháng 3 chiến dịch Hoàng Hoa Thám mở màn. Đại
đoàn 312 là một trong những đơn vị chiến đấu trên hướng chính.
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám bộc lộ trình độ chỉ huy của cán bộ
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chiến đấu quy mô tập trung lớn. Tư tưởng chỉ
đạo tác chiến của đại đoàn chưa hình thành rõ ràng, cơ sở vật chất chuẩn bị
không chu đáo do đó bộc lộ nhiều lúng túng, mất dần thế chủ động khi gặp khó
khăn, dẫn đến tổn thất lớn. Ngầy 26-4-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự hội nghị
tổng kết chiến địch do bộ chỉ huy chiến dịch mở. Người nói: Trước ta nói phê
bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê bình. Nói như thế là
chú trọng tự phê bình trước, phê bình người sau. Phê bình mình là chính, phê
bình người là phụ... Tự phê bình và phê bình là để thống nhất tư tưởng. Tư
tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất. Tư tưởng và hành động có thống
nhất mới đánh thắng được giặc... Cán bộ đại đoàn 312 dự hội nghị này vô cùng
thấm thía những lời dạy của Bác [7]
HẾT CHƯƠNG 13 XEM TIẾP CHƯƠNG 14
CHƯƠNG 14 THẮNG KHÔNG
TRANH CÔNG, THUA KHÔNG ĐỔ LỖI
Lệ thường cứ tổng kết chiến dịch là Bác Hồ đến
thăm, cũng là sự mong ước của cả hội nghị như được trực tiếp báo công với Bác.
Thật không gì vui hơn! Cuộc họp tổng kết chiến dịch này tất nhiên sẽ được đón
Bác, nhưng mọi người đều mang tâm trạng nặng nề. Anh em chờ đón với sự lo phiền
vì chỉ sợ Bác không vui. Bác vốn nghiêm sẽ phê bình việc đánh đấm vừa qua.
Hôm Bác tới, tôi nhớ câu đầu tiên Bác nói là:
Mọi chiến dịch Bác đến để khen các chú, thế nhưng lần này Bác đến để Bác đì...
các chú một trận!. Thế là tự nhiên không khí hội nghị nhẹ hẳn đi mặc dầu Bác
nói trước là sẽ đì một trận nghĩa là có phê bình đó. Cách dùng chữ của Bác đén
là tuyệt, theo lối dân ta thường nói và ai cũng hiểu cả. Không khí hội nghị
đang có phần trầm lắng vì sự áy náy sợ Bác không hài lòng thì lời Bác vừa nói
như giải tỏa tất cả. Việc Bác phê bình thành là điều tất nhiên và mọi người
mong đợi.
Trước nay trong khi đối thoại với ai Bác đều
rất chú ý đến tâm lý kẻ đó. Từ lời nói đến chữ dùng Bác đều cân nhắc sao cho
thích hợp và đạt hiệu quả mong muốn. Bác hiểu là đi chiến dịch về mà không thu
được thắng lợi thì ai cũng buồn rồi. Nến Bác đến với thái độ nghiêm khắc, nói những
lời nặng nề thì chỉ làm cho không khí thêm căng thẳng không cần thiết, không
lợi cho sự tiếp thu phê bình. ở đây tôi không nói về nội dung tổng kết như nội
dung Bác phê bình mà chỉ nói lại kỷ niệm này thôi. Trên đường về, tôi và anh
Tấn bàn với nhau là sự tác động thuận lợi này của Bác, có thể và phải tổ chức
phê bình nghiêm túc ở từng cấp một, cố gắng làm sao để mỗi cấp nhận rõ trách
nhiệm của mình. Có điểm cả hai anh em đều tán thưởng. Đó là các đơn vị đã giúp
nhau hoàn thành nhiệm vụ giữa lúc gay go vừa qua, là tình đoàn kết chiến đấu
rất tốt đẹp, cần duy trì thành truyền thống và đề cao để mỗi chiến sĩ, mỗi cán
bộ trong sư đoàn có ý thức với nhau từ nay về sau. Hai chúng tôi cũng tự xác
định. Chúng mình là cán bộ sư đoàn càng phải tự phê bình nghiêm khắc để làm
gương cho anh em và cũng để nhận rõ trách nhiệm bản thân chỉ đạo chiến dịch,
qua đó anh em góp ý kiến sẽ đầy đủ hơn. Với tinh thần như thế, chúng tôi tiến
hành cuộc phê bình và tự phê bình khi tổng kết chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Kết
quả là từng cấp, từng đại đội trở lên cho đến tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn
thấy rõ phần trách nhiệm của mình không vin cớ này cớ khác, không đổ lỗi cho ai
cả. Đặt giả thiết, nếu trận Tràng Bạch, trận Mạo Khê, trận này, trận khác đều
thực hiện trót lọt thì chắc chắn chiến dịch đã diễn biến khác, nếu các nhiệm vụ
đặt ra trong chiến dịch mà sư đoàn đều thực hiện trọn vẹn từ đầu đến cuối
thì... với cách nhìn nhận mỗi người đều thừa nhận trách nhiệm của mình, đều tự
xác định nghiêm túc hơn trong sự luyện tập kỹ càng, chuẩn bị cho trận đánh
khác. Đấy là kỷ niệm qua mỗi chiến dịch mà chúng tôi đều chú ý khuyếch trương:
Tinh thần tự phê bình nghiêm túc... Một thời gian sau, chúng tôi nhận nhiệm vụ
là riêng sư đoàn độc lập một chiến dịch đánh giải phóng Nghĩa Lộ tức chiến dịch
Lý Thường Kiệt. Tôi không đi sâu vào trận đánh mà chỉ ghi lại kỷ niệm phải rút
quân ra khi chưa đánh dứt điểm được. Chúng tôi triển khai đánh hai đêm không
hoàn thành. Đêm nào cũng phải rút ra, có cả hường hợp còn một đồng chí đang bị
kẹt trong dây thép gai. Hai ba ngày sau anh ấy mới thoát ra tìm vào nhà dân và
được bao che cứu giúp mấy ngày sau mới trở về đơn vị. Thương vong nhiều và chịu
thiệt hại lớn mà không giải quyết được vấn đề. Khi quyết định rút ra Đảng ủy có
họp bàn, trao đổi với nhau khá nhiều ý kiến. Sư đoàn đã mở đầu chiến dịch, đã
đánh đến hai đêm và bây giờ chuẩn bị đánh đêm thứ ba. Có khả năng giải quyết
xong và cũng có khả năng không giải quyết được. Vậy phải lường trước việc ta xử
lý như thế nào? Ai cũng thấy chiến dịch này nhiệm vụ của sư đoàn rất lớn, rất
nặng, nếu làm được là đạt chiến công oanh liệt và sư đoàn có bước trưởng thành
đáng kể. Đã đánh hai đêm cũng rút được nhiều kinh nghiệm chuẩn bị cho đêm thứ
ba. Nhưng cũng thấy nếu không giải quyết được là bị sa lầy giữa thời tiết mưa gió
có nhiều khó khăn trở ngại, thương binh nhiều, đơn vị có thể phải chịu đói
khát... hậu quả thật khó lường hết. Chung quy đi đến nhất trí phải rút! Rút thì
đau đớn thật nhưng mà còn hơn bị sa lầy. Với tôi, tôi thấy trong chiến đấu việc
quyết định rút cũng khó khăn, thậm chí khó khăn hơn khi quyết định tấn công. Nó
day dứt trong tâm trí chỉ huy cũng như chiến sĩ. Điều này còn lặp lại ở chiến
địch Đồng Xoài sau này. Cũng tôi và anh Tấn đánh Đồng Xoài cho tới sáng tình
hình vẫn rất gay go. Anh Tấn và tôi lại ngồi phân tích với nhau để đi đến một
quyết định chính xác, làm nhớ lại ngày ở Nghĩa Lộ, chúng tôi đã kết luận là
phải rút. Quyết định phải rút thì sẽ khó khăn về tình cảm tâm lý, phải có nghị
lực mới vượt qua nổi. Có sự phân tích thật khách quan và rõ ràng mọi khía cạnh
thì mới giám đi tới một quyết định khó khăn như vậy. ở đời cũng vậy. Khi gặp
khó khăn thì chính là khi ta phải tính toán đến nhiều quyết định không dễ dàng
gì. Rút ra xong thì lại một kỷ niệm nữa về sự xử lý. Để tổng kết chúng tôi lại
thực hiện theo tinh thần tổng kết chiến dịch Hoàng Hoa Thám, nhắc nhau là sư
đoàn phải nhận khuyết điểm trước trong công việc chuẩn bị chiến dịch, về quyết
định phương án tác chiến như thế nào? Trên cơ sở kiểm điểm của sư đoàn, yêu cầu
trung đoàn kiểm điểm cách thực hiện của mình. Đặc biệt đối với trung đoàn 141
là trung đoàn chủ công đánh Nghĩa lộ cũng kiểm điểm theo tinh thần như vậy.
Cuộc họp này chúng tôi tổ chức quanh thị trấn Yên Bái. Tôi nhớ tôi và anh Tấn
cũng thức đêm thức hôm, trao đổi và phân tích đủ các mặt, cũng day đứt cùng
nhau nhiều điểm. Nhưng hai anh em đều thống nhất nhau một điểm, là xác định
trách nhiệm thật rõ ràng. Chính là sau đợt kiểm điểm này trong sư đoàn đã hình
thành hẳn hoi cái phương châm: Thắng không tranh công, thua không đổ lỗi. ở
chiến dịch Hoàng Hoa Thám đã không đổ lỗi thì đến chiến dịch Lý Thường Kiệt này
thua hơn cũng không đổ lỗi! Bởi vì ở Hoàng Hoa Thám thì cả chiến dịch thua
trong đó có sư đoàn tham dự. Còn chiến địch này, chỉ riêng một sư đoàn phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn về cái thắng, thua của trận đánh không thể đổ lỗi
cho ai cả. Trách nhiệm đó là từ cán bộ chỉ huy sư đoàn đến các chiến sĩ tổ ba
ba, hoả lực, xung kích, bộc phá phải gánh chịu. Mọi người tự xác định trách,
nhiệm của mình trong khi thắng cũng như thua, điều đó hình thành nên tinh thần
thắng không tranh công, thua không đổ lỗi. Sư đoàn lấy đó làm nội dung đoàn kết
cả đơn vị. Càng về sau mấy chữ Đoàn kết, anh dũng, chiến thắng cứ nổi lên như
một nhu cầu, một bản sắc của sư đoàn. Cho đến sau chiến dịch Hòa Bình, ba tư
chất đó được định hình hẳn thể hiện thường xuyên trên tờ báo Anh dũng của sư
đoàn, và danh hiệu của sư đoàn mà báo chí hay các sư đoàn khác thường nhắc đến
là chiến thắng.
Thắng không tranh công, thua không đổ lỗi đã
hình thành và trở thành là nét truyền thống đẹp của sư đoàn 12 qua quá trình
như vậy: Chiến dich Nghĩa Lộ vừa kết thúc và đang tiến hành tổng kết thì đã
nhận được nhiệm vụ đi Hoà Bình vì địch vừa nhảy dù chiếm vùng này. Bác Hồ và Bộ
chính trị nhận định đây là thời cơ tiêu diệt địch và khi chúng co lại trong
công sự thì ta đánh khó, nay nó kéo ra rời xa căn cứ là thời cơ để ta tiêu diệt
nó.
Thế là cả sư đoàn hành quân cấp tốc để tham
gia chiến dịch mới. Tôi xin ghi lại đây kỷ niệm đánh lô đồn 400, 600. Núi Ba Vì
lúc bấy giờ sư đoàn 312 được phái sang sông đánh đồn núi Chẹ, đánh Ninh Mít...
còn sư đoàn 308 và một phần 312 đánh tạt lên phía Tây chiếm Lai Đồng, Đồng Văn
và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Địch ngoan cố tung quân đánh tràn ra
xung quanh Hoà Bình, điểm ác liệt nhất là Ba Vì. Thế núi cao, nó khống chế toàn
bộ một vùng rộng lớn. Cấp trên quyết định đánh và giao nhiệm vụ này cho sư
đoàn. Sư đoàn đưa trung đoàn 141 giải quyết trận đánh. Đây là một trận đánh rất
khó khăn vì vị trí hiểm trở ở trên cao, vách đá dựng đứng. Anh em điều tra thực
địa đều thấy địa hình vị trí gây khó khăn cho việc kéo quân lên, cho việc dấu
quân và bố trí hỏa lực. Đó là thực tế ác liệt nhưng phải dứt điểm được trận này
thì mới thay đổi được cục diện chiến dịch. Xóa sổ được vị trí này thì ta làm
chủ được toàn bộ vùng rộng lớn ven sông Đà và đường số 6 bọn địch không thể
ngang nhiên chiếm Hoà Bình. Trận đánh được chuẩn bị chu đáo tối đa. Tôi trực
tiếp nói chuyện với anh Hoá - Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn. Buổi trao đổi
thật chân thành và cả hai bên đều rất xúc động. Nhiều vấn đề gay go thẳng thắn
được đặt ra và được giải quyết theo từng tình huống cặn kẽ. Như với anh em tân
binh thì giúp đỡ rèn luyện thế nào. Cách phân công bố trí đội hình, việc tiếp
tế vũ khí.... Nghĩa là cả về vật chất lẫn tinh thần đều không xem nhẹ mặt nào,
khâu nào cũng được nghiên cứu dự liệu đến nơi đồng thời làm cho cả đơn vi hào
hứng lập công, có tinh thần quyết thắng. Ban chỉ huy cũng bám sát diễn biến
từng trận đánh với tâm trạng căng thẳng hồi hộp, bao lần tưởng đã dứt điểm đến
nơi rồi nhưng hóa ra lại chưa được. Tin tức thực hư không ngớt đan xen dồn dập.
Cuối cùng thì quân ta thắng, đánh chiếm cả cứ điểm. Qua kiểm tra thận trọng mới
xác định là thắng lợi, là trận đánh tốt. Đi chiến dịch về, tôi viết một truyện
ngắn với đầu đề lòng tin đưa in trên báo Quân đội Nhân dân. Ngụ ý tôi muốn nói
là để dành thắng lợi trong những trận đánh khó khăn như vậy thì lòng tin là yếu
tố cực kỳ quan trọng. Tân binh tin vào cán bộ, cán bộ quân sự tin vào chính
trị. Phía sau tin tưởng phía trước, nghĩa tất cả một lòng, với quyết tâm khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng..
Trong chiến dịch Hòa Bình, chúng tôi có dịp ăn
tết ngoài mặt trận. Tôi và anh Văn Phác lúc ấy là chủ nhiệm chính trị ở lại
trận địa ăn tết với dân công. Dân công đi Hòa Bình đông lắm. Bà con ở các tỉnh
Bắc Ninh, Bắc Giang cũng có mặt, nổi nhất là con gái Bắc Ninh. ở đâu thì mối
quan hệ giữa dân công và bộ đội cũng rất mật thiết. Vừa là ý nghĩa quân dân ra
trận, chia đôi gian khổ, chung sức giành chiến công, vừa là sự chung lưng đấu
cật giữa lớp trẻ vui nhộn và hồn nhiên. Đặc biệt là giới nữ. ở các cô toát lên
một sức sống khác thường, tự tin hơn, năng nổ và chủ động. Các cô tới đâu ở đấy
không khí sôi động lên. Một chuyến tôi cùng sang sông với các cô. Đoàn người
kéo dài, tôi đi vào phần cuối. Ai cũng ráng hết sức mình để vượt dốc bờ sông
vừa cao vừa trơn, nói đúng hơn là ráng sức trụ vững đôi chân trong bùn dốc vì
cả đoàn dồn lên ép cứng người lại với nhau. Trong lần cằn nhằn cực nhọc vẫn
không vắng tiếng khúc khích đùa nghịch chờ từng bước nhích chân trong bùn lầy.
Những bắp chân tròn lẳn trắng nõn cắm sâu vào trong bùn nhão. Những bộ ngực
căng tròn hổn hển qua làn vải áo. Và những ánh mắt, những nụ cười ánh lên nỗi
vất vả đến là đẹp. Bỗng một câu thơ cất lên: Ai đưa ta đến chốn này... lảnh lót
hào hển. Nghịch ngợm nhiều hơn là ai oán. Cái lanh lảnh trong veo làm người nghe
liên tưởng đến một làn môi tươi rói, đến một khuôn mặt sắc nước hương trời. Tôi
mới buột mồm: úi giời hay quá!. Thế là một cô thon thả da trắng ngần - ắt hẳn
gái Bắc Ninh dẫy lên như giẫm phải tổ kiến lửa. Cô ta dậm chân nhũng nhẵng Ơ
cái anh nầy! hay nhỉ? . Tôi cảm thấy thú vị vì bị trách móc. Có gì mà người đẹp
phải mắng mỏ. Tôi khen cô ngâm thơ hay, làm gì cô phải giãy lên đến vậy?. Cô ta
thấy mình đuối lý thì im, còn tôi tiếp tục đi với chiến dịch qua những màu sắc
địa phương khác nhau. Chị em Hoà Bình đon đả đem cơm, ra mời làm tăng thêm nét
hoang dã của chiến trường. Rồi các cô kéo đến chỉ huy sở chúc Tết. Tôi và anh
Văn Phác có mặt lúc đó. Cả hai chúng tôi vui vẻ ra chào đón mời các cô uống
nước, ăn kẹo và nói chuyện. Có lẽ cũng vì đột ngột nên ông Văn Phác để gớ bí,
bật hỏi một câu: Thế các cô đây đã có gia đình cả chưa?. Một cô lí lắc đáp:
Chúng em đây ai mà chả có gia đình!. Văn Phác càng lúng ta lúng túng gỡ thế bí:
ừ, tôi hỏi gia đình là hỏi các anh ấy chứ. Các chị đã có các anh ấy chưa?. Thế là
các cô cười phá lên như nắc nẻ. Cả tôi và Văn Phác cũng cười lấp liếm cái ngớ
ngẩn vô duyên của mình.
Sau chiến dịch Hoà Bình trên đường trở về bốn
anh em gồm có các ông Tấn, Nam Long, Lê Thùy và tôi thi bắn chim với súng
các-bin, vừa tiêu khiển dọc đường lại có thức chén cải thiện. Điều không may
cho tôi là mấy ông kia đã mỗi tay bắn được hai con thì tôi vẫn tay không. Cả ba
đều là cán bộ quân sự giỏi bắn, riêng tôi lớ ngớ chưa được con nào. Cuối cùng
thì cũng được một con, là ngáp phải ruồi thôi. Con chim tôi bắn lại trúng đầu
(kỳ tài)! Nên nguyên cả mình không một cái lông bị rơi chứ chưa nói đến thịt,
trong lúc chim của các vị bắn đều tuíng ngực trúng ức. Con nào mình mẩy cũng
nát nhừ. Tôi bèn lên mặt lý luận (vốn là sở trường ) trêu vui: các ông hai con
nhưng bẩn như thế chỉ còn lông và xương! Tôi một con nhưng chỉ nát đầu còn
nguyên vẹn thịt. Vậy nói về chất lượng thí ai hơn ai?!. Đùa vui thế nghĩ cũng
chắc mẽ lắm. Không ngờ sự phản công của ông Tấn lại lột trần tay súng tồi của
mình ra. Đã bắn thì phải ngẩm hồng tâm. Hồng tâm là ngực và ức. Tôi bắn trúng
đầu chim thì chỉ là tay súng vụng về vi phát đạn đó thực sự là chuyện chó ngáp
thật. Qua câu chuyện bạn đọc có thể thấy mối quan hệ giữa chúng tôi không chỉ
có chuyện chiến trườfng gay cấn và căng thẳng mà còn bao nhiêu điều vui thế
trong tình đồng đội đồng chí với nhau.
Đến chiến dịch Tây Bắc tôi muốn kể lại đây
cảnh truy kích ở Sa pa. Sau khi chiếm đồn Gia Hội, ông Tấn kéo quân đuổi còn
tôi thì ngồi lại phiá dưới đốc, liên lạc giữa hai bên bằng điện thoại. Cậu liên
lạc trực ở cạnh tôi gọi điện cho liên lạc ông Tấn. Sau công việc hai bên không
khỏi dò hỏi nhau.
-ở trên ấy có gì ăn không?
- Chú mày ở đó đấy chắc là sướng lắm nhỉ?
- Đ. mẹ! có cái đ... gì mà sướng! Sáng thì
toàn là củ chuối, bốn ngày không có gạo rồi...
Đúng thế sau các đợt giải phóng Nghĩa Lộ, Gia
Hội mặt trận quyết định phải ngừng truy kích địch lại và huy động toàn bộ bộ
đội đi lấy gạo để chuẩn bị cho đợt hai vượt sông Đà..
Sông Đà có dòng chảy nổi tiếng dữ, nước chảy
xiết. Qua sông lại không sẵn thuyền mảng, chỉ đóng bè thì làm sao cho cả ngàn
người qua được. Cuối cùng là phải bơi qua sông và giăng dây dìu những ai không
biết bơi đi qua. Các trung đoàn trưởng xung phong bơi qua thăm dò và mang đầu
dây sang luôn thể. Nhìn dòng nước ai cũng ái ngại, lực lượng qua sông vừa đông
vừa cồng kềnh, dòng nước thì băng băng như ngựa phi. Phải với tinh thần vì
chiến dịch cao độ, quyết tâm vượt mọi trở ngại rồi người cũng như vũ khí quân
trang đều qua sông an toàn. Cả đơn vị lao lên đánh Sơn La rồi cụm lại ở Nà Sản,
vây đánh Nà Sản và kết thúc chiến dịch thắng lợi trở về. Đồng bào thiểu số đổ
ra đón đoàn quân chiến thắng khắp các đoạn đường. Bác chỉ thị phải chuẩn bị tốt
để anh em tiếp xúc với đồng bào. Đây cũng là một công việc nhiều công phu. Tôi
soạn tài liệu để phổ biến cho bộ đội hiểu và nắm được phong tục tập quán của
dân trên dọc đường đi. Sẵn máu văn nghệ của những cảm xúc sẵn có về đời sống và
con người Tây Bắc tôi viết bài dưới dạng bút ký giới thiệu với anh em trong đơn
vị về cảnh đẹp đất nước, về tinh thần phẩm chất con người ở các nơi này. Viết
đến đâu tôi đưa in và cho lưu hành trong khắp đơn vị.
Đến chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch với ý
định giải phóng Sầm Nưa. Hành quân sang đất Lào lần đầu tiên tôi trông thấy nhà
sư đi khất thực. Cứ sáng sớm từng tốp nhà sư bốn năm vị mặc áo vàng đi hàng dọc
tay ôm cái bát to tướng. Men đường, dân đổ ra quỳ đón thành kính dâng xôi. Các
sư ghé lại nhặt bó đầy bát của mỗi vị. Khác với cảnh ăn ở của người dân địa
phương, các nhà cổ Tây ở thì sa hoa đến lóa mắt. Cứ tới đâu thì anh em lại tiền
trạm lại chọn nhà sạch sẽ sang trọng để ban chỉ huy sư đoàn tạm trú. Hồi hành
quân dọc ngang sông Đà, tôi và anh Tấn có máy bộ đàm nghe được radio. Chúng tôi
luôn luôn luôn phải theo dõi diễn biến trên tin tức, có bữa đến giờ chúng tôi
mở đài thì chị chủ nhà hét tướng lên với anh chồng: ồ! Đại đoàn đến nhà ta rồi.
Tôi băn khoăn không hiểu làm sao chị ta biết là đại đoàn, lại nói trúng vào ông
đại đoàn trưởng và chính ủy. Sau hai vợ chồng chủ nhà ra nằm xoài trên sàn nhà
cùng nghe đài với chúng tôi. Chúng tôi tới Sầm Nứa thì địch đã tháo chạy. Chúng
tôi cho một bộ phận đuổi theo. Ông Hoàng Cầm truy kích đến hai ba ngày mới trở
về. Ông ấy khoe là dọc đường chết mất ba con ngựa. Con ông đang cưỡi mới thay
là con thứ tư và ông hết lời khen nước kiệu của ngựa Lào. Ông này lúc nào cũng
là một chiến tướng tả xung hữu đột mỗi lúc tôi gặp, sau đó đại quân kéo về theo
một hướng khác. Còn tôi và các ông Trần Quân Lập, Hloàng Cầm, Lê Thùy thì đi
với nhau cùng đội văn công của sư doàn. Tôi nhớ mãi cảnh thiếu thuốc lào cho
đến Mộc Châu. Gặp ai xin được điếu nào đều trao tay nhau hít tí khói. Khoái đến
tận rốn.
HÊT CHƯƠNG 14 XEM TIẾP CHƯƠNG 15
CHƯƠNG 15 BUỒN VUI CHIẾN TRƯỜNG
Sau chiến dịch Tây Bắc
và Thượng Lào là chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều người, trong đó có tôi, đã nói
và viết nhiều về chiến dịch lịch sử này. ở đây tôi muốn kể lại một số chi tiết
trong chuyện bắt Đờ Cát-tơ-ri.
Chiều hôm 7 tháng 5,
đang theo rõi diễn biến trận đánh thì được tin là một số đơn vị của chúng tôi
đã vượt qua sông Nậm Rốm vào đến sở chỉ huy của địch rồi. Lát sau, trung đoàn
báo cáo lên E209 bắt sống được Đờ Cát-tơ-ri. Nhận thấy tin này rất quan trọng,
tôi và anh Tấn năm lần bảy lượt điện xuống chỗ anh Hoàng Cầm kiểm tra đi kiểm
tra lại xem có thật không. Anh Hoàng Cầm trả lời! Bắt được rồi, đúng rồi. Đúng
lúc anh Văn ở Bộ tư lệnh gọi điện hỏi chúng tôi tin đó thế nào? Anh Văn còn nói
thêm: Anh Độ và anh Tấn chịu trách nhiệm về tin này nhé!. Phải lập tức kiểm tra
kỹ lại xem có thật đúng mới được báo cáo. Chớ có báo cáo láo.! Bộ tổng tư lệnh
sẽ phái người mang ảnh Đờ Cát -tơ-ri xuống và các anh so ảnh xem đã chính xác
chưa, hay đã bắt nhầm! Nhận được lệnh này, chúng tôi lập tức, gọi lại anh Hoàng
Cầm thuật tỉ mỉ, thì nghe trả lời một cách rất hể hả: Nó đang đi trước mặt tôi
đây! Tôi cho anh em giải lên chỗ các anh đấy! Chúng tôi mừng quá gọi dây nói
cho anh Văn. Bấy giờ anh Văn mới yên tâm, yên trí tin đó là đúng sự thật. Đờ
Cát-tơ- ri tới chỗ chúng tôi, đầu đội mũ nồi, lon ngũ vẫn mang đủ. Lão được mời
ngồi cùng với chúng tôi, các cán bộ địch vận đứng vây quanh. Ông Tấn hỏi Đờ
Cát-tơ-ri tại Điện Biên phủ các anh có bao nhiêu quân, bao nhiêu pháo, bao
nhiêu xe tăng? Nó trả lời: Đứng về tư cách một sĩ quan trong quân đội thì tôi
không có quyền nói những điều ấy với các ngài. Ông Tấn bảo: Các anh không nói
thì chúng tôi cũng biết hết. Nó bảo: Tôi tin các ông có biết cả, vậy ông hỏi
làm gì nữa? Ông Tấn quay sang đề tài khác: Anh là một tướng quân, tôi chỉ huy
một sư đoàn. Bây giờ chúng ta kết thúc đánh nhau rồi, ngồi đây tôi muốn anh
phát biểu cảm tưởng của anh đối với mặt trận như thế nào? Đờ Cát-tơ-ri lộ vẻ
hào hứng nói: Vâng, nếu câu chuyện như thế thì tôi rất vui được tiếp chuyện các
ông. Nó khen bộ đội Việt Nam dũng cảm, bố trí pháo binh khéo... Sau cùng nó hỏi:
Tôi xin hỏi các ông một câu hơi tò mò nhưng mong các ông đừng chấp, là lính các
ông trước khi ra trận uống rượu phải không? Các ông cho họ uống rượu ư? Tôi
liền hỏi lại: Căn cứ vào đâu mà ông hỏi như vậy?. Nó nói: Tôi hỏi như vậy là vì
khi lính các ông xông vào chỗ tôi một mũi người nào cũng đỏ bừng trông ghê lắm!
Tôi nghĩ là họ uống rượu nên mới hăng như thế.. Có phải thế không?. Tôi đáp:
Thế thì ông nhầm! Ông không hiểu chúng tôi rồi. Chiến sĩ chúng tôi đi chiến đấu
không bao giờ phải dùng rượu để nâng lòng dũng cảm cả. Mỗi người chúng tôi đều
mang lòng yêu nước cao độ. Chúng tôi căm thù quân xâm lược các ông. Chính vì
lòng căm thù đó mà chúng tôi chiến đấu dũng cảm. Điều mà ông nhận xét chính là
sự biểu lộ của lòng căm thù và tinh thần chiến đấu của họ. Lời tôi nói nghe rất
sách vở, nhưng rất thực. Là sự thật một trăm phần trăm, chẳng qua là có nhiều
người nói và viết về điều đó mà nó thành sách vở thôi. Về sau Đờ-Cát-tơ-ri nói:
Thôi, gặp được các ông ở đây tôi cũng yên tâm là tôi dược làm tù binh của các
ông. Tôi cũng thấy làm vinh dự được làm tù binh của một quân đội như quân đội
Việt Nam. Bây giờ vào trại tù binh chúng tôi có một yêu cầu mong các ông chấp
nhập.... Thấy Đờ-Cát-tơ-ri ngập ngừng, tôi nói: Ông yêu cầu gì thì cứ nói. Nó
bảo: Tôi có một người cần vụ giúp tôi trong các sinh hoạt hàng ngày và giữ
những đồ dùng cá nhân của tôi. Tôi đề nghị khi vào trại các ông cho phép tôi
vẫn được sử dụng người cần vụ này vào nhiệm vụ phục vụ tôi. Được như thế tôi
xin cảm ơn ông. Chúng tôi trả lời: Điều đó không chấp nhận được vì ông đã là tù
binh. Vào trại chỉ có sự bình đẳng chứ không có chế độ phục vụ và hầu hạ như
khi ông đang đương chức ở trong quân đội của ông. Ông cần phải chấp hành qui
tắc trong trại. Còn sinh hoạt của các ông sẽ được bảo đảm. Chúng tôi bảo đảm về
vệ sinh, bệnh tật, thuốc men, sức khỏe. Nghe vậy nó cám ơn và chấp nhận lên
đường đi tới trại giam. Việc bắt Đờ-Cát-tơ-ri diễn như vậy. Có anh em đã mô tả
tôi với anh Tấn gặp nó ra làm sao? Hỏi cung những gì... Có chi tiết chưa thật
chính xác, chẳng có nói năng gì to tác rườm rà. Anh Tấn hỏi, Đờ-Cát-tơ-ri đáp.
Sau cùng anh Tấn và lão có trao đổi về trận đánh. Tôi rất nhớ câu Đờ-Cát nói:
Tôi rất hân hạnh được làm tù binh của một quân đội như quân đội Việt Nam.
Sau chiến dịch Điện
Biện Phủ, sư đoàn chúng tôi được nhận vĩnh viễn lá cờ thi đua luân lưu Quyết
chiến quyết thắng của Hồ Chủ Tịch. Vào chiến dịch Điện Biên, Bác công bố tặng
một lá cờ và đơn vị nào lập nhiều chiến công nhất thì sẽ được giữ lá cờ đó. Sư
đoàn 312 đã mở đầu chiến dịch Him Lam lại kết thúc bằng chiến công bắt được
Đờ-Cát-tơ-ri. Trong quá trình chiến dịch đã từng đánh nhiều trận ác liệt. Dù có
cả 308 và 316 cùng đánh nhưng sư đoàn 312 đánh nhiều hơn cả. Vì vậy bộ chỉ huy
quyết định giao lá cờ cho sư đoàn 312. Lễ giao cờ được tổ chức ngay tại chỉ huy
sở chiến dịch. Những sự kiện lịch sử đã trôi qua, những kỷ niệm lịch sử thì cứ
theo người ta. Dần dần nó được huyền thoại hoá, càng về sau thì những câu
chuyện càng đượm màu huyền thoại. Về chuyện lá cờ quyết chiến quyết thắng cũng vậy,
cũng dần dần huyền thoại hoá.
Gần đây tôi có dịp gặp
lại một chiến sĩ thi đua toàn quân toàn quốc đã từng tham gia trận đánh đồi Độc
Lập. Tiểu đội của ông thuộc trung đoàn 165. Trận đồi Độc Lập này do trung đoàn
88 của sư 308 đánh phối hợp với trung đoàn 165 của sư chúng tôi. Hai bên cùng
mở đợt phá khẩu tuy chủ công là 88. Trung đoàn của chúng tôi có một tiểu đội
gọi là tiểu đội tiêm dao - dao nhọn - đi sâu thọc vào lòng địch. Tiểu đội
trưởng là anh Trần Văn Doãn, tiểu đội phó là anh Nguyễn Văn Cấc, chiến sĩ xung
kích trong tiểu đội. Trong trận đánh người cầm cờ này bị, lại có ngay người kia
xông lên giương cao cờ xung phong. Cuối cùng anh Cấc đã mang là cờ cắm lên
trọng điểm của đồi Độc Lập. Sau đó, tôi có mới anh Cấc mang lá cờ lên sở chỉ
huy sư đoàn kể lại chiến công và chỉ cho chúng tôi xem các vết tích chiến đấu
còn lưu lại trên lá cờ. Tôi đã viết bài thuật lại chuyện này trên tờ Anh Dũng,
báo của sư đoàn. Sau đem lại in thành sách khổ nhỏ với tên sách Lá cờ của Bác
truyền đi khắp đơn vị biểu dương tinh thần chiến đấu của tiểu đội dao nhọn và
của anh Cấc.
Nay anh Cấc đã hơn 70
tuổi rồi, là thương binh bậc hai, sống túng thiếu quá, phụ cấp thương tật mỗi
tháng chỉ được hơn 30.000 đồng. Tôi là chính ủy cũ nên anh tìm gặp hy vọng tôi
có thể can thiệp với các cơ quan chức năng cho ông áy đi khám lại để xin trợ
cấp thương tật. Ông đã mô tả lại chuyện ngày xông trận. Vốn đơn giản như ông
hôm nay thuật lại chiến công vẫn pha chút huyền thoại phi thường lắm. Tôi đã
hết sức liên hệ với Bộ thương binh xã hội và ông đã được đi khám lại. Hội dồng
giám định cũng xác định là vết thương của ông phải nâng lên cấp ba. Phụ cấp mỗi
tháng được hơn 100.000 đồng gấp ba lần trước đây. Song với 100.000 đồng tháng
thì vẫn khó sống với giá cả hiện này. Tôi ở sư đoàn 312 từ giữa năm 1950 đến
cuối 1954, rồi được điều về Tổng cục chính trị, bổ sung vào nhóm tổng kết công
tác chính trị do anh Nguyễn Chí Thanh chủ trì. Thời gian tôi ở sư đoàn 312 là
năm năm, cùng sư đoàn tham gia các chiến dịch. Năm năm, so với năm mươi năm
hoạt động của tôi chỉ là một phần mười thời gian nhưng để lại cho tôi rất nhiều
ấn tượng, nhiều kỷ niệm và nhiều cảm xúc. Bây gìơ anh em lớp tôi đã về hưu phần
nhiều, thỉnh thoảng gặp nhau lại được dịp ôn lại bao nhiêu kỷ niệm thú vị của
một thời. Đại loại: trong một cuộc hành quân trong chiến dịch Tây Bắc hay Điện
Biên Phủ không còn nhớ rõ, trong một chặng nghỉ dọc đường, tôi ngồi nói chuyện
cùng một cán bộ đại đội. Sau khi chào hỏi người quen, câu chuyện đi vào tâm sự,
anh ta bảo tôi: Tôi đi chuyến này, có linh cảm là sẽ không trở về. Tôi có vợ,
một con nhỏ. Tôi muốn gởi anh chiếc đồng hồ đây. Nếu về được thì không nói làm
gì. Còn nếu tôi nằm lại chiến trường thì anh mang cái đồng hồ này đưa cho vợ
tôi, để nó bù vào nuôi con và báo tin cho nó biết. Nhìn nét mặt anh ta tôi hiểu
điều anh nói là chân thật và nghiêm túc làm tôi rất xúc động, song tôi gạt phắt
đi: Mày chỉ nói dại nói dột thôi. Đi rồi về chứ sao lại nghĩ chuyện chết, đi
đánh nhau mà nghĩ như thế là gở lắm. Mày cứ cầm lấy, tao không giũ
Quả thật trong chiến
dịch ấy cậu ta là một trong những người đã không trở về. Sau này trong nhiều
chiến dịch, khi tiễn chiến sĩ cán bộ cấp dưới ra trận, tôi bắt tay họ lòng chân
thành chúc đi thắng lợi, tôi lại liên tưởng nghĩ rằng sau chiến dịch họ còn
quay trở lại không? Một số, ở chiến dịch nào cũng vậy, một số đã không gặp lại.
Tôi thường nói chuyện với ông Tấn về con tim, cõi lòng con người ta ghê gớm
thật. Nó như vô đáy, cũng rộng lớn như vũ trụ. Mỗi một trận đánh, mỗi một chiến
dịch lòng chúng mình mang bao nhiêu xót thương, tim chúng mình ứ những nỗi đau
đớn ngột ngạt, tưởng rằng hết chịu đựng nổi, Nhưng chiến dịch lại tới, lại lên
đường ra trận với nhiệm vụ gay go ác liệt, với quyết tâm giành chiến thắng và
lòng ta lại chứa đựng nhưng nỗi đau thương mât mát mới. Tôi và anh Tấn không
hiếm những lúc trao đổi căng thẳng để xử lý nhung tình huống gay go phức tạp,
người cứ căng lên, tim dập mạnh, sắc khí bừng bừng khó chịu! có lẽ do huyết áp
tăng mạnh và cố rán đợi tình huống dịu đi, rồi tâm trí cũng trở lại bình
thường, chuyến gây cấn lắm thì cũng vương vấn một chút ít mệt mỏi về thần kinh
mà thôi. Với chức trách của tôi, tôi còn gần như thường xuyên tiếp xúc với
những người vợ mất chồng, anh mất em, cha mất con và chia sẻ nỗi đau của mỗi
người mà tôi hiểu mất mát đó không gì bù đắp lại. Tôi cũng lấy làm lạ là làm
sao con người có thể chứa đựng tất cả các nỗi đau của cuộc đời, nhất là nỗi đau
chiến tranh! Làm nhiệm vụ chính ủy, tôi phải làm việc báo tin và chuyển những
kỷ vật của người hy sinh tại chiến trường trao lại cho vợ con gia đình anh em.
Có trong cuộc mới thấy hết nỗi khó khăn cay đắng của việc đó. Hồi tôi còn ở báo
Vê quốc quân có một chị, chồng là cán bộ tiểu đoàn hy sinh ở chiến dịch biên
giới. Anh là sĩ quan của 308, chị ấy làm việc ở cơ quan của Tổng tham mưu, gần
cơ quan tôi làm. Các anh 308 đem trao tôi di vật của anh ấy. Tôi mời chị sang
cơ quan nói chuyện. Tôi đã vắt óc tìm cho ra cách làm nhẹ nỗi đau của chị, càng
nhẹ nhàng càng hay, để báo tin và chuyển giao kỷ vật. Tin chồng hy sinh chị đã
biết. Thế mà nét mặt của chị vẫn cứ thất sắc, như không dám, không nỡ tin là sự
thật, hai bàn tay chị ôm ấp kỷ vật sao tha thiết, lộ sự đau xót làm thắt lòng
người. Tôi thấm thía nỗi đau thắt lòng người. Tôi thấm thía nỗi đau thắt ruột
của một người vợ góa và kính trọng im lặng. Lại trường hợp một chị cũng làm
việc ở Bộ tổng tham mưu, tôi có quen biết sơ sơ. Ngày chồng chị là tiểu đoàn
phó hy sinh ở chiến dịch Trung du diễn ra ở Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên và núi Đanh,
tôi có nhiệm vụ, báo tin và chứng kiến sự chịu dựng của người phụ nữ trước mất
mát của gia đình. Tôi còn phải báo cái tin quá nặng nề với một chị là hội
trưởng hội phụ nữ tỉnh Vĩnh Phú, nơi sư đoàn tôi đóng quân. Người chồng hy sinh
cũng là một chính trị viên tiểu đoàn của sư đoàn tôi ở mặt trận biên giới. ít
lâu sau, tôi có mời các nhà chức trách địa phương đến tiễn đưa bộ đội xuất
quân, chị đã đứng trước hàng quân nói chuyện. Tôi nhìn chị mà không cầm nổi
nước mắt. Là vợ liệt sĩ đứng ra tiễn đồng đội của chồng đi vào chiến dịch tiếp
tục sự nghiệp giải phóng đất nước mà chồng mình để lại, hơn ai hết chị hiểu sự
hy sinh của con người đứng trước nghĩa vụ với tổ quốc, chị hiểu nỗi lo lắng của
người vợ, người mẹ ngày đêm rõi theo bước chân của người thân trên chiến
trường. Chị là hiện thân cái hậu phương phi thường để tiền tuyến diệt giặc. Mấy
năm sau, một lần tôi đang đi dọc bờ hồ thì nhận thấy phía trước có dáng người
quen quen. Tôi bước nhanh lên trước và nhận ra chị. Thật là bất ngờ và chúng
tôi đều rất vui mừng được gặp nhau. Đột nhiên chị hỏi tôi: Này anh ơi, có phải các
liệt sĩ ở Đông Khê đã được quy tập cả về nghĩa trang liệt sĩ rồi phải không?
Thực tình tôi không biết cụ thể nhưng nghĩ về chính sách thì phải như vậy, liền
đáp: Vâng, tôi không rõ lắm, nhưng chắc là có việc quy tập đó. Chị liền hỏi
tiếp Anh à, tôi muốn lên thăm anh Du chồng tôi, mà không biết đi thế nào, tìm
như thế nào, anh giúp tôi với!. Tôi xác định mãnh liệt thầm nghĩ: từ chiến dịch
Biên Giới đến lúc đó chị đã biết có 5 -6 người bạn cũ từng chiến đấu với chồng
mình, là nhớ ngay đến nghĩa địa thắp hương cho chồng. Nhìn chị, tôi mới hiểu
sâu sắc tình nghĩa của người phụ nữ ta đối với chồng đã hy sinh qua đời.
Và năm 1974, tôi được
đi nghỉ mát ở Liên Xô. Hôm tôi đang ở phòng tùy viên quân sự thì một cán bộ
phòng báo với tôi là chiều tối có khách tới thăm. Tôi hỏi Khách là ai thế Anh
ta nói: Tôi không được nói! - mà tối nay họ đến anh khắc biết. Anh thông cảm
cho. Tôi lục lại trí nhớ biết không quen ai ở đây cả. Chiều tối, tôi ngồi trông
chừng thì nghe tiếng gõ cửa, một chị bước vào và... đứng sững ngay giữa lối đi
không chào, không hỏi mà chỉ nhìn tôi. Tôi cũng bị sững ra chưa biết xử lý ra
sao. Nhìn chị tôi thấy có nét dáng quen quen nhưng không nhớ ra ai. Đến hàng
phút chị mới lên tiếng: Thế anh đã nhận ra ai chưa?. Chính lời chị hỏi làm tôi
nhớ lại: Có phải là chị Thủy không?. Đó là tên chị vợ của anh tiểu đoàn phó hy
sinh ở núi Đanh năm nào. Chị cười bảo: ờ thế thì đúng là anh nhớ khá đấy, anh
hỏi câu nữa đì!. Tôi lúng túng với ý của chị, mãi về sau này tôi mới hiểu ý của
chị muốn tôi hỏi là: Có phải vợ của Hồ Kỳ Lân đấy không? Tôi vừa tiếc vừa áy
náy là đã muốn kịp hiểu tâm trạng chị lúc đó được gặp lại tôi, người đồng chí
của của chồng là muốn nhắc lại toàn bộ kỷ niệm về Hồ Kỳ Lân. Trong câu chuyện,
chị đã nhắc lại tâm trạng của chị lúc Hồ Kỳ Lân mất. Ngày đó, hai người mới làm
lễ cưới được mấy tuần thì anh ấy đi chiến dịch: Tôi buồn vô hạn, phải nói lúc
đó nghe tin anh Lân hy sinh tôi cảm thấy lẫn lộn sự cao cả của chồng và nỗi đau
đớn mất mát của mình không gì bù đắp được. Đau đớn quá, tôi mất hết hy vọng,
tâm hồn tê dại, tôi để mình trôi đi theo công việc và cuộc đời. Tập thể đã âm
thầm nhen nhóm lại cho tôi lửa sống. Tôi hòa mình vào một gia đình rộn lớn hơn
với tình yêu thương vô tư và chân thình. Tôi được cử sang học ở Trung Quốc. Anh
chị em ở sứ quán cử gán ghép tôi với một ông lớn tuổi hơn. Tôi thấy anh ấy cũng
tốt thôi song tôi hoàn toàn không còn sự rung động của tình yêu. Bây giờ chúng
tôi đã có mấy cháu. Anh ấy thật sự rất tốt bụng nên cuộc sống gia đình của tôi
yên ấm thôi. Tôi không ân hận gì cả nhưng tôi không thể nào quên anh Hồ Kỳ Lân.
Rồi chị nói tiếp: Tôi là người đàn bà lấy chồng được mấy tuần thì chồng hy sinh
ngoài mặt trận. Đến bây giờ con lớn khôn, đòi đi bộ đội, tôi cũng vẫn sẵn sàng
tiễn con ra mặt trận. Như thế tôi đã sống xứng đáng với anh Lân và xứng đáng là
người phụ nữ. Gặp anh, tôi cũng chỉ muốn nói chuyện như thế để anh anh yên tâm
rằng tôi không làm điều gì phải ân hận đối với hương hồn người đã chết. Nói
xong chị ấy ra về.
Câu chuyện đọng lại
nơi tôi, tâm hồn người phụ nữ cao quý. Càng hiểu sâu nội tâm của họ, ta càng
thấy cái tàn bạo của chiến tranh và cũng thấy sức sống phi thường của con người
biết hy sinh vì nghĩa vụ
HẾT CHƯƠNG 15 XEM TIẾP CHƯƠNG 16
CHƯƠNG 16 TRÊN ĐƯỜNG ĐI
VÀO CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM
Ngày 5-8 năm 1964, Mỹ
mở đầu ném bom miền Bắc. Một tháng sau, ở một hội nghị Trung ương, đến giờ nghỉ
giải lao, anh Nguyễn Chí Thanh kéo tôi ra sân, vỗ vai và bảo: Chuẩn bị đi B.
Lúc ấy cuộc đồng khởi
của nhân dân miền Nam diễn ra được ba bốn năm. Tâm lý của mỗi người cán bộ,
chiến sĩ, đảng viên ở miền Bắc đều háo hức khao khát muốn được tham gia cuộc
chiến đấu ở miền Nam. Trước đó, khoảng 1961-1962 đã có những cuộc đi B bí mật. Từ
việc chuẩn bị đến lúc lên đường đều hoàn toàn bí mật, phong thanh nghe đã có
những chuyến đi vào Nam, nhưng chưa ai hình dung là việc đó diễn ra như thế
nào. Phần tôi có biết một số anh em bạn thân tập đeo ba lô đầy gạch đi bộ hoặc
đi lên miền núi. Có chuyến ô tô chở họ đến Xuân Mai để tập leo núi. Tôi cứ nghĩ
rằng nếu đến lượt mình thì cũng phải qua thời gian luyện tập như thế. Chuyến đi
B đến trong tình thế hết sức tự nhiên không có gì để phải suy tính, như lệnh
anh Thanh đưa ra: Chuẩn bị đi B là đầy đủ, khỏi phải nói mục đích, ý nghĩa, yêu
cầu... tôi đã trả lời Vâng và chuẩn bị sẵn sàng. Sau đó anh Thanh thông báo
thêm với tôi: Chuyến đi này có tớ (tức anh Thanh) có cậu, Tấn và Cầm. Tớ đã
chọn mấy tay này cùng đi với tớ. Tôi không nhớ anh có nói hay không nhưng đây
là nhóm cán bộ quan trọng vào Nam để giúp chiến trường miền Nam việc tổ chức
những đơn vị chiến đấu tập trung. Tôi nhớ anh Lê Duẩn đã phát biểu trong hội
nghị Trung ương: Đã đến lúc lực lượng vũ trang ở miền Nam phải tổ chức lại đội
ngũ: Nếu ba vạn người mà lẻ tẻ chiến đấu ở mọi nơi, thành từng nhóm, từng tổ,
từng người thì chỉ là những hoạt động du kích. Nếu ba vạn người tổ chức thành
những binh đoàn, thành những đơn vị thì sức mạnh sẽ khác. Hồi đó, nhu cầu của
chiến trường miền Nam là phải tổ chức quân chủ lực, vì vậy anh Thanh được Bộ
chính trị phân công vào chiến trường. Anh đã chọn một số cán bộ có nhiều kinh
nghiệm tổ chức và chỉ huy chủ lực đi cùng với anh. Việc anh chọn tôi, anh Tấn,
anh Hoàng Cầm có lẽ cũng là tự nhiên. Cả ba chúng tôi đều là cán bộ sư đoàn
312. Chúng tôi thấy vinh dự, niềm tự hào và thấy sự trưởng thành của Sư đoàn
312 đã tạo cho mình cái vốn kiln nghiệm có thể giúp ích cho chiến trường. Bước
vào giai đoạn chuẩn bị, anh Thanh bảo tôi trao đổi thêm với anh Tấn về kế hoạch
chung. Đang là chính ủy quân khu ở miền Bắc, tôi có một thư ký giúp việc. Tôi
có hỏi anh Thanh rằng đi vào chiến trường có được phép mang thư ký đi không?.
Anh ấy hồ hởi bảo ngay: Thôi, đừng mang đi, tớ cũng không mang. Vào chiến
trường tìm anh em trong đó thiếu gì người tốt và nhanh nhẹn làm được việc. Tôi
gặp đồng chí thư ký giải thích để anh rõ. Tôi tìm gặp anh Tấn hỏi: Bây giờ anh
Thanh bảo tôi và anh bàn chuyện chuẩn bị thì phải làm những gì?. Anh Tấn cũng
đã nhận được chỉ thị này nói: Tôi có mua cho ông một cây bút máy và một cái
đồng hồ để đem theo mà làm việc. Anh Thanh có dặn riêng tôi: Cậu phải kiếm một
máy ảnh thật tốt. Tôi liền vào Tổng cục chính trị xin. Bấy giờ ai đi B đều được
ưu tiên hàng đầu nên các anh ở cục cán bộ lập tức cho lục kho, lấy giao cho tôi
chiếc máy ảnh Pratika, thời đó loại máy này oai lắm. Còn phương thức đi như thế
nào thì tôi cũng không biết gì hơn là sẽ đi bằng phương thức đặc biệt và bằng
con đường đặc biệt. Anh Thanh còn bảo bốn người sẽ đi làm hai đợt. Đi bằng
phương thức đặc biệt có lẽ là đi bằng con đường hợp pháp, phải đi qua một số đô
thị, qua Phnôm Pênh hay Sài Gòn gì đó? Tôi nghĩ mà lo. Từ 15 - 16 tuổi đã thoát
ly đi làm cách mạng, có tiếp xúc với xã hội nhưng vẫn thấy bản thân còn nhiều
sự vụng về kém cỏi. Tôi hy vọng là được đi với anh Tấn như mấy lâu nay sống,
làm việc cùng anh. Anh ấy lớn hơn tôi hàng chục tuổi, cũng vào đời lâu và có
kinh nghiệm nhiều hơn tôi. Đùng một cái vào khoảng tháng mười thì có thông báo
anh Thanh và anh Tấn đi trước. Thế là tôi mất chỗ để dựa rồi. Còn lại tôi và
anh Hoàng Cầm. Đi cùng anh Cầm mà lại đi bằng con đường hợp pháp, phải qua đô
thị và với những phương tiện giao thông hiện đại thì cái nông dân của ông ấy
cất vào đâu nổi. Tôi hóa thành người đứng mũi chịu sào, đâm lo ngại nhiều. Lúc
này tôi đã giao lại việc quân khu cho người khác rồi. Cho nên ngày qua ngày chỉ
một việc ngồi ngóng tin lên đường, lâu lâu nóng ruột lại chạy lên Bộ tổng hỏi
dò, rồi trở về nhà nằm đọc tiểu thuyết, có lúc nghe phổ biến tình hình miền Nam
rồi tiếp tục chờ... Còn được bồi dưỡng chế độ rất đặc biệt với cả sâm nhung,
người thành béo khoẻ nặng nề ra, cân tới 65 kg. Nhưng vẫn chưa thấy gì cả. Ông
Hoàng Cầm hỏi tôi, tôi lên hỏi Bộ tổng tham mưu, lại được trả lời là cứ sẵn
sàng, có lệnh là đi ngay. Rồi đến Tết, vui vẻ với gia đình nhưng lòng thì băn
khoăn lắm, chẳng rõ chuyện đi đứng ra làm sao cả. Cái Tết vừa qua thì một tôi
nhận được điện của Bộ tổng tham mưu: Sáng mai lên tập trung ở Bộ đúng 7 giờ
sáng để đi. Chưa biết đi bằng cách nào nhưng vẫn chuẩn bị tư trang đi đường.
Tôi bỏ hết đồ quân phục lại, bận thường phục, tay xách chiếc va ly nhỏ. Rồi lại
phải giúp ông Hoàng Cầm chải chuốt cái đầu cợp của ông ấy cho dễ coi. Có lẽ là
lần đầu tiên ông diện quần áo thành thị! Lên tới Bộ hỏi đi như thế nào thì họ bảo
là ra sân bay. Tới đây thì tôi yên trí là đi máy bay rồi, có lẽ sẽ bay thẳng
Phnôn Pênh.! Nhưng lại thấy là một chuyên cơ - loại máy bay thường nhưng chỉ có
hai chúng tôi đi. Các phi công bảo: Chúng tôi có nhiệm vụ đưa các đồng chí đến
Quảng Châu. Sang Trung Quốc sao? Tôi lại hoang mang không hiểu đường đi thế nào
mà phải vòng sang Trung Quốc? Đến Quảng Châu, các đồng chí Trung Quốc đón tiếp
niềm nở, đưa vào nhà khách ăn uống, nghỉ ngơi. Bấy giờ tôi mới biết tương đối
rõ là đi bằng đường biển. Tôi và ông Hoàng Cầm sẽ xuống một tàu biển đi tới
cảng Xihanúc-vin ở Tây Nam Campuchia. Trên tàu chúng tôi đóng giả làm thủy thủ.
Đây là tàu vận tải chở hàng cho Campuchia. Lại chờ đợi khoảng một tuần lễ. Ngày
ngày đi thăm thú cảnh vật địa phương. Thăm Hoàng Hoa Cương, thăm mộ Phạm Hồng
Thái, mộ 72 liệt sĩ, trèo núi, ngắm cảnh. Có lần tỉnh ủy Quảng Đông, Quảng Tây
mời bữa cơm với thịt chó. Món thịt chó ở đây chẳng giống tí nào với lốí nấu ở
Hà Nội. Vừa lạ và không ngon. Sau này tôi mới hay là món thịt chó Quảng Đông làm
giống cách nấu ở miền Nam ta, không có riềng, không có mẻ, không lá húng. Suốt
mấy ngày họ đều thay đổi món ăn. Mỗi lần có món mới lại giới thiệu, lại giải
thích. Có người cho chúng tôi biết là ở Quảng Châu, Quảng Đông này có nhiều món
ăn khác nhau để mời khách. Mỗi ngày ăn ba bữa với các món khác nhau cũng đủ để
mời khách ba năm không lặp lại món nào!. Cũng ghê thật nghệ thuật ăn uống của
người Trung Quốc! Hôm xuống tàu các đồng chí Trung Quốc cũng tiễn đưa cẩn mật
và nồng nhiệt lắm. Họ dẫn chúng tôi vào phòng của thủy thủ. Mỗi phòng chừng 4-5
mét vuông có kê hai giường một, cửa đóng im ỉm suốt ngày. Tàu nhổ neo đi, vài
ngày sau họ mới dẫn chúng tôi đi xem phần đầu và cuối con tàu. Trên boong thấy
mấy khẩu đại liên, chắc là loại 12 ly 7 nhưng phủ bạt kín. Họ nói là tàu buôn
không có quyền mang vũ khí. Nhưng lần này có nhiệm vụ chở chúng tôi nên trang
bị thêm song bất đắc dĩ mới dùng tới còn thì phủ kín. Tàu trọng tải ba ngàn
tấn, chở hàng gì họ không nói. Năm ngày đường, lênh đênh giữa trời biển. Hai
anh em ngồi đánh tú lơ khơ và nói chuyện vui với nhau.
Ngày thứ năm thì tàu
cập bến. Chúng tôi lại bận quần áo thường phục. Ông thuyền trưởng tới mời chúng
tôi lên khoang chỉ huy ngồi nhưng cửa khoang vẫn đóng chặt. Ông nói Các đồng
chí cứ ngồi đây đừng ló ra ngoài, không để lộ gì cả. Rồi thấy mấy chiếc ô tô
vào bến. Có người bảo là xe của cán bộ đại sứ quán Trung Quốc ra đón tầu. Một
lúc sau, có người bảo: Mời các đồng chí ra. Chúng tôi đi theo cán bộ sứ quán
Trung Quốc lên tuốt ô tô. Xe lao đi. Đến lúc đó tôi mới hiểu rằng phương thức
là cán bộ đại sứ Trung Quốc ra đón tàu hàng, khi lên tầu họ đánh tráo chúng tôi
vào số người của họ lưu lại trên tàu, để đưa chúng tôi đi ô tô ngoại giao, thì
không sợ bị kiểm soát, lên xe ngồi là về Phnôm Pênh.
Tôi xin dừng lại nói
về phương thức đi B thời đó. Có phương thức là lội bộ dọc trường sơn. Năm 1964
lối này còn hoang vắng lắm. Cũng từng lúc có đoàn tới trăm người đi qua nhưng
chưa đông đúc, chưa có đường ô tô như sau này. Có chuyến ô tô chỉ tới gần giới
tuyến tạm thời rồi anh em xuống lẩn vào rừng và đi bộ suốt dọc dãy Trường sơn.
Về sau tôi biết rằng con đường ấy đi qua đường số 9 rồi số 8 gần Lao Bảo, tạt
sang Lào đi dọc đường Lào tới ngã ba biên giới thì sang đất Campuchia rồi đi
xuống. Còn một phương thức khác ít dùng tới hơn, về sau này thỉnh thoảng chúng
tôi có đi: Lên máy bay Phnôm Pênh bay sang Hồng Kông hoặc Thượng Hải: máy bay
ta sang đón về. Còn chuyến đi của chúng tôi cũng là một phương thức.
Một phương thức khác
thời ấy đã gọi là đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Tàu không số hoặc là cải
trang thành tàu đánh cá Thái Lan, hay là thành tàu đánh cá của ngư dân miền
Nam. Phần được quan tâm nhất là máy, tàu phải đủ sức vượt, còn vỏ tàu thì cải
trang thành nhiều dạng. Đường ngoài vào thì hết sức bí mật và phải trù liệu
cách xử trí để bảo toàn trong các tình huống trên đường. Tàu vào tới phía
trong, dọc bờ biển có nhiều bến: Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau đều có bến
tiếp nhận. Mỗi chuyến tàu chở dăm bẩy tấn vũ khí, cùng đi kèm là năm bẩy cán bộ
quân đội cấp đại tá thượng tá. Anh Văn Phác đã từng đi theo phương thức này.
Phương thức này có mạo hiểm hơn và cũng nguy hiển hơn, phải chuẩn bị cả phương
án chiến đấu khi gặp địch. Phần đường phía trong đi sát bờ biển, rất dễ gặp
phải tàu tuần tiễu của địch. Tàu ta vào phải mang theo sẵn cả khốí thuốc nổ lớn
để khi cần thiết thì phải phá chìm tàu. Các đồng chí trên chuyến tàu ắt chịu hy
sinh. Cũng có phương thức nhảy xuống bơi sang tàu dân chài, nhưng vẫn phải dự
phòng phương án cao nhất là hy sinh cùng với tàu, đánh chìm tàu để phi tang.
Cũng đã. có những chuyến phải phi tang như thế nhưng đa số đã thực hiện trọn
vẹn nhiệm vụ. Cũng có những chuyến bị lạc, bị giạt xa bến nhận hàng, phải đánh
chìm tàu. Cán bộ và thủy thủ len lỏi sống trong dân, được dân giúp đỡ tìm về
căn cứ hoặc trở ra miền Bắc lại. Phải nói đến những con đường cứu nước này đã
có bao nhiêu chuyện ly kỳ và bao nhiêu con người phi thường.
Còn chuyến chúng tôi
đi là đi hợp pháp, tàu quốc tế và hải trình quốc tế. Chỉ đề phòng khi nó nghi
ngờ dùng vũ lực kiểm tra thôi... Thế mà cũng có chuyện để nhớ. Lên xe của sứ
quán đi, mấy ông người sứ quán nói chuyện với nhau. Tôi nghe được, nói được
tiếng Trung Quốc. Tôi thấy các vị nói với nhau, hỏi nhau khi thấy có đoàn xe
hơi phía trước là đã phải chưa? Đúng chưa! Tôi chợt hiểu rằng các ông ấy cũng
phải đón chiếc xe nào đó. Họ chẳng trao đổi gì với chúng tôi cả. Có hỏi thì họ
bảo là cứ yên trí ngồi trên xe và họ có nhiệm vụ đưa đi. Cho đến lúc có ô tô
phía trước. Không hiểu họ có ám hiệu với nhau như thế nào mà mấy ông Trung Quốc
nói với nhau là đến rồi đấy. Họ dặn chúng tôi: Hễ mà xe đằng trước tới thì xe
này chỉ dừng lại một giây. Các đồng chí nhảy sang xe kia cho thật nhanh. Quả
nhiên xe kia tới thì áp vào và nhoáng cái chúng tôi đã nhảy ra. Bên kia có
người xuống xe đẩy chúng tôi vào xe họ. Thế là hai xe lại chạy ngược chiều
nhau. Được một đoạn khá dài xe tôi ngồi mới quay đầu lại trở về Phnôm Pênh. Nó
vun vút vượt xe của sứ quán Trung Quốc. Người trên xe đón chúng tôi cũng biết
mình đi đón Trần Độ và ông Hoàng Cầm. Ông mừng rỡ nắm lấy cánh tay tôi và bảo:
Anh cứ bình tĩnh, cứ bình tĩnh. Không có việc gì đâu. Tôi thì thấy cung cách bí
mật như thế nào chăng nữa thì cũng phải chuẩn bị đối phó với tình huống có thể
xảy ra. Càng buồn cười khi nghĩ rằng trong tay các vị mình cứ như bao gạo vứt
từ xe này sang xe kia mà chẳg ai nói với một lời. Vì sao? Xe chạy một lúc xem
ra đã yên bề, tôi lại càng sốt ruột nhưng phải bấm bụng mà chịu cung cách của
các ông. Lát sau, ông ấy hỏi tôi giấy tờ đâu? Tôi ngớ ra bảo giấy tờ gì? Tôi
chẳng có giấy tờ gì cả! Nghe thế các ông mới trao đổi với nhau: Thôi chết rồi!
phải chờ xe sau tới vậy!. Xe chạy chậm lại. Xe sứ quán Trung Quốc tới. Hai bên
trao giấy tờ cho nhau. Thì ra đây là giấy chứng minh, chứng nhận của chúng tôi
là Việt Kiều. Mỗi người chúng tôi có một tờ để lúc cần thì dùng chúng, không
còn là dân nhập lậu nữa. Lúc ấy chúng tôi mới hiểu trước đấy phải đi chụp hình
đưa đi là để làm giấy này..
Việc lo giấy này cũng
đến là buồn cười. Tôi hỏi: Làm giấy giả sao? Trả lời: Không, làm giấy thật. Thì
ra ông ấy đút lót các công an chính quyền Xihanúc? Họ đưa cho mình giấy khống
chỉ, các ông ấy gián ảnh vào rồi đem lại cho họ đóng dấu. Cứ tiền là xong hết.
Có giấy là yên ổn rồi. Tuy nhiên tôi vẫn cứ nêu lên: Các anh cho biết một vài
cách đối phó với tình huống xấu nếu xảy ra. Ông ấy lại an ủi, bảo: Yên trí! Yên
trí! Không việc gì phải lo cả, chúng tôi sẽ làm hết, các anh không phải đối phó
gì hết. Không phải lo gì cả!. Đến thế thì đành chịu vậy! Tới Phnôm pênh, trời
đã khuya lắm rồi. Ông ấy đưa vào một căn nhà và nói ngon lành: Thôi, về tới đây
là nhà mình rồi. An toàn thu đáo rồi. Không sợ gì xảy ra nữa. Các anh cứ yên
trí ngủ nghê đến sáng mai. Sau các anh sẽ được trang bị quần áo bà ba, rađio
rồi mới đi về căn cứ được!.
Sáng hôm sau ngủ dậy,
tôi lững thững bước ra sân. Thấy mấy đứa trẻ đang nô đùa, tôi gọi chúng lại hỏi
chuyện. Giữa lúc tôi đang hỏi các cháu đứa bao nhiêu tuổi, học lớp mấy, bố mẹ
làm gì thì một chị chạy ra xua tay rối rít và bảo:. Chú! Chú! Vào, vào đi. Đừng
nói giọng trọ trẹ. Lộ hết cả. Mật thám trên tầng ba kia kìa!. Tôi vội vàng trở
vào nhà và hết sức bực mình. Chị ta xua thì đành phải chịu thôi. Giọng mình là
giọng Hà Nội sao lại bảo là trọ trẹ! Hôm qua thì bảo đây là nhà anh em mình,
sao nay lại nói là có mật thám.
Chiều, khi các anh kia
trở về tôi bèn đưa vấn đề ra đặt một cách nghiêm túc: Các anh ạ! Bây giờ chúng
tôi phải lưu lại đây không hiểu là bao lâu, nghĩa là phải sinh hoạt, ăn ở đây.
Hàng ngày rồi phải gặp gỡ người nọ người kia, vậy chúng tôi phải đối đáp thế
nào? Các anh cũng phải nói để có người đến chúng tôi biết đường nói chuyện
chứ!. Thế mà các anh ấy vẫn giữ một điệu: Xin các anh cứ yên trí. Chúng tôi bảo
đảm hết không có việc gì phải lo cả. Khi nào chuẩn bị đi thì chúng tôi sẽ phổ
biến để cho rõ đường đi như thế nào. Còn bây giờ chưa cần thiết!. Thế là chúng
tôi cứ hồi hộp lênh đênh như vậy. Vài ba hôm sau, mỗi người trong hai chúng tôi
đã nhận hai bộ bà ba đen và một cái radio. Đồ bà ba đen đang lên ngôi như là
trang phục chính quy của quân giải phóng miền Nam, còn chiếc radio thuộc loại ở
Hà Nội khó mà tìm ra. Hôm lên đường, các anh ấy phổ biến cho biết sẽ từ Phnom
Pênh qua phà Niết Lương, sang đường số 7 đi về tỉnh Prây ven rồi đến thị trấn
nhỏ. Đó là điểm sát căn cứ mình, sẽ có người từ căn cứ ra đón. Khi đã biết rõ
cả hai chúng tôi yên tâm lên đường.
Về sau mới hay ở Phnom
Pênh ta có rất nhiều cơ sở, thường là các công chức cao cấp người Việt làm ở bộ
máy chính quyền Phnom Pênh.. Các nhà đều có ôtô riêng, họ đưa ô tô đi đưa đón
cán bộ, dưới cái vỏ đưa gia đình đi chơi. Hôm đưa chúng tôi đi có cả chi vợ đi
cùng. Giờ hẹn gặp là 7 giờ tối, nhưng ô tô tới lúc 4 giờ chiều. Thế là xe chúng
tôi vượt xa hơn chục cây số, lên tận thị trấn Xnum giữa rừng cao su. Ngồi uống
nước, các anh ấy dặn trước: Khi có người ra đón, chúng tôi chỉ dừng lại giây
lát, xe không tắt máy và không tắt đèn, các anh chú ý nhảy nhanh ra khỏi xe. Vì
vậy, khi có tín hiệu xe dừng lại thì chúng tôi nhảy xuống ngay. Xe lăn bánh
tiếp không kịp chào hỏi gì cả. Tôi thấy lao xao, ba bốn bóng đen súng ống lỉnh kỉnh.
Một người nắm lấy tay tôi kéo đi xềnh xệch. Một ông khác kéo ông Hoàng Cầm.
Được và ba trăm thước thì họ tuyên bố: Thôi thế là xong rồi - sang đất ta rồi!
Sau này tôi mới hiểu là con đường vừa đi chạy dọc sát biên giới nước mình, vì
thế xuống xe chỉ cần vượt qua 200 mét là sang tới đất nhà. Mỗi chúng tôi đã
được chuẩn bị sẵn một xe đạp. Người đi đón là Thượng tá phụ trách giao liên do
Trung ương Cục cử tới. Ông vốn là tham mưu trưởng một sư đoàn ở quân khu Hữu
Ngạn. Ông còn nhắc kỷ niệm đã có lần nghe tôi nói chuyện, có những chuyện vui
mà ông ta còn nhớ nhắc lại, còn tôi thì làm sao mà nhớ hết. Gặp được người quen
nhắc lại chuyện cũ thành ra thân thiết làm ấm lòng nơi rừng lạ. Đêm yên tĩnh.
Máy bay nghe phía xa, chưa có gì là quyết liệt cả. Chúng tôi lên xe đạp đi ba,
bốn cây số thì đến Trung ương Cục. Các anh Nguyễn Văn Linh và Nguyễn Chí Thanh
vẫn còn chờ chúng tôi. Gặp nhau mừng quá. Đang có cuộc họp của Trung ương Cục.
Anh Thanh trịnh trọng giới thiệu chúng tôi với các ông ở Trung ương Cục. Anh nói:
Tôi chọn cán bộ chi viện miền Nam và chọn mấy tay này. Đều là những tay sừng sỏ
của miền Bắc cả. Lê Trọng Tấn là tay sư đoàn trưởng đã chỉ huy nhiều chiến
dịch, Trần Dộ là tay có nhiều kinh nghiệm về công tác chính trị, số một số hai
đấy. Hoàng Cầm là tay chiến đấu giỏi rất nhiều kinh nghiệm về tác chiến. Anh
Linh liền hỏi tôi bao nhiêu tuổi? Tôi lúc ấy mới bốn mươi ba. Nghe tôi nói
tuổi, anh vỗ đùi đánh đét: Sướng quá nhỉ! Trẻ quá nhỉ? Tôi lại thấy mình già
rồi. Bao nhiêu năm chiến đấu, rồi làm chính ủy sư đoàn, chính ủy quân khu, thấy
mình thuộc loại nhiều tuổi. Nhiều cán bộ cấp dưới trẻ hơn nhiều. ở đây các anh
ấy lớn tuổi hơn, mình thành là lớp trẻ. Sau đó mọi người thu xếp đi nghỉ. Tôi
được ngủ cùng một lán với anh Thanh. Trước khi ngủ, anh Thanh vui vẻ nói nhiều
chuyện và bảo rằng ở đây yên tĩnh, an toàn hơn ở Hà Nội. Cả ngày chẳng có một
tiếng vọng máy bay.
Thật vậy, vùng căn cứ
lúc đó còn yên tĩnh. Nhưng chỉ sau một tháng thì tình hình đã khác hẳn. Máy bay
địch quần rà cả ngày, cơ quan phải sơ tán vào rừng sâu. Chúng dội bom xuống bất
cứ nơi nào có dấu hiệu khả nghi. Thời đó chưa có B52 nhưng có trận chúng đã huy
động tới 400 chiếc một ngày, quần từ sáng đến tối. Bắt đầu từ hôm đó căn cứ có
xáo động chút ít.
Anh Thanh đi dự Đại
hội phụ nữ miền Nam về tỏ rõ lòng khâm phục phụ nữ trong nầy. Anh kể với tôi
chuyện bà Định và cô du kích về sau được tuyên dương anh hùng 1à Tô Thị Huỳnh
mà anh đã gặp trong Đại hội. Tôi cứ buồn cười khi nghe anh nói: Tô Thị Huỳnh
mới 19 tuổi mà đánh 101 trận. Như thế mày thấy không Độ? Napoléon đánh có 11
trận! Nhìn Huỳnh hiền khô, ngoan lắm hiền lắm. Vậy mà đánh giặc dữ thế. Còn chị
Ba Định chỉ huy đồng khởi Bến Tre, tiếng tăm cũng ra tới miền Bắc nhiều người
đã biết. Anh Thanh cũng gặp chị ấy ở Đại hội. Rồi anh bảo tôi: Cậu chuẩn bị ít
lâu rồi đi họp Đại hội thanh niên. Đến đấy thế nào cũng gặp những nhân vật thú
vị như vậy.
Phụ nữ miền Nam tuyệt
vời và trong Đại hội được tặng danh hiệu Anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang.
Danh hiệu này nghe bảo do anh Thanh khởi xướng. Mới vào, được tiếp xúc với anh
mấy ngày thôi mà đã nghe kể bao nhiêu chuyện! Đến cuộc họp mặt với các anh ở
Trung ương Cục, cũng để bàn về tình hình. Tôi có biết là trong này người ta gọi
thứ chứ không gọi tên. Nhưng tôi nghĩ rằng thứ thì chỉ từ hai đến mười mà chăc
chắn là thứ thì có nhiều thứ trùng nhau lắm. Phải chọn một thứ nào dễ phân
biệt, tôi mới xin gọi tôi là thứ mười một hay mười hai gì đó. Mọi người đều
cười phá lên vì làm gì có cái thứ tôi đề nghị. Chỉ đến thứ mười là gọi út rồi.
Lúc đó anh Nguyễn Văn Linh là Mười út, là thứ mười lại còn tên út thì gọi là
Mười út, chứ không có thứ mười một. Tôi suy tính mãi chưa biết nên thế nào. ở
chiến dịch Điện Biên Phủ tôi lấy tên bí là Trần thì nay cứ mang tên ấy vậy.
Chính ủy Trần mà Trần Dần viết trong Người người lớp lớp chính là nói về tôi.
Tôi định mang tên này vậy nhưng lại có ông Tám Trần tức là ông Văn Phác, Trần
Văn Phác. Lấy thứ tám rồi chẳng lẽ tôi lại trùng tên với ông ấy! Xem ra thứ
hai, thứ ba thì trùng rất nhiều, thứ tư thì đã có Trần Văn Trà là Tư Chi, lần
đến thứ bảy có vẻ tạm ổn thì ông Tư Chi lại gọi trêu là Bảy Chà và làm tôi e
ngại không muốn mang tên đó. Xem ra thứ chín thì cũng có trùng nhưng ít hơn.
Các anh đồng ý xếp là chín, còn tên sẽ đặt sau. Lúc ấy các ông đều lấy tên con.
Ví dụ ông Cầm lấy tên con trai là Thạch. Tôi cũng tính lấy tên con. Thằng lớn
tên là Thắng nhưng đã có nhiều gọi như vậy. Tên đứa thứ hai là Quang thì cũng
trùng nhiều. Hay nó là Vinh Quang thì tôi lấy tên Vinh, gọi là Chín Vinh vậy.
Hôm đi về Bộ chỉ huy, tôi đi bằng xe đạp cùng với ông Trà. Nhìn tôi đi, ông ta
khen: Cậu đi xe đạp cũng khá nhỉ!. Tám Trần liền nói: Mấy chục năm đạp xe làm
gì mà chẳng khá!. Phần tôi thì đi ở rừng miền Nam nhưng mang ấn tượng ngày đi
rừng miền Bắc, cứ thấp thỏm với chuyện lên dốc xuống dốc mà chẳng thấy đâu cả.
Phải thừa nhận đi xe đạp trong rừng miền Nam cũng có cái thú riêng của nó.
Đường bằng, cây đủ kín che máy bay, không khí mát mẻ, cảnh vật xanh tươi. Đấy
là đoạn cuối hành trình từ Hà Nội cho đến bộ chỉ huy Miền mà tôi đã trải qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét