(Kính tặng anh linh cố Trung Tá Lê Văn Ngôn và chiến hữu Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng)
Cùng với việc Hoa Kỳ
cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam và rút quân về nước, các đơn vị Dân Sự
Chiến Đấu cũng được giải thể. Những người lính thuộc lực lượng này một số được
cải tuyển sang Địa Phương Quân và một số đông hơn tình nguyện sang binh chủng
Biệt Động Quân để phục vụ trong các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng mới được
thành lập để trấn giữ những căn cứ trước đó thuộc các toán Dân Sự Chiến Đấu.
Tại Phước Long, Căn cứ Bù Đốp do A-341 trấn giữ được chuyển thành Tiểu Đoàn 97
Biệt Động Quân Biên Phòng vào ngày 31 tháng Chạp 1970. Tại Bình Long, Căn cứ Lộc
Ninh của A-331 chuyển sang Tiểu đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng ngày 30 tháng
Chín 1970 và cũng tại Bình Long, ngày 31 tháng Mười Một 1970, đơn vị A-334
chính thức giải thể và Chỉ Huy Trưởng Căn cứ Tống Lê Chân là Thiếu tá Đặng Hưng
Long chính thức bàn giao căn cứ cho Đại uý Lê Văn Ngôn, người chỉ huy đơn vị mới
được thành lập để trấn giữ căn cứ này là Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng
với quân số lúc đó là 318 người mà hơn một nửa là người Thượng thuộc sắc tộc
S’tieng mang họ Điểu và một số khá đông là người Việt gốc Miên mang họ Châu,
Danh và Thạch. Đại uý Lê Văn Ngôn xuất thân Khoá 21 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
lúc đó chưa tròn 24 tuổi.
Nằm bên cạnh hai con suối Takon và Neron là thượng nguồn của Sông Sàigòn và
trên một ngọn đồi cao hơn 50 thước cách An Lộc khoảng 15 cây số về hướng đông-bắc,
Tống Lê Chân (dọc trại từ tiếng Miên Tonlé Tchombe) có nhiệm vụ ngăn chặn đường
tiếp tế của Việt Cộng từ Chiến khu C theo trục lộ 246 sang Chiến khu D. Vào thời
điểm này, Tống Lê Chân ngoài căn cứ chính còn có thêm hai tiền đồn nhỏ nằm án
ngữ đường tiến quân của địch vào trại chính. Với tham vọng thôn tính miền Nam
cho bằng được, Trung Ương Cục R của Việt Cộng trong suốt 5 năm qua đã cho nhiều
đơn vị của chúng thay phiên nhau đánh chiếm Tống Lê Chân để dễ dàng chuyển quân
và vũ khí về các mặt trận phía đông Sài Gòn mà không bị cản trở nhưng không
thành công mà còn phải trả những giá thật đắt trong những cuộc tấn công tự sát.
Sau đi tung những đại đơn vị tấn công Lộc Ninh, An Lộc và một số vùng phụ cận
trong tỉnh Bình Long vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, cộng quân cho các lực lượng chính
qui Bắc Việt tấn công Tống Lê Chân.
Thật ra thì ngay sau khi Công Trường 9 Cộng sản Bắc Việt tấn công vào Lộc Ninh,
Việt Nam Cộng Hoà chúng ta đã nhìn thấy trước ý đồ của cộng quân nên Bộ Chỉ Huy
Biệt Động Quân Quân Khu 3 quyết định cho Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng
rút khỏi Tống Lê Chân để về An Lộc cùng với những đơn vị khác chuẩn bị đối đầu
với đại quân Bắc Việt. Tuy nhiên, Đại úy Lê Văn Ngôn đã trình lên Đại tá Nguyễn
Thành Chuẩn, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 3 khi ông ghé xuống đây vào
những ngày đầu tháng Tư 1972 rằng có ba lý do để đơn vị này ở lại trấn giữ Tống
Lê Chân. Thứ nhứt là dồn quá nhiều quân vào An Lộc để lãnh đạn đại pháo của Việt
Cộng là điều không nên (lúc đó, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Đại Tá Nguyễn Văn
Biết chỉ huy đã nhảy vào An Lộc rồi). Thứ hai, Tống Lê Chân nằm trong chiến khu
của địch, tại một vị trí giống như yết hầu đối với đường tiếp tế và chuyển quân
của giặc và hơn nữa, từ trên đồi có thể quan sát được mọi di chuyển của địch
ngay trong chiến khu của chúng. Vì thế, càng nên giữ căn cứ cho tới cùng để gây
thêm khó khăn cho các hoạt động quân sự của chúng. Thứ ba là toàn thể quân nhân
các cấp trong đơn vị muốn ở lại giữ Tống Lê Chân chớ không muốn rút đi. Kể từ
lúc đó, một trang sử bi hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu.
Ngày 10 tháng Năm 1972, sau khi đặc công đã đột nhập vào bên trong vòng đai
phòng thủ và bắt đầu phá hoại, đại quân Bắc Việt tổ chức nhiều đợt tấn công biển
người có chiến xa yểm trợ nhưng lần lượt bị đẩy lui và chúng phải bỏ cuộc. Đại
uý Lê Văn Ngôn được vinh thăng thiếu tá nhờ những chiến công liên tiếp này. Sau
đó, An Lộc và các vùng phụ cận được giải toả, các lực lượng cộng quân còn sót lại
tháo chạy qua biên giới về mật khu an toàn của chúng trong vùng Mỏ Vẹt và Lưỡi
Câu.. Tống Lê Chân được tạm yên một thời gian ngoại trừ những cuộc tấn công quấy
rối và những vụ pháo kích lẻ tẻ vốn không đáng kể so với những trận mưa pháo và
tấn công biển người liên tiếp trước đó. Sau Hiệp định Paris ký kết ngày 27 và
có hiệu lực kể từ ngày 28 tháng Giêng 1973, giữa lúc Việt Nam Cộng Hoà, Việt Cộng
và Cộng Sản Bắc Việt đang thực hiện các cuộc trao trả tù binh thì Việt Cộng đem
một lực lượng chính qui bao vây Tống Lê Chân, trắng trợn vi phạm hiệp định mà
chính chúng đã ký kết.
Ngày 17 tháng Ba, một phiên họp cấp trưởng đoàn của Ban Liên Hợp Quân Sư Bốn
Bên (BLHQSBB) được triệu tập. Trưởng đoàn của Việt Cộng là tướng Trần Văn Trà
biết tình hình không có lợi nên lánh mặt và cho Đại tá Đặng Văn Thu thay mặt tới
tham dự. Tại phiên họp này, trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hoà là Trung tướng Dư Quốc
Đống đề nghị những biện pháp cấp bách gồm có việc cử ngay một tổ Liên Hợp Quân
Sự Bốn Bên đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm, nếu điều đó được thoả thuận tại
hội nghị. Nếu hai phe cộng sản không thoả thuận thì Hoa Kỳ, với tư cách chủ vị
của BLHQSBB, sẽ yêu cầu Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Đình Chiến (1)
(International Commission for Ceasefire and Supervision = ICCS) cử người đi điều
tra và trong trường hợp này, Việt Cộng, tức cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam phải ra lệnh cho các đơn vị của chúng quanh Tống Lê Chân không được bắn lên
phi cơ của ICCS khi họ tới đó.
Đương nhiên là hai phái đoàn của cộng sản không đồng ý với biện pháp này nên
tìm cách lảng sang chuyện khác. Đặng Văn Thu luôn mồm lảm nhảm rằng Việt Nam Cộng
Hoà đã vi phạm (!) ngưng bắn ở Đức Cơ thuộc tỉnh Pleiku, Đức Phổ và Sa Huỳnh
thuộc tỉnh Quảng Ngãi nên có lỗi chớ chúng không có lỗi. Bên phái đoàn Bắc Việt
cũng lập lại như vẹt những lời của đám tay sai của chúng. Khi chúng ta bàn sang
biện pháp thứ hai thì chúng nhứt định không chịu để cho một phái đoàn của ICCS
đi Tống Lê Chân điều tra và rồi cả hai tên đại diện cho bên cộng sản này “nhứt
trí” với nhau bỏ phòng họp ra về. Sau đó, chính bọn này đã thông báo cho hai
thành viên của khối Cộng tại ICCS là Ba Lan và Hung Gia Lợi rằng nếu có văn thư
Hoa Kỳ yêu cầu đi Tống Lê Chân điều tra thì hãy từ chối với lý do ở nơi đó
không được an ninh. Nghe Việt Cộng hù dọa như vậy, thử hỏi có phái đoàn nào còn
đủ can đảm đáp trực thăng đi Tống Lê Chân để mà ăn đạn phòng không dầy đặc của
chúng. Vì vậy mà Tống Lê Chân cứ tiếp tục bị bao vây tháng này qua tháng khác
và năm này qua năm khác.
Khi Việt Cộng bắt đầu bao vây Tống Lê Chân thì quân số của Tiểu đoàn 92 Biệt Động
Quân Biên Phòng chỉ có 274 quân nhân các cấp. Bao vây tấn công đơn vị cô độc
này là các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 271 (2) của Công trường 9 được tăng cường
thêm các đội phòng không của trung đoàn này và Trung đoàn 42 cùng với Tiểu đoàn
28 Pháo binh có trang bị đại bác 130 ly.
Trong sáu tháng đầu Tống Lê Chân bị tấn công và bao vây, Không Quân Việt Nam Cộng
Hoà đã thực hiện hơn 3 ngàn phi vụ yểm trợ và tiếp tế cho căn cứ này, thả xuống
hơn 3 trăm kiện thực phẩm và tiếp liệu nhưng quân trú phòng chỉ thu được 134 kiện
và số còn lại rớt xuống các vị trí của địch. Cũng trong thời gian này, cộng
quân pháo kích vào Tống Lê Chân hơn 3 trăm lần với khoảng 1300 trái đạn đủ loại.
Chúng tấn công căn cứ này 11 lần và đặc công của chúng đột nhập vào được bên
trong căn cứ chín lần nhưng không một tên nào sống sót chạy ra.
Nhờ các đơn vị của Không Quân thay phiên nhau tích cực yểm trợ và tiếp tế, các
chiến sĩ tử thủ Tống Lê Chân càng thêm tinh thần chiến đấu, không những đẩy lui
được các đợt tấn công của cộng quân mà còn mở các cuộc hành quân vòng đai, loại
hàng chục tên ra khỏi vòng chiến mỗi lần hành quân và phá hủy một súng phòng
không và một đại bác.
Cho đến đầu tháng Bảy 1973 thì quân số tại Tống Lê Chân chỉ còn 258 người kể cả
34 bị thương nặng nhẹ hoặc bị bịnh sốt rét không di tản được trong đó có một số
vẫn tiếp tục chiến đấu với đồng đội. Bên địch, có thêm các lực lượng thuộc
Trung đoàn 301 Chủ Lực Miền được cử đến tăng phái cho Trung đoàn 271. Thấy lực
lượng tử thủ bị vây khốn đã nửa năm, giặc cộng tưởng tất cả đều không còn tinh
thần chiến đấu nên cứ tối đến là chúng bắc loa vừa kêu gọi anh em ra đầu hàng vừa
đem bom đạn ra hù doạ theo kiểu “hàng sống chống chết”. Chúng còn “tử tế” tới mức
dặn dò kỹ lưỡng rằng “Anh Ngôn” hãy dẫn anh em ra chỗ này chỗ nọ để được “nhân
dân đem về vùng hoà bình”.
Việc Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng bị giặc cộng vây khốn suốt nửa năm
trời đã gây được sự chú ý của dư luận quốc tế. Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt
thấy vậy ra vẻ làm theo lời yêu cầu của ICCS nhưng thật ra đây cũng chỉ là một
hành động lừa dối trắng trợn của bọn chúng mà thôi. Chúng cử tên đại tá khét tiếng
mất dạy Võ Đông Giang (3) sang gặp Trưởng Phái đoàn Gia Nã Đại là Đại tá Lomis
để cho biết là Việt Cộng đồng ý để cho ICCS đến Tống Lê Chân điều tra nhưng trước
hết phải để cho Giang cử một đại diện đi trực thăng tới Tống Lê Chân liên lạc
trước với các đơn vị của chúng tại đây để đề phòng ngộ nhận. Sau đó, một tên đại
diện của Việt Cộng đáp trực thăng đi Bình Long nhưng thay vì xuống Tống Lê
Chân, tên này lại yêu cầu phi công đáp xuống một nơi cách Tống Lê Chân tới cả
chục cây số gọi là Sóc Con Trăn mà theo lời của tên này thiø y phải liên lạc với
“địa phương” trước. Tên này biến vào rừng một lúc lâu rồi trở ra, miệng lảm nhảm
tố cáo rằng “bộ phận đường dây” của chúng đã bị Mỹ-Nguỵ giết hại hết rồi nên y
không tìm được một ai. Sau đó, thay vì trở về Biên Hoà để báo cáo cho Ban Liên
Hợp Quân Sự Khu V, tên này lại yêu cầu trực thăng chở y về Sàigòn. Việt Nam Cộng
Hoà lại làm dữ nhưng chúng vẫn không thay đổi thái độ. Cuối cùng, trong một việc
làm đầy tính cách giả nhân giả nghĩa, chúng cho phép trực thăng của Không Quân
Việt Nam Cộng Hoà đáp xuống Tống Lê Chân để di tản đúng 20 thương binh. Đây là
lần duy nhất trong hai năm bị tấn công và vây hãm, trực thăng của Việt Nam Cộng
Hoà đáp xuống Tống Lê Chân mà không bị phòng không bắn lên cũng như đại bác
pháo vào căn cứ. Sau đó, Việt Cộng lại tiếp tục bao vây, pháo kích và tấn công
Căn cứ Tống Lê Chân.
Khi Việt Nam Cộng Hoà tiếp tục tố cáo giặc cộng vi phạm Hiệp định Paris thì
chúng trơ tráo trả lời rằng việc pháo kích vào Tống Lê Chân là để cảnh cáo lính
trong căn cứ liên tục lấn ra ngoài, xâm phạm vào “vùng giải phóng” của chúng
(chỉ có hai trăm quân nhân còn đủ khả năng tác chiến thì làm sao lấn nổi cả một
sư đoàn của chúng?). Khi chúng ta khiếu nại về việc chúng dùng loa phóng thanh
dụ các chiến sĩ trong căn cứ ra đầu hàng chúng thì chúng trơ tráo nói rằng
chúng chỉ giảng “đạo lý hiệp định Paris” cho “anh em lính Sàigòn” nghe để anh
em hiểu về “đạo lý hoà hợp hoà giải dân tộc” và rằng đó là “quyền lợi của anh
em”.
Sau hơn nửa năm trời chúng ta không ngừng khiếu nại, dư luận quốc tế cũng không
còn chú tâm đến Tống Lê Chân nữa và Việt Cộng vẫn tiếp tục tấn công và pháo
kích. Trong khi đó thì những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà nói
chung và những người lính của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng nói riêng
còn bị thêm những nhát dao chí tử của ngay chính đồng bào của mình. Những tay
tu sĩ bội đạo phản đời như Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan luôn mồm chống phá chính
phủ Việt Nam Cộng Hoà. Những tay dân biểu và nghị sĩ đối lập như Hồng Sơn Đông,
Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường và Trương Gia Kỳ Sanh lợi dụng vị trí của mình luôn
mồm tiếp tay cho giặc. Hai phái đoàn Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt đương nhiên
là lợi dụng tối đa điều này và chúng luôn xem đó là những bằng chứng để tố cáo
vu vơ và bôi xấu Việt Nam Cộng Hoà tại những phiên họp giữa hai bên hoặc bốn
bên.
Đầu năm 1974, giữa lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang điên đầu đối phó với
chiến dịch gây rối đội lốt “phong trào chống tham nhũng” do Trần Hữu Thanh cầm
đầu thì tại Tống Lê Chân, Thiếu tá Lê Văn Ngôn được vinh thăng trung tá lúc mới
27 tuổi. Chẳng có một thượng cấp nào của ông tại Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân
Khu 3 lên Tống Lê Chân gắn lon cho ông cả mà chỉ có cặp lon trung tá được trực
thăng thả xuống cùng với tiếp phẩm (4). Đúng lúc đó thì xảy ra trận Hoàng Sa
khiến người ta tạm quên mất Tống Lê Chân và Việt Cộng tung toàn lực của chúng tại
đây đánh vào căn cứ với quyết tâm chiếm hoặc san bằng cho bằng được.
Vào cuối tháng Giêng và đầu tháng Hai 1974, những tên chỉ huy cao cấp nhứt của
Công trường 9 Cộng Sản Bắc Việt họp liên miên để rút ưu khuyết điểm của các đợt
tấn công của chúng vào Tống Lê Chân suốt một năm trước đó. Sau đó, Tống Lê Chân
lại được chúng đem lên sa bàn nghiên cứu từng chi tiết nhỏ. Sau mấy đợt tấn
công thăm dò, ngày 5 tháng Tư, Trung đoàn 271 cùng với một trung đoàn pháo và một
lữ đoàn chiến xa có thêm một số đơn vị chủ lực miền tiếp ứng, ồ ạt tấn công Tống
Lê Chân. Được tin tình báo cho biết trước, các chiến sĩ Biệt Động Quân chuẩn bị
sẵn sàng và sau đó giao chiến ngang ngửa với đại quân Bắc Việt được đúng sáu
ngày. Đến quá trưa ngày 11, chiến xa của chúng xuất hiện trong tầm mắt của các
chiến sĩ phòng thủ trong khi các phi vụ tiếp tế của Không Quân đã mấy ngày liền
không thể thực hiện được vì một trung đoàn phòng không của cộng quân sẵn sàng bắn
đạn che kín bầu trời. Hết đạn dược và thực phẩm, Trung tá Lê Văn Ngôn hướng dẫn
anh em mở đường máu về được An Lộc. Chỉ việc các chiến sĩ can trường này đem được
cả thương binh thoát khỏi vòng vây dày đặc của địch để về đến An Lộc cũng đã là
một việc nói lên tình đồng đội và tinh thần chiến đấu của người lính Việt Nam Cộng
Hoà ngay cả trong tình thế bi đát nhứt. Ngoài ra, người ta cũng phải nghĩ rằng
chỉ có phép lạ mới che chở được đơn vị lẻ loi và anh hùng này: trong một tuần lễ
ác chiến sau cùng, chỉ có hơn hai chục chiến sĩ bị thương.
Sau khi đem đơn vị về đến An Lộc, Trung tá Lê Văn Ngôn được cử đi học khoá Tham
Mưu Trung Cấp và sau đó về Sư Đoàn 5 Bộ Binh giữ chức vụ trung đoàn phó. Sau
ngày đất nước chúng ta rơi vào tay giặc cộng, Trung tá Ngôn cũng như biết bao
chiến sĩ khác, lọt vào tay giặc và bị đưa ra miền Bắc. Một tối mùa thu 1977,
ông lặng lẽ qua đời tại liên trại Yên Báy. Chính Phan Nhật Nam đem người đàn em
vắn số của mình ra huyệt chôn.
Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy
ngũ sắc để chào mừng Hòa bình Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa
ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con
suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang. Trận đánh Tống Lê Chân
bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngay. Không ai
trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi bỏ qua tai nạn cục bộ của Việt Nam rắm
rối. Hòa bình, thứ rượu nhạt mà thế giới hằn lâu không được uống. Tống Lê Chân,
trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay,
căn cứ bị bao vây đúng 17 tháng, hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến
con số nhỏ bé ghê gớm đau đớn này, chúng ta cũng là những kẻ có tội.
Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm
Balaam 66 ngày, quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241
ngày và ở Việt Nam “thiên đường” của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không
giới hạn, chúng ta cũng đã có những cứ điểm với tên tuổi để đời như Điện Biên
Phủ bị bao vây với số lượng 57 ngày. Gần gũi và còn được nhớ hơn hết là những
trận đại chiến khởi đầu trong mùa hè ’72, những trận đánh vượt quá hẳn chiến sự
thế giới tại các địa danh Kontum, An Lộc, Quảng Trị, những Delta, Charlie ở
Kontum cũng chỉ kéo dài trong 1 ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến
ngày 25 tháng 7/1972 đã được giải tỏa phần lớn…
Thế nên, Tống Lê Chân với 510 ngày bị vây hãm phải được xem là
trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh của nhân loại. Căn cứ nhỏ bé đó từ
ngày 10 tháng 5/1972 đã bị mờ khuất sau làn khói lớn của An Lộc, Quảng Trị,
Kontom và đến nay, sáu tháng sau ngày hòa bình độc hại, chiếc tiền đồn lại càng
có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng
Sản. Chúng ta phải nhỏ giọt nước mắt thật nóng để cầu nguyện cho số người trong
510 ngày đã phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: tội ác đã đồng nghĩa với con
người cộng sản. Tống Lê Chân, giọt nước mắt tinh tuyền của sức đối kháng vô bờ
của người Việt miền Nam.
Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống
hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Saigon dày đặt khắp
miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15
cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt-Miên khoảng 13 cây số, điểm
nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê
Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt
mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ Quân Khu 3 dọc theo biên
giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn,
Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm
trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn
ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của Cộng Sản từ bên kia biên giới
nơi có những địa danh đã một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại
còn lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt
các đơn vị địch trong vùng.
Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc, Chiến Khu C
và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền ông Diệm đã thành lập từ những
năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ý của Tổng Thống
Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bât giờ,
năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đã quay mũi phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ
lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa bình, các trại kia chỉ
còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành
đoạn.
Hình trên: A-7 Corsair, phản lực cơ dội bom của Hoa Kỳ, một loại
vũ khí không-yểm rất hữu hiệu mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa rất thiếu thốn
trong các năm 1973, ’74 và ’75 (hình ảnh: Air War College Gateway & USAF
Counterproliferation Center).
|
Thấy hai phái đoàn Cộng Sản không đá động gì đến ba đề nghị vừa
trình bày, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lập lại đêø nghị lần thứ hai: Nếu Ban
Liên Hợp Quân Sự Bốn-Bên chưa thống nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư
cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt
lại hát lên một nội dung: “Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế đến
để điều tra.” Phiên họp ngưng ở kết luận này. “Tính nhất trí” của Hiệp định,
tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị!
Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng Sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba
Lan, Hung Gia Lợi khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ đi điều tra Tống Lê Chân:
“UBQT không đồng ý đi điều tra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh.” Muốn chắc
ăn hơn, hai phái đoàn quốc tế cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu
phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ
dĩ nhiên điều kiện không bao giờ được thực hiện vì Mặt Trận Giải Phóng chắc chắn
không đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
Một tuần lễ trôi qua, kể từ phiên họp ngày 17 tháng 3/1973 tất cả
nỗ lực về Tống Lê Chân đều bị chấn lối bởi hai ngón đòn: “Tình hình Tống Lê
Chân chưa rõ rệt, phái đoàn Mặt Trận chờ chỉ thị của thượng cấp và đơn vị Mặt
Trận Giải Phóng không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể
đến điều tra.” Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào
nhau nhồi quả bóng vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề.
Ngày 23 tháng 3/1973, chỉ còn 4 ngày nữa là hết thời hạn 60 ngày
làm việc của Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nã Đại
(chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với Mặt Trận Giải Phóng để sớm điều
tra sự kiện Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng trốn không nỗi, đưa Ðại Tá Võ
Đông Giang, phó trưởng đoàn ra gặp Ðại Tá Lomis (Gia Nã Đại) thỏa thuận cử sĩ
quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê Chân vào ngày 24
tháng 3/1973…Nhưng rốt cuộc cũng là trò đánh tráo. Theo thỏa thuận của Giang,
sĩ quan Mặt Trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lê Chân tiếp xúc trước với lực lượng
Cộng Sản ở đây xong trở về Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự – tức
là cùng của Việt Nam Cộng Hòa) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân. Tên sĩ
quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên từ Tống Lê Chân y trở về Tân
Sơn Nhất, làm cho Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24 tháng 3/1973. Cuộc
điều tra Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được.
Không bao giờ.
Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần lễ cố gắng liên tục kể từ
phiên họp 17 tháng 3/1973, Việt Nam Cộng Hòa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cùng
sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23 tháng
3/1973, thay vì xuống Tống Lê Chân như đã dự liệu, tên sĩ quan liên lạc Mặt Trận
xuống “Sóc Con Trăn” cách Tống Lê Chân 10 cây số về phía tây, viên sĩ quan này
lấy cớ phải liên lạc với “địa phương” y trước, sau một hồi tìm kiếm trong vùng,
y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh đứt đường
giây y không tìm ra ai. Chiếc trực thăng trở về Saigon, không một thương binh
được di chuyển.
Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì yêu cầu Mặt Trận Giải
Phóng thảo luận để Việt Nam Cộng Hòa tản thương ở Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải
Phóng hết cớ từ chối, ngày 24 tháng 3/1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cuối
cùng được di tản. Mặt Trận Giải Phóng “hòa hợp, hòa giải dân tộc” với giá máu
này một lần độc nhất, Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó. Cấp
trưởng phái đoàn, cấp trưởng tiểu ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lê
Chân. Nhưng sự thật là một việc, và cách nhìn của người Cộng Sản lại là một việc
khác, nên sự kiện quân đội cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của
ta biến thành một cuộc hành quân của “quân đội Saigon” lên chiếm khu vực Tống
Lê Chân, một nơi nằm sâu trong vùng giải phóng của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời!
Kèm theo luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là
rất tự kềm chế vì phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn “nống nấn” ra ngoài khu vực
Mặt Trận Giải Phóng (một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào
vòng vây của một sư đoàn). Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải
thích: Đó là giảng “đạo lý, hiệp định” cho binh sĩ trong đồn biết “đạo lý về
hòa hợp, hòa giải dân tộc”. Ý nghĩa đích thực của ngôn từ đã biến mất trên lưỡi
của người Cộng Sản. Những điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát thanh
Việt cộng ào ào tố cáo. Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thư tố giác, các
thành viên Hung Gia Lơiï, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư. Và biết đâu
trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư gian dối đó. Không hiểu Đức
Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tòa báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó
ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang mong ngày
mau đến.
Đau đớn hơn, khi tại Saigon, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm cây
số đường chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những người
lính Việt Nam đang ở chiếc đồn bị bao vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại
nhìn vấn đề ngược lại, như đám Ngọc Lan, Chân Tín, như thứ chính khách đối lập
Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh (những nghị sĩ,
dân biểu được Mặt Trận Giải Phóng nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố
cáo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa). Những người này là gì trong khi đồng lõa với
tội ác đẫm máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lê
Chân, hai mươi ngày sau khi hòa bình 28 tháng 1/1973, căn cứ có thêm bốn chết
và hai mươi hai bị thương, những người chết này chết cho ai? Phải chăng để bảo
vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể đang nhân danh hòa bình.
Quả tình chúng ta đang ở trong một “trạng thái hòa bình” sau hai
mươi sáu năm nghe tiếng súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe quen tiếng nổ đại
bác hỏa tiễn, chúng ta cũng quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng của
An Lộc, Quảng Trị nên hình như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của ngày hôm
nay, chúng ta đã vội vã xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những hình ảnh
tàn khốc của tháng kia, năm trước và trong hạnh phúc tội nghiệp này, giữa lòng
cơn lốc túng đói, chúng ta cũng đã không đủ khả năng để nhớ đến hình ảnh một
căn cứ lẻ loi cố gắng khỏi bị hủy diệt để thể hiện ý muốn sống trong tự do và
hòa bình, nỗi mơ ước của toàn dân tộc…Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải
làm gì được cho Tống Lê Chân.
Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào tháng 6 năm
1973, thời gian quân đội Cộng Sản đang chuẩn bị dứt điểm vào Tống Lê Chân trong
dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đã đứng vững
được trước hàng chục cuộc tấn công và bị pháo kích hàng chục ngàn quả đạn, viên
chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh đã gắng chặt tên anh
cùng chiếc đồn nhỏ bé đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đã được giữ
trọn như tên anh đã định trước. NGÔN –một lòng son sắt giữ mãi một lời nói.
Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi
quá nhỏ so với chiến trường kia quả là một hiên thực hình ảnh linh diệu kết
tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hỗ thẹn trước nỗi
can trường này.
Những phiên họp của tháng 3, tháng 4/1974 tại Ban Liên Hợp Quân
Sự Hai-Bên trung ương, phía Việt Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo động: Công Trường
9 (Cộng Sản) nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn
cùng Trung Ðoàn 27 quyết ủi láng trại. Trung Ðoàn 27 sẽ được yểm trợ trực tiếp
bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và lữ đoàn chiến xa, không
kể thành phần trừ bị và tăng viện. Một năm trời thử lửa, một hai tháng thực tập
trên sa bàn và trên địa thế tương tự…quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công
kiên chiến khởi từ 5 tháng 4/1974 đến 1:00 giờ ngày 11 tháng 4/1974 đoạt được đồn.
NGÔN làm gì với quân số 259 người với 50 người bị thương từ trước, hai chục người
bị thương ở đợt tấn công sau cùng?
Tiểu Ðoàn 92 đã chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch
sử chiến tranh, con người NGÔN hơn hẳn những người anh hùng chiến trận của nhân
loại: Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh của thế giới đã dựng lên tấm
bia can trường về bổn phận cao cả của lính. NGÔN và Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động dựng
lên tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quý hơn tất cả, NGÔN và 259 Biệt Động
Quân của Tống Lê Chân là những người chiến sĩ chiến đấu cho hòa bình. Hòa bình
của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố bình yên có nghĩ gì khi hay
tin Tống Lê Chân bị đoạt mất. Tiểu đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ còn giọt
nước mắt, phải, chỉ còn một giọt nước mắt ngập bi hùng.
Phan Nhật Nam
HỒI KÝ TƯỞNG NIỆM CỐ TRUNG
TÁ LÊ VĂN NGÔN
LTS: Thiếu Tá Phi Công Vận Tải Lê Hồng Đức đã từ Mỹ qua sống tại Đức từ lâu,
anh Nguyễn Hữu Huấn, Phi Công Trực Thăng đã giới thiệu bổn báo Chủ Nhiệm
với TT Lê Hồng Đức, hôm nay Anh TT Đức gởi cho TCDV đoản văn hồi ký này để
tưởng niệm cố Trung Tá Lê Văn Ngôn, TĐT và các chiến sĩ TĐ 92 BĐQ đã nằm xuống
tại căn cứ Tống Lê Chân…
Hồi ký – Không vận tiếp tế Tống Lê Chân (TLC) 1971-1974
(Ngoài chiến lược, những trận đánh vào TLC của CSBV và sự
chiến đấu oai hùng của các chiến sĩ Biệt Động Quân Biên Phòng để bảo vệ tiền đồn
TLC , tác giả tường thuật thêm tổng quát về vận tải cơ C130 thả dù & trực
thăng tải thương. Tôi cũng xin được phép kể dưới đây để bổ túc thêm về sự
đong góp không nhỏ của 3 phi đoàn vận tải C7 Caribou PĐ427, PĐ429 & PĐ431
đã thi hành không vận tiếp tế cho chiến trường TLC từ năm 1971 đến
1974.)
Phi vụ hành quân cất cánh từ Đà Nẵng, chở lương thực đạn dược lấy
từ phi trường quân sự Biên Hòa (BH) thuộc SĐ3KQ để tiếp tế cho Tiểu Đoàn 92 Biệt
Động Quân Biên Phòng (TĐ92/BĐQ/BP) trấn đóng tiền đồn Tống Lê Chân (TLC) nằm
trên đồi cao dưới quyền chỉ huy của Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT) Th/tá Lê Văn *NGÔN
(Tr/tá 1972-1975. Chết trong tù CS 1977) để bảo vệ vòng đai phía Tây Nam tỉnh lỵ
An Lộc và phía Đông Bắc tỉnh Tây Ninh, nhất là đường xâm nhập của Cộng quân từ
biên giới Miên trên con sông Sài Gòn chảy xuyên qua giữa 3 tỉnh Tây Ninh, phía
Tây An Lộc sát biên giới Miên đến Lộc Ninh. Trong đồn TLC có 1 phi đạo vĩ sắt
dài ca. 1100-1200! Feet (ca. 363-396m) cho phi cơ cánh quạt loại nhỏ như L19,
đáp ngắn như vận tải cơ C-7 Caribou, phi cơ trực thăng UH-1 & Chinooks
CH-47.
Trước khi chuyển giao phi cơ C7 Caribou cho KQVN, chúng tôi bay
thực hành chuyển vận với pilot Mỹ tại Cam Ranh-, Phan Rang US AFB từ cuối tháng
09 &11.1971, đáp xuống hầu hết các phi trường dã chiến được xây nhanh bằng
vĩ sắt trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật từ Đông Hà – Bến Hải tới An Thới – Phú Quốc
và dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào. Sau đó KQVN tự đảm trách phi vụ không vận
với loại vận tải cơ C7A Caribou từ Căn Cứ 72 (CC72) Phù Cát được chuyền giao lại
bởi Liên Đoàn 22 Không Quân Hoa Kỳ, dưới quyền chỉ huy của Đ/tá NH TUYỀN. Đến
tháng 2 năm 1972 thì PĐ427 được thuyên chuyển ra KĐ41CT/SĐ1KQ Đà Nẵng, trong thời
gian nầy thì VC chưa pháo kích hay tấn công vào tiền đồn, cho nên phi cơ C7 có
thể đáp xuống phi đạo vĩ sắt TLC nằm trong vòng kiểm soát của TĐ92/BĐQ/BP. Thường
thì 2 phi đoàn C7A Caribou PĐ429 & PĐ431 thuộc SĐ5KQ đồn trú tại Tân-Sơn-Nhất
đảm nhận chuyên chở cho Quân Đoàn III (3) và IV (4), còn PĐ427 đảm nhận chuyên
chở cho Quân Đoàn I (1) và II (2), nhưng cũng đôi khi được chỉ định từ Đà Nẵng
bay về Quân Đoàn III (3) và IV (4) như bay về Biên Hòa để chở lương thực, vũ
khí đạn dược từ nơi đây cho TĐ92/BĐQ/BP.
Nhưng khi VC tấn công tỉnh lỵ An-Lộc vào tháng 04.1972 thì tiền
đồn TLC cũng bị pháo kích liên tiếp làm hư hại những vĩ sắt nhô lên trên phi đạo,
nên phi cơ C7 chỉ có thể bay thấp trên phi đạo và thả những tấn Pallets lương
thực gồm (gạo, đồ hộp, thuốc tây để trị bệnh, thuốc quân tiếp vụ để hút, v.v…
& thư từ) xuống phi đạo, tuy có hư hại đôi chút nhưng tất cả khoảng 400 chiến
sĩ TĐ92/BĐQ/BP vẫn có để dùng cho cả tháng.
Mất tiền đồn Tống Lệ Chân là mất An Lộc!.
VC, với cả sư đoàn CSBV & MTGPMN đã thấy điều thất bại nặng
nề nầy sau cả tháng trời bao vây & tấn công từ phía Tây, Tây Bắc, Bắc tỉnh
lỵ An Lộc được tử thủ dưới quyền của Tư Lệnh chiến trường là Đ/tá Lê Văn *HƯNG
(cố Th/Tướng 1975) & Tỉnh Trưởng An Lộc Đ/tá Trần Văn NHỰT (Ch/Tướng, 1975
tỵ nạn tại Camp Pendleton USA), do đó địch quân chuyển hướng dùng biển người tấn
công TLC nhưng đều bị thất bại với sự chống trở oai hùng của các chiến sĩ mũ
nâu BĐQ để bảo vệ đường tiến quân của địch từ TLC xuyên phía Tây Nam An Lộc. Địch
quân lại bị bao vây bởi các đơn vị của SĐ9BB/QĐIII của ta trong nhiều tháng.
Vì 1 số chiến sĩ BĐQ bị thương quá nặng cần mang về hậu cứ để điều
trị gấp, nên Tr/t NGÔN yêu cầu TTHQ/SĐ3KQ/QĐIII cho trực thăng đến chở thương bệnh
binh đi. Cũng vì lý do tối thượng nầy mà 1 vài phi hành đoàn trực thăng PĐ 2xx
đã can đảm liều chết đáp xuống TLC để cứu chiến hữu của mình, vì địch quân mỗi
khi thấy bất cứ phi cơ nào (đang) đáp xuống TLC, ngày cũng như đêm, là chúng bắn
và pháo kích xối xả vào TLC. Thật là kính thương & khâm phục những chiến hữu
của TĐ92/BĐQ/BP & phi hành đoàn trực thăng PĐ2xx/SĐ3KQ đã hy sinh tại ải
tuyến TLC hay những ai may mắn còn sống sót cho tới ngày hôm nay.
Do đó phương tiện tải thương & tiếp tế bằng phi cơ cho TLC
càng rất nguy hiểm trong những tháng cuối cùng của năm 1972 cho đến sau ngày ký
Hiệp Định Paris 27.01.1973, TLC vẫn còn bị địch quân bắn phá
tuy rằng không có những cuộc tấn công nào của VC. Nhưng cuối năm 1973 khi mà
quân đội Mỹ và đồng minh đã hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam thì VC bất chấp sự
ký kết HĐ Paris, bắt đầu gia tăng áp lực đánh phá khắp nơi nhất là các tiền đồn
biên phòng BĐQ như Ba Tơ, Thượng Đức, Tiên Phước thuộc QĐI và Tống Lệ Chân / An
Lộc thuộc QĐIII. Sau trận hãi chiến giữa hãi quân QLVNCH và Trung Cộng vào ngày
19.01.1974, CSBV thấy Hạm Đội 7 Mỹ không trợ giúp HQ/QLVNCH, liền sau đó mở những
cuộc tấn công nhỏ để thăm dò phản ứng của Mỹ. Khi thấy Mỹ làm ngơ, CSBV bắt đầu
tấn công mạnh vào các tiền đồn BĐQ/BP cố chiếm cho kỳ được để từ đó có thể chuyển
quân ồ ạt tiến vào tỉnh lỵ.
Vì phi đạo TLC quá nhỏ để đáp, nên 2 phi đoàn C130 PĐ43!/SĐ5KQ sử
dụng phi cơ C130 trên cao độ cao thả dù tiếp tế xuống TLC, nhưng chỉ có 50% thì
vào bên trong TLC, con số còn lại thì rơi trên đầu địch quân VC được hưởng lợi.
Vì lý do nầy mà 3 phi đoàn C7A Caribou PĐ427/429/431 phải tiếp tục đảm trách
không vận cho TLC. Tuy phi cơ bị trúng đạn nhưng 2 phi đoàn bạn 429 & 431
đã gần hoàn tất thả những Pallets xuống phi đạo TLC. Duy chỉ có phi cơ của Đ/u
Phạm T. NGHIỆP bị trúng đạn hư nặng 1 động cơ (bể máy), chỉ còn lại 1 động cơ
hoạt động tốt. Bình tỉnh, anh và phi hành đoàn thay vì đáp khẩn cấp gần tỉnh lỵ
Tây Ninh nhưng đã cố bay về TSN và đáp an toàn.
Bây giờ đến lượt phi đoàn 427 từ Đà Nẵng bay về Biên Hòa để thi
hành những phi vụ hiểm nguy nầy vì TLC lại cần sự tiếp tế sau hằng nhiều ngày
ngăn cản sự tấn công của Cộng quân, đạn dược thì có thừa nhưng lương thực thì cạn
dần. Phi hành đoàn của tôi thi hành phi vụ bất thần nầy.
Đáp xuống phi trường Biên Hòa VNAFB khoảng 9-10 giờ sáng, trong
khi anh em phi hành đoàn (p.h.đ) Th/u HƯƠNG, T/s TIẾN & TỴ lo công việc chất
2-3 tấn Pallets lương thực lên tàu, tôi vào TTHQ/SĐ3KQ để hỏi tình hình hiện tại
ở TLC thì được thông báo rằng, VC vừa pháo kích vào TLC, làm hư hại vĩ sắt ở đầu
phi đạo, không ai bị thương và các chiến sĩ của TĐ92/BĐQ/BP đang trong tư
thế chiến đấu dưới giao thông hào chung quanh tiền đồn. VC chỉ tấn công lên đồi
TLC vào ban đêm, vì ban ngày địch quân chúng biết sẽ bị tiêu diệt bởi phi pháo
(không quân & pháo binh) của ta & hõa lực của TĐ92/BĐQ/BP. Sau đó tôi
nhờ TTHQ chuyển tin tới Tr/t NGÔN Tiểu Đoàn Trưởng rằng, tôi sẽ bay đến, nếu
phi đạo an toàn thì tôi đáp, nếu không thì tôi sẽ bay sát trên phi đạo thả hàng
xuống!.
Trở về tàu, tôi trình bày tình hình ở TLC cho anh em p.h.đ và đi
đến quyết định bay thật thấp và thả Pallets trên phi đạo vì chúng tôi đã biết
những phi cơ bạn trực thăng UH1 & Chinooks CH-47 trước đó bị bắn, bị trúng
đạn pháo của VC khi đáp vào TLC. Sau đó chúng tôi bắt đầu quay máy, xin chỉ thị
BH-Tower và cất cánh trực chỉ TCL-An Lộc, nhưng tôi không quên bảo TỴ kiểm soát
cửa “cargo door & floor”, buột nịch thật kiên cố 2-3 Pallets trước khi thả.
Sau hơn 10 phút bay lên cao độ 7000-8000 feet về hướng Bắc thì tôi đã thấy xa
xa dưới lớp mây lưa thưa tiền đồn TLC và tỉnh lỵ An Lộc đang chìm trong chiến
tranh với những cụm khói trắng đen bốc lên cao từ phía Tây, Tây Bắc An Lộc. Vì
từ BH đến TLC & An Lộc rất gần khoảng hơn 100km theo không hành, tôi bắt đầu
cúp hết ga (Power Off – Êm không có tiếng động cơ nổ, bay xuống như chiếc lá
cây rơi, đây cũng là kỹ thuật sáng chế đặc biệt chỉ có loại C7A Caribou), đồng
thời tôi dùng phương pháp trược cánh liều lĩnh bay xuống Kamikaze cho nhanh với
tốc độ cao trên >200 Knots (warning – yellow speed limit range) để kịp thời
vào đúng Downwind phía Bắc song song với phi đạo TLC (phi cơ của Đ/u NGHIỆP bị
VC bắn ở phía Nam! TLC) cách 500-600m/cao độ 500-600feet về phía An Lộc, Th/u
HƯƠNG bấm chuông để báo TỴ được lệnh mở cửa “cargo door & floor” theo tư thế
thả dù. Vẫn còn PowerOff vì tránh VC nghe tiếng động cơ, tôi quẹo thật gắt bên
trái cận tiến bay thẳng với trên >100 Knots xuống sát trên phi đạo 090-270o
(!?) dưới 200feet (ca. 66m) về hướng Đông 90o thì thấy vĩ sắt nhô lên phía dưới
mũi phi cơ. Lệnh “Thả” vừa dứt (cả p.h.đ đều nghe), tôi vừa tống ga từ từ nhanh
lên maximum vừa kéo phi cơ lên, cùng lúc Th/u HƯƠNG bấm chuông để báo TỴ thả
(release locking). Tất cả hành động “Thả” chớp nhoáng hoàn thành trong vòng 3-4
giây, TỴ nói “OK” và đóng “cargo door” lại. Tôi vừa quẹo trái bay lên cao về
phía Đông Bắc TLC, vừa nhìn xuống phía dưới phi đạo; từ các giao thông hào gần
đó, vô số chiến sĩ Biệt Động Quân tuôn chạy đến những Pallets lương thực mà các
anh em đã bao nhiêu ngày chờ đợi đang nằm trên phi đạo, thật là cảm động và rất
thương mến các chiến sĩ TĐ92/BĐQ/BP dưới quyền chỉ huy của vị Tiểu Đoàn Trưởng
trẻ tuổi, tài ba Tr/tá Lê Văn *NGÔN.
Tôi mang tàu lên cao thật nhanh ra khỏi tầm bắn của VC và sau đó
để Th/u HƯƠNG bay về BH. Anh em p.h.đ chúng tôi thở phào và cảm thấy nhẹ nhỏm
ra vì đã hoàn thành nhiệm vụ không vận tối cần cho TLC và bay trở về an toàn.
Nhưng trong lòng tôi vẫn còn mang nỗi lo âu cho các chiến hữu của TĐ92/BĐQ/BP,
ngày cũng như đêm, từng giây từng phút sẵn sàng chống trả bất cứ những đợt tấn
công “tiền pháo hậu xung” nào của địch quân.
Nhưng cuối cùng, một vết đau thương cho tới ngày hôm nay, không
phải chỉ có một TLC thất thủ mà là cả đất nước miền Nam Việt Nam Cộng Hòa thất
thủ chỉ vì quốc hội Mỹ không viện quân sự nữa cho QLVNCH kể từ sau năm 1973. Họ
chuyển giao nhiều chiến cụ cho QLVNCH trước khi rút quân, nhưng không tiếp tục
viện trợ đạn dược, xăng nhớt, … thì làm sao chống đở với ai đây, trong khi Nga
(UDSSR) và Trung cộng liên tục viện trợ tối đa cho CSBV để tiến chiếm miền Nam.
Điều nầy người Mỹ đã biết, trước khi hãi quân QLVNCH hãi chiến với Tàu cộng
tại Hoàng Sa ngày 19.01.1974. Thật là đau đớn thay cho QLVNCH và tức giận bởi
người Mỹ & đồng minh chỉ đứng nhìn xem miền Nam VNCH đi đến ngày sụp đổ 30.04.1975.
Ngày 16.05.2011 tại Berlin/Germany, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Bill
Clinton đã trao giải “Henry Kissinger Award” cho cựu Thủ Tướng Đức Helmut Kohl
về thành tích lảnh đạo để thống nhất nước Đức (Đông & Tây Đức) và sau đó Âu
Châu, nhân dịp sinh nhật 80 tuổi của ông. Không biết ông cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
Henry Kissinger gốc Đức có ân hận lắm chăng trước khi nằm xuống vì đã đi đêm
bán đứng miền Nam VN cho Nga Tàu.
KQ TỴ hiện nay ở New York, KQ TIẾN ở San Jose CA, KQ ĐỨC ở
Munich. Duy chỉ có KQ HƯƠNG còn kẹt lại VN sau khi ra tù nhưng cho đến bây giờ
thì vẫn chưa liên lạc được với anh, hy vọng anh và gia đình vẫn bình an!.
Tôi viết lên hồi ký nầy, không ngoài mục đích để tưởng nhớ đến
những chiến hữu Biệt Động Quân của Tiểu Đoàn 92 Biên Phòng và các phi hành đoàn
bạn trực thăng UH1 & CH-47 thuộc PĐ2xx! / SĐ3KQ đã hy sinh hay may mắn còn
sống sót cho tới ngày hôm nay dù ở bất cứ nơi đâu, những người trai trẻ nầy
sinh ra trong thập niên 40-50, vào quân đội, xem cái chết, tợ như lông hồng để
bảo vệ quê hương khỏi ách cai trị độc tài độc ác của đảng cộng sản Việt Nam…
Mùa Hè Munich 2011
KQ Lê Hồng Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét